Cuộc chiến đẫm máu, dai dẳng chống Trung Cộng xâm lược Việt Nam bị coi nhẹ

CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG|

CUỘC CHIẾN ĐẪM MÁU, DAI DẲNG CHỐNG TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC BỊ COI NHẸ HẾT SỨC TRONG SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM “CHÍNH THỐNG”


 
“5h sáng ngày 17-2-1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài 1.400km tiến vào sáu tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu, điều động 9 quân đoàn chủ lực, 2.559 khẩu pháo, 550 xe tăng và thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng Sơn, Lào Cai (30Km), Lai Châu (15km), Cao Bằng (50km).


 
Quân dân Việt Nam kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên địch, tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm phạm lãnh thổ Việt Nam”. (Trang 355, Tập 14, Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH)


 
11 dòng trên là toàn bộ dung lượng viết về cuộc chiến chống Trung Quốc Cộng sản xâm lược Việt Nam trong 10 năm ròng rã đẫm máu từ 17/2/1979 đến tháng 12/1988 trong bộ sách “Lịch sử Việt Nam” của Viện Sử Học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam 15 tập, với 10.000 trang (khoảng 290.000 dòng). Riêng giai đoạn năm 1930 đến năm 2000 đã có 6 tập (tập 9-15), với tổng số khoảng 3.600 trang (ước khoảng 103.000 dòng).
 
1.Tại sao lại gọi đó là cuộc chiến đẫm máu?
 
Bởi nếu so với 58.000 lính Mỹ chết ở Việt Nam giai đoạn 1963-1973, thì số lính Trung Quốc chết là 62.500 tên (1979-1989), nhiều hơn 4.500 tên. Chưa kể ngoài cuộc chiến phía Bắc này, còn có cuộc chiến do Khmer Đỏ xâm lược Tây Nam Việt Nam 1979-1978 từ cùng một bộ não chỉ huy là Cộng sản Bắc Kinh, và với trang bị hậu cần, vũ khí giết người Việt Nam cũng “made in China” mà thiệt hại hai bên chưa thấy công bố (?)
 
Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát phương Tây ước tính thì quân và dân Việt Nam hy sinh trong hai cuộc chiến biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc Cộng sản gây ra khoảng 100.000 người.


 
Còn nhiều sự thật đã phơi bày ngay trước thanh thiên bạch nhật: 4 thị xã của Việt Nam là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Cam Đường bị quân Trung Quốc phá hủy hoàn toàn; 6 tỉnh Biên Giới phía Bắc Việt Nam bị Trung Quốc phá hủy triệt để hạ tầng giao thông gồm cả đường sắt, đường bộ, cầu cống, điện, nước, và các cơ sở kinh tế kỹ thuật khác như trụ sở cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nhà ga, trường học, bệnh viện, cửa hàng bách hóa… nơi quân Trung Quốc đi qua. Sử “chính thống” không ghi, nhưng báo chí nói nhiều đến việc quân Trung Quốc thảm sát dã man người Việt Nam ở Tổng Chúp (chúng giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng tháng 3/1979).
Chính vì sách Lịch sử “chính thống” viết quá sơ lược, thậm chí không viết về những sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung trong những năm 1984-1989, nên rất nhiều người Việt Nam đến nay vẫn cho là cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược 17/2/1979 chỉ kéo dài 1 tháng.
 
Nhiều người Việt Nam trưởng thành vẫn tưởng nhầm cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược khởi đầu 17/2/1979 đã chấm dứt khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố hoàn thành rút quân 16/3/1979 do đã “dạy xong cho Việt Nam bài học”. Sự thật là do Trung Quốc thất bại nặng nề về quân sự, do vũ khí lạc hậu, kỹ chiến thuật lạc hậu, chỉ huy tác chiến kém, huấn luyện kém… khi tiến đánh Việt Nam, Đặng đã chỉnh huấn như vậy khi họp Quân ủy Trung Quốc.
 
Nhiều sự thật về những trận chiến sau đó, mà sách sử “chính thống” không nhắc đến, ví dụ sơ lược vài dòng như sau:
 
Từ tháng 4/1984 – 12/1988, tại khu vực núi đá Vị Xuyên, Hà Giang là nơi được các chiến sĩ tiền tiêu Việt Nam ở các sư đoàn F356, F313, F312, F316… gọi là “lò vôi thế kỷ” (do hứng chịu hàng trăm ngàn quả đạn pháo cả hai bên làm núi đá bị nung nóng thành vôi) đã đối đầu với nhiều sư đoàn, quân đoàn, quân khu của Trung Quốc tấn công đánh chiếm, tái chiếm giằng co từng mét đất biên cương, bộ đội Việt Nam đã tổn thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000 ) sĩ quan chiến sĩ hy sinh, hơn 9.000 bị thương, hàng chục người bị bắt. Nhiều Liệt sĩ Việt Nam ở khu vực này đến nay không có mộ, nhiều ngôi mộ vô danh vì cuộc chiến quá ác liệt nên thị nát xương tan lẫn lộn, khi quy tập đã không xác định được hình dạng, họ tên!
Chỉ riêng tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn (1984-1989) quân Trung Quốc bị chết 15.178 tên, bị thương 17.757 tên.
 
Chỉ trong một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tiến công tái chiếm các điểm cao 685, 1509, 772, 1030 do quân Trung Quốc đánh chiếm từ tháng 4/1984, riêng F356, quân đoàn 29, Quân khu II của Việt Nam đã thiệt hại hơn 600 sĩ quan, chiến sĩ (có nguồn ghi ngày đó, tại các điểm cao trên các Sư đoàn Việt Nam bị thiệt hại 1200)“. (Tóm tắt trang 449, 450 sách VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT TRUNG của Phạm Viết Đào)
 
Quân Trung Quốc còn thảm sát 64 sĩ quan chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, và Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến nay.
 
Những sự phá hoại và giết chóc hàng vạn người Việt Nam do Trung Quốc gây ra cho Việt Nam (1979-1989) đã vượt quá bao lần giá trị Trung Quốc viện trợ hậu cần, nhân sự và vũ khí cho Việt Nam đuổi Pháp (1950-1954) giúp tạo vùng đệm an toàn cho biên giới phía Nam của Cộng sản Trung Quốc, và để Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chống Việt Nam Cộng hoà (thực chất là giết hại đồng bào Miền Nam Việt Nam) và “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” (1954-1975)?
2. Tại sao lại gọi là cuộc chiến dai dẳng?
 
(a) Nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của nước đối phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Vì từ vụ Trung Quốc xâm lược, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974; tiếp đó là Bắc Kinh dùng cộng sản Polpot xâm lược Tây Nam Việt Nam; đặc biệt cuộc xâm lược 6 tỉnh biên giới Bắc Việt Nam từ 17/2/1979 -1989; vụ thảm sát 64 sĩ quan binh sĩ Việt Nam tại Gạc Ma để chiếm Gạc Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa của Việt Nam 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây căn cứ quân sự trên đó. Cuộc chiến tranh sử dụng “sức mạnh cứng” như thế chưa kết thúc.
 
(b) Nếu xét theo loại hình xâm lược bằng “sức mạnh mềm” như dùng chiến tranh tâm lý, kinh tế, văn hóa, giáo dục, luật pháp, ý thức hệ, thể chế chính trị… để một quốc gia này bắt quốc gia khác phải quy phục, phải lệ thuộc, phải “gọi dạ, bảo vâng”, thì Trung Quốc Cộng sản đã thực hiện loại hình này với Việt Nam ngay từ khi Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ ngày 18.1.1950 đến nay.
 
Nhà ngoại giao kỳ cựu từng làm Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh 14 năm (1974-1987), Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh viết:
 
“Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc- Việt Nam thì thấy: Ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận, tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ…Trung Quốc chuyển sang chinh phục ta bằng kinh tế… họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo… muốn giữ ta luôn ở thế yếu… Trung Quốc không muốn ta đàm phán (với Mỹ) mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”…” Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng, bắt ta phải thần phục họ”… Trung Quốc quen đối xử với các nước nhỏ theo cách kẻ cả, bất công bằng như thời bộ lạc “mạnh được yếu thua’, không còn coi công lý là gì “nghe lời ta thì được “tốt đẹp”, chống lại ta thì ta cho chết (Trang 115, 117, 118,119 sách “Kể Lại Cuộc Đời”, Hồi ức của Nguyễn Trọng Vĩnh).
Nay thì, ngay từ Lời nói đầu, Chương 1 của Hiến pháp Việt Nam đến nhiều điều cơ bản về thể chế chính trị, CHXHCN Việt Nam cũng “giống” Hiến pháp Trung Quốc. Rồi đến các chính sách mở cửa, cổ phần hóa, đa dạng các loại hình kinh tế… gần đây nhất là Luật Khu Hành Chính và Kinh Tế Đặc Biệt, Luật An Ninh Mạng thì Cộng sản Ba Đình luôn luôn giẫm đúng vết chân người đồng chí anh em bốn tốt Cộng sản Trung Nam Hải bất kể những chính sách, đạo luật ấy tốt hay xấu cho người dân Việt Nam.
 
Đến mức chỉ số minh bạch, chỉ số Tự do báo chí, Tự do internet, điểm số về đàn áp Nhân quyền… thì Việt Nam luôn luôn theo sát sàn sạt người anh em Cộng sản Trung Quốc.
 
Từ những điều trên đây, có thể khẳng định rằng cuộc chiến giành tự do độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam đến nay chưa kết thúc, đó là một “cuộc chiến dai dẳng”. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở biên giới Tây Nam, và 41 năm trước (từ 17/2/1979 -1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Nay kẻ thù vẫn ngang nhiên vẽ “lưỡi bò” để chiếm 80% biển Đông của Việt Nam, đang chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam; kẻ với chiến lược “vành đai con đường” để bành trướng lãnh thổ; kẻ quấy phá biển đảo và thềm lục địa Việt Nam không để Việt Nam yên bình hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, bãi Tư Chính năm 2018, 2019… Kẻ thù đó ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã lôi kéo được nhiều người mang dòng máu Việt Nam nhưng cơ hội chính trị và tham lam quyền lực và vật chất, nhiều kẻ mang danh là trí thức Việt Nam cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn đã vô tình hay hữu ý làm tay sai cho bọn xâm lược đất nước của ông cha mình.
 
Bộ lịch sử 15 tập, hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, viết cả chục ngàn dòng ( ở hai tập 12, 13 với 1100 trang) về cuộc chiến ý thức hệ 1954-1975, cuộc chiến mà Cộng sản Trung Quốc “anh em” đã “tận tình giúp đỡ vũ khí, hậu cần” để “ta đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhưng chỉ viết 11 dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược Việt Nam với hàng chục vạn người Việt Nam chiến đấu hy sinh ở thế kỷ 20. Việc này làm lợi cho ai?


 
Tại sao sách sử “chính thống” hiện đại của Việt Nam không liệt kê những thiệt hại vật chất và sinh mạng vô cùng thảm khốc của Việt Nam trong hai cuộc chiến biên giới do Trung Cộng gây ra (1979-1989), mà lại ghi khá rõ “Việt Nam luôn luôn luôn biết ơn sự tận tình giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc” ( trang 351, tập 14 Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH) với những hạng mục vật chất, kinh tế, nhân sự khá chi tiết để Việt Nam đánh đuổi hai nền văn minh Pháp và Mỹ (1950-1975), để Việt Nam quay về thần phục Thiên Triều mọi mặt như ngàn năm phong kiến lạc hậu trước kia?
 
Phải chăng Viện Sử Học của Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam cũng bị “tê liệt và thất thủ” trước cuộc xâm lăng bằng “sức mạnh mềm” của Cộng sản Bắc Kinh còn đang tiếp diễn?

CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG