Thương nhớ miền Tây: Một chục không phải là 10

Với cây bẹo giới thiệu hàng hóa của chiếc ghe có lẽ là nơi xuất phát một chục có đầu. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Lê Đại Anh Kiệt

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Khi dư luận xôn xao tin vui sắp khánh thành cầu Mỹ Thuận, nhà văn Sơn Nam viết bài “Vĩnh biệt con phà Mỹ Thuận.” Khi Sài Gòn di dời chợ đầu mối, nhà văn Võ Đắc Danh viết ký “Phiên chợ trăm năm” giã biệt chợ rau Cầu Muối… Theo quy luật cuộc sống, cái này sinh ra thì có cái khác mất đi.

Lục tỉnh, miền Tây cũng vậy. Những khu công nghiệp, khu dân cư lấn át cánh đồng, con trâu không còn chỗ đứng, con diều giấy thưa dần trên bầu trời và lối sống, cách mua bán nghĩa tình nồng hậu một chục không phải là mười cũng thành ký ức của một thời.

 

Miền Tây đâu phải xa xôi. Cách đây hơn 20 năm, từ Sài Gòn đi về lục tỉnh, qua An Lạc, Bình Điền đã cảm nhận hơi hướng miền Tây với màu xanh đồng ruộng bao quanh những vườn xoài cổ thụ. Qua khỏi Bình Chánh đã lọt vào miền Tây đích thực với đồng lúa bạt ngàn cò bay thẳng cánh và những vườn cây xanh lặc lìa trái ngọt.

Không bông ô môi, vắng hẳn tiếng chày

Ngày nay cũng trên con đường ấy, hình ảnh miền Tây bị những khối nhà bê tông che khuất. Màu xanh đặc trưng của miền Tây bị những trụ khói đen, những nhà máy cấu trúc sắt thép khổng lồ băm nát. Bầu trời giăng giăng dây điện không gian bị ngăn cách nên vắng bóng cánh cò và ngay trẻ con cũng không có nơi để thả lên ước mơ bầu trời qua con diều giấy.

Câu hát “Mỗi lần thấy bông ô môi nở hồng trong gió chướng, mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang, mỗi lần có dịp về Vĩnh Long đi ngang Tân Ngãi thấy nhà chợ Trường An” của cố nghệ sĩ Út Trà Ôn đã trở thành cổ tích. Cây ô môi, cây gòn, cây quao, cây me tây, cây trôm hay còn gọi là lim xẹt… biết bao loại cây thân thuộc của miền Tây đã gần như tuyệt chủng theo đà công nghiệp hóa. Hai bên đường ngang Tân Ngãi đã bị nhà cao tầng che chắn, không còn thấy nhà chợ Trường An như hình ảnh đặc trưng của đất Vãng (*). Tiếng chày quết bánh phồng gõ nhịp hằng đêm cũng tắt lâu rồi.

Về đâu mùa nước nổi

Thiên nhiên miền Tây ngày xưa có mùa nước nổi nằm vắt ngang giữa hai mùa mưa nắng. Nước từ đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ, từ biên giới phía Tây chảy tràn đồng về phía Đông ra biển mang theo bao nhiêu tôm, cá, trăn, rùa và nhiều sản vật khác nào là điên điển, cà na, bông súng, bông hẹ… đặc biệt là hàng vạn hàng triệu tấn phù sa như sữa mẹ vun bồi sức sống trù phú. Nước về chậm rãi, ở đầu nguồn một ngày đêm chỉ lên vài tấc. Người dân miền Tây nồng hậu đón chờ nước về, nước xuống và đặt tên cho nước mùa này rất thân thương là “nước bạc” nôn nao đồn đoán nước nhỏ hay nước lớn.

Dọc các triền sông, kinh rạch, những hàng đáy, vó lưới mọc lên đón cá, đồng thời cũng tạo thêm nét đẹp chất thơ cho miền Tây.

Từ cuối thập niên 1990 mùa nước nổi hiền hòa ấy lại bị gọi bằng cái tên phản cảm là mùa lũ. Người ta đào kinh, đắp lộ ngăn đường nước suông nên chỗ này bị ninh ngập úng, chỗ kia héo khô thiếu nước.

Đến nay Trung Quôc đắp đập chặn dòng ở đầu nguồn, mùa lũ cũng không còn, miền Tây khát khao nước ngọt ngay trong mùa lũ và đang bị chìm dần trong làn sóng thủy triều. Nước biển xâm nhập càng lúc càng sâu và người dân miệt vườn chưa có khái niệm, chưa có ý thức phải thích nghi với hệ sinh thái ngập mặn theo sự chu chuyển của đất trời và của cả con người đã lạm dụng khai thác quá mức lượng nước ngầm trong lòng đất.

Họp chợ trên sông. (Hình: Nguyen Vinh Quang/Pixabay)

Một thời sông nước

Đất đai tươi tốt, cây trái dồi dào thành hàng hóa cho các vùng miền khác, ngược lại ít làng nghề, thiếu các hàng tiểu thủ công nên nhu cầu giao lưu hàng hóa hình thành rất sớm. Con người miền Tây sông nước ngày xưa đi lại vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy là chính, họ quần tụ thành phố thị theo truyền thống trên bến dưới thuyền và cả những chợ nổi trên sông.

Nhà vườn bán sỉ thậm chí bán mão, sang từng ghe hàng cho thương lái. Thương lái địa phương cũng len lỏi đến từng vườn để mua hàng. Đường xa, tốc độ đi ghe chậm, trái cây chín dễ hư, con người lại phóng khoáng nên việc mua bán rất nhanh gọn ít kỳ kèo bớt một thêm hai và phương tiện đo lường cũng vậy. Trong bốn cách cân, đo, đong, đếm thì người miệt vườn chuộng nhất là cách đếm. Nó gọn lẹ, không cần công cụ.

Ngày xưa nếu có ai hỏi mua ký cam, ký quýt, ký dưa hấu sẽ là chuyện mắc cười. Từ vườn tới chợ, mua bán trái cây không ai cần đến cái cân mà chỉ đếm. Tùy theo từng loại trái, từng mặt hàng, mua sỉ mua lẻ mà có những đơn vị đếm khác nhau.

Với những trái to có giá trị như dừa, dưa hấu, bưởi, mua lẻ có đơn vị là một trái, cặp (hai trái) hoặc là một chục. Mua sỉ thì tính theo đơn vị là trăm, thiên (ngàn).

Bông súng, đặc sản mùa nước nổi của miền Tây. (Hình: Lê Đại Anh Kiệt)

Chỉ đếm, rất hiếm đo, đong, cân

Với các loại quả nhỏ như cam, quýt, xoài mua lẻ vẫn đếm bằng đơn vị trái, chục, nhưng mua sỉ thì kết hợp giữa đong và đếm. Đơn vị đong cũng là bao bì cho hàng hóa là cái cần xé (**). Người ta không đong bao nhiêu lít cam hay cân bao nhiêu ký cam mà tính đơn vị bằng cần xé.

Trái cây từ vườn hái cho vô cần, đóng gói và tính tiền theo đơn vị cần. Cách này rất tiện dụng cho nhà vườn lẫn thương lái và đến lượt mình các thương lái sang hàng cho chành vựa hoặc các tiểu thương bán lẻ cũng đếm bằng cần. Hiện nay, ở các tỉnh miệt vườn, Vĩnh Long, Bến Tre… nhà vườn vẫn còn duy trì cách bán này.

Không chỉ với trái cây mà ngay cả vật nuôi như gà, vịt, trứng, người miền Tây cũng tính theo phương cách đếm. Ngay cả cá con, cá giống, cũng tính theo đơn vị đếm con. Nhưng với các loại cá quá nhỏ như cá tra giống người ta cũng kết hợp giữa đong và đếm. Múc vài vợt cá, đếm mẫu xem mỗi vợt có bao nhiêu cá con và từ đó lấy con số trung bình của vợt làm đơn vị tính. Thí dụ, một vợt quy là 120 con, thì 10 vợt tính thành 1 thiên 2.

Với các chế phẩm từ nông sản như bánh tráng, bánh phồng cũng tính bằng cách đếm nhưng đơn vị tính là xấp. Một xấp có thể từ 10, 20, 50 cái tùy theo từng vùng. Rau, cải bán bó. Đồ hàng bông như bắp cải, bông cải thì bán bắp, tức nguyên một cái.

Lá chuối tươi, lá chuối khô để gói bánh, gói hàng thì tính theo xấp. Một xấp có bốn tàu, xé ra thành tám tờ. Người bán có lòng thì phân ra các loại lá lớn nhỏ khác nhau để theo từng xấp, vì giá khác nhau.

Chuối thì tính quày (buồng), nải. Một quày có nhiều nải. Nếu mua nguyên quày thì khuyến mãi luôn những nải chót có trái nhỏ không ngon bằng các nải ở phía trên.

Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/tet-2021-toyota/thuong-nho-mien-tay-mot-chuc-...