Hà Nội có thật sự muốn thế giới hết "định kiến" với mình?

namviet's blog Nói ở các diễn đàn quốc tế, Hà Nội vẫn than phiền là thế giới có định kiến với mình, và khẳng định là các chính sách cho con người dành cho công dân vẫn đủ tiêu chuẩn như các cam kết với quốc tế. Nhưng điều quan trọng là Hà Nội chưa bao giờ tự hỏi là mình đã làm gì khiến thế giới có định kiến liên tục trong nhiều năm như vậy. Trong những ngày cuối năm này, các chiến dịch đàn áp con người diễn ra khắp mọi nơi, mà sự công khai và thách thức của công an ngày càng lộ rõ là một chính sách tàn bạo nhất quán, và dĩ nhiên lại càng làm rõ hơn về chuyện "định kiến" của nhà cầm quyền vẫn biện bạch. Những người dân ở các miền cao nguyên kể, trước và sau Ngày Quốc tế Nhân quyền 10 Tháng Mười Hai, công an mặc thường phục, chở nhau, đi thành những nhóm 2, 3 xe liên tục qua lại trước cửa nhà của những người bị coi là có thái độ bất phục, và hay bày tỏ nhân Ngày quốc tế nhân quyền. Một người dân giấu tên kể rằng công an mặc thường phục để tránh chuyện bị ghi hình như một chứng cứ, nhưng vẫn cho thấy sự đe dọa thể hiện khi qua lại, diễu trên các con đường, để mọi người căng thẳng và không làm gì. Một ngày sau khi giải thưởng Lê Đình Lượng được trao cho tù nhân tôn giáo Y Krec Bya, gia đình của ông đã bị công an thẩm vấn, sách nhiễu… là có ai liên lạc với tổ chức Việt Tân hay không, và làm sao mà gia đình biết giải thưởng được trao cho ông Y Krec Bya… Bức ảnh trên facebook của ông Y Krec Bya đang giảng đạo, được ban tổ chức giải Lê Đình Lượng sử dụng cho nội dung của giải, nhưng công an cho là gia đình đã có sự kết nối. Áp lực đến mức, bà H Ik Kbour đã phải nhờ đến Tổ chức Người Thượng vì Công lý để đăng tâm thư khẳng định rằng “tôi xin khẳng định rằng gia đình chúng tôi bao gồm cá nhân tôi và ông Y Krec hoàn toàn không có bất kỳ sự liên hệ nào đến tổ chức Việt Tân”. Bên cạnh đó, bà H cũng phải yêu cầu giải Lê Đình Lượng “gỡ bỏ hình ảnh và thông tin liên quan đến ông Y Krec trên các nền tảng truyền thông”.  Một đoạn giải thích ngắn trong tâm thư này của gia đình ông Y Krec gần như đã nói lên mọi thứ “hiện nay ông Y Krec đang bị giam giữ trong tù, và gia đình tôi đang trong hoàn cảnh rất nhạy cảm. Bất kỳ hành động hay thông tin nào công khai về ông ấy mà không được sự đồng ý của gia đình, có thể gây nguy hiểm và làm gia tăng rủi ro nghiêm trọng cho sự an toàn của chồng tôi và gia đình tôi”. Tâm thư của bà H không nhắc bất kỳ điều nào về công an và chính quyền CSVN, nhưng mọi điều sợ hãi trong đó, đã nói hết về những gì đang diễn ra với những người Tin lành sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên. “Những gia đình thiểu số bị chính quyền để ý, gần như bị cầm tù ở nơi cư ngụ”, một thiện nguyện viên mang quà từ thiện, hỗ trợ cho các gia đình tù nhân lương tâm ở vùng Tây Nguyên kể. Đường vào làng hay trước cửa nhà các nhân vật trong “sổ đen” của chính quyền luôn có người mặc thưởng phục ngồi, quan sát và xét hỏi tự nhiên như công an. Thiện nguyện viên này khi mang tiền đến cho họ - hầu hết những người thiểu số Tây Nguyên đều nghèo và không có tài khoản ngân hàng, đã bị những công an thường phục này dùng xe máy đuổi theo để bắt lại, may mắn là họ đã chạy thoát.  Tây Nguyên là vùng đất của sự đơn giản, mọi phản ứng thuộc về bản năng con người mà không nhiều toan tính. Người Tây Nguyên cũng giống như nhiều tôn giáo nhỏ ở miền Nam Việt Nam như Phật giáo Khmer, Cao Đài Chơn truyền, Hòa Hảo Thuần Túy… không có thói quen làm truyền thông, và cũng không giỏi làm truyền thông. Mọi sự cố xảy ra được giải quyết trực tiếp trong ôn hòa và lý lẽ của sự việc. Dựa vào các yếu tố này, mà giới mật vụ Việt Nam vẫn thẳng tay bắt bớ, đánh đập và thách thức mà không lo lắng tin tức lan ra bên ngoài. Hơn nữa, nếu có ai lên tiếng, thì Hà Nội chỉ cần mượn chuyện “định kiến” để lướt qua. Kể từ khi tổ chức MSFJ – Người Thượng vì Công lý ra đời, các chứng cứ và sự kiện đàn áp được phơi bày bài bản, dẫn đến chuyện lý lẽ “định kiến” không còn dễ trình bày như trước. Những vị mục sư như Y Bum Bya, Y Krec Bya… dù bị đánh đập, đe dọa, ngăn cản mưu sinh… vẫn im lặng gửi những báo cáo nhân quyền bị đàn áp cho Liên Hợp Quốc, và được tổ chức MSFJ lên tiếng, giới thiệu qua các sự kiện tố cáo trên các diễn đàn, đã khiến Hà Nội không còn dễ dàng đàn áp như trước. Đó cũng là lý do và Hà Nội khao khát dẫn độ Y Quynh Bdap về Việt Nam trị tội cho bằng được, hòng dập tắt tiếng nói của một tổ chức luôn minh bạch những câu chuyện đàn áp người bản địa tại Việt Nam. Hà Nội không còn có thể ra vẽ là thế giới có “định kiến” về thể chế độc tài của mình, mà đơn giản là các định kiến đó, giờ đã có những bằng chứng kèm theo và những con người cụ thể như Y Krec Bya, Y Bum Bya đang ngồi tù và bị đầy ải trong các chính sách hành hạ con người của Hà Nội. Vấn đề cuối cùng hiện nay rằng Hà Nội có muốn giải quyết “định kiến” của thế giới đối với mình hay không, đơn giản nhất, là hãy mở rộng cửa để đón các chuyên gia nhân quyền của thế giới đến thị sát. Hà Nội phải chứng minh mình là một quốc gia chính danh, loại bỏ những trò hèn kế bẩn được khyến khích "sáng tạo" từ lực lượng công an nhằm vào người dân đóng thuế nuôi mình. Và quan trọng Hà Nội phải chấm dứt duy trì định kiến với công dân trong đất nước mình, cũng như những gì khác biệt nằm ngoài nhận thức thù hằn cơ bản của hệ thống chính quyền.    namviet's blog
......

Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “vươn vòi” của dân tộc

Manh Dang    Nền Đệ nhất VN Cộng hòa đặt hiệu kỳ và biểu tượng quốc gia hình cây trúc với ý nghĩa “Tiết trực tâm hư”, có nghĩa là tâm của bậc chính nhân quân tử ngay thẳng như cây trúc. Nhân nói về biểu tượng quốc gia, cách nay tròn một năm, đã có bạn thắc mắc về ý nghĩa cây tre uốn khúc rối rắm trưng bày trong khán phòng của ông Nguyễn Phú Trọng tiếp đón Chủ Tịch Trung Cộng, ông Tập Cận Bình. Thật ra, trả lời thắc mắc của các bạn không khó. Từ ý nghĩa của cây trúc biểu tượng của nền Đệ nhất Cộng hòa, suy luận ngược lại sẽ ra câu trả lời của các bạn. Đó là đường lối đối ngoại uốn éo của giới buôn phấn, bán hoa ngoài lề đường, mắt liếc đằng đông, tay chào mời đằng tây… Thú vị khi câu trả lời đó cũng hoàn toàn phù hợp với tâm ý, thật ra là dã tâm của hai đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đối với nhau. Thế giới đã có thuật ngữ chính trị gọi tên sách lược ngoại giao như thế là chính sách đối ngoại đu dây. Chúng xưa như trái đất trong sách lược ngoại giao của nhiều quốc gia nhược tiểu trên thế giới, với mục đích tìm thế cân bằng lợi ích giữa các cường quốc. Ở Việt Nam, thời ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư đã đổi tên thành chính sách đối ngoại cây tre. Với sự khôn vặt đó, ông ấy có thể tự nhận là tác giả của chính sách đối ngoại ấy. Thậm chí, ông ấy cho trang trí 2 cây tre uốn hình rối rắm trong khán phòng tiếp quốc khách. Ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, với vị thế hiện tại của Việt Nam giữa 2 cường quốc Mỹ - Trung, người kế nhiệm là ông Tô Lâm vẫn phải tiếp tục duy trì chính sách đối ngoại đu dây. Nhưng có lẽ sẽ không còn sử dụng hình tượng cây tre uốn éo đầy ma mãnh để minh họa nữa. Vì khi chôn ông Nguyễn Phú Trọng, chế độ cũng đã chôn luôn những từ ngữ gắn liền với tên tuổi ông ấy như “Đốt lò”, “Ngoại giao cây tre"... Nếu được hỏi, vậy thì sử dụng hình tượng nào để minh họa cho chính sách đối ngoại của chế độ Cộng sản trong nước hiện nay? Tôi nghĩ họ có thể sử dụng hình tượng Linga, một hình tượng thuộc sở hữu của người Chàm, dùng để thể hiện sự mạnh mẽ của nam tính. Thật vậy, sau khi cận vệ của Chủ Tịch nước Lương Cường phải ra hầu tòa tại Chile vào trung tuần Tháng Mười Một 2024, vì lỡ phô trương khả năng tình dục dồi dào của mình không đúng nơi, đúng lúc, đúng người, đến mức suýt bị khởi tố hình sự nếu không phải là người tháp tùng quốc khách. Thì mới đây, cũng lại phát lộ một vụ việc tương tự như vậy, thậm chí xảy ra từ Tháng Ba 2024, trước cả vụ xảy ra tại Chile. Theo đó, 2 cán bộ tháp tùng Thủ Tướng Phạm Minh Chính công du New Zealand cũng có hành vi tấn công tình dục với 2 nữ sinh làm thêm tại nhà hàng, một cô gái đã bị gây thương tích trên ngực. Sự việc chỉ bị vỡ lỡ khi mà sự tố cáo của họ hầu như bị dẫm chân tại chỗ vì giữa New Zealand và Việt Nam, quốc gia của 2 tên tội phạm tình dục chưa có hiệp định dẫn độ tội phạm. Bức xúc trước sự bất lực của tư pháp nước này, nạn nhân đã buộc lòng lên tiếng với truyền thông New Zealand. Ngoài 2 vụ việc vừa nêu liên quan trực tiếp đến các viên chức tháp tùng lãnh đạo cao cấp của chế độ Cộng Sản, thì công chúng hẳn chưa quên vụ án hiếp dâm một nữ du khách chưa thành niên người Anh của 2 nghệ sỹ Việt Nam là các ông Hồ Hoài Anh và Hồng Đăng, vào khoảng 20 tháng trước đó, Tháng sáu 2022, tại Tây Ban Nha. May mắn, 2 ông nghệ sỹ Việt Nam hám của lạ và thiếu kìm chế đã thoát hiểm trở về Việt Nam an toàn, tránh được bản án tù tội tại trời Âu, nhưng tiếng xấu về tư cách đàn ông Việt Nam chắc còn lâu mới có thể xóa nhòa với thế giới. Chỉ 2 năm sau, sợ thế giới lãng quên, các quan chức tháp tùng lãnh đạo cao cấp nhất Việt Nam đã vội tấn công tình dục phụ nữ trên trường quốc tế để nhắc nhớ thế giới về bản lĩnh tình dục đảng viên Cộng Sản Việt Nam. Sau Tây Ban Nhà của Châu Âu, Chile của Châu Mỹ, giờ thì thêm New Zealand của Châu Úc được Đảng cho gởi người “đánh dấu lãnh thổ” trên thế giới. Thế nên, nếu chế độ lấy biểu tượng ngoại giao của Đảng mình bằng Linga, hỏi xem có gì là chưa đúng? Chẳng phải nó rất phù hợp với tư tưởng của ông Tô Lâm đấy sao “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn vòi của dân tộc”. DC, ngày 12 Tháng Mười Hai 2024 Đặng Đình Mạnh  
......

Đảng cộng sản Việt Nam trong quy luật Thành - Trụ - Hoại – Diệt (Phần 3)

Trần Đan Tâm C. Giai đoạn Hoại của Đảng cộng sản Việt Nam (1991-2020)   Kể từ 1991, các chế độ Cộng sản Đệ III đã chết trên qui mô toàn cầu nên tội ác chống nhân loại của những chế độ nầy đã chấm dứt, ngoại trừ 5 nước cộng sản còn đang đi vào thời điểm băng hoại là Trung Hoa Cộng hòa nhân dân quốc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa Cuba và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào [01], [02] và [03].   Từ đó đến nay, chế độ cộng sản Trung Quốc mất hẳn ý thức hệ Mác Lê nên đành phải ngụy danh là "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc", nhưng mấy nghìn năm qua nước Trung Hoa lục địa chỉ mang màu sắc phong kiến Khổng Giáo và tùy thời thống nhất hoặc chia cắt từng vùng do các sứ quân cát cứ. Cuộc khủng khoảng ý thức hệ Mác-Lê của Đảng cộng sản Việt Nam, do sự kiện Khối cộng sản quốc tế sụp đổ năm 1991, đã bắt đầu từ giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 và tương tự như đảng cộng sản mẹ đẻ là Đảng cộng sản Trung Quốc. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam cố nặn ra một hệ tư tưởng thay thế gọi là "Tư tưởng Hồ Chí Minh" [04]. Thực chất cái mà Đảng cộng sản Việt Nam gọi là "Tư tưởng Hố Chí Minh" (Ho Chi Minh’s Thought) chỉ là ‘Phong kiến Khổng Giáo Tàu, Mao-ít & Mác-Lê Tây’.   Dù đã ký mật ước Thành Đô (3 & 4/09/1990) để được đảng cộng sản mẹ đẻ là Đảng cộng sản Trung Quốc bảo kê cho Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục sống còn, giai đoạn Hoại (1991-2020) vẫn xuất hiện nhiều yếu tố hoại-diệt trầm trọng hơn các giai đoạn Thành & Trụ như sau:   1. Thứ nhất là yếu tố hoại-diệt của tư tưởng cộng sản. Cái gọi là "Tư tưởng Hồ Chí Minh" - không có trong thực tế - do Đảng CSVN dàn dựng vào năm 1991 không thay thế được tư tưởng Mác-Lê-Mao đã ăn sâu vào tâm não đảng viên từ 1930 đến 1991 [05]. Nhưng tư tưởng Mác-Lê-Mao thì đã rụi tàn từ năm 1991. Yếu tố hoại-diệt nầy làm cho mức độ cực đoan và cuồng tín của đảng viên Đảng CSVN gia tăng thêm và gây hậu quả mất dần sáng kiến chính trị.   2. Thứ hai là yếu tố hoại-diệt do hoảng loạn chính trị đến từ cuộc sụp đổ toàn cầu của các chế độ cộng sản vào năm 1991, ngoại trừ Cộng sản Phong Kiến Tàu và Bắc Hàn, Cộng sản pha trộn Tư Bản Việt Nam và Cộng sản Đói Nghèo Cuba. Vào cuối năm 1989, bức tường Berlin, hay còn được gọi là bức tường ô nhục đã bị sụp đổ. Nói một cách bóng bẩy, nó sụp đổ vì chính những áp lực của những mâu thuẫn bên trong các nước cộng sản. Tiếp theo là các chế độ cộng sản Liên Bang Xô Viết và Đông Âu sụp đổ làm cho Chủ nghĩa Cộng sản cáo chung vào ngày 26/12/1991, đánh dầu bằng sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Vài nước mang danh cộng sản tạp nham còn lại là Tàu, Bắc Hàn, Việt Nam & Cuba trên chỉ là 4 chế độ cộng sản trá hình và lai tạp [06].   3. Thứ ba là yếu tố hoại-diệt do hầu như toàn bộ đảng viên có chức quyền từ trung ương đến xã thôn đều ăn hối lộ, tham nhũng ngân sách và tài sản công cộng mà Đảng CSVN không làm sao chống lại được. Từ 2000 đến 2020, có vô số vụ tham nhũng hối lộ bị tố cáo bởi các phe nhóm lợi ích trong đảng giành giật hoặc ăn chia không đồng đều nên truyền thông mọi phía và công chúng đều biết là Đảng CSVN đã ruỗng nát từ trên xuống dưới. Đảng CSVN chiếm giữ tất cả vị trí trong Nhà nước Việt Nam bằng cách dùng các bí thư từ trung ương đến địa phương để chỉ huy bộ máy nhà nước. Do đó tài sản lớn lao và thiêng liêng của dân trở thành tài sản riêng của Đảng CSVN và đảng chỉ phân chia tài sản giành được của dân cho người của đảng mà thôi. Nhà nước trở thành tài sản riêng của các đảng viên cộng sản. Không có tự do tư tưởng, không được tự do sáng tạo, thành phần ưu tú quốc gia cứ âm thầm, lặng lẽ bỏ nước ra đi, tìm đến chốn nào được sống đúng với tâm nguyện và được mang hết năng lực đóng góp cho cuộc đời. Qua nhũng sự vụ trong đời sống hàng ngày và qua những vụ án tham nhũng khủng khiếp kéo dài như vô tận từ mấy chục năm qua cho thấy rõ những đảng viên được đảng chia chác tài sản và quyền lực của dân nhưng năng lực và nhân cách không tương xứng với quyền lực đã phơi bày ra hàng loạt bộ mặt quan đảng thấp hèn chỉ chăm chăm sử dụng quyền lực để vơ vét cho đầy túi tham. Họ chỉ là hạng giá áo túi cơm, chỉ là lũ bất tài gây ra những thiệt hại khủng khiếp cho dân, cho nước, làm sụp đổ cả cơ đồ sự nghiệp của đất nước, sụp đổ cả niềm tin của người dân.   Yếu tố hoại-diệt nầy chính là một sự kiện động loạn lớn lao cho Đảng CSVN: đảng viên cộng sản đánh nhau với đảng viên cộng sản, bằng cách loại trừ nhau (khai trừ khỏi đảng) như trường hợp Đinh La Thăng, thậm chí giết hại nhau như những vụ đột tử bí ẩn của tướng Phạm Quý Ngọ, một số ủy viên trung ương như Trần Văn Minh (Phó Tổng thanh tra Chính phủ), các ủy viên Bộ Chính trị như Nguyễn Bá Thanh, Trần Đại Quang. Chiến dịch "chống tham nhũng không có vùng cấm" chỉ là cuộc chiến nội bộ của đảng viên cộng sản đánh phá đảng viên cộng sản, vì hiển nhiên không có một thường dân nào có quyền lực để ăn hối lộ và tham nhũng, ngoại trừ những tay sai ngoài đảng đã và đang nắm giữ các "doanh nghiệp sân sau" được ngụy trang là doanh nghiệp tư nhân để tham nhũng cho các đảng viên có đủ quyền lực bao che cho sân sau. Do đó, chống tham nhũng chỉ làm Đảng CSVN kiệt quệ nhanh chóng hơn [07] và [08].   Theo tin từ Hà Nội, ngày 21/7/2019, đã có hơn 53.000 đảng viên cộng sản và quan chức chính phủ, trong đó có 60 người thuộc quyền quản lý của Ban Chấp hành trung ương đảng đã bị kỷ luật trong chiến dịch đốt lò của tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, người cũng đang nắm giữ chức chủ tịch nước năm 2019. Theo ban kiểm tra trung ương đảng, đã có 1.579 cán bộ cộng sản đã bị điều tra và kết án về tham nhũng và sai phạm trong quản lý kinh tế trong 643 vụ án công khai. Trong số này có ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng, 2 ủy viên trung ương đảng, 1 cựu phó thủ tướng (Vũ Văn Ninh), 4 cựu bộ trưởng, hàng chục thứ trưởng, trong đó có cả thứ trưởng công an và quốc phòng, bí thư tỉnh/thành ủy, chủ tịch và phó chủ tịch cấp tỉnh, bị tước thẻ đảng hoặc bị kết án tù. Thống kê nội bộ của Đảng CSVN từ 2012 đến 2022 cho thấy đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức Đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện trung ương quản lý, trong đó có 33 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII (2021) của Đảng CSVN đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện trung ương quản lý, trong đó có 8 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.   Hơn ai hết, Đảng CSVN cũng biết rõ chiều hướng mới "không thể đảo ngược" là Việt Nam nhất định đi đến dân chủ, song ngoài miệng vẫn hô hoán đây là "âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch", nhưng chân thì vẫn phải chạy theo diễn biến hòa bình này. Vì một phần là không cưỡng lại được hấp lực của quyền và lợi ích cá nhân, gia đình do "diễn biến hòa bình" trong "môi trường mật ngọt kinh tế thị trường" đem lại cho bản thân và gia đình các đảng viên cộng sản. Phần khác là vì chiều hướng này xem ra vẫn có lợi cho tập đoàn thống trị là các cán bộ đảng viên cộng sản trong hiện tại cũng như tương lai nếu biết thức thời để "hạ cánh an toàn".   Chính diễn biến hòa bình đã dẫn đến thực tế hiện nay cái gọi là "Đảng CSVN" và chế độ "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã thực sự tiêu vong về mặt bản thể (mục tiêu và lý tưởng cộng sản không còn) chỉ còn tồn tại tính tổ chức cao của một đảng chính trị và kỹ thuật sắt máu cộng sản để trấn áp nhân dân, bảo vệ ưu quyền đặc lợi cho một tập đoàn thống trị độc tôn và độc quyền chỉ để níu kéo thêm thời gian tồn tại mà thôi.   4. Thứ tư là yếu tố hoại-diệt do Đảng CSVN copy các chính sách của Đảng cộng sản Trung Quốc như "đả Hổ diệt Ruồi", "đổi mới", "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" (bên Tàu gọi là "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc"). Xem khói biết lửa, xem lửa biết khói thì kết luận được rằng việc gì xảy ra ở Việt Nam, thảy đều do từ Trung Quốc mà xuất phát. Bên Tàu có cộng sản Tàu ra lịnh, cộng sản Việt tuân theo mà hành xử. Cộng sản Tàu là gốc, cộng sản Việt là ngọn. Cộng sản Tàu là lửa, cộng sản Việt là khói. Hễ cộng sản Tàu "đại suy", thì cộng sản Việt cũng tàn theo, cũng như lửa tắt rồi, thì hết khói. Hiện tại thì Cộng sản Tàu chỉ còn cái tên bên ngoài còn thực chất là phong kiến toàn trị tập trung trong tay chủ tịch Tập Cận Bình, ngụy trang dưới nhãn hiệu chế độ "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc". Chế độ CSVN cũng giống hệt cộng sản Tàu là đã mất đi 99% chất liệu cộng sản và đã biến tướng thành độc tài toàn trị kể từ khi Nguyễn Phú Trọng nắm quyền Tổng bí thư năm 2011. Logic nầy rất phù hợp với sự kiện Đảng CSVN do mẹ đẻ là Đảng cộng sản Trung Quốc (đảng Mẹ) lập ra và nuôi dưỡng theo chỉ thị của Đảng cộng sản Liên Xô (đảng Cha) từ thập niên 1930 [09].   5. Thứ năm là yếu tố hoại-diệt do biến chất từ tư tưởng và ý thức cộng sản thành tư tưởng & ý thức kiếm tiền và quyền để thu lợi cá nhân. Lý do là ý thức hệ cộng sản đã sụp đổ từ thập niên 1990 trên quy mô toàn cầu - đúng 60 năm kể từ lúc Hồ Chí Minh nhồi sọ ý thức hệ nầy cho tất cả đảng viên Đảng CSVN. Bởi vì hơn trăm năm nay, tất cả những gì mệnh danh Chủ Nghĩa Cộng sản đều đội lốt độc tài, toàn trị và cực quyền, nên thân phận con người trong các chế độ đó phải mất tự do tư tưởng & ý thức cá nhân cho đến khi ý thức hệ cộng sản sụp đố thì tâm thức đảng viên Đảng CSVN lâm vào tình trạng trống rỗng tư tưởng & ý thức. Do đó, tính từ năm 2000 cho đến nay và tương lai về sau, hơn 5 triệu đảng viên Đảng CSVN không còn chút tư tưởng & ý thức Mác-Lê-Mao-Hồ nào. Còn nói về đạo đức của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì khi đã trên 50 tuổi đã bắt ép cô Nông Thị Xuân thủ tiêu để bảo vệ cái giả danh tuyên truyền "suốt đời Bác Hồ ở độc thân để phục vụ Đảng và nhân dân Việt Nam". Sự cố Nông Thị Xuân mở mắt cho tất cả đảng viên Đảng CSVN hết tin vào cái gọi là "Đạo đức & phong cách Hồ Chí Minh". Cho nên khi trí não trống rỗng thì tư tưởng ham tiền, quyền và các ý thức suy đồi khác lấp đầy tâm trí của người cộng sản Việt Nam, hậu quả sinh ra nguy cơ ăn hối lộ & tham nhũng tràn lan từ chóp bu đến thôn xã, làm thành yếu tố hoại-diệt lớn lao và càng ngày càng phát triển nhanh chóng thành căn bệnh nan y bất trị cho Đảng CSVN [10].   6. Thứ sáu là yếu tố hoại-diệt do Đảng CSVN vi phạm nhân quyền và đàn áp khốc liệt những ai bày tỏ chính kiến khác với cộng sản. Kể từ khi mở cửa đổi mới năm 1986 để giao thương với các nước dân chủ Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ, thì vấn nạn " Đảng CSVN đàn áp nhân quyền" đã được quốc tế quan tâm và tố cáo thường xuyên. Theo báo cáo tháng 6/2021 của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam (VNHR), hiện có gần 300 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ trong các nhà tù ở Việt Nam và gần 80 người bị chính quyền bắt giữ trong năm 2020-2021 [11]. Theo Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), số tù nhân lương tâm tại Việt Nam đang gia tăng kỷ lục [12].   Do đó yếu tố hoại-diệt nầy khắc họa một vết đen lên Đảng CSVN làm cho uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng giảm sút. Đó cũng là lý do không có chính phủ dân chủ nào kính trọng Đảng CSVN, dù có giao thương mưu lợi với Đảng nầy.   Trong số những quyền cơ bản phổ quát và quan trọng của con người thì việc đàn áp tự do tư tưởng & tự do báo chí gây ra nhiều nguy hại cho chính kẻ đàn áp tức chế độ độc tài. Đơn cử một thí dụ cụ thể sau đây: trước khi châm ngòi Thế Chiến II, Phát-xít Đức là một chế độ độc tài. Họ đàn áp nhà báo Carl von Ossietzky bằng án tù, nhưng Carl von Ossietzky tuyên bố: "Họ có thể lên án chúng tôi, hôm nay, ngày mai, ngày kia, [và] chúng tôi sẽ chấp nhận điều đó. Nhưng niềm tin của chúng tôi sẽ… trở nên mạnh mẽ hơn, sắc bén hơn, dày đặc hơn và cứng rắn hơn. Đó là lý do tại sao chúng tôi là nhà báo". Lần đầu tiên Carl von Ossietzky đi tù, một đám đông người ủng hộ đã cổ vũ ông vào tháng 5/1932 tại Berlin. Trong khu rừng bên ngoài cổng chính của nhà tù, khoảng 100 trí thức nổi tiếng, các nhà báo đồng cảm và những người có thiện chí đã tập trung tiễn đưa Carl von Ossietzky vào nhà tù Berlin do bản án phi công lý của Phát-xít Đức [13].   Ông tin rằng các nhà báo phải "nắm gương soi thời đại" và là "lương tâm của thời đại". Hết tuần này sang tuần khác, Ossietzky từ bên trong nhà tù cho ra đời những bài báo tràn đầy năng lượng. Đồng nghiệp của ông, Rudolf Arnheim từng nói rằng Ossietzky có thể khiến ngay cả những độc giả phi chính trị nhất quan tâm đến số phận của đất nước bởi vì "ông diễn tả những suy nghĩ của mình không dùng những từ to lớn để ủng hộ một nền dân chủ non trẻ bị các phe phái chính trị ngày càng cực đoan kèm hảm [14].   Điều khó hiểu là đối với những người "không làm gì cả" tức là không làm gì cũng không được yên với Đảng CSVN. Cụ thể như người đồng chí của họ là Võ Nguyên Giáp dù nhịn nhục những đống chí Trung ương và không dám phản bác một ai, nhưng vẫn bị Đảng CSVN hạ nhục suốt đời, bằng những thủ đoạn bẩn thỉu, chỉ vì Võ Nguyên Giáp nổi tiếng hơn các chóp bu cộng sản khác tại miền Bắc. Cụ thể hơn là những nhà văn, nhà báo chỉ viết sách mà bị tù đày rất phi lý như Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang, Huy Đức, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Trần Khắc Đức, v.v… Đảng CSVN biết chắc chắn rằng rằng những nhà văn nhà báo nầy và hàng chục nhà báo nhà văn khác trong nhà tù cộng sản là những thành phần ưu tú thật sự về tư tưởng và năng lượng tri thức của họ đủ sức xoay chuyển tâm thức quần chúng trong nước & dư luận quốc tế về phía lợi lộc cho Việt Nam, nhưng không lợi lộc gì cho chế độ hiện hành.   Tâm lý "bao nhiêu lợi quyền đều về tay mình" làm cho Đảng CSVN mù quáng nên ra tay đàn áp, và càng đàn áp thì càng đẩy thành phần tinh hoa nầy xa rời Đảng CSVN [15]. Một trường hợp nữa xảy ra trong năm 2024 làm rung động dư luận quốc tế và quốc nội, đồng thời phản ảnh tâm lý ích kỷ, mê muội và ngu si của Đảng CSVN: đó là vụ việc nhà sư Thích Minh Tuệ bị sách nhiểu, đàn áp lén lút, cô lập & dùng lực lượng 47 tấn công mạng để dèm pha nhà sư nầy, mặc dù vị sư nầy "không làm gì cả": không chỉ trích ai, không cầu cạnh, không màng đến của cải vật chất hay danh tiếng bản thân. Một người không có bất cứ thứ gì ngoại trừ vài cái y và 1 lõi nồi cơm điện và chỉ dùng thần giáo để lan tỏa năng lượng chân chính cho quần chúng thì Đảng CSVN không còn cách nào làm cho vị sư nầy sợ hãi. Từ nay, ngón đòn gây sợ hãi của Đảng CSVN đã bị yếu tố hoại diệt nầy triệt tiêu hẳn.   7. Thứ bảy là các yếu tố hoại-diệt nội tại hay ngoại tại tác động cho Đảng CSVN đã nêu ra từ phần đầu đến đây vẫn cứ gia tăng và ngày càng gia tăng cho đến nay. Có thể một hay nhiều yếu tố hoại-diệt trầm trọng kể trên sẽ đột biến trong năm sắp tới (2025) khiến cho Đảng CSVN bị chính CSVN tận diệt vì đảng nầy đã hết vai trò lịch sử. Vì vậy, giai đoạn thứ tư của quy luật vũ trụ khách quan là Diệt cần phải được phân tích & tổng hợp chính xác.   Trần Đan Tâm (11/12/2024) ------------------------------ - Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quy luật Thành - Trụ - Hoại – Diệt (Phần 1)   - Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt (Phần 2) ----------------- [01] BBC Vietnamese.com, 08 Tháng 2, 2006, "Cuốn sách đen của CNCS", [02] Wikipedia Bác Khoa Toàn Thư Mở, 25/01/2006, Nghị quyết 1481 của Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu, [03] Đỗ Hiếu – RFA, 13/06/2007, Lễ khánh thành tượng đài tưởng niệm nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, [04] PGS, TS. Thành Duy - Viện Khoa học và xã hội Việt Nam, Thứ Tư, 7/10/2015, Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, [05] Wikiwand, Ho Chi Minh Thought - Political philosophy named after Vietnamese revolutionary Ho Chi Minh rrom Wikipedia, the free encyclopedia, [06] Hoàng Quốc Dũng, 09/11/2024, Ngày 09/11/2024 (Hoàng Quốc Dũng),  [07] Bích Diệp, Thứ sáu, 01/07/2022, Điểm tựa 10 năm công cuộc "đốt lò",  [08] Quốc Tuấn, 21/07/2019, 60 đảng viên cộng sản cao cấp bị kỷ luật trong chiến dịch đốt lò,  [09] Đào Tăng Dực, 19/09/2020, Trong trường hợp Cộng sản Trung Quốc tấn công Việt Nam, lập trường của chúng ta là gì ?,  [10] BBC tiếng Việt, 25/11/2024, Trung ương Đảng họp bất thường, xử lý hàng loạt nhân vật cấp cao, [11] VOA Tiếng Việt, 22/006/2021, Báo cáo VNHR: Việt Nam đang giam giữ gần 300 tù nhân lương tâm,  [12] RFA, 2021.04.06, Ân Xá Quốc Tế : số tù nhân lương tâm ở Việt Nam gia tăng kỷ lục trong năm 2020, [13] Longreads, December 5, 2024, The Journalist Who the Nazis Could Not Silence, No one has ever received more nominations for the Nobel Peace Prize than Carl von Ossietzky, [14] Kate McQueen, 05/12/2024, The Journalist Who the Nazis Could Not Silence, November 2024,  [15] Tuấn Khanh, 07/12/2024, Chợt nhớ một kỷ niệm với Huy Đức …,    Nguồn: Thông Luận  
......

Chiến tranh chấm dứt nửa thế kỷ, dân Việt Nam vẫn không có nhân quyền

Bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền ra đời năm 1948 sau khi nhân loại đã trải qua thế chiến thứ hai đã mang lại thiệt hại khủng khiếp về người và của.   Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, con người chính thức thừa nhận là được hưởng những quyền tự do căn bản như tự do ngôn luận, lập hội, cư trú, tôn giáo, ... Đặc biệt, nhân phẩm mỗi con người, không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo được tôn trọng. Mỗi công dân đều có quyền được luật pháp bảo vệ.   Trên thực tế, nói chung ở các quốc gia phát triển, bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền này là chuẩn mực để chính quyền đối xử và phục vụ người dân một cách đúng đắn.   Tuy nhiên, Việt Nam không thuộc về những quốc gia tôn trọng nhân quyền. Sau nửa thế kỷ chấm dứt chiến tranh, người dân Việt Nam hầu như không được hưởng quyền tự do gì. Không được quyền lập hội, công đoàn, đảng phái độc lập với nhà cầm quyền. Không có báo chí tư nhân; lên tiếng trên mạng xã hội cũng bị ngăn chặn, sách nhiễu, thậm chí tù đày như trường hợp bao nhiêu tù nhân lương tâm đã và đang bị giam cầm trong điều kiện khắc nghiệt vì dám lên tiếng đòi công bằng, quyền người dân vốn phải có.   Nhà cầm quyền CSVN vì tham quyền cố vị, muốn giữ chặt quyền lực độc tôn nên sẵn sàng dùng công an, tòa án và nhà tù để đàn áp và triệt tiêu mọi ý kiến trái chiều vốn rất cần thiết để xã hội phát triển mọi mặt như ở các siêu cường trên thế giới.   Hơn 3 triệu người Việt sống rải rác khắp nơi cũng đã chứng minh một điều rất rõ ràng: Nếu có một thể chế tự do, dân chủ, người Việt sẽ nhanh chóng đưa đất nước mình lên hàng cường quốc trong thời gian ngắn.   Điều này người Hoa ở Singapore, Đài Loan, Hongkong, người Hàn, Nhật ... đã làm được thì người Việt hẳn cũng làm được khi có điều kiện./.  
......

Ai «ăn mày dĩ vãng» ?

Trần Trung Đạo   Giới thiệu: Trong một bài viết ngắn trước đây trên Facebook, tôi giải thích lý do viết khá nhiều cho các thế hệ Việt Nam sinh ra sau cuộc chiến. Tôi viết để hy vọng sáng mai đây khi bước ra đường, các em sinh ra và lớn lên ở miền Nam sẽ nhìn người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang lê lết chuỗi ngày tàn bằng cặp mắt khác hơn. Các em, thay vì bước nhanh như hôm qua, sẽ ngồi xuống bên cạnh người lính miền Nam tàn phế kia và nghe ông kể lại những chặng đường bi tráng mà ông và đồng đội đã trải qua. Từ đó các em sẽ hiểu ra rằng cha chú các em đã sống và chiến đấu trong cuộc chiến tự vệ đầy chính nghĩa mà họ không có chọn lựa nào khác. Các em sẽ lớn lên trong tự tin và hy vọng thay vì mặc cảm “tội ác ba đời” mỗi khi đọc lại lý lịch mình. Đối với các em sinh ra ở miền Bắc, tôi hy vọng các em sẽ biết sự thật và chân lý không phải là những lời đảng cộng sản dạy. Đảng cộng sản không giúp các em “sáng mắt sáng lòng”, mà làm các em thành những kẻ mù loà đi lùi giữa nền văn minh nhân loại mỗi ngày mỗi mới. Các em có thể không dễ dàng tin ngay những điều tôi viết, nhưng ít ra cho các em thấy một phía khác của vấn đề để tìm tòi, học hỏi, so sánh và qua đó các em sẽ thấy mục tiêu đích thực mà đất nước Việt Nam cần phải đến là gì. Tuổi trẻ Việt Nam, Nam hay Bắc, phải có cơ hội đọc và hiểu một cách khách quan từ nhiều phía về bản chất, nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam. Nhiều người từ miền Bắc, dù hôm nay ngao ngán và ngậm ngùi nhìn lại một quá khứ bị lọc lừa nhưng không phải ai cũng thấy ra sự thật bị che giấu bên trong. Nhiều trong số họ đã dành cả phần lớn cuộc đời mình đánh thuê cho đảng CS, cho Trung Cộng và Liên Xô nhưng vẫn nghĩ mình đã chiến đấu cho “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Gần một đời bị tẩy não đã biến không ít người thành những người chấp nhận sự giả dối như một thói quen, một hạnh phúc cuối đời. Mời đọc bài viết dưới đây để biết ai thật sự là" lính đánh thuê" trong cuộc chiến Việt Nam. AI LÀ LÍNH ĐÁNH THUÊ? Các bạn trẻ tại Việt Nam nghe ba chữ “lính đánh thuê” từ khi mới tập đọc nhưng chắc không hiểu rõ định nghĩa quốc tế của ba chữ này. Theo Nghị định thư (Protocol) 1977 được Liên Hiệp Quốc công bố ngày 8 tháng 6 năm 1977 để đính kèm theo Công Ước Geneva quy định các nguyên tắc hành xử trong một xung đột võ trang ra đời năm 1949, những điểm căn bản định nghĩa lính đánh thuê (mercenary) gồm: (1) Không thuộc quân đội chính thức của chính phủ, (2) Được tuyển dụng tại địa phương hay nước ngoài để tham gia một cuộc xung đột võ trang chỉ vì ước muốn riêng tư và được hứa đền bù cao hơn một người lính cùng cấp trong lực lượng võ trang của chính phủ mướn người đó, (3) Không phải thành viên hay đang cư ngụ trên lãnh thổ được kiểm soát bởi chính phủ. Theo định nghĩa trong Nghị định thư 1977, người lính miền Nam không đánh thuê cho ai cả, mà chỉ chiến đấu trong một cuộc chiến tranh tự vệ trên mảnh đất mà chính họ chọn làm quê hương và nhiều trong số họ đã chết trên mảnh đất đó. Nếu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa là lính đánh thuê cho Mỹ vì Mỹ trang bị vũ khí, tài trợ là không đúng với các định nghĩa quốc tế cũng như thực tế chiến tranh. Trong Thế chiến Thứ hai, phần lớn trong khoảng 60 quốc gia trực tiếp hay gián tiếp đứng về phía đồng minh, trong đó có Liên Xô và đã nhận vũ khí của Mỹ qua đạo luật Lend-Lease Act nhưng không ai gọi họ là “lính đánh thuê”, vì họ có kẻ đối đầu chung là Khối trục. Tương tự, từ khi bắt đầu cuộc chiến cho đến khi Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973, quyền lợi và mục đích chiến lược của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa giống nhau là ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn xuống phía Nam Việt Nam. Sau khi Mỹ thay đổi trục chiến lược bằng việc thỏa hiệp với Trung Cộng, Việt Nam Cộng Hòa phải chiến đấu trong cô đơn và cô thế. Nói rộng hơn, ngoại trừ các hoạt động gián điệp mà bất cứ cuộc chiến tranh lớn nào cũng có, Việt Nam Cộng Hòa không chủ trương đánh chiếm miền Bắc. Nếu cộng sản miền Bắc, tính luôn các thành phần cộng sản cài lại ở miền Nam sau 1954, để yên cho miền Nam ổn định và phát triển về mọi lãnh vực thì đã không có gì xảy ra. Nếu áp đụng Nghị định thư 1977 trong Công Ước Geneva 1949, câu hỏi “Người lính miền Bắc có đánh thuê không?” lại có vẻ thích hợp hơn và đáng phân tích hơn. Những người lính miền Bắc thỏa mãn các điều kiện căn bản của định nghĩa “lính đánh thuê” vì:  (1) “Không thuộc quân đội chính thức” mà là các thành phần khủng bố, xâm lược, được lén lút đưa vào Việt Nam Cộng Hòa từ một quốc gia khác, trong trường hợp này là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). (2) Vô thừa nhận, đảng cộng sản Việt Nam (CSVN) không thừa nhận những thanh niên nói giọng Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Cao Bằng v.v… bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa bắt được là từ miền Bắc mà cho họ là “nhân dân miền Nam tự đứng dậy”. (3) Phục vụ cho quyền lợi của những kẻ trả lương và cung cấp vũ khí trong đó gồm đảng CSVN, Liên Xô và Trung Cộng. Không chỉ rút ra từ Công ước Geneva mà từ cấp cao nhất của đảng CSVN cho đến cấp cao nhất của nhà nước VNDCCH đều thừa nhận “lính miền bắc là lính đánh thuê”. Lấy các phát biểu của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Mạnh Cầm để chứng minh họ đã thừa nhận. Về phía đảng, Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN thừa nhận quân đội CSVN là quân đội đánh thuê. Nhân dịp “40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam”, Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ trưởng Ngoại Giao CSVN, khi trả lời phóng viên Vietnamnet đã nhắc lại câu nói của Lê Duẩn: "Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!"  (Dân tộc và thời đại với nội hàm mới..., Vietnamnet phỏng vấn Nguyễn Mạnh Cầm, 24/1/2013) Để công bằng và trung thực cho câu nói của Lê Duẩn, xin lưu ý, một số tài liệu khi viết lại đã cố tình bỏ chữ “cả” để vạch ra bộ mặt đánh thuê của CSVN là “đánh cho Trung Quốc và Liên Xô”. Thật ra, trong câu đó có chữ “cả” nữa, nhưng “cả” gồm những ai, xin đọc tiếp. Câu trả lời của Lê Duẩn có thể phân tích đầy đủ hơn gồm “cho ta”, “cho Trung Quốc” và “cho Liên Xô”: 1) Quân đội cộng sản miền Bắc “đánh cho ta” nhằm cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam. Nếu theo dõi dòng lịch sử đảng CS từ thập niên 1920 khi Hồ Chí Minh nước mắt chảy dài đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lenin viết ngày 5 tháng 6, 1920 cho đến hôm nay rồi đem so sánh giữa thực tế đất nước qua cách sống như vua chúa của tập đoàn cai trị cộng sản bên cạnh những mái tranh nghèo của hơn 90 triệu dân còn lại, sẽ thấy “ta” trong câu của Lê Duẩn là đảng CSVN chứ không phải toàn dân Việt Nam. (2) Quân đội cộng sản miền Bắc đánh thuê cho Trung Cộng để bảo vệ vùng an toàn phía nam quan trọng của Trung Quốc và cửa ngõ ra Biển Đông. Chính sách bành trướng nhanh chóng của Tập Cận Bình ngày nay một phần do quan điểm Trung Quốc và Việt Nam như anh với em, như môi với răng, như nước với sữa mà CSVN đã lặp đi lặp lại từ lâu. Nếu CSVN biết cứng rắn như Philippines hay kiên quyết như Bắc Hàn thì dù không chận đứng hẳn ít ra đã làm họ Tập chậm chân chứ không có những căn cứ, những phi trường quân sự trên đảo Chữ Thập của Việt Nam như ngày nay. (3) Quân đội cộng sản miền Bắc đánh thuê cho Liên Xô để giảm áp lực của Mỹ bằng một mặt trận nóng trong Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô. Giới lãnh đạo CS Liên Xô biết không sớm thì muộn Liên Xô sẽ nguy khốn nếu không làm chậm cuộc chạy đua võ trang với Mỹ. Về phía chính phủ cộng sản, Phạm Văn Đồng, thủ tướng CSVN, cũng thừa nhận quân đội cộng sản đánh thuê cho Trung Cộng. Đoạn đối thoại dưới đây giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng trích trong tác phẩm On China của Henry Kissinger. Chu Ân Lai nói với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam.” Phạm Văn Đồng cam kết: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam.” Chu Ân Lai thỏa mãn: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí.” (Henry Kissinger, On China, 2011) Như vậy, cả đại diện cho đảng và nhà nước cộng sản đều thừa nhận những người lính từ Bắc Việt và các thành phần cài lại ở miền Nam đều là lính đánh thuê, đúng theo tinh thần của Công ước Geneva 1949. Quan điểm Mao Trạch Đông về chiến tranh tại Việt Nam phù hợp với cách giải thích của Lê Duẩn. Theo đó, giống như trong chiến tranh Triều Tiên, là tạo một vùng độn trong biên giới phía nam Trung Quốc. Để thực hiện chủ trương này, Trung Cộng đã chi dụng gần như hầu hết võ khí, đạn được cho CSVN. Trung Cộng là mẹ đỡ đầu của các chính sách và chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ 1949 đến 1954. Giai đoạn đầu của chiến tranh, Mao chỉ muốn miền Bắc là phên giậu và thỏa mãn sau khi đạt được mục đích đó. Theo nghiên cứu của Chen Jian trong China's Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Bành Đức Hoài, 24 tháng 12, 1955 thông báo cho Võ Nguyên Giáp biết các đoàn cố vấn quân sự Trung Cộng sẽ rút về nước hết vào tháng 3, 1956. Tuy nhiên khi chiến tranh leo thang, Trung Cộng cảm thấy vùng an toàn phía nam lần nữa bị đe dọa nên đổi ý và gia tăng viện trợ cho CSVN cho đến khi chấm dứt chiến tranh. (Chen Jian, China's Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Chinese Foreign Policy, The China Quarterly 1995) Quan điểm Liên Xô về chiến tranh Việt Nam xác định chủ trương mướn người Việt đánh người Mỹ. Mặc dù trước đó tỏ ra lạnh nhạt nhưng khi cuộc chiến leo thang, Liên Xô từng bước trở thành phe có lợi trong chiến tranh tại Việt Nam. Liên Xô vượt qua cả Trung Cộng trong việc cung cấp vũ khí, viện trợ kinh tế và các phương tiện tuyên truyền cho CSVN. Để làm gì? Ngày nay các tài liệu cho thấy, Liên Xô muốn (1) Dùng người Việt để đánh Mỹ, (2) Cố gắng nhận chìm bộ máy quân sự của Mỹ, (3) Cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Cộng trong các nước thuộc phe “xã hội chủ nghĩa”, và (4) Quan trọng nhất là giảm ưu thế của Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang. Tóm lại, quan điểm của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trung Cộng và Liên Xô về lý luận lẫn thực tế đều giống nhau. Nhưng nếu đem câu “người lính miền bắc có đánh thuê hay không?” để hỏi một cựu cán binh cộng sản đã từng chiến đấu ở miền Nam trước 1975, chắc chúng ta sẽ nhận câu trả lời “không phải.” Nếu ai đó tiến bộ về nhận thức chính trị thì nhiều lắm chỉ thừa nhận họ bị gạt, bị lừa nhưng vẫn cho khẩu hiệu “đánh bại chính sách thực dân mới của đế quốc Mỹ” là đúng và “thống nhất đất nước” là tình cảm tự nhiên. Tuy nhiên, cho tới nay, chắc không bao nhiêu người hiểu “chủ nghĩa thực dân mới” là gì và tình cảm “thống nhất đất nước” kia từ đâu mà có. Một số khác cũng trả lời “không”, không có nghĩa là họ không thấy, không biết, không nhận ra sự thật sau nhiều nghìn đêm mất ngủ. Nhưng chỉ vì không đủ can đảm để từ chối một phần đời trai trẻ của mình và nhất là mất đi những gì họ đang có hôm nay. TRẦN TRUNG ĐẠO 03.12.2024  
......

Hòa giải hay chia rẽ? Câu hỏi từ một chuyện đời

Ls.Vũ Đức Khanh Một buổi sáng ở trung tâm Sài Gòn, giữa dòng người hối hả, một ông già với bộ quân phục rằn ri, chống nạng, giơ cái chân cụt đến đầu gối, xuất hiện trước mặt một cặp vợ chồng. Ông tự xưng mình là “thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa”, giọng nói run rẩy, ánh mắt khắc khổ. Người chồng bất giác đáp lại: “Tôi là Việt Cộng”! Câu nói khiến ông già sững sờ, bối rối. Người vợ lặng lẽ đưa ông vài đồng tiền lẻ. Một cảnh tượng ngắn ngủi, nhưng nó đủ sức khơi dậy bao nỗi đau, ký ức, và sự giằng xé của một dân tộc bị chia cắt suốt gần nửa thế kỷ qua. Sau khi sự việc diễn ra, người chồng trầm ngâm nói với vợ: “Đồng bào mình cả, sao cứ mãi Cộng Hòa với Việt Cộng”? Nhưng liệu câu hỏi này có thực sự dễ trả lời? Thân phận người Việt: Ký ức chiến tranh và sự chia rẽ kéo dài Trong câu chuyện trên, hai con người – một người lính cũ của VNCH và một người từng thuộc phe VNCS – đại diện cho hai mảnh ghép đối lập của lịch sử Việt Nam. Dù cuộc chiến đã lùi xa gần 50 năm, ký ức về nó vẫn hiện hữu, không chỉ trong từng con người mà còn trong cách xã hội ngày nay đối xử với những mảnh ghép ấy. • Người lính VNCH: Với ông, chiến tranh không chỉ cướp đi một phần cơ thể, mà còn tước đoạt lý tưởng và tương lai. Những người như ông, dù là anh hùng trên chiến trường, lại trở thành kẻ ngoài rìa xã hội trong thời bình. Một số phải tha hương; những người ở lại như ông, chịu cảnh sống lay lắt, phụ thuộc vào lòng thương hại của người khác. • Người thuộc VNCS: Trong trường hợp này, cặp vợ chồng đại diện cho tầng lớp trí thức từng phục vụ trong hệ thống. Dù nay có cuộc sống sung túc hơn, họ cũng mang một gánh nặng: ký ức về những sai lầm, đau thương mà cuộc chiến và hệ tư tưởng của mình đã gây ra. Cả hai, dù ở hai phía, đều mang một mẫu số chung: đau khổ và khát vọng. Họ là nạn nhân của một thời kỳ mà ý thức hệ bị đặt lên trên con người, khi máu và nước mắt đổ xuống vì những mục tiêu mà lịch sử có thể không bao giờ đánh giá đúng đắn. Hòa giải dân tộc: Trách nhiệm hay sự trì hoãn? Sau gần 50 năm, hòa giải dân tộc vẫn là một mục tiêu xa vời. Xã hội Việt Nam ngày nay vẫn chia rẽ, không chỉ ở tư tưởng mà còn ở cách nhìn nhận về lịch sử. Những từ ngữ như “ngụy”, “bán nước”, hay “cờ ngụy” vẫn được giảng dạy trong sách giáo khoa, khắc sâu thêm sự phân cách giữa hai bên. Trong khi đó, người Việt ở hải ngoại, dù đã định cư tại những quốc gia dân chủ văn minh, vẫn giương cao lá cờ vàng như một biểu tượng không chỉ của quá khứ mà còn của lý tưởng tự do. Ở những quốc gia ấy, chính phủ chấp nhận lá cờ này như một phần lịch sử, không xem đó là sự đe dọa, mà là dấu ấn của một cộng đồng. Tại sao những quốc gia ấy làm được, mà Việt Nam – vốn là một dân tộc – lại không làm được điều tương tự? Câu chuyện triết học: Một dân tộc tự vấn mình Trong bối cảnh Việt Nam sắp đối diện với cột mốc 50 năm của biến cố 30/4/1975, câu chuyện hòa giải không chỉ là vấn đề chính trị hay xã hội, mà còn là câu hỏi triết học về con đường mà dân tộc này muốn đi trong thế kỷ 21. Người Việt Nam hôm nay cần tự vấn: 1. Chúng ta là ai trong lịch sử của chính mình? Nếu nhìn nhận lịch sử như một dòng chảy liên tục, không phải là câu chuyện của thắng – thua, thì liệu chúng ta có thể coi cả VNCH và VNCS là hai phần không thể thiếu trong lịch sử hiện đại Việt Nam? 2. Chúng ta muốn gì cho tương lai? Một dân tộc chia rẽ, mãi ám ảnh bởi quá khứ, không thể thịnh vượng trong thế giới toàn cầu hóa. Nếu Việt Nam muốn vươn lên, liệu đã đến lúc gác lại những chia rẽ ý thức hệ để xây dựng một tương lai chung? Triết gia người Đức Friedrich Nietzsche từng nói: “Ai sống với ký ức chỉ để trả thù thì sẽ bị quá khứ trói buộc”. Nhưng điều này không có nghĩa là phủ nhận ký ức, mà là học cách vượt qua nó bằng sự thấu hiểu và hòa giải. Từ 30/4/1975 đến hôm nay: Hòa giải để xây dựng Biến cố 30/4/1975 không chỉ là ngày chấm dứt chiến tranh mà còn mở ra một chuỗi những vết thương chưa lành. 50 năm qua, bài học lớn nhất có lẽ không phải là ai đúng, ai sai, mà là nhận thức rằng: chiến tranh không có người chiến thắng thực sự. Hòa giải dân tộc không phải là quên đi quá khứ, mà là chấp nhận nó như một phần của chính mình. Đó là trách nhiệm không chỉ của nhà nước mà còn của mỗi người dân Việt Nam. Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ: thay đổi cách chúng ta nói về nhau, nhìn nhận nhau, và đối xử với nhau. Chỉ khi ấy, câu hỏi của người chồng trong câu chuyện trên – “sao cứ mãi Cộng Hòa với Việt Cộng”? – mới tìm được lời giải đáp. Tầm nhìn cho thế kỷ 21: Một Việt Nam thống nhất trong sự đa dạng Nếu Việt Nam muốn vươn lên thành một quốc gia dân chủ, tự do và thịnh vượng, hòa giải dân tộc là điều kiện tiên quyết. Một Việt Nam thống nhất không phải là nơi mọi người đều nghĩ giống nhau, mà là nơi sự khác biệt được tôn trọng và dung hòa. Hãy để 50 năm tới là thời kỳ của sự tái sinh – nơi những đau khổ của quá khứ được chuyển hóa thành động lực để xây dựng một tương lai mà mọi người Việt Nam, dù ở đâu hay thuộc phe nào trong quá khứ, đều có thể tự hào gọi là “quê hương”./.  
......

Điểm nghẽn thể chế và dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam

Dư Lan Sẵn sàng bỏ ra 67,34 tỉ USD để xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc từ Hà Nội đến Sài Gòn, nhưng không cần phía nước ngoài chuyển giao công nghệ lõi, không cần quan tâm đến khả năng thu hồi vốn đầu tư. Đó là những gì các chuyên gia kinh tế và công nghệ nhìn thấy từ báo cáo của ông Nguyễn Văn Thắng, cựu Bộ trưởng Giao thông Vận tải Việt Nam, trước Quốc hội nước này ngày 13.10.2024. Một chuyên gia về công nghệ và kinh doanh ở Việt Nam muốn ẩn danh vì lí do an ninh cho biết nhiều văn bản có tính chuyên môn liên quan đến dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, trong đó có cả các tài liệu hội thảo khoa học, đã bị đóng dấu “Mật” khiến cho các chuyên gia không thể chia sẻ cho nhau hay chia sẻ cho báo chí. Tuy nhiên, qua các tài liệu công khai, chúng ta vẫn thấy những nghịch lý trên bức tranh toàn cảnh của dự án này. Bỏ ra gần 70 tỷ đô nhưng không cần chuyển giao công nghệ "Việc chuyển giao công nghệ lõi là chưa cần thiết vì nhu cầu xây thêm trong nước chưa cao, chúng ta chưa hy vọng có thêm các tuyến đường sắt cao tốc khác nữa". Đó là lời ông Nguyễn Văn Thắng nói trước Quốc hội hôm 13.11.2024, khi còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, được báo Giao thông của bộ này loan tải. Trả lời Quốc hội về vấn đề chuyển giao công nghệ, ông bộ trưởng Thắng cho biết “trước nay chúng ta nói rất nhiều về chuyển giao công nghệ, yêu cầu đối tác chuyển giao nhưng không rõ chuyển cho ai, dẫn đến chưa thực hiện thành công.” Đối với dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, việc chuyển giao công nghệ sẽ thành công, vì bộ này “đã triển khai chủ động, lựa chọn một số doanh nghiệp lớn để chỉ định hợp tác và nhận chuyển giao.” Nếu đã không nhận chuyển giao công nghệ lõi của kỹ thuật đường sắt cao tốc thì ở đây, ông bộ trưởng giao thông muốn nói đến “chuyển giao công nghệ” gì? Theo cách hiểu của ông bộ trưởng Thắng, đó là những công nghệ để “bảo trì, sửa chữa, nâng cấp” toa xe và các thiết bị liên quan đến tuyến đường. "Đó là vấn đề cốt tử với chúng ta vì việc bảo trì, bảo dưỡng nâng cấp tốn rất nhiều kinh phí, chi phí. Nếu phụ thuộc đối tác nước ngoài thì rất tốn kém. Cho nên, dứt khoát doanh nghiệp Việt Nam phải đảm đương, làm chủ." Báo Giao thông dẫn lời ông bộ trưởng như vậy, nhưng không đặt vấn đề liệu tiếp nhận kỹ thuật “bảo dưỡng, bảo trì, nâng cấp” công trình sau khi hoàn thành có phải là “chuyển giao công nghệ” theo cách hiểu thông thường trên thế giới hay không. Tờ báo cũng không cho biết các vị đại biểu quốc hội có hỏi lại ông bộ trưởng giao thông về cách hiểu của ông này đối với vấn đề “chuyển giao công nghệ” như thế có vấn đề gì hay không. Vấn đề chuyển giao công nghệ và “chi phí cơ hội” của quốc gia Trao đổi với RFA, Kỹ sư Khiêm Nguyễn, một chuyên gia cấp cao về công nghệ và kinh doanh của Voyager Space, một công ty đa quốc gia ở California, Hoa Kỳ, nói ông không đồng tình với việc coi tiếp nhận kỹ thuật “bảo dưỡng, bảo trì, nâng cấp” công trình sau khi hoàn thành là “chuyển giao công nghệ.” Theo cách hiểu của Ủy ban Châu Âu, “chuyển giao công nghệ” là một phần của chính quá trình đổi mới công nghệ. Đó là quá trình truyền kết quả của nghiên cứu khoa học và công nghệ, các kỹ năng và quy trình liên quan đến thị trường và xã hội rộng lớn hơn. Mục đích của chuyển giao công nghệ là biến các phát minh và kết quả khoa học thành các sản phẩm và dịch vụ mới. Đào tạo các kỹ thuật “bảo dưỡng, bảo trì, nâng cấp” là dịch vụ thông thường của bên bán với bên mua. Nó chỉ phục vụ cho việc sử dụng sản phẩm, không giúp ích gì cho việc nâng cao năng lực công nghệ, tri thức, kỹ năng và khả năng sáng tạo của bên mua. Nhưng ông Thắng cũng có lý ở một điểm: Việt Nam không có diện tích rộng lớn như Trung Quốc nên chỉ cần làm một tuyến đường sắt cao tốc, không còn dư địa để làm tuyến thứ hai. Vậy phải chăng nếu được chuyển giao công nghệ lõi của ngành đường sắt cao tốc thì cũng không dùng được? Giải đáp vấn đề này, Kỹ sư Khiêm Nguyễn khẳng định “chuyển giao công nghệ” không phải là nhận một vài món công nghệ theo kiểu mì ăn liền, như tư duy của ông bộ trưởng Thắng. Cốt lõi của chuyển giao công nghệ là bên chậm phát triển được bên phát triển hơn đào tạo tri thức know-how, kỹ năng, các cơ sở vật chất, tri thức và kỹ năng để tiếp tục sáng tạo sản phẩm mới. Phát ngôn của ông bộ trưởng Thắng phản ánh tư duy Việt Nam chỉ xây một lần là xong toàn tuyến. Vì xây một lần là xong nên không cần công nghệ để xây dựng tuyến khác. Trong khi đó, “Kết luận của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” công bố tháng Hai năm 2023 xác định Việt Nam sẽ xây từng bước, từng tuyến. Có ít nhất hai tuyến là Hà Nội - Vinh và Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang. Hai tuyến này sẽ được khởi công trong giai đoạn 2026 - 2030.    Câu hỏi đặt ra là tại sao không nhận chuyển giao công nghệ để làm một tuyến, sau đó tự làm các tuyến còn lại để hoàn tất cả tuyến đường Bắc Nam? Địa hình của Nhật của dài và hẹp như Việt Nam. Nhật Bản hoàn thành tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên nối Tokyo và Osaka năm 1964. Sau đó, họ tiếp tục xây dựng 7 tuyến khác, đi xuống tận cùng phía tây nam (tỉnh Kagoshima) và tận cùng đông bắc (đảo Hokkaido). Tuyến cuối cùng hoàn thiện năm 2016. Như vậy,  Nhật Bản cần hơn nửa thế kỷ để kết nối từ cực đông bắc tới cực tây nam của đất nước bằng đường sắt cao tốc, từ tuyến đầu tiên năm 1964 đến tuyến cuối cùng năm 2016.  Trao đổi với RFA, Tiến sỹ Vũ Quang Việt cho biết Trung Quốc cũng học theo cách làm của Nhật Bản. Trung Quốc xây dựng trước một tuyến. Họ hợp tác với ba quốc gia khác nhau để không lệ thuộc vào duy nhất một nước. Sau khi đã học được know-how, họ tự xây dựng các tuyến khác.  Công nghệ đường sắt cao tốc ngày nay không thể tách rời các công nghệ Robotics, Trí tuệ Nhân tạo, Internet vạn vật… và nhiều lĩnh vực công nghệ cao cốt lõi khác. Nhật Bản tiếp tục phát triển các thế hệ đường sắt cao tốc mới vì khoản đầu tư đó không chỉ là đầu tư cho ngành đường sắt. Thông qua việc thực hiện một dự án công nghệ mới, Nhật Bản phát triển một thế hệ doanh nghiệp và kỹ sư công nghệ mới. Dự án đường sắt hoàn tất, với tri thức know-how mới mà tự phát triển được thông qua dự án, họ tiếp tục đóng góp cho nền kinh tế và công nghệ Nhật Bản nói chung. Trung Quốc đã học tập Nhật Bản cách làm đó. Họ ứng dụng công nghệ lõi này để liên tục cải tiến, phát minh các kỹ thuật mới trong quá trình điều hành hệ thống đường sắt cao tốc nói riêng và mạng lưới đường sắt nói chung. Ngược lại, bản thân các dự án đường sắt cao tốc cũng trở thành cơ hội để họ phát triển năng lực trong các lĩnh vực công nghệ cao cốt lõi. Các nhà khoa học Trung Quốc đã chỉ ra là bằng cách này, việc học hỏi công nghệ đường sắt cao tốc đã giúp Trung Quốc phát triển tổng thể công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Theo Kỹ sư Khiêm Nguyễn, để có thể tiếp thu từ các nước tiên tiến kỹ thuật luyện kim dành cho đường ray của đường sắt cao tốc, hệ thống tín hiệu, hệ thống điều khiển… Trung Quốc không chỉ học trực tiếp các kỹ thuật này mà phải làm chủ cả các công nghệ, tri thức khoa học nền tảng của những kỹ thuật đó cùng các kỹ năng đi kèm. Đó mới là năng lực cốt lõi mà Trung Quốc muốn học để nâng cao tổng thể sức mạnh khoa học công nghệ và nền kinh tế của mình. Việt Nam đã không tiếp thu được công nghệ đường sắt đô thị, trong suốt khoảng 15 năm xây dựng tuyến đường sắt đô thị Bến Thành – Suối tiên ở Tp. HCM bằng tiền vay của Nhật. Nước này cũng không học được công nghệ đường sắt đô thị trong suốt từng đó năm mượn tiền của Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông ở Hà Nội. Bởi vì cách làm của Việt Nam là ký vào tờ giấy vay nợ và chờ công trình hoàn thành. Cả hai công trình nói trên chỉ đem lại lợi ích cho phía Nhật Bản và Trung Quốc về mặt tài chính. Việt Nam có một vài nhà thầu phụ nhận được một số hợp đồng nhỏ, ngoài ra không được thêm gì khác. Nay nước này tiếp tục làm một dự án lớn hơn thế nhiều lần nhưng không cần “chuyên giao công nghệ”. Một khoản đầu tư tương đương một phần sáu GDP của Việt Nam năm 2023 nhưng không trở thành động lực phát triển cho doanh nghiệp và lực lượng kỹ sư công nghệ cao của riêng Việt Nam. Kỹ sư Khiêm Nguyễn, một người có nhiều năm kinh nghiệm làm việc ở Trung Quốc và Đông Nam Á, nhận xét về tư duy của ông bộ trưởng Thắng: “Bạn bỏ ra gần 70 tỷ USD nhưng hoàn toàn mơ hồ về khả năng thu hồi vốn và không quan tâm đến khả năng Việt Nam có thể nâng cao năng lực công nghệ của mình? Đó chỉ có thể là cách xài tiền chùa, xài tiền của người khác, của dân, không phải tiền của bản thân. Bạn cũng không quan tâm đến chi phí cơ hội cho quốc gia của bạn.” vị chuyên gia công nghệ và kinh doanh ở Voyager Space nêu quan điểm của mình.   Đài Loan cũng mua hệ thống tàu điện cao tốc (Shinkansen) của Nhật Bản từ năm 1998 mà không yêu cầu chuyển giao công nghệ. Đài Loan lệ thuộc hoàn toàn vào Nhật Bản ở khâu bảo dưỡng, sửa chữa. Thậm chí trong những năm đầu, tài xế lái tàu Shinkansen của Đài Loan cũng chưa vận hành được. Tuy nhiên, theo Kỹ sư Khiêm Nguyễn, Đài Loan có lý do để làm điều đó. Đài Loan đã làm chủ các công nghệ cao căn bản. Họ không cần chuyển giao công nghệ cao nghệ cao thông qua dự án đường sắt cao tốc. Đài Loan không cần đến các kỹ thuật cụ thể của đường sắt cao tốc được phát triển dựa trên công nghệ cao, vì diện tích của nước này quá nhỏ để xây dựng tiếp. Ngược lại, Việt Nam không có các nền tảng công nghệ cao căn bản. Nếu không nhận chuyển giao công nghệ thông qua các dự án như thế này, không rõ Việt Nam làm cách nào học được chúng? Vị chuyên gia về công nghệ và kinh doanh ở Voyager Space đặt câu hỏi.  Thừa nhận năng lực yếu kém nhưng vẫn làm Một quan chức ngành giao thông ở Việt Nam muốn giấu tên vì lý do an ninh nói với RFA rằng Bộ Giao thông Vận tải không có chủ trương nhận chuyển giao công nghệ lõi vì năng lực hiện nay khiến cho Việt Nam không học được, dù đối tác đồng ý chuyển giao. Ông lấy dẫn chứng Tổng công ty đường sắt Việt Nam. Các kỹ sư ở đó không đủ năng lực để làm hay học cái gì thuộc về các công nghệ cao của kỹ thuật đường sắt cao tốc. Một chuyên gia đường sắt khác không muốn nêu tên cho rằng nếu Việt Nam muốn làm chủ công nghệ đường sắt thì phải cải cách thể chế để có thể phối hợp đồng bộ các cơ quan khác nhau. Học viện Kỹ thuật quân sự phải tham gia cái này, Đại học Bách Khoa phải tham gia cái kia, thêm các cơ quan khác nữa, và phải có một đầu mối để điều phối. Còn như hiện nay, Việt Nam vẫn có người giỏi nhưng nằm rải rác ở các cơ quan khác nhau và không hợp tác được với nhau trong một dự án chung do Nhà nước đầu tư, vị chuyên gia chia sẻ thực trạng. Câu hỏi đặt ra là trình độ yếu kém như vậy thì có nên làm đường sắt cao tốc hay không? Hai dự án đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên và Cát Linh - Hà Đông là những dự án phụ thuộc viện trợ nước ngoài và do nước ngoài xây dựng. Khó có thể nhìn vào hai dự án mất trên chục năm, đội vốn và lỗ vốn này để đánh giá ngành đường sắt Việt Nam. Tuy nhiên, có một dự án đường sắt giúp chúng ta hãy thấy năng lực của ngành đường sắt Việt Nam. Ở đây không chỉ là năng lực công nghệ mà còn là năng lực quản lý dự án. Dự án đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân, với chiều dài 131km được Bộ Giao thông Vận tải khởi công từ năm 2005. Đây là tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn (1.435 mm), khác với tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam ở chỗ quy mô nhỏ hơn, sử dụng công nghệ cũ, tốc độ chậm hơn, chỉ 120 km/h, không đòi hỏi phải có công nghệ cao để thực hiện. Dự án được khởi công từ 2005, đến nay đã 20 năm vẫn chưa hoàn thành. Chỉ riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, hiện có 5 cây cầu đường sắt của dự án này bị bỏ hoang . Dự án này có vốn đầu tư 7.665 tỷ đồng, tương đương hơn 300 triệu USD, nhỏ hơn một phần hai mươi dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam. Đáng chú ý là những cây cầu này được xây dựng trước cả tuyến đường sắt khiến chúng thành những cây cầu cụt. Nhiều nhà ga, nhà ở công nhân được xây dựng trước, ngày nay trở thành phế tích. Điều này cho thấy trình độ quản lý dự án của Bộ Giao thông Vận tải yếu kém đến mức nào. “Ai chịu trách nhiệm cho những lãng phí này?” Và “Đất nước nghèo mãi cũng phải thôi, bao nhiêu tiền của bây giờ chỉ là đống sắt hoen gỉ nằm chỏng chơ ngoài trời thế kia, vậy cho hỏi những người nào sẽ chịu trách nhiệm đây?” là những lời bình luận trong số hàng chục bình luận tương tự của độc giả gửi đến một tờ báo nhà nước khi nhìn tuyến đường sắt hơn 7000 ngàn tỷ trở thành đống sắt vụn. Những câu hỏi nói trên đã được nêu ra cách đây 5 năm. Đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Nay, cũng chính cơ quan này sẽ làm một tuyến đường sắt cao tốc dài hơn 1500 km, tốc độ 350 km/h, sử dụng những công nghệ tân tiến nhất, và tiêu tốn gần 70 tỷ USD. Ngoài năng lực quản lý dự án yếu kém, ngành đường sắt còn yếu kém cả vấn đề quản trị nguồn nhân lực. Báo chí nhà nước từ lâu phản ánh vấn nạn nhân viên đường sắt bảo kê khách lậu, thu vé chui, mà bản thân ngành đường sắt biết rõ nhưng không giải quyết được. Ngoài vấn đề đạo đức, bộ máy ngành đường sắt nổi tiếng cồng kềnh. Trao đổi với RFA, Tiến sỹ Vũ Quang Việt cho biết theo nghiên cứu của ông, năm 2022, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, doanh thu của Tổng công ty đường sắt Việt Nam chỉ là 81 triệu USD, và lỗ báo cáo 18.8 triệu USD, tính cả cộng lỗ và bù lỗ để sửa chữa từ ngân sách nhà nước. Cũng trong năm 2022, Tổng Công ty đường sắt Việt Nam có khoảng 26.000 cán bộ, công nhân. Lương trung bình hằng tháng là 8,1 triệu đồng. Như vậy, tính trung bình, chỉ để trả lương nhân viên, hàng năm tổng công ty này tốn khoảng 2,5 ngàn tỉ, tương đương 102 triệu USD. Như vậy, chi phí cho tiền lương nhân viên đã vượt xa doanh thu ở thời điểm đó, vị cựu chuyên gia tài chính của Liên Hiệp Quốc nhận xét. Báo cáo tài chính Tổng Công ty đường sắt Việt Nam năm 2022 cho biết họ được giao quản lý khối tài sản trị giá 14.9 ngàn tỷ. Sang năm 2023 và 2024, công ty này có báo lãi nhưng con số lãi rất nhỏ so với tổng khối tài sản mà họ được Nhà nước giao cho quản lý, kinh doanh. “Công nghệ lạc hậu” và “bộ máy cồng kềnh” là điều ngành đường sắt tự biết rất rõ, nhưng họ không thể tự cải cách để phát triển. Đối với dự án đường sắt tốc độ 120 km/h kết nối Bắc Ninh và Quảng Ninh, vào đầu tháng Bảy năm 2024, Bộ Chính trị yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải tiếp tục đầu tư để hoàn thành dự án trên trước năm 2030. Kỹ sư Khiêm Nguyễn nói với RFA rằng để hoàn thành được dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, Bộ Giao thông Vận tải cần có tri thức know-how về quản lý dự án đường sắt vô cùng phức tạp. Để chứng tỏ mình có thể quản lý được dự án gần 70 tỷ đô la với những công nghệ cao ở tiên tiến nhất, bộ này nên hoàn thành tuyến đường sắt thường 120 km/ giờ họ đã bỏ hoang 20 năm qua. Ngoài ra, để làm được một công trình lớn như đường sắt cao tốc Bắc Nam, Bộ này nên chứng tỏ khả năng cải cách và sắp xếp lại bộ máy nhân sự bằng cách cải tổ Tổng Công ty đường sắt, vị chuyên gia về công nghệ và kinh doanh từng có kinh nghiệm làm việc nhiều năm ở Trung Quốc và nhiều nước Đông Nam Á chia sẻ./.    
......

NHÂN và QUẢ ở Hoa kì và Việt Nam khác nhau ở những điểm nào? (phần kết)

Con người thật của Tô Lâm   Một người từng bất chấp luật pháp quốc tế quyết lập công để mua chuộc sự tin cậy của Nguyễn Phú Trọng đã tổ chức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đang tị nạn chính trị  ở Đức (2017). Tới cả không biết ngượng khi cùng bộ hạ ăn thịt bò dát vàng với giá cả hàng chục ngàn bảng Anh tại nhà hàng đắt tiền tại London (2021).  Giữa lúc hàng triệu đồng bào trong nước đang phải chịu cảnh đói khát của đại dịch Covid. Thế rồi thực hiện cam kết với Bắc kinh „khép lại quá khứ“ nên bất kể tới chiến sĩ và đồng bào đã hi sinh trong chiến tranh chống xâm lược của TQ đầu năm 1979, vì thế năm nay Tô Lâm lại lo hưởng thụ và bảo bệ quyền lợi phe nhóm nên đã tự đứng ra tổ chức linh đình Đại hội ca nhạc mừng xuân tại Nhà hát Hồ Gươm của bộ CA vào đúng ngày 17.2.2024  kỉ niệm TQ xâm lược biên giới phía Bắc. Cực kì nham hiểm và kiên gan đã lợi dụng vai trò Bộ trưởng Công an tìm mọi cách thu tập hồ sơ lí lịch của các đối thủ trong Tứ trụ để loại họ, đến khi Nguyễn Phú Trọng đau nặng thì ra tay phỗng tay trên ghế TBT và cả Chủ tịch nước. Mới đây nhất Tô Lâm và vây cánh Hưng Yên còn tìm cách đầu cơ quyền lực bằng cách đi đêm với Trump để công ti của Trump đầu tư 1,5 tỉ USD xây khách sạn sang cùng với sân golf rất lớn ở tỉnh của mình để làm hậu thuẫn chuẩn bị giành ghế TBT tiếp!   Cho nên không ngạc nhiên, sau khi đảo chính thành công nắm ghế TBT, Tô Lâm đã nâng đỡ và bổ nhiệm  hàng loạt người cùng vây cánh trong Công an và đồng hương Hưng Yên vào các chức vụ then chốt trong bộ Công an, Bộ chính trị, Ban bí thư. Mới đây để chuẩn bị giành cho chính mình và vây cánh vào các trường hợp đắc biệt như thời Nguyễn Phú Trọng, nên Tô Lâm đã vừa thông qua Luật bầu cử tại ĐHĐ 14  giành cho Bộ chính trị độc quyền đề nghị đề cử những nhân vật chính trtong Tứ trụ, Bộ chính trị và Ban bí thư. Ngày 10.10. 2024 Tô Lâm đã kí ban hành Quyết định 190-QĐ/TW của Trung ương đảng  về Qui chế bầu cử trong Đảng. Văn bản này thay cho Quyết định số 244-QĐ/TW do Nguyễn Phú Trọng kí 9.6.2014. Điều 11 Khoản 3 Quyết định "Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị." Hiện nay BCT chỉ còn 15 ủy viên, trong đó có 10 tướng (6 Công an, 4 Quân đội). Với tỉ số chênh lệch nhau lớn lao này, cộng với vây cánh ở trong Trung ương, phe của Tô Lâm có thể  giành cho mình những trường hợp đặc biệt bất kể tới Điều lệ đảng, dù không đủ thâm niên trong Bộ chính trị hay đã quá tuổi qui định vào thời gian diễn ra ĐH 14  -Nghĩa là tái lập thủ đoạn của Nguyễn Phú Trọng khi loại đối thủ Nguyễn Tấn Dũng và vây cánh trước đây! Để chuẩn bị tranh ghế TBT tại ĐH 14 vào tháng 1.2026, mới vài ngày trước Tô Lâm đã hồ hởi vẽ lên ngọn cờ mới 2025 để dụ dỗ đánh lừa đảng viên và nhân dân: „Năm 2025 diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, 95 năm lịch sử quang vinh của Đảng, 80 năm ngày độc lập và 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; cũng là năm đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV; là thời điểm sau 40 năm đổi mới, với những thành tựu vĩ đại đạt được, với thế và lực đã tích lũy, với thời cơ vận hội mới, chúng ta đang đứng trước cánh cửa lịch sử để vững bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.“ Nói tóm lại, những chỉ trích của Tô Lâm về những điểm nghẽn, sai lầm của chế độ toàn trị trên mọi lãnh vực sau gần 80 năm độc quyền cai trị và đề ra khẩu hiệu “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” để đánh dấu ca ngợi giai đoạn ông cướp được ghế TBT. Khẩu hiệu rất kêu này làm mọi người nhớ tới khẩu hiệu „Yêu nước“ của HCM 1945 giữa khi ông giả vờ giải tán ĐCS khi đó để lừa dân và các giới; rồi tới dựng lên Mặt trận Giải phóng miền Nam 1960 mở cuộc nội chiến giết hại mấy triệu đồng bào Nam-Bắc nhưng lại trương khẩu hiệu „ Hòa giải dân tộc“. Từ cuối thập niên 80 vì nạn đói, Đặng Tiểu Bình mở cuộc chiến ở biên giới phía Bắc, Liên xô sụp đổ nên họ đã ttung lên khẩu hiệu „Đổi mới“. Nhưng gần 40 năm qua vẫn giữ nguyên chế độ độc đảng, sang Thành Đô (1990) cúi đầu thần phục Bắc kinh „phải khép lại quá khứ“, rồi nay chui vào rọ „Cùng chung vận mệnh tương lai“ với TQ! Tùy theo điều kiện trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn nên các khẩu hiệu được thay đổi trong mỗi thời kì để đánh lừa nhân dân ta, đánh lừa thế giới. Nhưng tất cả chỉ nhắm mục đích củng cố quyền hành và trước sau giữ độc quyền cho Đảng và phe nhóm cầm quyền. Đây là thủ đoạn thực hiện chiến lược nham hiểm „Dĩ bất biến, ứng vạn biến“ đã được HCM thi thố từ 1945! Nay tham vọng lớn nhất trước mắt của Tô Lâm là làm sao nắm được ghế TBT tại ĐH 14 giữa lúc tình hình trong Đảng đang rối bời, nhân dân căm ghét, bên ngoài thì Tập Cận Bình càng ép mạnh, Trump đe dọa. Vì thế Tô Lâm cũng đang tung lên khẩu hiệu rất kêu “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” đánh dấu giai đoạn cầm quyền của ông để lập lại chiến lược „Dĩ bất biến, ứng vạn biến“ trong thời đại hiện nay. Nhưng không phải cho Đảng mà là để phục vụ tham vọng độc quyền cho chính Tô Lâm và phe nhóm! Kết luận Tục ngữ VN có câu “Con hơn cha là nhà có phúc”. Châm ngôn này rất thâm thúy và rất phổ thông có giá trị rất thực tiễn không chỉ cho cá nhân, mà cho cả các tổ chức và toàn xã hội. Đối với một cá nhân, trong cuộc sống nhiều khi thế hệ cha-ông đã phải đưa ra quyết định cho gia đình mặc dầu thiếu kiến thức, chưa đủ các thông tin. Nhưng khi các con trưởng thành nhận ra quyết định của cha mẹ không còn thích hợp, nên đã dám tự thay đổi để cứu gia đình. Đó là một việc làm tự nhiên vừa thông minh và đảm lược, không chỉ cứu cho chính gia đình hiện tại mà cả cho các thế hệ tiếp theo, đồng thời cũng là cách làm yên lòng cha mẹ đã quá cố! Trong chính trị cũng vậy, trước một biến cố chính trị lớn như đảo chính hay thay đổi người cầm đầu, có những tổ chức hay cá nhân đã vội tin là đúng ủng hộ hết mình. Nhưng một thời gian sau cho thấy, kẻ cầm quyền chỉ là kẻ bịp bợm, gian ác và con đường đi của họ hoàn toàn sai lầm. Cho nên thế hệ tiếp theo sẽ truất phế, hay không bầu cho ông ta, dứt khóa từ bỏ ý thức hệ sai lầm để tự cứu và đưa đất nước ra khỏi lầm than, vươn lên trở lại. Đây là một tiến trình tự nhiên và sáng suốt, hoàn toàn không phải là phản bội. Trái lại, đây là thái độ rất trưởng thành của thế hệ đi sau, biết cách tưởng  nhớ rất thiết thực với thế hệ đi trước. Vì khi ấy những người này đã hi sinh vì tin rằng, việc làm của mình là yêu nước và hi vọng đất nước phải tiếp tục tiến lên, nhân dân phải được hưởng tự do dân chủ thực sự. Như nhiều người Đức trước đây đã tin mù quáng nhà độc tài Hitler, hàng triệu người đã chiến đấu và hi sinh. Nhưng sau đó đã thấy được dã tâm chủ trương dân tộc cực đoan sai lầm, nên sau Thế chiến Thứ 2, thế hệ tiếp theo ở Đức không nuôi hận thù mà lại hợp tác chân thành với các nước từng là kẻ thù như Pháp, Anh, HK. Sau chiến tranh nhiều gia đình ở Đức con cái đã thương sót cho cha mẹ do những hoàn cảnh đặc biệt đã quá cả tin vào Hitler. Đối với người sáng lập ĐCSVN, khi HCM đặt chân tới Mạc tư khoa (1923) thì Cách mạng Tháng 10 của Lenin (1917) mới chỉ ra đời vài năm, chưa chứng minh được chủ nghĩa CS trong thực tế sẽ như thế nào. Khi ấy ông Hồ còn rất trẻ chưa dủ kiến thức và kinh nghiệm chính trị. Nhưng vì lòng yêu nước bồng bột đã vội vã mù quáng tin tuyệt đối vào chủ nghĩa Marx-Lenin là chân lí, đũa thần có thể giải quyết khó khăn bất cứ ở nơi nào và thời đại nào! Không lâu sau bệnh cả tin đã tạo ra tâm lí sai lầm ở ngay HCM, cũng chủ quan tin rằng, mình hành động đúng, những việc làm của mình là yêu nước thực sự! Rồi trở thành tự mãn kiêu ngạo, tự cho mình là lãnh tụ yêu nước! Chả thế ông đã dùng bút hiệu Trần Dân Tiên viết sách tự thuật về chính mình, trong đó đã tự đề cao mình là “Nhân dân ta gọi Hồ Chủ tịch là cha già của dân tộc! “ Nay ai cũng thấy, chủ nghĩa CS theo mô hình Marx-Lenin đã tan rã ở LX và Đông Âu trên ba  thập niên. Các nước CS còn lại là TQ, Bắc Hàn, Cuba và VN trở thành những chế độ công an trị, gia đình trị, phe nhóm lợi ích chỉ biết tham quyền, tham tiền, đàn áp nhân dân,  như những quái thai ác quỉ của thời đại! Thật là lạ lùng đến kinh ngạc, đến nay những hậu duệ kế nghiệp HCM vẫn nhắm mắt tụng niệm Marx-Lenin, tùng phục Bắc kinh. Tuy miệng vẫn tuyên bố “Đổi mới hay là chết” suốt gần 40 năm, lên giọng  than trách các điểm nghẽn và sai lầm trong chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục, quốc phòng và ngoại giao. Trong đó điểm nghẽn nguy hiểm nhất nằm ngay ở người cầm đầu chế độ trong mỗi thời kì! Nhưng cuối cùng họ lại ngang ngược vẫn cố ôm ấp chế độ độc đảng. Nghĩa là QUẢ đã tồi không còn ăn được nữa, nhưng vẫn ngang bướng và mù lòa giữ cái NHÂN sai.   Họ không dám nhìn sang ngay các nước trong khu vực như Nam Hàn, Đài loan đã dám dứt khoát chấm dứt độc tài đảng trị và  quân phiệt để thực hiện Dân chủ Đa nguyên, nên lợi tức đầu người đã cao hơn 9 lần của VN. Các công ti đại bàng của họ đang được các đại quan đỏ CSVN chiều chuộng ở VN.  Nhiều nước cựu CS Đông Âu sau ba thập kỉ chuyển sang Dân chủ Đa nguyên nay nhân dân được hưởng tự do, đất nước  từng bước trở nên phú cường. Mặc dầu Marx-Lenin đã phá sản ở LX và bị vât vào sọt rác ở Đông Âu trên 3 thập kỉ! Nhưng tại VN những người cầm đầu CSVN vẫn chỉ sống mơ mộng, lấy mộng làm thực, tin rằng họ sẽ lên thiên đàng XHCN, đưa đất nước tiến lên kỉ nguyên mới chưa từng thấy. Đúng là bệnh tâm thần mộng tưởng như con cóc muốn to như con bò!   Trong thời đại thế giới đa cực, một bên là các chế độ độc tài với chủ trương dân tộc cực đoan và bên kia là các chế độ dân chủ tiến bộ, muốn gìn giữ hòa bình và ngăn ngừa chiến tranh nguyên tử và tàn phá mội trường có thể dẫn tới hủy giệt nhân loại. Vì thế các nước và liên minh dân chủ phải biết cùng nhau chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi để ngăn chặn hữu hiệu các chủ nghĩa độc tài, dân tộc cực đoan. Cuộc động đất chính trị hiện nay ở HK sẽ khiến các định chế dân chủ đã có truyền thống ở liên bang và các tiểu bang, cùng với các giới báo chí, các tổ chức XHDS sớm thức tỉnh để ngăn chặn các hành động độc tài, dân tộc cực đoan cực kì nguy hiểm và sai lầm của Trump. Đồng thời phải sửa chữa những khuyết điểm để giữ vững các định chế nền tảng dân chủ tiến tới tương lai. Khi đó HK sẽ bảo vệ vai trò và trách nhiệm của cường quốc hàng đầu, đồng thời giữ được niềm tin của các đồng minh trên khắp 5 châu, từ đó giúp cho các phong trào dân chủ nhân bản tiến bộ trên thế giới vững bước đấu tranh chống độc tài…! Nghĩa là phải biết bảo vệ, tu sửa cái NHÂN cho thật tốt để hưởng QUẢ ngon ngọt tiếp tục! Tại VN vì tiếp tục áp dụng mù quáng thiển cận, ngang bướng giữ lại cái NHÂN là chủ nghĩa và mô hình cai trị Marx-Lenin đã hoàn toàn sai lầm, nên nhân dân đang phải nuốt QUẢ cay đắng và cực độc, đó là chế độ CSVN đã biến thể từ độc tài của một đảng sang thành độc tài của một cá nhân và vài nhóm lợi ích tham nhũng. Chế độ công an trị đàn áp tàn bạo nhân dân, doanh nghiệp nhà nước đang làm đất nước phá sản, tụt hậu nên ngày càng lệ thuộc Bắc kinh cả chính trị, kinh tế, ngoại giao lẫn an ninh và quốc phòng. Tham vọng độc tài và đầu óc xứ quân của Tô Lâm sẽ không thể tồn tại lâu. Điều này hoàn toàn đi ngược với quyền lợi của dân tộc và đi ngược với trào lưu thời đại. Vì thế ngay cả những thành phần tiến bộ trong Đảng và các đảng viên biết tự trọng đang gia tăng chống lại Tô Lâm. Các tổ chức XHDS và ngay cả các tù nhân lương tâm cũng không còn biết sợ, ngày càng công khai chống lại sự chà đap nhân quyền và sự tha hóa cùng cực của những quan đỏ độc tài, tham nhũng, bất tài và vô đạo đức! Trong việc cai trị và đối xử với nhân dân những người kế nghiệp HCM có tâm lí rất mâu thuẫn. Một mặt đối xử với nhân dân như đầy tớ, nô lệ, nhưng mặt khác với HCM thì vẫn coi như thánh sống, chủ nghĩa Marx-Lenin là kim chỉ nam! Họ mất sáng suốt, không dám và không đủ đảm lược để thực hành châm ngôn VN rất thâm thúy và sáng suốt „Con hơn cha là nhà có phúc“! Chính tinh thần bạc nhược, độc tài và thiển cận tiêu biểu như Tô Lâm hiện nay đang đối mặt với sự chống đối ngày một mạnh của nhiều thành phần nhân sĩ, trí thức dân chủ, kể cả những đảng viên tiến bộ biết quí lòng tự trọng. Những khẩu hiệu lừa dối, các thủ đoạn giành độc quyền cho cá nhân và phe  nhóm địa phương của Tô Lâm sẽ không thể che mắt được nhân dân và đảng viên! Gần 80 năm qua HCM đã mù quáng áp dụng chủ nghĩa sai lầm Marx-Lenin dựng lên chế độ độc đảng, độc quyền tư hữu, dùng bạo lực trong đấu tranh giai cấp dẫn tới phân hóa dân tộc. Nên chỉ những người cầm đầu chế độ và các đại quan đỏ sống  trên nhung lụa, ăn thịt bò dát vàng luôn luôn hô khẩu hiệu nhớ ơn Bác và Đảng,  uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây! Nhưng đại đa số nhân dân phải ăn quả đắng, ung thối, uống nước độc Marx-Lenin! Mấy triệu người đã bị hi sinh trong chiến tranh; toàn dân bị đàn áp, bịt miệng, bịt mắt; mấy triệu người đã phải nằm trong các trại cải tạo, phải làm thuyền nhân giữa đại dương. Nhân dân ta chỉ phải ăn bánh vẽ “yêu nước”, “hòa giải dân tộc”, “đổi mới”. Nay Tô Lâm lại lại đưa ra bánh vẽ “kỉ nguyên vươn mình”! Ai có thể tin Tô Lâm được nữa? 22.11.24   . Vụ Trịnh Xuân Thanh gây ra khủng hoảng - BBC News Tiếng Việt. . Bộ trưởng CA Tô Lâm được "thánh rắc muối" đút bò dát vàng cho ăn, . Nghĩ gì, thấy gì nhân dịp Nguyễn Phú Trọng mất và những lời ca ngợi về ông ? (Âu Dương Thệ) - THÔNG LUẬN . Tứ Trụ, Thường trực Ban Bí thư và những 'trường hợp đặc biệt' - BBC News Tiếng Việt. . QD-190-TW.pdf; Quy chế mới về bầu cử trong Đảng do Tổng Bí thư Tô Lâm ký có gì khác? - BBC News Tiếng Việt .Như trên . Tổng Bí thư Tô Lâm dự Chương trình “Hồ Chí Minh - Hành trình khát vọng 2024” - Báo Công an nhân dân điện tử . Cùng tác giả,T. II, tr. 104 . Kiến nghị khẩn cấp về cải cách thể chế; Nhà hoạt động Nguyễn Thuý Hạnh: Tôi chỉ lên tiếng cho một xã ;  KIẾN NGHỊ TRẢ TỰ DO CHO NHÀ BÁO HUY ĐỨC …; Ba TNLT Trại giam Số 6 đồng loạt tuyệt thực đòi nhà …; Báo cáo viên đặc biệt LHQ quan ngại việc công an ‘mời’ TS …  
......

Công an dưới tay, Tô Lâm giờ như ông trùm xã hội đen

Đàm Chính Sự (SGN) Bộ Công an được ví như thanh gươm và lá chắn thép bảo vệ chế độ thì nay đã bị Tô Lâm thao túng và biến thành công cụ thanh trừng chính trị, một vũ khí sắc bén nhắm vào bất kỳ ai dám thách thức quyền lực của ông. Không chỉ dùng nó để đàn áp những tiếng nói phản biện, dập tắt những tia sáng sự thật mà chính quyền tìm cách che giấu, Tô Lâm còn biến Bộ Công an thành chiến tuyến riêng, sẵn sàng đối đầu với cả những người từng kề vai sát cánh, những “đồng chí” trong cùng hệ thống. Ông ta đã biến một cơ quan bảo vệ pháp luật thành công cụ phục vụ cho tham vọng cá nhân, bóp méo công lý và gieo rắc nỗi sợ hãi trong chính nội bộ Đảng. Việc thâu tóm Bộ Công an mang lại cho Tô Lâm quyền lực gần như tuyệt đối trong việc điều tra, thu thập, và đặc biệt là tích trữ thông tin. Từ bí mật đời tư đến những sai phạm, tất cả đều được ông ta lưu giữ, sắp xếp, và sẵn sàng sử dụng khi cần thiết. Đây chính là kho dữ liệu đen khổng lồ, thứ vũ khí tối thượng mà chỉ mình ông ta nắm giữ, khiến các đối thủ chính trị, dù thế lực đến đâu, cũng phải dè chừng. Họ bị tước đoạt thông tin, bị cô lập trong bóng tối, và cuối cùng, bị đánh bại một cách dễ dàng. Chiến thắng của Tô Lâm trước Vương Đình Huệ và Võ Văn Thưởng, hai ứng cử viên sáng giá cho chức Tổng Bí thư, là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh của “thanh gươm” này. Dù Vương Đình Huệ từng được xem như “thái tử”, người kế vị tiềm năng của ông Nguyễn Phú Trọng và Võ Văn Thưởng là phương án dự phòng, cả hai đều không thể chống lại Tô Lâm, người nắm giữ vũ khí tối thượng là thông tin. Họ bị hạ gục không kèn không trống, nhường lại “ngai vàng” mà không một lời phản kháng, chấp nhận số phận đã được định đoạt bởi “thanh gươm” dữ liệu trong tay Tô Lâm. Trong hệ thống chính trị đầy rẫy những toan tính và mưu mô này, sự trong sạch dường như chỉ là ảo tưởng. Võ Văn Thưởng dính líu đến Tập đoàn Phúc Sơn với số tiền 64 tỷ, một con số không nhỏ, nhưng lại quá nhỏ bé so với khoản tiền ngàn tỷ mà Tô Lâm thu lợi trong vụ AVG. Ngay cả Vương Đình Huệ, một nhân vật quyền lực với mạng lưới quan hệ rộng khắp, cũng chưa chắc đã “ăn” nhiều hơn Tô Lâm. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở chỗ họ không sở hữu “thanh gươm” thông tin trong tay. Thiếu đi công cụ phản kháng, thiếu đi sức mạnh để bảo vệ mình trước những đòn tấn công ngầm, họ đành chấp nhận thất bại, ngậm ngùi nhìn Tô Lâm từng bước leo lên đỉnh cao quyền lực. Họ trở thành nạn nhân của cuộc chiến ngầm, nơi mà thông tin chính là vũ khí tối thượng. Hiện tại, nhiều thành viên Bộ Chính trị dù ngấm ngầm bất mãn với Tô Lâm, cũng không thể làm gì để ngăn chặn sự bành trướng quyền lực của ông ta. Số lượng đông đảo, sự ủng hộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tất cả đều trở nên vô nghĩa khi họ thiếu đi vũ khí sắc bén nhất – thông tin. Họ không có “thanh kiếm” điều tra để phản công, không có công cụ để phơi bày những bí mật đen tối của Tô Lâm, để vạch trần bộ mặt thật của kẻ đang thao túng cả hệ thống. Sự bất lực của họ càng tô đậm thêm quyền lực tuyệt đối của Tô Lâm, người đang nắm giữ vận mệnh của chế độ trong tay. Giữa bối cảnh đó, quân đội nổi lên như một thế lực đối trọng tiềm tàng, một tia hy vọng mong manh trong cuộc chiến cân bằng quyền lực với phe Hưng Yên của Tô Lâm. Với bộ máy điều tra riêng biệt, hệ thống tình báo rộng khắp, và đặc biệt là Tổng cục Tình báo hùng mạnh, quân đội là lực lượng duy nhất có đủ khả năng cầm “kiếm” đối đầu với Tô Lâm. Họ có khả năng thu thập thông tin, phơi bày những bí mật được che giấu kỹ lưỡng, và tạo ra thế cân bằng trong cuộc chiến chính trị đầy cam go này. Sự tồn tại của quân đội như một lực lượng độc lập, ít bị Tô Lâm kiểm soát, mang đến hy vọng về một sự thay đổi, một cuộc lật đổ ngoạn mục. Nếu quân đội thành công trong việc giành lại cân bằng quyền lực, cuộc chơi chính trị sẽ bước sang một trang mới. Nó sẽ không còn là cuộc chiến giữa kẻ có “kiếm” và kẻ “tay không”, mà là cuộc đối đầu cân sức giữa hai thế lực mạnh nhất, hai “thanh gươm” sắc bén nhất. Các thế lực khác, dù có tham gia, cũng chỉ đóng vai trò phụ trợ, không thể thay đổi cục diện. Sân chơi chính trị sẽ trở thành một bàn cờ chiến lược, nơi mà thông tin, mưu mô và quyền lực đan xen, tạo nên một bức tranh phức tạp và khó lường. Chiến thắng của phe Hưng Yên trước phe Nghệ An là một bài học xương máu. Dù phe Nghệ An có số lượng áp đảo, với 11 Ủy viên Trung ương Đảng và 3 Ủy viên Bộ Chính trị, so với 6 Ủy viên Trung ương Đảng và 1 Ủy viên Bộ Chính trị của phe Hưng Yên, họ vẫn thất bại thảm hại. Nguyên nhân chính là sự chênh lệch về vũ khí. Phe Hưng Yên, tuy ít người hơn, nhưng lại nắm giữ “thanh gươm” quyền lực – Bộ Công an và hệ thống thông tin tình báo, trong khi phe Nghệ An chỉ có thể chống đỡ bằng “tay không”, bằng những toan tính chính trị thiếu sự hậu thuẫn của lực lượng thực thi. Trong tương lai gần, cuộc chiến quyền lực sẽ ngày càng trở nên khốc liệt và rõ ràng hơn khi bức tranh chính trị bị chia thành hai mảng màu đối lập: phe công an (Hưng Yên) của Tô Lâm và phe quân đội. Phe Nghệ An và Hà Tĩnh, dù đông đảo, cũng khó lòng chống lại Tô Lâm nếu không có sự hỗ trợ của quân đội. Cuộc chơi quyền lực này không chỉ là cuộc chiến giữa các cá nhân, mà còn là cuộc chiến giữa các thế lực, giữa những “thanh gươm” sắc bén, giữa những kẻ nắm giữ thông tin và những người bị che mắt trong bóng tối. Để củng cố quyền lực, Tô Lâm không ngần ngại chà đạp lên Đảng luật, coi thường những nguyên tắc và quy định đã được thiết lập. Việc đưa Lương Tam Quang lên chức Bộ trưởng Bộ Công an và vào Bộ Chính trị, cũng như bổ nhiệm Nguyễn Duy Ngọc và Trịnh Văn Quyết vào Ban Bí thư khi chưa đủ điều kiện, đều là những hành động ngang nhiên, phản ánh sự coi thường luật pháp của Tô Lâm. Ông ta tự cho mình quyền vượt trên luật lệ, xây dựng một hệ thống quyền lực riêng, nơi mà “thanh gươm” của ông ta là tối thượng, là chân lý. Liệu phe Nghệ An có dám làm điều tương tự? Liệu họ có dám chà đạp lên Đảng luật để giành lại quyền lực? Câu trả lời có lẽ là không. Bởi họ không có “thanh gươm” để bảo vệ mình, không có sức mạnh để chống lại Tô Lâm và hệ thống thông tin tình báo đồ sộ của ông ta. Họ chỉ có thể đứng nhìn, bất lực và phẫn uất, trong khi Tô Lâm ngày càng củng cố quyền lực, biến mình thành một “ông vua” không ngai trên võ đài chính trị./.  
......

NHÂN và QUẢ ở Hoa kì và Việt Nam khác nhau ở những điểm nào? (phần III)

Phần III Các điểm nghẽn trong xã hội VN do hậu quả của chủ nghĩa Marx-Lenin và giải pháp của Tô Lâm Từ khi cướp được ghế TBT (3.8.24) trong thời gian qua tại Hội nghị Trung ương 10 (18-20.9.24)   và các hội nghị quan trọng Tô Lâm đã tung lên một loạt những khẩu hiệu rất kêu, như “kỉ nguyên mới”,”tự lực, tự cường, tự tin…” và phất lên ngọn cờ “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. Không những thế Tô Lâm còn thừa nhận những hậu quả của chế độ CS đang đè nặng nhân dân và phá hoại đất nước, đang gây ra những “điểm nghẽn” trên mọi lãnh vực kinh tế, xã hội, lao động, giáo dục, ngoại giao và cán bộ cực kị tai hại. Nhưng ông đã đưa ra các giải pháp nào và toan tính cho cá nhân ra sao? Có gì mới không? Điểm nghẽn cực lớn là bộ máy cai trị rất cồng kềnh, lãng phí trở thành gánh nặng ngày càng năng nề cho nhân dân và đất nước. Nguyên nhân từ đâu và Tô Lâm giải quyết bằng cách nào? Trước các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3) tại Học viện Chính trị quốc gia HCM ngày 31.10.2024 chính Tô Lâm xác nhận: “Hiện nay 70% ngân sách dùng để nuôi bộ máy”, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”. Tô Lâm than rằng, ngân sách quốc gia chỉ “còn 30% thì tiền đâu để phục vụ quốc phòng, an ninh, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội! Trong khi các nước khác chỉ có hơn 40%“ ngân sách để nuôi bộ máy chính quyền“.   Có lẽ ngoài TQ chưa có một nước nào phải nuôi bộ máy cầm quyền nặng nề, trồng tréo và cồng kềnh như ở VN hiện nay. Ngoài bộ máy chính quyền như ở hầu hết các nước, hiện nay nền kinh tế òi ẹp của VN phải cáng đáng thêm nuôi hai bộ máy nữa là hệ thống ĐCS từ trung ương tới cơ sở với trên 5 triệu đảng viên. Ngoài ra ngân sách nhà nước còn phải chi cho các tổ chức ngoại vi của Đảng. Bộ máy  cực kì cồng kềnh và lãng phí  có thể thấy rất rõ: Song hành các Bộ trong chính phủ là các Ban trong Đảng. Thông thường ở các nước, ngoài TT hay Thủ tướng chỉ có một Phó TT hay Phó Thủ tướng. Hiên nay VN có tới 5 Phó Thủ tướng. Mỗi bộ, ngoài bộ trưởng có  tới 4 thứ trưởng, hai bộ Công an, Quốc phòng có tới 6 Thứ trưởng hay tương đương. Các Ban Trung ương của đảng, ngoài trưởng ban còn có nhiều phó trưởng ban. Điển hình như ngân sách khổng lồ giành cho  bộ máy  công an mật vụ. Năm 2021 „dự toán chi ngân sách cho Bộ công an là khoảng 96 ngàn tỷ đồng, gấp hơn 10 lần Bộ y tế (khoảng 9,1 ngàn tỷ đồng) và Bộ giáo dục là 7,1 ngàn tỷ đồng. Năm 2022, Bộ Công an được phân bổ số tiền 95,5 ngàn tỷ đồng và tăng lên gần 100 ngàn tỷ đồng trong năm 2023 (3). Ở các nước dân chủ chỉ có một bộ máy duy nhất được phép dùng tiền từ ngân sách nhà nước, đó là các viên chức chính phủ từ trung ương tới địa phương. Cách chính đảng phải tự lập ngân sách từ đóng góp của các đảng viên và sự ủng hộ tài chính các mạnh thường quân. Nhưng tại VN ngân sách nhà nước không còn để cho đầu tư phát triển, làm sao có thể thực hiện khát vọng „Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc„? Chẳng những thế trong buổi giảng dậy cho các Ủy viên Trung ương tương lai của khóa 14 Tô Lâm lại vẫn lập lại, „Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng“. Nghĩa là trước sau Tô Lâm vẫn chỉ dùng giải pháp „Nguyễn Như Vân“!!! Tại sao chế độ độc đảng toàn trị CSVN không thể nào tinh giảm bộ máy nhà nước được, trái lại ngày càng phình to?  Bởi vì hệ thống cai trị theo mô hình Marx-Lenin coi ĐCS là chủ nhân duy nhất và toàn bộ trong mọi lãnh vực trong xã hội từ chính quyền, đất đai tới nhân dân. Chính vì thế đã bao nhiêu lần ra Đảng, Chính phủ, Quốc hội quyết định giảm biên chế, nhưng trong thực tế bộ máy  cai trị ngày càng phình ra trong mọi ngành để nuôi bộ máy độc tài kiểm soát và hành hạ nhân dân!   Điểm nghẽn: Kinh tế lệ thuộc bên ngoài, năng xuất lao động thấp - Giải pháp nào của Tô Lâm? Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm,  đã nhận định về những mâu thuẫn trong chính sách kinh tế của CSVN:  „Đây cũng là nguyên nhân gây nên nghịch lý ở Việt Nam, đó là nền kinh tế khát vốn, kêu gọi và chờ mong nguồn vốn FDI, trong khi đó rất khó hấp thụ được nguồn vốn trong nước, đặc biệt nguồn vốn đầu tư công.“   Các đặc điểm chính của kinh tế VN thời XHCN theo mô hình Marx-Lenin là áp dụng kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, các tập đoàn và các tổng công ti nhà nước độc quyền nắm giữ các huyết mạch kinh tế, được tự do sử dụng ngân sách, nhân lực và tài nguyên. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp nhà nước lại chỉ thua lỗ, gây phí phạm nhân lực và tài nguyên mỗi năm rất lớn. Trong khi ấy kinh tế của tư nhân VN bị bạc đãi, khinh rẻ. Năng suất lao động ở VN rất thấp và càng giảm so sánh ngay với các nước trong khu  vực. Vì thế kinh tế VN bị tụt hậu, lợi tức đầu người chỉ bằng khoảng 1/9 của Nam Hàn và Đài loan. Trước tình thế đó nhóm cầm đầu chế độ toàn trị đã hấp tấp mù quáng chọn giải pháp đốt giai đoạn nửa vời, mời đón cho các „đại bàng“  nước ngoài, để cho các đại công ti nước ngoài (FDI) đầu tư vào VN hưởng các ưu đãi tối đa về thuế, đất đai, lao động rẻ mạt. Vì thế nền kinh tế VN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc vào xuất khẩu, trong đó các công ti nước ngoài chiếm trên 70% (tương đương 60% GDP). Các doanh nghiệp này nhập khẩu trên 80% linh kiện, thiết bị, nhưng chỉ sử dụng những tư liệu sản xuất giản đơn của Việt Nam như lao động, đất đai, hàng triệu công nhân VN lại phải nhận đồng lương chết đói. Các FDI không giúp Việt Nam xây dựng công nghiệp nội địa. Mới đây  trên đường thăm HK Tô Lâm đã cho phe nhóm Hưng Yên chào đón để công ti của Trump xây khách sạn và sân golf 1,5 tỉ USD  làm trung tâm du lịch ở Hưng Yên và muốn dùng nó làm phương tiện trao đổi để mong Trump không trừng phạt hàng xuất cảng của VN sang HK. Ngoài ra Hà nội còn để Bắc kinh dùng VN như nước chung chuyển các sản phẩm TQ sang VN trên đường xuất cảng sang HK. Điểm nghẽn: Pháp luật bị thao túng bởi các nhóm lợi ích và tham nhũng – Giải pháp nào của Tô Lâm?   Sau gần 80 năm cai trị ĐCSVN đang lập nên hệ thống pháp luật ngày càng chỉ „phục vụ lợi ích nhóm“. Chính Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tư pháp nhân Ngày Pháp luật Việt Nam 7.11 đã phải nhìn nhận như vậy. Vì ngay trong giai đoạn chuẩn bị các luật và chính sách đã do các phe nhóm cho thế lực thao túng. Cho nên luật pháp rất chằng chịt, công kềnh, vô hiệu lực, giải thích tùy tiện theo ý muốn của những quan đỏ nắm quyền lực và tiền bạc. Tuy chỉ trích như thế, nhưng khi đưa ra giải pháp thì Tô Lâm đòi phải „phát huy cao độ tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật“! Nhưng Tô Lâm thừa biết là, chính vì phải giữ „tính Đảng“, tức là độc tài và phe nhóm trong xây dựng pháp luật; nên cá nhân hay hội đoàn, kể cả đảng viên tiến bộ lên tiếng phản đối liền bị gán ghép „chống lại chế độ“, bị theo dõi, giam giữ. VN đang trở thành một nước bị chà đạp nhân quyền tàn bạo nhất trên thế giới. Báo chí tư nhân bị cấm hoạt động. Báo chí Đảng phải mặc đồng phục, tô hồng những người có quyền lực. Im lặng trước những sai lầm, tham nhũng. Mặc dầu trong các Hội nghị Tô Lâm vẫn đề cao „minh bạch“, „công khai“ các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Nhưng mới đây nhất báo chí của chế độ đã bị cấm không được đưa tin một cán bộ cảnh vệ trong phái đoàn của Chủ tịch nước Lương Cường tham dự APEC ở Peru đã „xâm phạm tình dục“ thiếu nữ trên 14 tuổi tại khách sạn ở Chile. Truyền hình Chile và báo chí quốc tế tường thuật rõ ràng. Một hành động làm ô nhục Chủ tịch nước và cả chế độ! Đúng lí ra nếu Tô Lâm thực lòng và biết tự trọng, muốn cải tổ pháp luật thì phải để báo chí tự do đưa tin và kết án nghiêm khắc hành động tồi bại của cán bộ.   Điểm nghẽn: Giáo dục chậm tiến, lạc hậu, chuyên viên thất nghiệp - Tô Lâm đưa ra giải pháp nào? Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20.11, trước các nhà giáo Tô Lâm đã có bài diễn văn dài ngày 18.11 tại Hà nội đã phải nhìn nhận thực trạng giáo dục ở VN sau gần 80 năm dưới thời XHCN: “Thẳng thắn nhìn nhận, đổi mới giáo dục, đào tạo tuy đã triển khai hàng chục năm nhưng cơ bản chưa tạo chuyển biến mạnh mẽ, chưa thật sự chuyển biến về chất, chưa đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân”.  “Chất lượng giáo dục ở các cấp học còn hạn chế; giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; “nặng” về lý thuyết, “nhẹ” về thực hành”. “Hàng chục nghìn cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm, hoặc làm không đúng nghề nghiệp được đào tạo”. “Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo chưa tương xứng với yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục”. Nhưng làm thế nào để giải quyết những khuyết điểm và sai lầm trong giáo dục, để đưa VN vào kỉ nguyên mới ? Tô Lâm lại bản cũ sao, tiếp tục buộc học sinh, sinh viên, nhà giáo phải học tập theo văn hóa chính trị Marx-Lenin: “Ưu tiên hàng đầu trong thực hiện mục tiêu đó là tập trung xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng.” !!!     Điểm nghẽn Ngoại giao: Từ vội vã sang gặp Tập Cận Bình tới Biden nay Tô Lâm đang vuốt ve Trump Bên cạnh những tuyên bố rùm beng trong thời gian vài tháng qua về các cải tổ nội trị theo khẩu hiệu  “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, Tô Lâm còn đoạt cả giải quán quân trong hoạt động ngoại giao. Chỉ nội 2 tuần sau khi nắm ghế TBT kiêm Chủ tịch nước Tô Lâm đã sang Bắc kinh ra mắt Tập Cận Bình (18-20.8)  thề thốt tuân hành VN ngồi vào rọ „Cộng đồng chung vận mệnh với TQ“. Sau đó Tô Lâm còn đi thăm Âu châu, HK và Cuba. Mục tiêu của Tô Lâm là chứng tỏ với các phe phái trong Đảng về tài ngoại giao tháo vát của mình để chuẩn bị giữ tiếp đứng đầu Đảng.   Trong chính sách đối ngoại tuy Tô Lâm không dùng cụm từ „ngoại giao cây tre“ thời Nguyễn Phú Trọng, nhưng tựu trung vẫn theo đuổi thủ đoạn bắt cá hai tay, muốn cùng một lúc đi thân cả với Bắc kinh và tiến gần tới HK và EU. Tô Lâm đã ngoan ngoãn chui vào rọ „Cộng đồng cùng chung vận mệnh“ của Tập Cận Bình, nhưng cũng muốn có quan hệ tốt với HK, đặc biệt trong kinh tế thương mại. Chỉ vài tháng tới khi Trump trở lại tòa Bạch ốc thì khả năng xoay sở của Tô Lâm sẽ bị thử thách rất gay go cả từ Bắc kinh lẫn Washington. Kinh tế VN hoàn toàn dựa trên xuất cảng và bán sản phẩm TQ thay cho Bắc kinh, nên đang đứng trước thử thách như anh khổng lồ bằng đất sét! Xuất cảng của VN phần chính là sang HK: „Năm 2023, Hoa Kỳ thâm hụt 104,6 tỷ USD thương mại song phương với Việt Nam và trong chín tháng đầu năm nay, thâm hụt thương mại đã lên tới 96 tỷ USD. Xuất khẩu 9,8 tỷ USD vào năm 2023.“ Nếu Trump thực hiện chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch gia tăng thuế hàng hóa xuất khẩu của VN vào HK lên tới 20% và hàng hóa TQ xuất khẩu  vào HK lên tới 60% thì sẽ là một cuộc chiến tranh thương mại với hai nước CS. Bắc kinh sẽ tìm cách tránh né đòn trừng phạt của Trump bằng cách ép Hà nội phải để Bắc kinh mở rộng đầu tư ở VN đồng thời gia tăng chuyển sản phẩm của TQ sang VN để xuất cảng sang HK để tránh sự trừng phạt của Trump. Khi đó cùng lúc Hà nội bị áp lực nặng nề của Bắc kinh lẫn Washington. Kinh tế thương mại của VN rơi vào tình trạng một cổ hai tròng! Hiện nay TQ là đối tác thương mại lớn nhất của VN, nguồn cung hàng hóa lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của VN. VN cũng trở thành nước trao đổi thương mại lớn thứ 4 với TQ trên thế giới (năm 2022); đồng thời cũng là đối tác thương mại lớn nhất của TQ trong ASEAN. Trong  chuyến thăm của Thủ tướng TQ Lý Cường (12-14.10)  Thông cáo chung đã xác nhận „Hai bên sẽ phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác đường sắt Việt Nam - Trung Quốc; đẩy nhanh công tác nghiên cứu khả thi tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và lập Quy hoạch 02 tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Đồng Đăng - Hà Nội và Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng; đẩy nhanh công tác kết nối ray khổ tiêu chuẩn từ Lào Cai (Việt Nam) đến Hà Khẩu (Trung Quốc)“. Đây là những bước tính toán rất cụ thể, Bắc kinh muốn mượn đường để khống chế VN, giống như trước đây nhà Nguyên TQ đã tìm cách mượn đường qua VN để chiếm Chiêm Thành, nhưng bị nhà Trần đã từ chối. Thực hiện sách lược ép VN vào Cộng đồng chung tương lai với TQ, mục tiêu của Bắc kinh là từng bước đẩy VN và Đông dương trở thành bàn đạp để chiếm toàn biển Đông, từ đó kiểm soát đường hàng hải quốc tế rất quan trọng giữa châu Á-Thái bình dương và Ấn độ dương. Trong các cuộc họp cấp cao với Tập Cận Bình và Lý Cường từ Nguyễn Phú Trọng trước đây tới Tô Lâm và Phạm Minh Chính đều phải chấp thuận hợp tác chặt chẽ trong chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Thậm chí Hà nội phải chấp nhận cả „ngăn ngừa Cách mạng mầu“ ở VN, tức là đàn áp các cuộc đấu tranh dân chủ ở VN. Chính sách ngoại giao của CSVN như người bắt cá hai tay, tham lam nhưng lại không khôn ngoan, muốn cùng một lúc dùng cả 2 tay để bắt 2 con cá. Cuối cùng sôi hỏng bỏng không, khi cần sự giúp đỡ thì không có bạn tin cậy nào giúp! Tuy nhìn nhận thế giới đã thay đổi sâu sắc, nhưng Tô Lâm vẫn cố giữ NHÂN cũ đã thối nát: “Chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi nhanh chóng. Nhưng với Việt Nam, có một điều không thay đổi: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam…”, tức vẫn bám chặt vào chủ nghĩa Marx-Lenin đã bị vất  vào sọt rác trên ba thập kỉ.   Điểm cực nghẽn: Cán bộ tham nhũng, bất tài, vô đạo đức - Giải pháp của Tô Lâm: Đào sâu thêm chia rẽ, thanh toán lẫn nhau ở Trung ương để chuẩn bị giành ghế TBT tiếp tại ĐH 14   Từ HCM tới những người kế nghiệp gần 80 năm qua đã dùng mô hình xây dựng xã hội VN theo văn hóa cai trị Marx-Lenin để đào tạo cán bộ lãnh đạo và các đảng viên theo con người XHCN mẫu mực. Mặc dầu những người cầm đầu chế độ toàn trị trước sau vẫn tuyên bố „công tác cán bộ là then chốt của then chốt“. Nhưng hiện nay kết quả cho thấy, từ tứ trụ tới các Ủy viên  trong Bộ chính trị, Ban bí thư và Trung ương đảng hầu hết là những người tham quyền, tham tiền, vô tài và thất đức…Để giành giựt ngôi thứ và tiền bạc, họ không từ thủ đoạn nào thanh toán tàn bạo lẫn nhau. Theo dõi các cuộc đảo chính, động đất chính trị ngay trong cung  đình đỏ từ 2001 tới nay cho thấy ngày càng dồn dập  và tàn bạo. Từ Đỗ Mười thao túng để lật Lê Khả Phiêu đưa Nông Đức Mạnh làm TBT bù nhìn của Đỗ Mười tại Đại hội 9 (2001).Tới cuộc trường kì chọi nhau rất tàn bạo giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng giữa hai ĐH 11 và 12 (2011-2016).   Riêng ba năm qua những cuộc tàn sát thanh toán lẫn nhau ngay trong „Tứ trụ“ đã bùng nổ dồn rập nhiều lần  vượt tới  cao điểm nhất. Tình hình này cho thấy, những người có quyền lực nhất giữa các phe nhóm lợi ích hiện nay theo đuổi mục tiêu cá nhân hoàn toàn mâu thuẫn đối kháng lẫn nhau.  Họ giữ thái độ và cách cư xử với nhau theo luật rừng xanh, kẻ mạnh giết kẻ yếu. Chính vì thế chế độ độc tài toàn trị đang rơi vào giai đoạn không còn thuốc nào có thể cứu chữa được nữa! Bộ chính trị khóa 13 gồm 18 người, nhưng nhiều người trong tứ trụ đã bị loại, một số vừa mới được bầu bất chấp Điều lệ đảng, nay chỉ còn 15 người. Trong số này Công an chiểm 6 ghế và Quân đội chiếm 4 ghế, mặc dầu trong thời bình. Như vậy thành phần chuyên viên chỉ còn thiểu số trong cơ quan đầu não,  nhưng Tô Lâm vẫn hùng hổ đưa ra khẩu hiệu „Kỉ nguyên vươn mình của dân tộc!“   . Thông báo Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | Tư liệu văn kiện Đảng; Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | Tư liệu văn kiện Đảng; Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | Tư liệu văn kiện Đảng . Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình - Báo Công an nhân dân điện tử] . https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ministry-of-public-security-budget-is-ten-times-of-the-ministry-of-health-and-the-ministry-of-education-08182023150520.html . Như 12 . ĐỔI MỚI TƯ DUY, PHƯƠNG THỨC LẬP PHÁP, XÓA BỎ ĐIỂM NGHẼN THỂ CHẾ KINH TẾ, TẠO ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC .Cùng tác giả, T. II, Chương chín, Kết quả thực tiễn trên 30 năm „Đổi mới“, 172-240) . Văn hóa Marx-Lenin còn kìm kẹp dân tộc ta bao lâu nữa ? (Âu Dương Thệ) - THÔNG LUẬN . Cùng tác giả, Chương chín: Kết quả thực tiễn trên 30 năm „đổi mới“ T.II, tr. 177-240 . Đầu tư của Tập đoàn Trump vào Hưng Yên sẽ là “đòn bẩy” để thúc đẩy Đối tác chiến lược toàn diện Việt – Mỹ? — Tiếng Việt Tập đoàn Trump được xác nhận là đối tác phát triển dự án sân golf và khách sạn trị giá 1,5 tỷ USD tại Hưng Yên — Tiếng Việt . Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với BCS Đảng Bộ Tư pháp nhân Ngày Pháp luật Việt Nam - Báo Công an Nhân dân điện tử . Như trên .Cận vệ của Chủ tịch nước Lương Cường bị bắt ở Chile vì cáo buộc … . Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi gặp mặt các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, các nhà khoa học nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 - Báo Công an nhân dân điện tử . Như trên . Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình . Ông Tô Lâm trình diễn nghệ thuật cân bằng "đu dây" …; Ông Tô Lâm tại Đại học Columbia: Ông đã nói gì? Đâu là điểm đáng chú ý? - BBC News Tiếng Việt . -Việt Nam khó xử khi đối mặt với kỷ nguyên Trump vì thặng dư thương mại với Mỹ — Tiếng Việt   . Thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam-Trung Quốc: Ổn định hơn, cân bằng hơn, bền vững hơn . TOÀN VĂN: TUYÊN BỐ CHUNG VIỆT NAM - TRUNG QUỐC, 14/10/2024 . THÔNG LUẬN - Tương lai lại tự chui vào rọ ! (thongluan-rdp.org) ;Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình hội đàm với Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng . Toàn văn phát biểu chính sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Đại học Columbia .Cùng tác giả, T. I, Chương bốn: Tam ca cùng ở lại tr. 158-236), Chương 5, lá bài Nông Dức Mạnh của Đỗ Mười (tr. 237-342), Chương bẩy: Trường kì chọi nhau rất tàn bạo giữa ông Tổng và ông Thủ, T.II, tr.9-121.   . Ông Vương Đình Huệ bị kỷ luật, ông Võ Văn Thưởng 'điều trị bệnh' - BBC News Tiếng Việt;  
......

Tự ti và hèn nhát

Xuân Sơn Võ   Hôm qua, nói chuyện với một anh bạn, thuộc nhóm elite thực sự hiện nay, đề cập đến chuyện tâm thế của người Việt Nam bây giờ. Anh em đều đồng ý, một trong những điều tệ hại nhất hiện nay là tâm lí tự ti của người Việt. Chúng ta có thể có những Edison, hay Elon Musk không? Tôi cho là có thể. Người Việt Nam khi được đặt vào một môi trường phù hợp, vẫn có thể phát triển ngang bằng người của các nước khác, cả trong khoa học, chính trị, hay các mặt xã hội. Thế nhưng tại sao người Việt lại vẫn chưa có những Edison hay Elon Musk? Chúng ta phải đặt ngược lại câu hỏi. Nếu Elon Musk sống và làm việc trên đất nước Việt Nam hiện nay, thì ông ấy có thể có những thành công như ông ấy đã có trên đất Mỹ hay không? Chắc chắn, 1000 người thì cả 1000 đều khẳng định là không thể. Tại sao không thể? Đó chính là câu trả lời cho câu hỏi: “Tại sao người Việt vẫn chưa có những Edison hay Elon Musk”? Nội cái chuyện, nếu bây giờ tôi đi sâu phân tích một cách trung thực tại sao, đưa ra các dẫn chứng thuyết phục… thì khả năng cao là tôi sẽ không còn được viết điều gì tiếp theo, cũng là một lí do cho câu trả lời “không thể”. Ngay cả đi tu, vô sở hữu, ăn đồ xin, ngủ nghĩa địa, tài sản chỉ có 3 y 1 bát, chẳng xâm phạm đến ai, còn không được, thì sáng chế, phát minh gì cho đặng. Làm sao để chúng ta có thể biến cái “không thể” thành cái “có thể”? Hầu hết chúng ta đang ngồi chờ, bắt từng tín hiệu, phân tích từng câu chữ, của ông này, bà nọ. Rồi chúng ta tranh luận với nhau, ông này dám nói, dám tuyên bố… Và tất cả cùng nhau ngồi chờ, khấp khởi hi vọng, mong ước cháy bỏng… xem ông ta làm gì. Tuyệt nhiên, chờ, chứ không ai làm gì hơn cả. Vậy thì, liệu có phải tâm lí tự ti của người Việt là điều tệ hại nhất hiện nay hay không? Hay sự hèn nhát mới là điều tệ hại nhất? Hay, sự hèn nhát là hệ quả của tâm lí tự ti? Hay ngược lại, tâm lí tự ti sinh ra từ sự hèn nhát?    
......

Chống lãng phí: Có chống được không? (8)

Nguyễn Thông   Trên báo Tin tức của Thông tấn xã Việt Nam hôm 13.01.2019, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trả lời phỏng vấn, nhấn mạnh rằng: "Những "ông quan" nói một đằng, làm một nẻo, kêu gọi người khác tiết kiệm trong khi bản thân xa hoa, lãng phí, chi dùng bằng tài sản, công quỹ nhà nước, bằng tiền thuế của dân, cờ bạc, tiệc tùng vô độ… Thì chẳng những không làm gương được, mà còn làm mất uy tín của Đảng, mất niềm tin trong nhân dân" (trích nguyên văn). Ông Trọng nói có đúng không? Đúng quá đi chứ, nếu xét về mặt lý luận. Một ông trùm lý luận chả nhẽ lại sai về... lý luận. Về mặt thực tiễn, chính ổng thực hiện thế nào, người nói mất rồi, tôi không nhắc nữa cũng bởi quan niệm "nghĩa tử là nghĩa tận", thôi, người ta đã chết, vặn vẹo làm gì. Tôi chỉ đề nghị các bề tôi của ổng nêu gương bằng hành động cụ thể. Không cần gợi ý xa xôi, chỉ xin các ông chống lãng phí trong việc dùng xe công. Thanh lý hóa giá hết những cái xe đắt tiền vài tỉ, thậm chí chục tỉ đi, dùng xe năm bảy trăm triệu đồng cũng ổn quá rồi. Tất cả những xe tỉ tỉ ấy đều là xe công, mua bằng tiền thuế của dân, quá xa hoa lãng phí. Ngự trên chiếc xe trị giá hàng trăm, thậm chí nghìn con trâu ấy, các ông không thể làm gương cho ai cả. Mất uy tín của đảng bao nhiêu, tôi không quan tâm, nhưng vụ xe cộ làm mất niềm tin trong dân thì quá nhiều rồi đấy, có khi nó (niềm tin) chỉ còn vài lạng. Hãy bắt chước những người cầm đầu ở nước ngoài, ví dụ Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Họ nêu gương chỉ xài hàng nội, đi xe do nội địa sản xuất, tuyệt đối không dùng hàng Đức, Mỹ, Pháp, Thụy Điển, Anh... dù xe của mấy nước này tốt hàng đầu thế giới (chỉ xe Nhật mới đọ được). Đội ngũ trong bộ máy cai trị Việt Nam, từ tứ trụ, trung ương trở xuống cấp tỉnh thành hãy xài xe Trường Hải, Vinfast của nước Việt đi, vừa tiết kiệm, vừa gương mẫu dùng hàng nội, "Người Việt dùng hàng Việt" (nói nhỏ, hai tập đoàn sản xuất xe hơi này, nếu đề xuất của tôi được thực hiện, phải trả công gợi ý của tôi đấy nhé). Nếu các ông to cho rằng xe nội không bảo đảm, không an toàn thì hãy công bố thế nào mới là an toàn, đảm bảo. Không gương mẫu dùng hàng nội, thì hãy dẹp ngay chương trình và khẩu hiệu "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" đi, bởi người lãnh đạo nói một đằng làm một nẻo, ai tin. Nhiều người chắc chưa quên quốc hội xứ này từng ồn lên bàn chuyện công xa. Một nước nghèo, luôn phải phát động phong trào "xóa đói giảm nghèo", trong nghị quyết của đảng và nhà nước còn có hẳn cụm từ "nghèo bền vững" (quái lạ đứa nào nghĩ ra từ điên khùng này). Nhưng quan chức thì coi... đảng bằng vung, xài ngân sách như ném tiền qua cửa sổ. Ngựa ngựa xe xe, vênh vênh váo váo chưa đủ, cứ phải hơn người mới thỏa lòng tham, thói sĩ. Ấy là vụ đô trưởng (Chủ tịch Ủy ban Hà Nội) Hoàng Văn Nghiên năm 2004 khiến thiên hạ ồn lên khi xài chiếc xe Lexus xịn trị giá 3.000 (ba nghìn) con trâu. Chỉ thị của đảng khi ấy quy định cỡ Nghiên chỉ được dùng xe giá tối đa 400 triệu đồng nhưng xe Nghiên hơn 4 tỉ đồng. Ba nghìn con trâu, chứ 30 nghìn con, tao cứ cưỡi đấy, làm gì được tao. Đảng cũng chả là quái gì. Báo chí cả quốc doanh lẫn dân doanh được phen cười thoải mái. Nhân nhắc tới Nghiên, lại nhớ vụ nhà công tại 12 Nguyễn Chế Nghĩa (quận Hoàn Kiếm). Y lúc đương chức được giao nhà này ở, nhưng khi mất chức, về hưu rồi vẫn cứ ở, lại còn đòi hóa giá, nhà nước đòi mãi không trả. Tới khi dư luận làm rát quá (chứ nhà nước chỉ rụt rè đòi) thì Nghiên kiếm chỗ khác nhưng cứ khóa cửa 12 Nguyễn Chế Nghĩa bỏ không đấy. Tao không trả, làm gì được tao. Đúng là lòng tham có gien, cứ phải tham đến hơi thở cuối cùng. Tới khi biệt thự hoang tàn "xiên ngang mặt đất rêu từng đám", "nền cũ lâu đài bóng tịch dương" thì nhà nước mới nhận về cục bê tông tàn tạ. Sự lãng phí rành rành trước mắt nhưng người chống lãng phí lờ đi không thấy. Ngược với Nghiên và rất nhiều quan chức cai trị xứ này, vẫn có những người "tuy là cán bộ, là đảng viên nhưng mà... tốt". Tôi từng kể ông bác ruột của chị dâu tôi, cụ Lê Quang Ngoạn, đại tá, Cục phó Cục Cảnh vệ thời thập niên 80. Cụ có tiêu chuẩn xe ô tô đưa rước nhưng dứt khoát từ chối, bảo rằng xe cộ xăng dầu để dùng vào những việc cần thiết hơn, cứ hằng ngày đạp xe đạp tới cơ quan. Trong sạch như vậy cho tới lúc chết. Chắc mọi người còn nhớ chuyện ông Phó chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận (ông là chồng người đàn bà lừng danh Võ Thị Thắng). Cũng như bác Ngoạn tôi, ông Thuận dứt khoát từ chối việc được tiêu chuẩn xe công, gồm: xe Camry xịn giá cỡ 2,5 tỉ đồng, tài xế riêng, xăng dầu thoải mái. Ông đề nghị nhà nước thực hiện chế độ khoán xe đối với cán bộ, cấp cho cục tiền, cứ thế mà dùng vào việc đi lại công tác. Tất nhiên nhà nước cấp trên không làm theo ý ông Thuận bởi họ tham hơn ông, thích phải "ngoài đường thì ngựa ngựa xe xe, về nhà thì vênh vênh váo váo", tiền thuế dân đóng góp tội gì không xài. Ông Thuận kêu xe ôm hoặc gọi taxi chở đi làm. Người ta cười ông, cho là dại, làm màu, ảnh hưởng tới quyền lợi của người khác, v.v... chỉ có bà Võ Thị Thắng hiền thê ủng hộ chồng. Ông chấp nhận là con quạ trắng giữa bầy quạ đen. Trong đám cởi truồng thì anh mặc quần bị biến thành trò cười. Nếu viết biên niên sử quốc hội, thì có lẽ đây là điểm sáng nhất. Con người viết hoa Trần Quốc Thuận, một mình chống lại mafia lãng phí. Và cũng nói thêm, thưa các ngài lãnh đạo cao cấp. Các ông hãy cứ đi loại xe "thường" giá dăm bảy tỉ, đừng chống đạn chống điếc, bọc thép bọc thiếc làm gì. Chả ai thèm lấy mạng các ông đâu. Dân ta vốn hiền lành, không thích bị coi là thế lực thù địch, các ông cứ yên tâm. Chỉ ngại các ông với nhau thôi. (Còn tiếp) NGUYỄN THÔNG  
......

NHÂN và QUẢ ở Hoa kì và Việt Nam khác nhau ở những điểm nào? (phần I & II)

Âu Dương Thệ Từ “America First” của Trump tới “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” của Tô Lâm: Những nhà độc tài lội ngược dòng lịch sử sẽ dẫn Hoa kì và Việt Nam đi về đâu? Mới vài tuần trước ba nhà khoa học kinh tế-chính trị D. Acemoglu, S. Johnson and J. A. Robinson đã được trao giải thưởng Nobel rất cao quí về kinh tế 14.10.24 Vì họ đã cùng tổng kết và chứng minh được rằng, "cách thức mà các thể chế hình thành và ảnh hưởng đến sự thịnh vượng". Nghĩa là các định chế chính trị-kinh tế một nước giữ quyết định then chốt để một nước vượt lên hưng thịnh dân chủ phát triển, hay đẩy  nước đó rơi vào chậm tiến, độc tài, bất công và tham nhũng. Nhận định khoa học này có thể diễn tả một cách hình tượng ví như NHÂN với QUẢ. Nếu chọn một NHÂN (hạt giống) tốt và biết chăm sóc tốt thì cây sẽ trổ hoa, kết trái thành những QUẢ ngon ngọt để mọi người cùng hưởng. Ngược lại nếu dùng NHÂN xấu hay đã hư thì chắc chắn không thể có QUẢ tốt,  chỉ có trái chua chát, thậm chí không ra trái! Vừa qua dù Hoa kỉ (HK) có định chế chính trị kinh tế dân chủ lâu đời, nhưng do một số khuyết điểm lớn của nhiều giới, đặc biệt của Tổng thống (TT) Biden trong chiến lược rút lui quá muộn và vài thành phần cử tri thiếu trình độ hiểu biết nên Trump đã thắng cử TT Hoa kì; mặc dầu ông là người theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, ca ngợi bạo lực, đã từng vi phạm nhiều tội hình sự và đạo đức nghiêm trọng. Nhưng Trump đang chuẩn bị đánh lừa lần nữa với khẩu hiệu  America First để thực hiện giấc mộng thành Trump First bất chấp định chế chính trị-kinh tế dân chủ HK! Liệu nhà độc tài, mất tư cách đạo đức có làm được không trong một xã hội theo định chế dân chủ? Còn tại VN từ vài tháng nay Tô Lâm đã lợi dụng tình thế để tổ chức cuộc đảo chánh đã được chuẩn bị âm thầm từ lâu. Để thực hiện giấc mơ nắm giữ Tổng bí thư (TBT) tiếp tại  Đại hội (ĐH) 14 vào đầu năm 2026 Tô Lâm đang gài vây cánh vào các chức  vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền, đồng thời tung  lên những khẩu hiệu  “khởi điểm mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, ”tự lực, tự cường, tự tin…”, nhưng ý đồ trước sau vẫn là giữ chế độ độc đảng làm bình phong với bộ máy công an trị để phục vụ quyền lợi ích kỉ cho cá nhân và phe nhóm Hưng Yên. Ý đồ nham hiểm và thiển cận này của Tô Lâm sẽ dẫn ĐCSVN và đất nước đi về đâu? Muốn trả lời những câu hỏi quan trọng này, cần phải biết rõ những đặc thù cá tính và tham vọng thầm kín của Trump  và Tô Lâm, đồng thời cần hiểu bối cảnh và tương quan thế giới hiện nay, nhất là những yếu tố liên quan trực tiếp tới HK và VN.   Phần I Thế giới đa cực, nguy hiểm từ mối đe dọa của chiến tranh nguyên tử và những hiểm họa thay đổi môi trường cho toàn thế giới, đặc biệt cả cho HK lẫn VN   Đặc điểm của tình hình thế giới hiện nay: Thế giới hai siêu cường HK-Liên xô (LX) của thời Chiến tranh lạnh đã chấm dứt từ sau khi LX sụp đổ trên ba thập niên. Nay thế giới đang sống trong thời kì đa cực trong chính trị, kinh tế, tài chính, quốc phòng và ngoại giao. Hiện nay cả ba cường quốc nguyên tử lớn nhất là HK, Nga và Trung quốc (TQ) không nước nào một mình đủ sức khuynh loát lẫn nhau và thế giới. Nga thời Putin đang sa lầy trong chiến tranh xâm lược ở Ukraine, đang bị bao vây trong kinh tế, tài chính và ngoại giao. Putin đang bước vào tuổi 72, sức khỏe ngày càng suy yếu. Tập Cận Bình ngày càng gặp khó khăn lớn trong kinh tế-tài chính và xã hội do áp dụng kinh tế quốc doanh, bùng nổ tham nhũng, bị tẩy chay và phong tỏa của HK, Liên minh Âu châu (EU). Tập Cận Bình lại nuôi tham vọng đến năm 2049 (kỉ niệm 100 năm ĐCSTQ ra đời) TQ trở thành siêu cường cả kinh tế lẫn quân sự và áp đặt chế độ XHCN kiểu TQ ra toàn thế giới. Nhưng nay cũng đã trên 71 tuổi và mặc dầu thiết lập chế độ công an trị, đàn áp nhân dân để ngăn ngừa „Cách mạng mầu“ và đang gặp phải chống đối của nhiều phe phái ngay trong ĐCSTQ. Còn Trump sắp nắm ghế TT lần thứ hai khi gần 80 tuổi, một người cực kì độc tài, ích kỉ, gia đình trị, vô đạo đức, thờ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhưng lại muốn thực hiện các chính sách độc tài trong một chế độ dân chủ có truyền thống ở HK. Cả ba nhà độc tài này tình cờ cùng thời gian đang nắm quyền ở ba cường quốc nguyên tử, đang nhắm mắt vùng vẫy như người lội ngược dòng, về mặt thể chất và trí tuệ họ đang ở trong tình trạng lực bất tòng tâm! Về mặt ý thức hệ, thế giới đa cực hiện nay đan xen giữa các chủ nghĩa dân tộc cực đoan của một số nước lớn và sự tập hợp  cùng thức tỉnh của nhiều khu vực và các chế độ dân chủ đa nguyên trước nguy cơ chiến tranh nguyên tử, thảm họa môi trường có thể hủy diệt thế giới. Bên cạnh các chủ nghĩa dân tộc cực đoan muốn thống trị khu vực và thế giới bằng áp chế kinh tế, thương mại, tài chánh, thậm chí cả bằng cả võ khí nguyên tử. Nhưng trong khi đó nhiều nước dân chủ, công nghiệp cao đã cùng nhau thành lập các liên minh chính trị, kính tế quốc phòng khu vực  và thế giới như EU, NATO, AUKUS (Úc, Anh, Mĩ), QUAD (Mĩ,  Ấn, Nhật, Úc) để gìn giữ hòa bình, ngăn chặn các chế độ độc tài. Tại một số nước dân chủ chính quyền, các chính đảng và cử tri đã tỉnh táo, can đảm ngăn cản hoặc chấm dứt những toan tính của các thế lực hữu cực đoan xuyên qua các cuộc bầu cử tự do, không để nắm được chính quyền gần đây như ở Pháp, Ba lan, Hòa lan và 3 tiểu bang ở Đức. Đứng trước hiểm họa khí hậu thay đổi cực mạnh, có thể gây ra thiên tai như lụt lội, hạn hán, cháy rừng trên toàn thế giới, gây nên mất mùa, hủy hoại sức khỏe, nạn đói, di cư, chiến tranh không từ một khu vực nào trên địa cầu. Như chúng ta đã thấy hay chứng kiến thảm trạng sóng thần Tsunamis 26.12.2004 ở Ấn độ dương đã giết hại trên 230.000 người, 110.000 người bị thương và 1,7 triệu dân ở  ven biển bi mất nhà cửa ở Thái lan, Nam dương, Ấn độ và Sri Lanka. Hay thảm họa môi trường 5 tỉnh miền Trung từ tháng 4.2016 do sự vô trách nhiệm của những người cầm đầu CSVN, như Nguyễn Phú Trọng khi ấy đã xác nhận „Trước kia chúng ta kêu gọi đầu tư nhưng không nghĩ đến vấn đề môi trường, không nghĩ đến đổ rác đi đâu, nên bây gờ chúng ta phải trả giá“. Tạo cơ hội cho công ti gang thép Formosa thả cửa phóng chất thải độc ra biển đã tàn phá nhiều tỉnh miền Trung 2016. Hay nhiều nơi ở Âu châu và HK mùa hè vừa qua nhiệt độ lên tới 40-45°C đã dẫn tới những nạn cháy rừng tàn phá khủng khiếp. Mới đây ở Phi luật Tân lần đầu tiên chỉ nội trong một tháng đã diễn ra 6 trận bão cực lớn, hàng triệu người bị mất nhà cửa,  hàng trăm người bị thiệt mạng. Hiện nay ngay tại VN đồng bằng Cửu long vựa thóc cả nước đáng đứng trước nguy cơ thủy triều càng cao, nước mặn tràn vào đồng ruộng. Mới đây thành phố Sài gòn đã báo động nguy cơ đất ngày càng lún, lụt lội càng gia tăng. „Tốc độ lún dao động từ 2-5 cm/năm. Đặc biệt, tại những khu vực tập trung các công trình thương mại, tốc độ sụt lún có thể lên tới 7-8 cm/năm.“ Trong khi đó Thủ tướng Phạm Minh Chính lại vừa để tiếp tục khai thác than đá để sản xuất điện, vì mùa hè vừa qua nạn thiếu điện trầm trọng thêm. Trong khi đó điện gió, điện mặt trời là năng lượng tái tạo giảm nguy cơ phá hủy môi trường và rất thích hợp với điều kiện thiên nhiên của VN, nhưng vẫn tiếp tục bị trở ngại, vì các tập đoàn than đá và dầu khí quốc doanh được các đại quan đỏ và các nhóm lợi ích bảo vệ và lũng đoạn.  Tất cả những thảm họa khí hậu môi trường đều do con người gây ra từ sử dụng dầu lửa, khí đốt, than đá, thải ra khí độc CO 2 từ  các nhà máy, xe hơi, phi cơ. Phần lớn xuất phát từ các nước công nghiệp lớn, một số chính quyền vẫn cố nhắm mắt. Do những nguy cơ trước mắt về biến đối khí hậu, nạn đói, di cư ồ ạt, chiến tranh ngày càng lớn và lan rộng. Nên nhiều tổ chức quốc tế và các dân tộc dân chủ tiến bộ càng thấy phải ngồi sát lại với nhau để sớm tìm ra giải pháp nhanh và hữu hiệu, nếu không thì nhân loại và quả địa cầu sẽ bị hủy diệt. Những chiều hướng dân chủ và nhân bản tiến bộ này được thúc đẩy mạnh mẽ và rất hiệu lực bởi các tiến bộ khoa học của thời đại mới,  như AI (trí tuệ nhân tạo), kỉ nguyên truyền thông  Internet cực nhanh và cực rộng. Mỗi quốc gia bất kể các định chế dân chủ hay độc tài trên thế giới - kể cả các cường quốc hạt nhân- đang cùng đứng trước thử thách và cơ hội cùng chết hay cùng sống, cùng tồn tại trong nhân nhượng và tôn trọng lẫn nhau, chống lại những chủ nghĩa dân tộc cực đoan! Trước nguy cơ cùng bị hủy diệt, nên văn hóa nhân bản và dân chủ đang  làm cho các nước và khu vực hiểu biết lẫn nhau và cần tới nhau rất thiết thực, mặc dầu một số nước lớn vẫn theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan!   Phần II Trump âm mưu chuyển từ America First sang Trump First   Giữa khi đó tân TT Trump lại ngang bướng không thèm nhìn nhận những nguy cơ từ môi trường, nên đang chuẩn bị chính sách trở lại tiếp tục khai thác khí đốt từ khí đá, nuôi ý định lại rút HK ra khỏi “Thỏa thuận Paris về khí hậu 22.4.2016” rút bỏ những viện trợ cho các nước nghèo thoát khỏi nguy cơ tàn phá mội trường. Trong ngoại giao và quốc phòng, Trump có chủ ý giám bớt tối đa vai trò của HK trong liên minh NATO,  giảm bớt tới chấm dứt viện trợ cho Ukraine để thả cửa nhà độc tài Putin chiếm lấy và từ đó có thể thực hiện tái lập đế quốc LX sang cả Đông Âu. Đây sẽ là mối đe dọa trực tiếp cho Thế chiến III. với sử dụng bom nguyên tử xuyên qua hỏa tiễn liên lục địa, đe dọa không chí cho Âu châu, Á châu mà ngay cả HK.   Những danh sách vừa được công bố về thành phần nội các tương lai từ nội trị, quốc phòng, ngoại giao, mật vụ, năng lượng, y tế, an ninh nội địa… cho thấy ông Trump chỉ chọn những người trung thành, nịnh hót ông, bất kế tới khả năng, chuyên viên và kinh nghiệm… Điều này hoàn toàn phản ảnh cá tính độc tài, đầu óc thiển cận, mù quáng chỉ thấy trước mà không thấy hậu quả theo sau. Đúng là tham vọng của Trump sau khi chiến thắng biến từ Amerika First thành Trump First!   Nhưng những tham vọng và chính sách độc tài của Trump trong thời gian tới liệu có đưa Make America Great Again  (MAGA) (làm cho Mĩ lớn mạnh tiếp tục), hay không khéo sẽ đẩy HK bị cô lập trên thế giới, mất các đồng minh tin cậy trên cả 5 châu! Ngay cả với đa số nhân dân Mĩ, lưỡng viện, báo chí, các tổ chức dân sự HK có cho phép Trump tung hoành  như ở vườn hoang?   Trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế, tài chính, ngoại giao và quốc phòng, liệu HK có thể rút lui, tự phong tỏa để sống một mình được không? Trong lịch sử HK cận đại, ngay cả những thời gian lưỡng viện thuộc đa số của một đảng, tùy theo vấn đề lớn hay nhỏ, nếu trực tiếp tới vận mệnh HK thì theo truyền thống, Quốc hội (QH) không nhắm mắt để TT toàn quyền quyết định. Theo truyền thống chính trị HK, khi đó các đại biểu QH thuộc đảng Dân chủ hay Cộng hòa trong Thượng viện và Hạ viện vẫn có quyền quyết định và bỏ phiếu theo lương tâm và sự hiểu biết của họ, bất chấp mệnh lệnh của TT.   Nên nắm vững, đã có những lần vài TT Mĩ tính áp dụng độc tài nhưng đã bị các cơ chế chính trị lưỡng viện dân chủ, tư pháp độc lập, nền báo chí tự do, hệ thống  Xã hội dân sự (XHDS) độc lập, đa ngành đa năng ngăn cản thành công và phá hủy ý đồ của TT. Những điều này chúng ta đã biết rõ trong nhiều giai đoạn ở HK. Cụ thể nhất là thời TT Nixon đến nỗi phải từ chức để tránh bị QH truất phế. Ngay cả trong nhiệm kì TT đầu của Trump (2017-21) ông đã gặp phải chống đối mạnh trong QH và ngay cả nhiều bộ trưởng và cố vấn…khiến cho chính quyền Trump trong nhiệm kì đầu đã bị tê liệt nhiều lần!   Các định chế chính trị dân chủ, các lực lượng chính trị-kinh tế và khuynh hướng văn hóa dân chủ của HK được xây dựng gần 250 năm, mặc dầu đã bị thử thách một số lần, nhưng sau mỗi lần bị khủng hoảng cả chính giới và cả hệ thống XHDS đã can đảm và sáng suốt sửa chữa những lỗi lầm và khuyết điểm để hoàn thiện chế độ dân chủ. Nhờ thế nền dân chủ HK vẫn tồn tại vững vàng. Những tham vọng cá nhân điên rồ của ông già độc tài Trump cũng không thể nào phá được siêu cường kinh tế và nền dân chủ HK.   Chiếm quyền tạm thời như kiểu Trump trong một  xã hội dân chủ có truyền thống ví như một người bị bệnh cúm trong mùa; hay một ngôi nhà bị cơn bão lớn làm tốc mái nhà nhưng nhờ nền tảng tốt nên vẫn đứng vững, nay phải tu sửa lại. Lịch sử HK đã trải qua một số lần thử thách lớn nhưng sau đó đã có những canh tân mới để lấy đà tiến lên trở lại.   Trong một chế độ dân chủ dù không ai muốn, nhưng cũng phải chấp nhận đôi khi có thể xẩy ra những rủi ro trong chính trị -như việc Trump vừa thắng cử- Nhưng đa số tin rằng, những giá trị cao quí và nhân bản của các định chế dân chủ đủ vững để có thể vượt qua những rủi ro này và mau chóng khôi phục lại sinh hoạt dân chủ truyền thống trong mọi lãnh vực của đất nước. Nó có thể so sánh với NHÂN và QUẢ. Nếu nhân tốt thì sẽ có quả ngon, ngọt để mọi người thưởng thức. Nhưng phải thừa nhận, nếu thời tiết bất thường hoặc các cây trái không được chăm sóc chu đáo thì có thể bị mất mùa! Cho nên phải biết luôn luôn tu sửa , kiên tâm một thời gian ngắn để có trái ngon ngọt trở lại. Hoạt động chính trị không như toán học hay các khoa học tự nhiên, không luôn luôn là đường thẳng, mà thường có những quanh co, gập gềnh!   Những sinh hoạt chính trị xôi động này không chỉ diễn ra ở HK, mà vẫn trải ra ở nhiều định chế dân chủ có truyền thống trên thế giới. Cho nên khi một người đứng đầu muốn lạm dụng quyền lực để tính thực thi những biện pháp độc tài thường bị các định chế ngăn cản, chống đối ngay cả ngay trong đảng cầm quyền. Lí do thực tế và đơn giản là, người cầm đầu hành pháp - theo qui định của hiến pháp- thường chỉ cầm quyền tối đa 2 nhiệm kì, nên họ không đủ thời gian và sức phá hủy định chế dân chủ đã có truyền thống được. Trong các xã hội Dân chủ Đa nguyên, các hoạt động chính trị dân chủ công khai, cạnh tranh luôn luôn sinh động, nên dân trí được nâng cao, thường xuyên có những sáng kiến mới, sửa chữa kịp thời những sai lầm khuyết điểm.   Trái lại trong các chế độ độc tài đảng trị hay cá nhân trị, là những xã hội kín, bưng bít. Ở đó những người cầm đầu lâu năm sẽ tự do lạm dụng quyền lực và tiền bạc, dễ dàng biến chế độ và toàn xã hội thành như sở hữu riêng cho cá nhân và phe nhóm. Tham nhũng bùng nổ, đàn áp công khai và đưa toàn xã hội vào chậm tiến, nghèo đói và bất công, nên trình độ dân trí rất thấp! Điển hình như ở LX trước đây, Nga hiện nay, TQ, Bắc Hàn và VN hiện nay! (Còn tiếp)   Ghi chú: . Giải Nobel Kinh tế được trao cho các nhà nghiên cứu về bất bình đẳng . Từ “America First” biến thành “Trump First”! | Tiếng Dân , Erdbeben im Indischen Ozean 2004 – Wikipedia . Âu Dương Thệ, Việt Nam "Đổi mới" ? ! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó! Tập II, tr. 213-227 . Lũ lụt tại Philippines: Bão liên tiếp khiến sông vỡ bờ, nhấn chìm hàng ngàn ngôi nhà. . Thành phố giàu nhất Việt Nam đối diện nguy cơ ‘chìm dần’, sụt lún đất nền có nơi đạt tốc độ 8cm/năm . Việt Nam sẽ cho chạy các nhà máy điện than với công suất cao … .Thỏa thuận Paris về khí hậu – Wikipedia tiếng Việt . Trumps Kabinettsliste ist fast komplett - und umstritten | tagesschau.de . Cùng tác giả: Thấy gì, nghĩ gì và làm gì từ cuộc bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ vừa qua? | Tiếng Dân; THÔNG LUẬN - Nửa thế kỉ nhìn lại
......

Đã đến lúc phá vỡ ảo tưởng “Lằn ranh đỏ” nguy hiểm của Nga

Chu Vĩnh Hải Trong khi phương Tây vẫn còn tê liệt vì lời đe dọa về "lằn ranh đỏ" của Putin, Nga đã leo thang tình hình vượt xa những gì các đồng minh của Ukraine lo sợ phải chứng kiến ​​đằng sau vẻ bề ngoài. Trong suốt cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, Điện Kremlin đã nhiều lần lừa dối cộng đồng quốc tế bằng những lằn ranh đỏ tự đặt ra. Những lời lẽ đe dọa, đặc biệt liên quan đến khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân của Nga, nhằm mục đích đe dọa các đồng minh của Ukraine để họ từ bỏ vũ khí phương Tây cần thiết để duy trì các nỗ lực phòng thủ của mình. Mối đe dọa về các lằn ranh đỏ là nước cờ mở đầu của Moscow trong cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine. Trong bài phát biểu trên truyền hình chỉ vài giờ trước khi quân đội Nga tiến vào Ukraine, Putin đã cảnh báo các quốc gia phương Tây ngừng hỗ trợ Kyiv, đe dọa "những hậu quả mà các người chưa từng thấy trong toàn bộ lịch sử của mình". Trong những tháng tiếp theo, giới chính trị Nga liên tục đưa ra lời đe dọa “lằn ranh đỏ”, cảnh báo cộng đồng quốc tế không nên ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Ukraine. Nếu bất kỳ quốc gia nào vượt qua ranh giới này, Moscow hứa rằng quốc gia đó sẽ chịu hậu quả nghiêm trọng. Bất chấp mối đe dọa, cộng đồng quốc tế đã ủng hộ Ukraine. Các quốc gia trên khắp Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Phi, Châu Á và Châu Đại Dương đã cung cấp hàng trăm tỷ viện trợ quốc phòng, nhân đạo, y tế và tài chính cho người Ukraine. Kể từ cuộc xâm lược toàn diện vào tháng 2 năm 2022, Hoa Kỳ đã cung cấp hơn 175 tỷ đô la viện trợ cho Ukraine, trong khi EU đã đóng góp hơn 200 tỷ đô la. Nhiều quốc gia khác, bao gồm Úc, Canada, Nhật Bản và Vương quốc Anh, đã cam kết hỗ trợ hàng tỷ đô la. Ngay cả các quốc gia hậu Xô Viết, thường chịu ảnh hưởng của Nga, đã vào cuộc và đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp viện trợ nhân đạo và y tế quan trọng cho Ukraine. Viện trợ nước ngoài vô cùng quý giá. Nó giúp chính phủ Ukraine chống lại cuộc xâm lược của Nga trong khi vẫn cung cấp hỗ trợ quan trọng cho người dân trong thời điểm họ cần. Tương tự như vậy, nó rất cần thiết để giúp Ukraine duy trì khả năng phục hồi trong suốt cuộc chiến. Nhờ sự hỗ trợ này, Ukraine đã đạt được một số thành công quan trọng trên chiến trường. Bất chấp cảnh báo của Nga, lực lượng Ukraine vẫn tiếp tục tấn công và phá vỡ cuộc tấn công của Nga. Sau khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu vào tháng 2 năm 2022, Ukraine đã phát động một cuộc phản công vào mùa xuân. Trong vòng vài tuần, lực lượng Ukraine đã bảo vệ thành công Kyiv khỏi cuộc tấn công của Nga và đẩy quân đội Nga ra khỏi miền trung và miền bắc Ukraine, giải phóng hàng chục thành phố và thị trấn. Nga lên án cộng đồng quốc tế vi phạm ranh giới đỏ của mình bằng cách cung cấp viện trợ cho Ukraine, nhưng những lời đe dọa này chẳng có tác dụng gì. Những thành công ban đầu trên chiến trường đã khuyến khích các đồng minh quốc tế tăng cường hỗ trợ cho Ukraine. Các đợt giao hàng mới bao gồm HIMARS, ATACMS, Xe tăng Abrams, Xe tăng Leopard, tên lửa tầm xa và các thiết bị phòng thủ bổ sung. Đáp lại, Điện Kremlin đã dùng đến chiến thuật thường thấy của mình, cáo buộc cộng đồng quốc tế vượt qua nhiều lằn ranh đỏ và đưa ra lời đe dọa leo thang hạt nhân. Tuy nhiên, bất chấp những lời đe dọa này, không có gì xảy ra. Cho đến nay, Nga chưa sử dụng bất kỳ vũ khí hạt nhân nào đối với Ukraine hoặc bất kỳ quốc gia nào cung cấp viện trợ quốc phòng, nhân đạo, y tế hoặc tài chính cho Kyiv. Một loạt các cuộc phản công có hậu quả đã giáng những đòn kỷ lục vào quân đội Nga. Kể từ tháng 2 năm 2022, quân đội Ukraine đã phá hủy khoảng 2/3 đội xe tăng trước cuộc xâm lược của Nga, tương đương khoảng 3.500 xe tăng. Vào năm 2024, các mối đe dọa "lằn ranh đỏ" của Nga đã tỏ ra vô ích khi Kyiv làm tê liệt một nửa Hạm đội Biển Đen của Nga—một thành tựu đáng chú ý đối với một quốc gia không có hải quân. Các lực lượng Ukraine cũng đẩy lùi những bước tiến mới của Nga ở đông bắc Ukraine, làm suy yếu thêm những nỗ lực tiến lên của Moscow. Cuối cùng, Ukraine đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào Tỉnh Kursk của Nga, chiếm giữ hơn 1.290 km2 (500 dặm vuông) lãnh thổ Nga, mà không hề có lời hứa trả đũa nào từ Điện Kremlin. Chiến dịch Kursk đã trở thành một trong những đòn giáng mạnh nhất vào nhân lực Nga trong những tháng gần đây, gây ra hơn 710.000 thương vong cho quân đội Nga chỉ trong hai năm rưỡi. Trong cả hai trường hợp, "lằn ranh đỏ" đều vô nghĩa, không ngăn được Điện Kremlin khỏi những tổn thất thảm khốc về cả thiết bị và nhân sự. Những lời đe dọa tỏ ra vô ích trong một lĩnh vực quan trọng khác, nơi chúng được nghe thấy nhiều nhất: ngăn chặn dòng cung cấp quân sự của phương Tây. Trong hai năm rưỡi qua, Tổng thống Nga Vladimir Putin và các quan chức cấp cao của Điện Kremlin đã nhiều lần chơi lá bài leo thang để chặn nguồn cung cấp vũ khí chiến lược của phương Tây cho Ukraine, bắt đầu bằng máy bay chiến đấu F-16. Trong khi Điện Kremlin chỉ trích việc viện trợ quốc tế cho Ukraine, thì chính Liên bang Nga vẫn tiếp tục vi phạm nhiều lằn ranh đỏ do luật pháp quốc tế đặt ra. Trong cuộc xâm lược toàn diện, quân đội Nga đã vi phạm hàng nghìn quyền con người, theo báo cáo của Liên hợp quốc, Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và các tổ chức nhân quyền nổi tiếng khác. Chính phủ Ukraine đã báo cáo rằng Nga đã phạm hơn 137.000 tội ác chiến tranh ở Ukraine, bao gồm bạo lực tình dục, tra tấn và hành quyết thường dân Ukraine không vũ trang. Liên Hợp Quốc đã ủng hộ những tuyên bố này, tuyên bố rằng việc tra tấn người Ukraine đã trở thành một "thực hành phổ biến". Các cuộc tấn công có chủ đích vào mục tiêu dân sự và tấn công bừa bãi vào các khu vực đông dân cư, cả hai đều được coi là hành vi vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế, đã trở thành đặc điểm của cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine. Kể từ tháng 2 năm 2024, lực lượng Nga đã nhắm mục tiêu vào nhiều trung tâm văn hóa, cơ sở giải trí, trường học, bệnh viện và địa điểm tôn giáo của Ukraine. Chỉ riêng trong tháng 5 năm 2024, các cuộc tấn công của Nga đã gây thiệt hại và phá hủy 110 cơ sở giáo dục và 35 cơ sở y tế, theo Liên Hợp Quốc. Ngoài những tội ác này, chính quyền Nga còn tiến hành trục xuất hàng loạt người Ukraine khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, thường xuyên chia cắt các gia đình và đưa trẻ em Ukraine vào Nga làm con nuôi bất hợp pháp. Tính đến tháng 11 năm 2024, chính quyền Ukraine đã xác nhận rằng Nga đã trục xuất bất hợp pháp 19.546 trẻ em Ukraine, mặc dù con số thực tế có thể cao hơn nhiều. Theo nghiên cứu từ Trường Y tế Công cộng thuộc Đại học Yale, nhà nước xâm lược đang áp dụng các chương trình cải tạo và quân sự hóa có hệ thống cho những đứa trẻ này nhằm mục đích xóa bỏ bản sắc Ukraine của chúng một cách cưỡng bức. Hơn nữa, Nga đã tiến hành chiến tranh sinh thái chống lại Ukraine. Việc phá hủy Đập Kakhovka vào tháng 6 năm 2023 đã làm ngập 620 kilômét vuông (240 dặm vuông) đất, bao gồm 80.000 ha khu vực được bảo vệ. Sau khi đập bị vỡ, hơn một triệu ha đất trở nên không sử dụng được, khiến giá lúa mì toàn cầu tăng 2,4%. Việc vũ khí hóa lương thực của Điện Kremlin không dừng lại ở đó. Sự chiếm đóng, khai thác mỏ và tấn công vào các cánh đồng lúa mì của Nga đã khiến gần 20% đất nông nghiệp của Ukraine không thể canh tác được . Là một trong những quốc gia sản xuất nông nghiệp lớn nhất thế giới, tổn thất của Ukraine đã gây chấn động thị trường toàn cầu, gây ra cuộc khủng hoảng lương thực ở các khu vực trên khắp Châu Phi, Trung Đông và Đông Nam Á - những khu vực là người tiêu dùng chính của xuất khẩu nông sản của Ukraine. Cuối cùng, Nga đã đe dọa an ninh hạt nhân trong khu vực, ngay cả khi họ đẩy mạnh "lằn ranh đỏ". Trong những tuần đầu của cuộc xâm lược toàn diện, quân đội Nga đã kiểm soát cơ sở hạt nhân lớn nhất châu Âu, Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia (ZNPP). Ngoài việc pháo kích nhà máy và bố trí vũ khí trên mặt đất, quân đội Nga đã can thiệp vào hồ nước làm mát được kết nối với nhà máy điện. Người đứng đầu Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) của Liên hợp quốc cũng báo cáo rằng lực lượng chiếm đóng đã đặt thuốc nổ xung quanh cơ sở. Theo Bộ Quốc phòng Ukraine, bán kính nổ từ một vụ nổ ZNPP tiềm tàng có thể lên tới 150 km (93 dặm), vượt xa tác động của thảm họa Chornobyl. Bất chấp cảnh báo từ Liên hợp quốc và nhiều tổ chức hạt nhân khác nhau, Nga vẫn từ chối giải tỏa cơ sở này, tạo ra rủi ro hạt nhân rõ ràng hơn nhiều so với các mối đe dọa "lằn ranh đỏ" vô căn cứ của nước này. Đã đến lúc chấm dứt sự chuyển hướng chiến lược của Nga Liên bang Nga và chế độ Putin hoạt động theo tiêu chuẩn kép. Trong khi Điện Kremlin liên tục phá hoại viện trợ quốc tế cho Ukraine, thì lời lẽ "lằn ranh đỏ" vô căn cứ của họ lại tìm cách đánh lạc hướng khỏi một sự thật rõ ràng: cả quốc phòng và hỗ trợ quốc tế của Ukraine đều hoàn toàn hợp pháp theo luật pháp quốc tế, mà Nga vẫn tiếp tục vi phạm. Cuộc xâm lược Ukraine của Nga vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó quy định rằng các thành viên phải kiềm chế "sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào". Quyền tự vệ của Ukraine được đảm bảo theo Điều 51 của Hiến chương Liên hợp quốc, mà cả Nga và Ukraine đều là bên ký kết. Bằng cách vi phạm toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, Nga cũng đã vi phạm Hiệp ước Helsinki năm 1975 và Bản ghi nhớ Budapest năm 1994, cả hai đều bao gồm các cam kết của Nga là không sử dụng vũ lực và tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của các bên ký kết — Ukraine là một trong số đó. Cộng đồng quốc tế phải kiên quyết thừa nhận sự thật rằng Nga là kẻ xâm lược duy nhất trong cuộc chiến này. Chúng ta phải tăng cường hỗ trợ cho Ukraine và bảo vệ quyết liệt trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, chỉ trích những lời đe dọa suông và hão huyền của Nga ở mọi ngã rẽ. Điện Kremlin đã vượt qua mọi ranh giới đỏ do luật pháp quốc tế đặt ra, chứng tỏ mình là thế lực duy nhất quyết tâm phá hoại hòa bình và an ninh toàn cầu. Nguồn bài viết: Nhà báo Mark Temnycky chuyên đưa tin về Đông Âu.
......

Ngày vinh danh

Xuân Sơn Võ Năm 1966, tôi vô lớp 1. Ngày 20/11 năm ấy, tôi đến trường chúc mừng các thầy cô. Các thầy cô hết sức bất ngờ, vì ngoài các thầy cô, thì hầu như tất cả học sinh và phụ huynh học sinh ở khu vực đó chưa ai biết đến ngày này. Kể từ đó, hàng năm, ngày Quốc tế hiến chương các nhà giáo được tổ chức trên miền Bắc, và từ năm 1975, ngày này được tổ chức trên cả nước. Có thể nói năm sau tổ chức lớn hơn năm trước. Càng về sau, càng có nhiều hình thức tri ân thiết thực hơn, màu mè hơn, tốn kém hơn. Những năm trước dịch, có lẽ một trong những ngày hoa được bán nhiều nhất trong năm là ngày 20/11. Một trong những ngày kẹt xe nhiều nhất trong năm trên đường phố của TP Hồ Chí Minh, cũng là ngày 20/11. Thế nhưng, tỉ lệ nghịch với cách tổ chức ngày càng rình rang, tốn kém, ngày càng màu mè, kèm theo cả sự thực dụng, là sự xuống cấp của giáo dục. Hồi tôi bắt đầu đi học, khi mà chẳng mấy người biết đến cái ngày Quốc tế Hiến chương các Nhà Giáo, thì lúc ấy, Thầy ra Thầy, trò ra trò. Chẳng cần ngày vinh danh nào, phụ huynh học sinh vẫn luôn tôn kính thầy cô. Ngay dưới mưa bom, đói khổ, thầy cô không bao giờ bỏ lớp. Còn bây giờ, khi mà ngày 20/11 nào cũng rình rang hoa, quà, phong bì… thì thầy hiếp dâm trò, trò đánh thầy, phụ huynh chửi mắng, nhục mạ thầy cô. Khi tôi tốt nghiệp tiến sĩ, chuyên ngành của tôi ở phía Nam chỉ có vài tiến sĩ. Mặc dù ra tư nhân, bản thân tôi không bao giờ muốn ai gọi mình là thầy, nhưng vì trách nhiệm với đàn em, với những người đi sau, tôi tham gia các Hội đồng, tham gia hướng dẫn. Đến một ngày, một em do tôi hướng dẫn xin trình luận văn. Luận văn của em ấy viết rất tệ, không thể nào chấp nhận được, ngay cả khi đó là một khóa luận tốt nghiệp đại học thông thường. Tôi yêu cầu em viết lại một số phần. Gần 1 năm sau, không thấy em ấy mang luận văn viết lại tới. Gọi cho em ấy nhiều lần không thấy trả lời. Tôi hỏi bộ môn. Bộ môn cho biết, em ấy đã trình và được thông qua luận văn. Còn tôi, thầy hướng dẫn của em ấy, thì được cho là bận đi nước ngoài nên không tham dự được. Tôi nghĩ, em này đã lừa cả trường và bộ môn. Sau đó, gặp một người trong Hội đồng chấm thi cho em ấy, tôi hỏi rằng sao cái luận văn tệ như vậy mà lại thông qua. Bạn ấy cho biết, rằng cậu kia là học trò của tôi, tôi đã chấp nhận cái luận văn ấy, có đơn gởi nhà trường xin phép vắng mặt. Tôi hiểu rằng, nếu có cái đơn đó được công bố trong buổi trình luận văn, thì chắc chắn cậu ấy không đơn độc. Bộ môn có thể gọi điện cho tôi xác nhận. Nhà trường, gần như tất cả đều biết tôi, đều có thể xác nhận trực tiếp từ tôi. Khi tôi bắt đầu chất vấn, thì được biết, có ai đó trên cao can thiệp vào. Sau đó ít lâu, trong một buổi ngồi Hội đồng khác, tôi gặp một cậu trông rất quen, có thể cùng khóa hoặc nhỏ hơn tôi một vài năm. Cậu ấy khen luận văn của tôi quá xuất sắc. Cậu ấy chép lại (cậu ấy dùng từ copy – past) nguyên văn cho luận văn của cậu ấy, và được đánh giá xuất sắc. Cả Hội đồng của cậu ấy không chê chỗ nào cả. Sau hôm đó, tôi suy nghĩ nhiều. Nếu mình im lặng và tiếp tục tham gia. Có thể vênh vang, khoe danh với thiên hạ, nhưng thực sự tôi trở thành đồng lõa với những kẻ phá hoại nền giáo dục. Đấu tranh thì thân cô thế cô, đấu không lại. Thôi thì ít nhất là giữ cho mình trong sạch, tôi lặng lẽ rút lui. Sau này, khi yêu cầu phải học lại chứng chỉ sư phạm (tôi đã có khi học tiến sĩ) mới được dạy, tôi đã không cập nhật. Câu chuyện ông “Tiến sĩ” Vương Tấn Việt và cách hành xử của các thầy cô trường Đại học Luật Hà Nội, là một minh chứng khác cho nền giáo dục, cho vai trò người thầy, người trò trong xã hội ta ngày nay. Giá như Thầy ra Thầy, trò ra trò, Giáo dục ra Giáo dục, thì cần gì những cái ngày vinh danh./.  
......

Tại sao Lương Cường lại bất ngờ chỉ trích TT Mỹ Donald Trump?

namviet's blog Chủ tịch nước Việt Nam Lương Cường mới đây bất ngờ lên tiếng, gián tiếp chỉ trích nhiệm kỳ cầm quyền sắp tới của ông Donald Trump rằng bảo hộ, chiến tranh thương mại chỉ dẫn đến suy thoái, nghèo đói. Điều đáng nói, là hệ thống truyền thông nhà nước CSVN đồng loạt đưa tin, thậm chí dẫn giải nội dung này của ông tân Thủ tướng CSVN, khi phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Doanh nghiệp APEC ở Peru hôm 14 Tháng Mười Một. Trong khi đó, cũng gần 1000 cơ quan báo chí, truyền hình của nhà nước Việt Nam hoàn toàn im lặng về câu chuyện cũng liên quan đến ông Lương Cường, là vụ bê bối của ông Lại Đắc Tuấn trong chuyến công du Chile vừa rồi. Câu hỏi dược đặt ra là vì sao ông Cường lại lên tiếng "gây hấn" với ông Donald Trump vào lúc này, mà câu chuyện "chiến tranh thương mại", được nhìn thấy rõ là vấn đề giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thậm chí, cuộc chiến đó là gay gắt, người hưởng lợi lại là Việt Nam? Ông Cường nhấn mạnh trong lúc phát biểu lại APEC, là “chỉ khi thương mại được thúc đẩy, được kết nối … thì mới có phát triển, mới có thịnh vượng”, và đối lập lại, “đóng cửa, bảo hộ, chiến tranh thương mại sẽ chỉ dẫn đến suy thoái, xung đột và nghèo đói”. Thậm chí, ông Cường còn nhắc khéo ông Trump về chuyện nên giữ gìn vị trí và nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong khi ông Trump trong nhiệm kỳ trước của mình, đã nhiều lần công kích, thậm chí đe dọa rút khỏi WTO. Dĩ nhiên, người dân trong nước nhìn vào những phát biểu của ông Cường, có thể thấy ông ta đang nói thay cho Bắc Kinh. Thậm chí không khác nào đang thách thức ông Trump khi ngồi vào Tòa Bạch Ốc, sẽ xét lại những thuận lợi của Việt Nam trong giao thương với Mỹ, ví dụ như chuyện đã Việt Nam hưởng lợi thặng dư lên đến 103 tỷ đô la trong trao đổi thương mại với Mỹ. Cần nhắc lại, Chủ tịch Lương Cường, người nhân lúc ông Tô Lâm đang công du Mỹ và Châu Âu hồi Tháng Chín 2024, đã bất thần chạy sang triều kiến Tập Cận Bình, nhằm kiếm sự ủng hộ cho việc giành phần quyền lực cho phía quân đội. Và đương nhiên sau đó, chức chủ tịch được trao cho Cường, nhưng đồng thời sự cân bằng này khởi động cho một cuộc hạ bệ lẫn nhau trong hậu cung Ba Đình. Cùng từ lúc Lương Cường lên nắm chức, lần đầu tiên trong quốc hội đã có lời phàn nàn so sánh việc tại sao số tướng công an ở trong nước lại áp đảo số tướng quân đội. Nói trước quốc hội, đại biểu Lữ Văn Hùng (đoàn Bạc Liêu) đòi phải nghiên cứu quy chế cấp quân hàm của chỉ huy trưởng quân sự thành phố. Ông Hùng nhấn mạnh là nếu giám đốc công an là thiếu tướng, thì chỉ huy trưởng quân sự cũng phải là thiếu tướng. “Tại sao công an là thiếu tướng mà quân đội là đại tá, anh cũng là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, tôi cũng là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy. Việc này cũng phải xem xét nghiên cứu để làm sao cho tương xứng” - ông Hùng nói. Đây là lần đầu tiên những lời bàn và mâu thuẫn lâu nay giữa ngành công an và quân đội được nói công khai trước quốc hội. Đại tướng Phan Văn Giang phải kềm chế ngôn ngữ bất bình của ông đại biểu Hùng, và chỉ giải thích rằng làm việc này “khó”. Ông Giang không nói rõ khó, là khó ở chỗ ngành công an đang nắm quyền đất nước và muốn có thế thượng phong, hay khó là chuyện nội bộ quân đội không chấp nhận chuyện lên chức nhiều như vậy – và nói thế, chẳng khác nào mỉa mai Tô Lâm. Trở lại câu chuyện ông Lại Đắc Tuấn ở Chile thì có nhiều nguồn tin cho biết rằng ông Tuấn chỉ là kẻ thế thân cho chủ, cho một câu chuyện lớn hơn nữa mà có thể ông Lương Cường sẽ bị hạ bệ, nếu không khéo thu xếp sớm. Theo một nguồn tin không thể kiểm chứng được, vụ ăn chơi ở khách sạn thuộc về một nhóm quan chức, Tuấn là người biết chuyện sau và đinh ninh là ở khách sạn này, đường dây gái mại dâm là nói mật khẩu mang nước lên (trên thực tế hàng khách sạn cho đoàn khách quốc tế như Sheraton đều có sẳn nhiều loại nước), và từ đó ông ta bị phản ứng bất ngờ do người đem nước chỉ là nhân viên phục vụ. Tuấn phải ra mặt chịu tội, và cam kết với chủ là không được hé môi nửa lời cho cuộc ăn chơi đó. Nhưng với Tô Lâm, bao nhiêu đó, đã là cơ hội vàng cho một kế hoạch lật đổ trong tương lai gần. Vì bởi mỗi chuyện ăn bò dát vàng bị lộ video, đã làm mất danh thế của ông ta suốt một chặng dài. Cho nên để lý giải về câu chuyện ông Lại Đắc Tuấn rùm beng cả thế giới nhưng báo chí Việt Nam hoàn toàn im lặng, bởi có lệnh từ cấp cao của chính phủ ra lệnh các báo không được đưa lại tin, cũng không được để lọt bất kỳ một bình luận nào trên báo. Chính Lương Cường cũng nhận ra những chân ghế của mình đang ngồi, lung lay bởi câu chuyện này. Và để xác định tấm lòng trung thành đối với Bắc Kinh, chỗ dựa cuối cùng và quan trọng của Lương Cường trong những ngày tháng tới, vị tân chủ tịch được Trung Quốc yểm trợ, đã phải gồng mình lên tiếng chỉ trích ông Donald Trump để chứng minh rằng mình vẫn là thành phần mà Bắc Kinh luôn có thể tin cậy được. Và việc Lương Cường cần phải chứng tỏ lòng trung thành cho thấy trong nội bộ của Hà Nội lúc này đang có những xôn xao bất lợi, mà Lương Cường phải cần lập tức chứng minh vị thế đã được sắp đặt của mình, đồng thời gõ cửa ông chủ Bắc Kinh. Nên nhớ trong cuộc tấn công và đánh đập ngư dân ở Hoàng Sa, mà Trung Quốc ngạo mạn nói rằng Việt Nam phải biết giáo dục lại công dân của mình, phía chủ tịch nước Lương Cường hoàn toàn im lặng và không có một thái độ gì phản đối Trung Quốc, và thậm chí là Thủ tướng Phạm Minh Chính, người được coi là đang ngầm bắt tay với Lương Cường, cũng không nhắc gì đến số phận ngư dân trong chuyến đi làm việc với Trung Quốc đầu tháng Mười Một 2024.  
......

Chống lãng phí: Có chống được không? (kỳ 7)

Nguyễn Thông Vụ xe công lãng phí bấy lâu nay luôn gây xôn xao dư luận. Người dân bất bình bởi tất cả những thứ của công đều được mua sắm bằng tiền thuế do họ đóng góp, sử dụng lãng phí có khác gì chà đạp lên mồ hôi, công sức dân. Lâu nay nhà cầm quyền xứ này luôn tự ý bày đặt ra những quy định và bắt mọi người phải thừa nhận, tuân theo. Họ lúc nào cũng cho rằng mình là đúng, kể cả cái sai cũng... đúng. Ai phản đối thì bị quy chụp vi phạm pháp luật. Pháp luật trong tay họ trở thành thứ công cụ riêng để trấn áp những người không đồng tình, ủng hộ họ, vạch ra sai trái của họ. Ở xứ này, pháp luật không phải công lý, không phải để vì mọi người. Nó chỉ phục vụ cho thiểu số. Chính vì vậy, cái quyết định về xe công số 32/2015/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 4.8.2015, theo tôi, cũng là sự áp đặt chủ quan như vậy. Hãy đọc điều 3, chương 2: "Các chức danh được sử dụng thường xuyên một xe ô tô, kể cả sau khi đã nghỉ công tác, không quy định mức giá cụ thể: 1. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 2. Chủ tịch nước. 3. Thủ tướng Chính phủ. 4. Chủ tịch Quốc hội". bạn sẽ thấy cực kỳ vô lý. Những vị trong tứ trụ nói trên, nếu đương nhiệm, có ngồi xe nghìn ngựa kéo để đi làm công vụ, chả mấy ai thắc mắc. Nhưng nghỉ rồi, về hưu rồi, chấm dứt công việc để ở nhà quấn quít với vợ con, cháu chắt, vui thú điền viên, quanh ra quẩn vào nhà trên dưới bếp... thì sử dụng xe công làm gì. Để giải quyết khâu oai chăng, để cho mọi người biết sự "vang bóng một thời" chăng, để "tiếp tục phục vụ đảng, nhà nước và nhân dân đến hơi thở cuối cùng" chăng? Nếu vẫn muốn ngồi xe công, dùng xe công, xin mời các vị ra chấp chính, ngồi vào ghế nóng, đổ mồ hôi sôi nước mắt với mọi người, chứ không phải mỗi năm vài ba lần ghé vào hội nghị, lễ lạt này nọ làm long trọng viên. Dùng xe công như thế thì phải biết ngượng. Ngượng với dân chúng cần lao, và ngượng với chính mình. Khi các "nhà" ấy tại vị, nhà nước đã trả lương rất cao (hệ số cao nhất so với cả nước), có nhiều bổng lộc, đãi ngộ, nhìn chung không thiếu thứ gì. Công sức, trí tuệ họ bỏ ra đã được đền đáp hưởng thụ xứng đáng (chứ không xứng thì đã kêu ầm lên rồi). Khi tuổi cao, sức yếu, lực bất tòng tâm phải về nghỉ, họ cũng được bộ máy cầm quyền ban phát, có chế độ riêng, được săn sóc chu đáo, gần như chỉ từ hài lòng trở lên. Xã hội đã có trước có sau, không phụ bạc người đóng góp, nhưng đừng thấy vậy mà làm quá, đòi hỏi quá đáng, giải quyết quá đáng. Đạo đức xứ ta là "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", cha truyền dạy con, con dạy cháu, cháu truyền chút chít, cứ thế mãi... Tôi viết mấy chữ này không nhằm phản bác lại tín điều đạo đức tốt đẹp ấy, mà chỉ muốn ai đó đừng lợi dụng nó, làm nó méo mó đi. Hãy nhìn ra những xứ văn minh, dù là tổng thống, sau khi rời ghế cũng không hà lạm thứ gì của công, cái nhà cái xe chiếc bàn chiếc ghế đều trả tất, tự mình về lo cuộc sống của mình. Đó là thứ tự do cao quý, đồng thời cũng là thực hiện chính sách công bằng, liêm chính, nêu gương trong sạch. Làm thì hưởng, không làm thì thôi. Lương hưu được trả bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, không xé rào đòi thêm thứ phụ lệ khác. Bác sĩ, tài xế, vệ sĩ, thư ký, đầu bếp... về rồi thì tự bỏ tiền túi riêng ra mà thuê. Muốn vênh vang, tùy theo túi tiền, và tự biết sỉ nhục khi bòn rút tiền công quỹ. Tôi không phản đối việc đãi ngộ đặc biệt với người có công lớn (còn lớn với gì thì tùy cách nghĩ). Một bà mẹ VN anh hùng có nhiều con hy sinh cho đất nước thậm chí còn cần được đãi ngộ gấp 10 lần so với bà chủ tịch quốc hội về hưu. Nhưng các quan chức cấp cao về ẩn thân rồi, giã từ vũ khí rồi, xa chính trường rồi, lương hưu cao ngất rồi, con cháu đã kịp được sắp xếp làm ông nọ bà kia rồi... tại sao lại cứ phải cho họ hưởng những phí tổn mà lẽ ra chỉ dành cho người đương nhiệm. Hãy để cho họ được làm người bình thường như mọi người, đừng cô lập họ cho tới lúc chết (bệnh viện riêng, nhà tang lễ riêng, nghĩa trang riêng). Còn nếu họ không muốn về với đời thường thì hãy để con cháu họ lo cho họ, chứ nhà nước của dân đừng bao cấp mãi. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Hãy dẹp cái điều 3 chương 2 của nghị quyết 32 kia đi, đem những chiếc xe công ấy (trị giá hàng tỉ đồng mỗi chiếc) về phục vụ đúng đối tượng, đỡ được phần nào gánh nặng trên đôi vai gầy của dân. (còn tiếp) Nguyễn Thông Kỳ 1 - 6: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0FWpEJ7qxBq3Q88jo58iMvQKwUiwxS68D6FC9iVqEuxYKYtCrS2YbJWCQFa3mWhbAl&id=100024722048900  
......

Chống lãng phí: Có chống được không? (kỳ 4&5&6)

Nguyễn Thông Tiếp nữa là Hội phụ nữ. Thế tôi lại hỏi các ông các bà, đàn ông có hội riêng không mà cứ phải lập riêng hội phụ nữ. Ra cái vẻ tôn trọng phụ nữ, đề cao phụ nữ. Cứ để bình thường thì mới thực là tôn trọng, chứ đã ưu tiên, đặc cách, chẳng qua chỉ là sự bố thí, xót xa, thương hại, mủi lòng. Mà nó cũng chả làm được trò quái gì ngoài việc lâu lâu múa may nhận tiền 8.3 hoặc 20.10. Hãy coi xem, khi bộ giáo dục ra cái dự thảo về sinh viên bán dâm, nó dám mở mồm lên tiếng được nửa nhời, thì tôi chớ kể. Khi cô gái ở chung cư tại thành phố Thuận An tỉnh Bình Dương bị nhà chức việc phá cửa phòng vào tận nhà túm điệu đi ngoáy mũi trong cơn dịch Covid, không hề thấy hội phụ nữ lên tiếng. Cho tới lúc này, nó vẫn câm nín chả bảo vệ gì được chị em đàn bà của nó. Để chỉ tốn cơm dân nuôi. Dẹp. Đoàn thanh niên, công đoàn, hội nông dân, hội nghệ sĩ, hội nhà báo… đại loại đều thế cả. Xuân thu nhị kỳ chỉ thấy họp hành, bầu bán, cử người, chọn ghế, chứ cái đối tượng mà nó đại diện chẳng được nhờ vả gì. Đoàn thanh niên chẳng hạn, nếu có chăng, chỉ đảng được lợi, bởi đảng sinh ra nó để làm “cánh tay phải”, làm nguồn cung cấp lực lượng kế tiếp. Mà cũng lạ, chỉ nhắm tới mỗi đối tượng người trẻ (thanh niên), họ đẻ ra cả hội liên hiệp thanh niên lẫn đoàn thanh niên, có từ cấp trung ương tới địa phương cơ sở. Tốn kém ư, bày vẽ ư, dẫm chân lên nhau ư, kệ, cứ phải nhiều cho hoành tráng. Tôi đã từng tòng sự một tờ báo thuộc đám đoàn hội ấy, nhiều lúc cứ ngơ ngác tự hỏi vậy thì cơ quan đơn vị mình trực thuộc đứa nào. Có lần hỏi tổng biên tập, ổng bảo thuộc tất, cả đoàn lẫn hội, bởi thực ra chúng chỉ là một. Mấy thứ đoàn hội ấy, nói chính xác, là sản phẩm của khối cộng sản, chủ nghĩa xã hội khi xưa. Liên Xô có cái gì, đàn em bắt chước thứ ấy. Khối XHCN tan rã, chúng bị chết theo hoặc tồn tại vật vờ ở vài nước "kiên định", chỉ làm vướng víu con đường đi lên của nhân dân, dân tộc. Sản phẩm nhất thời, lạc hậu, hết giá trị, thậm chí gây tốn kém, trở ngại, không mạnh dạn bỏ đi thì để làm gì cho tốn tiền nuôi. Những hội đoàn, tổ chức xã hội vẫn cho tồn tại nhưng phải tự lo tài chính, không thể nuôi báo cô mãi được. Đừng lấy cớ đó là hệ thống chính trị mà tồn tại hoa lá cành. Thôi thì đảng cầm quyền đã đi một nhẽ, chứ đúng ra đảng cũng phải "độc lập TỰ LO hạnh phúc" như những nước dân chủ văn minh. Nước họ có đầy đảng, đảng nào cầm quyền cũng được, nhưng dân không phải nuôi, không tồn tại nhà nước "lưỡng đầu chế", song trùng, thậm chí tam tứ trùng như xứ này. Còn lại mấy cái đoàn hội nếu không giải tán được thì cũng để chúng tự lo, đừng bắt dân gánh mãi. Hãy dành số tiền khủng lâu nay nuôi mấy thứ trang trí ấy chi cho quốc phòng, nuôi lính, đảm bảo tốt cuộc sống và thân nhân của người lính, nhất là những người ngày đêm giữ biển đảo; nâng cao đời sống nhân dân, nhất là những người nghèo, vùng sâu vùng xa. Họ có vững vàng thì mới có sức mạnh chống ngoại xâm, kiến thiết đất nước, thúc đẩy sự phát triển, đem lại ấm no hạnh phúc cho dân. Nói chung, mọi dạng đoàn thể, kể cả đảng, cứ việc hoạt động thoải mái, chỉ có điều tự lo chi phí hoạt động, đừng xà xẻo tiền thuế của dân, bắt dân phải nuôi. Còn không chịu được thì nên dẹp.  Chống lãng phí: Có chống được không? (kỳ 5) Điều thứ nhì, rất quan trọng trong công cuộc “chống lãng phí” là dẹp bệnh hình thức. Không thấy ông Tô Lâm nhắc tới. Dân và doanh nghiệp làm ra tiền, nhà nước bán tài nguyên ra tiền, đem giao tiền ấy vào tay mấy ông miệng nói tiết kiệm, tay vung phung phí, khác nào gửi trứng cho ác. Ở một nước còn nghèo, ngân sách eo hẹp cạn kiệt, phần lớn dân chúng dạng thu nhập thấp như xứ ta, thì tiết kiệm được đồng nào hay đồng ấy. Quan chức nhà nước, bộ máy nhà nước phải làm gương tiết kiệm để trước hết không lãng phí ngân sách, thứ hai là để dân noi theo. Bớt ngay, bớt triệt để tình trạng khẩu hiệu cờ quạt hoa hoét tràn lan. Đừng dẫm vào vết "Lọng cắm rợp trời quan sứ đến/Váy lê quét đất mụ đầm ra" như hồi xưa nữa, chướng mắt lắm. Băng rôn, cờ xí khẩu hiệu chăng đầy đường. Tôi hỏi các ông, có khi nào các ông vừa chạy xe vừa đọc nội dung những câu khẩu hiệu chăng ngang đường không. Loạng quạng, ngã bỏ mẹ. Tôi từng thấy một câu khẩu hiệu chăng ngang đường ở quận 8 (Sài Gòn), tò mò dừng xe lại đếm được 68 chữ, nhỏ lít nhít, nội dung hô hào dân chúng tiết kiệm. Chuyện như đùa. Tôi muốn hỏi ban tuyên giáo, ai đọc, chả hạn các ông đi qua đó có nghển cổ lên đọc xong rồi mới đi tiếp không? Đó là chưa nói phố phường sặc sỡ trông như cái sân khấu, đẹp đâu chẳng thấy, chỉ thấy nhức mắt, mất vẻ mỹ quan. Tôi nhớ một người bạn tôi, anh Nguyễn Thế Khải (sếp công ty du lịch Hoàn Mỹ nổi tiếng) đi nước ngoài như đi chợ, từng đến trăm mấy chục nước, sinh thời (anh mất do dịch Covid năm 2021) có lần kể tôi nghe, rằng hầu như những nước anh đến, nhất là Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Canada khắp phố phường gần như không có cờ quạt, băng rôn, khẩu hiệu; chạy xe trên xa lộ cao tốc hàng nghìn cây số bói không ra câu khẩu hiệu, mà chỉ có những biển chỉ dẫn, chỉ đường. Có một dạo, hơn chục năm trước, để dẹp bệnh hình thức, tránh tốn kém phiền phức, hoa hòe hoa sói, ông Nguyễn Phú Trọng khi mới nhậm chức tổng bí thư yêu cầu trong những cuộc đi thăm và làm việc của ông, nơi ông đến, nơi ông làm việc không được căng băng rôn khẩu hiệu, không đón rước cờ quạt, không hoa hoét. Ông Trọng cũng đề nghị các đồng chí của ông làm như vậy. Sự gương mẫu của ngài tổng diễn ra được một thời gian ngắn, rồi hình như chính ông cũng chán, cũng quên, mà cũng chẳng thấy đồng chí nào ủng hộ, làm theo. Vẫn băng rôn cờ phướn rợp trời, đón rước linh đình. Rất nhiều lần coi tivi tôi thấy ông Trọng tiếp khách, trong phòng tiếp vẫn trên giời dưới hoa, khiếp. Đừng bảo nghi lễ quốc gia, quan hệ quốc tế, sự mến khách, hoặc tạo đầu ra cho người trồng hoa, v.v.. thì phải vậy. Nói thẳng là đốt tiền, còn người trồng hoa "không mợ thì chợ vẫn đông", lo gì đầu ra cho sản phẩm mà cứ phải đốt vào trò hình thức lòe loẹt. Cứ coi nơi quan chức đảng, nhà nước tiếp khách mà xem. Hoa hoét xanh đỏ tím vàng bày ngập tràn từ trên xuống dưới. Dường như cái bệnh hình thức lòe loẹt đã ăn thâm căn cố đế vào máu của họ rồi. Chả biết những vị khách nước ngoài được họ tiếp có sung sướng không hay lại cười thầm, chê cái thói trưởng giả học làm sang. Nước người ta có tiếp tổng thống hoặc thủ tướng chả có món hoa hòe hoa sói thâm căn cố đế kiểu xứ này. Tôi nhận thấy, khi tiếp khách, dù là quốc khách, rất giản dị. Chính tivi ta phát chứ không phải thế lực thù địch dựng chuyện để so sánh nói xấu ta. Chỉ cái bàn với mấy cái ghế bình thường, ngồi trao đổi đại sự, cấm có hoa hoét cờ xí gì. Chả nhẽ cứ phải cờ đèn kèn trống hoa hoét cho nhiều thì mới là lịch sự, trang trọng hiếu khách? Xem những tấm ảnh, đoạn phim về nguyên thủ, lãnh đạo xứ người tiếp khách mà thấy ngược hẳn với mình. Còn nơi đâu giàu như Mỹ như Nhật, Na Uy, Thụy Điển, vậy mà cái bàn cái ghế cũng hết sức giản dị bình thường, chả cần hoa này bông nọ. Họ cốt ở cái thực chất, đâu màng tới phù hoa giả tạo. Cái tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Hội chợ phù hoa" của nhà văn người Anh William Thackeray nhẽ ra phải dành cho xứ An Nam này. Nước nghèo, dân đói, nhưng sự xa hoa có thừa. Tôi không cực đoan đến mức xem thường bộ mặt quốc gia. Tiếp khách, nghi lễ, hội hè kỷ niệm, họp hành, tất nhiên cũng phải đạt sự đàng hoàng, long trọng nhất định. Còn quan trên trông xuống người ta trông vào nữa chứ. Nhưng các nhà cai trị xứ ta mắc cái bệnh thích ném tiền qua cửa sổ. Nói một đằng làm một nẻo. Miệng xoen xoét hô hào tiết kiệm, "tiết kiệm là quốc sách" nhưng xài tiền thì vô tội vạ. Ông nào cũng đòi nhà to sở đẹp, xe sang tiền tỉ, đến cái ghế ngồi cũng phải nhung lụa, phượng múa rồng bay. Hơn cả hoàng đế Trung Hoa. Năm nao cũng vận động học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sơ kết, tổng kết, tìm gương điển hình, nhưng chính các ông bà ấy lại khăng khăng không học cụ. Cụ là điển hình về tiết kiệm, giản dị, không bày vẽ, từ căn nhà ở, chỗ ăn chỗ ngủ, nơi làm việc, cái ghế ngồi… Còn con cháu cụ bây giờ cứ làm ngược lại. Vậy thì học cụ ở chỗ nào?  Chống lãng phí: Có chống được không? (kỳ 6) Một nước luôn phải lo đối phó với kẻ ngoại bang xâm lược, phải chuẩn bị đối phó chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào bởi dã tâm của "bạn" lộ rất rõ, mà biện pháp cây tre chỉ mang tính nhất thời, phập phù, thì việc tăng cường quân đội, trang bị vũ khí, chi phí tối đa cho quốc phòng để bảo vệ đất nước là cần thiết. Để có tiền làm điều đó, đừng chỉ nghĩ đến chuyện tăng thêm các sắc thuế, tận thu nguồn lực từ dân chúng, doanh nghiệp, bán tài nguyên cạn kiệt... mà còn phải giảm bớt triệt để những chi phí lãng phí, vô bổ, chặn đứng tình trạng tiền nghìn tỉ lọt vào túi bọn tham nhũng, tiêu xài hoang phí. Điều cần làm ngay là siết lại chi phí cho bộ máy cầm quyền đang quá rườm rà, quá to nhưng ít hiệu quả. Hệ thống lưỡng đầu chế thời Lê - Trịnh ít ra còn có hiệu quả, chứ kiểu song trùng, tam trùng, tứ trùng thời nay rõ ràng là thứ gánh nặng cho dân, cho đất nước. Đảng có thể nhận tất quyền lãnh đạo và thực hiện, chứ kiểu chia mâm bát, ghế này ban nọ tồn tại song song với chính quyền thì dân nào gánh nổi bộ máy hoành tráng cồng kềnh ấy. Ai cũng có thể nhận ra sự tồn tại dẫm đạp lên nhau đó ở mọi cấp, mọi lĩnh vực. Có trung ương đảng bên cạnh nhà nước/chính phủ/quốc hội; có ban tuyên giáo bên bộ thông tin/bộ giáo dục; có ban kinh tế bên các bộ về kinh tế; ban đối ngoại bên bộ ngoại giao; ban nội chính và ủy ban kiểm tra trung ương bên bộ công an, viện kiểm sát, tòa án; ban tổ chức trong khi đã có bộ nội vụ; ban dân vận trong khi đã có bộ lao động-xã hội... Mà phải nói rằng bộ máy, nhân sự của các ban chả thua kém gì bộ máy của hành pháp, thậm chí còn khủng hơn, hoành tráng hơn, trụ sở bề thế hơn, chi phí tốn kém hơn, và dĩ nhiên quyền to hơn. Trung ương thế nào thì các cấp địa phương đều vậy. Cấp ủy, ủy ban, hội đồng nhân dân, mặt trận, hội đoàn... đều cùng tồn tại, từ tỉnh/thành tới tận xã. Không chỉ ăn vào ngân sách, còn chiếm bao trụ sở, nhà to cửa rộng, xe cộ xăng dầu, người phục vụ. Tiền đâu chịu nổi. Điều này ai cũng thấy. Cần cắt phăng, giảm ngay những cán bộ (từ trên xuống dưới) của đủ mọi ban bệ, ngành, tổ chức chỉ đủng đỉnh hằng tháng lĩnh lương, hội hè đàn đúm, họp hành liên miên mà không làm được bao nhiêu cho dân cho nước, cho xã hội. Loại này, theo tôi, chiếm đến 1/3 trong bộ máy cai trị từ trung ương xuống địa phương. Để có cán bộ tất nhiên có lựa chọn và bầu cử. Nhưng bầu bán ở xứ nay bao năm nay rất hình thức, vẽ vời. Đảng cầm quyền, lãnh đạo, chỉ đạo, quyết định mọi việc, nhất là về nhân sự. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành trung ương, Đại hội toàn quốc đã thông qua, đã quyết rồi, ai làm gì, ai ghế nào… thì cứ thế mà thực hiện. Tại sao lại còn bầu bán? Đã có cuộc bầu nào dám trái ý đảng chưa. Chưa. Đừng lấy lý do làm thế để thực hiện dân chủ, đúng quy trình. Cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao, đã được chọn rồi, chắc như đinh đóng cột rồi, thì dân chủ, quy trình cũng là thừa, bệnh hình thức, gây "lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân" (lời cụ Hồ). (còn tiếp) Nguyễn Thông Kỳ 1 - 5: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02duKUKyGQC6qDP1gEym4w7SteAjTwgASTVobyNMpwXG2rGB8Umv5Cd8CnpbeCK4yKl&id=100024722048900  
......

Ai tội phạm ai phạm tội?

Nguyen Khan   Chuyện xưa. Kinh thánh Tân ước kể câu chuyện một người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Theo luật Do Thái, người phụ nữ này sẽ bị ném đá cho đến khi đăng xuất. Nhưng theo đạo Chúa Giê Su thì… Phải yêu thương và tha thứ… Đó là lý do một số chức sắc Do Thái giáo đem người phụ nữ này đến gặp Chúa Giê Su, và nói : - Người phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môi Sen (cô ấy) phải bị ném đá đăng xuất. Theo ông thì nên xử lý cô ta thế nào ? Mục đích của đám chức sắc này muốn gài Chúa Giê Su phạm tội chống lại luật Do Thái. Vì biết chắc đạo Tỉnh yêu của Chúa sẽ không ném đá. Chúa Giê Su không trả lời, ngồi vẽ vu vơ trên đất. Các chức sắc sốt ruột thúc giục : - Ông trả lời đi… Chúa Giê Su nhìn sâu vào mắt từng ông, nói : - Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi. Các chức sắc lúng túng, lần lượt rút êm… Chuyện nay. Hành giả Thích Minh Tuệ bị một số người đem ra “ném đá” với tội danh là thằng ba trợn, là thằng cu tuệ… Tiếc rằng một thượng tọa thuộc hàng tiếng tăm, với pháp danh đình đám Thích Cúng dường, thay vì tự vấn mình cũng chỉ là con người, “khó sạch tội”, nên tốt nhất là rút êm không ném đá để khỏi bị đá ném. Ông thượng tọa này lại tự huyễn hoặc mình đức cao vọng trọng, hăng hái ném đá thẳng tay “thằng hành giả ba trợn”… Để giờ đây lãnh trọn quả báo, bị đá ném… Mất tất cả ! Một nữ hoàng kim cương nổi tiếng trên mạng xã hội, có hàng triệu người theo dõi, mến mộ. Không hiểu có bị động mồ động mả ? Bỗng dưng ném đá dữ dội “thằng cu Tuệ”, để giờ đây đang chịu quả báo đá ném… Bởi cái “thằng ba trợn”… Cái thằng “cu Tuệ”, đang tu tập cuộc sống khắc khổ theo 13 hạnh Đầu Đà, không có bộ đồ nên thân, ăn ngày một bữa cơm xin, ngủ bụi bờ, không nhà cửa, không chùa chiềng, không tiền bạc, không danh vọng, không phẩm hàm, không gây gổ, không tranh đoạt, không đụng chạm đến ai… Cuộc sống đang tiến dần về vô vi… Thì ném đá làm sao trúng cho được. Vậy mà có người cứ cố ném đá vào hư không, không te tua mới lạ ?    
......

Bà Hoàng Thị Minh Hồ: Việt Minh nó bạc lắm

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến   Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … vong gia thất thổ!   Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều đều, còn “nửa sự thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua bài viết (“Người Đàn Bà Tặng Hơn 5.000 “Lượng Vàng Cho Cách Mạng”) của nhà báo Hoàng Thùy, trên trang Vnexpress: “Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ. Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét đẹp của người phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói ấm áp và thái độ điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà sống cùng hai con trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi trang trọng nhất. Bà cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng người chồng quá cố Trịnh Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách mạng.  Giữ giọng chậm rãi, bà Hồ kể, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang của bà trước kia là tiệm vải Phúc Lợi, thuộc loại lớn nhất Hà Nội thời bấy giờ. Có điều kiện dư dả, hai ông bà thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Thấy vậy, cán bộ Việt Minh đã đến nhà vận động ông bà đi theo cách mạng. Việt Minh khó khăn, không có tiền ra báo, bà đã ủng hộ 8 vạn rưỡi tiền Đông Dương. Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang cũng được chọn làm trụ sở hoạt động của cách mạng… Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu nhà ống cổ, gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng. Khách đến mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm nơi ở cho Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về…  33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà đều trực tiếp chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà thay nhau bê lên. Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác. Một hôm bà đang định quay gót thì Bác hỏi “Cô tên gì?”. Sau khi bà trả lời, Bác lại nói “Cô còn trẻ mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con, tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả”. Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói:“Cháu vẫn có một điều khổ, đó là nỗi nhục mất nước”. Bác cười: “Vậy thì kiên trì và nhẫn nại nhé!” Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … vong gia thất thổ! Đó là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùy đã không kể kết, hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến đi cứ y như là mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này chỉ được công luận biết đến qua tác phẩm (Bên Thắng Cuộc) của một nhà báo khác, Huy Đức: “Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng 48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều, 56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong 10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên 100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm. Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập(298). Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo, thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ… Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến, nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó. Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hoá… những người xếp sinh viên Hải Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.  Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.  Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp hai bài báo (thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị độc giả, quí danh là Lê Tùng,  đã cảm khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết, tôi cảm phục gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.” “Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ không phải là một mảnh gương vỡt bởi những ông nhà báo bất lương, và bất trí  – cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên, thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.   (*) Xin đọc thêm phóng sự “Đi Tìm Sự Thật Về Nhà Thờ Của Gia Đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Kiên Giang ” của Ngọc Niên, trên trang Thanh Niên Online, vào hôm 29 tháng 12 năm 2012.  
......

Chống lãng phí: Có chống được không? (1&2&3)

Nguyễn Thông   Ông Tô Lâm viết (hoặc ai viết giùm) khi nào thì tôi không rõ, chỉ biết chiều 13.10.2024 báo chí quốc doanh đồng loạt đăng bài “Chống lãng phí” đứng tên ông, ở cương vị Tổng bí thư, Chủ tịch nước, hai vị trí cao vót trong "bộ tứ". Điều này có nghĩa đây là mệnh lệnh của quốc gia.   Kể từ khi ngồi ghế tổng bí thư, lúc kiêm luôn cả chủ tịch nước, ông Tô Lâm có những phát ngôn rất "đổi mới", xé rào, tích cực, phá vỡ vùng cấm, được hầu hết dư luận xã hội, dân chúng đồng tình, đánh giá cao. Nhiều người bảo đó là tư duy, tinh thần kiểu Gorbachov, hiếm xuất hiện ở xứ này gần thế kỷ nay.   Suốt bao năm, nếu người nói không phải quan chức đứng đầu sẽ bị xử lý "tội" vạ miệng, chịu lên bờ xuống ruộng, nát đám cỏ gà. Những Trần Độ, Trần Xuân Bách, Hồ Đức Việt... là ví dụ. Dân mà phát ngôn vậy có khi bị bắt, đi tù do tội "chống lại đảng, nhà nước", "lợi dụng quyền tự do, dân chủ".   Về sự "vạch áo cho người xem lưng", ông Tô Lâm dũng cảm, thẳng thắn hơn nhiều so với ông "En nờ vê en nờ" Nguyễn Văn Linh thập niên 80 - 90. Ông Linh chỉ dám "Nói và làm" mon men những điều vụn vặt chứ không bao giờ dám đụng chạm tới thể chế, bộ máy thượng tầng, đến những thứ được coi là cấm kỵ có thể liên quan tới sự tồn vong của chế độ. Lâu nay người ta đã idol/thần tượng hóa ông Linh quá đáng so với những gì ông ấy có.   Ông Lâm lại càng hơn hẳn người tiền nhiệm chỉ biết ngụp lặn trong mớ lý luận bùng nhùng, tự mãn "ôi, ta là ta mà ta cứ say ta". Ông này tôi không cần biên thêm gì bởi thiên hạ đều biết cả rồi. Sau này lịch sử công bằng sẽ phán xét.   Nhưng, oái oăm thay đời luôn có chữ "nhưng", giữa lời nói với việc làm luôn có khoảng cách, thậm chí tường thành vô hình không vượt qua được. Nói lời hay là một chuyện, mà cơ bản phải chứng minh được cái hay ấy trong thực tế. Nếu chỉ nói hay, thì ai bằng diễn viên, nghệ sĩ sân khấu. Và sân khấu chính trị xứ này hơn 2/3 thế kỷ qua đầy nghệ sĩ nói hay hàng đầu. Nhân dân từng thất vọng quá nhiều về họ nên ít lòng tin vào họ, lời họ nói.   Chỉ mong lần này ông Tô không phải nghệ sĩ. Dẫu hiểu làm chính trị rất cần lựa thời cơ để hành động chính xác, "dục tốc bất đạt", nhưng sự mong đợi của dân, nhất là dân đã từng bị lừa, không cho phép thời cơ nằm mãi trong thời gian vô tận, trong tương lai mờ mịt.   Trong bài nghị luận chính trị xã hội đúng công thức đủ cả 3 phần mở bài (đặt vấn đề), thân bài (giải quyết vấn đề), kết luận (kết thúc vấn đề) rất chi hàn lâm nói trên, ông Lâm chỉ rõ “lãng phí còn diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển. Trong đó, gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Hơn thế, lãng phí còn gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước” (trích nguyên văn).   Đoạn văn trích nguyên vẹn trên, có một “câu” thiếu chủ ngữ, không nói rõ ai/cái gì “gây suy giảm nguồn lực con người”. Thứ câu què cụt này rất phổ biến ở đội ngũ trợ lý, thư ký của các sếp to, trong các văn bản của nhà nước. Đó là mối nguy cho tiếng Việt. Thôi, sự này để bàn sau. ----------- Đọc toàn bài “Chống lãng phí” của ông Tô Lâm, rà kính soi từng câu từng chữ, tôi không thấy ông ấy đề cập tới những thứ lãng phí đang diễn ra công khai, hằng ngày. Những lãng phí đã được luật hóa bằng nghị định này, chỉ thị nọ của đảng, nhà nước. Đặc biệt, bài viết đứng tên ông Tô Lâm hoàn toàn không đả động gì tới bệnh hình thức mạn tính gây cực kỳ lãng phí đã thành thứ tệ nạn kinh khủng hết thuốc chữa ở xứ này. Cũng không chỉ ra sự duy trì quá nhiều tổ chức hội đoàn, ban bệ, cánh tay phải tay trái, cánh dài cánh ngắn rất vô tích sự ngốn ngân sách từ tiền thuế của dân. Tới hôm 26.10, phát biểu tại Quốc hội với tư cách đại biểu quốc hội, Tổng bí thư Tô Lâm trăn trở: "Lãng phí xảy ra nhiều lắm. Tại sao mình lại vướng mình, làm khó mình đến vậy? Quy định làm sao mà để cuối cùng mình không thực hiện được? Nhà nước còn không làm được thì sao doanh nghiệp làm được?". Ông hàng xóm nhà tôi đọc xong cười bảo: Vẫn chung chung. Lâu nay, người đời thường ngại đụng chạm, ngại ý kiến ý cò về phát ngôn của lãnh tụ, cấp cao, tránh voi chẳng xấu mặt nào… Với quan niệm đó là vùng cấm, nói ra cũng chả giải quyết được gì, có khi không phải đầu lại phải tai, nát đám cỏ gà, rước vạ vào thân. Nhưng tôi thì khác. Nói được những điều có ích cho số đông dân chúng, cho cộng đồng chịu nhiều thiệt thòi thì cứ nói. Trung ngôn nghịch nhĩ. Thiệt mình chịu. Sự góp ý không nhằm vào cá nhân, vụ "chống lãng phí" này chẳng hạn, bởi ông Lâm phát ngôn không vì cá nhân ông, nhưng đó là sự đại diện, thay mặt cho bộ máy lãnh đạo do ông ấy đứng đầu. Ổng chống, tại sao mình không ủng hộ, không chống? Tôi tuyệt đối ủng hộ ông ấy chống lãng phí bởi đó là thứ tệ nạn bản thân tôi rất ghét. Từ thượng cổ tới giờ, chẳng có bộ máy nào toàn diện, tuyệt hảo, không sai. Vậy thì, nếu ta có ý thức xây dựng, mong muốn cuộc sống và xã hội tốt hơn, thì nói ra với ý thức xây dựng là điều tốt, tích cực. Vấn đề ở chỗ, bộ máy cầm quyền có biết lắng nghe những điều "trung ngôn nghịch nhĩ" hay không. Tôi sực nhớ câu thơ của cụ Lê Đạt (nhóm Nhân văn giai phẩm): ’’Anh muốn đảng gọi anh đến nơi/Hội ý về cuộc sống/Điều động anh vào bộ tâm hồn quần chúng/Giúp trung ương xây dựng những con người”. Tôi chẳng bằng móng tay út cụ Đạt, nhưng học cụ, dù biết cụ từng bị lên bờ xuống ruộng. Trong vệt bài này, tôi chỉ nhấn đến nội dung “lãng phí”, “chống lãng phí”, chỉ ra những khiếm khuyết, góp thêm vào chủ đề ông Tô Lâm đã nêu trong bài huấn thị/chỉ đạo đang được tung hô, ca ngợi. ------------------- Lãng phí cái gì? Trước hết là lãng phí ngân sách. Ngân sách không phải từ trên giời rơi xuống, không do đảng và nhà nước đẻ ra, mà là tiền (ngân), từ mồ hôi, nước mắt, máu của nhân dân tạo thành; là tiền thuế do dân và doanh nghiệp đóng góp; tiền bán tài nguyên đất nước. Lãng phí là có tội. Tội nặng. Chỉ có điều, các vị hô hào chống lãng phí, cần phải biến lời nói thành việc làm, thành hành vi cụ thể. Đừng có mồm nói tiết kiệm, chống lãng phí, nhưng tay phung phí, coi máu mồ hôi nước mắt nhân dân như rác như bùn. Ngày 26.10.2024, báo Tiền Phong có bài trong đó nêu ý kiến của bà Phạm Thị Thanh Trà – Bộ trưởng Nội vụ. Bà Trà cho biết: “trên thế giới chưa có nước nào có đơn vị hành chính cấp huyện, xã nhiều như Việt Nam, kể cả đơn vị hành chính cấp tỉnh cũng vậy. Vì thế, cũng chưa có đất nước nào mà chi thường xuyên cho tổ chức bộ máy và con người lớn như Việt Nam, khi chi thường xuyên cho tổ chức bộ máy và con người chiếm đến 62%, không còn nguồn lực để chi cho đầu tư. Nhắc lại tinh thần của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc sắp xếp lại bộ máy, trong đó có cả hệ thống hành chính nhà nước, cả cơ quan Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan Đảng, đặc biệt các đơn vị hành chính, bà Trà cho rằng các cấp các ngành cần tinh thần sẵn sàng, chứ không chỉ sắp xếp đơn vị cấp huyện, cấp xã”. Chính ông Tô Lâm, ngày 31.10 thảo luận tổ tại Quốc hội, ông khẳng định tiếp “Không tinh gọn bộ máy thì không phát triển được”. Đúng tinh thần ấy, được ông Tô Lâm và bà Trà chỉ dẫn, chúng ta có thể thấy sự lãng phí đang nhan nhản, tràn lan, khắp nơi, mọi cấp, diễn ra công khai, từ nhiều năm nay ở xứ này. Điều dễ thấy nhất, đó là sự tồn tại của các tổ chức hội đoàn, tổ chức, lực lượng ngoại vi của đảng cầm quyền. Trước hết là Mặt trận tổ quốc. Tôi thử hỏi các ông bà dân chúng, vậy Mặt trận tổ quốc làm nhiệm vụ gì cho đất nước này. Rất chung chung, mơ hồ. Cứ lâu lâu xuân thu nhị kỳ nó chỉ mần việc hiệp thương chọn người cho đảng để cơ cấu vào bộ máy cán bộ. Thế thôi, tôi chả thấy nó gánh việc gì khác. Nên giải tán cái đoàn thể chính trị-xã hội này. Nó là một phần của bộ máy cai trị tam trùng (đảng, nhà nước, mặt trận), ngốn ngân sách kinh khủng. Nó có bộ máy riêng từ trung ương tới tận cơ sở cấp xã. Tiền để nuôi nó cũng đủ hành dân lên bờ xuống ruộng. Cần dẹp. Ngoài Trung Quốc, Lào, Cuba, Triều Tiên, chỉ còn xứ ra dung dưỡng thứ của nợ này. Những nước văn minh, giàu có, chả nước nào nuôi mặt trận mặt triếc. Những nước không có tổ chức mặt trận sẽ như thế nào? Khách quan mà nói, rất nhiều quốc gia nghèo, chậm phát triển không có tổ chức kiểu mặt trận. Nhưng không phải do không có mặt trận mà nghèo. Còn những quốc gia có mặt trận, hầu hết nghèo. Và dễ thấy nhất, tất cả những nước giàu có, phát triển vượt bậc, người dân sung sướng hạnh phúc đều không có mặt trận. Muốn biết mặt trận cần hay không cần, mỗi người cứ tự hỏi trong cuộc đời mình đã khi nào mặt trận quan tâm, hỏi han, giúp đỡ chưa. Tôi khẳng định có, nhưng không đáng kể, có khi cả triệu người mới gặp một vài trường hợp. Những người hàng xóm nhà tôi thậm chí không biết mặt trận là gì, tồn tại hay không. (Còn tiếp)  
......

Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt (Phần hai)

Trần Đan Tâm Phần hai : Trụ   B. Giai đoạn Trụ (phát triển) của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1931-1990)   Suốt trong thời khoảng 1931-1976, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thay tên tổi họ đến 3 lần để che giấu thân phận tay sai của Đệ III Quốc Tế Công Sản như sau : - Tháng 10/1930 đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương ; - Tháng 2/1951 đổi tên Đảng Cộng Sản Đông Dương thành Đảng Lao Động Việt Nam để che giấu bản chất cộng sản nhằm tuyên truyền chiêu bài chống thực dân Pháp giành độc lập hòng phát triển thêm đảng viên ; - Năm 1976 đổi tên trở lại thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và dùng tên nầy cho đến nay. Kể từ thời điểm thành lập trên đất Trung Quốc năm 1930 đến năm 1985, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát triển vượt bậc từ con số 565 đảng viên sơ khởi lên đến vài triệu đảng viên, gồm cả đảng viên quân đội, đảng viên công an và đảng viên dân sự, kinh qua hai lần cướp chính quyền thành công trong quá khứ vào các ngày 19/08/1945 và 30/04/1975. Việc phát triển vượt bậc nầy do bởi hai lý do chính yếu : Một là, Đảng Cộng Sản Việt Nam khéo léo che giấu tuyệt đối ý đồ nhuộm đỏ Việt Nam thành một nước cộng sản Đệ III theo chỉ thị của Stalin và do Đảng Cộng Sản Trung Quốc giám sát chặt chẽ. Suốt từ năm 1930 cho đến 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ tuyên truyền cái mục đích giả tạo là chiêu bài "chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Việt Nam". Cách thức tuyên truyền lừa đảo và dối trá nầy làm cho một số trí thức nhẹ dạ và thiếu tầm nhìn chính trị bị nhầm lẫn, đã tham gia hay ủng hộ Đảng Cộng Sản Việt Nam như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hữu Loan, v.v… Hai là, Liên Xô & Trung Quốc yểm trợ trực tiếp & dồi dào để Đảng Cộng Sản Việt Nam chiến đấu mở rộng lãnh thổ Đệ Tam Quốc Tế cộng sản trên toàn vùng Đông Dương. Sau đó dùng làm bàn đạp tiến chiếm các quốc gia Đông Nam Á khác. Ba là, trình độ dân trí thấp kém và nhẹ dạ của đại bộ phận nông dân Việt Nam làm cho họ không biết rõ bản chất cộng sản của cái gọi là "Đảng Lao Động Việt Nam". 1. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1931 đến 1944 Trong thời kỳ nầy Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển không nhiều do bởi lý thuyết Mác-Lê-Mao-Hồ khá xa lạ với kiến thức khá thấp của dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ thứ 20. So với các chính đảng cùng thời như Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân hay Dân Xã (trong Nam Bộ) thì Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ phát triển được ở Thái Lan, vùng Hoa Nam của Tàu và vài trăm người ở miền Bắc Việt Nam. Theo đánh giá của William Duiker, 14 năm sau ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, khi Võ Nguyên Giáp lập ra trung đội Võ Trang Tuyên Truyền cũng chỉ được hơn 30 thanh nhiên đội viên, gồm cả Tày, Nùng Mán & Kinh vào ngày 22/12/1944 [01].   Trong thời gian nầy, vào ngày 17/3/1945 có cuộc gặp gỡ giữa Việt Minh và OSS, tiền thân của CIA, do nguyên nhân là vào tháng 10/1944, viên trung úy William Shaw thuộc OSS của Mỹ khi đang làm nhiệm vụ gần biên giới thì bị Nhật bắn rơi máy bay ở xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), thuộc vùng chiến khu của Mặt trận Việt Minh.   Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chụp ảnh cùng thành viên OSS tại Pắc Bó tháng 8/1945. Vì lúc đó không ai biết tiếng Anh nên viên phi công này được đưa về hang Pác Bó gặp Hồ Chí Minh. Sau đó, Trung úy Shaw đã trở thành "cầu nối" để Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault, Tư lệnh Không đoàn 14, đại diện cho lực lượng Đồng minh tại vùng Hoa Nam (Trung Quốc). Hành trình cả ngàn km đường bộ nên phải đến đầu 17/3/1945 mới đến nơi, không rõ đoàn Việt Minh sang lần đó gồm những ai nhưng tài liệu phương Tây ghi 20 thành viên, hai người chủ chốt là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Dĩ nhiên người Mỹ bày tỏ sự cảm ơn và tặng quà vì đã cứu phi công họ. Trong lúc chờ đợi gặp tướng Claire Chennault, Hồ Chí Minh đã tìm gặp một số người Mỹ khác, để thăm dò và vận động sự công nhận đối với tổ chức Việt Minh như một thành viên trong lực lượng chống phát xít Nhật. Trong số đó có viên trung úy Charles Fenn – một sĩ quan Hải quân Mỹ làm việc tại OSS (tiền thân CIA). Theo sử gia Fredrik Logevall, ngày 17/3/1945, Hồ Chí Minh cùng Phạm Văn Đồng đã hội đàm với Charles Fenn lần đầu tiên và sau lần gặp thứ hai thì người Mỹ đồng ý cung cấp các thiết bị vô tuyến, súng đạn cho Việt Minh; còn Hồ Chí Minh cam kết thu thập tin tình báo, giải cứu phi công Mỹ bị bắn rơi và trợ giúp phá hoại các trang bị chiến tranh của Nhật Bản. Sau đó, viên sĩ quan Mỹ hứa sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Hai bên đã đạt thỏa thuận : phía Việt Nam sẽ tăng cường lực lượng du kích và mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng này ; cung cấp những thông tin tình báo và khí tượng cho không quân Mỹ hoạt động trên chiến trường miền Bắc Đông Dương. Ngược lại, phía quân Đồng minh có trách nhiệm đưa các phái đoàn sang giúp đỡ Việt Nam huấn luyện quân sự, đồng thời trang bị vũ khí, điện đài và các trang thiết bị khác.   Các thành viên của Đội Con Nai đang hướng dẫn người Việt Nam cách sử dụng súng carbine M-1, ngày 16/8/1945. Ảnh của Cục Lưu trữ và Hồ sơ Quốc gia Mỹ. Theo thỏa thuận giữa Hồ Chí Minh và tướng Mỹ Chennault, tháng 7/1945, một đơn vị tình báo đặc nhiệm mang bí danh "Con Nai" (the Deer Team) thuộc OSS, đại diện cho quân Đồng minh đã nhảy dù xuống Tân Trào để phối hợp với Việt Minh chống phát xít Nhật. Một sân bay dã chiến được xây dựng (sân bay Lũng Cò) để tiếp nhận các chuyến bay chở hàng viện trợ trong suốt thời kỳ hợp tác này. OSS có thể coi là một trong những người thầy đầu tiên của Việt Minh, hướng dẫn du kích ta sử dụng các loại súng trường, tiểu liên, cối và lựu đạn, thậm chí cả súng chống tăng Bazooka. Dù cho các thành viên OSS không tham chiến (họ được lệnh án binh bất động) thì đó vẫn là lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Việt Minh (ngụy danh của Đảng Cộng Sản Việt Nam). Vụ việc nầy có liên quan trực tiếp đến Tuyên Ngôn Đọc Lập ngụy tạo, do Hồ Chí Minh soạn ra và đọc trước cuộc meeting ngày 02/09/1945 tại Hà Nội. Ngụy tạo là vì 6 tháng trước đó, Hoàng đế Bảo Đại đã công bố chính thức Tuyên Ngôn Độc Lập tại Huế ngày 11/03/1945, và thu hồi toan bộ chủ quyền của Việt Nam từ tay thực dân Pháp. Thời điểm nầy Hồ Chí Minh lấy bí danh Lucius do sĩ quan Mỹ Charles Fenn ban cho, [02].   Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chụp ảnh cùng thành viên OSS tại Tân Trào tháng 8/1945. Ngay tự thân của cách thức phát triển bệnh hoạn hoạn nầy đả ươm mầm Hoại cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1945 đến 1954 Có nhiều yếu tố tiềm ẩn của sự kiện Hoại & Diệt xuất hiện ngay trong giai đoạn Trụ nầy : Thứ nhất là việc nổi dậy cướp lấy chính quyền độc lập của Việt Nam do Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trước quốc dân ngày 11/03/1945. Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, bộ máy hành chính của thực dân Pháp tan rã, vì thế việc thành lập chính phủ mới của Việt Nam được Nhật đặt ra như một đòi hỏi cấp bách và Đế quốc Việt Nam ra đời trong bối cảnh đó. Theo sự sắp xếp của quân đội Nhật, ngày 11/03/1945, vua Bảo Đại gặp cố vấn tối cao của Nhật là Đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để ký bản "Tuyên cáo Việt Nam độc lập". Tuyên cáo do Bảo Đại ký có nội dung chính là tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ và bất bình đẳng với Pháp trước đây. Đa số người Việt bây giờ chỉ biết đến bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, sau khi cướp chính quyền 14 ngày trước đó - ngày 19/08/1945. Nhưng thực ra trước đó 6 tháng Việt Nam đã tuyên cáo độc tuyên cáo độc lập chính thức do đương kim Hoàng đế Bảo Đại của nước Đại Nam (quốc hiệu nước ta thời đó, bao gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Đó là bản Tuyên cáo độc lập, ngày 11/3/1945, chỉ hai ngày sau khi Nhật đảo chính lật đổ thực dân Pháp [03]. Do đó, những trí thức đương thời & có tầm nhìn sâu sắc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Khôi, Thiều Chửu… đều xa lánh Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngược lại là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Đại Nghĩa, Lâm Đức Thụ, v.v.. đều nhầm lẫn nghe theo tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam thời đó đến nỗi thân bại danh liệt sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp được chính quyền miền Bắc Việt Nam vào năm 1945. Yếu tố Hoại-Diệt nầy đã tác dộng sâu sắc lên công tác phát triển đảng viên trí thức của đảng nầy suốt từ 1945 trở về sau. Thứ hai là sau gần 3 tháng cướp được chính quyền, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới tên tên Đảng Cộng Sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán và cho ra đời một tổ chức mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ở Đông Dương. Nhưng thật tế thì Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rút vào hoạt động bí mật và giữ vai trò nắm chính quyền tại Hà Nội, đồng thời cho các đảng viên thành lập hai đảng mới là Đảng Dân Chủ Việt Nam và Đảng Xã Hội Việt Nam. Đảng Dân Chủ Việt Nam có nhóm chủ chốt gồm toàn đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam là Dương Đức Hiền, Hoàng Minh Chính, Nghiêm Xuân Yêm, Đỗ Đức Dục, Trần Đăng Khoa, Tôn Quang Phiệt, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, và Huỳnh Văn Tiểng (cf Đảng Dân Chủ Việt Nam, 06/08/2021, Bách Khoa Toàn Thư Mở, Đảng Dân chủ Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt). Đảng Xã Hội Việt Nam có nhóm chủ chốt cũng toàn là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam như : Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Phúc Thông và Nguyễn Cao Luyện (Đảng Xã Hội Việt Nam, 21/09/2024 và Đảng Xã hội Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt). Hành động ngụy trang kiểu "tráo bài 3 lá" nầy chỉ che mắt được quần chúng thờ ơ và nông cạn, nhưng không thể lừa gạt được các bậc thức giả ưu tú. Cho nên hành động nầy hàm chứa yếu tố Hoại-Diệt thêm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thứ ba là Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số sử gia phương Tây cáo buộc đã dàn dựng lên Vụ án phố Ôn Như Hầu vào năm 1946 tại Hà Nội, nhằm triệt hạ các đảng phái đối thủ chính trị của mình trong chính quyền liên hiệp. Sự kiện dàn dựng như sau : Sáng sớm ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy bao vây khám xét trụ sở của Đảng Đại Việt tại số 132 đường Duvigneau tại Hà Nội, vu khống Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946 khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp phản ứng. Đồng thời Giám đốc Nha Công An Bắc Bộ là Lê Giản đươc Võ Nguyên Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh. Sau đó, lúc 7g sáng ngày 12/7/1946, cán bộ Công an cao cấp của cộng sản là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương) chỉ huy lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (7 căn nhà) tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng với hơn 100 người bị bắt và một số người biến mất không dấu vết. Trong số các thành viên của Quốc Dân Đảng bị bắt có một đại biểu quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Sau khi chiếm trụ sở và giết nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, ngay trong đêm hôm sau công an của Võ Nguyên Giáp chôn những xác chết đó trong sân sau trụ sờ rồi ngày kế tiếp đào lên công khai để đổ tội khủng bố cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhà cầm quyền cộng sản sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công nầy được gọi tắt là "Vụ án phố Ôn Như Hầu". Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này, đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả [04]. Sau vụ Đảng Cộng Sản Việt Nam dàn dựng vu khống nầy, mọi công dân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc). Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông báo đến các tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố. Ủy ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến các trại cải tạo ; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ phòng chính trị thuộc Sở Công an các tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó báo cáo lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này. Từ cuối tháng 7/1946 cho đến cuối năm 1946, phần lớn những người bị công an giam giữ vì lý do chính trị đều bị xem là Việt Quốc. Từ tháng 7/1946 đến tháng 11/1946, nhiều đại biểu quốc hội là đảng viên Việt Quốc bị bắt. Đại biểu Phan Kích Nam, đảng viên Việt Quốc, bị bắt trong vụ án phố Ôn Như Hầu, bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và bị tống giam ngay lập tức. Đại biểu Nguyễn Đổng Lâm bị công an Hải Dương bắt và bị kiến nghị gửi đến trại biệt giam trong hai năm với lý do "chính quyền địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ông Lâm còn tự do ngoài vòng pháp luật". Tại các địa phương khác, các đại biểu quốc hội là đảng viên Việt Quốc cũng bị sách nhiễu hoặc bắt giữ. Đại biểu Trình Như Tấu gửi kháng nghị đến 5 cơ quan chính phủ khác nhau sau khi ông bị dân quân bao vây nhà riêng để khủng bố. Tháng 10/1947, khi Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ, có những tường thuật cho rằng công an Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã xử bắn hơn 100 tù nhân Việt Quốc [05]. Chiến dịch khủng bố nầy tự nó cô lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với tất cả các chính đảng không cộng sản đương thời. Tự mình làm cho mình bị cô lập thì rõ ràng là Đảng Cộng Sản Việt Nam tự gieo mầm Hoại-Diệt cho chính bản thân của đảng. Thứ tư là Đảng Cộng Sản Việt Nam được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào tháng 2/1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương) thành các đảng riêng. Thủ đoạn "tráo bài ba lá" nầy chỉ có thể che mắt được quần chúng bình dân thờ ơ và nhẹ dạ, nhưng không thể qua mặt các bậc thức giả ưu tú trong và ngoài nước Việt Nam. Cho nên nó chính là một yếu tố Hoại-Diệt do Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tạo ra cho chính tự thân của đảng và làm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam không phát triển được đảng viên trí thức ưu tú suốt từ đó về sau. Thứ năm là quy tắc thành văn tục ngữ lưu truyền hàng nghìn năm theo đạo lý Việt Nam "Tân khách bất lai môn hộ tục, thi thư bất giáo tử tôn ngu" (Không có thêm tân khách đến nhà thì nhà đó không ra gì, có sách vở mà không đem dạy con cháu thì con cháu ngu dốt). Quy tắc nầy không được Đảng Cộng Sản Việt Nam lưu tâm vì chỉ chăm chú lo tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản cho đảng viên và quần chúng bần cố nông ngu dốt và miệt thị tất cả văn hóa truyền thống & đạo đức của dân tộc Việt Nam. Do đó, dù phát triển khá mạnh trong giới nông dân kém hiều biết và một số ít công nhân lao động, để nâng cao số lượng đảng viên lên đến hàng chục nghìn, nhưng phẩm chất (chất lượng/quality) vẫn là một đảng tầm thường về tri thức xã hội, chính trị và kinh tế. Đó chính là yếu tố Hoại-Diệt tri thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam suốt từ khi xuất hiện cho đến năm 1986. Thứ sáu là giảm tô trong vùng Việt Minh (Đảng Cộng Sản Việt Nam) chiếm đóng từ năm 1953 đến 1954 cũng là một trong số các yếu tố Hoại-Diệt thành hình trong giai đoạn Trụ của đảng nầy. Bởi vì chính sách "Giảm Tô" trong các vùng nông thôn do Việt Minh (Đảng Cộng Sản Việt Nam) chiếm đóng như Liên Khu IV & V, vùng Tây Bắc giáp giới Trung Quốc có mục đích vô sản hóa và triệt hạ thành phần tinh hoa thôn quê nên gây ra nghi ngờ cho tầng lớp trí thức nhẹ dạ đã tham gia Đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1945 đến 1953. Vì nghi ngờ nên những thành phần trí thức nhẹ dạ đó từ bỏ hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam chạy trốn về các thành phố trong vùng Việt Minh chiếm đóng nên quần chúng đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam thời kỳ nầy chỉ còn toàn là nông dân thất học và vài trăm đảng viên gốc du côn bất hảo, thất nghiệp và vô học mà Đảng Cộng Sản Việt Nam gọi họ là đảng viên gốc công nhân như Trần Quốc Hoàn, Tôn Đức Thắng, v.v… Thêm nữa là chiến dịch "tuần lễ Vàng" do Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện cưỡng chế trong những vùng nông thôn do Việt Minh chiếm đóng giữa thập niên 40 thế kỷ 20 để gom vàng cho Hồ Chí Minh đem dâng cho quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Trung Quốc) nhằm mua chuộc tướng chỉ huy Lư Hán đứng về phía Việt Minh, đã làm kiệt quệ nên kinh tế nông thôn vùng Việt Minh vốn dựa trên sức mạnh của các nhà tư bản nông thôn thời đó. Sự "tuần lễ Vàng" nầy cũng cố thêm cho yếu tố Hoại-Diệt nầy [06]. Thứ bảy là quân đội cộng sản Việt Nam và quân đội Trung Quốc đã chiến thắng thực dân Pháp trận Điện Biên Phủ năm 1954, đưa đến việc Đảng Cộng Sản Việt Nam và Pháp ký kết hiệp định Genève chia đôi Việt Nam từ vĩ tuyến 17 và giao cho Đảng Cộng Sản Việt Nam lập chính quyền ở Miền Bắc Việt Nam [07]. Miền Nam Việt Nam được Pháp trao trả độc lập và chính quyền dân chủ đầu tiên của Việt Nam được thiết lập vào ngày 07/07/1954, khi thủ tướng Ngô Đình Diệm & quốc trưởng Bảo Đại thỏa thuận cho Thủ tướng Diệm được toàn quyền chính trị và quân sự dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó vào năm 1956, hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam ra đời sau cuộc trưng cầu dân ý theo thể thức bầu cửa tự do. Hiệp Định nầy đem đến cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một vùng đất an toàn (nửa nước Việt Nam) để cư trú, phát triển và dùng làm hậu cứ an toàn để tấn công Việt Nam Cộng Hòa và nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam sau nầy, cũng như có thêm hàng ngàn đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam tập kết từ miền Nam Việt Nam ra Bắc để được sống dưới chế độ công sản mà họ từng mơ ước từ ngày theo Đảng Cộng Sản Việt Nam trước 1954 (tuy đạt được mơ ước, nhưng cũng bị thất vọng và bất mãn sau đó mười năm nếm mùi cộng sản tại miền Bắc Việt Nam). Tuy vậy, bến cố nầy cũng phát sinh yếu tố Hoại-Diệt ngay sau khi Hiệp định Genève được ký kết, tiếp tục sau ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp quản Hà Nội ngày 10/10/1954 và kéo dài cho đến năm 1956 (Operation Passage to Freedom).     Người Bắc di cư từ Hải Phòng năm 1954, Courtesy by Naval History and Heritage Command. Đó là cuộc tháo chạy ồ ạt của hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc Việt Nam từ bỏ vùng đất bị nhuộm đỏ công sản để vào lành nạn tại miền Nam Việt Nam là Việt Nam Cộng Hòa – một chế độ dân chủ sơ khởi đầu tiên của lịch sử Việt Nam. Yếu tố Hoại-Diệt do sự kiên di cư nầy bao gồm [08], [09] và [10] : - sự kiện một bộ phận hơn 60% đồng bào tại Việt Nam Cộng Hòa biết rõ thủ đoạn tàn ác, dối trá và lạc hậu của Đảng Cộng Sản Việt Nam do đồng bào di cư kể lại, đồng thời cũng tố cáo bản chất thật sự của chế độ cộng sản tại miền Bắc Việt Nam ; - sự việc di cư lánh nạn cộng sản đồng loạt lên đến hơn 1 triệu người Việt Nam chứng tỏ cho quốc tế thấy rõ chế độ cộng sản là tai họa lớn nhất trong lịch sử hiện đại của Việt Nam ; - công tác ổn định cuộc sống và định cư cho hơn 1 triệu người nói trên rất thành công làm nổi bật uy tín chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam so với chế độ cộng sản miền Bắc vốn nghèo nàn, lạc hậu và nhuốm đầy màu sắc ngoại lai từ Trung Quốc, Liên Xô & các nước cộng sản Đông Âu. Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11/1955 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi [11]. Việc di cư đó nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức "phong trào nhập thành", hay nói nôm na là phong trào "dinh tê". Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu "an toàn Phát Diệm", thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950 ? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình ? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy mà thôi [12]. Thứ tám là trong số hơn 1 triệu người chạy thoát Công Sản nầy có rất nhiều trí thức đương đại, các lãnh đạo của hai tôn giáo lớn là Phật Giáo & Công Giáo, các nhà giáo dục chính quy và rất nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng nên Đảng Cộng Sản Việt Nam tại miền Bắc không còn kiếm đâu ra thành phần ưu tú để xây dựng miền Bắc Việt Nam sau cuộc chiến 1945-1954 chống Pháp-Nhật [13], [14] và [15]. 3. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1955 đến 1975 Đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị một nửa nước Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 theo thể chế cộng sản ngụy danh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thật sự chỉ là một copy nguyên bản chế độ cộng sản Tàu được ngụy trang dưới hình thức Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc). Sau đây là yếu tố Hoại-Diệt chính do Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tạo nên cho chính nó : Thứ nhất là chiến dịch "đánh tư sản" nhằm cướp đoạt toàn bộ tài sản kinh doanh & sản xuất của tư nhân từ đầu đến cuối năm 1955 tại Hà Nội và các thành phố miền Bắc Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kiệt quệ hơn 80%, và chỉ còn sống lây lất nhờ dựa vào 20% kinh tế nông nghiệp nhỏ trong vùng nông thôn. Đây là yếu tố Hoại-Diệt lâu dài cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, một đảng chỉ biết độc tài toàn trị nhưng dốt nát toàn diện về kinh tế. Thứ hai là cuộc "cải cách ruộng đất" (Land Reform) long trời lở đất, tịc thu tài sản và giết chết hơn 182 nghìn địa chủ, hào phú, trí thức và sĩ phu Bắc Hà suốt từ cuối năm 1955 đến hết năm 1956 đã tạo ra một yếu Hoại-Diệt lớn lao cho suốt đời sống của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1956-1990). Bời vì nó làm mất sạch giới tinh hoa và giới kinh doanh tư nhân ít oi còn sót lại Bắc Việt sau cuộc di cư 1954, làm giao động tinh thần & lung lay niềm tin của cán bộ, bộ đội, đảng viên và hơn 90% quần chúng miền Bắc Việt Nam, và làm cho nhân dân sống lầm than cực nhọc nhờ vả miếng ăn vào bột mì của đàn anh cộng sản Liên Xô & các nước cộng sản Đông Âu suốt từ 1957 đến 1975. Chính sách "cải cách ruộng đất" đó làm cho yếu tố Hoại-Diệt nầy vẫn tồn tại và kéo dài đến tận ngày nay, vì vết thương do Đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra nầy quá lớn (182.000 người Việt Nam bị Đảng Cộng Sản Việt Nam giết chết bằng đấu tố cải cách ruộng đất năm 1956 tại miền Bắc Việt Nam). Cải cách ruộng đất ở Việt Nam từ năm 1953 đến 1956 là một sự kiện lịch sử đã để lại vết thương đau đớn cho dân tộc Việt Nam và đã được nhiều sách vở lịch sử Việt Nam và quốc tế ghi lại đầy đủ. Một trong những chủ đề tranh cải gây cấn nhất là vai trò của cố vấn Trung Quốc trong việc ảnh hưởng giới lãnh đạo Việt Nam thi hành cải cách ruộng đất. Bản "Ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng năm 1953" của La Quý Ba, người được Bắc Kinh cử sang Việt Nam để trực tiếp cố vấn cho giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam gổm Hồ Chí Minh và Trường Chinh, là một văn bản giá trị vì nó cho thấy những khía cạnh ít được biết đến của mối quan hệ Việt – Trung vào đầu những năm 1950. Đây là một giai đoạn quan trọng khi chế độ cộng sản, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam, phụ thuộc nhiều vào mô hình cách mạng của Cộng hòa nhân dân Trung Quốc trong việc thực hiện các chính sách quân sự, kinh tế và xã hội của mình. Các sử gia và các nhà quan sát đã thừa nhận Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một vệ tinh của Đảng Cộng Sản Tàu do bản khuyến nghị của La Quý Ba chứng minh cho nhận định đó. Bản khuyến nghị ấy đáng được xuất bản và tham khảo vì tầm quan trọng của những đề xuất của La Quý Ba trong việc định hình việc thực hiện cải cách ruộng đất của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như ảnh hưởng quan trọng của chương trình đó đối với Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và việc củng cố quyền lực của Đảng Cộng Sản Việt Nam [16], [17] và [18]. Sau đây là nguyên bản Tài Liệu lưu trữ gốc do cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba trao cho Hồ Chí Minh & Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 09/10/1952 : Đây là nguyên bản Tài Liệu lưu trữ gốc do cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba trao cho Hồ Chí Minh & Đảng cộng sản Việt Nam ngày 09/10/1952 Câu chuyện của bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long (gọi theo tên hiệu buôn của bà) trong chiến dịch Cải cách ruộng đất 1953-1956 phải ảnh bản chất dã man nhất lịch sử Việt Nam của Đảng Cộng Sản Việt Nam, như sau : Bà Nguyễn Thị Năm (1906 – 9/7/1953, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội), là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh (Đảng Cộng Sản Việt Nam) trong kháng chiến chống Pháp. Bà nguyên là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Minh tỉnh Thái Nguyên. Trong cuộc Cải cách ruộng đất, bà bị đấu tố là địa chủ gian ác và là người đầu tiên bị xử bắn ngày 09/07/1953. Bà còn được gọi là Cát Hanh Long vì đây là tên một hiệu buôn rất giàu có do bà làm chủ ở Hải Phòng. Bà giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, và đã làm nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán sắt vụn, và đã sớm thành đạt trên thương trường. Sau đó bà xây nhà mua ruộng như thói thường của người xưa : vừa kinh doanh nơi thành thị, vừa mua ruộng đất bám sát với thôn quê, nên giàu có vào bậc nhất thời đó. Trong kháng chiến chống Pháp, được đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam là nhà văn Nguyễn Đình Thi thuyết phục, nên bà Nguyễn Thị Năm đã đóng góp nhiều tiền bạc, vải vóc, nhà cửa cho Việt Minh. Sau năm 1945, bà Năm tản cư theo cách mạng lên chiến khu, và mua lại hai đồn điền lớn của một người Pháp tại Thái Nguyên. Hai con trai bà đều đi theo kháng chiến Việt Minh. Trước 1945, gia đình bà đã từng ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bảy trăm lạng vàng lúc bấy giờ) và sau đó giúp đỡ nhiều vật dụng, thóc gạo, y tế và nhà cửa. Khi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tổ chức "Tuần lễ vàng", bà đóng góp hơn 100 lạng vàng. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ Việt Minh của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc, trong đó có 3 năm làm Chủ tịch hội Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên Khi thực hiện lệnh "tiêu thổ kháng chiến", bà đã cho san bằng khu biệt thự Đồng Bẩm riêng của bà tại Thái Nguyên. Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà. Bà Nguyễn Thị Năm cũng từng nuôi ăn, giúp đỡ nhiều cán bộ cộng sản Việt Minh (sau này giữ những cương vị quan trọng) như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị... [19].  Di ảnh bà Nguyễn Thị Năm (1906-1953) lúc ngoài 40 tuổi. Bà Năm (tức Cát Hanh Long) bị Đảng Cộng Sản Việt Nam đấu tố xử & bắn vào ngày 09/07/1953, trong chiến dịch Cải cách ruộng đất (1953-1956). Chiến dịch cải cách ruộng đất tàn bạo nầy đã gây ra cuộc nổi loạn công khai tại Nghệ An, điều này đã đe dọa đến sự sống còn của Đảng Cộng Sản Việt Nam và ngay cả sự trung thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng bị nghi ngờ. Hồ Chí Minh bị buộc phải cách chức Trường Chinh (người đã trải qua việc tự phê bình trước công chúng) và nắm quyền điều hành đảng. Bản thân Hồ Chủ tịch nhận ra được sự thái quá, và đã tiến hành một cuộc vận động chỉnh đốn. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải thừa nhận "mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng trong suốt cuộc cải cách ruộng đất," và hàng nghìn tù chính trị đã được thả như một động thái thể hiện thiện chí. Nhưng những cuộc thanh trừng của đảng đã gieo rắc sự ngờ vực sâu sắc. Tại Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Lao Động đã thông báo sẽ "mở rộng dân chủ, bảo vệ tự do dân chủ và mở rộng hệ thống pháp lý dân chủ". (Lincoln Kaye, "A Bowl of Rice Divided : The Economy of North Vietnam," and P. J. Honey, biên tập, North Vietnam Today, 107–108. Lịch sử đầy đủ của chiến dịch cải cách ruộng đất có thể tìm đọc trong cuốn sách Vickerma, The Fate of the Peasantry. Sai lầm tối quan trọng chính là chương trình cải cách ruộng đất đặc trưng bởi "sự nổi lên của phong trào nông dân bạo lực". Những người chống đối quan tâm đến thực tế là có ít tính hợp pháp ở khu vực nông thôn hơn là ở Hà Nội – khu vực trong tầm kiểm soát của Pháp : Bài xã luận của Nguyễn Hữu Đang trong kỳ 4 tạp chí Nhân Văn, vào ngày 5 tháng 11 năm 1956, đã nhắc lại lời tố cáo của Khrushchev về việc sử dụng bạo lực và khủng bố của Stalin và Beria, nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng "Điều này ở xã hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung… Ít luật lệ là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán. [Các nhân tố bên trong cũng có tác dụng, cụ thể là công cuộc cấp tiến hóa của xã hội trong suốt chiến dịch cải cách ruộng đất tàn bạo giai đoạn 1954-1956. Đảng Lao Động "giải phóng sức mạnh của quần chúng để tiêu diệt tầng lớp địa chủ," đây là một chiến dịch làm cho nhiều người căm phẫn và tổn hại rất nhiều đến khu vực nông thôn. Quá trình tập thể hóa nông nghiệp được thực hiện vào năm 1956 dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc, và các chiến thuật của Trung Quốc như tòa án nhân dân, chiến dịch chống lại địa chủ, vận động quần chúng, đặt tên giai cấp, và hành quyết hàng loạt đã được áp dụng một cách sốt sắng (Lincoln Kaye, "A Bowl of Rice Divided : The Economy of North Vietnam," trong P. J. Honey, biên tập, North Vietnam Today, 107–108). Thứ ba là lừa đảo nông dân lấy tất cả ruộng đất toàn miền Bắc Việt Nam làm thành Hợp Tác Xã quốc doanh, sau khi đã chia cho dân bần cố nông số ruộng đất cướp đọat của địa chủ trong chiến dịch "Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956" (Cải cách ruộng đất). Lừa đảo vì quyền tư hửu của dân kể cả bần cố nông mới được sờ hửu ruộng đất khoảng 1 năm bị tước đoạt nên tất cả thành tay trắng. Đây là yếu tố Hoại-Diệt khá trầm trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam vì ngay cả thành phần bần cố nông hết lòng theo Đảng Cộng Sản Việt Nam suốt trong chiến dịch Cải cách ruộng đất cũng thấy rõ thủ đoạn làm cho họ "tay trắng lại về trắng tay", chẳng khác gì "mèo lại hoàn mèo". Hơn nữa bối cảnh (backgrounds) khủng bố bằng "đấu tố Cải cách ruộng đất" vốn là biện pháp giết gà dọa khỉ ("sát kê cảnh hầu" 殺雞儆猴) gieo nỗi sợ hãi hoang mang, bất mãn và tiêu cực cho cán bộ, đảng viên, bộ đội & công an Đảng Cộng Sản Việt Nam trên toàn miền Bắc Việt Nam đến tận năm 1975. Thứ tư là ngay sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam quốc doanh hóa nên nông nghiệp Bắc Việt thì 1 năm sau nghèo đói và khan hiếm lương thực xãy ra, nên nhà cầm quyền phải thi hành biện pháp "bao cấp", chia đều sự nghèo đói & thiếu thốn cho toàn dân miền Bắc. Đó chính là yếu tố Hoại-Diệt của xã hội cộng sản Bắc Việt và yếu tố nầy càng tác động lên Đảng Cộng Sản Việt Nam sâu sắc hơn. Thứ năm là yếu tố Hoại-Diệt đến từ vụ thanh trừng Nhân Văn-Giai Phẩm 1956-1958 của Đảng Cộng Sản Việt Nam (núp dưới ngụy danh Đảng Lao Động). Những kiếp người sống lâu trăm tuổi Y như một cái bình vôi, Càng sống càng tồi. Càng sống càng bé lại. (Phan Khôi)  Bìa gốc một số Giai phẩm mùa thu, mùa đông, mùa xuân xuất bản năm 1956 (ảnh trên) và phiên bản phục dựng làm trên chất liệu giấy đen giống bản gốc, do những người sưu tập sách thực hiện sau 1975. Ảnh : TL Sự kiện đầu tiên liên quan đến việc đối xử đối với các trí thức gia, tác giả, nhà thơ, và văn nghệ sĩ – những người đã gia nhập hàng ngũ cộng sản Việt Minh trong những năm 1940-1950 nhưng sau đó đã bị thanh trừng vì yêu cầu đòi mở rộng quyền tự do trí thức, bao gồm quyền được xuất bản các tác phẩm độc lập. Từ năm 1967 đến khi chính sách Đổi Mới được thực hiện, tất cả quá trình ra quyết định bị giữ độc quyền trong tay của những nhà lãnh đạo tầm thường của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà không ai dám chống đối hoặc có ý nghi ngờ, do đó đã tạo ra sự trì trệ trong chính sách nhà nước và chính sách đối ngoại. Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm và cuộc thanh trừng nội bộ đảng vào năm 1967 đã là một yếu tố Hoại-Diệt từ đó cho đến nay do tri thức chính trị, kinnh tế, văn hóa & xã hội rất yếu kém của tấng lớp ít học hoặc bần cố nông thất học trên chop bu Đảng Cộng Sản Việt Nam [20]. Sự kiện Nhân Văn - Giai Phẩm là một biểu tượng của sự thất bại của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với lời hứa sẽ mang lại tự do cho giới trí thức kể từ năm 1950 khi Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh đến Trung Quốc cầu viện và ký kết thỏa thuận viện trợ quân sự với cộng sản Tàu. Ký kết nầy mở ra thời kỳ khủng khiếp cho Việt Nam bằng chiến dịch Cải cách ruộng đất và chiến dịch đàn áp thành phần ưu tú của miền Bắc Việt Nam (Nhân Văn – Giai Phẩm). Khi viện trợ quân sự của Trung Quốc được đưa vào Việt Nam, thì dòng chảy ồ ạt các thể chế, cải cách và lực lượng cố vấn Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Một chiến dịch gấp gáp được khởi động để học tập kinh nghiệm cộng sản của Trung Quốc, và 200.000 bản sao của 43 cuốn sách của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã được dịch và in ra để phổ biến các thể chế kinh tế và chính trị Trung Quốc cho đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trước năm 1952, có gần 7.000 binh sĩ và cố vấn Trung Quốc hiện diện tại Bắc Bó (một chiến khu phía Bắc). Trong giai đoạn 1949-1954, Trung Quốc huấn luyện và trang bị cho gần 50.000 bộ đội Việt Nam tại các doanh trại ở Vân Nam và Quảng Tây thành lập vào mùa xuân năm 1950. Theo đề xuất của Trung Quốc, Đảng Lao Động mang tính xã hội chủ nghĩa được công khai thành lập vào tháng Hai năm 1951, để lừa đảo quần chúng trí thức rằng Việt Minh là một tổ chức chống thực dân có cơ sở rộng khắp mà lại không có điểm tựa về mặt tư tưởng [21]. Chiến dịch cải cách ruộng đất hai giai đoạn bắt chước mô hình của Trung Quốc cũng được tiến hành. Giai đoạn ôn hòa từ năm 1953 đến năm 1954 nổi bật là việc giảm tô, theo sau đó là giai đoạn thay đổi rõ rệt hơn từ năm 1954 đến năm 1956 với việc tái phân phối một khối lượng lớn tài sản ở phía Bắc. Đây là hồi chuông cảnh báo giới trí thức bởi vì hầu hết trong số họ đều có vài mối liên hệ đến tầng lớp có ruộng đất "phong kiến" và "phản động". Vào tháng Ba năm 1953, cộng sản quyết định và ban hành một danh sách đặt tên các giai cấp trong xã hội, với nỗ lực làm dịu đi nỗi sợ hãi bằng cách khẳng định rằng "giới trí thức không tự họ hình thành nên một tầng lớp riêng" mà địa vị của họ dựa trên "thành phần" của gia đình. Bởi vì nhiều trí thức được xếp vào thành phần "kẻ thù giai cấp", nên ngược lại cũng có một thành phần mới được tạo ra, đó là "cá nhân tiên tiến", danh hiệu này sẽ được cấp cho ai ngoài việc phục vụ cho cách mạng còn tình nguyện giao nộp toàn bộ của cải cho cộng sản. Nhiều trí thức gia cảm thấy họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải lên Việt Bắc và tham gia cách mạng ; nếu không làm như vậy, họ sẽ bị đánh đồng với việc bắt tay với giặc Pháp. Một số lượng lớn các trí thức gia tham gia Việt Minh vì lòng yêu nước, chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản. Thực tế cho thấy vì các nhà lãnh đạo Việt Minh cố gắng che giấu đi những mối liên hệ với chủ nghĩa cộng sản bằng cách giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương trên danh nghĩa vào năm 1946, nên rất có thể nhiều nhà trí thức tin theo lời Hồ Chí Minh từng công khai cho rằng đây là một tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải cộng sản. Dù cho lý do có là gì đi nữa thì các nhà trí thức cũng đã tham gia cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp với đầy nhiệt huyết. Ngay từ buổi ban đầu, họ đã dốc hết tâm huyết và sức lực cho tất cả các hoạt động mà đất nước kêu gọi sự giúp sức của họ trong thời chiến. Họ sát cánh với những người phu và nông dân để chiến đấu chống lại kẻ thù của đất nước. Họ chia sẻ với những con người này đời sống khổ cực trong rừng rậm, và cũng như thế, họ sống và làm việc trong bầu không khí ngập tràn lòng yêu nước. Nhưng ngay từ buổi ban đầu, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã kiên quyết kiểm soát giới trí thức và ngăn cản họ khỏi tình trạng độc lập tri thức. Trong thư gửi đến giới văn nghệ sĩ và trí thức vào năm 1951, Hồ Chí Minh đã sử dụng ngôn từ mà Mao đã sử dụng trong buổi nói chuyện với giới trí thức tại Diên An, trong đó nhà Mao đã nêu rõ "Thực tế không có nghệ thuật vị nghệ thuật, không có nghệ thuật đứng trên giai cấp, không có nghệ thuật tách rời hoặc độc lập với chính trị. Văn học và nghệ thuật vô sản là một phần của toàn bộ lý tưởng đấu tranh cách mạng của giới vô sản". Từ đó về sau Đảng Cộng Sản Việt Nam hay dùng từ "căm thù" : căm thù đế quốc nước ngoài và phong kiến bản địa hoặc những điền chủ, phú nông, trí thức & hào kiệt". Những bó buộc đối với giới văn nghệ sĩ & trí thức đó đã đẩy một làn sóng trí thức khổng lồ bỏ Việt Minh chạy tới khu vực thuộc quyền kiểm soát của Pháp, những người nào còn trụ lại với Việt Minh thì gần như chỉ có việc sáng tác cho chiến dịch văn chương của Việt Minh và phải chịu đựng những nguyên lý khắt khe của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, ngay cả những người trí thức ở lại chiến khu và gia nhập Đảng cũng phải chịu đựng chiến dịch học tập cải tạo dẫn đầu bởi "những cán bộ văn hóa cộng sản đặc biệt" – những người đã từng được "chỉ dẫn bởi ‘những người cộng sản đàn anh Trung Quốc ‘hệ thống nghệ thuật và văn chương Trung Quốc". Cũng thời điểm đó, Đảng Lao Động buộc tất cả văn nghệ sĩ phải gia nhập Hội Văn Nghệ chính thức và cuộc trấn áp bắt đầu. Tình trạng căng thẳng giữa cộng sản và trí thức bắt đầu khi Trần Dần, một tác giả quân đội đồng thời là Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, viết một cuốn sách phóng sự về trận chiến Điện Biên Phủ vào tháng Hai năm 1955. Quyển sách là bức chân dung phác họa cuộc sống khổ cực bên trong chiến hào nơi hầu như không thấy bằng chứng cho thấy sự thắng lợi của cuộc chiến hay tính đúng đắn của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau đó với tâm trạng thất vọng, Trần Dần đã tập hợp một nhóm các nhà trí thức có cùng tư tưởng trong nội bộ quân đội cộng sản Việt Nam, để đòi lại sự tự do không chỉ từ các nhân viên kiểm duyệt quân đội mà còn từ các viên chính ủy của Đảng Cộng Sản Việt Nam – vốn là những thành phần nông dân ít học (Andrew Vickerman, The Fate of the Peasantry : The Premature "Transition to Socialism" in the Democratic Republic of Vietnam (New Haven, Conn. : Yale Center for International and Area Studies, Chuyên khảo số 28, 1986), and Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley : University of California Press, 1993), 224). Theo như cương lĩnh được soạn thảo và đệ trình cho Ban chấp hành Trung ương vào năm 1955 của Trần Dần và gần 30 các trí thức gia khác thì "một tác giả phải được cho phép sự tự do gần như hoàn toàn trong việc lựa chọn chủ đề, nhân vật, phong cách thể hiện thái độ và cảm xúc" và "tất cả trở ngại và hạn chế phải bị bài trừ như những kẻ thù của chủ nghĩa hiện thực". Những lời tấn công thẳng thắng như vậy vào sự kiểm soát của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khơi dậy khí phách trong lòng giới trí thức, những người đã tập hợp lại để bảo vệ cho Trần Dần. Phan Khôi, cha đẻ của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, khi đó 70 tuổi, đã viết "mỗi người trong chúng ta sở hữu nghệ thuật của chính bản thân mình và phản ánh tính cách của chúng ta trong đó. Chỉ có loại hình nghệ thuật và tính cách này mới có thể tạo ra quang cảnh trăm hoa đua nở. Trái lại, nếu các tác giả bị ép buộc phải viết theo cùng một phong cách, thì sẽ có ngày tất cả loài hoa đó sẽ trở thành hoa cúc vạn thọ hết thảy" (Giai Phẩm, tháng 9/1956, trích trong Jamieson, Understanding Vietnam, 258 ; và Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam, Sài Gòn, Nhà xuất bản Công Dân, 1958), 81-83 ; và Phan Khôi, "Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ," Giai Phẩm Mùa Thu (tháng 9/1956) trong Hoàng Văn Chí, biên tập, Giai cấp mới ở miền Bắc Việt Nam (Sài Gòn : Nhà xuất bản Công Dân, 1958), 75). Một nhà trí thức khác, Lê Đạt, đã than phiền rằng hiện thực xã hội chủ nghĩa giống như : Việc đặt các đồn cảnh sát và máy móc thiết bị vào giữa trái tim con người.Việc buộc cảm xúc phải thể hiện theo như một bộ quy tắc mà chính phủ ban hành (Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s," 164). Nhà thơ Phùng Quán đã khẳn khái nêu bàn tuyên ngôn trong Nhân Văn – Giai Phẩm : Đường mật công danh không làm ngọt lưỡi tôi, Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã. Bút giấy tôi, ai cướp giật đi ? Tôi sẽ dùng dao khắc văn lên đá. (Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s," 164). Phản ứng ban đầu của đảng đối với Trần Dần và những nhà chống đối khác là đặt họ trong chế độ quản thúc tại gia và sau đó cải tạo họ. Tố Hữu, nhà thơ của lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngay sau đó đã phát động một chiến dịch nhằm tái củng cố đời sống của giới trí thức với những nguyên lý của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tố Hữu yêu cầu các nhà trí thức phải tuân thủ nghiêm ngặt các tham số được quy định trong bài phát biểu của chủ tịch Mao tại Diên An : "những nhân vật mang tính tích cực," "những anh hùng cách mạng," và "nông dân và công nhân như lực lượng tiên phong". Nói tóm lại, Tố Hữu kêu gọi sự tổng hợp không thỏa hiệp giữa chính trị và nghệ thuật bởi vì "nội dung quyết định hình thức". (Trần Lê Văn, "Fear Not that the Enemy Shall Benefit," Nhân Văn số 2, 30/09/1956) : 164 ; Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s"). Để thúc đẩy tạo dựng nên xã hội mang tính pháp trị hơn, giới trí thức đã kêu gọi chỉnh sửa Hiến pháp, yêu cầu đảng trao tự do cho quốc hội, và mong muốn một nhánh tư pháp được độc lập. Vị luật sư nổi tiếng, Nguyễn Mạnh Tường, đã vạch ra bốn cuộc cải cách pháp lý cơ bản vào tháng 10 năm 1956 cần phải được thực hiện để tránh những việc lạm dụng ngoài vòng pháp luật như đã xảy ra trong suốt chiến dịch cải cách ruộng đất : thiết lập thời hiệu khởi kiện ; chấm dứt việc xử tội đồng lõa của gia đình và các thế hệ liên quan đến phạm nhân ; thiết lập một tiêu chuẩn cao hơn cho chứng cứ ; và cung cấp quyền lợi cho người bị khởi tố trong suốt thời gian điều tra. Theo ông, những trở ngại thêm vào đó là "sự khinh bỉ đối với pháp lý – thứ đứng dưới quyền lực chính trị – và sự khinh bỉ đối với các chuyên gia". Trong khi nhiều nhà trí thức ý thức được tương lai không lành sẽ xảy ra và tuân theo đường lối của đảng thì những người khác lại tạm lánh mặt cho đến đầu năm 1956 khi tuyển tập mang tên Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản. Tính táo bạo của tạp chí này, trong đó bao gồm một bài thơ Trần Dần viết nhằm miêu tả tình trạng tệ hại không thể chấp nhận được ở miền Bắc, đã làm chất xúc tác cho các nhà trí thức khác nổi dậy (Hirohide Kurihara, "Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’ Party, 1956-1958," in Indochina in the 1940s and 1950s (Ithaca, N.Y. : Nhà xuất bản Đại học Cornell, Southeast Asia Program, 1992), 165–196). Ngoài nhu cầu tự do sáng tác và quyền tự do thành lập các ấn phẩm độc lập mà không chịu sự kiểm soát và kiểm duyệt của đảng, những người bất đồng chính kiến nói trên còn có rất nhiều khiếu nại ôn hòa & hợp lý khác. Phần lớn nhu cầu của họ tập trung vào vấn đề "sự thật" và tính hợp pháp của các nguồn thông tin độc lập và thay thế. Các nhà đối kháng hiểu sự cần thiết của công tác tuyên truyền, nhưng họ cũng cảnh giác trước việc Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ diễn dịch sai hoặc nói dối về các sự kiện nhằm thúc đẩy các mục tiêu đàn áp của Đảng. Phùng Quán đã yêu cầu một cách rõ ràng về sự minh bạch trong một bài thơ nổi tiếng Lời Mẹ Dặn, được trích đoạn như sau : Con ơi một người chân thật Thấy vui muốn cười cứ cười Thấy buồn muốn khóc là khóc. Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu. Các nhà phê bình cũng đề cập rất nhiều đến sự thiếu dân chủ, sự chiếm hữu quyền lực trong tay một số ít nhân vật, và tình trạng trì trệ của chính trị nói chung. Hai tác phẩm táo bạo nhất là của Phan Khôi và Lê Đạt là hai tác giả viết về "ông bình vôi," ống nhổ mà người nhai trầu vẫn sử dụng, được lấp đầy bởi vôi để ngăn mùi ; đến lúc vôi tích tụ, làm cho bình vôi trở nên vô dụng, để ám chỉ Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã già nua và u tối. Hai tác phẩm này đã làm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam giận dữ : Những kiếp người sống lâu trăm tuổi, Y như một cái bình vôi. Càng sống càng tồi. Càng sống càng bé lại. Phan Khôi đã viết một bài khảo cứu nhỏ dựa trên bài thơ bốn câu này, đặt tên là "Ông bình vôi," nhằm bổ sung thêm cho hình ảnh phúng dụ của Lê Đạt. Trong bài viết này, ông kể khi còn là một cậu bé 18 tuổi ông đã "hất một loạt ‘ông bình vôi’ thờ trên tường thành xuống đất. Sao lại làm như thế ? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lý luận". Ông đả kích những nhà lãnh đạo đảng vô dụng và già cỗi : "Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cũ rũ trên tran hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ‘Ông’ ". Đối tượng của sự đả kích rất rõ ràng. Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đảng hàng đầu đã trở nên quá cứng nhắc và bảo thủ, cũng giống như những bình vôi cũ, đã mất đi tính hữu dụng. Đã đến lúc cất họ vào kệ. Ở đó họ sẽ được kính trọng, nhưng họ sẽ được thay thế bởi "những bình vôi" mới và có ích hơn. Vì điều này mà Phan Khôi bị tố là kẻ phản động và người theo chủ nghĩa xét lại, một người con người già nua suy yếu không thể vượt qua được "tâm tính tư sản" của mình, nhưng bất chấp những sự tấn công này, ông tiếp tục biên tập tờ Nhân Văn và Giai Phẩm để hỗ trợ cho những tác giả và trí thức trẻ. Các nhà lãnh đạo đảng bị chia rẽ trong việc giải quyết tờ Nhân Văn, Giai Phẩm và những tạp chí chống đối khác. Nhiều người muốn miễn tội cho giới trí thức này. Đặc biệt, quân đội khá cảm thông với nhu cầu của những nhà trí thức có lẽ bởi vì bản thân Quân đội Nhân dân cũng cảm thấy đảng can thiệp quá nhiều vào công việc riêng của mình. Nhiều người trong Quân đội Nhân dân, cũng như các nhà trí thức, cảm thấy lo lắng về sự quỵ lụy một cách mù quáng đối với các mô hình và học thuyết Trung Quốc (Bùi Tín, Following Ho Chi Minh : Memoirs of a North Vietnamese Colonel (Honolulu : University of Hawaii Press, 1995), 14-16 and Cecil Currey, Victory at Any Cost (Washington, D.C. : Brassey’s, 1997), esp. 145–212). Những người khác hoàn toàn không tin rằng giới trí thức có thể là mối đe dọa với chế độ : những cuộc tấn công gay gắt từ trong nội bộ giới này đã chọc giận nhiều người của đảng, nhưng dân chúng không mấy ai biết đến các nhà trí thức cùng với những lời phê bình chỉ trích của họ. Bùi Tín cho rằng phong trào được dung thứ vì tính cô lập của nó. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thường dưới dạng sách và phim Trung Quốc và Xô Viết, dễ tiếp cận với người dân Việt Nam có trình độ trung bình hơn nhiều so với các tác phẩm của Lê Đạt và Phan Khôi. Như Bùi Tín ghi lại, "Những ngày đó không ai có thể sở hữu các bản Nhân Văn hoặc Giai Phẩm để có thể tự hiểu được vấn đề ồn ào lúc bấy giờ". Lời kêu gọi của những nhà bất đồng chính kiến nói trên phần nào không tới được phần lớn dân chúng bởi vì gần 90 phần trăm dân cư là nông dân mù chữ hoặc bán mù chữ. Tuy nhiên, những người theo đường lối cứng rắn trong đảng đã giành phần thắng, vào tháng Hai năm 1956 cuộc đàn áp không nương tay bắt đầu với việc bắt giam Trần Dần và các đồng nghiệp của ông. Mặc dù đảng tiến hành hàng loạt các chiến dịch công khai bài trừ các tác phẩm của ông, nhưng vẫn phải để cho Nhân Văn, Giai Phẩm và các tạp chí khác được xuất bản vào mùa hè và mùa thu năm đó (Nhân Văn được xuất bản năm lần từ 20/9 đến 20/11). Học giả người Nhật Hirohide Kurihara đã lập luận rằng trong suốt giai đoạn này thật ra Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải thừa nhận những sai lầm trong chính sách văn chương, chẳng hạn như tạp chí lý thuyết Học Tập, đã công nhận những vấn đề nêu ra trong Nhân Văn và Giai Phẩm "phần nào phản ánh được thực tế," và một bài viết trong nhật báo của Đảng là tờ Nhân Dân nhật báo đã nói rằng chính sách "Trăm hoa" "nhìn chung là đúng". Ảnh hưởng thực của sức ép quốc tế và nhu cầu chính trị trong nước là một phản ứng hai mũi nhọn tấn công vào Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đầu tiên là cuộc đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến, bao gồm cả việc các ấn phẩm của họ bị tịch thu và những nhà lãnh đạo phong trào bị bắt và cho đi cải tạo. Hai là chiến dịch văn học mạnh mẽ dẫn đầu bởi giới trí thức trung thành với đảng và mệnh lệnh của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chiến dịch đàn áp bắt đầu khi tạp chí Nhân Văn bị đóng cửa vào tháng Mười Một năm 1956 sau một cuộc đình công có tổ chức của công nhân xưởng in, trước khi số báo thứ sáu được xuất bản. Tạp chí Giai Phẩm cũng bị đóng cửa chỉ sau khi phát hành bốn số (Tháng 3, Tháng 8, Tháng 10, Tháng 12 năm 1956). Các nhà xuất bản của cả hai tờ báo đều bị bắt, còn Phan Khôi qua đời tại Hà Nội vào đầu năm 1960, chỉ vài ngày trước khi ông bị triệu tập xét xử vì tội "đi chệch đường lối". Các nhà lãnh đạo khác bị cáo buộc là đã "âm mưu kích động quần chúng thực hiện những cuộc biểu tình phản cách mạng nhằm lật đổ chế độ dân chủ nhân dân và sự lãnh đạo của đảng". Sau đó thì Hồ Chí Minh đã đưa ra quyết định biên dịch ra tiếng Việt tất cả tài liệu tiếng Trung và tiếng Nga về việc quản lý nghiêm ngặt giới trí thức. Thủ đoạn đàn áp tri thức con người bằng vụ án Nhân Văn – Giai Phầm đã gieo rắc sợ hãi trên khắp miền Bắc Việt Nam làm thui chột mọi sáng kiến phát triển quốc gia. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn trí tuệ để quản trị miền Bắc Việt Nam đúng với trào lưu phát triển đương thời [22]. Thứ sáu là yếu tố Hoại-Diệt phát sinh tự nhiên trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay sau vụ án chống xét lại 1963-1967. Năm 1961, Dương Bạch Mai, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phàn nàn về tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng Lao động Việt Nam. Những khẳng định năm 1961 nầy của Dương Bạch Mai càng trở nên đáng lo ngại nếu ta theo dõi diễn biến của các sự kiện vào năm 1963, 1964. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của Đảng Lao động vào tháng 12 năm 1963, ông Mai đã đưa ra cảnh báo mạnh mẽ chống lại quan điểm ngày càng "thân Trung Quốc", và trở nên bất đồng với Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và một số người khác vốn cùng có ý định khởi xướng một chiến dịch chống "chủ nghĩa xét lại hiện đại" ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Một vài tháng sau đó, Dương Bạch Mai qua đời. Ông trở thành thành viên của một liên minh chặt chẽ cùng với các đảng viên khác như Hoàng Minh Chính và Bùi Công Trừng – những nhân vật sau này bị vướng vào một vụ án với tên gọi "vụ án xét lại chống Đảng". Theo các tài liệu cũ của Cộng hòa dân chủ Đức được giữ trong các kho lưu trữ tại Cộng hòa liên bang Đức hiện nay. Mâu thuẫn giữa nhóm do Lê Duẩn đứng đầu và nhóm đối nghịch lên đến đỉnh điểm tại Hội nghị Trung ương 9 và sau đó dẫn tới một cuộc thanh trừng trong nội bộ Đảng, thường được biết đến như là "vụ án xét lại – chống Đảng". Tài liệu này tập trung vào những diễn biến ở Việt Nam những năm 1963 và 1964. Những biến động đó phải được đặt trong bối cảnh trong nước của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào đầu những năm 1960 khi mà các nhà lãnh đạo của Đảng Lao động đang tăng cường công tác chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh ở miền Nam, và chống lại chủ trương "chung sống hòa bình" theo tư tưởng của nhà lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô. Sau Hội nghị lần thứ 15 của Ủy ban Trung ương Đảng Lao Động vào tháng 1/1959 và sự thành lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào tháng 12 năm 1960, cuộc chiến ở miền Nam ngày càng quyết liệt. Quyết định của Đảng Lao động quay lại chính sách chiến tranh cách mạng nhằm tái thống nhất đất nước đã dẫn đến mối bất hòa lên cao giữa Hà Nội và Moskva. Dựa trên học thuyết "chung sống hòa bình", các nhà lãnh đạo Liên Xô đã không ủng hộ việc tăng cường đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam đồng thời thúc giục Hà Nội phải kiềm chế hơn.[7] Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô nỗ lực tránh mọi tình huống có thể dẫn đến đối đầu trực tiếp với Mỹ. Trong bối cảnh đó, Liên Xô đi theo chính sách dần giảm can dự vào Việt Nam trong khi ảnh hưởng của Trung Quốc lại tăng theo một cách tương ứng [23]. Thông tín viên Thông tấn xã Đức Pommerening cho rằng hội nghị chính là một "minh chứng rõ ràng nhất cho sự bất đồng trong nội bộ Đảng". Khoảng 50 cán bộ đảng viên cấp trung đã gửi thư lên Ủy ban Trung ương Đảng, yêu cầu Đảng nên giữ vị trí trung lập giữa Trung Quốc và Liên Xô, không nên ngả về phía Trung Quốc. Theo thông tin mà sứ quán Đông Đức và Pommerening thu nhận được, những yêu cầu trên bắt nguồn từ các cán bộ như Đặng Thai Mai, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Tạ Quang Bửu và Bùi Công Trừng, hai Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Công nghệ Nhà nước, Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết học Mác- Lênin, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm và một trợ lý của Phạm Văn Đồng. Trong bài diễn văn của mình tại hội nghị, chuyên gia kinh tế Bùi Công Trừng đã giải thích rằng tình hình kinh tế Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là cực kỳ căng thẳng. Ông đề xuất một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với Liên Xô và bác bỏ quan điểm phi thực tế nhằm tạo lập mô hình kinh tế tự cung tự cấp ở miền Bắc Việt Nam. Tạ Quang Bửu cũng cảnh báo rằng ông sẽ từ bỏ mọi chức vụ của mình và làm việc như một giảng viên đại học bình thường nếu lãnh đạo Đảng quyết định nghiêng hẳn về phía Trung Quốc và cắt đứt quan hệ với Liên Xô. Lê Liêm và Ung Văn Khiêm dường như là những người phản đối thẳng thắn và gay gắt nhất đường lối "thân Trung Quốc" mới trong Ủy ban Trung ương. Ung Văn Khiêm đã phát biểu trong ba giờ liền và Lê Liêm đã nói suốt bốn giờ tại hội nghị. Theo Tố Hữu, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Lao Động (Đảng Cộng Sản Việt Nam) thì cần phải bảo vệ sự "trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin" và cần phải tấn công trực diện vào các khuynh hướng "xét lại". Tháng 5/1963, Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang Hà Nội đưa Việt Nam đến gần hơn với Trung Quốc cùng nhau phản đối tư tưởng chung sống hòa bình, đồng thời nhấn mạnh rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên dựa vào sức mạnh của mình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành cách mạng (chiến tranh võ trang) ở miền Nam Việt Nam. Cùng thời điểm đó, "một nhóm các nhà văn của Đảng" đã viết thư cho Ủy ban Trung ương Đảng lên tiếng phản đối những phát ngôn ngày càng mang tính chất chống Liên Xô. Tháng 8/1963, "các phần tử thân Liên Xô" trong Đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ thống, đặc biệt áp dụng quản thúc Võ Nguyên Giáp tại nhà riêng từ khoảng giữa năm 1963, Thư ký riêng của Phạm Văn Đồng bị bắt giữ vì đã chuyển các thông tin mật cho sứ quán Liên Xô và cựu Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm mất ghế trong Ủy ban Trung ương Đảng. Đến mức này, Lê Duẩn dựa vào quyền uy do Trung Quốc ban phát đã buộc Hồ Chí Minh phải lựa chọn "hoặc theo Bộ Chính trị hoặc đứng ngoài" và kết cho Hồ Chí Minh đã phạm phải hai sai lầm chết người là thỏa hiệp với Pháp năm 1945, và chia cắt Việt Nam bằng hiệp định Genève 1954. Bên cạnh làm suy yếu uy tín của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn còn nhắm vào việc thanh trừng những "cộng sự thân cận nhất" của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, những người giờ đây đa phần đều phản đối việc xích lại gần Trung Quốc như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng hay Vũ Đình Huỳnh. Ngày hai tháng 9/1963, một bài báo có chủ đích của Lê Đức Thọ được đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng (Trần Lê Văn, "Fear Not that the Enemy Shall Benefit," Nhân Văn số hai (30/9/1956) : 164 and Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s"). Trong đó, ông lập luận rằng toàn bộ đảng viên phải đồng lòng nhất trí đi theo đường lối của Đảng. Ông cho rằng, nhìn chung, các cán bộ, đảng viên đều giữ một lập trường vững chắc về mặt ý thức hệ. Tuy nhiên, đã có một số đảng viên bị ảnh hưởng bởi "tư tưởng hữu khuynh" và "chủ nghĩa xét lại", từ đó có những hoài nghi về chiến lược của Đảng trong công cuộc tái thống nhất đất nước. Những đối tượng "lầm đường lạc lối" này cũng phản đối tiến độ chiến dịch tập thể hóa trong nông nghiệp, đồng thời truyền bá mô hình hợp tác kinh tế quốc tế thay vì nền kinh tế tự cung tự cấp mà ban lãnh đạo Đảng ưu ái ở miền Bắc. Theo Lê Đức Thọ, trong nội bộ Đảng đang tồn tại một số đảng viên thiếu tính kỷ luật, tuyên truyền những quan điểm không phù hợp với các nghị quyết của Đảng làm hủy hoại sức mạnh và tính thống nhất của Đảng. Ông cũng nhấn mạnh rằng Đảng Lao Động phải kiên quyết chống lại ảnh hưởng của các khuynh hướng phi vô sản, tư tưởng hữu khuynh, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xét lại hiện đại trong nội bộ đảng viên và đề xuất rằng những đảng viên không theo đúng đường lối của Đảng cần phải chịu sự phê bình, giáo dục, hoặc chịu thi hành kỷ luật thích đáng tùy thuộc vào mức độ phá hoại đối với những công tác của Đảng và sự nghiệp cách mạng (Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s," 166). Những lời lẽ của người giám sát về tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Đức Thọ và cũng là cộng sự thân thiết của Lê Duẩn này đã mở màn cho vụ án "Xét Lại Chống Đảng" dấy lên một điềm báo không mấy tốt đẹp. Danh sách bao gồm 19 người. Một số nhân vật trong đó sau này trở thành những người trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan tới "vụ án xét lại – chống Đảng" : Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao ; Vũ Đình Huỳnh, nguyên là thư ký riêng của chủ tịch Hồ Chí Minh và là Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao ; Bùi Công Trừng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Giám đốc Viện Kinh tế học ; Lê Liêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, nguyên Chính ủy trong trận Điện Biên Phủ, và Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.[42] Điều đáng lưu ý ở đây là danh sách lại vắng mặt Hoàng Minh Chính, người đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ vụ án. Chẳng bao lâu sau, cơ hội cho việc tự phê bình và phơi bày các khuynh hướng "xét lại" trong nội bộ đảng viên đã xuất hiện. Cuối năm 1963, Ủy ban Trung ương Đảng Lao Động tổ chức hội nghị lần thứ 9, một sự kiện có tầm quan trọng quyết định. Ban đầu, hội nghị dự kiến tổ chức trước đó hai tháng. Nhưng sau cùng, hội nghị đã bắt đầu vào ngày 22/11 và kết thúc vào đầu tháng 1 năm 1964 sau nhiều lần gián đoạn (Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam). Hội nghị đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình tiến gần hơn với Bắc Kinh và đưa đến một cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai nhóm "thân Trung Quốc" và "thân Liên Xô". Cuối cùng, nhóm do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đứng đầu đã chiếm ưu thế và triển khai ngay một chiến dịch chỉnh đốn trong nội bộ Đảng nhằm đấu tranh chống lại những ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại (Jack Woddis, 1969, Ho Chi Minh, "A Talk with Intellectuals", New York : International Publishers, 1969, 109). Ngay sau Hội nghị Trung ương 9, Lê Đức Thọ đã tấn công những đảng viên bị ảnh hưởng bởi "chủ nghĩa xét lại" và "lối suy nghĩ tư sản". Ông chỉ trích họ có tư tưởng "bi quan", thiếu cảnh giác cách mạng và không hiểu đúng nguyên tắc của chuyên chính vô sản, có xu hướng quá phụ thuộc vào các nguồn viện trợ nước ngoài thay vì ủng hộ quan điểm mô hình kinh tế tự cung tự cấp, và giữ thái độ thờ ơ, không ý thức được trách nhiệm của bản thân trong cuộc đấu tranh tái thống nhất đất nước. Đó là những lí lẽ mà Lê Đức Thọ và những nhân vật khác như Nguyễn Chí Thanh đã từng sử dụng trước đó, thế nhưng giọng điệu của bài báo này thậm chí còn mạnh mẽ hơn nhiều, cho thấy sẽ có những biện pháp cụ thể nhằm chống lại "chủ nghĩa xét lại" và "khuynh hướng hữu khuynh" trong nội bộ Đảng. Tuy nhiên, quan trọng nhất, Lê Đức Thọ đã trực tiếp khẳng định sự tồn tại của một nhóm quan trọng trong Đảng Lao Động đã không theo đúng đường lối của Đảng. Tuy không đề cập đến tên tuổi cụ thể nhưng rõ ràng ông đã nhắm tới những đảng viên như : Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Hoàng Minh Chính, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm và những nhân vật khác vốn đã lên tiếng phản đối Lê Duẩn và bè phái của mình trong Hội nghị Trung ương 9. Lê Đức Thọ cũng bổ sung rằng "những hành động bè phái, chia rẽ phải được ngăn chặn càng sớm càng tốt". Lê Đức Thọ đã ra một thông báo yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên phải tham gia lớp học để học tập và chỉnh huấn theo các nghị quyết đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và triển khai công tác tự phê bình. Cuối khóa học, tất cả đảng viên đều phải nộp một bản thu hoạch cá nhân viết tay và giải thích tất cả những gì đã học được. Sau vụ án "Chống Xét Lại" nầy Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nắm quyền lực tuyệt đối và bao trùm. Cả trong chiến tranh Việt Nam và sau 1975, quyền lực tuyệt đối của Lê Duẩn khiến cho chính sách sai lầm của ông ta không bị kiểm soát. Việt Nam suy tàn nhanh chóng trong mười năm hậu chiến. Sau khi Lê Duẩn chết năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành cơ chế "tứ trụ", chia quyền lực trong đảng cho bốn nhân vật cao nhất, nắm các vị trí tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội [21]. 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1975 đến 1990 Năm 1990, Đảng Cộng Sản Việt Nam khoe rằng con số đảng viên trên toàn quốc đã lên đến hơn hai triệu. Phát triển đảng viên như vậy là phát triển nhanh và khá mạnh, vì riêng thời khoản 15 năm 1975-1990, Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển thêm hơn 1 triệu đảng viên. Thế thì mầm mống Hoại-Diệt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đến từ đâu ? Phân tích & tổng hợp lại thì các mầm mống đó đều là nội tại, tức là từ bản chất của Đảng Cộng Sản Việt Nam và do chính Đảng Cộng Sản Việt Nam tạo ra. Thứ nhất là chiến thắng miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước dưới ách cai trị của cộng sản và chi phối toàn cõi Đông Dương vào năm 1975 là yếu tố Hoại-Diệt đầu tiên trong thời kỳ nầy. Thật vậy, ngay sau khi chiếm Sài Gòn (30/04/1975), Đảng Cộng Sản Việt Nam huênh hoang & khoác lác (boast) tuyên bố "chủ nghĩa Mác-Lê vô địch toàn cầu", "thời đại nầy là thời đại Hồ Chí Minh quang vinh" & "Đảng ta đã chiến thắng Đế Quốc Mỹ"… mà không hề biết là cộng sản Việt Nam đã lọt vào âm mưu dàn dựng do Tàu-Mỹ thỏa thuận bằng ngoại giao, nhờ vào những thủ đoạn hoạt đầu của Henry Kissinger nhằm hy sinh Việt Nam & Đông Dương cho quyền lợi kinh tế và chính trị của Tàu-Mỹ. Vì bản tính kiêu căng cộng sản và ngủ quên trên chiến thắng Đảng Cộng Sản Việt Nam bị phương Tây và Trung Quốc cô lập hàng chục năm từ 1975, riêng Trung Quốc còn tìm cách quấy rối biên giới phía Bắc & phía Tây Việt Nam nhắm làm suy yếu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Yếu tố Hoại-Diệt nầy tác hại không những riêng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam mà còn tác hại lớn lao đến cộng sản quốc tế : cộng sản Liên Xô đánh vào cộng sản Tàu, cộng sản Tàu lại đánh vào cộng sản Việt Nam và cộng sản Việt Nam đánh vào cộng sản Miên (Khờ Me đỏ) như một chuổi hiệu ứng Domino [24]. Thứ hai là chính sách trả thù man rợ của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với hơn 1 triệu quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa ngay sau khi nhuộm đỏ Việt Nam năm 1975. Việc bỏ tù hơn 1 triệu người miền Nam Việt Nam trong các nhà tù lao động khổ sai – ngụy danh "Trại Cải Tạo"- hàng chục năm kể từ 1975 đã làm phát sinh ngay lập tức yếu tố Hoại-Diệt cho Đảng Cộng Sản Việt Nam vì bị quốc tế lên án, bị quốc tế cấm vận gần 20 năm và bị gần 10 triệu người miền Nam Việt Nam thù ghét. cộng sản Việt Nam rơi vào tình trạng bị cô lập ngoại giao, mặc dù đã được gia nhậpLiên Hiệp Quốc [25]. Thứ ba là chính sách "đổi tiền", "cải tạo tư bản tư doanh" và vơ vét chiến lợi phẩm tại miền Nam Việt Nam do Lê Duẫn & Lê Đức Thọ chủ trương và giao cho Đỗ Mười thực hiện tại miền Nam Việt Nam từ 1978 đã làm cho Việt Nam kiệt quệ kinh tế trong suốt 20 năm sau. Yếu tố Hoại-Diệt nầy tác hại khá trầm trọng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam về kinh tế, chính trị, văn hóa & xã hội. Thực chất của hai chính sách nầy là cướp tiền, tài sản và quí kim của nhà giàu và của chính phủ thua trận là Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam để đem về nuôi miền Bắc đang kiệt quệ sau 20 nội chiến. Tuy vậy, các cơ xưởng công nghiệp bị tháo gở từ miền Nam Việt Nam chở ra Bắc đã bị bỏ phế nhiều năm sau đó và đã trờ thành đống sắt vụn. Lý do là Đảng Cộng Sản Việt Nam không có các chuyên gia công nghiệp đủ trình độ kỷ thuật để lắp ráp những công xường đó cho miền Bắc Việt Nam [26]. Thứ tư là vào năm 1976, Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định thống nhất Việt Nam và đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện ba cuộc cách mạng : về quan hệ sản xuất, khoa học – kỹ thuật, tư tưởng và văn hóa (phát triển từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa). Yếu tố Hoại-Diệt phát sinh từ chính sách nầy dường như vẫn kéo dài cho đến tận hôm nay. Các chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa được đẩy mạnh ở miền Nam, và phân bổ lại nguồn lực lao động trên cả nước, bao gồm cả xây dựng các vùng kinh tế mới, từng bước hoàn thiện phân phối xã hội chủ nghĩa làm theo năng lực hưởng theo lao động, xóa bỏ hoàn toàn nề kinh tế thị trường của miến Nam Việt Nam trước năm 1975. Chỉ tiêu kinh tế đặt ra rất cao trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá nặng nề cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các vùng nông thôn và một số cơ sở hạ tầng giao thông và công nghiệp miền Bắc, nhân lực hạn chế do tỷ lệ thương tật trong chiến tranh cao, tỷ lệ mù chữ khá cao, khả năng quản lý kinh tế yếu kém, phát triển kinh tế dàn trải, đầu tư nhiều cho nông thôn và các tỉnh (hòng sớm xóa bỏ hố phân hóa kinh tế giữa hai miền, nông thôn - thành thị, đồng bằng - miền núi) trong khi điều kiện các vùng về tài nguyên tự nhiên, nhân lực rất khác nhau. Đường lối kinh tế hoang tưởng của cộng sản Việt Nam trong thời ký nầy là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp". Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế, các xí nghiệp, nhà máy cứ theo kế hoạch nhà nước mà làm. Thành phần kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, và nông dân làm việc trong các hợp tác xã. Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem phiếu. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm : Năm 1977, tăng 2,8% ; năm 1978, tăng 2,3% ; năm 1979, giảm 2% ; năm 1980, giảm 1,4%, bình quân 1977–1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%. GDP bình quân đầu ngưới là 80 USD năm 1980 thấp hơn Lào (94 USD), và Campuchia (191 USD). Rõ rang là cộng sản Việt Nam thiếu khả năng hoạch định và quản lý kinh tế do đa số cán bộ trình độ quản lý kinh tế kém. Mô hình kinh tế nặng về tự cung tự cấp, quan liêu, không sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất cũng như con người của quốc gia. Thêm và đó phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", làm cạn kiệt vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng [27]. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thời kỳ 1980-2010. Thứ năm là thảm trạng thuyền nhân Việt Nam từ 1975 kéo dài cho đến nay – hiện nay vẫn còn thuyền nhân Việt Nam vượt biển Manche qua Anh Quốc xin tỵ nạn. Thảm trạng nầy phát sinh yếu tố Hoại-Diệt được ghi đậm nét cho lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam dù đảng nầy cố xuyên tạc sự thật. Thật vậy, trong lịch sử của nhân loại, chưa khi nào có một cuộc di tản bi thảm và kéo dài như thảm trạng thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản kể từ sau 1975 cho mãi đến thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ vừa qua. Sự phi lý của thảm kịch thuyền nhân Việt Nam còn nổi bật vì những người tị nạn Việt Nam đã phải rời quê hương ra đi để tìm quyền sống, trong khi tiếng súng chiến tranh đã không còn trên lãnh thổ Việt Nam. Trái lại, lòng thù hận và chủ nghĩa cuống tín mù quáng của những người cộng sản nắm quyền lực bằng súng đạn đã tiếp tục bao phủ đất nước và dân tộc trong một không gian đàn áp và khủng bố tàn bạo, khiến cho người dân miền Nam thời đó chỉ còn một lối thoát là lao mình ra biển cả để tìm con đường sống. Với một niềm hy vọng và một lời cầu nguyện, hàng chục ngàn gia đình gồm cả trẻ thơ và bô lão đã ra khơi bằng những chiếc thuyền máy mong manh hướng về những bến bờ hy vọng, bất kể những hiểm nguy mà có lẽ tất cả mọi người đã dự đoán được trước khi quyết định ra đi. Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5.000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4.000 tị nạn, Tân Gia Ba 1.800 người, và có khoảng 1.250 người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7/1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy bù nhìn của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng vượt biển tỵ nạn cộng sản bắt đầu gia tăng. Đến cuối năm 1977, đã có trên 15.000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền cộng sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân sang Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Vào cuối năm 1978, đã có 62.000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông-Nam Á. Riêng trong tháng 6/1979, đã có trên 54.000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Vì vậy, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả đã gia tăng từ năm 1979. Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con ; đến chuyện chia nhau từng giọt nước qúy hơn vàng được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải tặc Thái Lan. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương. Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết nên thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới [28]. Số thuyền nhân được định cư tại các nước trên thế giới   Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi (Tran Nam Bac, "Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens", Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục). Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức "phong trào nhập thành", hay nói nôm na là phong trào "dinh tê". Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu "an toàn Phát Diệm", thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950 ? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình ? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy. (Nguyễn Văn Lục, "Nhìn lại cuộc di cư 1954 – 1955 II", Đàn Chim Việt Online – 09/12/2023). Thứ sáu là chiến tranh biên giới với Trung Cộng & Miên Cộng hơi bày bộ mặt thật của cộng sản Đệ III : Việt Cộng đánh Miên Cộng (Khờ Me Đỏ) và Trung Cộng đánh Việt Cộng trong khi Liên Xô đứng ngoài vỗ tay cổ vũ cho Hà Nội. Sự kiện nầy phát sinh ngay lập tức yếu tố Hoại-Diệt không riêng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam mà cho toàn khối cộng sản và đóng góp cho sự sụp đổ của khối nầy từ bên trong vào đầu thập niên 1990 của thế ký 20. Từ giữa năm 1975 đến cuối năm 1978 : Khmer Đỏ tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, phá hủy nhiều ngôi làng và giết hại hàng ngàn thường dân Việt Nam. Chiến tranh biên giới Việt Cộng – Miên Cộng (Campuchia Dân Chủ/Khờ Me Đỏ) còn được gọi là cuộc chiến Việt Nam xâm lược Campuchia hay là cuộc chiến tranh giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ.    Ban lãnh đạo Khmer Đỏ ở Phnom Penh sau khi giành chính quyền. Từ trái sang phải : Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary, Son Sen và Vorn Vet, 17/2/2022. Chiến tranh chính thức khởi sự vào ngày 25/12/1978 khi quân đội cộng sản Việt Nam tiến hành một cuộc tấn công toàn diện vào Campuchia, sau đó chiếm đóng nước này và lật đổ chính phủ của Đảng Cộng sản Campuchia, lập ra một chế độ cộng sản mới do Heng Samrin đứng đầu rồi tới Hun Sen, kéo dài đến tận ngày nay (Hun Sen & Heng Samrin là thành viên Khờ Me Đỏ đã chấp nhận làm bù nhìn cho Hà Nội). Ngay lập tức chế độ cộng sản Việt Nam bị quốt tế lên án là xâm lược, bị cấm vận và cô lập ngoại giao, riêng Thái Lan, Mỹ và Trung Quốc thì viện trợ cho Khờ Me Đỏ kháng chiến từ đó đến năm 1986 để chống quân chiếm đóng của quân đội cộng sản Việt Nam. Trước áp lực quốc tế và… năm 1989, Việt Nam buộc phải rút quân về nước trả độc lập cho một nước Campuchia quân chủ lập hiến do dòng dõi các vua Norodom đứng đầu. Ngày 17/2/1979 được đánh dấu là thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước. Đó là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu giữa những đồng chí, đồng minh một thời. Lúc bấy giờ, Việt Nam vừa mới thống nhất đất nước sau cuộc nội chiến Quốc-Cộng, đang sa lầy trong cuộc xâm lược Campuchia và bây giờ phải lâm chiến với đàn anh Trung Quốc ! Hồng quân Trung Quốc đã đánh chiếm các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn vùng biên ngay những ngày đầu cuộc chiến. Chiến tranh kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố đạt mục tiêu "dạy cho cộng sản Việt Nam một bài học" đắt giá và sau đó hoàn thành việc rút quân vào ngày 16/3/1979, sau khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng bên phía Việt Nam kí lệnh Tổng động viên toàn dân và sau đó cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố đã chiến thắng. Mặc dù chịu thiệt hại lớn và thất bại trong việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia nhưng Trung Quốc đã chứng minh được rằng đối thủ Liên Xô sẽ không trực tiếp tham chiến để bảo vệ đồng minh Việt Nam của mình. Cuộc chiến cũng để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Xung đột võ trang giữa Trung Quốc & Việt Nam vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa. Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần thứ 3 [29], [30] và [31]. Với Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (1978) mà tinh thần của nó là "hợp tác toàn diện", cộng sản Việt Nam đã ra mặt chống lại Trung Quốc. Trước đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam làm "tiền đồn" cho phe chủ nghĩa xã hội chống đế quốc, và bây giờ chế độ cộng sản Việt Nam lại trở thành tiền đồn của phe Liên Xô để chống Trung Quốc, đưa đất nước vào một cuộc chiến tranh mới mà sự xâm lấn Campuchia 1978 và nhận "bài học" của Trung Quốc ở biên giới phía Bắc 1979 là kết quả. Những sự việc không thuận lợi gì cho phát triển đó đã được những người lãnh đạo gọi là một "sứ mệnh lịch sử", nhưng trong thực tế đó chỉ là cái đà trượt của một cuộc chiến tranh vừa nóng vừa lạnh mà các phe liên hệ chưa tìm ra được giải pháp căn bản để giải quyết đến nơi đến chốn. Cái "sứ mệnh lịch sử", hoang tường đó đã gây ra những điều kiện bất ổn cho xây dựng (bị cô lập hoàn toàn) và trong nước cái mô hình xây dựng mệnh danh là "chủ nghĩa xã hội" cũng không hề mang lại được chút kết quả nào. Đó chỉ là con đẻ của chiến tranh, nó theo con đường ủng hộ cuộc chiến tranh ấy của "phe" xã hội chủ nghĩa mà du nhập vào Việt Nam, hết Stalin, Mao Trạch Đông rồi đến Brejnev. Khi đem cái mô hình ấy ra xây dựng, nó không chứng tỏ một tí gì là "ưu việt". Thực hiện ở một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, lại diễn ra trong điều kiện mà người dân luôn luôn phải thắt lưng buộc bụng hy sinh, nhiều lắm nó chỉ là một thứ sản xuất tự túc để thích ứng với chiến tranh, tất cả đều được "kế hoạch hóa" trên những gì mà "bầu bạn xã hội chủ nghĩa" đã viện trợ để tiếp tục cuộc chiến tranh ấy, nó không thể là một hình mẫu để thúc đẩy sự phát triển đưa xã hội vào thế giới hiện đại. Thứ bảy là chính sách "Đổi Mới" (renovation) của Đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra yếu tố Hoại-Diệt lâu dài cho họ. Thật vậy, sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng Hòa, Đảng Cộng Sản Việt Nam bê nguyên xi mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc vào áp dụng ở miền Nam Việt Nam gây tàn phá tất cả những thành quả mà miền Nam đã đạt được trong suốt quá trình công nghiệp hóa (dù còn ở bước đầu) và hiện đại hóa. Chỉ sau "tiếp quản" rồi sau đó là "cải tạo" tư sản ở thành phố, "hợp tác hóa" ở nông thôn, đời sống người dân đã bị đẩy lùi lại tình trạng trước đó khoảng vài ba chục năm, khốn khổ như chưa bao giờ đã xảy ra, dưới chế độ phong kiến, thực dân. Nền sản xuất hàng hóa mở rộng đã bị phá vụn thành những khu vực nhỏ bé, chiếm lĩnh bởi những cái gọi là "ngành" hay "lãnh thổ" ; bất cứ cơ quan nào hay địa phương nào (kể cả xã, ấp) cũng có thể lập ra các hàng rào, trạm gác để chặn xe cộ lại xét hỏi, tịch thu, đánh thuế ; còn nếu có gì gọi được là sản xuất thì cũng chỉ là những phong trào vận động ồ ạt người ta đi "lao động xã hội chủ nghĩa" (đắp mương, làm thủy lợi...) hoặc rủ nhau đi ra khỏi thành phố xin đất để làm rẫy kiểu "tự túc" như thời kháng chiến trong rừng, tốn không biết bao xăng nhớt, thì giờ mà kết quả chẳng đi đến đâu. Còn những chương trình gọi là "kinh tế mới", giãn dân về các miền nông thôn để sản xuất thì chỉ là việc "đem con bỏ chợ", đày đọa con người qua mọi khổ sở, cuối cùng không chịu nổi nên đã nhếch nhác kéo nhau về lại thành phố, ngủ đường ngủ chợ sau khi đã tán gia bại sản. Trong khi nông thôn trở về nền kinh tế tự cung tự cấp (thiếu máy móc, phân, giống) dưới danh nghĩa "tập đoàn" thì thành thị lại bị biến thành một thứ nông thôn lạc hậu, đi đâu cũng thấy người ta phá các luống hoa để trồng rau, còn nhà cửa thì hầu hết đều bị biến thành những chuồng heo, chuồng gà, chuồng thỏ nồng nặc mùi cám, mùi phân. Các công sở, vốn là chỗ làm việc trang nghiêm, cũng đã biến thành một thứ chợ nho nhỏ : cả ngày người ta chỉ lo mua bán, cung cấp xăng dầu, nhu yếu phẩm (một tí gạo, một tí xà phòng, cá, thịt...). Là một cái vựa thóc, trong những năm tháng ấy, người dân miền Nam đã phải ăn độn với khoai lang, khoai mì và khủng khiếp nhất là với cái gọi là... bobo do Liên Xô viện trợ [32]. Cuộc cải cách 1986 tuy có quan trọng thật nhưng chưa đáng được gọi là "đổi mới" (renovation) bởi vì : - Di lụy của thời kỳ bao cấp (1976-1985) vẫn kéo dài sau khi cải cách bắt đầu từ năm 1985, khiến đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết về kinh tế - xã hội ; - Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách, sai lầm về chỉ đạo chiến lược sách lược và tổ chức thực hiện ; - Không có đủ cán bộ khoa học kỷ thuật để học hỏi những tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật toan cầu thời đó ; - Hoảng loạn vì cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác và không đủ tầm nhìn để rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng đó ; - Đổi mới mà không đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, thì vẫn như cũ ; - Đổi mới vá víu và không toàn diện & đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hóa mà chỉ chú trọng việc đổi mới kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa hoang tường ; - Đảng Cộng Sản Việt Nam dù hô hào đổi mới từ năm 1986/1989, quyền lực lực chính trị của dân vẫn bị tước đoạt rõ nét qua các cuộc bầu cử phi dân chủ ; - Về đối ngoại thì mở cửa làm ăn với mọi nước không phân biệt chế độ, nhưng vẫn không nâng được uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lên ngang tầm vóc các quốc gia Đông Nam Á. - Tình trạng nhân quyền từ 1986 đến ngày nay vẫn tệ hại và thường xuyên bị quốc tế lên án. - Chịu áp lực của Đảng Cộng Sản Liên Xô và ông Gobachev dưới áp lực giảm thiểu viện trợ nên bất đắc dĩ phải đồi mới để thoát hiểm [33]. Bà Melanie Beresford, một học giả hàng đầu về kinh tế chính trị của Việt Nam đã đánh giá trên Tạp Chí Châu Á 2008 như sau "Đổi mới trong đánh giá : Những thách thức của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội thị trường tại Việt Nam", và đưa ra một phân tích quan trọng về lịch sử gần đây của Việt Nam. Bà đã lưu ý rằng : "nền kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường dưới sự chỉ đạo của nhà nước" có những khía cạnh tiêu cực đối với sự chuyển đổi này — ví dụ như tội phạm gia tăng, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế công cộng giảm sút, bất bình đẳng gia tăng . Tuy nhiên, tốc độ thay đổi quá nhanh đặt ra một số thách thức nghiêm trọng liên quan đến con đường phía trước [34]. Thứ tám là sự kiện cộng sản Đệ III sụp đổ trên qui mô toàn cầu từ 1989 đến 1991 đã tạo ra một yếu tố Hoại-Diệt ngoại tại lớn lao nhất cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cuộc chính biến tháng 8/1991 là hệ quả tất yếu của quá trình cải tổ và công khai hóa do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M. Gobachev khởi xướng từ tháng 3/1985. Công cuộc cải tổ đó đã làm thoái hóa, biến chất, tự chuyển hóa diễn ra tại trung tâm quyền lực của Đảng Cộng Sản Liên Xô và các đảng cộng sản khác gây ra những nguy cơ tan vỡ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đây chính là đêm trước của sự tan rã làm cho sụp đổ toàn bộ khối cộng sản Châu Âu vào năm 1991. Từ đó đến nay Đảng Cộng Sản Việt Nam mất đi ngưới cha đẻ là Đảng Cộng Sản Liên Xô & những người anh em thân thiết là các đảng cộng sản Đông Âu. Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ còn lại bà mẹ đẻ là Trung Quốc đã từng gây khó khăn cho chế độ cộng sản Việt Nam từ năm 1978 rồi chấm dứt ngày 4/9/1990 bằng Hiệp ước Thành Đô ký kết bí mật giữa Giang Trạch Dân & Lý Bằng của Trung Quốc với Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng & Đỗ Mười của Đảng Cộng Sản Việt Nam [35] và [36]. Thứ chín là quay đầu thần phục Trung Quốc qua mật ước Thành Đô (Chengdu) – Tứ Xuyên (Sichuan Province) năm 1990 là yếu tố Hoại-Diệt nội tại do chóp bu lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư), Đỗ Mười (Thủ tướng) & Phạm Văn Đồng (Cố vấn) chủ xướng. Hiệp ước nầy Hội nghị Thành Đô (còn gọi là Mật ước Thành Đô) là cuộc hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4/9/1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng cộng sản của Nhà nước Việt Nam – Trung Quốc. Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc [37] và [38].  Hội nghị Thành Đô được nhóm họp vào hai ngày 3 và 4/9/1990 tại Thành Đô – Tứ Xuyên Trung Quốc. Cuối thập niên 1980, hệ thống cộng sản xã hội chủ nghĩa Đông Âu bắt đầu chao đảo trước khi sụp đổ hàng loạt. Về phần mình, mặc dù đã thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại hội VI nhưng cộng sản Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị - kinh tế - xã hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975. Lo sợ cho số phận chao đảo của mình vào thời điểm đó và tự huyễn hoặc "dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa", một số nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam, đứng đầu là TBT Nguyễn Văn Linh, đã quay sang ôm chân các ông chủ Trung Nam Hải, bất chấp thực tế là trước đó Bắc Kinh đã đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 - 1989, thảm sát 64 quân nhân Việt Nam rồi chiếm đảo Gạc Ma năm 1988. Cuộc hội nghị bí mật này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng vốn bị băng hoại từ 1976 đến 1989. Cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố, tuy nhiên trên trang thông tin chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho đăng hình ảnh chụp trong hội nghị, trong những cột mốc ngoại giao quan trọng. Sự kiện vẫn còn tác động tới đường lối và cán bộ của bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam Việt Nam đến tận ngày nay. Theo các giới chức ngoại giao quốc tế, phía Trung Quốc đã chuẩn bị rất kỹ các nội dung đàm phán, ký kết, kể cả những điều được cho là 'phụ lục' nhưng lại có vai trò như những nguyên tắc chỉ đạo cho bình thường hóa và cả 'hậu bình thường hóa' lẫn 'tái cấu trúc' quan hệ và chiến lược 'quan hệ, hợp tác' giữa hai nước dài hạn, điều mà Việt Nam lâu nay vẫn gọi là 'các thỏa thuận cấp cao' và 'sự kế tục'. Trong đó cụ thể có các nguyên tắc 'chỉ đạo' đàm phán không chỉ liên quan tình hình chính trị và điều kiện tái lập quan hệ nhất thời mà còn các phương châm 'chỉ đạo chiến lược và lâu dài' về giải quyết tranh chấp, xung đột trong quá khứ và thực tế khi đó để lại và một số ràng buộc chính trị dưới danh nghĩa 'quan hệ về ý thức hệ' liên Đảng v.v... [39] và [40]. Hôm 17/10/2014, một cựu lãnh đạo cấp Vụ phó ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC rằng hậu quả của Hội nghị Thành Đô vẫn còn đang tác động tới tâm lý của lãnh đạo, cán bộ và đường lối của Việt Nam hiện nay trong quan hệ liên quan Trung Quốc. Cựu Lãnh sự cộng sản Việt Nam tại Thụy Sỹ, nguyên Vụ Phó Bộ Ngoại giao, ông Đặng Xương Hùng nói : "Trung Quốc đã khống chế toàn bộ lãnh đạo Việt Nam để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam," "Trong đó không chế về mặt đối ngoại, khống chế về mặt tổ chức nhân sự cũng như cơ cấu nhà nước của Việt Nam, làm sao có lợi nhất đối với Trung Quốc," "Bất cứ nhân vật nào lên lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đều không dám đụng tới Trung Quốc và không dám nói nhiều, không dám đứng ra như ông Nguyễn Cơ Thạch đã đứng ra công khai chống lại việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (đặt dưới các điều kiện bất lợi cho Việt Nam)". Từ nhiều năm trước, trong dư luận đã lan truyền thông tin rằng kết quả Hội nghị Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đề nghị và lãnh đạo Trung Quốc đồng ý để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của Trung Quốc. Đến tháng 5/2014, một số trang mạng thậm chí còn đăng tải nội dung của bản "mật ước" (được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã công bố) : "…Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.…" Sự kiện nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không dám công khai mật ước Thành Đô 1990 là vì đó không chỉ là một thất bại nhục nhã trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, mà còn là bằng chứng không thể chối cãi về hành vi "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi về dày mả tổ" của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chỉ chừng ấy thôi họ đã bị lịch sử và nhân dân đời đời lên án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt Nam thành một bộ phận của "đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" [41]. Thứ mười là tranh chấp lãnh thổ trên biển và trên đất liền với Trung Quốc là một yếu tố Hoại-Diệt tự thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1958, Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh đã đồng ý cho Trung Quốc làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam từ thời phong kiến cho đến sau khi độc lập từ tay thực dân Pháp.  Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào năm 1958. Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 tại Thụy Sỹ đã công nhận lãnh hải và thềm lục địa Việt Nam bao gồm Hoàng Sa & Trường Sa. Vì mắc quay bởi Công Hàm 1958 do Phạm Văn Đống ký, nên đến năm 1974, Khi Trung Quốc gây chiến với Việt Nam Cộng Hòa chiếm Hoàng Sa thì Việt Nam im lặng không dám phản đối Trung Quốc. Ngày nay công ước UNCLOS 1982 củaLiên Hiệp Quốc là quốc tế công pháp căn bản cho Việt Nam đòi lại Hoàng Sa [42]. Đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc theo các Công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895 thì đường biên giới này đã được xác định theo tiêu chuẩn quốc tế, thể hiện qua các bộ bản đồ do Sở Địa dư Đông dương ấn hành (các năm 1948 và trước đó). Đường biên giới này rõ rệt và có hiệu lực pháp lý. Việc phân định biên giới vào các năm 1887 và 1897 giữa Pháp và nhà Thanh đã gây thiệt hại đất đai cho Việt Nam. Nhà nước bảo hộ Pháp đã trao đổi đất đai của Việt Nam để lấy lợi ích kinh tế. Điều này vi phạm hiệp ước bảo hộ 1884 theo đó Pháp cam kết bảo toàn lãnh thổ của đế quốc Đại Nam. Việt Nam mất những vùng đất quan trọng như Tụ Long (thuộc Hà Giang, 750 km²), Đèo Lương (thuộc Cao Bằng, 300km²), các tổng Kiến Duyên và Bát Tràng (thuộc Hải Ninh, nay là Quảng Ninh, diện tích vài ngàn cây số vuông) và vùng đất mũi Bạch Long (phía bắc Móng Cái, nay là vùng đất mà Trung Quốc gọi là là Kinh Đảo, các đảo của dân tộc Kinh). Sau khi hoạch định biên giới 1887 đến năm Pháp thua trận Điện Biên Phủ 1954, thì đường biên giới Việt-Trung đã không còn rõ rệt nữa. Các bản báo cáo của các viên chức phụ trách biên giới người Pháp cho thấy là hầu hết các cột mốc trên biên giới đều thay đổi chỗ, phần lớn do Trung Quốc dời sâu về phía Việt Nam. Việt Nam có nên phân định biên giới với Trung Quốc theo Công ước 1887 vẫn còn hiệu lực pháp lý. Hai bên Việt Nam và Trung Quốc nên thảo luận để điều chỉnh lại vị trí các cột mốc cho phù hợp theo các tấm bản đồ do Sở địa dư Đông dương ấn hành. Vấn đề khác làm phức tạp thêm là cuộc chiến biên giới 1979, Việt Nam đã mất một số lãnh thổ, đặc biệt là cao điểm chiến lược dọc theo biên giới cho Trung Quốc. Điều quan trọng là Việt Nam có mất đất hay không ? Câu trả lời ngắn gọn là có. Tức là việc ký hiệp ước biên giới 1999 không "thành công", mà là một thất bại cho Việt Nam. [Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký ngày 30/12/1999] chế độ cộng sản Việt Nam đã bỏ đường biên giới lịch sử, bác bỏ đường biên giới qui ước (Pháp-Thanh) để nhìn nhận hiện trạng đường biên giới. Tức Việt Nam chấp nhận thuộc về Trung Quốc các vùng đất trước kia của Việt Nam bị Pháp nhượng để được đặc quyền kinh tế. Việt Nam cũng nhượng cho Trung Quốc những vùng đất hiện do Trung Quốc kiểm soát sau cuộc chiến biên giới thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chắc chắn là Việt Nam bị thiệt thòi, nhưng mất bao nhiêu lãnh thổ, lãnh hải là không thể nói chính xác. Rồi còn Ải Nam Quan, bãi Tục Lãm, thác Bản Giốc… còn chuyện phía Trung Quốc cho di dời cột mốc biên giới sâu vào trong nước ta, một số cao điểm bị Trung Quốc chiếm đóng sau cuộc chiến tranh biên giới, và vịnh Bắc Bộ v.v…[43] và [44]. * Kết lại giai đoạn Trụ là thời kỳ phát triển khá mạnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam làm gia tăng số lượng đảng viên lên đến hơn hai triệu, nhưng không tránh khỏi nhiếu yếu tố Hoại-Diệt lớn lao. Yếu tố Hoại-Diệt lớn lao nhất do biến cố sụp đổ toàn diện hệ thống cộng sản từ 1989 đến 1991 để lại cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một đội ngủ đảng viên hơn hai triệu mất hết lý tưởng cộng sản, rã rời và lâm vào tình trạng băng hoại do não trạng "bạo lực cách mạng" đã ăn sâu vào tâm thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Theo tác phẩm "L’homme révolté" (Người nổi loạn) của Camus, xuất bản vào năm 1951, phân biệt giữa "người nổi loạn" (révolté) và "người cách mạng" (revolutionaire). Theo ông, làm cách mạng tất yếu sẽ dẫn đến chế độ độc tài toàn trị, và sự chuyên quyền của nhà nước sẽ đưa đến chính sách khủng bố và đày đọa người dân. Chế độ khủng bố của nhóm Robespierre thời cách mạng Pháp và nhà tù của chính quyền Nga Xô Viết không phải là ngẫu nhiên mà là hậu quả của ý thức hệ cách mạng. Trong lúc đó, nổi loạn là sự bùng nổ ngẫu nhiên bắt nguồn từ sự phản kháng bất công, đòi hỏi thay đổi, chứ không nằm trong một kế hoạch tiền định. Qua tác phẩm, Camus bày tỏ thẳng thắng quan điểm chống chủ nghĩa cộng sản của mình. Trong lúc đó, Jean-Paul Sartre ca ngợi chế độ Stalin của Liên Xô. Sartre tấn công một cách quyết liệt "L’homme révolté" trên tờ "Les temps modernes" của mình. Trái hẳn với Camus, Sartre quả quyết rằng cách mạng phải đi đôi với bạo lực. Cách mạng cần bạo lực để hoàn thành mục tiêu của nó. Do đó, bạo lực là công cụ cần thiết và hợp lý của chính nghĩa. Ngược lại, Camus cho rằng, thay vì cứu giúp nhân loại, cái gọi là ý thức hệ bạo lực cách mạng cộng sản sẽ đưa nhân loại đến chỗ chịu nhiều khổ đau hơn. Trần Đan Tâm (30/10/2024) 1. Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt   Thư mục tham khảo [01] Đại tá, Trung Quốc Phan Sỹ Phúc, "Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân : Đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam", Quân đội Nhân dân, 21/09/2024  [02] Dr. Dixee Bartholomew-Feis, The OSS in Vietnam, 1945 : A War of Missed Opportunities, July 15, 2020 [03] Javigos.com, Ngày này năm xưa : 11/3/1945 – Tuyên cáo độc lập của vua Bảo Đại, 11/3/2022 [04] Duiker, William (1976), The Rise of Nationalism in Vietnam, 1900–1941. Ithaca, New York : Cornell University Press. ISBN 0-8014-0951-9 [05] Hoàng Văn Đào (1970), Việt Nam Quốc Dân Đảng : Lịch sử đấu tranh cận đại 1927–1954, Lưu trữ 2021-12-17 tại Wayback Machine [06] Giáo sư Alex – Thái Đình Võ, Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956 : Ảnh hưởng của Cố vấn Trung Quốc (phần 1), 08/10/2022. [07] Trần Gia Phụng Toronto, Trận Điện Biên Phủ, 13/10/2013 [08] Vietnamese Heritage Museum, Lịch sử người Việt tỵ nạn – Hai cuộc di cư vĩ đại 1954 và 1975 [09] RFA, Cuộc di cư vĩ đại năm 1954 : chạy trốn cải cách ruộng đất và đi tìm tự do, 22/08/2024 [10] Tưởng Năng Tiến, Tháng Mười nhớ mẹ, 22/10/2024 [11] Tran Nam Bac, "Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens", 22/01/1955, Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục. [12] Nguyễn Văn Lục, Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 (II), Đàn Chim Việt Online, 09/12/2023 [13] RFA, 70 năm cuộc di cư 1954 : hành trang mang theo đến vùng đất mới, 16/07/2024 [14] Đằng-Giao, ‘Di cư 1954’ : ‘Nỗi lòng người đi’ vẫn như ngày nào’, Người Việt, July 22, 2024  [15] Nguyễn Đình Lê, Lịch sử Việt Nam 1954-1975, Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, trang 6-7 [16] Alex Thai, Vai trò của cố vấn Trung Quốc trong việc ảnh hưởng giới lãnh đạo Việt Nam thi hành cải cách ruộng đất, 09/10/2022, Public [17] Giáo sư Alex – Thái Đình Võ, Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956 : Ảnh hưởng của Cố vấn Trung Quốc (phần 2), 08/10/2022 [18] BBC tiếng Việt, Cải cách Ruộng đất : Số người bị giết ở Việt Nam ít hơn bên Trung Quốc nhưng 'di chứng lâu hơn', 3 tháng hai 2022 [19] Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư Mở, Nguyễn Thị Năm, 01/10/2024  [20] Zachary Abuza, The Nhan Van–Giai Pham Affair, the 1967 Purge, and the Legacy of Dissent,  Renovating Politics in Contemporary Vietnam, Published by Lynne Rienner Publishers 2001 [21] Zachary Abuza (2001). "The Nhan Van–Giai Pham Affair, the 1967 Purge, and the Legacy of Dissent", in Z. Abuza, Renovating Politics in Contemporary Vietnam (London : Lynne Rienner Publisher), Biên dịch : Vương Thảo Vy | Hiệu đính : Lê Hồng Hiệp, Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm, cuộc thanh trừng năm 1967, và di sản của sự bất đồng chính kiến [22] Ngô Thị Thứ, Sợi dây thừng vô hình , 22 October 2024 [23] Martin Grossheim, ‘Revisionism’ in the Democratic Republic of Vietnam : New Evidence from the East German Archives, 18 August 2006  [24] Nguyễn Đức Hạo Nhiên, Bệnh kiêu ngạo công sản, VNTB, 27/06/2021 [25] U.S. Mission Vietnam, Kỷ niệm 30 năm dỡ bỏ lệnh cấm vận, Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, 07/02/2024  [26] Tu Hoa, Đánh tư sản" ở miền nam sau 1975, 14/07/2015 [27] Nguyen Van Canh, Chiến tranh biên giới Việt–Trung : cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí, 07/12/2018 [28] Nguyễn Quốc Cường, Sự kiện thuyền nhân Việt Nam sau 1975, Nghiên Cứu Lịch Sử, 18/07/2016 [29] BBC tiếng Việt, Chiến tranh biên giới Việt–Trung : cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí’, 16/02/2024 [30] BBC tiếng Việt, "17/02/1979 : Các yếu tố Hoa kiều, Campuchia, Trung-Xô và mục đích của Đặng Tiểu Bình", 17/02/1979 : Các yếu tố Hoa kiều, Campuchia, Trung-Xô và mục ... [31] Việt Long, Chiến tranh Việt-Trung 1979 : Diễn biến và hậu quả, Nghiên cứu quốc tế, 15/02/2029 [33] BBC tiếng Việt, Vai trò của Gorbachev với Đổi Mới ở Việt Nam từ Đại hội VI năm 1986, 4/1/2022 [34] Kosal Path, The Origins and Evolution of Vietnam's Doi Moi Foreign Policy of 1986, 20/03/2020, The Origins and Evolution of Vietnam's Doi Moi Foreign Policy of 1986 | TRaNS : Trans-Regional and -National Studies of Southeast Asia | Cambridge Core. [35] Carl Bildt, Remembering the Miracle of 1989, PROJECT SYNDICATE, 19/08/2019,  [36] John Simpson, Khi người dân đứng lên lật đổ chủ nghĩa cộng sản vào năm 1989, BBC tiếng Việt 30/12/2019 [37] BBC tiếng Việt, 'Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô ?', 17/10/2014 [38] Lena Sun, Leaders of Vietnam, China Held Secret Talks, The Washington Post, 19/09/1990 [39] Lê Anh Hùng, Nên hiểu ‘Mật ước Thành Đô’ như thế nào ? VOA tiếng Việt, 13/12/2017  [40] David Holley, "Vietnam, China Reveal Meeting of Top Leaders : The collapse of communism elsewhere has pressured the two nations to bury the hatchet. Cambodia has been a sticking point", Sept. 18, 1990 [41] Deng Xiaoping's Long War : The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991 (The New Cold War History), The 1990 Chengdu Meeting - Chapter 8 : The Road to Conflict Termination (pp. 202-206). The University of North Carolina Press [42] RFA, Một số vấn đề về quản lý lãnh hải của Việt Nam theo Luật biển Quốc tế, 17/10/2022 [43] BBC tiếng Việt, Hiệp ước Biên giới Việt – Trung là một "thành công" của cả hai nước ?, 17/02/2017  [44] Nam Việt, Khi hai đồng chí cộng sản ôm chặt và gườm nhau (Nam Việt), Thứ Hai, 10/28/2024   Nguồn: Thông Luận  
......

Đất nước VN này còn lâu mới chịu phát triển

Người nói câu trong ảnh là bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Ông Dũng cho biết, thiết kế thành phố Dubai được duyệt trong 2 giờ, sau 5 năm bộ mặt Dubai hình thành. Nếu để Việt Nam làm, phải mất 1500 năm mới xây dựng được Dubai. Không dừng lại ở đó, ông Dũng còn so sánh số liệu như sau: muốn xây dựng 1 khách sạn 5 sao ở Việt Nam nhà đầu tư phải mất 3 năm làm thủ tục, trong khi xây dựng 1 trung tâm thương mại tại Trung Quốc chỉ mất 68 ngày vừa thủ tục vừa triển khai; một nhà máy sản xuất ô tô trị giá 1 tỷ đô la của họ chỉ mất 1 năm từ lúc làm thủ tục đến lúc hoàn thành xây dựng. Nếu dân thường nói ra những điều trên đây sẽ bị lực lượng dư luận viên chụp mũ là phản động, nhưng nó được thốt ra từ miệng 1 ông bộ trưởng của chính phủ Việt Nam hiện tại. Một thực tế quá phủ phàng từ miệng ông Dũng đã lột tả sự quan liêu trì trệ của bộ máy cầm quyền. Lại nhớ lời của bà luật sư Ngô Bá Thành ngày nào: Việt Nam có 1 rừng luật nhưng chỉ dùng luật rừng. Trong đám bùng nhùng của luật và các quy định- được các bộ phận chính quyền thiết kế để hành dân hòng mưu lợi cho cá nhân và ngành mình, đất nước này còn lâu mới chịu phát triển. Muốn phát triển, điều đầu tiên phải làm sạch bộ máy nhân sự, mà việc đó còn khó hơn thay đổi thể chế từ cộng sản sang cộng hòa. Nhưng không phải khó mà không làm nếu muốn thay đổi đất nước này. Chúng ta chờ xem những nỗ lực thay đổi của ông Tô (nếu có) sẽ được đáp đền hay húc phải bức tường không lối ra./.  
......

Cửa chuồng cọp ở trại 6 đã “bị phá”

Trịnh Thị Thảo   Như mọi người đã biết ở trại 6, k1 đợt vừa rồi đã diễn cuộc tuyệt thực của 3 anh em gồm Tư, anh Thuận, anh Bách. Cuộc tuyệt thực diễn ra từ ngày 28/9/2024 đến ngày 16/10/2024 gia đình tôi đi thăm Tư thì Tư cho biết Anh Bách đồng hành cùng hai anh em được 10 ngày, do sức khỏe của anh yếu,hôm đó mọi người trong đó đã tuyệt thực được 19 ngày và vẫn tiếp tục tuyệt thực. Từ đó đến hôm nay gia đình tôi không có tin tức gì của Tư và anh Thuận. Chiều hôm qua ngày 30/10/2024 em tôi Trịnh Bá Tư đã gọi điện thoại về và thông báo với gia đình rằng: Điều kiện giam giữ ở trong tổ A được cải thiện một phần. Thứ nhất là cửa chuồng cọp đã được mở cả tuần, tuy nhiên sáng sớm và đầu giờ chiều mở trễ 15-30phút sau khi mở cửa buồng chính. Còn sáng thứ 6,sáng chủ nhật và chiều chủ nhật mở cả 4 buồng để các anh em ra ngoài sân chung chơi cờ,thể thao, ca hát,nói chuyện khoảng 2 tiếng. Trong cuộc họp tổ A ngày 17/10/2024 có sự tham gia của thiếu tá Trần Anh Quế, số hiệu : 559853 thì trại 6 ghi nhận ôn hòa trong hành động, lời nói của các anh em tổ A. Lời cảm ơn của Tư và anh Thuận. Tôi và các các anh em tù nhân chính trị tổ A, K1 trong trại 6 xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan ngoại giao, các chính phủ dân chủ, các cơ quan báo chí độc lập cùng toàn thể các cô bác anh chị em đang khao khát đấu tranh vì một Việt Nam dân chủ nhân quyền đã quan tâm đồng hành và cất lên tiếng nói bảo vệ chúng tôi. Có được sự quan tâm kịp thời và quý giá đó giúp chúng tôi càng vững tin bước đi trên con đường mà mình đã chọn. Chính trong nhà tù này chúng tôi nhận thức rõ hơn trong công cuộc đấu tranh cho một Việt Nam dân chủ,nhân quyền là vô cùng quan trọng và cần thiết, do vậy chúng tôi cảm thấy mình sống một cuộc sống thực sự ý nghĩa. Những năm tháng bị cầm tù và những khắc nghiệt trong nhà tù chỉ là nơi chúng tôi rèn luyện ý chí, học tập các kiến thức hữu ích mà thôi. Hiện tại chúng tôi đã kết thúc đợt tuyệt thực tập thể sau 3 tuần, sức khỏe chúng tôi đang dần hồi phục. Một lần nữa chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các bạn. Hẹn các bạn khi chúng tôi ra khỏi nhà tù nhỏ này, chúng tôi tin với sự quyết tâm và ý chí chúng ta sẽ gây dựng một Việt Nam dân chủ thịnh vượng, thượng tôn pháp luật và quyền con người. Phá bỏ nhà tù lớn đã giam hãm tư tưởng và tiềm năng phát triển của dân tộc Việt Nam trong nhiều thập kỉ qua. Xin gửi lời cảm ơn tri ân tới chú Trần Huỳnh Duy Thức một người bạn tù tốt, người đã hướng dẫn dạy chúng tôi tận tình khi chúng ta ở bên nhau, dù thời gian đó không dài, cảm ơn chú khi đã tự do vẫn quan tâm, và lên tiếng cho các anh em đang bị cầm tù. Như vậy Tư và anh Thuận đã tuyệt thực kéo dài từ ngày 28/9/2024 đến ngày 18/10/2024 tức là 21 ngày, lần tuyệt thực này Tư và anh Thuận đều sụt cân từ 68 xuống còn 57kg. Một lần nữa thay mặt hai gia đình của em Tư và anh Thuận xin cảm ơn mọi người đã luôn đồng hành và động viên hai anh em ở trong lao tù cộng sản./.    
......

Temu không làm ta… te tua

Dân Trần (VNTB)  Không có Temu thì cũng có hãng khác, quan trọng là nhà nước phải biết cách quản lý, xử lý, điều hành nền kinh tế!   Ứng dụng bán hàng Temu đang tạo ra cơn sốt tại thị trường Việt Nam, khiến nhà chức trách cùng với doanh nghiệp trong nước như ngồi trên đống lửa. Sàn thương mại điện tử này tung ra vô số chương trình quảng cáo, mời gọi người dân mua sắm với giá siêu rẻ, có mặt hàng được giảm tới 90%. Hiện nay sàn thương mại thuộc tập đoàn PDD Holdings của Trung Quốc vẫn chưa được nhà nước Việt Nam cấp phép hoạt động. Cho nên việc Temu bán hàng ở Việt Nam là bất hợp pháp. Nhưng nếu quy trách nhiệm cho Temu là không đúng, vì Việt Nam có đầy đủ các cơ chế pháp lý để xử lý những trường hợp này. Tuy rằng có một rừng luật, nhưng nhà chức trách lại không biết dùng luật. Chính những người được trả lương từ thuế của dân đã không biết cách bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước. Thiếu năng lực, vô trách nhiệm thì mới để các tập đoàn ngoại bang tha hồ hoạt động bất hợp pháp tại Việt Nam như vậy. Dư luận cũng cho rằng Việt Nam nên học theo Indonesia là cấm hẳn Temu. Nhưng không dễ, vì chúng ta có đường biên giới chung với Trung cộng trên đất liền, và nhà nước cộng sản Việt Nam cũng chịu nhiều áp lực và bị uy hiếp bởi cộng sản Trung Quốc. Nói về vấn đề này, bà Hoàng Thị Mai Hương, thạc sĩ chính sách công đại học Harvard, chủ tịch hội đồng trường Fulbright Việt Nam viết trên trang facebook cá nhân rằng nhiều người đã lo lắng thái quá. Bà Hương phân tích: “những thương hiệu sản xuất tại Việt Nam mà mạnh và chất lượng cao như Vinamilk, Cafe Viet, bút bi Thiên Long, giày Biti’s, quạt Điện cơ, Vinamit, Vifon… họ có sợ không? Lo bò trắng răng, họ chả sợ gì vì họ có thương hiệu mạnh, sản phẩm chất lượng cao, mạng lưới phân phối, marketing tốt. Còn các sản phẩm sản xuất ở sân sau bán truyền miệng trên facebook thì tất nhiên hoặc phải đầu tư phát triển thế mạnh của mình (nếu có), tập trung xây dựng kênh phân phối, thương hiệu.. hoặc là chết… Suy cho cùng về lâu dài, người tiêu dùng VN có lợi vì có nhiều chọn lựa, ngành công nghiệp tiêu dùng VN nếu không bóc ngắn cắn dài thì cũng có thêm nhiều Vinamilk, Bitis, Thiên Long…” Bà Hoàng Thị Mai Hương cũng đang là chủ tịch tập đoàn Publicis Group Việt Nam, kiêm giám đốc điều hành của Saatchi & Saatchi Vietnam. Trong bài viết trên trang cá nhân này thì bà Hương cũng lường trước rằng sẽ có người tranh luận rằng Mỹ cũng bảo vệ mậu dịch bằng cách cấm hàng Tàu, đánh thuế cao… Nhưng bà cho rằng Mỹ và Việt Nam không giống nhau, và không thể dùng chiến lược của Mỹ tại Việt Nam. Trong bài viết được đặt chế độ chỉ bạn bè xem, bà Hương viết: “Trước hết, Mỹ không CẤM hàng Tàu nhé. Họ dùng các đòn bẩy như thuế, tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh môi trường để quản lý. Và hệ thống thực thi các tiêu chuẩn này rất hữu hiệu, chặt chẽ, quên chuyện lót tay hải quan đi. Thứ hai, Mỹ có những ngành công nghiệp mũi nhọn xương sống vượt trội cần bảo vệ như xe hơi, hi-tech products. Sức cạnh tranh của họ rất cao, có kém chỉ là về giá cả. Vì chi phí lao động của họ cao ( người dân mức sống cao, phúc lợi tốt). Vì vậy cái loại Temu, Taobao, doanh nghiệp Ecommerce cung cấp hàng tiêu dùng đơn giản cho dân họ mua rẻ, dùng nhanh họ sợ chi mà tẩy chay và cấm ? Biến Trung Quốc thành nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng nhanh cho họ, tập trung nguồn lực và tiền thuế củng cố các ngành mũi nhọn như AI, SpaceX, Vaccine, chữa ung thư… Cuối cùng, các bạn chửi hàng Tàu được trợ giá, lách thuế nên mới bán rẻ ở VN để giết doanh nghiệp Việt… Có bao nhiêu người Việt sẵn sàng mua hàng đắt, chờ lâu, dịch vụ kém hơn chỉ vì yêu nước? Hay chỉ giỏi hô khẩu hiệu thôi? Nếu muốn ủng hộ hàng Việt nam, đại đa số người tiêu dùng phải biết hy sinh cái lợi trước mắt: chất lượng OK, mẫu mã đa dạng, rẻ tiền để mua (một số nhiều) mặt hàng Việt chất lượng chưa cao… Phải chịu khó đóng thuế để nhà nước có tiền mà trợ giá cho hàng Việt. Các bạn đang hô hào tẩy chay có sẵn sàng làm việc đó không? Các bạn xem lại hàng các bạn mua trên Shopee, Tiki  hay Lazada đi, có phải toàn hàng sản xuất tại VN không? Tôi thấy 2/3 cũng là made in China đấy!” Quả thật, trước bối cảnh xã hội đang biến đổi từng giờ, nếu hôm nay không có Temu này thì ngày mai cũng sẽ có Temu khác. Vấn đề là chúng ta đối diện, đối phó với những biến đổi này như thế nào. Chứ không phải cấm là được, không phải chỉ có các tập đoàn Trung Quốc, mà sẽ là những tập đoàn thương mại từ Nhật, Mỹ, Âu… Chúng ta không thể bế quan tỏa cảng. Người tiêu dùng có các lựa chọn sản phẩm phù hợp túi tiền của họ, không thể ép họ vét cạn túi mua những thứ mắc tiền để chứng minh lòng yêu nước. Mà nhà nước phải có trách nhiệm quản lý, xử lý để bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp trong nước cũng phải nỗ lực đầu tư, phát triển các sản phẩm của mình. _____________________ Tham khảo: https://www.facebook.com/share/p/uQAW5kYmjm3nk6bd/?  
......

Liệu Tô Lâm có ‘kéo’ nổi nền kinh tế đang ‘xập xệ’?

Sonnie Tran Nền Kinh tế Thị trường (ME) – danh hiệu mà Việt Nam đã dày công vun đắp, ra sức thuyết phục Hoa Kỳ công nhận suốt bao năm qua, vẫn còn là câu chuyện dang dở, treo lơ lửng giữa dòng thời cuộc. Số phận của nó phần nào phụ thuộc vào kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới. Việt Nam đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do làn sóng thông tin tiêu cực về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư (MPI) gióng lên hồi chuông cảnh báo về nguy cơ “chảy máu” vốn đầu tư, thẳng thắn nhận định rằng chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đã “lập lờ nước đôi,” không còn phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế. Chính quyền Việt Nam cũng đang phải đau đầu vì rào cản từ thuế tối thiểu toàn cầu, một rào cản mới trên con đường thu hút đầu tư. Chính sách này ra đời nhằm siết chặt “vòng kim cô,” ngăn chặn các tập đoàn đa quốc gia lách luật, chuyển lợi nhuận đến các quốc gia có mức thuế thấp. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” này, nhiều tập đoàn đã quyết định dứt áo ra đi khỏi Việt Nam, bởi Hà Nội chưa có những chính sách hỗ trợ kịp thời từ ngân sách nhà nước. Tình trạng dậm chân tại chỗ cho thấy rõ sự ngần ngại, thiếu quyết đoán trong việc hoạch định chính sách của giới quan chức Việt Nam trong bầu không khí “đốt lò” ngột ngạt. Trong bối cảnh lò vẫn đang nóng bỏng, không ai muốn trở thành “vật tế thần,” hứng chịu hậu quả từ những quyết định “nhạy cảm” có thể động chạm đến lợi ích của các phe phái trong cuộc chiến quyền lực. Nhất là khi Tổng Bí Thư Tô Lâm đương nhiệm nổi tiếng với “bàn tay sắt” và không ngại sử dụng “luật rừng” để trừng trị những kẻ chống đối. Việt Nam không ngừng vận động, thuyết phục chính quyền Hoa Kỳ công nhận nền kinh tế thị trường, việc vẫn bị “gắn mác” nền kinh tế phi thị trường (NME) không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ song phương, mà còn khiến Hà Nội lo ngại, nhất là khi Mỹ đang xem Việt Nam như một đối trọng chiến lược với Trung Quốc. Nền kinh tế thị trường (ME) hoạt động theo nguyên tắc độc lập và phụ thuộc vào sự vận động hành lang rất lớn của các tổ chức hiệp thương ngành nghề Hoa Kỳ để giúp bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì thế, Washington không thể tùy tiện áp đặt chính sách mà phải xem xét đến các kiến nghị của các hiệp hội này để bảo đảm cân bằng lợi ích và duy trì sự ủng hộ chính trị trong khuôn khổ dân chủ. Điều này khác hẳn với cách đang điều hành nền kinh tế theo hướng chỉ đạo của phong cách “định hướng Xã hội Chủ nghĩa” của Đảng CSVN. Trong chuỗi hoạt động tại New York trong chuyến đi Mỹ cuối Tháng Chín, ông Tô Lâm kêu gọi các “ông lớn” công nghệ như Apple, Meta và các công ty tài chính khác ủng hộ Hà Nội trong nỗ lực “gỡ mác” NME, đồng thời thúc đẩy hợp tác về chuỗi cung ứng chất bán dẫn. Nhưng Google bất ngờ “quay lưng,” tuyên bố đầu tư tổng cộng $3 tỷ vào Malaysia và Thái Lan để xây dựng trung tâm dữ liệu, thay vì chọn Việt Nam. Nói là làm, hôm 1 Tháng Mười, Google và chính quyền Malaysia tổ chức lễ động thổ xây dựng trung tâm dữ liệu kiêm vùng lưu trữ dữ liệu đám mây (cloud region) trị giá $2 tỷ. Google khẳng định khoản đầu tư này sẽ tạo ra 26.500 việc làm và đóng góp hơn $3 tỷ vào nền kinh tế Malaysia từ nay đến năm 2030. Trước đó một ngày, Google cũng công bố đầu tư $1 tỷ vào một trung tâm dữ liệu tương tự ở Thái Lan, tạo ra trung bình 14.000 việc làm mỗi năm từ nay đến năm 2029. Sự “quay lưng” đột ngột của Google phơi bày rõ nét thiệt hại to lớn mà Việt Nam phải gánh chịu. Để dễ hình dung, con số việc làm mà Google tạo ra tại Malaysia tương đương với số lượng nhân viên mà tập đoàn bất động sản thân cộng sản hàng đầu Việt Nam là VinGroup của tỷ phú đầy tai tiếng Phạm Nhật Vượng tạo ra. Trong khi nguồn nhân lực này đa số là kỹ sư công nghệ thông tin chất lượng cao và có mức thu nhập cao hơn nhiều của VinGroup. Bản thân MPI cũng phải thừa nhận, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam mới chỉ tập trung vào miễn, giảm thuế và ưu đãi về tiền thuê đất, mà chưa quan tâm đúng mức đến các ưu đãi dựa trên chi phí. Điều này khiến sức cạnh tranh của Việt Nam không còn đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư dài hạn. Theo MPI, nếu không sớm nội luật hóa để điều chỉnh mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp lên tương đương với mức thuế tối thiểu toàn cầu (15%), Việt Nam sẽ “mất trắng” phần thuế chênh lệch, các công ty đầu tư tại Việt Nam cũng không được hưởng ưu đãi này, vì phần lợi ích đó sẽ bị các quốc gia của công ty mẹ “thu gom”. Việc Việt Nam chưa có những giải pháp đồng hành kịp thời cùng doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến quyết định mở rộng hoặc duy trì đầu tư của các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, kéo theo sự sụt giảm trong việc thu hút các công ty vệ tinh; đồng thời làm “giảm nhiệt” động lực đầu tư của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch “rót vốn” vào Việt Nam. Hậu quả nhãn tiền là quy mô sản xuất có thể bị thu hẹp, nhu cầu lao động giảm sút. Nếu Việt Nam không nhanh chóng điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư và cơ chế thực hiện cho phù hợp, thì việc áp dụng chính sách thuế suất tối thiểu toàn cầu sẽ triệt tiêu hiệu quả của chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, khiến Việt Nam không còn là “miền đất hứa” để giữ chân hoặc thu hút thêm vốn đầu tư mới từ các tập đoàn đa quốc gia. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực, cũng như ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư ngoại quốc có chọn lọc, chất lượng cao./.  
......

Tháng mười nhớ mẹ

Tưởng Năng Tiến Mẹ tôi hoàn toàn không có khái niệm chi về học vấn, học đường, hay giáo dục. Vốn chữ nghĩa lại vô cùng giới hạn nên bà rất kiệm lời. Suốt đời bà chỉ biết “giáo huấn” các con bằng đôi câu ngăn ngắn, giản dị và vô cùng dễ hiểu: – Đừng bao giờ tin bọn cộng sản, và chớ khi nào dây dưa gì với chúng nó nghe chưa. Suốt cả tuần lễ của đầu tháng 10 vừa qua, trên trang nhất của tất cả những tờ báo quốc doanh đều xuất hiện một dòng chữ đỏ rất to, và rất đậm: CHÀO MỪNG 70 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ! Vietnamnet hớn hở chạy tin: “Đi bất kỳ đâu trên phố trung tâm Hà Nội những ngày này, người dân đều có thể thấy hình ảnh mang ý nghĩa lịch sử về ngày giải phóng Thủ đô cách đây tròn 70 năm trên các pano, áp phích cùng cờ hoa được trang trí rực rỡ… Khoảng 10.000 người có màn tập duyệt cuối cùng các phần diễu hành, trình diễn cho ‘Ngày hội Văn hóa vì hòa bình’ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2024)”. Ôi! Tưởng chuyện gì lạ, chớ cờ quạt, bích chương, pa nô, áp phích, băng rôn, biểu ngữ, khẩu hiệu (tuyên truyền) thì Hà Nội lúc nào mà không sẵn và …dư! Hơn nữa, con số hàng chục ngàn người dân Hà Nội túa ra đường hoan hô vẫy chào đoàn quân chiến thắng (hồi bẩy mươi năm trước) là sự kiện hoàn toàn có thật – theo lời của những nhân chứng thế giá: Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. (Nguyễn Mạnh Tường. Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectual – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công, Hà Nội 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức, bản dịch Nguyễn Quốc Vĩ). Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố… (Lê Phú Khải. Lời Ai Điếu. NXB  Người Việt: 2016). Thiệt là vui hết biết luôn, và vui còn hơn Tết nữa. Niềm vui, tiếc thay, rất ngắn – theo lời của tác giả (và tác phẩm) vừa dẫn: Ngày vui ngắn chẳng tày gang, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc “đấu tranh giai cấp”, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.” Nguyễn Khải thêm: Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn. Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận. Thảm vậy sao? Ông nhà văn (e) có hơi quá lời chăng? Cũng không quá (lắm) đâu! Tác giả Nguyễn Văn Luận cũng đã từng tâm sự với nỗi buồn phiền tương tự: Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”. Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”. Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động” thì con nít cởi truồng… Cha tôi làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó. Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con. Đấu tố, cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là “Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do”. Câu hỏi đặt ra là sao có quá nhiều người “bị lừa” đến thế trong khi đã có hằng triệu người đã vội vã, hối hả, hốt hoảng và ùn ùn bỏ của chạy lấy người ngay trước mặt mình: Những cuộc tháo chạy trong những hoàn cảnh thật cảm động và đau lòng, bởi vì Việt Minh đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Geneva trong cố gắng chống lại Hiệp định ấy. Mới đầu họ còn thuyết phục khuyến dụ, sau đó dùng sức mạnh và nhiều người đã bị thương vì mảnh đạn của cộng sản. Người ta đã thấy hàng ngàn dân cả làng ùn ùn kéo nhau ra biển, đi tắt qua cánh đồng ruộng, tránh đi trên đường lộ bị kiểm soát bởi Việt Minh, rồi kết những bè mảng sơ sài đi ra biển với rất nhiều hiểm nghèo và chẳng có gì chắc chắn là sẽ được cứu vớt. Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi. (Tran Nam Bac. “Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens”, Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục). Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức “phong trào nhập thành”, hay nói nôm na là phong trào “dinh tê”. Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu “an toàn Phát Diệm”, thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy. (Nguyễn Văn Lục. “Nhìn Lại Cuộc Di Cư 1954 – 1955 II”. Đàn Chim Việt Online – 09/12/2023). Lời khẳng định của G.S Nguyễn Văn Lục, không dưng, khiến tôi nhớ đến mẫu thân – một người VN quê mùa và thất học. Nói nào ngay thì bà cũng biết đọc biết viết (sơ sơ) nhưng tôi chưa thấy mẹ cầm cây bút lần nào và có lẽ cũng không bao giờ đọc sách báo gì ráo trọi, ngoài vài ba cuốn kinh (Phật) đã rách bìa long gáy từ lâu. Vậy chớ khi mà tiến sỹ Nguyễn Mạnh Tường, thạc sỹ Trần Đức Thảo, kỹ sư Võ Quí Hân, giáo sư Trần Đại Nghĩa …  lật đật vội vàng rời nước Pháp để về VN để phục vụ cho cuộc Cách Mạng Vô Sản VN (theo lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh) thì bà cuống cuồng bồng bế mấy đứa con thơ bỏ chạy một mạch vô Nam. May mắn là gia đình chúng tôi chạy thoát. Tuy không thoát luôn nhưng cũng được khá lâu: 1954 – 1975. Hơn hai chục năm trời. Khoảng thời gian đủ dài để tôi được sống hết cả tuổi thơ và tuổi trẻ trong một vùng đất tương đối an bình, phú túc.  Mẹ tôi hoàn toàn không có khái niệm chi về học vấn, học đường, hay giáo dục. Vốn chữ nghĩa lại vô cùng giới hạn nên bà rất kiệm lời. Suốt đời bà chỉ biết “giáo huấn” các con bằng đôi câu ngăn ngắn, giản dị và vô cùng dễ hiểu: – Đừng bao giờ tin bọn cộng sản, và chớ khi nào dây dưa gì với chúng nó nghe chưa. – Dạ mẹ ! Tôi luôn “dạ” ngọt như đường cát (mát như đường phèn) nên chắc hẳn là mẹ hiền phải hết sức hài lòng, và an tâm, ngay cả khi đã bước qua bên kia thế giới. Khi âm dương chưa cách trở – có lần – từ bên này bờ đại dương xa thẳm, tôi đã đọc cho bà nghe đôi câu thơ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: Thế lực đỏ phải đồng tâm đập nát Ðể nó hoành hành, họa lớn sẽ lan nhanh Đó là lần duy nhất trong đời mà tôi nghe mẹ cười, qua điện thoại. Sao tự nhiên mà nhớ cái tiếng cười (khanh khách) của má quá, má ơi! Tưởng Năng Tiến  
......

Ở Việt Nam, ‘thể chế’ là… quái thú bất trị! (Phần 1)

Trân Văn Hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam đồng thanh quy trách cho…. “thể chế” sau khi ông Tô Lâm – Tổng bí thư đương nhiệm tuyên bố: Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Ở ngày đầu tiên trong Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa này, ông Tô Lâm nhận diện ba “điểm nghẽn” đang kiềm chế Việt Nam là “thể chế, hạ tầng và nhân lực”, trong đó “thể chế” là “điểm nghẽn” lớn nhất, nan giải nhất [1]. Tuyên bố của ông Tô Lâm không những không mới mà còn khiến thiên hạ cảm thấy rất… tệ! Tô Lâm chỉ lặp lại điều mà hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam ra rả suốt từ 2011 đến giờ. Tháng 1/2011, tại Đại hội lần thứ 11 của Đảng CSVN, các đại biểu tham dự đại hội này đã xác định “thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng là ba khâu đột phá chiến lược” [2]. Hãy bỏ ra vài phút dùng “thể chế” như từ khóa kèm với những “Nguyễn Phú Trọng”, “Nguyễn Xuân Phúc”, “Vương Đình Huệ”, “Võ Văn Thưởng”,… để tìm kiếm trên Google ắt sẽ thấy, “thể chế” chẳng khác gì một loại… quái thú vừa làm cho người Việt khốn khổ, vừa giúp tổ chức chính trị giành giữ quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối tại Việt Nam không những vô can mà còn có cơ hội sắm vai… “hiệp sĩ” xả thân chống… quái thú! Xin nhìn qua một số kết quả từ Google: Tháng 1/2011, ông Nguyễn Phú Trọng xác định “phải xem đột phá về thể chế, cải cách các chế độ và thủ tục hành chính, chống phiền hà, sách nhiễu là khâu trọng yếu, bảo đảm phát huy đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, tạo xung lực mới cho phát triển nhanh và bền vững”. Năm năm sau (2016) khi BCH TƯ đảng khóa 11 mãn nhiệm, tới lượt BCH TƯ đảng khóa 12 (2016 – 2021), rồi BCH TƯ đảng khóa này (2021 – 2026) nhận nhiệm vụ, đến giờ, “phát triển nhanh và bền vững” vẫn chỉ là… mục tiêu chưa biết lúc nào có thể chạm tới, bởi “hoàn thiện thể chế” vẫn là nhiệm vụ lâu dài. Khởi xướng “đột phá về thể chế” lúc 67 tuổi, ra đi ở tuổi 80 nhưng ông Nguyễn Phú Trọng vẫn thúc thủ trước “thể chế”, thành ra đồng đảng chỉ có thể ca ngợi “dấu ấn” của ông trong “công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế” [3]. Chẳng riêng ông Trọng, ông Nguyễn Xuân Phúc cũng vật lộn với “thể chế” từ lúc còn là Thủ tướng cho tới khi trở thành Chủ tịch Nhà nước (CTNN). Năm 2016 – năm năm sau khi BCH TƯ đảng khóa 11 xác định “thể chế” là một trong “ba đột phá chiến lược” – Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu: Kiểm điểm xem Chính phủ còn nợ gì về thể chế [4]! Người đứng đầu bộ máy hành pháp tại Việt Nam, sau đó là người đứng đầu Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam liên tục sáng tạo ra đủ loại “thể chế” để thúc giục “đột phá”, yêu cầu “đổi mới”, đòi hỏi “hoàn thiện”, kể cả “thể chế về rác thải nhựa” [5]! Năm 2018, khi tham dự đối thoại về chính sách do Diễn đàn Kinh tế Việt Nam tổ chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu quan điểm của Daron Acemoglu và James A. Robinson trong “Tại sao các quốc gia thất bại” và nhấn mạnh, đó là vì “thể chế, thể chế và thể chế” [6]. Dường như “thể chế” dễ tạo “dấu ấn”, dễ giương danh nên ông Phúc cũng tâm đắc với “thể chế” chẳng thua gì ông Trọng. Đầu năm 2020, ông Phúc nhận định: Nút thắt lớn nhất hạn chế sự phát triển là thể chế, nút thắt về tư duy [7], đến cuối năm ông chỉ đạo: Muốn hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân phải tập trung xây dựng thể chế pháp luật [8]. Những Vương Đình Huệ, Võ Văn Thưởng,… tất nhiên không thể đứng ngoài cuộc chiến công kích “thể chế” để vươn lên dẫn đầu công cuộc “đổi mới” và “hoàn thiện”. Có thể tìm thấy trên Internet vô số những tuyên bố rổn ràng về “thể chế” của họ. Chẳng hạn: Thể chế, chính sách, nguồn lực là điểm nghẽn lớn trong phát triển văn hoá [9]. Hay: Sẽ hoàn thiện thể chế để cán bộ không thể tham nhũng [10]… *** Về ngữ nghĩa, thể chế là hệ thống văn bản lập pháp và lập quy của một quốc gia, xác định phương thức tạo dựng, duy trì, điều chỉnh quan hệ giữa các tập thể bao gồm cả chính quyền với cá nhân. Thể chế ấn định cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ cho tất cả các bên và tất nhiên không thể thiếu cách thức chế tài. Một trong những cách thức phổ biến để dân chúng chế tài chính quyền là sử dụng lá phiếu để bày tỏ ý chí, nguyện vọng của họ. Tại sao ở Việt Nam, thể chế lại chẳng khác gì quái thú bất trị mà những cá nhân hữu trách không thể xác định từ đâu ra, vì lẽ gì mà có thể tác oai, tác quái và lợi hại đến như vậy? “Chiến lược” của đảng CSVN thế nào, năng lực của đảng CSVN ra sao mà sắp tròn 14 năm, “ba khâu đột phá” cùng trở thành ba… “điểm nghẽn”, thậm chí “thể chế” – khâu “đột phá” đầu tiên – còn trở thành “điểm nghẽn của điểm nghẽn”? Khi dõng dạc bảo rằng “thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn” ông Tô Lâm hoặc vô tình, hoặc cố ý đã phủ nhận toàn bộ cả “dấu ấn” lẫn “công trạng” của những người tiền nhiệm. Giống như các nhân vật tiền nhiệm, ông Tô Lâm chỉ tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của quái thú, đổ sự bế tắc của quốc gia, sự lầm than của dân chúng lên đầu quái thú chứ không đề ra cách thức giải trừ! Chú thích [1] https://www.sggp.org.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-the-che-la-diem-nghen-cua-diem-nghen-post764593.html [2] https://xaydungdang.org.vn/co-so-dang/dai-hoi-dang-xi-voi-3-khau-dot-pha-3276 [3] https://baophapluat.vn/dau-an-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-trong-cong-tac-xay-dung-hoan-thien-the-che-post519751.html [4] https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/Thu-tuong-Kiem-diem-xem-Chinh-phu-con-no-gi-ve-the-che-104246.html [5] https://cebid.vn/thu-tuong-nguyen-xuan-phuc-can-co-the-che-voi-van-de-rac-thai-nhua/ [6] https://tuoitre.vn/tai-sao-cac-quoc-gia-that-bai-the-che-the-che-the-che-20180112080228529.htm [7] https://vneconomy.vn/thu-tuong-nut-that-lon-nhat-han-che-su-phat-trien-la-the-che-nut-that-ve-tu-duy.htm [8] https://baophapluat.vn/the-che-the-che-va-the-che-post372457.html [9] https://baodautu.vn/ong-vo-van-thuong-the-che-chinh-sach-nguon-luc-la-diem-nghen-lon-trong-phat-trien-van-hoa-d180401.html [10] https://dantri.com.vn/xa-hoi/ong-vo-van-thuong-se-hoan-thien-the-che-de-can-bo-khong-the-tham-nhung-20220627184628187.htm  
......

HỆ QUẢ vụ bằng không hợp pháp của ông Vương Tấn Việt là gì?

LS Lê Ngọc Luân Tại thời điểm này, có thể khẳng định 100% ông Việt đã sử dụng bằng cấp 3 (giả) để học cao lên cử nhân luật, cử nhân anh văn, tiến sĩ luật và đang mon men học tiếp tiến sĩ tại ĐH KHXH&NV thì bị tiếng nói dư luận phanh phui. Tất cả bằng cấp ông Việt có được từ các trường này đều là bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng pháp luật và có dấu hiệu của hành vi “sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại BLHS 2015. Cho dù bằng tiến sĩ luật có bị thu hồi, nhưng hình ảnh tập thể giảng viên Đại học Luật Hà Nội quỳ gối trước Vương Tấn Việt trong lễ trao bằng sẽ còn được công chúng ghi nhớ mãi Tất cả chúng ta đều thấy, lễ trao bằng tiến sĩ luật do ĐH Luật Hà Nội cấp 2019 và đặc biệt sau đó là buổi lễ tri ân 20/11 được tổ chức rầm rộ có hàng trăm con người tham gia hào hứng trong không khí phấn chấn hồ hởi, trong số đó nhiều người quỳ sụp tặng hoa với lòng tôn kính và ngưỡng mộ dành cho ông Việt (cái kỳ lạ ở chỗ buổi lễ này ông Việt tổ chức để gọi là Tri ân thầy cô nhưng chính một số người lại quỳ gối trước học trò - ông Việt). Nếu quan sát kỹ và tinh ý sẽ thấy rằng buổi bảo vệ luận án tiến sĩ đã có đội ngũ truyền thông quay lại toàn bộ diễn biến, trong đó có rất nhiều lời khen, tung hô ngút trời kiểu ông Việt là người có tài năng thiên bẩm về “học thuật pháp lý” với đề tài “nghĩa vụ con người” nhưng chỉ với thời gian rất ngắn khoảng 2 năm là hoàn thành, rồi tiếp đến ông Việt khoác bộ đồ đỏ, đội mũ cùng nhiều con người hiên ngang đi đến Văn miếu Quốc Tử Giám (nơi linh thiêng của Đất nước) để thắp hương bố cáo “có một tiến sĩ luật loại giỏi đây”. Không dừng lại, có thêm cá nhân khác là ông Hoàng Chí Bảo đích thân đến nơi ở của ông Việt để nói chuyện và đẩy câu chuyện kiểu ông Việt như là một thánh nhân, nhân tài Đất Việt trước hàng ngàn con người bên dưới đang nghe say đắm, vỗ tay liên tục.   Tất cả sự kiện liệt kê trên đây đều được đội ngũ chuyên nghiệp quay video và đăng công khai lên Website tuyên truyền rộng rãi. Đây rõ ràng là việc làm có chủ đích.   Chính vì vậy, dù trực tiếp hay gián tiếp thì cũng đã tạo ra cho hàng vạn con người u mê, tin tưởng ông Việt là bậc thiên tài, tiến sĩ luật học xuất sắc và ông Việt cũng từng ra sách kêu gọi mua ủng hộ.   Ông Việt sử dụng bằng không hợp pháp là hành vi cố ý “gian dối”, không thể chối cãi.   Nên câu hỏi ĐẶC BIỆT LỚN đặt ra là “có hay không ông Việt sử dụng bằng không hợp pháp (gian dối) và vì những thông tin, sự kiện trên đây có khiến cho con người tin tưởng từ đó ủng hộ tiền bạc, vật chất không?”. Trong những thông tin này rõ ràng ông Việt cố ý sử dụng thủ đoạn gian dối - bằng cấp không hợp pháp và giả thiết (giả sử) nếu tiền, vật chất được chuyển từ thông tin gian dối này thì có hay không hành vi “chiếm đoạt tài sản”? Tôi đứng ở góc độ trung dung khách quan để viết bài này và hoàn toàn dựa trên góc độ phân tích pháp lý của một luật sư ít nhiều đã giải quyết các vụ án hình sự để cơ quan chức năng xem xét làm rõ và xử lý triệt để đến nơi đến chốn. Tôi tin rằng, những gì tôi viết, chia sẻ cũng giống hàng ngàn con người có trí tâm khác chỉ với mục đích duy nhất, đó là:   “Lòng khát khao cho một xã hội tốt đẹp, văn minh và tiến bộ!”   Và tôi cũng tin những nhà lãnh đạo, cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật và người dân ai cũng có mong muốn như tôi. Đúng không?   P/S: Hành vi sử dụng bằng “không hợp pháp” cần xử lý nghiêm minh, triệt để và tận gốc. Điều này sẽ tạo tiền đề và đưa nền giáo dục Đất nước đến chỗ “VĂN MINH và TỬ TẾ” của nhân loại!   Sài Gòn, 23/10/2024
......

Chế độ gì mà sao lắm thế lực thù địch?

Nguyễn Thông Thời sự 20.10   Tối hôm qua (20.10), tôi vừa ăm cơm vừa coi tivi, mà lại tivi mậu dịch (chắc nghiện khó cai). Tôi nghe người đứng đầu bộ máy cầm quyền xứ này đọc diễn văn, liên tục nhắc đi nhắc lại cụm từ "đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch". Cứ tưởng cuộc sống hòa bình, yên ổn làm ăn, sống để yêu thương, ai dè không như mình nghĩ. Nhưng thôi, ma nhát hoặc nhát ma là chuyện của người ta, tôi chỉ lăn tăn về từ ngữ họ dùng. Cần hiểu rằng từ ngữ trong văn bản hoặc lời nói phản ánh suy nghĩ, ý thức, tình cảm, thái độ của người sử dụng. Chỉ những người không hiểu diều này mới dùng từ một cách ba vạ. Trước hết là từ "thù địch". Trong cuộc sống, dù cá nhân hay đoàn thể, tổ chức, đơn vị, thậm chí một nước, một phe... đều có thế lực thù địch, kẻ thù địch, chống đối mình. Lẽ đương nhiên phải chống lại, đấu tranh, phản bác nó. Một chế độ như chế độ xã hội chủ nghĩa lắm thế lực thù địch nhất, vừa có thật, vừa do tưởng tượng ra. Đường vinh quang xây xác quân thù. Nói theo kiểu của Lê Nin, không có thế lực thù địch thì không phải chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản. Không khi nào hết thế lực thù địch, bởi vậy không cần bàn về từ/chữ này. Đấu tranh, phản bác thì đương nhiên rồi. Từ tiếp theo, "sai trái", rất có vấn đề. Chả hiểu sao họ cứ thích dùng. Có nhẽ do bản chất của họ. Xưa các cụ dạy "nhân vô thập toàn", nghĩa là con người không ai có thể mười thứ toàn vẹn cả mười. Ngay tôi đây, nếu mười điều, chắc chỉ được một rưỡi ở sự chăm chỉ. Thích cào chẳng hạn, biết không hay, nhưng rằng quen mất nết đi rồi. Ai cũng có mặt này mặt kia, có sai có đúng, hay dở, tốt xấu cùng tồn tại, vấn đề là nhiều hay ít từng mặt. Con người cũng như bất kỳ tổ chức, thực thể nào do nó lập ra đều thế, không thể "thập toàn". Mặt trời còn có vết đen, mặt trăng còn những khoảng tối nữa là. Vấn đề ở chỗ, sai thì sửa, biết lắng nghe, tiếp thụ, điều chỉnh để mình hoàn thiện hơn, tốt hơn, hay đẹp hơn. Không có cái thói nghe ai góp ý, vạch ra cái sai thì giãy nảy lên, đòi chống, đòi phản bác, gọi người ta là thế lực thù địch. Chỉ những ai tự nhận mình luôn đúng, không hề sai, đồng thời "mục hạ vô nhân" cho rằng những người khác mình là sai thì mới sinh ra cái thói "đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái". Xin lỗi, không biết lắng nghe những "trung ngôn nghịch nhĩ" để răn mình, sửa mình, để gột mình sạch hơn, tốt hơn, chỉ thấy đó là sai trái, sẽ không bao giờ tạo dựng được cuộc sống tốt đẹp, con người lương thiện, hòa đồng hướng tới tương lai. Kênh kiệu, ngạo nghễ, tự đắc, tự sướng, coi khinh người khác, xem mình là toàn vẹn, không biết lắng nghe, không cầu thị chân thành, coi mình là thánh, là đỉnh cao, bất khả xâm phạm - đó là căn bệnh ung thư của bộ máy cầm quyền xứ này. Hãy nhớ rằng, thứ mà mình cho là sai lại chính là điều đúng, chuyện ấy xảy ra ở xứ này nhiều rồi, không cần kể nữa. Đấng bậc như Khổng tử vẫn cần học từ đứa trẻ chăn trâu, nên mới thành thánh, chứ đâu có ngạo nghễ quy kết người khác là sai trái. Thông cào  
......

Tại sao phải tuyệt thực?

Trịnh Nhung Chính bản thân tôi cũng đặt ra câu hỏi này khi nghe tin chồng tôi tuyệt thực để đòi mở cửa chuồng cọp. Đối với tôi, sức khỏe của chồng là điều quý giá nhất, chỉ cần thấy chồng sụt cân, hoặc đau khớp… là tim tôi lại đau nhói. Tôi đã không vui khi biết chồng lấy sức khỏe ra để đánh đổi. Nhưng khi nghe chồng tả về “chuồng cọp”, một cụm từ được cán bộ xem là nhạy cảm mỗi khi vợ chồng tôi nhắc đến. Nhẹ thì bị nhắc nhở, nặng thì bị dập máy điện thoại. Họ nói rằng không có chuồng cọp nào ở đây. Ừ thì cũng đúng, ở nhà chồng tôi hiền như con mèo, có phải cọp đâu mà được nhốt vào “chuồng cọp”. Tôi nghe chồng tả nơi giam giữ mà tôi rùng mình, nước mắt chỉ chực trào ra. Làm gì có “chuồng cọp” ở đây, đó chỉ là căn phòng kín với những lớp cửa, những hàng rào lưới sắt, với mái che kín bưng mà những tia nắng cũng ngại đi qua. Tôi không dám tưởng tượng làm sao con người có thể sống ở đây. Cái cây cũng cần có nắng mới có thể phát triển, chẳng nhẽ khi vào đây, giá trị con người không bằng cọng cỏ ngoài kia. Sống trong môi trường thiếu ánh nắng mặt trời, không có không gian để đi lại, tập thể dục, cũng dễ hiểu vì sao bệnh đau khớp của chồng ngày càng trở nặng. Không chỉ ảnh hưởng đến xương khớp, thiếu vitamin D còn gây ra bệnh trầm cảm, suy nhược cơ, đau nhức răng, làm suy yếu hệ miễn dịch… và vô vàn căn bệnh khác. Chồng tôi không thể nào tiếp tục nằm đó và chờ đợi cho sức khỏe ngày càng suy kiệt. Tất nhiên, người làm sai luật giam giữ, không phải là chồng tôi. Nhưng có cách nào để chồng tôi phản đối sự ngược đãi ấy? Bao nhiêu lần kiến nghị lên lãnh đạo mà có thay đổi được gì? Và tuyệt thực là cách cuối cùng để chồng tôi phản đối sự ngược đãi từ phía Trại 6, Nghệ An. Sau hơn 20 ngày tuyệt thực, chồng tôi có lẽ không thể tự bước đi nổi. Đổi lại, quản giáo Nguyễn Ngọc Thuận nói rằng sẽ mở cửa chuồng cọp “tùy vào thái độ”. “Tùy vào thái độ” có nghĩa là gì, là phải “ngoan ngoãn” chờ ai đó ban phát ân huệ cho mình sao. Chồng tôi phải ngoan như thế nào, phải ngoan trong bao lâu để cầu mong họ làm đúng luật, mong họ đối xử nhân đạo. Chẳng phải nguyên nhân khiến giáo dục thối nát, môi trường ô nhiễm, tài nguyên suy kiệt… như hiện tại cũng vì một phần thế hệ đi trước đã rất “ngoan” hay sao? Tôi thật sự thấy mình nhỏ bé, tôi bất lực trước tình cảnh của chồng. Có thể lần tuyệt thực này của chồng tôi sẽ thất bại, “chuồng cọp” kia vẫn sẽ bị đóng kín, nhưng tôi và cả chồng đều sẽ không hối hận. Vì ít ra trong hoàn cảnh khốn khổ nhất, anh ấy đã không đánh mất bản thân. Tôi luôn khắc sâu câu nói mà chồng dặn dò tôi gần đây nhất: “Em phải tôn trọng sự thật. Chúng ta đều là những con người yếu thế, nhưng công lý, sự thật, và lẽ phải sẽ trở thành vũ khí của chúng ta“. P/s: Bên dưới là ảnh phác họa “chuồng người”. Buồng giam anh Thuận đang ở là buồng số 4. Buồng này được ưu ái hơn các buồng khác vì được bật chế độ chống nắng.  
......

Hội chứng kinh niên quan hệ Việt – Trung: Đồng sàng dị mộng

Hoàng Trường Tuy sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng, nhưng thiếu hụt lòng tin là một yếu tố quyết định cản trở sự phát triển của quan hệ song phương. “Đồng sàng dị mộng” vẫn là “hội chứng kinh niên” trong bang giao Việt – Trung. Manila và Hà Nội, cách nào hay hơn? Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), các tuyên bố về căng thẳng ở Biển Đông tại Hội nghị ấy ở Lào (8—11/10), cũng như chuyến thăm Hà Nội của Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường (12—14/10) là bối cảnh của bức tranh vân cẩu Trung – Việt. Điều khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam và Philippines tại các cuộc họp vừa nêu là thái độ và cách hành xử giữa Manila và Hà Nội. Philippines dẫn đầu trong việc chỉ trích các hành động bất hợp pháp và nguy hiểm của Bắc Kinh tại Biển Đông, kêu gọi các nước cần có kết luận ngay lập tức về Bộ quy tắc ứng xử (COC) để giải quyết các xung đột trên biển trong khu vực (1). Tổng thống Marcos, người đã chủ động nêu vấn đề Biển Đông trong hầu hết các phiên thảo luận, cho biết "hơn một nửa" các thành viên của khối đã đề nghị giúp đỡ Philippines trong bối cảnh các hành động leo thang của Trung Quốc (2). Trong khi Thủ tướng Phạm Minh Chính vẫn lặp lại “bài ca đi cùng năm tháng” , vẫn là “nỗ lực thúc đẩy đối thoại, hợp tác và xây dựng lòng tin…, gia tăng điểm đồng, giảm thiểu bất đồng, tôn trọng khác biệt, hướng đến tương lai…”. Để đối phó với Trung Quốc, cách nào hiệu quả hơn? Quyết liệt của Philippines, hay thận trọng kiểu Việt Nam? Việt Nam tránh đối đầu trực diện với Trung Quốc tại diễn đàn này. Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính kỳ vọng EAS phát huy hơn nữa vai trò và giá trị là diễn đàn hàng đầu đối thoại về các vấn đề chiến lược ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và phát triển tại khu vực… (3). Chính sách quyết liệt nói trên của Philippines được Tiến sĩ Ian Storey, học giả của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute) tại Singapore, đánh giá từ cả hai mục tiêu: tạo sự ủng hộ quốc tế đối với việc bảo vệ quyền chủ quyền của mình và khiến người dân Philippines nhận thức được sự hung hăng của Bắc Kinh trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Manila. Theo Tiến sĩ Storey, dù chính sách này cả ở hiện tại lẫn tương lai đều không ngăn được Bắc Kinh sử dụng chiến thuật vùng xám (hành động gây căng thẳng nhưng dưới mức chiến tranh), nhưng mục đích của Philippines là tập hợp dư luận trong nước và quốc tế ủng hộ Manila như chàng David trong cuộc chiến với gã khổng lồ Goliath (4). Phía bờ này Biển Đông, Việt Nam cũng đã từng “gọi sự vật đúng tên” người hàng xóm võ biền, chẳng hạn như khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi năm 2014. Vào thời điểm đó, một làn sóng phẫn nộ đã bùng nổ trong dư luận Việt Nam dẫn đến các cuộc biểu tình thậm chí mất kiểm soát, khiến nhiều nhà máy bị đập phá. Kết quả là chính quyền Việt Nam đã vào cuộc vào thời điểm ấy và mời báo chí quốc tế, đến thực địa để đưa tin về sự kiện. Tuy nhiên, điều đáng nói là, kể từ năm 2020 đến nay, Việt Nam chọn cách tiếp cận ngược lại, theo ý kiến của nhà phân tích Derek Grossman thuộc Viện nghiên cứu Rand của Mỹ trên Nikkei Asia tháng 7/2024. TS. Grossman cho rằng Hà Nội đã đạt thỏa thuận ngầm với Bắc Kinh là không công khai hóa các xung đột và giải quyết các bất đồng và căng thẳng giữa hai nước hoàn toàn trong hậu trường, với hy vọng tránh các bước leo thang mới của Bắc Kinh (5). Đây thực chất là một thỏa hiệp nguy hiểm, đồng ý “trùm chăn lại để cho Trung Quốc đánh mà không được kêu”, theo như quan niệm của bình dân. Philippines có lập trường cứng rắn một phần, nhờ chủ trương liên minh với Mỹ kể từ khi Marcos Jr. làm Tổng thống. Nhưng phần quan trọng hơn là bản lĩnh và chính sách không khoan nhượng với Trung Quốc của cá nhân Marcos Jr. Sự xoay trục này là có lợi cho Việt Nam, nhưng Hà Nội đã không cùng cách tiếp cận với Manila. Việt Nam không dám “rầm rộ phản ứng” theo cách của Philippines. Đây là nhận định của Giáo Sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á Daniel K. Inouye tại Hawai (Mỹ) dành cho RFI hồi đầu năm nay (6). Theo GS. Vuving, từ hàng chục năm nay, ASEAN và Trung Quốc đã thương thảo Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) nhưng đã không đạt được thỏa thuận nào đáng kể. Lý do: Trung Quốc tham vọng quá nhiều và gần như vi phạm mọi nguyên tắc cơ bản của Luật Biển Quốc tế, trong khi một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines muốn rằng, COC phải đi đúng tinh thần của Luật Quốc tế, nhất là phải tuân thủ UNCLOS-1982. “Nỏ thần” cố ý trao tay “đối tượng”? Trung Quốc rõ ràng vừa là đối tượng vừa là đối tác của Việt Nam. Với Tuyên bố chung 14/10/2024 tại Hà Nội (7), Bắc Kinh tiếp tục biến Việt Nam thành quân bài trên “Con đường tơ lụa mới” – một thí nghiệm bị đánh giá là thất bại lịch sử của cá nhân Tổng bí thư Tập Cận Bình. Mặc dầu vẫn còn ý kiến khác nhau trên thượng tầng lãnh đạo, nhưng Việt Nam dường như vẫn “tình nguyện” để Trung Quốc xây dựng đường sắt Bắc – Nam nhằm kết nối sáng kiến “Hai hành lang, Một vành đai” của mình với “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) của Trung Quốc. Theo lời của Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, hệ thống đường sắt này “sẽ kết nối Việt Nam với các nước châu Âu – Tây Á qua tuyến đường sắt liên vận. Việt Nam sẽ thành cửa ngõ để Trung Quốc kết nối với các nước ASEAN, đồng thời là đầu mối quan trọng kết nối ASEAN với châu Âu và Trung Á" (8). Tuyên bố chung 14/10 nói trên vẫn tiếp tục “trói” con tàu Việt Nam vào hai “trụ cầu” là “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” và “Cộng đồng chia sẻ tương lai”. Tuyên bố ấy còn buộc phải “thề non hẹn biển”: “Không quên nguyện ước hữu nghị ban đầu, khắc ghi sứ mệnh chung, kiên định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên định con đường XHCN…, kiên trì nắm bắt quan hệ Việt – Trung từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn dài hạn”. Nghe quá mũi mẫn! Nhưng theo đánh giá của giới chuyên gia, nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng”! (9) Không phải ngẫu nhiên, chỉ một ngày sau Tuyên bố chung 14/10, Hội đồng thẩm định Nhà nước Việt Nam đã đề nghị Bộ Giao thông Vận tải (MOT) làm rõ mức đầu tư hơn 67 tỷ USD đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, nhằm tính đúng, phù hợp. Theo đề xuất của MOT, dự án này có tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng (tương đương 67,34 tỷ USD), tuyến đường đôi, khổ 1.435 mm. Ngày 15/10, Hội đồng thẩm định Nhà nước đã đề nghị MOT rà soát tổng mức đầu tư, quy mô đầu tư từng hạng mục trên cơ sở tính đúng, đủ và phù hợp tại bước lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Việc này phải phân tích dựa trên khung tiêu chuẩn áp dụng thực tiễn của các dự án tương đồng trên thế giới và phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Việt Nam. Bộ Giao thông Vận tải cũng cần rà soát lại đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã hội, tài chính của dự án. Cơ quan này làm rõ phương án huy động, khả năng cân đối vốn cho dự án. Việc này phải bảo đảm khả thi, đúng quy định (10). Sáng kiến “Hai hành lang, Một vành đai”, được Việt Nam và Trung Quốc thông qua năm 2004, là cụm từ gọi tắt của hành lang thứ nhất là “Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng” và hành lang thứ hai là “Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng”, còn một vành đai là “Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ”. Sau nhiều năm cân nhắc bên phía Việt Nam, vấn đề hợp tác đường sắt được nhấn mạnh trong Tuyên bố chung ngày 20/08/2024, nhân chuyến công du Trung Quốc của TBT, CTN Tô Lâm (11). Bức tranh chung được đánh dấu bởi tham vọng phát triển đường sắt của Việt Nam, muốn tận dụng nguồn vốn dồi dào bên phía Trung Quốc, nhưng mấy ai chịu khó nhìn sang Lào… Chỉ vì hám lợi nối đường sắt từ thủ đô Vientiane với thành phố Côn Minh, hơn 7 triệu dân Lào hiện mang nợ Trung Quốc 6 tỷ đô la Mỹ. Gần một chục năm sau ngày Bắc Kinh khởi động đại dự án BRI, nhiều tiếng nói không ngần ngại cho rằng Trung Quốc đã làm giàu trên xương máu của những nước nghèo (12). Dù cùng hệ tư tưởng chính trị, Việt Nam và Trung Quốc vẫn luôn bị ám ảnh bởi sự ngờ vực và mâu thuẫn trong các tương tác song phương. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Trung – Việt vào năm 1991, trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, quan hệ Việt – Trung được giới bình luận quốc tế “gọi là sự bất đối xứng trưởng thành”. Điều này đã ảnh hưởng đến các cân nhắc chiến lược trong chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc (13). Chiến lược hợp tác của Việt Nam với Trung Quốc bao gồm “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Nói cách khác, không giống như “các điều kiện bất đối xứng trưởng thành”, khi cả hai nước đều cố gắng duy trì quan hệ hòa bình. Trong trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc, sự chủ động luôn thuộc về ban lãnh đạo Bắc Kinh. Mặc dù mối quan hệ thường cho là được thúc đẩy bởi sự đồng cảm về hệ tư tưởng và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng, nhưng “thiếu vắng lòng tin” là một yếu tố quyết định cản trở sự phát triển của quan hệ giữa hai nước. “Đồng sàng dị mộng” vẫn luôn là “hội chứng kinh niên” trong bang giao Việt – Trung (14). Tham khảo: (1 và 2) https://manilastandard.net/news/314508980/marcos-reaffirms-philippines-commitment-to-asean-us-cooperation.html (3) https://baochinhphu.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-du-hoi-nghi-cap-cao-dong-a-102241011181951218.htm (4) https://medium.com/@Dr_nabil_ebraheim/david-and-goliath-the-victory-of-faith-over-fear-d7ea7acfb6ad (5) https://asia.nikkei.com/Opinion/Philippines-and-Vietnam-s-South-China-Sea-strategies-have-failed (6) https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-vi%E1%BB%87t-nam/20240226-2-cach-tiep-can-viet-nam-philippines-ve-bien-dong-voi-trung-quoc (7) https://baochinhphu.vn/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-102241014172145671.htm (8) https://vietnamnet.vn/en/chinese-ambassador-highlights-vn-s-role-as-key-connector-in-global-rail-network-2298668.html (9) https://www.facebook.com/t.viet.lam (10) https://vnexpress.net/de-nghi-lam-ro-muc-dau-tu-hon-67-ty-usd-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-4804562.html (11) https://dangcongsan.vn/thoi-su/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-675584.html (12) https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-kinh-t%E1%BA%BF/20220830-l%C3%A0o-mi%E1%BA%BFn-%C4%91i%E1%BB%87n-m%E1%BB%93i-ngon-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BB%A7-n%E1%BB%A3-trung-qu%E1%BB%91c (13) https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/09700161.2024.2311477 (14) https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/24761028.2021.1932018?scroll=top&needAccess=true#abstract  
......

Người & Rác

Tưởng Năng Tiến Trong Chuyện Kể Năm 2000 – tập II – của Bùi Ngọc Tấn, tôi “nhặt” được câu danh ngôn đắt giá như sau: “Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà lòng không xúc động thì không còn là người cộng sản nữa.” Tôi hỏi tác giả: – TBT nào đã phát biểu một câu để đời như thế? Ông cười nụ: – Ông TBT nào mà chả nói y như thế. Ah! Thì ra thế. Tuy thế, mọi người đều biết rằng mấy ổng nói vậy thôi chớ hổng phải vậy đâu. Bởi vậy nên những phụ nữ đẩy xe bò hay xe rác lềnh khênh, khắp mọi nẻo đường, từ hơn hai phần ba thế kỷ qua mà chả thấy có đồng chí nào xúc động (hay xúc cảm) gì ráo trọi. Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam chỉ mang lại một thay đổi duy nhất cho giới người này là họ được đổi tên từ “phu quét đường” thành “công nhân vệ sinh đường phố” thôi. Làm phu quét rác thì vô tư nhưng khi đã trở thành công nhân (lực lượng tiên tiến và tiên phong của Đảng) lại được Mặt Trận Tổ Quốc giao thêm rất nhiều trọng trách: “là lực lượng quan trọng, là tai mắt đường phố, có thể góp phần giữ vững an ninh chính trị, phòng chống, phát hiện các đối tượng tệ nạn xã hội… được công an quận tập huấn một số kỹ năng như: hướng dẫn nắm bắt vụ việc, nhận diện hiện tượng, con người liên quan đến an ninh chính trị; về hoạt động băng nhóm hoặc nghi vấn đối tượng trộm cắp, cướp giật tài sản cũng như công tác bảo vệ hiện trường.” Vừa thôi chớ! Họ vừa phải đẩy xe rác làm vệ sinh đường phố, lại vừa kiêm nhiệm luôn công việc của ngành an ninh tình báo, và bảo vệ hiện trường nữa nên (lắm lúc) không tránh được tai nạn giao thông thảm khốc – theo tin loan của trang Tin Tức Việt Nam: “Trên địa bàn Hà Nội, một chiếc ô tô Hyundai từ phố Vĩnh Hồ đi về đường Láng, hướng Cầu Giấy đã đâm liên hoàn nhiều phương tiện khiến chị Lê Thị Thu Hà (42 tuổi, Đặng Văn Ngữ, Hà Nội) đang là công nhân quét rác thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội – Chi nhánh Đống Đa tử vong… Hoàn cảnh của chị Lê Thị Thu Hà rất đáng thương. Ly thân chồng, chị phải một mình nuôi hai con còn đang ăn học và mẹ già bị bệnh nặng. Gia đình bốn người sống trong căn nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói dột nát, tường nhà toàn bộ bong tróc, nứt toác. Khi còn sống, chị Hà mong ước có thể sửa sang lại căn nhà cho mẹ và các con nhưng lại ngặt nỗi chẳng có tiền. Tiền lương từ nghề vệ sinh môi trường không đủ để lo cho các con ăn học nên chị phải làm cả việc khác để kiếm thêm tiền. Hàng ngày, chị đi quét rác đến 2-3h sáng mới về. Chợp mắt được vài tiếng, chị gắng dậy, chạy xe ôm Grab… Sự việc của chị Lê Thị Thu Hà như một hồi chuông cảnh báo xã hội cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường. Để cho cuộc sống chúng ta sạch đẹp, họ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm khi ngày ngày ra giữa đường phố quét rác. Chị Hà không phải người lao công đầu tiên gặp tai nạn giao thông. Đã có rất nhiều trường hợp tương tự xảy ra khi các công nhân môi trường ra đường lao động để mang lại mỹ quan đô thị cho người dân. Đấy là chưa kể đến những mối tiềm tàng bệnh tật do hàng ngày đối mặt với rác thải độc hại.” Úy Trời/Đất/Quỉ/Thần ơi! Cái xã hội này có ai dòm ngó gì đến đám phu quét đường bao giờ đâu mà nói “cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường,” cha nội? Ngoài việc “đối mặt với rác thải độc hại” – hằng ngày – họ còn phải gánh chịu biết bao là nỗi tủi nhục và đắng cay khác nữa. Ký giả  Đào Thanh Tuy tường thuật: “Có lần tận mắt chứng kiến một chiếc ô tô đẹp đi trong ngõ, ngang qua xe phu rác đang đẩy. Xe chậm lại, từ trong xe, một ả hạ kính rồi lẳng ngay chiếc bỉm vàng khè vào xe rác. Bởi xe không dừng hẳn nên cú ném ấy không trúng đích mà trúng đầu phun rác. Uất ức, phu rác chửi. Xe dừng, thằng chồng phi xuống vớ ngay cái xô rác ở gần đó vụt tới tấp vào đầu phu rác. Phu rác chỉ biết thụp xuống ôm mặt khóc.” Không bao lâu sau, báo Pháp Luật loan tin: “Một đoạn video xuất hiện trên mạng xã hội, được cho là quay tại Quảng Trị. Theo đó, khi chủ một shop quần áo vứt rác ra đường thì bị một công nhân vệ sinh nhắc nhở, sau đó chủ shop trên đã lao vào hành hung và mắng chửi người công nhân vệ sinh.” Chả hiểu khi bị “hành hung và mắng chửi” hay bị ném “chiếc bỉm vàng khè vào đầu” (giữa phố đông người) đám phụ nữ đẩy xe rác có ai nghĩ đến lời khuyên của ông cựu Bí Thư Thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân không: “Những lúc khó, cực, lúc không hài lòng với công việc, hãy nghĩ tới Bác.” Bác chính là vị Tổng Bí Thư đầu tiên của ĐCSVN và là tác giả Hồ Chí Minh Toàn Tập. Trong tác phẩm này (bản in lần thứ ba, do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tái bản năm 2011) nơi trang 12 có câu: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.” Cố TBT Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng cập nhật “tình hình” (không mấy lạc quan) như sau: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa nữa” Chuyện giải phóng phụ nữ ở VN, như thế, đành phải đợi đến… cuối thế kỷ sau vậy!
......

Bác Hồ khước từ Nguyễn Ái Quốc?

Lê Bá Vận   Phải chăng Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc là yếu tố bất lợi, làm hoen ố thanh danh và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, danh nhân thế giới, anh hùng dân tộc! (https://dangcongsan.vn › chu-tich-h...). ----- 1) Các văn kiện chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) mô tả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) là một chuỗi dài sự kiện có tầm vóc lịch sử liên kết liên tục: Bác là con cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Sinh năm 1890 tại Nghệ An, Bác được đặt tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn đi học có thêm tên là Nguyễn Tất Thành. Năm 21 tuổi Thành trốn ra khỏi nước, tìm đường cứu quốc và sống ở Anh quốc cho đến năm 1917. Thế chiến I sắp kết thúc thì sang Pháp do cụ Phan Châu Trinh khuyến dụ. Cụ Phan Châu Trinh đỗ Phó bảng năm 1901 là bạn đồng khoa với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngày 4/9/1919 tại Pháp, Bác đổi tên mới là Nguyễn Ái Quốc (NAQ). Năm 1923 NAQ bí mật sang Nga, trở thành cán bộ Cộng sản Quốc tế phương Đông, công tác tại Cục phương Nam. Cuối cùng từ tháng 6/1942 Bác chọn tên HCM và giữ mãi cho đến năm 1969 Bác qua đời.   2) Con đường Bác chọn bỏ nước ra đi cứu quốc là như sau: Tại Sài Gòn Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin được một chân phụ bếp trên chiếc tàu buôn Pháp “Đô đốc Latouche-Tréville” ngày 5/6/1911 rời Bến Nhà Rồng, suôn sẻ cập cảng Marseille, Pháp ngày 6/7. Những bước đầu tiên trên đất Pháp tất bỡ ngỡ song cụ Sắc thân sinh và Bác đã lên sẵn kế hoạch chu đáo, bất ngờ: Từ Marseille, để kịp ngày khai giảng niên học Bác - ký tên là Nguyễn Tất Thành, sinh viên sinh tại Vinh năm 1892, cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - đã viết thư đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học nội trú vào Trường Thuộc địa (École Coloniale) - chuyên đào tạo các viên chức hành chánh cho chính quyền các thuộc địa - với hy vọng "giúp ích cho Pháp". Thư yêu cầu của ông bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế. Đường công danh hoạn lộ trắc trở, thật đáng tiếc ngoài dự liệu song hai cha con Bác vẫn còn kế hoạch tiếp.   3) Để nuôi thân Bác tiếp tục xin làm phụ bếp trên tàu buôn Pháp ghé nhiều cảng ở châu Âu, châu Phi cuối cùng đến New York, Mỹ năm 1912 đúng vào cuối năm có nhiều ngày lễ nghỉ lớn. Tại New York Bác dùng tên Pháp ‘Paul Tất Thành’ gửi thư về Khâm sứ Trung kỳ, Huế nhờ chuyển các số tiền Bác dành dụm cho cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc, đồng thời xin cho cha được làm việc lại, trong các chức vụ cũ. Đúng vậy cụ Sắc năm 1907 là tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, đã xử tra tấn đến chết một nghi can về nộp thuế. Gia đình nạn nhân kiện ra Huế. Vụ kiện kéo dài. Năm 1910 Triều đình Huê giáng Tri huyện Nguyễn Sinh Sắc xuống 4 cấp và sa thải. Cụ Sắc vào Nam, sắp đặt cho con là Thành ra đi, kỳ vọng tương lai tốt đẹp. Thế rồi cụ lang bạt ở các tỉnh, sống nhờ hành nghề bốc thuốc, viết liễn đối, đợi tiền con gởi về. Phải chăng cụ Nguyễn Sinh Sắc là tổ sư của quốc sách hiện tại “Xuất khẩu lao động” của ĐCSVN? Và 100 năm trước Bác Hồ là người (duy nhất lúc đó?) đầu tiên lao động làm ra tiền gởi về nước! Học tập Bác lớp trẻ nam nữ ngày nay hùa nhau đổ xô ra đi cứu nước theo cách Bác, gởi tiền về nhà!   4) Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu buôn trở về châu Âu, đến định cư ở London, Anh quốc như đã nói trên và kiếm được việc làm lâu dài cào tuyết, hầu bàn, phụ bếp tại khách sạn Carlton. Có vài nhận xét: Nguyễn Tất Thành chỉ ở Mỹ trong vài tuần lễ thay vì trong 1, 2 năm như CS khoe. Thành là đứa con chí hiếu, rất chịu khó vất vả. Từ lúc rời nước năm 1911 đến những năm sống trên tàu buôn rồi chọn ở lại Anh quốc, vắng người Việt đồng hương, Thành yên tâm lao động.   Lúc Nguyễn Tất Thành ra đi, theo lời Cộng sản (CS) nói là với quyết tâm cứu nước đúng hay sai chưa minh bạch, CS thêu dệt thông tin giả, bịa đặt (fake news) quá nhiều. Điều thấy rõ ngay trước mắt là Thành trong nhiều năm không lui tới cộng đồng người Việt, không ngừng làm lụng vất vả, có tiền gởi về cho cha già đang ngóng đợi. Chưa kể Thành xin học trường thuộc địa của Pháp.   Mãi đến năm 1917 Thành sang Pháp, sống với các cụ Phan Châu Trinh (1872-1926), Phan Văn Trường (1876-1933) luật sư tại Pháp là những vị cách mạng lão thành, chịu ảnh hưởng. Ở Pháp làm chính trị là quyền hợp pháp nên không ai phải lo lắng bị cảnh sát quấy nhiễu.   Thành dần dà nhập cuộc vào đời sống chính trị, càng hăng say và còn thiếu chín chắn nên đã sớm rơi vào cạm bẫy của chủ nghĩa Mác-Lê độc đoán, hoang tưởng, nói bậy. Quả thế, khác Việt Nam chịu rủi ro không cần thiết, hàng chục nước thuộc địa cũ đã thu hồi độc lập, lãnh thổ toàn vẹn ít tốn công sức, tránh nhờ Cộng sản giải phóng (kiểu HCM) gây thảm họa chiến tranh trường kỳ, trong nước giết nhau sinh linh chết như ngóe nhiều triệu. CS kẻ thắng trả thù man rợ. Một chế độ độc tài được áp đặt, tham nhũng vĩ mô gây tài nguyên đất nước kiệt quệ, đạo đức phong hóa suy đồi, nhân tâm chia rẽ.      5) Năm 1916 các cụ Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập ra Hội/Nhóm những người An Nam yêu nước. ‘Người An Nam’ là Nguyễn, ‘yêu nước’ là Ái Quốc, là một thuộc tính. Ai mà không yêu nước, dù ít, vd. CS? Họ Nguyễn là đặc thù của người dân Việt. Hội này không khai báo để được công nhận song sinh hoạt không gặp trở ngại vì ở Pháp người dân có quyền tự do lập hội, phát biểu.   Các cụ Phan và Nguyễn Thế Truyền, cử nhân luật lại soạn ra bằng tiếng Pháp “Bản Yêu sách của người An Nam” nổi tiếng gồm 8 điểm ký tên chung Nguyễn Ái Quốc, địa chỉ 56, rue Monsieur le Prince-Paris, chủ yếu đòi hỏi tổng ân xá tù chính trị, các quyền tự do dân chủ và tự quyết căn bản. Ngày 18/6/1919 Nguyễn Tất Thành thư ký? (đang còn là tên Thành), lãnh nhiệm vụ mang Yêu sách công khai gửi lên Hội nghị Hòa bình Versailles. (Wikipedia).   Qua ngày 4/9/1919 là 2 tháng rưỡi sau Nguyễn Tất Thành tự mình đến sở Cảnh sát xin làm thẻ căn cước, tấu xảo lạ kỳ khai tên là Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1894, địa chỉ 6, Villa des Gobelins, Paris 13e là nhà luật sư Phan Văn Tường (Google - Thẻ căn cước Nguyễn Ái Quốc). Tên Quốc ở Việt Nam thì nhiều, kèm các tên đệm ngỏ ý một ước vọng song chẳng một ai tự cao tự đại giành đặt tên mình là Ái Quốc, dù ‘yêu nước’ thực sự.   Nực cười nếu yêu nước là phải yêu dân thì đâu đến nỗi CCRĐ hàng vạn đông bào bị giết, chôn sống dã man! Đó lại là tên của một chức sắc Quốc tế Cộng sản vô thần, vô gia đình, vô tổ quốc (Tam vô).   Lấy tên gì là quyền cá nhân song hiển nhiên đây là hành vi kẻ bất chính mạo nhận là tác giả “Bản Yêu sách 8 điểm” dùng làm bàn đạp chính trị và được ĐCSVN nhiệt liệt tán đồng, “đánh lận con đen”, bảo là thật, tọa đàm khoa học, tô son trát phấn. Và kể từ tháng 9/1919 người thanh niên yêu nước NAQ trẻ tuổi mưu cao, danh tiếng nổi bật trong chính giới, thay thế ‘Tất Thành’ là một tên rất hay, rất có ý nghĩa, song lận đận, vô danh tiểu tốt.                 6) Ngày 9/8/1932 nhiều tờ báo các đảng Cộng sản Liên Sô, Anh, Pháp… đều loan tin NAQ người lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã từ trần do bệnh lao phổi tại bệnh xá nhà tù ở Hong Kong, đăng lời phân ưu và tiểu sử cách mạng của người quá cố. Điều này thực hư chưa tường song sau đó NAQ đúng là đã bặt tin trong nhiều năm. Do tin NAQ đã chết vì lao phổi năm 1932 có xác suất cao nên HCM và NAQ ắt phải là 2 người khác nhau, HCM là người giả dạng! Quả vậy họ khác nhau về nhiều mặt như NAQ rất có hiếu, nặng tình gia đình, chuộng ăn mặc chỉnh tề, bảnh bao, tốn kém.    Đài truyền hình VTV4 của Đảng Nhà nước Việt Nam vào tháng 5/2023 đã phát hành một YouTube dài 11 phút 19 giây với tựa đề “Nguyễn Ái Quốc - ẩn số từ nước Pháp (phần 1) | VTV4”. YouTube mở đầu với câu: “Cao 1m62, thân hình gầy, trán cao, 28 tuổi, quốc tịch An Nam Trung Kỳ. Tổng thống nước Cộng hòa yêu cầu tiến hành điều tra bí mật về thanh niên Đông Dương này… Anh ấy sở hữu giấy tờ nào và đã được cấp bởi các nhà chức trách hành chính Đông Dương tới Châu Âu băng phương thức nào... Người thanh niên này đã trà trộn vào hệ thống chính trị của chúng ta trở thành thành viên các hội nhóm và có tiếng nói quan trọng trong nhiều cuộc họp… Nguyễn Ái Quốc là ai?”   YouTube này giải bí mật, xác định NAQ có chiều cao 1m62, cao hơn chiều cao trung bình thanh niên Việt Nam thời đầu thế kỷ 20 là 1m60, nữ1m50. Bác Hồ là người khá cao, gầy thon thả lúc ở độ tuổi 50, cao hơn NAQ trên 10cm, không thể nhầm lẫn giữa 2 người rất khác biệt (xem 3 hình minh họa).   7) Lời kết. Sự khác biệt này giúp Chủ tịch HCM giã từ dòng họ cụ Sinh Sắc sản sinh cha, tri huyện bị sa thải nhục nhã và con, tha phương lỡ vận nhưng khi cơ hội đến là tay thủ đoạn “lù khù vác cái lu (bản Yêu sách 8 điểm) mà chạy“, tham ô của chung. Chỉ đáng tiếc nay gốc gác mơ hồ, nằm an vị trong Lăng, ít nhiều Chủ tịch HCM cũng chịu nghi vấn về lai lịch ví dụ quốc tịch bất minh, con người tâm cơ bí ẩn.   Lê Bá Vận  
......

Yêu cầu chấm dứt hình thức đàn áp xuyên quốc gia

Người tị nạn được UNHCR công nhận Y Quynh Bdap sẽ phải đối mặt với sự tra tấn và án tù 10 năm nếu ông bị dẫn độ về Việt Nam. Nhiều quốc gia, thông qua sứ quán của họ ở Bangkok, tổ chức nhân quyền và cá nhân trong đó gồm có Dân biểu Hoa Kỳ Michelle Steel kêu gọi Thái Lan cho phép ông Bdap được tái định cư ở nước thứ ba, trong khi nhà nước cộng sản Việt Nam đã cử các quan chức đến gây áp lực buộc Thái Lan phải trả ông về cho họ. "Đây là một hình thức đàn áp xuyên quốc gia", Sunai Phasuk, nhà nghiên cứu cấp cao về Thái Lan tại Ban Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch cho biết. Đây là "một sự hợp tác vi phạm pháp luật", ông Phasuk nói. Trả lời phỏng vấn trang báo điện tử Thời báo tại Đức hôm thứ Tư (9/10), Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch tổ chức BPSOS cho biết ông Bdap "có được 30 ngày để làm kháng cáo" sau khi tòa án quyết định rằng chính phủ Thái Lan "đã theo đúng thủ tục và sau đó chuyển lại quyền quyết định cho Thủ tướng Thái Lan". Trong cùng ngày, Thái Lan đã thành công trong nỗ lực giành được một ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, nhiệm kỳ 3 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2025. Thế giới đang nghiêm túc xem Thái Lan sẽ giải quyết thế nào. Liệu chính phủ mới của Thủ tướng Paetongtarn Shinawatra có hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ người tị nạn và nhân quyền? Người Đà Lạt Xưa October 13, 2024  
......

Tôi đã về nhà

Nguyễn Thúy Hạnh   Bạn bè thân yêu của tôi! Tôi đã về nhà trong vòng tay thân ái của bè bạn, người thân. Thật cảm động không lời nào tả xiết. Thời gian qua, những lúc tăm tối nhất ở trại giam hoặc trong bệnh viện khi đối mặt với căn bệnh tinh thần quái ác, tôi lại nghĩ đến anh chị em, bè bạn, cô bác ở ngoài đang dành hết tình cảm cho tôi, tin tưởng tôi. Và thế là tôi đã đứng dậy bước tiếp. Tình cảm quý giá ấy tôi nguyện mãi để trong tim, coi đó như động lực để tôi tiếp tục sống, và sống có ý nghĩa. Qua những dòng ngắn ngủi này, bằng tất cả sự chân thành từ trọn vẹn con tim, tôi xin đa tạ tất cả anh chị em, bạn bè đã dành tình cảm, động viên an ủi tôi, đồng hành cùng tôi và gia đình trong chặng đường mấy năm tù đày, bệnh tật vừa qua. Những dòng chữ sơ sài, đơn điệu này không thể truyền tải hết tình cảm thiết tha và sự biết ơn chan chứa trong tâm hồn tôi lúc này cũng như suốt mấy mùa đông qua. “Một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”. Có đi tù mới hiểu hết ý nghĩa câu nói ấy. Tôi đã về nhà, nhưng còn hàng trăm anh chị em, bạn bè của chúng ta vẫn đang mòn mỏi trong nhà tù. Mong mọi người tiếp tục đồng hành và giúp đỡ các tù nhân lương tâm cùng gia đình của họ để vượt qua chặng đường khắc nghiệt chông gai. Xin đừng bỏ rơi họ, đừng bỏ rơi một người nào. Cả nhà yêu quý! Căn bệnh ung thư của tôi vẫn chưa chữa chạy được dứt điểm, và tù đày khiến căn bệnh trầm cảm của tôi càng trầm trọng thêm. Ngay từ ngày mai tôi phải đến viện K Tân Triều tiếp tục chữa bệnh, và chạy đi chạy lại giữa hai bệnh viện, K và Tâm thần Hà Nội cách xa nhau. Nên tôi chưa thể gặp gỡ bạn bè để hàn huyên, cúi mong mọi người thông cảm. Một lần nữa tôi xin cám ơn các bạn bè yêu quý. Xin được ôm thật chặt, thật chặt từng người bạn thân yêu của tôi!  
......

Đối thoại và cái còng số 8

Trần Mai Trung Cách đây vài năm, đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng cho Vương Đình Huệ và Võ Văn Thưởng đứng hai bên cái ghế Tổng bí thư. Trọng dự tính sẽ cho Huệ ngồi lên cái ghế đó, mấy năm sau sẽ đến phiên Thưởng. Đó là tính toán riêng của Trọng chứ ông ta không thèm biết nhân dân có đồng ý hay không. Lúc đó, Tô Lâm chỉ được đứng nhìn cái ghế từ xa. Sử dụng quyền kiểm soát toàn diện xã hội của Bộ công an, của cái còng số 8, Tô Lâm làm cho Chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc cuối đầu từ chức, Chủ tịch Võ Văn Thưởng cuối đầu từ chức, trùm Quốc hội Vương Đình Huệ cuối đầu từ chức để khỏi bị cùm vào cái còng số 8. Tô Lâm đánh bại các phe nhóm trong đảng cộng sản Việt Nam và giành chức Tổng tịch. Tô Lâm cũng vô hiệu hóa Bộ chính trị bằng cái Ban lãnh đạo chủ chốt mới thành lập, Lâm ngang nhiên qua mặt các điều lệ của đảng để đưa đàn em lên làm Bộ trưởng công an, vào Bộ chính trị, Ban bí thư. Sau giai đoạn đấm đá tưng bừng, tuyên giáo công an tô vẽ Tô Lâm một hình ảnh hiền lành, vay mượn một chút tính nghệ thuật bên gia đình vợ 2. Trong buổi nói chuyện ngày 23/9/2024 tại Đại học Columbia ở New York, Mỹ Quốc, trả lời câu hỏi về cách giải quyết bất đồng giữa hai bên, Lâm nói hãy lắng nghe nhau, nuôi dưỡng văn hóa đối thoại. Câu trả lời được cho điểm A+ vì chọn đối thoại để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa chứ không dùng bạo lực. Cuộc đời Tô Lâm gắn liền với nghề công an, từ lúc mới ra trường đến giữa năm 2024. Trong thời gian đó Lâm đã thấy nhiều bất đồng giữa đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam. Lâm đã ngồi xuống lắng nghe ý kiến người dân được mấy lần? Lâm đã đối thoại với người dân nào để tránh dùng bạo lực? Năm 2012, đảng cộng sản muốn lấy ruộng đất của nông dân ở Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, để làm dự án thương mại. Nhiều nông dân không đồng ý giao đất với giá đền bù quá thấp. Lúc đó, Tô Lâm là Thứ trưởng bộ công an. Tháng 4/2012, Bộ công an huy động hàng ngàn công an, cảnh sát đến cưỡng chế đất bằng bạo lực. Các hình ảnh ghi lại cho thấy công an đã đánh đập dã man nhiều nông dân trên mảnh đất của họ. Không thấy đối thoại để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa. Năm 1980, chính phủ ra quyết định lấy đất của xã Đồng Tâm, ngoại ô Hà Nội, cho quân đội xây sân bay quân sự. Sau một thời gian, sân bay không được xây dựng, Ủy ban xã Đồng Tâm đã làm thủ tục hợp pháp hóa các giao dịch đất đai của người dân địa phương. Mấy chục năm sau, đảng cộng sản muốn lấy số đất đó cho tập đoàn Viettel làm dự án nhưng người dân không đồng ý. Tháng 1/2020, Bộ trưởng công an Tô Lâm ra lệnh cho 3.000 công an, cảnh sát tấn công vào xã Đồng Tâm, Lâm ỷ có súng đạn nên đã giải quyết bất đồng với người dân bằng võ lực. Súng đạn nổ vang trời, cụ Lê Đình Kình hơn 80 tuổi bị công an giết chết trong nhà của cụ, 3 công an cũng bị chết gần đó. Không thấy đối thoại để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa. Ở mọi quốc gia, nhiều người có những suy nghĩ khác nhau trong cách xây dựng đất nước, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Nhiều người Việt Nam muốn xây dựng đất nước giống như đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay, không thích con đường xã hội chủ nghĩa của một vài quốc gia có chế độ cộng sản. Họ phân tích cái hay, cái dở và trình bày một cách ôn hòa để người dân đánh giá. Theo như phát biểu của Tô Lâm tại Đại học Columbia thì đảng cộng sản nên đối thoại với những người có suy nghĩ khác biệt để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa. Thực tế lại khác hẳn. Phải công nhận người cộng sản có can đảm nói hươu nói vượn những điều tốt đẹp mà họ sẽ không làm. Hình như họ xem thường danh dự cá nhân, đó cũng là một lý do kéo đạo đức xã hội đi xuống, không biết xấu hổ khi tham nhũng. Tô Lâm làm Bộ trưởng công an năm 2016. Trong năm đó, Lâm cho công an đến gặp người bất đồng chính kiến Lưu Văn Vịnh, không phải để ngồi lắng nghe nhau và đối thoại, mà đến với cái còng số 8 và bắt ông Vịnh vào tù, sau đó kết tội 15 năm tù. Sang năm 2017, Lâm cho công an đến gặp ông Hoàng Đức Bình, ông Trương Minh Đức, không phải để ngồi lắng nghe nhau và đối thoại, mà đến với cái còng số 8 và bắt ông Bình, ông Đức vào tù, sau đó kết tội ông Bình 14 năm tù, ông Đức 12 năm tù. Trong thời gian làm Bộ trưởng công an, Tô Lâm đã bắt vào tù 300 người Việt Nam yêu nước và muốn tự do tôn giáo. Có những người được công luận biết đến như ông Phạm Chí Dũng, bà Cấn Thị Thêu, cô Phạm Đoan Trang. Có nhiều người ít được biết đến như ông Vương Văn Thả bị kết tội 12 năm tù, ông Y Pum Bya bị kết tội 14 năm tù, ông Đặng Ngọc Tấn bị kết tội 24 năm tù. 300 gia đình đang sống sum vầy thì Tô Lâm đến gây cảnh phân ly, vợ xa chồng, con cái xa cha mẹ. Sau mấy chục năm độc quyền cai trị đất nước, đảng cộng sản khoe khoang có một xã hội ổn định nhưng vẫn duy trì đội quân công an, mật vụ lên đến 1 triệu người, bắt nhân dân đóng nhiều thuế, nhiều phí để nuôi đội quân đó. Thay vì giảm xuống một nửa để bớt gánh nặng cho nhân dân thì Tô Lâm vẽ ra hình ảnh công an bận rộn, đi lùng bắt những người không còn hoạt động và bày tỏ ý kiến chính trị mấy năm qua. Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, thêm một số người bị bắt vào tù như ông Nguyễn Lân Thắng, ông Phan Tất Thành, thêm một số gia đình bị phân ly. Công an không liên quan gì tới biến đổi khí hậu nhưng Tô Lâm cũng đi theo phái đoàn tham dự COP26 tại Anh Quốc vào tháng 11-2021 để ghé thăm cô con gái đang du học ở đó. Sau khi viếng mộ Karl Marx, ông tổ cộng sản người nước Đức đã chết ở nước Anh, người hô hào tranh đấu cho giai cấp vô sản, Tô Lâm đi ăn tại một nhà hàng đắt tiền của giới tư sản nhà giàu mà mỗi phần ăn lên đến hàng ngàn mỹ kim. Một video đã quay cảnh đầu bếp Thánh rắc muối Salt Bae biểu diển rắc muối lên miếng thịt bò dát vàng và đút cho Tô Lâm ăn. K-pop nổi tiếng thế giới, nhiều bạn trẻ đã bắt chước ca hát, nhún nhãy theo K-pop, không ai bị bắt vào tù. Ông Bùi Tuấn Lâm ở Đà Nẵng bắt chước Salt Bae khi rắc hành vào tô bún bò thì bị công an tìm đến và bắt vào tù. Một người nào đó đặt ra cái biệt hiệu Thánh rắc hành, nếu Tô Lâm căm giận thì đi tìm bắt người đặt ra cái tên đó. Ông Tuấn Lâm không nói gì khi rắc hành vào tô bún, không thể bắt ông Tuấn Lâm chịu trách nhiệm về các bình luận của những người khác. Có người nói Tô Lâm cho bắt ông Bùi Tuấn Lâm vào tù vì tư thù nhỏ nhen. Có người nói không phải. Tô Lâm có thể dễ dàng chứng minh mình vô can trong việc này, ông ta đã "cưỡng bách ân xá" ông Trần Huỳnh Duy Thức thì cũng có quyền "cưỡng bách ân xá" ông Bùi Tuấn Lâm về sum họp với gia đình. Nhìn hình ảnh của chế độ công an trị, nhìn tính cách của Tô Lâm và những việc ông ta đã làm trong thời gian qua thì thấy tương lai đất nước dưới sự lãnh đạo của Tổng tịch Tô Lâm không được sáng sủa, tương lai của các đảng viên cộng sản cũng không sáng sủa. Trần Mai Trung Tháng 10-2024  
......

Về những tác động của con kinh Phù Nam lên Đồng bằng Sông Cửu Long, nếu nó hoàn tất và được đưa vào hoạt động

Trương Nhân Tuấn Dự án kinh đào Phù Nam của Campuchia gây lo ngại cho nhiều người Việt Nam. Có ba điểm cần bàn: Thứ nhứt, dự án con kinh, nói theo lời thủ tướng Hun Manet, ngoài mục tiêu vận chuyển hàng hóa, còn có các “kế hoạch phát triển đô thị, quy hoạch đô thị và thị trường bất động sản. Đồng thời mở rộng các khu phát triển nông nghiệp, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi và hỗ trợ phát triển cực kinh tế thứ tư“. Việc “mở rộng các khu phát triển nông nghiệp” này diện tích là bao nhiêu? Phía Campuchia không thông báo cho Việt Nam và cũng không công bố trước dư luận quốc tế. Ước tính diện tích đất sẽ được con kinh này tiêu tưới sẽ không dưới diện tích ĐBSCL, khoảng 40 đến 50 ngàn cây số vuông. Như vậy lưu lượng nước lấy từ sông Mekong dành cho việc tiêu tưới này có thể sẽ làm khô cạn dòng chảy sông Mekong. Đây là con số Việt Nam cần muốn biết, đúng theo tinh thần Hiệp định 1995 về Hợp tác và phát triển bền vững sông Mekong. Vấn đề là đến nay Campuchia không đưa ra. Phía Campuchia bào chữa việc giấu giếm thông tin bằng cách ngụy biện. Họ so sánh việc đào kinh Phù Nam với việc cải tạo con kinh Chợ Gạo ở Việt Nam. Con kinh Chợ Gạo được Pháp đào từ năm 1872. Con kinh có chiều dài tổng cộng 80 cây số, nối sông Vàm Cỏ với sông Tiền Giang. Con kinh nguyên thủy có bề rộng 30 mét và bề sâu 3 mét 50. Việt Nam mới đây cải tạo kinh Chợ Gạo mà thực chất là be bờ con kinh này. Con kinh vẫn giữ nguyên trạng như thời 1872, tức giữ nguyên bề rộng và bề sâu. Con kinh này không làm thay đổi bất cứ hình thức nào đối với sông Mekong. Tức là Việt Nam không có nghĩa vụ, vì thấy không cần thiết, phải trình vụ này lên Ủy hội sông Mekong. Trong khi con kinh Phù Nam là con kinh mới, mà sự hiện hữu của nó có thể làm giảm thiểu lưu lượng nước, hệ quả gây thiệt hại cho dân Việt Nam khu vực ĐBSCL. Thứ hai, thủ tướng Hun Manet cho rằng “Dự án phát triển kênh đào Funan Techo chỉ là vấn đề đối nội và chủ quyền của Campuchia, trong đó Campuchia có thể thực hiện bất kỳ dự án phát triển nào trong Vương quốc“. Thủ tướng Hun Manet không thể kết luận như vậy vì sông Mekong là sông quốc tế, liên quan đến nhiều quốc gia. Các quốc gia Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam đã ký kết hiệp ước về sông Mekong năm 1995 với mục đích quản lý con sông này hữu hiệu sao cho quốc gia không bên nào bị thiệt hại trong việc sử dụng nguồn nước. Campuchia không có trọn vẹn chủ quyền trên đoạn sông Mekong chảy qua lãnh thổ Campuchia. Mọi công trình xây dựng của phía Campuchia trên sông Mekong tuân thủ theo tinh thần Hiệp định 1995. Campuchia có nghĩa vụ phải chia sẻ tin tức, dữ kiện chính xác của con kinh cho Việt Nam. Mặt khác, chủ đầu tư dự án kinh đào Phù Nam là công ty của Trung Quốc. Campuchia lựa chọn mô hình BOT, tức là phía đầu tư thực hiện công trình, sau đó khai thác công trình này trong vòng một thời gian thỏa thuận trước, ở đây là 50 năm (hoặc 70 năm). Điều này đồng nghĩa với việc Campuchia mất chủ quyền trên con kinh. Chỉ sau thời gian khai thác 50 năm (hay 70 năm) Campuchia mới thực sự làm chủ con kinh. Vì vậy, nếu Việt Nam muốn phản đối dự án này thì phải hành động trước khi con kinh hoàn tất. Bởi vì sau khi hoàn tất, Việt Nam sẽ phái đối mặt với (nhà đầu tư) Trung Quốc. Nếu Việt Nam im lặng về việc này thì ta có thể hình dung nhà đầu tư Trung Quốc có quyền khai thác con kinh, về mặt vận chuyển tàu bè và về mặt dẫn thủy nhập điền trong thời gian 50 đến 70 năm. Thứ ba, về hệ quả đối với Việt Nam khi con kinh hoàn tất. Viễn tượng một mặt ĐBSCL bị thiên tai hạn hán, nước biển dâng cao, hạn mặn sâu trong đất liền do hệ quả trái đất bị hâm nóng. Mặt khác lưu lượng của sông Mekong bị xuống thấp, do kinh đào Phù Nam hút nước, Miền Nam Việt Nam sẽ lâm vào tình trạng vừa khô hạn, vừa nhiễm mặn, vừa thiếu nước ngọt. Có khoảng từ 10 triệu tới 15 triệu người dân khu vực này phải di cư sang các vùng đất khác để tìm cách sinh sống. Đây là một thảm họa về nhân số, khiến xã hội Việt Nam bị đảo lộn. Thứ tư, là sự hiện diện của quân cảng Ream cách đảo Phú Quốc của Việt Nam không xa; đồng thời với dự án kinh đào Phù Nam vốn là một bộ phận của sáng kiến “Vành đai Con đường” của Trung Quốc. Mục đích của Trung Quốc không chỉ hiện diện ở vịnh Thái Lan, mà còn kiểm soát vịnh này. Mục đích của Trung Quốc là khai thông kinh đào Kra trên lãnh thổ Thái Lan. Nếu dự án Kra không được thực hiện thì có dự án quốc lộ 9A, nối hải cảng Song Khla trong vịnh Thái Lan với cảng Krabi ở Ấn Độ dương. Dĩ nhiên, nếu các dự án này hoàn tất thì không chỉ xã hội Việt Nam đảo lộn do nạn di dân vì ĐBSCL không thể sinh sống nữa, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn bị khủng hoảng vì vựa lúa, vựa trái cây từ ĐBSCL đã bị tiêu hủy. Sự hiện diện của Trung Quốc ở vịnh Thái Lan sẽ khiến an ninh quốc gia của Việt Nam bị đe dọa nặng nề. Vì vậy, nếu Việt Nam có phản đối thì phản đối bây giờ. Nhiệm vụ này thuộc về chính phủ. Chính phủ Việt Nam phải khẩn cấp nói chuyện tay đôi với Campuchia. Nếu chính phủ Việt Nam “câu giờ”, chờ đến khi con kinh hoàn tất, lúc đó Việt Nam sẽ lâm vào thế khó. Khó là vì Việt Nam sẽ phải “nói chuyện” với chủ đầu tư – khai thác Trung Quốc. Bài trích đoạn Nguồn Báo Tiếng Dân  
......

Tội mấy ông chủ tịch!

Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh Vàng sa xuống giếng, khôn tìm Người sa lời nói, như chim sổ lồng (Ca dao) Nguyên thủ quốc gia, ở xứ nào cũng vậy, từ hành động cho tới lời ăn tiếng nói đều được truyền thông, dân chúng chú ý đặc biệt. Riêng Việt Nam thời nay, sự chú ý đó dường như lại có những nét đặc biệt … không giống ai. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết (2009) Trong chuyến thăm nước Cuba cộng sản anh em, phát biểu trước báo chí, ông nói: “Có người ví von Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía … đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ. Việt Nam gác thì Cuba nghỉ.” (1) Trong một cuộc nói chuyện với hội nghị Việt kiều, ông cho biết trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc của mình, ông có hoan nghênh Tổng Thống Mỹ, Barack Obama, tuyên bố sẽ đóng cửa nhà tù Guantanamo, nhưng cũng cho là “khó lắm”, và nói như vậy, theo ông, “là mình vừa động viên ông Obama, nhưng mình vừa phân hóa cái nội bộ” chính quyền đó. (2) Nếu những ai hiểu ông, có lẽ sẽ cười vui, thể tất cho ông, coi đó như là những lời lẽ mộc mạc kiểu “Hai Lúa”, mà “quên” đi mình đang là nguyên thủ. Thế nhưng, dư luận người Việt trong ngoài nước nhiều năm nay thì có những đánh giá trái chiều. Thương ông Chủ tịch. Chủ tịch Trần Đại Quang (2018) Trong cuộc tiếp xúc cử tri ngày 19/6/2018, ông có phát biểu, và được báo Tuổi trẻ tường thuật, trong đó có đoạn: “Tiếp xúc cử tri với vai trò đại biểu Quốc hội TPHCM, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nói ông đồng tình với kiến nghị của cử tri cần có Luật biểu tình và hứa báo cáo Quốc hội về nội dung này”. Thế nhưng, ngót một tháng sau, bất ngờ tờ báo này bị Bộ Thông Tin – Truyền Thông phạt 50 triệu đồng, buộc xin lỗi, cải chính nội dung trên. Vì theo cơ quan này, Chủ tịch nước Quang không có phát biểu như vậy. (3) Ai ít biết và quan tâm tới cách làm việc của làng báo và vấn đề dự luật Biểu tình, ắt hẳn chẳng thắc mắc lắm. Còn ngược lại, những ai biết chút về sự nghiêm ngặt trong cách làm báo, nhất là liên quan tới các VIP, và vấn đề “nhạy cảm” của luật Biểu tình, thì không khỏi nghi ngại, ví như bảo: “Làm sao một tờ báo lớn nổi tiếng mà dám liều lĩnh, nhét chữ vào miệng ông Chủ tịch nước thế nhỉ, mà lại những chữ quá quan trọng như vậy? Tưởng là quyền lực lắm, thế mà nói năng cũng bị …” Khổ cho ông (cố) Chủ tịch. Chủ tịch Tô Lâm (2024) Trong chuyến làm việc tới Mỹ vừa qua, trên cương vị Tổng bí thư – Chủ tịch nước, ông có bài phát biểu tại sự kiện kỷ niệm một năm nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, hướng tới kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ ở New York, trong đó (được cho là) có đoạn: “Trong Cách mạng Tháng 8, những người bạn Mỹ là lực lượng nước ngoài duy nhất bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được mời tham dự Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 và chứng kiến Hồ Chủ tịch trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Mỹ. Hôm đó, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trên khán đài nổi bật khẩu hiệu ‘Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”. Thế nhưng, trên báo nhà nước hiện tại không có đoạn trên (4), còn trong bản lưu trên Internet thì vẫn có (5) (6). Lại tha hồ bình luận, đồn đoán thực hư. Người “bênh” thì chắc sẽ bảo: “Ôi dào! Đối ngoại thì phải nói thế thôi, chứ không cần thiết phải để người dân trong nước biết mấy câu đó, không có lợi”. Nhưng ngược lại, biết đâu cũng có người cho là “Lại trống đánh xuôi, kèn thổi ngược rồi. ‘Nhất thể hóa’ đến như thế, tưởng là quyền lực ‘vô đối’, thế mà cũng vẫn bị …”. Khó cho ông (tân) Chủ tịch, nhiều lẽ. Ghi chú: com/watch?v=cAqyjhrwVeo&ab_channel=ch%E1%BB%91ngt%E1%BA%A9yn%C3%A3o com/watch?v=5wj0BBvTbF4&t=6s&ab_channel=PhungMai https://baochinhphu.vn/bao-tuoi-tre-online-bi-dinh-ban-3-thang-phat-220-trieu-dong-102241772.htm https://tuoitre.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-nhan-mot-nam-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-my-20240923103303079.htm https://web.archive.org/web/20240924014140/https://tuoitre.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-nhan-mot-nam-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-my-20240923103303079.htm https://www.facebook.com/BBCnewsVietnamese/photos/nh%E1%BB%AFng-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-b%E1%BA%A1n-m%E1%BB%B9-kh%C3%B4ng-c%C3%B2nh%C3%B4m-239-tu%E1%BB%95i-tr%E1%BA%BB-online-%C4%91%C4%83ng-nguy%C3%AAn-v%C4%83n-b%C3%A0i-ph%C3%A1t-bi%E1%BB%83/933309642168647/
......

TBT, CTN Tô Lâm giữa hai chuyến công tác dài ngày

Đinh Hoàng Thắng Chuỗi hoạt động quốc tế của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước [TBT - CTN] Tô Lâm từ 30/9—7/10 bao gồm chuyến thăm cấp Nhà nước đến Mông Cổ, Ireland và Pháp, đồng thời tham dự Hội nghị cấp cao Francophonie lần thứ 19. Nội hàm “kỷ nguyên mới” là gì? Đợt công tác kéo dài của ông Tô Lâm diễn ra ngay khi hiệu ứng tích cực từ chuyến thăm Mỹ và Liên Hợp Quốc [21–27/9] vẫn đang được cảm nhận. Tần suất hoạt động ngoại giao quốc tế liên tiếp và dày đặc này không chỉ thể hiện một nỗ lực quan trọng trong chủ trương đối ngoại của Việt Nam, mà còn làm nổi bật vai trò của ông Tô Lâm trong bối cảnh chuyển giao quyền lực trên thượng tầng. Các chuyến thăm cấp nhà nước này không chỉ nhằm củng cố các mối quan hệ chiến lược quan trọng với những đối tác then chốt, mà còn phản ánh định hướng sâu xa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nâng cao vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Qua những động thái này, dường như lãnh đạo Việt Nam muốn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ đến cộng đồng quốc tế và nhân dân trong nước rằng Việt Nam đang sẵn sàng bước vào một "kỷ nguyên mới". Đấy là thời kỳ mà đất nước không chỉ tích cực tham gia các vấn đề toàn cầu, mà vẫn duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong nội bộ, tiếp tục gắn kết các mục tiêu quốc tế với chiến lược phát triển trong nước. Trước mỗi chuyến công du quốc tế, ông Tô Lâm thường có những động thái nội trị nhằm tạo dấu ấn. Trước khi sang Mỹ, ông đã cho công bố bài viết "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới". Bài viết nhanh chóng nhận được sự quan tâm từ các cán bộ, đảng viên trong nước, theo TTXVN [1], coi đây là định hướng quan trọng cho giai đoạn chuyển mình của Đảng. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, bài viết này lại chưa tạo được ảnh hưởng lớn. Các nhà quan sát chính trị trong và ngoài nước đã có những phản ứng trái chiều. Theo buổi hội luận trên VOA ngày 18/9/2024 [2], một số ý kiến cho rằng bài viết còn thiếu những điểm đột phá trong tư duy lãnh đạo và không đủ hấp dẫn để thu hút sự chú ý từ quốc tế. Trước chuyến thăm đến khu vực Á – Âu, vào ngày 29/9, ông Tô Lâm, với vai trò Tổng Bí thư, Chủ tịch nước kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, đã có chuyến làm việc với Tổng cục II [Tổng cục Tình báo]. Ông đã ghi nhận những thành tựu quan trọng của lực lượng tình báo quốc phòng, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của việc nâng cao năng lực hoạt động tình báo trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp [3]. Trong bối cảnh chuyển giao quyền lực trên thượng tầng, ông Tô Lâm đã khéo léo tận dụng các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc, Thượng đỉnh Tương lai, và Hội nghị cấp cao Pháp ngữ để khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, đồng thời đối mặt với những thách thức nội bộ. Các chuyến thăm này không chỉ nhằm củng cố vị thế của ông trên trường quốc tế, mà còn thể hiện năng lực điều hành và kiểm soát tình hình trong nước, đặc biệt khi cuộc đấu tranh quyền lực trong Đảng vẫn tiếp diễn. Trên phương diện đối ngoại, ông Tô Lâm đã khéo léo giữ được sự cân bằng quan hệ chiến lược với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, trong khi vẫn duy trì được mối quan hệ truyền thống với các quốc gia như Trung Quốc. Những động thái này vừa khẳng định dấu ấn cá nhân của ông, vừa phản ánh sự chuyển dịch chính trị sâu sắc bên trong Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chuỗi hoạt động ngoại giao dày đặc và sự xuất hiện liên tục của ông trên trường quốc tế, từ Tây bán cầu đến Á – Âu, đã thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế và tạo nên một dấu ấn quan trọng cho thời kỳ chuyển giao quyền lực này [4]. Tuy nhiên, nỗ lực của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong việc định hình nội hàm “kỷ nguyên mới” dường như vẫn chưa đạt được thành công rõ ràng. Dù có một bộ phận dư luận hy vọng rằng các bài phát biểu của ông, cả trong nước và tại các diễn đàn quốc tế, có thể hé mở khả năng dân chủ hóa đất nước, nhưng kết quả thực tế lại chưa thể hiện rõ điều này. Trước đó, ông Tô Lâm từng khẳng định tại Đại học Columbia [Mỹ]: "Con đường phát triển của Việt Nam không thể tách rời xu thế chung của thế giới và nền văn minh nhân loại" [5], làm dấy lên kỳ vọng về những thay đổi tiến bộ. Tuy vậy, một số chuyên gia đã đưa ra cảnh báo rằng các cải cách nửa vời hoặc những thay đổi ngôn từ có thể khiến dư luận tạm thời yên lòng mà không thực sự giải quyết các vấn đề cấu trúc sâu sắc. Một bình luận trên VOA ngày 24/9 đã nhấn mạnh: Những thay đổi chỉ mang tính bề mặt có thể tạo ra ảo giác về sự tiến bộ, nhưng nếu người dân nhận ra sự thật này và mất niềm tin, hệ quả có thể rất nghiêm trọng [6]. Điều này gợi mở rằng, những nỗ lực của ông Tô Lâm, dù có những động thái tích cực, vẫn có thể không đạt được kỳ vọng của cả trong nước lẫn quốc tế. Lựa chọn cải cách hay bảo thủ? Chuyến công tác đến Mỹ, Pháp, và Ireland của TBT, CTN Tô Lâm là điều dễ hiểu, nhưng tại sao ông lại chọn thêm Cuba và Mông Cổ? Nếu đây chỉ là sự ngẫu nhiên, bởi vì hai nước này nằm trên lộ trình công tác, thì sự ngẫu nhiên ấy lại mang tính tất yếu. Việc nghiên cứu trên thực địa các mô hình khác nhau có thể mang lại cho ông Tô Lâm những góc nhìn đa chiều về sự thành công và thất bại trong quản trị quốc gia. Đặc biệt, sau khi cung cấp 10.000 tấn gạo cho Cuba, liệu ông có dám khuyến khích "người bạn vàng" này tiến hành đổi mới kinh tế sớm để người dân được hưởng lợi? Như Facebooker Nguyên Tống từng đề cập, nếu Cuba thực hiện cải cách, hàng ngàn công ty và văn phòng từ châu Âu, châu Á, và Mỹ có thể sẽ đến đây đầu tư, tạo ra việc làm và cải thiện đời sống người dân, giống như Dubai. Tuy nhiên, đáng tiếc là Cuba vẫn giữ vai trò "tiền đồn" mà không thực sự tận dụng điều kiện tự nhiên và địa chính trị để phát triển. Họ tiếp tục chìm trong đói nghèo và mơ về một thiên đường không thực sự tồn tại [7]. Thăm Mông Cổ, nếu ông Tô Lâm chịu khó lắng nghe bài học chuyển đổi dân chủ trên đất nước thảo nguyên bất tận, thì quả là một đại phúc cho dân tộc Việt Nam [8]. Trong cuộc tiếp kiến ngày 30/9, ông Tô Lâm chắc hẳn biết rằng Tổng thống Khürelsükh, người vừa hội đàm với mình, là một thành viên của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP) – Đảng Cộng sản của Mông Cổ trước đây. Điều đáng chú ý là MPRP đã chủ động tiến hành cải cách dân chủ và trở thành Đảng Nhân dân Mông Cổ (MPP), phù hợp với một Mông Cổ đã dân chủ hóa. Kể từ năm 1990, MPP đã giữ quyền lực trong hơn một nửa thời gian, và đây là nhiệm kỳ thứ ba liên tiếp mà Đảng này cầm quyền. Đáng ra, ông Tô Lâm nên chúc mừng Cuộc cách mạng Dân chủ của Mông Cổ, một cuộc cách mạng diễn ra mà không cần đổ máu. Liệu các bạn Mông Cổ có kể cho ông nghe về những khẩu hiệu đấu tranh từ những năm 90 như: “Thời cơ đã đến, hãy tỉnh dậy đi”, “Nhân dân… hãy leo lên lưng ngựa”, “Sự thật sẽ không được biết đến nếu nó bị che giấu”? Kết quả của sự thay đổi đó là ngày nay, Mông Cổ đang nổi lên như một trong những quốc gia tự do nhất châu Á [9]. Cho đến nay, giới quan sát vẫn chưa thể xác định chắc chắn liệu TBT, CTN Tô Lâm là nhà cải cách hay vẫn là một thành trì bảo thủ? Chuyến thăm Cuba và Mông Cổ của ông có thể không chỉ dừng lại ở các hoạt động ngoại giao thông thường, mà còn là những phép thử chính trị nhằm tham khảo các mô hình phát triển và phương thức quản trị quốc gia. Mông Cổ, với sự thành công trong quá trình chuyển đổi dân chủ, và Cuba, nơi còn bị kìm hãm bởi ý thức hệ giáo điều, đều mang đến những bài học quý báu về lãnh đạo và cải cách. Hơn nữa, sự tự tin khi ông Tô Lâm thực hiện các chuyến công du dài ngày mà không lo ngại về việc mất quyền lực trong nước cho thấy vị thế lãnh đạo của ông hiện khá vững chắc. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thể khẳng định được sự ổn định của chính trường Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp, vì thời kỳ quá độ này vẫn tiềm ẩn nhiều thách thức nội bộ. Tham khảo: [1] https://baotintuc.vn/thoi-su/doi-moi-phuong-thuc-lanh-dao-cua-dang-yeu-cau-tu-cap-chi-bo-den-trung-uong-20240919190700942.htm [2] https://www.voatiengviet.com/a/7787781.html?withmediaplayer=1 [3] https://laodong.vn/thoi-su/xay-dung-luc-luong-tinh-bao-quoc-phong-tuyet-doi-trung-thanh-1400982.ldo [4] https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/to-lam-trip-to-the-us-outcomes-09262024101648.html [5] https://tuoitre.vn/toan-van-phat-bieu-chinh-sach-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-dai-hoc-columbia-202409241044401.htm [6] https://www.voatiengviet.com/a/7796234.html [7] https://baotiengdan.com/2024/09/30/tiec-cho-cuba-lam-tien-don-gac-cong-lam-chi/ [8] https://www.youtube.com/watch?v=HwH-JkLmtNk (Chuyển đổi dân chủ ở Mông Cổ 22-12-2015) [9] https://www.luatkhoa.com/2017/08/anh-mong-co-da-chuyen-doi-dan-chu-khong-mot-tieng-sung-nhu-nao/    
......

Lên thuyền!

Nguyên Ngọc  Cách đây mấy hôm, tôi có đến thăm một chị bạn, gặp cả chị và con trai chị. Chả là vài năm trước đây tôi có dạy cả hai mẹ con học một ít tiếng Pháp. Tôi hỏi thăm cháu năm nay lên lớp mấy rồi, chị bảo: giờ đang nghỉ hè, vào năm học mới cháu sẽ lên lớp tám. Ngừng một chút, rồi chị nói tiếp: “Em cũng đang chuẩn bị ráo riết để cho cháu ‘lên thuyền’ thầy ạ”. Tôi ngạc nhiên: “Lên thuyền?”. Thấy tôi ngơ ngác, chị cười bảo: “Hai chữ này bây giờ người ta nói phổ biến rồi mà thầy. “Lên thuyền” tức là ra nước ngoài học, đi du học ấy mà. Em chuẩn bị cho cháu lên cấp ba thì sang học ở Mỹ. Bây giờ cũng đang có một phong trào “thuyền nhân” chạy khỏi đất nước như hồi mấy mươi năm trước, ngày càng đông đảo. Hồi những năm 70, 80 là thuyền nhân chính trị, di tản chính trị. Bây giờ là thuyền nhân giáo dục, di tản giáo dục. Chạy trốn nền giáo dục này”. Hóa ra tôi quá lạc hậu. Một cuộc di tản mới, sâu sắc chẳng kém gì cuộc trước, mà nào tôi có biết. Hay đúng hơn, tôi không biết nó đã đến mức một phong trào “thuyền nhân” mới. Khẩn thiết chạy trốn khỏi cái nền giáo dục mà cha mẹ họ lo sợ cho con cái họ. Chắc dẫu sao cũng là chỉ những gia đình tương đối khá giả, và tôi nghĩ hẳn cũng chỉ ở thành phố, thậm chí phải là thành phố lớn. Nhưng mấy hôm sau tôi lại gặp một chị bạn khác, vốn quê Thái Bình. Tôi đem kể với chị chuyện “Lên thuyền” tôi mới được nghe. Chị bảo: “Không chỉ ở thành phố đâu anh ơi, em mới về quê lên đây nè. Ngay ở quê Thái Bình, nhiều gia đình chẳng khá giả gì cũng lo chạy vạy hết nước, có khi bán cả nhà, cả ruộng, để cho con ra học nước ngoài ngay từ phổ thông. Những bậc cha mẹ có ít nhiều hiểu biết đều rất lo sợ về nền giáo dục này cho con cái của họ. Người cắn răng ở lại chỉ là người đã cùng đường …”. Vậy đó, Bộ Giáo dục, Nhà nước có biết điều này không? Tôi muốn hỏi. Chưa hề thấy Bộ Giáo dục, là cơ quan chịu trách nhiệm về toàn bộ nền giáo dục và tình hình giáo dục nước nhà, nói gì về chuyện “Lên Thuyền” này cả. Bộ có biết một cuộc di tản giáo dục mới, rỉ rả, âm thầm, nhưng là đại di tản đang diễn ra, từng ngày, quyết liệt, một cuộc phản kháng âm thầm mà dữ dội bằng chân đối với nền giáo dục mà các vị đang áp buộc lên họ, con cái họ? Cũng trên trang Văn Việt, cách đây ít lâu, tôi có đọc được bài viết của anh Đỗ Ngọc Thống trả lời những người muốn hỏi anh vì sao là người làm việc chính trong nền giáo dục này mà anh cũng lại cho các con mình ra học nước ngoài, có phải anh cũng cho con di tản giáo dục không? Anh Thống bảo chẳng lẽ người hỏi điều đó không biết rằng anh cũng phải lo sợ cho con anh về ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm và bao nhiêu thứ ô nhiễm văn hóa xã hội nữa ở trong nước bây giờ mà anh hẳn không muốn con anh phải gánh chịu. Tôi đồng ý với anh Thống về các thứ ô nhiễm rành rành anh đã chỉ ra và vì chúng, anh phải quyết cứu con anh ra khỏi. Tuy nhiên tôi có ngạc nhiên thấy anh không hề nói gì về ô nhiễm cũng sờ sờ ra đó của chính nền giáo dục mà anh đang tham gia làm ra, nó nguy hiểm đến mức hầu như bất cứ bậc cha mẹ nào có thể thì cũng đều không muốn cho con họ phải chịu, và quyết làm mọi cách để cho con “lên thuyền” hôm nay. Một cuộc di tản giáo dục rất lớn, sao không ai báo động? có chứ, nhưng chắc cũng chả được gì vì người ta nói ở Trung Quốc lâu nay cũng thế, Trung Quốc sao thì Việt Nam vậy, trước sau chừng chục năm. Thôi thì mạnh ai nấy kiếm tiền, nhiều tiền để lo “lên thuyền”, tìm chỗ tỵ nạn cho con cái của mình. Nguồn: Saigonnho
......

Đảng tặng không gạo cho Cuba khi dân đang cần cứu trợ

Cảnh Chân (VNTB)    Nhà nước Việt Nam có vẻ không thiếu tiền để cứu trợ đồng bào nhưng vẫn thích kêu gọi quyên góp để “kiếm thêm”, làm giàu thêm cho quan chức nhà nước.   Chiều ngày 26/9, vừa đáp xuống Cuba, Tô Lâm đã ra thông báo trao tặng nhân dân Cuba anh em 10.000 tấn gạo. Theo thông báo này thì đây là món quà của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, tức là gạo này từ thuế của người dân Việt Nam mà ra. Cùng với đó, trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tặng thêm cho Trung ương Đảng Cộng sản Cuba 500 máy tính; Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tặng Trung tâm những người lao động Cuba và một số địa phương Việt Nam tặng nhân dân Cuba một số món quà khác. (1) Đây hầu như là những phần quà rút ra từ ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của người dân Việt Nam góp vào, chứ thật ra nhà nước Việt Nam có làm gì ra tiền mà đem cho Cuba. Trong khi đó, Việt Nam vừa bị thiệt hại nặng nề sau bão Yagi (bão số 3 vào miền bắc), và bão số 4 vào miền trung, trước đó miền nam cũng khát khô cổ vì hạn mặn. Cuba khi đó có trợ giúp gì đâu ngoài lời chia buồn và “đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc khắc phục hậu quả của bão”. Ở trong nước, người dân thiếu thốn, đói ăn, phải chia nhau từng gói mì tôm, từng đòn bánh tét thiu. Nhà nước thì chỉ có kêu gọi từ thiện, vận động người dân chuyển tiền cứu trợ cho Mặt trận Tổ quốc. Đi xin từng đồng từng cắc viện trợ của Mỹ, Úc, Nhật về đặng khắc phục hậu quả bão lũ. Ép buộc từng em học sinh phải nhịn ăn sáng để nộp tiền từ thiện cho nhà trường. Vậy thì chúng ta có dư giả gì đâu mà phải học thói làm sang đi tặng gạo cho người dưng? Thậm chí, số tiền quyên góp kia tới tay người dân cần cứu trợ khẩn cấp. Điện, đường, trường, trạm, nhà cửa, tài sản của người dân chưa thể phục hồi, dù chỉ là 10-20%. Thế mà ở nhà lo chưa đâu vào đâu, đảng cộng sản lại đem tiền đi cho một đất nước cách chúng ta nửa vòng trái đất! Tính ra, giá gạo Việt Nam hiện nay khoảng 650 USD/tấn, thì 10 ngàn tấn gạo là khoảng 6,5 triệu USD, tương đương khoảng 162 tỷ đồng. Nếu so ra, mỗi ngôi nhà tái định cư cho người dân bị thiệt hại sau bão chỉ khoảng 200 triệu. Số tiền này có thể xây được hơn 800 căn nhà. Cộng với 500 cái máy tính và những phần quà của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ở trên nữa thì có thể trang bị cho hàng trăm lớp học vùng cao. Trong thời điểm nhân dân khốn khó, đảng đem gạo, đem tài sản đi cho nước khác, thì cho thấy 2 điều. Một là đảng không biết xài tiền, trong nước thì thiếu thốn, mà đem tiền dâng cho ngoại bang để xây dựng hình ảnh. Hai là ngân sách nhà nước Việt Nam không thiếu tiền để cứu trợ đồng bào lũ lụt nhưng vẫn kêu gọi quyên góp để “kiếm thêm”, làm giàu thêm cho quan chức nhà nước. Người Việt Nam có câu “ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng” rất đúng với việc ông Tô Lâm đem tiền của dân nghèo đi cho Cuba. Đem tiền của xương máu của đồng bào đi cho không để đẹp mặt mình; có khác nào con cái đem tiền trong nhà đi cho hàng xóm, cho đám bạn giang hồ chí cốt, mặc cho cha mẹ già ốm đau bệnh tật không lo? Mà thật ra, có đúng là cho dân nghèo Cuba hay không? Hay là đem cho bọn quan chức tham nhũng, độc tài, đồng chí của Việt Nam? Bao nhiêu gạo trong số đó sẽ tới tay người dân Cuba, hay nhà nước cộng sản Cuba sẽ bán lại cho dân để kiếm lời? Việt Nam có thể lập luận rằng đem gạo để làm ngoại giao nhưng đâu phải cứ lần nào tới Cuba là cũng cần tặng gạo? Năm ngoái Vương Đình Huệ đi Cuba cũng đem theo 5.000 tấn gạo. Năm 2021, lúc Việt Nam chìm trong đại dịch Covid, Phạm Minh Chính cũng đem 10 ngàn tấn gạo tặng Cuba. Cứ quan chức Việt Nam nào đi Cuba là tặng 5.000-10.000 tấn gạo. Năm nào cũng vậy rồi có thay đổi được gì? Cho con cá không bằng tặng cần câu. Cuba nằm ngay sát bên Hoa Kỳ, một đại gia hàng đầu thế giới, mà không phát triển bằng Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn giúp Cuba thoát cảnh đói nghèo thì nên nói với họ cách làm ngoại giao với Hoa Kỳ, đừng đối đầu mà hãy đối thoại. Gạo đâu mà năm nào cũng cho, cho một cách tuỳ tiện, không hỏi ý người dân trong nước như vậy? _________________ Tham khảo: https://vietnamnet.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-viet-nam-tang-nhan-dan-cuba-anh-em-10-000-tan-gao-2326471.html  
......

Đường sắt cao tốc hoặc tốc độ cao có giúp cho đất nước cất cánh thần kỳ không?

Kim Văn Chính Nhật Bản gần như đi đầu trong việc shinkansen hóa các tuyến đường chính dọc ngang đất nước. Họ cũng hy vọng shinkansen mang lại cho họ sự thần kỳ cất cánh lần 2 khi kinh tế vào vòng suy thoái. Nhưng chả có sự thần kỳ nào cả. Kinh tế Nhật từ thập niên 1980 đến nay vẫn trì trệ, bế tắc, đời sống nhân dân đi xuống. Các nước hàng đầu châu Âu họ rất khôn trong phát triển đường sắt. Đức, Pháp là điển hình. Họ phát minh ra đủ thứ tàu cao tốc ray thường quy, ray đệm từ…, nhưng chỉ làm như thí nghiệm một tuyến thôi. Hệ chính của họ vẫn đường sắt bình thường nhưng cải tiến tốc độ khá cao đến 200km/h. Hàn Quốc, tôi thấy họ cũng không mặn mà lắm với [đường] sắt cao tốc. Duy nhất có tuyến Seoul – Busan tôi đã đi, thì nó như kiểu lai tàu cao tốc với tàu thường tốc độ cao. Trên tuyến ray đó, tàu vận tải tốc độ thường vẫn chạy ầm ầm. Những nước say mê [đường] sắt cao tốc như Nhật Bản, Trung Quốc thường làm phắt cái một vài chục năm là shinkansen hóa hết các tuyến đường cần thiết của họ. Và các nhà chế tạo ray, tàu trở nên thất nghiệp không còn việc làm nếu họ không bán sản phẩm của họ ra nước ngoài. Nhật Bản gần đây nhiều tuyến shinkansen ế khách chỏng chơ. Khuyến mại hạ giá vé kích cầu các kiểu vẫn ế (ví dụ tuyến Tokyo đi Toyama – Kanazawa và tuyến lên Yokogata). Giá vé các tuyến cạnh tranh shinkansen luôn đắt hơn nhóm máy bay giá rẻ, nhưng rất khó bán. Nó quá đắt đỏ và kém hiệu quả kinh tế. Ví dụ Việt Nam mà mua shinkansen Nhật, phải trả họ cỡ 70 tỷ đô la thì chả ai dám bảo sau vận hành có lãi? (Có 10km đường nội đô tàu chạy tốc độ thường giá một tỷ đô la mà giờ chạy năm nào thì bù lỗ năm đó… dù chưa đến giai đoạn khấu hao sửa chữa nhanh). Nước nào khá như Trung Quốc thì họ sẽ cố tự chế. Nước nghèo như Việt Nam thì chả dại gì tự vướng vào bẫy nợ chỉ vì muốn có một tuyến shinkansen chả mang lại sự cất cánh cho dân tộc đâu. Ai đó hão huyền mơ sáng cafe Hà Nội, trưa ăn Bánh Canh Đà Nẵng, chiều Hủ tiếu Sài Gòn mà tưởng đó là thiên đường. Hãy sang Nhật mà xem! Càng làm shinkansen (đường sắt cao tốc), càng kéo hiệu quả xã hội xuống dốc.  
......

Ông Tổng bí thư đảng CSVN khai tử lịch sử Việt Nam

Đặng Đình Mạnh    Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam   Trong chuyến công du đến Hoa Kỳ để tham dự cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc vào ngày 22 Tháng Chín 2024, ông Tô Lâm được mời đến phát biểu tại trường Đại Học Columbia, về chính sách của ông ấy trong tư cách tân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam kiêm tân Chủ Tịch nước. Ngay trong những lời đầu tiên của bài diễn văn, ông Tô Lâm nói: “Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”. “Sau gần 80 năm lập nước”! Với lời khẳng định ấy trước quốc tế, tính ngược lại, lịch sử dân tộc với ông Tô Lâm chỉ bắt đầu được tính từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản thực hiện cuộc “Cướp chính quyền” mà thôi. Cũng theo đó, quá trình lập nước và giữ nước của tổ tiên nước Việt Nam từ nhiều nghìn năm trước đó đã bị ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản của ông ấy khai tử, loại bỏ hoàn toàn ra khỏi trang lịch sử dân tộc. Chưa nói đến lịch sử dân tộc dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ, thì những trang sử giữ nước từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, rồi đến thời Lê, thời Lý, thời Trần, thời hậu Lê, thời Tây Sơn với những Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… cùng với những chiến công giữ nước oai hùng của những vị vừa nêu trên … Kể cả 3 lần thắng quân Nguyên Mông hầu như đều không có chỗ trong lịch sử “lập nước” của ông Tô Lâm. Phải chăng “Thiên triều” Trung Cộng đã yêu cầu Cộng sản Việt Nam khai tử lịch sử dân tộc để xóa đi nỗi nhục nhã của họ trong quá khứ khi xâm  lược Việt Nam: Tại sông Như Nguyệt, Bạch Đằng Giang, Hàm Tử quan, Ngọc Hồi, Đống Đa… Từ đâu và khi nào mà ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản bắt đầu mang những mầm mống thoát ly khỏi lịch sử dân tộc để rồi công bố công khai điều ấy trước cộng đồng quốc tế vào chiều ngày 23 Tháng Chín? Chúng ta hẳn còn nhớ, vào thượng tuần Tháng Hai 2020, Nhị Lê, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Phó Tổng Biên tập Tạp Chí Cộng Sản, một lý thuyết gia của Đảng Cộng sản đã từng phát biểu công khai trên truyền thông đại chúng, cho rằng: “Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc”, gây rất nhiều tranh cãi trong dư luận. Khi ấy, lý giải về phát biểu của mình, lý thuyết gia Cộng sản Nhị Lê cho biết: “Trong Tuyên ngôn, Các-Mác và Ăng-Ghen lưu ý: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mang tính quốc tế nhưng giai cấp vô sản mỗi nước phải hoàn thành nghĩa vụ trước hết với dân tộc mình. Yêu cầu đặt ra là “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” và: “Tôi gói các ý tưởng khoa học rất toàn diện và sâu sắc của Các-Mác và Ăng-Ghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Điều lệ Đảng, một cách hệ thống và căn cơ, để rút tít gồm 11 từ cho bài báo đã đăng”. Cho thấy, chủ trương nâng Đảng Cộng sản lên rồi đồng hóa trở thành dân tộc, “Dân tộc Cộng sản”, đã có từ trong lý thuyết Cộng sản và thảo luận trong Đảng từ nhiều năm qua. Bất chấp khái niệm dân tộc chỉ về chủng tộc hơn là một đảng phái chính trị. Theo thống kê, hiện nay, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản có khoảng hơn 5,2 triệu người. Tương đương 5% dân số Việt Nam. Là con số đáng kể nếu số đảng viên được nâng lên và đồng hóa thành một dân tộc riêng biệt, hiện diện bên cạnh hơn 50 dân tộc khác như Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm, Tày, Ê Đê… đang sinh sống trên cùng lãnh thổ. Theo đó, dân số của “Dân tộc Cộng sản” hiện nay chỉ đứng sau dân tộc Kinh mà thôi?! Trong trường hợp đã là dân tộc, thì cần phải xác định lịch sử của dân tộc ấy. Qua phát biểu của ông Tô Lâm tại trường Đại học Columbia, thì Đảng Cộng sản đã lấy sự kiện “Cướp chính quyền” vào năm 1945 làm mốc thời điểm lịch sử “lập nước” của “Dân tộc Cộng sản”. Sự tự tôn một cách kiêu ngạo của Đảng Cộng sản hiện nay, đến mức độ phủ nhận cả lịch sử dân tộc, thì ngay chính người du nhập Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam, đồng thời cũng là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản là ông Hồ Chí Minh cũng chưa từng dám nghĩ đến. Thật vậy, trong dịp đến thăm đền Hùng tại Phú Thọ vào trung tuần Tháng Chín 1954, ông Hồ Chí Minh được cho là đã phát biểu: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cho thấy, trang lịch sử dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ của các vua Hùng vẫn tồn tại trong tư duy của ông Hồ Chí Minh. Điều khá khôi hài khi một mặt phủ nhận sạch trơn lịch sử dân tộc, thì mặt khác, trong bài phát biểu của mình, ông Tô Lâm lại nhắc đến ý tưởng “Lấy chí nhân thay cường bạo” của Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử thời hậu Lê trong bài Bình Ngô Đại Cáo. Tự tạo trang lịch sử riêng bằng cách nâng mình lên và đồng hóa thành một dân tộc ưu quyền là “Dân tộc Cộng sản” và thoát ly hoàn toàn khỏi lịch sử chính thống của dân tộc từ hàng nghìn năm. Đảng Cộng sản ngày càng tự tôn và kiêu ngạo một cách lố bịch so với những hậu quả nặng nề mà họ đã gây ra cho đất nước. Điểm về tính chất đảng viên Cộng sản và vài con số trích từ những báo cáo của chính cơ quan Đảng cho thấy họ có xứng đáng gì với sự tự tôn, kiêu ngạo đến mức trở thành “Dân tộc Cộng sản”? Một bài trên trang Tuyên giáo từ Tháng Hai 2019 thừa nhận số lượng đảng viên đông không nhất thiết phản ánh chất lượng: “Cũng cần nhìn nhận rõ hơn động cơ vào Đảng của một bộ phận đảng viên có phải vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì dân, vì nước hay để có chức quyền, để mưu lợi riêng”. Bên cạnh đó, chỉ riêng số ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII có tới 26 người bị kỷ luật hoặc khởi tố hình sự vì tham nhũng, 5 ủy viên Bộ Chính trị và 3 thành viên trong nhóm tứ trụ cũng bị vạch mặt tương tự. Tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2024, trên cả nước đã khởi tố mới, điều tra 2.836 vụ án/5.975 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 841 vụ, 1.487 bị can so với cùng kỳ năm 2023), trong đó có 475 vụ án/1.094 bị can về các tội tham nhũng. Đảng viên cao cấp của Đảng Cộng Sản, rờ đến đâu phát hiện ra tham nhũng đến đó, đất nước tan hoang, đạo đức xã hội xuống cấp, hàng loạt thiết chế cơ bản để điều hành, quản lý của đất nước bị vô hiệu hóa… Không lẽ tất cả những điều đó trở thành thành tích vẻ vang, đến mức làm cho Đảng Cộng sản hãnh diện, phủ nhận lịch sử cả hàng nghìn năm của dân tộc chăng? Phương Tây có câu ngạn ngữ “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Lúc này, sau khi khai tử lịch sử dân tộc, Đảng Cộng sản chẳng phải đang là bia nhắm cho những quả đạn đại bác được bắn từ tương lai sao? DC, ngày 24 Tháng Chín, 2024  
......

Tô Lâm ở Mỹ: đừng hy vọng để rồi thất vọng!

Hiếu Chân/Người Việt Chuyến công du Hoa Kỳ đầu tiên của ông Tô Lâm trên cương vị tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) kiêm chủ tịch nước, đang thu hút sự chú ý của đông đảo những người quan tâm tới thời cuộc. Đảng CSVN đã sắp xếp chuyến ông Tô Lâm “ra biển lớn” khá chu đáo, khơi dậy niềm lạc quan và hy vọng về một sự thay đổi lớn sắp xảy ra. Nhưng với những ai hiểu đảng CSVN và những thủ đoạn chính trị tinh vi, đây chỉ là một màn trình diễn công phu, che giấu ý đồ thật của họ, do đó hãy còn quá sớm để lạc quan hay hy vọng. Chuyến đi đến New York tham dự kỳ họp thường niên thứ 79 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là một nghi thức ngoại giao thông thường. Là người mới tiếp nhận chiếc ghế lãnh đạo cao nhất của Việt Nam chưa đầy hai tháng, ông Tô Lâm coi đây là cơ hội quan trọng để ra mắt cộng đồng quốc tế, nâng cao uy tín ở trong nước và thể hiện hình ảnh một nhà lãnh đạo có năng lực trong dòng xoáy của chính trị cường quốc. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 có một tổng bí thư đảng CSVN dự kỳ họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Đảng CSVN cũng nhân cơ hội này để trưng ra một bộ mặt thân thiện, làm bạn với tất cả các nước, đồng thời củng cố mối quan hệ với Mỹ đúng một năm sau ngày hai nước nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện. Vì vậy, chỉ vài giờ trước khi ông Tô Lâm lên phi cơ sang Mỹ, nhà cầm quyền Việt Nam vội vã trả tự do “cưỡng bức” trước thời hạn cho các tù nhân lương tâm nổi tiếng là ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Thị Minh Hồng và Tiến Sĩ Hoàng Ngọc Giao. Hà Nội coi đây là một cử chỉ thiện chí, hy vọng Hoa Kỳ sẽ đáp lại. Hà Nội cũng sắp xếp cho ông Tô Lâm thuyết trình và gặp gỡ với sinh viên đại học Columbia University ở New York sáng 23 Tháng Chín dù họ không thật sự thoải mái khi cuộc gặp được Giáo Sư Nguyễn Liên Hằng điều khiển. Bà Hằng là một nhà sử học gốc Việt bị bộ máy tuyên truyền của đảng chụp cho cái mũ “phản động” dù bà là thành viên ban lãnh đạo Đại Học Fulbright Việt Nam ở trong nước. Nên để ý, cuộc gặp của ông Tô Lâm tại đại học Columbia University tái diễn một sự kiện tương tự khi ông Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng Việt Nam, đọc diễn văn tại đại học Johns Hopkins University ở Washington, DC, ngày 10 Tháng Mười Hai, 2001. Cho tới nay trong giới lãnh đạo Việt Nam chỉ có ông Dũng và ông Tô Lâm phá lệ, “dám” gặp gỡ, đối thoại với sinh viên Mỹ, đúng như chúng tôi phán đoán trong một bài trước, ông Tô Lâm sẽ đi vào con đường “kỹ trị” của ông Dũng, xa rời sự cai trị giáo điều của ông Nguyễn Phú Trọng. Cũng như ông Dũng 23 năm về trước, cuộc gặp của ông Tô Lâm được dàn dựng cẩn thận, sinh viên phải nhìn vào màn hình điện thoại mới đọc được câu hỏi được mớm trước; còn ông Tô Lâm thường lúng túng, dán mắt vào cuốn sổ tay và né tránh những vấn đề thiết thân như hòa giải với người Việt hải ngoại, với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Dù ông Tô Lâm không có được một cuộc thăm viếng chính thức cấp nhà nước tới Tòa Bạch Ốc hoặc hội đàm với các nhà lãnh đạo nước Mỹ, phía Việt Nam cũng đã cố gắng dàn xếp để ông gặp ông Joe Biden, tổng thống Mỹ, bên lề hội nghị Liên Hiệp Quốc cho dù để gặp ông Biden, ông Tô Lâm phải rút ngắn chương trình viếng thăm Cuba, đồng minh thân thiết nhất của Việt Nam ở Tây Bán Cầu. Tổng Thống Joe Biden đang trong thời kỳ mà người Mỹ gọi là “lame duck” (vịt què), ông sẽ rời chính trường trong bốn tháng nữa, cho nên theo Giáo Sư Alexander Vuving từ Trung Tâm Nghiên Cứu An Ninh Châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (Mỹ), cuộc gặp ông Biden là “không quá cần thiết.” “Sẽ cần thiết hơn nếu ông Tô Lâm gặp được những người có thể sẽ là một phần của chính quyền Harris giả định trong tương lai,” ông Vuving nói với BBC Tiếng Việt. Ấy thế nhưng qua một vài sự kiện nho nhỏ vừa kể, và qua những bài diễn văn “có cánh” của ông Tô Lâm từ khi lên nắm quyền, đã có nhiều người hy vọng ông Tô Lâm sẽ đem lại sự thay đổi cho chính trường Việt Nam, thậm chí có người đánh giá ông ta “thân Mỹ,” sẽ đưa Việt Nam vào một “kỷ nguyên mới!” Niềm hy vọng đó không chỉ cháy bỏng trong tâm trí hàng triệu người dân đang khao khát tự do ở trong nước mà còn thôi thúc một số bậc trí thức trong cộng đồng người Việt hải ngoại đang mơ về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng! Có điều, nếu quan sát những phát ngôn và hành động của ông Tô Lâm cùng bộ sậu của ông thì dễ dàng nhận ra niềm hy vọng ấy chỉ là ảo vọng. Chúng tôi đã nhiều lần phân tích về bản chất không thể thay đổi của đảng CSVN và nhu cầu cải cách thể chế chính trị Việt Nam, xin phép không nhắc lại nữa mà chỉ tập trung vào chuyến công du Hoa Kỳ hiện nay của ông Tô Lâm để chứng minh đảng CSVN vẫn kiên trì đi theo chủ nghĩa Cộng Sản, duy trì nhà nước cai trị kiểu Lênin, cùng chia sẻ vận mệnh tương lai với Trung Quốc và ngăn chặn mọi biểu hiện tự do hoá, dân chủ hoá xã hội. Những cam kết, hứa hẹn này nọ mà ông Tô Lâm đưa ra tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc và trong các cuộc gặp gỡ chẳng qua chỉ là những thủ thuật chính trị, những bức màn khói che đậy ý đồ thật sự của họ mà thôi. Trước chuyến đi, ông Tô Lâm đã phóng thích ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Minh Hồng nhưng trước đó chưa lâu, chế độ của ông đã bắt giam và kết án nặng nhiều gương mặt đấu tranh khác như các ông Nguyễn Vũ Bình, Phan Vân Bách, Trần Đình Triển, Trương Huy San (Huy Đức)… Xem ra “quỹ tù nhân lương tâm” mà Việt Nam dùng để trao đổi với Tây phương vẫn không bị thâm thủng; chưa kể họ còn giữ những tù nhân có giá trị trao đổi lớn như Huy Đức, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng… Tính đến ngày 24 Tháng Chín, Việt Nam cầm giữ 187 tù nhân lương tâm, 417 người có nguy cơ bị đàn áp, theo dữ kiện của The Project 88. Nếu thực sự có thiện chí, nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do cho toàn bộ những người này và chấm dứt việc truy bức những tiếng nói phản biện ôn hòa, bất bạo động. Một chính thể bắt giam công dân để làm vật trao đổi với ngoại bang đổi lấy những sự nhượng bộ về kinh tế thương mại là một chế độ lưu manh, không có năng lực phục thiện. Trong chuyến đi Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đọc những bài diễn văn soạn sẵn đầy những hình ảnh và từ ngữ lung linh về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” về “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,” nhưng đằng sau đó là gì? Dù hết sức bận rộn trong thời gian ở New York, ông Tô Lâm và tùy tùng đã cố thu xếp gặp gỡ lãnh đạo đảng Cộng Sản Mỹ, các tổ chức cánh tả từng kích động phong trào phản chiến chống sự tham dự của người Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây. Ông Tô Lâm đã trao huân chương hữu nghị cho một số đại diện phong trào này. Đặt trong bối cảnh quan hệ cùng chia sẻ vận mệnh với một số ít các đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc Hàn và Cuba, cuộc gặp gỡ lãnh đạo đảng Cộng Sản Mỹ hoàn toàn nhất quán với chính sách, trước sau không thay đổi của đảng CSVN. Cộng đồng quốc tế vẫn chưa quên lập trường của Hà Nội ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Nga ở Ukraine và cuộc đón tiếp trọng thị nhà độc tài Vladimir Putin, tổng thống Nga, mới đây. Có nguồn tin trong nước tiết lộ, trong chuyến “Mỹ châu du” lần này, đích đến của ông Tô Lâm là Havana chứ không phải New York. Chuyến đi đến New York chỉ là hoạt động ngoại giao có tính thủ tục, trọng tâm chú ý của ông Tô Lâm cùng đoàn tùy tùng là viếng thăm chính thức cấp nhà nước tới Cuba, thể hiện thông điệp Việt Nam tiếp tục củng cố tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa với một trong vài nước có cùng chính thể cuối cùng còn sót lại. Có người phán đoán, chuyến thăm Cuba của ông Tô Lâm nhằm xoa dịu sự phản kháng của thành phần bảo thủ, trung kiên trong nội bộ đảng CSVN ở Hà Nội song chúng tôi thiên về nhận định đây là chính sách nhất quán của ông Tô Lâm, đổi mới mà không đổi màu, dù cải cách thế nào vẫn không từ bỏ chính thể Cộng Sản. Còn quá sớm để hy vọng ông Tô Lâm là nhà cải cách. Ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt thì mọi người đã biết; tên tuổi ông Linh gắn liền với mật nghị Thành Đô 1990, ông Kiệt ký Nghị Định 31/CP năm 1997 về quản chế hành chính, cho phép bắt giam không cần xét xử, kết tội không cần tòa án, đặt cơ sở pháp lý cho thời kỳ đàn áp khốc liệt những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Ông Tô Lâm chắc chắn sẽ đi vào con đường của ông Linh, ông Kiệt, của đảng CSVN nhưng đó không phải là con đường cải cách chính thể mà người dân đang hướng đến. [qd]  
......

Tô Lâm đi Mỹ nhưng không bỏ thói côn đồ

Chánh Thành (VNTB) Cưỡng bức ân xá chính là “bắt chim để phóng sanh”, bắt giam chính công dân của mình để đổi lấy viện trợ và thoả thuận quốc tế  Đầu tháng 9 Tô Lâm đã ký lệnh ân xá cho ít nhất hai người có liên quan tới những bản án vi phạm nhân quyền, gồm phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao và bà Nguyễn Phương Hằng, giám đốc công ty Đại Nam. Ông Giao là Viện trưởng Viện nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp các Hội khoa học, kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Ông đã lên tiếng mạnh mẽ để sửa đổi những điều luật bất lợi cho dân, trong vụ Đồng Tâm, ông cũng ra sức bảo vệ người dân bị hại. Cuối năm 2022, ông Giao bị bắt với cáo buộc ban đầu là “gián điệp”, sau đó sửa thành “trốn thuế”, được thả về sau 21 tháng bị giam giữ. Bà Nguyễn Phương Hằng được đặc xá giảm 3 tháng tù trong bản án 3 năm vì vi phạm điều 331, tội Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, tổ chức, cá nhân. Cùng với việc thả người thì Tô Lâm cũng đã cho phép tờ New York Times mở lại văn phòng ở Sài Gòn. Có thể nói Tô Lâm đã chuẩn bị rất kỹ trước chuyến đi Mỹ lần này. Một là không muốn bị chính quyền Mỹ lên án nặng nề về việc vi phạm nhân quyền, hai là mong muốn đạt được những mục tiêu có lợi cho cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, có lẽ hai người trên cùng tờ New York Times không đủ nặng ký để đưa lên bàn đàm phán với Hoa Kỳ. Thế là rạng sáng ngày 21/9, dư luận rúng động khi cộng sản Việt Nam (CSVN) bất ngờ thả ông Trần Huỳnh Duy Thức và bà Hoàng Thị Minh Hồng. Bà Hồng là nhà hoạt động môi trường nổi tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất Việt Nam, được quốc tế vinh danh là Anh Hùng Khí Hậu. Bà bị bắt năm 2023 với cáo buộc trốn thuế và chịu bản án 3 năm tù. Ông Trần Huỳnh Duy Thức là một kỹ sư, doanh nhân, nhà bất đồng chính kiến nổi bật nhất Việt Nam trong vòng 20 năm trở lại đây. Ông Thức bị bắt năm 2009 với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và chịu bản án 16 năm tù. Như vậy, bà Hồng được giảm 20 tháng tù, ông Thức được giảm 8 tháng tù. Nhưng điều đáng nói là Tô Lâm cho thả người một cách rất “côn đồ”. Thả vào lúc nửa đêm, ngay trước khi đi Mỹ. Trên Facebook của mình, ông Trần Huỳnh Duy Thức kể lại rằng ông đã bị “đặc xá cưỡng bức”. Vì ông không nhận tội, không xin đặc xá, nhưng lúc 17h45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người ở Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam, khiêng ông ra khỏi tù và đưa ông ra sân bay đưa từ Vinh vào Sài Gòn. Hành vi này cho thấy dã tâm của người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam khi bất chấp tất cả để đạt được mục đích cuối cùng. Tô Lâm không quan tâm dư luận đánh giá cách làm của mình, miễn là ông ta tới Mỹ, gặp được Biden và đạt được những thỏa thuận có lợi cho ông ta. Ở ao nhà thì là con cá sấu, nhưng ra biển lớn thì Tô Lâm cũng chỉ là con cá lòng tong. Rõ ràng rằng với chuyến đi Mỹ đầu tiên trong vai trò người đứng đầu hệ thống chính trị lần này, Tô Lâm khát khao có thể khẳng định vị thế chính trị mình với quốc tế. Có lẽ Hoa Kỳ cũng không lạ gì với cách hành xử côn đồ này của Tô Lâm và cộng sản Việt Nam. Tô Lâm từng làm dậy sóng quốc tế với việc cho lính sang tận Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh về Hà Nội. Còn Việt Nam thì từ lâu nay vẫn có truyền thống “bắt chim để phóng sanh”, họ bắt giam chính công dân của mình để đổi lấy viện trợ quốc tế. Thậm chí các tổ chức khủng bố cũng không bằng, vì khủng bố thì bắt cóc người Mỹ để đổi lấy tiền, chứ không bắt dân của họ làm con tin như cộng sản Việt Nam. Một câu hỏi nữa đặt ra là sau khi Tô Lâm về thì ai sẽ bị bắt tiếp. Năm ngoái, với mong muốn được Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, cộng sản đã thả ông Nguyễn Bắc Truyển (một người hoạt động dân chủ) và ông Mai Phan Lợi (người hoạt động môi trường) trước khi Biden qua Việt Nam. Sau khi được tổng thống Hoa Kỳ ký hiệp định thì 4 ngày sau, Việt Nam cho bắt bà Ngô Thị Tố Nhiên, một nhà hoạt động môi trường, giám đốc điều hành tổ chức Sáng Kiến Về Chuyển Dịch Năng Lượng Việt Nam (VIETSE). Tù nhân chính trị là một món hàng không cần vốn nên cộng sản Việt Nam sẽ không thể để cho nhà tù được trống. Họ sẽ tìm mọi cách lấp đầy để có thể khai thác bất cứ lúc nào. Dẫu biết rằng tự do không hề miễn phí, khi nào xã hội chưa có tự do, khi đó vẫn còn người đứng lên đòi. Tự do, dân chủ là xu hướng tất yếu của thời đại!
......

Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quy luật Thành - Trụ - Hoại – Diệt (Phần 1)

Trần Đan Tâm Thành - Trụ - Hoại – Diệt là một quy luật vật lý của vũ trụ cho thấy mọi vật có khối lượng và mọi hiện tượng cân đo đong đếm được trong vũ trụ đều bị chi phối qua 4 thời kỳ : xuất hiện là Thành, phát triển là Trụ, hư nát là Hoại và mất đi là Diệt. Quy luật nầy là một định luật khoa học chứ không phải là một quy luật riêng biệt của Phật giáo, được áp dụng cho mọi loại vật chất và hiện tượng trong vũ trụ hiện tại của nhân loại.   Một ví dụ cụ thể là con người ngay khi được sinh ra là giai đoạn Thành (hơn 9 tháng), lớn lên là giai đoạn Trụ, già đi là giai đoạn Hoại và khi chết đi là giai đoạn Diệt. Ví dụ về một hiện tượng như cơn gió hiện ra là "thành", thổi qua một thời gian là "trụ", yếu dần là "hoại" và sau cùng ngưng thổi tức là "diệt". Không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ nầy và chính cái vũ trụ nầy cũng đang tiến vào chu kỳ hoại diệt trong tương lai hàng tỷ tỷ năm sau nầy. Cực điểm của giai đoạn Hoại là gai đoạn Diệt thường là ngay lập tức hoặc nếu kéo dài thì thời gian cũng rất ngắn gọn, có thể kiểm chứng cụ thể qua những sự cố sụp đổ của các đảng cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu chung quanh thập niên 90 của thế kỷ 20 vừa qua. Lý thuyết Cơ học Lượng tử (Quantum Mechanics Theory) của khoa học và triết học phương Đông (Kinh Dịch) đã chỉ ra sự biến dịch của vạn vật và những hiện tượng trong vũ trụ. Đảng Cộng Sản Việt Nam không là một ngoại lệ, cho nên đảng nầy cũng phải bị biến dịch theo đúng với quy luật Thành - Trụ - Hoại – Diệt [1]. Hơn nữa, theo Giáo sư Kiều Tiến Dũng (Melbourne – Úc), Lý Thuyết Cơ học Lượng tử ngày nay đã chứng minh rằng ngay trong bản chất của bất cứ sự vật hay hiện tượng nào đều đã hàm chứa sẵn khả năng tự biến chuyển và luôn luôn biến chuyển, dù không có bất cứ ngoại lực nào tác động vào nó [1]. Đảng Cộng Sản Việt Nam là một hiện tượng của đất nước Việt Nam, hay nói khác đi, Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẻ hay một tập thể chặt chẻ, có gần 5 triệu người Việt Nam hiện nay. Chiếu theo Đạo Đức Kinh của Lão Tử thì vạn vật từ Không mà sinh ra, dần dần trưởng thành khi lớn lên. Khi lớn lên tới cực điểm rồi thì trở ngược lại và bắt đầu giảm lần, yếu dần và suy tàn cho đến khi trở về Không. Vậy thì tổ chức Đảng Cộng Sản Việt Nam nầy đang ở đâu chiếu theo Thuyết Cơ học Lượng tử và quy luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt gồm 4 giai đoạn thành, tru, hoài & diệt ? Cần nhấn mạnh là 4 giai đoạn thành, trụ, hoại & diệt của quy luật nầy thường chồng lấn lên nhau từng phần, chứ không phải hoàn toàn được phân chia cụ thể như những toa xe (coaches) của một đoàn tàu lửa. A. Giai đoạn hình Thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1928-1931) Khác với tất cả các đảng chính trị & cách mạng xuất hiện trước năm 1945 như Dân Xã, Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Tân Việt…, Đảng Cộng Sản Việt Nam được hình thành qua nhiều tên tuổi khác nhau và do quyết định của ngoại bang là Liên Xô (đứng đầu Quốc Tế Cộng Sản III) & Đảng Cộng Sản Trung Quốc tạo dựng. Trong suốt 2 năm 1929 và 1930, do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản), các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải họp nhau trên đất Tàu để thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất cho vùng Đông Dương mang tên chính thức là Đảng Cộng Sản Đông Dương, như sau : - Đông Dương Cộng Sản Đảng được thành lập ngày 17/6/1929 tại Hà Nội với Ban Chấp hành trung ương lâm thời gồm : Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính và Nguyễn Tuân, do Trần Văn Cung làm Bí thư. Thực ra, Đông Dương cộng sản Đảng có tiền thân là Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên (6/1925-8/1929), do Nguyễn Ái Quốc thành lập tại Quảng Châu, Trung Quốc. Các hội viên chủ chốt có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh... - An Nam Cộng Sản Đảng được thành lập ngày 15/11/1929 tại Sài Gòn. Ban Chấp hành trung ương lâm thời gồm : Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Nguyễn Sĩ Sách, do Châu Văn Liêm làm Bí thư. - Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn được thành lập ngày 1/1/1930 tại Hà Tĩnh. Các thành viên chủ chốt gồm : Nguyễn Xuân Thanh, Nguyễn Khoa Văn, Trần Hữu Chương, Lê Tiềm, Ngô Đức Đệ, Nguyễn Tốn, Trần Đại Quả và Ngô Đình Mẫn. Tuy nhiên tổ chức nầy chưa kịp bầu Bí thư và Ban Chấp hành trung ương thì bị thực dân Pháp bắt bớ và đàn áp. Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn có tiền thân là Tân Việt Cách Mệnh Đảng (14/7/1928-1/1/1930), với nhân sự chủ chốt gồm có Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... và do Đào Duy Anh làm Tổng thư ký. Về sau nhiều thành viên chuyển sang xu hướng cộng sản và thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam là do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế) yêu cầu Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc (chưa dùng tên Hồ Chí Minh) triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6/1/1930 đến ngày 8/2/1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng Sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, hai đại biểu An Nam Cộng Sản Đảng là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm và 3 đại biểu ở nước ngoài là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu & Lê Hồng Sơn đại diện cho Quốc Tế Cộng Sản III. Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mãi đến ngày 24/2/1930, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn mới chính thức gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam nầy. Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng Cộng Sản Việt Nam ghi ngày thành lập Đảng là 6/1/1930 nhưng Nghị quyết tại Đại hội III năm 1960 lại đổi thành ngày 3/2/1930. Như vậy ngày 3/2/1930, Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng chính thức hợp nhất thành một Đảng Cộng Sản Việt Nam thống nhất. Ngày 24/2/1930 thì Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn chính thức gia nhập. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31/10/1930, tên của Đảng Cộng Sản Việt Nam được đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc Tế Cộng Sản III và Trần Phú được bầu làm Tổng bí thư đầu tiên. Theo Hà Huy Tập thì lúc mới hợp nhất, phía Đông Dương Cộng Sản Đảng có 85 đảng viên, An Nam Cộng Sản Đảng có 61 đảng viên và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn có 119 đảng viên, và phân bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc tại Đông Dương có 300 đảng viên. Ngoài ra ở Thái Lan còn có 40 đảng viên và Hương Cảng (Hong Kong) có 14 đảng viên. Khi hợp nhất thì Đảng Cộng Sản Đông Dương có tổng cộng 565 đảng viên, chia thành 40 chi bộ ở khắp Đông Dương, Trung Quốc, Xiêm La (Thái Lan) và Hong Kong [2], [3] & [4]. Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Đông Dương, chụp tại Đại hội Đảng cộng sản Pháp họp tại Marseille năm 1921   Phân tích tỉ mỉ giai đoạn hình thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam nói trên sẽ thấy có 5 sự kiện đặc thù nổi bật. Thứ nhất là chỉ trong 3 năm ngắn ngủi (1928-1930) đảng nầy dùng đến 2 cái tên khác nhau (sau năm 1945 còn đổi tên thêm vài lần nữa), dù bản chất cộng sản không thay đồi. Ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng bị chính đảng nầy tự ý thay qua đổi lại như hành vi tráo bài ba lá : Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng Cộng Sản Việt Nam ghi ngày thành lập Đảng là 6/1/1930 nhưng Nghị quyết tại Đại hội III năm 1960 lại đổi thành ngày 3/2/1930. Thứ hai là 300 đảng viên của phân bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc gia nhập ngay khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, góp phần đưa con số đảng viên từ 265 lên 565. Con số 300 đảng viên gốc Hoa nầy chiếm đa số từ những ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tai họa cho chính họ và cho đất nước Việt Nam suốt từ đó cho đến nay. Thứ ba là ông Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc (chưa lấy tên Hồ Chí Minh), chẳng có vai trò gì trong giai đoạn manh nha thành hình Đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1928 đến 1930, dù ông ta là sứ giả và đại diện cho Quốc tế Cộng Sản III, mà Trần Phú lại chính là nhân vật có uy tín và ảnh hưởng trên nhóm thành lập đảng nầy. Chỉ một năm sau Trần Phú bị Pháp bắt tại Sài Gòn vào tháng 4/1931 và chết vào tháng 9 tại nhà thương Chợ Quán – Sài Gòn. Sau đó, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần lượt làm Tổng bí thưĐảng Cộng Sản Đông Dương, còn Hồ Chí Minh chỉ đảm nhiệm công tác liên lạc giữa Quốc Tế Cộng Sản và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á. Cả 3 Tổng bí thư đầu tiên của đảng nầy đều bị Pháp bắt tại Việt Nam và giết chết trong nhà tù từ 1931 đến 1941 và cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ngày 15/06/1924 tại Trung Quốc, trong khi đó ông Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc, được an toàn trong suốt thời gian hoạt động tại Trung Quốc và Xiêm La từ năm 1930, mãi đến năm 1942 ông mới lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Trước đó thì ông Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), đã dùng nhiều tên giả như Lý Thụy – là tên lúc đó của ông Hồ làm điệp viên chỉ điểm cho Liên Xô tại Trung Hoa dưới vỏ bọc thông dịch viên cho phái bộ Borodine - Lin, Thầu Chín, Nguyễn Ái Quốc, v.v… Một điều khá đặc biệt trong 79 năm cuộc đời, ông Hồ đã dùng tới 176 tên gọi và bí danh khác nhau, kể cả tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1942 tới ngày nay [5], [6] & [7] (Ghi chú : Theo báo điện tử của Đảng Cộng Sản Việt Nam [6] thì ông Hồ Chí Minh dùng đến 205 tên giả, chưa kể đến 2 bút danh Trần Dân Tiên, T. Lan để tự viết sách ca ngợi chính mình và bút danh CB để viết báo Nhân Dân gán ghép tội "cường hào ác bá" để xử bắn bà Nguyễn Thị Năm, tức bà Cát Hanh Long – một ân nhân đóng góp của cải nhiều nhất cho Đảng Cộng Sản Việt Nam - trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất 1956 của Đảng Cộng Sản Việt Nam). Hồ Chí Minh đã từng dùng bí danh Lý Thụy trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với các giấy tờ tùy thân mang tên Lý Thụy. Trong bức thư gửi Quốc Tế Cộng Sản, ngày 18/12/1924, Nguyễn Ái Quốc ghi ở cuối thư : " Trong lúc này tôi là một người Trung Quốc, chứ không phải là một người An Nam, và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc". Trước đó, vào năm 1919, khi còn mang tên Nguyễn Tất Thành ở Pháp cùng sinh hoạt chung với nhóm trí thức gồm các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành là người đến gia nhập nhóm sau cùng và chớp lấy cái tên Ái Quốc của nhóm, tức mạo danh nhóm trí thức nói trên [6] & [7]. Thứ tư là trong 4 năm liền sau khi thành lập Đảng, ông Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Lin bị các tổng bí thư tiên khởi khiển trách. Trong những năm 1931–1935, Nguyễn Ái Quốc bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc Tế. Trong một bức thư gửi cho tổ chức Đệ Tam Quốc Tế vào tháng 3/1935 với nội dung kể về phong trào cách mạng tại Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề. Bức thư này có ghi nhận về "tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của các đồng chí trong Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc". Trong thư này cũng có đoạn : "Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh Niên là rất cần thiết (...). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua". Sở dĩ có việc phê phán này là do bất đồng giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí của ông về các lực lượng tham gia, cần tranh thủ trong hoạt động cách mạng và sự chệt hướng đấu tranh giai cấp của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) [8]. Việc tuyên truyền rằng Nguyễn Ái Quốc là cha đẻ của Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay là sự tuyên truyền gian dối và bịp bợm, vì chỉ sau ngày các tổng bí thư tiên khởi Trần Phú, Hà Huy Tập & Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt giam và giết chết thì Nguyễn Ái Quốc mới cướp quyền lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam vào thời đó. Do đó, lịch sử còn nghi ngờ dữ kiện là có thể Nguyễn Ái Quốc đã chỉ điềm cho Pháp bắt được cả 3 tổng bí thư tiên khởi nói trên để không còn ai có uy tín hơn Nguyễn Ái Quốc và đương nhiên ông bước lên vị trí chóp bu dễ dàng. Nghi ngờ nầy rất có cơ sở khi lịch sử đã nắm vững chứng cớ Nguyễn Ái Quốc đã bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp lúc 12 giờ trưa ngày 15/06/1924 (ngày 11 tháng Năm năm Giáp Tý), để cướp quyền chi phối Việt Nam Quang Phục Hội, Tâm Tâm Xã… tại Trung Hoa và nhận được một số tiền lớn do Pháp trả cho là 150 ngàn bạc Đông Dương thời bấy giờ [9], [10] & [11]. Nghi án Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp   Thứ 5 là việc ai sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào thời kỳ thành lập đó ? Câu trả lời chính xác : "Dựa theo lịch sử Việt Nam và các tài liệu chính thức trên truyền thông quốc tế thì Đệ III Quốc Tế Cộng Sản - do Liên Xô cầm đầu, chi phối – và Tàu Cộng là 2 nhân tố sáng lập. Có thể ghi nhận chính xác là Đảng Cộng Sản Tàu & Đảng Cộng Sản Liên Xô là 2 bà mẹ đẻ ra và nuôi dưỡng Đảng Cộng Sản Việt Nam khôn lớn". Cho đến ngày nay thì đảng cộng sản Tàu vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng và chi phối Đảng Cộng Sản Việt Nam ngấm ngầm & công khai. Do đó, những trí thức đương thời & có tầm nhìn sâu sắc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Khôi, Thiều Chửu… đều xa lánh Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngược lại là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Đại Nghĩa, Lâm Đức Thụ, v.v.. đều nhầm lẫn nghe theo tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam thời đó đến nỗi thân bại danh liệt sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp được chính quyền miền Bắc Việt Nam vào năm 1945. Như vậy kết lại những sự kiện trong giai đọan Thành cho thấy Tàu Cộng & cộng sản Liên Xô đã chung tay đẻ ra Đảng Cộng Sản Việt Nam để nhuộm đỏ vùng Đông Dương và phát triển thêm Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Dứt khoát là Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải do nhu cầu chính trị của Việt Nam thời đó tạo nên, cho nên đã cai trị Việt Nam trong suốt thời gian từ 1954 đến nay như một đạo quân chiếm đóng. Trở lại giai đoạn Thành thì 5 yếu tố đặc thù của giai đoạn Thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương nói trên đã xen kẻ một yếu tố của giai đoạn TRỤ (phát triển) và 4 yếu tố của giai đoạn HOẠI. Nhất là sự kiện thứ 5 nói trên và 300 đảng viên cộng sản Tàu tham gia làm con số đảng viên sơ khởi phát triển từ 265 lên 565, nhưng 300 đảng viên nầy lại sẽ là yếu tố HOẠI nặng nề về sau nầy. Trần Đan Tâm (12/09/2024) Tham khảo : [1] Kiều Tiến Dũng, 15/12/2016, Khoa Học Phương Tây Và Triết Học Phương Đông, Người Việt Books. [2] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư mở. [3] Communist Party of Vietnam, Wikipedia, The Free Encyclopedia. [4] Đệ Tam Quốc Tế, Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư mở. [5] Bút hiệu của Hồ Chí Minh, Wikipedia Bách KHoa Toàn Thư Mở. [6] Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/suu-tam-ten-goi-bi-danh-va-but-danh-cua-chu-tich-ho-chi-minh-qua-cac-thoi-ky-2554 [7] Sự thật về Hồ Chí Minh, August 2, 2013  , Hồ Chí Minh có bao nhiêu tên gọi, bút danh, bí danh ? [8] Hồ Chí Minh, Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư mở. [9] Nhượng Tống, 1928, nhà xuất bản Nam Đồng Thư Xã cho phát hành tập tài liệu "Ai bán đứng cụ Phan Bội Châu ?" của tác giả Nhượng Tống nêu đích danh người báo cho mật thám Pháp bắt Phan Bội Châu là nhóm Lý Thụy, Lâm Đức Thụ. [10] Minh Võ, Chương 45, Hồ Chí Minh và vụ bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp, Hồ Chí Minh - Nhận định và tổng hợp. [11] Phạm Minh Vũ, 18/05/2020, Hồ Chí Minh đã bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu cho Pháp như thế nào ?, hồ chí minh đã bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu cho Pháp như thế nào ? - Hồ Sơ - Quyền Được Biết (quyenduocbiet.com) Nguồn:Thông Luận  
......

Trần Huỳnh Duy Thức ra tù

Trần Huỳnh Duy Thức Kính thưa quý đồng bào thân yêu, Cuối cùng tôi đã trở về trong vòng tay yêu thương của gia đình, bạn bè, thân hữu và đồng bào thân yêu, những người đã che chở và chia sẻ với tôi những năm tháng gian truân và hào hùng của quãng thời gian dài gần 16 năm qua. Dù cách trở tù đày, tôi vẫn luôn cảm nhận sự đồng cảm và tiếp sức của mọi người thông qua sự quảng bá rộng rãi các bài viết của tôi từ nhà tù, đặc biệt sự ủng hộ đồng lòng những cuộc tuyệt thực mang thông điệp quan trọng của tôi. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn những tình cảm quý báu ấy của bè bạn trong và ngoài nước, nhất là các cơ quan đại diện ngoại giao Hoa Kỳ, EU, Đức, Pháp, Úc và Canada, các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền, các hãng truyền thông và báo chí hải ngoại cũng như quốc tế. Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến các thành viên trong gia đình tôi, những người đã dành cho tôi tình yêu thương vô bờ bến, và phải chịu đựng nỗi đau cùng sự dày vò tinh thần và thể xác, thậm chí còn lớn hơn những gì tôi đã trải qua. Chắc hẳn quý bạn đang muốn nghe những câu chuyện về nghịch cảnh mà tôi đã đối diện trong thời gian qua. Có rất nhiều câu chuyện như vậy cần được kể ra, nhưng xin hẹn mọi người dịp sau khi thuận tiện. Duy có một điều khá khôi hài mà tôi muốn kể ngay với quý bạn lúc này. Đó là việc tôi bị ĐẶC XÁ CƯỠNG BỨC, một chuyện có thể nói là vô tiền khoáng hậu ở đất nước này. Ngày 19/9/2024, đại diện của Trại giam số 6, thừa lệnh Bộ Công an, thông báo với tôi rằng, Chủ tịch nước muốn đặc xá cho tôi trước thời hạn và yêu cầu tôi làm đơn xin đặc xá. Tất nhiên, ngay lập tức tôi từ chối nhận đặc xá, và không ký vào đơn từ nào cả. Lý do là vì tôi phải được trả tự do theo đúng quy định mới của Bộ luật Hình sự hiện hành về hành vi mà tôi bị cáo buộc vi phạm, chứ tôi không cần ra tù nhờ sự đặc xá đó. Vậy mà vào lúc 17g45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người của Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam đọc thông báo, rằng Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá số 940 ngày 20/9/2024 về việc “đặc xá” cho tôi. Vì vậy, tôi trở thành người tự do và không có quyền tiếp tục ở lại trại giam. Tôi phản ứng ngay rằng, tôi không có tội cũng như lý do gì để nhận đặc xá và sẽ không đi đâu cả. Thế là họ cưỡng bức, khiêng tôi ra khỏi cổng nhà tù trước sự phản đối của các anh em tù chính trị ở đó, rồi đưa tôi lên xe ra sân bay Vinh. Cuối cùng tôi bị buộc phải lên máy bay trong chuyến muộn vào Sài Gòn. Một cách mặc nhiên, tôi đã góp phần quan trọng vào sự hỗ trợ chuyến công du Hoa Kỳ của ông Chủ tịch nước, một chuyến đi mang hy vọng về sự chuyển đổi mạnh mẽ cho đất nước trong tương lai. Các nhân viên an ninh bày tỏ sự vui mừng khi tôi bước lên máy bay và xin chụp một tấm hình kỷ niệm với tôi. Bây giờ tôi lại muốn chia sẻ với mọi người đôi chút về tương lai. Hãy tin rằng dân tộc ta đang bước vào một cuộc chuyển mình vĩ đại không thể đảo ngược. Đó là tiến trình chuyển đổi ôn hòa được dẫn dắt bởi Trào lưu mềm với năng lượng mềm, giúp chuyển hóa mọi năng lượng giận dữ tích tụ bao đời. Điều tốt đẹp đó đang đến gần hơn bao giờ hết. Mong quý đồng bào giữ vững niềm tin! Hẹn sớm gặp lại mọi người. Trần Huỳnh Duy Thức  
......

Bi kịch của cái đầu

Xuân Sơn Võ   Tối qua tôi nằm mơ một giấc mơ kì quái. Tự nhiên tôi không thấy chân tay mình ở đâu, chỉ còn lại mỗi cái đầu. Mà cái đầu ấy lại bị giao cho việc quản lí công việc cứu hộ, cứu nạn bão lũ. Thật sự thì tôi rất là lúng túng. Đó giờ tôi quen làm việc bằng tay chân, thấy cái gì thì ứng phó với cái đó. Bây giờ không có tay chân, chỉ còn mỗi cái đầu, thì làm sao tôi có thể chèo thuyền đi cứu trợ, làm sao mang mì tôm đến cho đồng bào... Cũng may, bụt hiện lên (mơ mà) và bảo: "Mi cần phải dùng cái đầu để nghiên cứu, hoạch định kế hoạch, rồi mới giao cho tay chân làm việc". Thế là tôi suy nghĩ, và vạch ra kế hoạch, lập ra các ban bệ, mỗi ban bệ phụ trách một việc, từ dự báo, đến lên kế hoạch. Từ kế hoạch phòng tránh các tai nạn, các tác hại của bão, lũ lụt, đến khoanh vùng các khu vực để có thể dự đoán, lên kế hoạch ứng cứu cho từng khu vực. Rồi thành lập các đơn vị cứu hộ chuyên nghiệp, tập luyện kĩ càng từng phương án cứu hộ, cứu trợ... Vừa lúc đó thì có một cơn bão lớn, có nguy cơ đổ bộ vô nước ta. Tôi lên kế hoạch bảo vệ nhà cửa, tài sản, cây cối... dự phòng các tình huống xấu ngay trong bão và kế hoạch xử lí từng tình huống. Rồi tôi lên kế hoạch cứu hộ, phân công cho các bộ phận túc trực và ứng cứu kịp thời. Biết rằng sau khi bão quét, sẽ có một cái gọi là hoàn lưu bão, gây mưa lớn, khả năng ngập lụt, lũ quét, sạt lở cao, dựa trên việc khoanh vùng và kế hoạch trước đó, tôi lên kế hoạch cụ thể sơ tán dân, yêu cầu bên quân đội hỗ trợ trực thăng ứng cứu cho các vùng bị cô lập do lũ, sạt lở... gây ra. Tôi cũng yêu cầu bộ phận cứu trợ phải nắm bắt tình hình từng khu vực, thông báo kịp thời nhu cầu cứu hộ của từng khu vực, nơi nào thiếu nước sạch, nơi nào thiếu thuốc men, nơi nào thiếu ăn, nơi nào thiếu quần áo... để có kế hoạch phân bổ ứng cứu. Kế hoạch là nếu có nhiều người dân tham gia cứu trợ, thì bộ phận này phải định hướng cho họ, cần cứu trợ cái gì, ở đâu... Rồi tôi lại tính đến sau khi bão qua, lũ rút, thì phải dọn dẹp tái thiết ra sao, kinh phí từ đâu... Cuối cùng thì tôi đã có một bản kế hoạch tổng thể và chi tiết dày cộp. Khi bão đến, cứ nhìn vô đó mà thực hiện. Nếu có phát sinh gì thì xem vô mục phát sinh, tìm đến mục các hướng giải quyết, để giải quyết phát sinh một cách phù hợp với tổng thể. Thế rồi bão đến thật. Cái đầu tôi vô cùng kinh ngạc. Mấy cái tay, chân chúng không xem bản kế hoạch của tôi, chúng thực hiện theo kiểu chúng nghĩ, gặp đâu làm đó. Dân, ai tự cảnh báo, tự sơ tán thì sống, ai không tự cảnh báo, tự sơ tán được, thì tự chịu. Các đội cứu hộ thì cực kì vất vả, trèo đèo lội suối, mà hiệu quả chẳng được bao nhiêu. Đội drone thì mất hút. Trực thăng ra biểu diễn chút đỉnh rồi biến mất. Buồn nhất là người dân nhiệt tình tham gia cứu trợ. Nhưng cái bộ phận nắm bắt tình hình từng khu vực, thông báo kịp thời nhu cầu cứu hộ của từng khu vực chẳng hiểu biến mất đâu, nên hàng cứu trợ chất đống, nhiều thứ làm ra không kịp dùng bị hư hỏng, lại phải tìm nhân lực để bỏ đi. Trong khi đó thì nhiều nơi thiếu thốn trăm bề. Nói chung, mọi thứ cứ rối tung rối mù lên. Tôi kêu gọi, van vái mãi, bụt mới hiện lên, và bảo: "Ta chỉ bảo cho cái đầu, còn đầu phải điều khiển tay chân. Kêu ta làm chi?". Tôi nhìn lại, cái đầu tôi đang bị đặt dưới đất, may mà chưa bị lũ quét. Trong khi tay chân thì múa may tưng bừng. Vừa lúc ấy thì một tiếng nổ lớn vang rền, mặt đất rung chuyển. Một cơn lũ bùn đất đang ùn ùn đổ xuống. Tôi chỉ là cái đầu, không có tay chân, làm sao mà chạy. Khi bùn đất bắt đầu lấp lên đầu, lên mặt tôi, tôi ngộp thở quá và bừng tỉnh. Thì ra đó là mơ. May mắn quá. Đó mà là thật thì tôi chết ngắc rồi. Mở fb ra xem. Hà Nội đến hôm nay vẫn chưa dọn xong cây đổ./.  
......

Pages