Vẫn nghĩ chỉ mình biết đi dây

Nói về chuyện đi dây tôi nhớ đến nỗi trăn trở của thi sĩ Phùng Quán “người làm xiếc đi dây rất khó/nhưng không khó bằng nhà văn/đi trọn đời trên con đường chân thật”. Để đối diện với chính mình Phùng Quán đã phải trăn trở nhiều như thế, trong khi đó cầm chịch một đất nước, trước con mắt của 90 triệu dân và thế giới, lãnh đạo VN cứ thản nhiên tự hào: chỉ mình biết đi dây! Thử nhìn vào màn xiệc mới cùng các hiện tượng xoay chiều trái ngược một cách khó hiểu của nhiều quan chức Việt Nam gần đây: Đầu tiên là ông thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh, trước giờ ông vẫn là cái “loa” cho Trung Quốc, từ các chính sách quyết giữ toàn vẹn lãnh thổ bằng tình hữu nghị 16 chữ vàng, 4 tốt, giữ nước bằng chính sách ba không cho đến những tuyên bố kiểu như: “Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng…”. Vậy mà, ông Trung Tướng thân Tàu, kẻ vẫn giữ nhiệm vụ lãnh chỉ thị trực tiếp từ Bắc Kinh đem về cho Trung ương Đảng CSVN thi hành trong nhiều năm qua, bỗng dưng, đùng một cái ông chuyển sang vai liên lạc, giao dịch với Hàn Quốc và Hoa Kỳ.     Trong khi đó, Tướng Phùng Quang Thanh sau nhiều năm giữ vai "tướng dữ" đi mua sắm vũ khí chống Tàu khắp nơi, nay lại chuyển qua vai "tướng hiền", với câu tuyên bố thắm thiết nghĩa tình tại Sangri-La rằng các biến động tại Biển Đông chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình; rồi gần đây ông kéo nguyên một giàn 12 tướng lãnh cực kỳ hoành tráng sang Tàu xụp lạy. Điều nhức nhối là trong lúc tướng Thanh đang xum xoe một điều bạn, hai điều bạn, và rằng sang thăm được “bạn” đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, thì báo chí “bạn” lại vẫn giữ nguyên cái giọng điệu xấc láo khinh thường lãnh đạo VN như mọi khi. Tội nghiệp, báo chí công cụ nhà nước ta vừa phải nhận lệnh thổi tối đa tin tức 13 tướng lãnh sang thăm Tàu cũng cố “tình hữu nghị”, vừa phải hằn học chửi rủa báo chí Trung Quốc là “xuyên tạc” khi dám gọi chuyến đi này là "chuyến đi cầu hòa". Cũng cần nói thêm là trước chuyến đi làm lễ “phụng bái” của phái đoàn tướng lãnh này, ông Lê Hồng Anh, nhân vật quyền lực thứ 5 trong Bộ Chính Trị cũng đã chính thức sang Bắc Kinh để bày tỏ niềm mong ước xin được “cùng khai thác Biển Đông”. Rồi mới đây nhất là tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ công an đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của bộ sang bái kiến Trung Quốc. Như thế là đề huề, hai tướng lĩnh đứng đầu hai lực lượng vũ trang trụ cột của nước nhà đã liên tiếp sang viếng thăm Trung Quốc chỉ trong vòng một tháng. Riêng ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, sau bao nhiêu năm ông hãnh diện ra mặt là người được Ban Tuyên Giáo Trung Ương đảng CSTQ đào tạo, và theo sát mọi kế sách của Bắc kinh như kiểu "Kinh Tế Thị Trường theo định hướng XHCH", thì nay ông lại lu loa tuyên bố rằng ta đã chiến thắng Bắc Kinh tại biển Đông. Nhưng dĩ nhiên chỉ nói nho nhỏ với một nhóm cử tri nho nhỏ ở Hà Nội. Lạ lùng hơn nữa là cả làng báo lề phải cũng được lệnh đăng rình rang các tuyên bố của tướng Đỗ Bá Tỵ, Ông Tỵ cảnh báo rằng dù đã rút giàn khoan ra khỏi thềm lục địa VN, nhưng Bắc Kinh sẽ không từ bỏ mộng xâm lấn Biển Đông. Các bài báo công cụ trên còn liệt kê tràn lan các bằng chứng về ý đồ thâm hiểm của Bắc Kinh qua các việc cho xây phi trường, trại lính trên các đảo; cử các quan chức lớn của họ ra tham quang; cho di dân Trung Quốc ra sinh sống dài hạn tại đây; tổ chức các đoàn du lịch; v.v… Với bằng ấy các động thái, làm sao hiểu được căn nguyên của 2 hiện tượng trái chiều này? Không lẽ Bộ Chính Trị đã nứt làm hai? Quân Đội đã rời thành 2 mảng không còn ai bảo ai được? hay Ban Tuyên Giáo đã bó tay, không còn ra lệnh được cho làng báo công cụ, và để xảy ra tình trạng ai muốn đăng gì thì đăng? Phân tích đi phân tích lại, rốt cuộc chỉ có câu trả lời hợp lý nhất là: giới lãnh đạo đảng vẫn nghĩ chỉ mình là khôn; chỉ có mình mới biết thủ thuật đi dây; chơi với cả 2 phía và bịt mắt cả 2 phía; hay lấy phía này để bẩy hay mặc cả với phía kia; ... như thời chiến tranh. Nhưng cũng thật khó hiểu tại sao lãnh đạo Hà Nội vẫn tin họ bịt mắt được Bắc Kinh khi trọn vẹn ý định đi dây đó đã được viết ra rành rọt trên các trang mạng chính thức lẫn bán chính thức của Bắc Kinh, đặc biệt là tờ Bưu Điện Nam Hoa, kèm theo với các lời cảnh cáo thẳng thừng về hệ quả. Các trang mạng này còn vạch ra luôn cả các ý định di dây với Ấn Độ rất gần đây của Hà Nội.   Và cũng thật khó hiểu, tại sao lãnh đạo Hà Nội tin rằng họ vẫn có thể tiếp tục bịt mắt dân tộc Việt Nam với những động tác: quì lạy lí nhí ở Bắc Kinh rồi về đứng phán nẩy lửa ở Hà Nội. Dù người có trí nhớ yếu cũng không quên được các màn xảo trá gần đây như: theo sau các bản tin mua tàu ngầm, tên lửa là các tuyên bố thề hứa không bao giờ dùng quân sự với Bắc Kinh, các thề hứa không bao giờ tham gia các liên minh chống lại Bắc Kinh. Cũng vậy, theo sau các thông báo "Đang chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc về Biển Đông" là các bản tin Quốc Hội nhất định không ra thông báo chính thức nào để phản đối Bắc Kinh đưa giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam; rồi sau đó là các bản tin đăng chuyến đi của đại diện Bộ Chính Trị CSVN Lê Hồng Anh sang Tàu xin được cùng "khai thác chung tại Biển Đông" và các chuyến triều kiến của quân đội và công an VN như đã nêu trên. Và vô số các sự việc tương tự. Rõ ràng trong thời đại thông tin với tốc độ ánh sáng ngày nay, giới lãnh đạo Hà Nội vẫn chỉ biết và chỉ muốn dùng lại các thủ thuật của 50 năm trước. Họ đang nhắm mắt mà lại tưởng nhân dân và thế giới đều đang bị bịt mắt. Rõ ràng cảnh đi dây ngày nay là trò xiếc chưa diễn đã nhàm. Bằng chứng lớn nhất là chẳng có ai thèm xem, dù đó là người Tàu, người Tây, hay người Việt.
......

Á Châu trước hai viễn kiến Đông Tây

Trong thượng đỉnh APEC của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương năm nay các nước Á Châu thấy hai cường quốc ở hai bờ Thái Bình Dương đề nghị hai viễn kiến có vẻ tương đồng mà lại đối nghịch. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về những lợi hại của hai đề nghị này cho các nước Á Châu. Xin quý vị theo dõi cách Vũ Hoàng đặt câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Barack Obama (trái) tại Hội nghị thượng đỉnh APEC 2014 ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 2014.AFP PHOTO Kinh tế hay an ninh, chính trị? Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, đằng sau ngôn từ ngoại giao của lãnh đạo 21 quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương khi họ gặp nhau tại Hội nghị cấp cao là Thượng đỉnh APEC ở Bắc Kinh, mọi người đều thấy các nước Á Châu đang được hai cường quốc ở hai bờ Đông Tây của Thái Bình Dương là Hoa Kỳ và Trung Quốc mời chào vào hai dự án hội nhập kinh tế. Kỳ này, xin đề nghị ông phân tích cho hai đề nghị có vẻ là kinh tế đó mà thực chất vẫn liên hệ đến cả lĩnh vực an ninh và chính trị của các nước trong khu vực. Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng về bối cảnh sâu xa thì ta cần nhớ lại vài sự kiện trước khi đi vào hai viễn kiến Mỹ-Tầu được Hoa Kỳ và Trung Quốc chiêu dụ các nước châu Á. Trước hết, các nước đều có thể đồng ý với nhau rằng tự do thương mại theo quy luật thị trường là có lợi cho đôi bên trong việc giao dịch mua bán và đầu tư với nhau. Tuy nhiên, đi vào áp dụng thì từng nước phải đồng ý về quy tắc tự do đồng đều qua tiến trình đàm phán. Lý tưởng tự do mậu dịch toàn cầu dẫn tới sự hình thành của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà về sau cả Trung Quốc và Việt Nam đều gia nhập. Nhưng thực tế của thương thảo về quyền lợi và tương nhượng chung khiến vòng đàm phán gọi là Doha của WTO, được đề xướng từ Tháng 10 năm 2001, vẫn bế tắc sau 13 năm. Vì thế, các nước mới tìm qua ngả thương thuyết tay đôi hay giữa từng nhóm quốc gia trong từng khu vực với nhau rồi mở dần cho các nước khác tham dự. Vũ Hoàng: Thưa ông có phải đấy là bối cảnh của sự ra đời của sáng kiến TPP không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa từ 10 năm trước, vào năm 2005, một nhóm nhỏ các nước có vị trí địa dư nằm trong vành cung Á Châu Thái Bình Dương đồng ý quy tắc tự do buôn bán theo chủ trương giảm thuế suất nhập nội và hạn ngạch xuất nhập khẩu đến tối đa để có một khu vực tự do mậu dịch. Sau đó, từ năm 2008, Hoa Kỳ là quốc gia có thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới mới tham dự và mở rộng sáng kiến này. Về nội dung thì có tính chất hội nhập cao hơn để các thành viên trở thành đối tác về kinh tế lẫn chiến lược. Về phạm vi thì mời nhiều nước khác cùng tham gia, quan trọng nhất chính là Nhật Bản, mà quan trọng hơn nữa là không mời Trung Quốc. Tinh thần hợp tác ở đây là ngần ấy thành viên lớn nhỏ phải cùng đồng ý với một quyết định thì mới có giá trị. Sau mấy chục vòng đàm phán, Hiệp định TPP chưa thành hình như Chính quyền Barack Obama đã yêu cầu từ hai năm trước. Một phần cũng do phản ứng bảo hộ mậu dịch ngay trong nội bộ nước Mỹ, xuất phát từ cánh tả của đảng Dân Chủ. Phần kia là phản ứng bảo vệ của Nhật, khi họ cân nhắc sự lợi hại của việc mua bán xe hơi với nhập khẩu nông sản và lương thực chẳng hạn. Thực tế thì các nước, và nhất là nhiều thành phần tại Mỹ, cứ chú ý đến chuyện áo cơm mắm muối mà quên hẳn khía cạnh chiến lược kia là sự bành trướng của Trung Quốc. Vũ Hoàng: Trong khi đó, Trung Quốc chẳng ngồi yên mà cũng đã có nỗ lực mở rộng hợp tác với các nước nên ngày nay lãnh đạo Bắc Kinh mới đề nghị một lộ trình hội nhập để thành lập một khu vực tự do mậu dịch trong vùng Á Châu Thái Bình Dương. Thưa ông, diễn tiến việc đó là như thế nào? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin được nhắc lại rằng khi ba bốn nước sơ khởi, là Chile, Singapore và New Zealand rồi Brunei, đàm phán việc hợp tác và dẫn tới sự hình thành của sáng kiến TPP thì từ năm 2004, Nhật cũng có đề nghị tương tự là lập ra một khu vực tự do mậu dịch cấp vùng. Nhưng chính Trung Quốc mới thúc đẩy sáng kiến đó với 10 nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á là ASEAN để tiến tới sự hình thành của diễn đàn ASEAN + 3 là thêm Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn. Tiếp theo thì họ mở ra diễn đàn ASEAN + 6 là mời thêm Ấn Độ, Úc và New Zealand. Sáng kiến ASEAN + 6 là nền tảng của đề nghị gọi là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện trong Khu vực, gọi tắt là RCEP, được đưa ra lần đầu vào năm 2012 tại Thượng đỉnh của các nước ASEAN ở Cambodia, với triển vọng thành hình vào năm 2015. Sáng kiến RCEP do Trung Quốc đưa ra mới là nguyên ủy của dự án đàm phán về Hiệp định FTAAP gọi là Thương mại Tự do Á Châu Thái Bình Dương mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa nhắc lại và vẽ ra lộ trình sẽ cùng các nước hoàn tất vào năm 2025, là 10 năm sau tiêu chí của Hiệp định Đối tác Toàn diện RCEP... Vũ Hoàng: Khi ông nhắc đến hội nghị cấp cao của ASEAN tại Phnom Penh vào năm 2012 đó thì thính giả của chúng ta cũng nhớ đến việc quốc gia đăng cai tổ chức hội nghị này vào năm đó là xứ Cam Bốt đã bác bỏ việc các nước Đông Nam Á đề cập tới hồ sơ an ninh tại Biển Đông để khỏi gây mâu thuẫn với Trung Quốc. Có phải như vậy không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ông nhớ sự kiện đó là chí lý vì mọi đồng tiền đều có hai mặt. Mọi dự án hợp tác hay hội nhập kinh tế đều bao gồm cả khía cạnh an ninh vì các thành viên buôn bán với nhau đều có xu hướng là đối tác kinh tế sẽ dễ là đồng minh về an ninh và chiến lược. Nếu Hoa Kỳ mở ra sáng kiến TPP mà không có Trung Quốc thì Bắc Kinh cũng có sáng kiến FTAAP giữa 16 quốc gia sản xuất ra 40% sản lượng của thế giới mà không có Hoa Kỳ. Mục tiêu của Mỹ và TQ? Vũ Hoàng: Nhìn cách khác và chúng ta trở lại chủ điểm của chương trình, phải chăng các nước Á Châu được Hoa Kỳ và Trung Quốc mời vào hai kế hoạch hợp tác kinh tế khác biệt và thậm chí đối nghịch nữa? Hai cường quốc này nhắm vào những mục tiêu gì và các nước Á Châu nên cân nhắc ra sao trước sự mời chào của Hoa Kỳ và Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi nhắc lại diễn tiến từ chục năm trước thì ta thấy ra hai viễn kiến gần như hai cực đối nghịch của Mỹ và Tầu ở hai đầu Thái Bình Dương. Các nước Á Châu phải cân nhắc nhiều mặt lợi hại về kinh tế lẫn an ninh trong viễn ảnh năm mười năm tới chứ không thể chỉ nghĩ đến chuyện mua bán với ai thì có lợi! Nói về mục tiêu của từng cường quốc Mỹ Hoa khi chiêu dụ các nước Á Châu, tôi nghĩ rằng ta nên thấy ra vài khác biệt sau đây . Hoa Kỳ tôn trọng quy tắc tự do kinh tế và coi trọng quy luật thị trường, với hệ thống luật lệ rõ ràng và là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới dù kinh tế không lệ thuộc vào ngoại thương như Trung Quốc. Đấy là một ưu thế khách quan. Trung Quốc có dân số cao nhất và lần đầu tiên trong lịch sử xứ này, lệ thuộc rất nhiều vào việc trao đổi buôn bán với thiên hạ để phát triển xứ sở. Nhờ vậy, các nước có thể tìm ra mối lợi khi làm ăn với thị trường Hoa Lục mà không thể quên chủ ý "phân công lao động" của Bắc Kinh, đó là bảo đảm nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu cho một xứ đói ăn, khát dầu và đang cần tiếp nhận hoặc thậm chí ăn cắp công nghệ cao của thế giới.   Vũ Hoàng: Ông có thể nào nêu vài thí dụ về chú ý này của Bắc Kinh không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Lãnh đạo Bắc Kinh ve vãn một quốc gia có nhiều tài nguyên khoáng sản như Úc, thậm chí đã từng gây sức ép với doanh nghiệp Úc như vụ Rio Tinto năm kia, để bảo đảm nguồn cung cấp lâu dài với giá rẻ. Trong khi đó họ cũng ráo riết tìm cách ký kết hiệp định tự do mậu dịch với Nam Hàn, là xứ không có tài nguyên mà đầy chất xám và sản phẩm công nghệ cao. Mục tiêu kinh tế là để tranh thủ hai quốc gia có các sản phẩm và dịch vụ mà Bắc Kinh rất cần. Nhưng mục tiêu an ninh thì cũng để trấn an nước Úc khỏi lo sợ và hợp tác quân sự với Hoa Kỳ hoặc tham gia bảo vệ an toàn trên vùng biển Đông Nam Á là cửa ngõ thông thương của nước Úc. Với Nam Hàn thì mục tiêu an ninh cũng là kéo Nam Hàn về phía mình hầu giảm thiểu ảnh hưởng của một cường quốc kinh tế và quân sự mà họ e ngại nhất tại Đông Á là Nhật Bản. Vũ Hoàng: Vì thời lượng có hạn, chúng ta phải đi vào đoạn kết. Ông nghĩ sao về sự chọn lựa của các nước Á Châu trước hai viễn kiến hay dụng ý đó của Hoa Kỳ và Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đầu tiên, tôi xin nhắc lại rằng các nước Châu Á cần cái nhìn dài hạn và toàn diện về quyền lợi và sự an toàn trước sức hút của hai cực ở hai bờ Thái Bình Dương. Thứ hai, Trung Quốc có rất nhiều nhược điểm nội tại về kinh tế và xã hội cho nên nay mai có thể bị khủng hoảng và đấy là vấn đề cho Đông Á. Thứ ba, Trung Quốc ít tôn trọng cam kết và luật lệ mà cũng chẳng che giấu mục tiêu chiến lược về quân sự trên vùng biển từ Thái Bình Dương qua tới Ấn Độ dương. Trong khi đó, Hoa Kỳ là siêu cường ở xa, chẳng có tham vọng thôn tính mấy xứ Đông Nam hay Đông Bắc Á, nhưng có khả năng bảo vệ quân sự trên vùng biển và trong vài chục năm tới vẫn là lực đối trọng trước đà bành trướng của Trung Quốc tại Đông Á. Sau cùng, Hoa Kỳ là một xứ dân chủ, lãnh đạo phải quan tâm đến dư luận và có thể bị thay thế qua bầu cử công khai minh bạch nên khó thi hành loại âm mưu mờ ám và cứ phải công khai hóa tiến trình quyết định của mình, thí dụ như qua từng đợt đàm phán về Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương. Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, thưa ông, khi nhắc đến chuyện bầu cử tại Mỹ vừa qua, các nước Á Châu nên kết luận ra sao và so sánh thế nào với Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đảng Cộng Hoà thắng lớn tại Quốc hội sẽ giải tỏa cản trở của xu hướng bảo hộ mậu dịch trong đảng Dân Chủ nên tạo cơ hội cho ông Obama khai thông nhiều chướng ngại mậu dịch, nhất là với Nhật Bản trong dự án TPP. Vì vậy, Hiệp định TPP sớm có hy vọng thành hình trước Hiệp định FTAAP của Tầu. Thứ hai, đảng Cộng Hòa có xu hướng nghi ngờ Trung Quốc về an ninh nên sẽ gây sức ép với Chính quyền Obama để có những quyết định chuyển trục thật về Đông Á thay vì cứ nói vu vơ mà chẳng làm gì kể từ ba năm qua. Sau cùng, nếu so sánh thì lãnh đạo mới của Trung Quốc cứ nói tới giấc mộng Trung Hoa mà thực tế vẫn củng cố quyền lực và bành trướng ảnh hưởng ra ngoài. Kế hoạch mà ông Tập Cận Bình gọi là xây dựng lại "Con Đường Tơ Lụa" mở rộng trên đại lục và đại dương, từ Indonesia qua Ấn Độ vào Trung Á, có hàm ý quân sự để xác định lại sức mạnh của Trung Quốc tại Đông Á. Vì thế viễn kiến của Bắc Kinh có thể là ác mộng Châu Á. Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Thấy Gì Ở Hội Nghị APEC Bắc Kinh 2014

Theo thứ tự, năm 2014 đến phiên Trung quốc tổ chức Hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Lúc đầu chính quyền Trung quốc dự định sẽ tổ chức hội nghị này tại Hồng Kông, nhưng từ đầu năm 2014 đến nay công cuộc đấu tranh đòi bầu cử tự do của người dân Hồng Kông ngày càng mạnh nên nhà cầm quyền Trung quốc quyết định dời địa điểm tổ chức sang Bắc Kinh vì không muốn cho các nguyên thủ quốc gia tham dự hội nghị thấy cảnh người dân Hồng Kông biểu tình.   Chọn Bắc Kinh để tổ chức cũng gặp phải một trở ngại vì không khí ở đó đang bị ô nhiễm nặng bởi khói bụi PM2.5, thế nhưng đành phải chịu vì không một thành phố lớn nào ở Hoa lục có được bầu không khí trong lành. Để cho bầu không khí giảm thiểu ô nhiễm, chính quyền thủ đô Bắc Kinh đã phải ra lịnh hạn chế lượng xe ô tô lưu thông trong thành phố bằng cách áp dụng biện pháp xe mang bảng số chẵn không được lưu thông vào ngày chẵn và ngược lại. Họ cũng ra lịnh cấm không cho 375 công xưởng quá cũ nằm trong thủ đô hoạt động. Hơn 2.390 hãng xưởng ở những vùng phụ cận Bắc Kinh cũng cùng chung số phận, và khoảng 2.450 công trình xây dựng phải tạm ngưng thi công. Tất cả sẽ được hoạt động trở lại sau khi hội nghị APEC kết thúc. Hiển nhiên các chủ hãng xưởng, chủ các công trình xây cất cũng như nhân viên bất mãn ra mặt vì bị thiệt hại quá lớn mà chẳng được bồi thường gì. Tại Trung quốc, người ra lịnh không có trách nhiệm và cũng không cần biết đến các thiệt hại do lịnh gây ra cho dân chúng. Những hội nghị lớn thường là nơi để lãnh đạo các quốc gia đến gặp nhau bàn về một đường lối chung hay để điều chỉnh một số trục trặc hơn là bàn về chi tiết vì phần này sẽ có các cấp dưới lo. Việc các lãnh đạo gặp nhau bắt tay cũng là phần rất quan trọng của các hội nghị lớn vì qua đó người ta sẽ thấy sự thân thiện hay đang có vấn đề căng thẳng giữa quốc gia này và quốc gia khác. Ngay cả cách thức bắt tay cũng thường cho thấy chỉ dấu về quan hệ giữa 2 nước. Kế đến, việc sắp xếp chổ đứng để chụp hình cũng rất quan trọng. Qua đó người ta thấy nước chủ nhà trọng vọng nguyên thủ quốc gia nào. Ai cũng biết Hoa Kỳ là cường quốc số một của thế giới thế mà chổ đứng chụp hình của Tổng thống Obama ở rìa phải, cạnh nữ Tổng thống Hàn quốc, trong khi Tổng thống Nga, ông Pitin đứng giữa cạnh ông Tập Cận Bình. Điều này cho thấy rõ Trung quốc và Hoa Kỳ có vấn đề cho dù ông Tập và ông Obama vẫn tươi cười bắt tay nhau. Truyền thông quốc tế, đặc biệt Trung quốc và Nhật Bản, chú mục nhiều vào cái bắt tay giữa Chủ tịch Trung quốc và Thủ tướng Nhật.Trong khi ông Abe bắt tay với một nụ cười ngoại giao thì ông Tập lại lạnh lùng nhìn chổ khác không muốn nhìn mặt. Truyền thông Trung quốc khi đưa hình ảnh này lên báo đài đều thòng thêm một câu bình luận rằng vì ở vị thế chủ nhà nên Chủ tịch Tập Cận Bình buộc phải bắt tay chứ chẳng thích thú gì, ngày nào mà Tokyo còn tuyên bố quần đảo Điếu Ngư thuộc chủ quyền của Nhật là ngày đó không thể nói chuyện được với họ. Truyền thông Nhật thì cho rằng chuyện hội đàm song phương giữa Nhật Bản và Trung quốc là lợì ích chung cho cả hai quốc gia chứ đâu phải riêng gì cho Nhật nên đâu cần phải nhượng bộ, mà nhượng bộ sao được khi mà quần đảo Senkaku thuộc chủ quyền bất khả xâm phạm của Nhật Bản. Thái độ lạnh lùng của ông Tập Cận Bình được giới bình luận Nhật xem là thiếu hiểu biết về ngoại giao. Với các chỉ dấu đó, rõ ràng tình hình ngoại giao căng thẳng giữa Nhật và Trung quốc đang tăng chứ không giảm. Thêm một vấn đề khác, một ngày trước khi hội nghị APEC diễn ra, các phái đoàn của 12 quốc gia đứng đầu là Mỹ-Úc-Nhật gặp nhau ở Bắc Kinh để bàn về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP), điều này đã làm cho Bắc Kinh khó chịu đến nổi phải cho phát ngôn viên Hồng Lỗi họp báo nói rằng: "Hiệp định TPP cũng quan trọng, nhưng quý phái đoàn đến đây nên chú tâm vào hội nghị APEC, chứ không phải đến đây để bàn về TPP". Theo các nguồn từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì Tổng thống Obama đã đặt vấn đề nhân quyền và chuyện biểu tình đòi tự do bầu cử của người dân Hồng Kông trong cuộc hội đàm song phương với Trung quốc. Ngược lại, các nguồn từ Trung Quốc cho biết ông Obama đã nêu các chuyện đó, nhưng ông Tập Cận Bình trả lời đó là chuyện nội bộ của Trung quốc, Hoa Kỳ không nên nhúng tay vào. Ngoài ra ông Tập còn cho rằng chiến lược xoay trục sang Châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng cho thấy Washington muốn xen vào chuyện nội bộ của các nước trong vùng. Giới bình luận tại Nhật đánh giá cao việc Tổng thống Obama đặt vấn đề nhân quyền trong cuộc hội đàm tay đôi với ông Tập Cận Bình, nhưng mong mỏi phía Hoa Kỳ cũng có hành động đi kèm, đặc biệt trong 2 năm cuối trong nhiệm kỳ của ông Obama.
......

Những cái chết từ “quan hệ”

Chắc chắn, những người đi tìm việc ở Việt Nam ai cũng thuộc nằm lòng câu nói: “Nhất quan hệ, nhì tiền tệ, chót bét là trí tuệ.” Nhưng tôi nghĩ, câu nói ấy không chỉ đúng với những người đi xin việc, những cử nhân vừa mới tốt nghiệp mà còn đúng với rất nhiều mặt khác trong xã hội Việt Nam chúng ta. Đặc biệt là ở “mặt trận” kinh tế, nơi mà mối quan hệ được xem như chiếc “chìa khóa vạn năng” có thể mở được nhiều kho báu trù phú và màu mỡ. Nhưng đôi lúc nó cũng chính là mồ chôn của những chủ nhân chiếc chìa khoá ấy. Qua những “con hổ” lớn vừa bị xẻo thịt và đưa lên lò nướng, chúng ta đã thấy rằng, những kẻ đi lên bằng “quan hệ” cuối cùng cũng sụp đổ vì chính nó, thậm chí còn bị nó bóp chết và giết thịt.   Sau một thời gian dài được nuôi dưỡng, chăm sóc và vỗ béo. Gần đây, nhiều Đại gia lớn đã lần lượt được đưa lên bàn mổ và xẻo thịt. Có thể nói, đây là cuộc thanh trừng ác liệt nhất trong lịch sử nền kinh thương của Việt Nam. Nó có thể gây ra sự đổ vỡ không gì có thể ngăn cản nỗi. Bầu Kiên Ba tháng trước, thị trường chứng khoán đã được một phen chao đảo khi Đại gia Bầu Kiên bị kê đầu vào máy chém. Cách đây vài tuần, một ông lớn sở hữu hàng ngàn tỷ là Minh Châu Bắc Ninh cũng vừa bị làm thịt. Tuần trước, báo giới đã tốn khá nhiều giấy mực khi Đại gia Hà Văn Thắm bất ngờ bị “úp sọt”. Mới đây nhất là nguyên giám đốc sổ số miền Nam. Và trước đó là Dương Chí Dũng, Bình Vinashin…toàn những con Hổ đầu đàn của nền kinh tế. Theo tin mới nhất tôi vừa được biết từ một tờ báo giáo dục là tỷ phú Phạm Nhật Vượng, ông chủ của Vincom, Royal City, Time City… cũng chuẩn bị được “nhận nhiệm vụ”. Đó là tiếng chuông cảnh báo cho người đàn ông giàu nhất Việt Nam hãy tắm rửa sẵn sàng để “lên bàn mổ”, đó là lý do gần đây Vingroup đang bán đỗ, bán tháo nhiều dự án trọng điểm. Tiến sĩ Alan Phan đã từng nói, lý do các nhà thầu và doanh nghiệp Trung Quốc thường trúng “quả lớn” ở Việt Nam là vì họ có “vốn quan hệ” rất lớn, là những bậc thầy về “kỹ năng” luồn lách cửa sau. Trong một cơ chế XIN CHO ở xứ sở này thì những doanh nhân có “năng khiếu” như người Trung Quốc cũng sẽ luôn thắng lớn trên nhiều mặt trận. Điều khiến dân tình tò mò và khó hiểu là tại sao các vị “nô bộc” của dân lại để cho nhiều doanh nghiệp tư nhân mở chui sàn vàng cho kinh doanh 3-4 năm sau mới bắt? Vì sao để Hà Văn Thắm thâu tóm hàng loạt tài sản quốc gia từ kem Tràng Tiền, ngân hàng Bảo Việt, Ocean bank…rồi mới bắt? Vì sao Bình Vinashin đến thời “cuốn chiếu” rồi mà ba Dũng vẫn bơm thêm 750 triệu đô la vay của nước ngoài để “ném vào” mặc cho các chuyên gia và nhà cố vấn ra sức can ngăn? Nguyên nhân là ngân khố quốc gia đang trong tình trạng thủng đáy. Phải đi vay về để ăn và đảo nợ. Khi nợ đã quá cao (gần 50% GDP) lâm vào bí bách đành quay lại “giết thịt” những con Hổ béo để lấy tiền nuôi bộ máy đang bần cùng, túng quẩn, nuôi đội ngũ công chức đang ngày một phềnh to. Chẳng có dân nào nuôi nỗi bộ máy cồng kềnh,  tham nhũng, lãng phí, ăn hại như vậy cả. Quản lý  90 triệu dân, tài sản GDP mỗi năm hơn 200 tỷ USD mà cần đến 2,8 triệu công chức, nhân viên. Trong khi đó, nước Mỹ với 310 triệu dân, GDP 17.500 tỷ USD, có mặt ở mọi điểm nóng trên toàn thế giới, chỉ cần 2,1 triệu người làm quản lý. Túng quẩn, bí bách. Thịt, thịt và thịt, thịt từ cao xuống thấp, từ “con” to đến “con” nhỏ. Đầu tiên là các đại gia ngân hàng, tiếp theo là bất động sản, rồi đến tập đoàn nhà nước – những kẻ ăn hại và phá phách, sau cùng là những “con” gầy hơn, là sân sau của các đại gia và những ông quan lớn. Tất tần tật, những kẻ được “nuôi” bằng quan hệ giờ cũng sẽ bị thịt bằng “quan hệ”. Đó là sự trớ trêu và nghiệt ngã mà chẳng bên nào mong muốn. Chẳng ai ngờ rằng, khi “kết nối” được với “kho báu”, khi đã đào sâu vét đầy thì bất ngờ bị “sập hầm” và vùi chôn luôn dưới ấy. Những cái chết nhục nhã bị dân tình phỉ nhổ, nguyền rủa và xâu xé. Chưa rõ hệ quả của cuộc thanh trừng này là gì. Nền kinh thương của đất nước có lật sang được trang mới hay không. Nhưng với một cuộc truy quét sâu rộng như vậy thì “lợi phẩm” thu về phải tính bằng con số chục tỷ đô. Một khoản đủ lớn để trám vào lỗ thủng sâu hoáy của cái đảy ngân sách. Và thị trường chứng khoán cũng khó tránh khỏi một phen nghiêng ngã và chao đảo. Người Việt có câu: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Chính vì suy nghĩ ấy nên “văn hoá” quan hệ luôn được “lên ngôi” cao nhất. Bên cạnh mỗi ông quan luôn tấp nập nhiều thành phần ký sinh đang bám chặt như bầy đĩa đói. Điều chua xót nhất ở xứ sở chúng ta là những người tạo dựng tài sản thực sự cho quốc gia lại thường bị trù dập, hạch sách và hãm hại, thường thua thiệt trước những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ dối láo, chụp giật, manh mún, thủ đoạn, bòn vét… Nhưng ở đời nhân quả là bất biến, có mấy ai dám khẳng định rằng, chơi với “voi” thì không bị voi dẫm chết. Nguyễn Văn Thương Theo triethocduongpho.com
......

Chính giới Thụy Sĩ tranh đấu cho Đặng Xuân Diệu (Schweizer Politiker engagieren für Blogger Dang Xuan Dieu)

Sáng ngày 10 tháng 11, 2014, một phái đoàn gồm dân biểu và chính giới Thụy Sĩ đã đến tòa lãnh sự Việt Nam tại Genève/Thuy Sĩ để trao cho bà lãnh sự Đỗ Hà Thảo một Thỉnh Nguyện Thư gửi Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng về trường hợp tù nhân lương tâm (TNLT) Đặng Xuân Diệu bị cầm tù trong hoàn cảnh khắc nghiệt với tình trạng sức khỏe của anh đang gặp nguy cơ.Am 10. November 2014 „besuchte“ eine Delegation Schweizer Politiker das Konsulat von Vietnam in Genf / Schweiz. Die Politiker überreichten dem Konsul Do Ha Thao eine Petition, gerichtet an Premierminister Nguyen Tan Dung, zugunsten des Gefangenen des Gewissens Dang Xuan Dieu, der unter widrigsten Umständen eingesperrt ist und sich in erster Lebensgefahr befindet. Từ trái sang phải: Ông Michel Rossetti, cựu thành viên Hội đồng quản trị, cựu thị trưởng thành phố Genève; bà Anne-Marie von Arx-Vernon, Dân biểu Quốc Hội tiểu bang Genève; ông Rolin Wavre, nghị viên thị xã Pregny-Chambesy tiểu bang Genève; ông Jean-Marc Comte, thành viên Hội đồng quản trị và đương kim thị trưởng thành phố Grand-Saconnex tiểu bang Genève. Die Schweizerdelegation: von links nach rechts, Herr Michel Rosseti, Frau Anne-Marie von Arx-Vernon, Herr Rolin Wavre (mit dem Foto von Dang Xuan Dieu) und Herr Jean-Marc Comte. Phái đoàn được dẫn đầu bởi bà Anne-Marie von Arx-Vernon, Dân biểu Quốc Hội tiểu bang Genève; ông Michel Rossetti, cựu thành viên Hội đồng quản trị và cựu thị trưởng thành phố Genève; ông Jean-Marc Comte, thành viên Hội đồng quản trị và đương kim thị trưởng thành phố Grand-Saconnex, tiểu bang Genève; và ông Rolin Wavre, nghị viên thị xã Pregny-Chambesy, tiểu bang Genève.Die Delegation wurde von Frau Anne-Marie von Arx-Vernon, der Abgeordneten das Kantons Genf, Herrn Michel Rossetti, einem ehemaligen Mitglied des Verwaltungsrates und ehemaligen Bürgermeister von Genf, Herrn Jean-Marc Comte, Chef des Verwaltungsrates und amtierendem Bürgermeister von Grand-Saconnex, Kanton Genf und Herrn Rolin Wavre, Genfer Stadtrat und Frau Pregny-Chambésy, Genfer Stadträtin. Thỉnh Nguyện Thư yêu cầu ông Nguyễn Tấn Dũng quan tâm đến điều kiện giam giữ khắc nghiệt của anh Đặng Xuân Diệu và yêu cầu ông can thiệp để anh được khám bệnh và được chữa trị như mọi tù nhân.Die Unterzeichner der Petition beklagten ganz besonders über die unmenschlichen Haftbedingungen, unter denen der Blogger Dang Xuan Dieu leidet. Sie baten Premier Nguyen Tan Dung um Hafterleichterung sowie die Gewährung der notwendigen, medizinischen Untersuchungen für Herrn Dang Xuan Dieu. Theo bà Anne-Marie von Arx Vernon, trường hợp TNLT Đặng Xuân Diệu là một trường hợp nhân đạo nên bà xin ông Nguyễn Tấn Dũng cho phép một phái đoàn Thuy Sĩ đến viếng thăm anh trong trại giam. Bà cũng yêu cầu trường hợp anh Đặng Xuân Diệu được duyệt xét lại dựa theo Hiệp ước quốc tế và các quyên dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký.Laut Anne-Marie von Arx-Vernon ist die Behandlung des Gefangenen des Gewissens Dang Xuan Dieu ein scherwiegender Verstoß gegen internationale Verpflichtungen Vietnams gemäß den von Vietnam unterzeichneten Abkommen über bürgerliche und politische Rechte. Die Mitglieder der Delegation wollen Herrn Dang Xuan Dieu im Gefängnis besuchen und fragen nach einem Visum. Bà Anne-Marie von Arx-Vernon cho biết là bà lãnh sự Đỗ Hà Thảo có hứa sẽ chuyển Thỉnh Nguyện Thư đến ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông Michel Rossetti chia sẻ là ông luôn sát cánh cùng người Việt đấu tranh cho một nền tự do dân chủ tại Việt Nam. Ông Jean-Marc Comte nói ông hân hạnh tham gia ký tên Thỉnh Nguyện Thư và mong anh Đặng Xuân Diệu sớm được nhà cầm quyền thả. Ông Rolin Wavre yêu cầu Việt Nam cần phải tôn trọng nhiều hơn các công ước quốc tế mà Viet Nam đã ký kết.Frau Anne-Marie von Arx-Vernon verpflichtete den Konsul Do Ha Thao, die Petition an Vietnams Premier weiterzuleiten. Herr Michel Rossetti teilte mit, dass er immer Seite auf der Seite der Kämpfer für demokratische Freiheiten in Vietnam steht. Herr Jean-Marc Comte sagte, er sei geehrt, die Petition unterzeichnen zu dürfen und wünscht sich die baldige Freilassung von Herrn Dang Xuan Dieu. Herr Rolin Wavre ermahnte Vietnam zu mehr Respekt gegenüber  internationalen Verträgen, die Vietnam selbst unterzeichnet hatte. Als Mitglied des Menschenrechtsrates der UNO steht Vietnam in der besonderen Verpflichtung zur Einhaltung der Menschenrechte gegenüber seinen kritischen Bürgern. Trước đây vài năm, bà Anne-Marie von Arx Vernon cũng đã có 2 lần viết thư đến tòa lãnh sự Việt Nam để can thiệp cho trường hợp nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (nhưng toà lãnh sự không có hồi âm).In den letzten Jahren hatte Frau Anne-Marie von Arx Vernon schon zweimal an das Konsulat Vietnams in Genf geschrieben, um Hafterleichterung für den Schriftsteller Nguyen Xuan Nghia zu ersuchen. Vom Konsulat erhielt sie keine Antwort. Được biết bà Anne-Marie von Arx Vernon và ông Rolin Wavre đã có lần đến Việt Nam thăm gia đình các nhà dân chủ bị cầm tù.Frau Anne-Marie Arx-Vernon und Herr Rolin Wavre hatten Familien von inhaftierten Dissidenten besucht. Übersetzung aus dem Vietnamesischen von Dr. Thanh Nguyen-BremQuelle: http://diendanctm.blogspot.de/2014/11/chinh-gioi-thuy-si-tranh-au-cho-an... (Text in Vietnamsisch)    
......

Di sản Đông Đức 25 năm sau ngày thống nhất

Hai mươi lăm năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức Thống Nhất, cùng với ngân khoản khổng lồ để tái thiết những vùng trước kia ở bên kia bức màn sắt của nước Đức lên tới một ngàn năm trăm tỷ Euros, khoảng 2000 tỷ mỹ kim, hai miền của nước Đức nay vẫn còn nhiều khác biệt từ kinh tế đến con người. Một bản tin của AFP vào cuối tháng 10 vừa qua (1) cho biết như vậy. Ngân khoản to lớn vừa kể (ước tính cho đến nay) là khoản tiền thuế phụ trội 5.5% có tên gọi là thuế “đoàn kết” (solidarity tax) mà người dân Tây Đức phải đóng thêm từ năm 1991 cho đến năm 2019 để tái thiết lại Đông Đức sống dở chết dở sau bao nhiêu kế hoạch ngũ niên của nhà nước cộng sản Đông Đức.   Một bản tin khác của AFP tháng trước đó (2) thuật lại một số chi tiết trong bản báo cáo hàng năm, đánh giá về việc tái thiết Đông Đức để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 25 năm nước Đức thống nhất năm nay, tuy có đưa ra hình ảnh tích cực hơn của Đông Đức sau 25 năm nước Đức thống nhất, nhưng vẫn cho thấy những nét ảm đạm của “di sản Đông Đức”. Bản báo cáo vừa kể của bà Iris Gleicke, đại diện của những tiểu bang “mới” cho biết, mặc dù việc tái thiết 5 tiểu bang thuộc Đông Đức cũ đã đạt được nhiều tiến triển và hài lòng về “bức tranh tổng thể”, cũng như đã thành công phần lớn trong việc hội nhập của người dân Đông Đức, nhưng vẫn còn một khoảng cách đáng kể giữa hai miền trong lãnh vực kinh tế và công ăn việc làm. Mặc dù lợi tức bình quân đầu người của người dân Đông Đức nay đã tăng gấp đôi so với lúc bức tường Bá Linh vừa sụp đổ vào năm 1990, nhưng lợi tức này nay vẫn chỉ bằng khoảng 2/3 lợi tức bình quân của người dân Tây Đức, trong khi đó thì sự thịnh vượng của Tây Đức gần gấp đôi Đông Đức. Bản báo cáo này còn cho biết, từ năm 1995 đến năm 2013 nền kinh tế ở Đông Đức tăng trưởng 20%, cùng thời gian đó kinh tế Tây Đức Tăng trưởng 27%. Theo bản báo cáo thì con số ít ỏi các công ty lớn di chuyển sang Đông Đức là yếu tố quan trọng làm cho năng suất lao động của người dân vùng này thấp kém, điều này cũng khiến sự hội nhập của người dân Đông Đức trong mấy năm vừa qua chậm lại. Mặt khác, nền công kỹ nghệ ở Đông Đức sau năm 1990 chỉ gồm những công ty loại trung bình và nhỏ. Không có một công ty nào có tên niêm yết trên thị trường chứng khoán DAX của Đức đặt trụ sở của họ ở phía Đông Đức. Các công ty đa quốc gia đặt trụ sở ở phía Tây Đức vì điều kiện làm việc tốt hơn, họ cũng trả lương cao hơn, và nhờ thế họ mới giữ được lực lượng lao động có tay nghề và năng suất cao.   Theo các con số chính thức thì tỷ lệ thất nghiệp ở phần đất Đông Đức là 10.3%, dù rằng trong năm 2013 Đông Đức đã hạ được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất kể từ khi nước Đức thống nhất đến nay; trong khi tỷ lệ đó ở Tây Đức chỉ khoảng 6%. Mười năm trước đây tỷ lệ thất nghiệp ở Đông Đức lên đến 18.4%, gấp đôi ở Tây Đức. Một báo cáo khác của viện nghiên cứu kinh tế Ifo công bố gần đây cũng cho thấy một hình ảnh tương tự. Theo một cuộc thăm dò vào cuối tháng 9 thì có đến 75% “Ossis”, tức những người ở Đông Đức cũ như ở Đức vẫn gọi họ, thấy nước Đức thống nhất là sự kiện tích cực, trong khi đó chỉ có 48% "Wessis" (người ở phía Tây Đức) cảm nhận tương tự. Nhiều người dân Đông Đức thuộc thế hệ già cả vẫn nuối tiếc hệ thống y tế và giáo dục “bao cấp” thời cộng sản. Nhìn chung thì ai cũng phải thừa nhận những nguyên nhân, sự khác biệt và yếu kém của nền kinh tế Đông Đức cũ dưới chế độ cộng sản. Nó để lại một di sản nặng nề và tồi tàn cho nước Đức sau khi thống nhất. “Việc tái thiết (Đông Đức) vẫn chưa xong, rõ ràng là như vậy. Tuy nhiên đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm”. Ông Michael Burda, kinh tế gia ở đại học Humboldt, Berlin, đã nhận xét như vậy khi nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất.   --- (1) Theo ước đoán của giáo sư Thomas Lenk, đại học tài chánh công Leipzig (public finance at Leipzig University), 25 years on, Germany's east-west divide still palpable (http://news.yahoo.com/25-years-germanys-east-west-divide-still-palpable-...) (2) Eastern Germany still lags 25 years after Berlin Wall's fall, (http://news.yahoo.com/eastern-germany-still-lags-25-years-berlin-walls-2...)   Theo FB CTM
......

Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung – Việt tại Thành Đô

Bài sau đây có nguồn gốc từ một trang mạng bán chính thức của Trung Quốc và mang giọng điệu gián tiếp đe dọa sẽ bật mí tất cả trong thời gian tới. Điều này cho thấy nếu Hà Nội không sớm công bố các ký kết bí mật tại Hội Nghị Thành Đô thì Bắc Kinh sẽ ra tay trước và theo hướng có lợi cho họ. Không những thế, Bắc Kinh còn có thể thêm bớt vào các ký kết để thủ lợi tối đa vì không ai ngoài các thủ lãnh CSVN và CSTQ biết bản nào thật, bản nào giả. (BBT-TTĐQ). *****************   Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.   Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai   Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.   Tháng 7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao, cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu Bình thổ lộ điều bí mật Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.   Không ngờ hai vị lãnh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.   Đặng Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói: Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam  khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch. Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ý hữu hảo Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết. Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ. Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này. Nguyễn Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông. Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế. Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.   Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.   Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung. Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.   Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói : “Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.” “Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.” “Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.” “Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.” “Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”   Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng. Hoàng giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành. Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng? Vì việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ. Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc phòng Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này. 8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết. Trong tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.   Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này. Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương. Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương   Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý. Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.   Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn. Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.   Gặp gỡ bí mật Thành Đô   Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Lãnh đạo Trung cộng & Việt cộng tại Thành Đô Lý Bằng & Giang Trạch Dân nâng ly chúc mừng Hội nghị thành công Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh. Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên. Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều nay. Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm. Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh. Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3] Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.   16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc -Việt Nam Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”. Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới. Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết có đăng trên mạng China.com. ————— [1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lý Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND). [2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND). [3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình hữu nghị muôn đời (ND). [4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và ngoài Trung Quốc. (ND) Nguồn: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
......

Tan hỏa mù

Ít lâu nay, trong giới bình luận thời sự trong và ngoài nước đã có không ít người lạc quan cho rằng trong lãnh đạo đảng CS có một sự phân hóa, bên cạnh xu hướng thân Tàu, dựa vào Tàu, đã có một bộ phận muốn cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ và phương Tây.   Khi ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị được cử sang Hoa Kỳ trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sẵn sàng khăn gói theo lời mời của Ngoại trưởng Hoa Kỳ vẫn chưa được lệnh xuất phát, có dư luận cho rằng nhóm thân Mỹ trong Bộ Chính trị đã chiếm ưu thế, mở ra triển vọng mới cho vị thế quốc tế của Việt Nam, thoát khỏi sự khống chế của người khổng lồ phương Bắc. Xu hướng lạc quan này xét ra là có lý, thuận theo suy luận lô-gíc của các sự kiện. Vụ Bắc Kinh ngang nhiên đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Đông nước ta là một hành động ngạo mạn gây nên sự căm phẫn mạnh mẽ của toàn dân cũng như sự lên án của công luận quốc tế. Bộ Chính trị không thể làm ngơ trước thái độ giận dữ ấy. Thêm nữa, Bộ Chính trị cảm thấy rõ sức ép quốc tế từ Liên Hiệp Quốc, từ Quốc hội Hoa Kỳ, từ Liên Âu … yêu cầu nghiêm cách VN phải tôn trọng nhân quyền, trả tự do cho tù chính trị, tôn giáo, cho phép lập công đoàn tự do, để củng cố thế đứng của VN trong Hội đồng Nhân quyền của LHQ, gia nhập vào khối TPP nhiều lợi lộc. Cho nên lãnh đạo đảng CS buộc phải tìm cách xoa dịu nỗi căm phẫn của nhân dân đối với hành động hung hăng ngạo mạn của Bắc Kinh, đồng thời họ cũng cố làm động tác chìa bàn tay thân hữu với Hoa Kỳ và phương Tây để hòng trục lợi, những món lợi không nhỏ. Thế là các tù nhân Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Tiến Trung và một số sỹ quan và viên chức Việt Nam Cộng hòa ở tù lâu năm được trả tự do. Từ sau tháng 9/1990, với cuộc mật đàm và Thỏa thuận ngầm ở Thành Đô, Bộ Chính trị bị ngấm đòn do roi vọt của Đặng Tiểu Bình, hoảng sợ khi hàng lọat nước CS Đông âu tan vỡ, người anh Cả CS Liên Xô trên bờ vực, liền lao vào bẫy của Bắc Kinh để kiếm chỗ dựa trước khả năng bùng nổ của ngọn triều dân chủ của nhân dân mình như ở Rumani, Bungari.… Họ sẵn sàng chuyển kẻ thù thành người Anh lớn, cùng chung học thuyết, cùng chung chế độ xã hội, chung lý tưởng CS, sống chết có nhau. Họ cho đó là cao kiến, là thượng sách, cứu đảng đặt cao hơn cứu dân. Đây là cuộc câu kết mang bản chất phản bội nhân dân 2 nước, phản bội tình hữu nghị chân chính giữa 2 dân tộc Việt - Trung, chống lại nhân dân toàn thế giới khi toàn thể lòai người tiến bộ đã kết luận chủ nghĩa CS hiện thực là tội ác gây nên cái chết của hơn 100 triệu nhân mạng, trong đó có hơn 40 triệu dân Trung Quốc và hơn 4 triệu dân VN. Thỏa thuận Thành Đô là văn kiện tuy có thể không có thỏa thuận nào phía VN đồng ý trong 30 năm trở thành khu tự trị của TQ, nhưng chắc chắn nó là văn kiện nhục nhã bất bình đẳng, mở đường cho phía TQ lấn hàng trăm cây số vuông trên bộ, hàng vạn cây số vuông trên biển, chiếm hàng lọat đảo của VN, còn thâm nhập khai thác hàng vạn héc ta rừng biên giới, thâm nhập sâu cả vùng chiến lược Tây Nguyên để khai thác bô-xít, chiếm các gói thầu lớn nhất trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, còn mở đường cho hàng mấy chục vạn người TQ xâm nhập sinh cơ lập nghiệp với những bản làng Trung Hoa trên đất nước ta. Thiệt hại, mất mát đó là vô giá, không thể tính hết. Mất mát về chủ quyền, về lãnh thổ, về biển đảo, về tài nguyên, về môi trường, về dân sinh, về kinh tế, tài chính, về quốc thể, không sao tính hết. Có thể khẳng định chưa có một mảy may dấu hiệu nào là lãnh đạo VN tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm kinh khủng của Thỏa thuận Thành Đô, công khai nhận sai lầm với toàn dân, toàn quân đội, phủ định những hớ hênh đã cam kết, trả hẳn lại cho phía TQ “4 tốt” và “16 chữ vàng” do chính phía TQ cố tình chà đạp, để khẳng định quyền thay đổi đường lối đối ngọai, quyền ‘ xoay trục’ của mình. Vậy những chuyện tạo nên ảo vọng, hồi hộp, phán đoán lạc quan vừa qua là gì? Là động tác chiến thuật, là thuộc chiến tranh tâm lý, là thủ đọan thâm hiểm, là tạo nên màn khói giả tạo, thiện chí giả tạo. Bởi vì cả 16 người trong Bộ Chính trị hiện vẫn là một đồng một cốt, tuy có thể có những mâu thuẫn kèn cựa cá nhân, nhưng đều thuộc về phái thân Tàu, coi Tàu là chỗ dựa toàn diện, chỗ dựa chiến lược lâu dài. Họ yêu đảng CS để vụ lợi riêng, bảo vệ đảng để kiếm chác tận trong tim óc, chỉ yêu nước ở đầu lưỡi, chỉ phục vụ nhân dân ở 2 môi. Họ phân công đóng kịch, tung hỏa mù, làm như có một thiểu số trong Bộ Chính trị có quan điểm dân chủ, làm cho dư luận lầm tưởng rằng có phe này phái nọ đối lập nhau, phe thân Tàu, phái thân Mỹ. Do đó có kẻ sang Bắc Kinh nói toàn lời hữu hảo, bị Tàu coi là đứa con hư hãy trở về gia đình vẫn cứ ‘hảo, hảo’, mới đây còn lập đường dây điện thọai nóng giữa 2 Bộ Quốc phòng, rồi cử 13 viên tướng sang chầu Thiên triều. Đồng thời lại cử người sang Washington nở nụ cười tươi, tặng quà độc đáo, dọa kiện TQ ra trước tòa án quốc tế, hứa kết bạn với Philippines, rồi huênh hoang tuyên bố «dân chủ và nhà nước pháp quyền là 2 thành quả song sinh của nền chính trị hiện đại» - nhưng không hề khởi động theo những lời hứa ấy.   Do đó mà cầm chắc rằng việc gia nhập TPP sẽ còn vời vợi, việc mua vũ khí sát thương của Hoa Kỳ còn khá xa xăm, và hạnh kiểm Nhân quyền của Bộ Chính trị Hà Nội sẽ tiếp tục bị điểm xấu dài dài. Bùi Tín Theo voatiengviet.com
......

“Dân chủ là xu thế của thời đại”... chứ đâu phải của Đảng!

Theo cùng cây đũa hòa nhịp của Ban Tuyên Giáo, báo chí Việt Nam đồng loạt cất tiếng ca vang lừng về chuyến đi Âu Châu kéo dài một tuần vào trung tuần tháng 10.2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Có báo còn giật tít khá “giật gân” để câu độc giả (1). Tuy nhiên, nếu đọc kỹ những tin tức đó, người ta không thấy thành quả cụ thể nào trong chuyến đi của ông Dũng ngoài những tiếp xúc ngoại giao bình thường. Sau cuộc hội đàm với ông José Manuel Barroso, Chủ tịch Liên Hiệp Âu Châu ngày 12.10, ông Nguyễn Tấn Dũng không ký kết được Hiệp định Tự do Thương mại giữa EU-VN (EVFTA) như mong muốn. Nước Đức hẳn là quốc gia trọng tâm trong chuyến “du thuyết” của ông Nguyễn Tấn Dũng nên ông đã dừng chân ở đó đến 3 ngày, nhưng theo nhận xét của giới quan sát quốc tế, cụ thể như BBC qua bài ”Đức im ắng về chuyến thăm của ông Dũng” (2), thì giới truyền thông hầu như chẳng đả động gì đến sự có mặt của ông thủ tướng CSVN tại nước họ. Hiện tượng này hẳn nhiên không được các báo tại Việt Nam ghi nhận.   Vẫn chỉ những câu trả lời viết sẵn Công bằng mà nói thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tạo được một chút chú ý qua cuộc nói chuyện trước một số chính trị gia, doanh nhân và nhà báo Đức do hội bất vụ lợi Körber Stiftung tổ chức tại khách sạn Adlon thuộc thành phố Berlin.   Trong buổi nói chuyện này, ông Nguyễn Tấn Dũng mở đầu bằng bài thuyết trình dài hơn 3500 chữ, tức hơn nửa tiếng. Nội dung đề cập đến 3 điểm chính: (1) Thành quả kinh tế Việt Nam sau gần 30 năm “đổi mới”, (2) Chính sách ngoại giao của Hà Nội nói chung, và tranh chấp với Bắc Kinh trên biển Đông nói riêng, (3) Mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với cộng Đồng Âu Châu, đặc biệt với nước Đức. Ông Nguyễn Tấn Dũng hoàn toàn không nói gì về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi sang phần thảo luận thì câu chất vấn đầu tiên được Tiến sĩ Paulsen, Giám đốc Thời sự Quốc tế của Körber-Stiftung, đặt ra cho ông Dũng là câu hỏi về việc thực hiện những cải cách chính trị mà ông Dũng hùng hồn đưa ra trong thông điệp đầu năm 2014. Thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi, ông Dũng chỉ đọc một tuyên bố tổng quát đã thuộc lòng: “Chúng tôi tin rằng nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. Việt Nam không phải ngoại lệ, không đứng ngoài xu thế này”.   Nếu vài năm trước mà nghe câu đó - như hồi ông Dũng kêu gọi Myanmar hãy mở rộng dân chủ - thế giới hẳn đã vui mừng với câu trả lời. Nhưng ông Dũng đã coi thường trí nhớ của người nghe quá nhiều lần rồi nên lần này cử toạ vặn tiếp: “Vậy từ đó đến nay, ông đã tiến hành những biện pháp gì để tăng cường dân chủ trực tiếp?”. Thế là ông Dũng dùng lại ngay thủ thuật của các phát ngôn viên bộ ngoại giao Nguyễn Phương Nga, Lương Thanh Nghị, Lê Hải Bình. Ông nói trong niềm tin tưởng tất cả sứ quán ngoại quốc tại Việt Nam đều không đọc được tiếng Việt: “Chúng tôi đã sửa đổi Hiến pháp, được Quốc hội thông qua năm 2013, là một bước tiến rất quan trọng trong việc bảo vệ và tăng cường quyền dân chủ và kinh tế thị trường. Tôi nghĩ các ông nên đọc Hiến pháp mới của chúng tôi để hiểu thêm.”   Đến đây thì cử tọa bó tay. Bó tay vì gặp phải một ông thủ tướng quá "bựa". Điều ông Nguyễn Tấn Dùng không ngờ là các học giả, các luật gia, các sứ quán quốc tế không chỉ đọc bản Hiến Pháp "đổi mới như cũ" của Việt Nam mà còn so sánh nó với Hiến Pháp Bắc Triều Tiên nữa.   Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Bắc Hàn   Nếu so sánh hiến pháp của nước CHXHCNVN được sửa đổi năm 2013 và hiến pháp của Bắc Triều Tiên được sửa đổi năm 2009, người ta phải giật mình vì quá nhiều điểm tương tự từ bố cục đến nội dung. Chắc chắn Hà Nội sẽ chối nếu có ai hỏi có phải họ bắt chước Bắc Triều Tiên không, nhưng thực tế vẫn là có 2 bản hiến pháp quá giống nhau và Bắc Triều Tiên sửa hiến pháp trước Việt Nam 4 năm.   Cả 2 bản đều có lời dẫn nhập dài giòng, một bên kể công trạng của đảng CSVN và một bên kể công trạng dòng họ Kim Nhật Thành; một bên ca tụng tư tưởng Hồ Chí Minh và một bên ca tụng tư tưởng Tự Lực của Kim Nhật Thành; mỗi bên có nguyên một chương nói về quyền và nghĩa vụ công dân, trong đó bảo đảm đầy đủ tất cả những quyền tự do căn bản của con người; cả 2 hiến pháp qui định quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nước, v.v...   Tóm tắt là thế giới ngán ngẩm cái trò viết hiến pháp để lót ghế ngồi của Hà Nội và Bình Nhưỡng như nhau. Khi các quan chức của 2 nước này nhắc tới hiến pháp tại bất kỳ diễn đàn quốc tế nào, cử tọa đều buồn cười và buồn nôn như nhau.   Và cũng chính vì vậy mà Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Bắc Hàn rất giống nhau trong mắt thế giới tại các kỳ Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát về Quyền Con Người” (UPR) của Liên Hiệp Quốc vào năm 2009 và vào tháng 5/2014 vừa qua. Trong kỳ UPR này, Bắc Hàn bị 268 khuyến nghị, bác bỏ 67 và chấp nhận 113; một số khuyến nghị được Bắc Hàn chấp nhận từng phần (4). Việt Nam bị 227 khuyến nghị, bác bỏ 45 và chấp nhận 182. Một điểm chung của 2 quốc gia này là khăng khăng cự tuyệt các khuyến nghị sửa đổi những điều luật mơ hồ về các hoạt động bị coi là “chống lại nhà nước và xã hội” (activities against the State or society), như điều 79, 88 và 258 của bộ luật hình sự Việt Nam (4,5).   Có lẽ ấn tượng đơn giản nhất còn trong đầu giới quan sát là: Cộng sản Việt Nam chỉ đứng sau Cộng sản Bắc Hàn về con số khuyến nghị phải cải thiện nhân quyền. Tình trạng chà đạp giá trị con người dưới chế độ Bắc Hàn tồi tệ và đáng ghê tởm đến mức nào thì đã quá rõ đối với thế giới rồi. Nay Cộng sản Việt Nam đang càng lúc càng tiến tới tiêu chí đó. Chính trong bối cảnh này mà người ta lợm giọng khi nghe câu nói trâng tráo của ông Nguyễn Tấn Dũng: "Nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. Việt Nam không phải ngoại lệ".   ********Không biết đến bao giờ thì giới lãnh đạo Hà Nội mới hiểu ra rằng loại phát biểu trâng tráo như của ông Dũng không chỉ đã mất hoàn toàn tác dụng bịt mắt thế giới, mà còn lập tức làm biến dạng người nói thành những con quái vật đáng khinh tởm trong mắt những người có mặt.   Cụ thể như thái độ của ông Tom Malinowski, trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, vào cuối tuần trước. Trong cuộc họp báo sau 5 ngày thăm viếng và làm việc ở Hà Nội, ông đã phải ngưng giọng lịch sự ngoại giao để nói thẳng thừng cho Hà Nội biết rằng: “Sẽ không có tiến triển nếu cứ thả một chục người này lại bắt thêm chục người khác”.   Hoá ra, ông Nguyễn Tấn Dũng nói thật: Dân chủ là xu thế của thời đại ngày nay chứ không phải của giới lãnh đạo cộng sản, những người vẫn sống ở mốc điểm 100 năm trước - vẫn ôm chặt cái chủ nghĩa của cuối thế kỷ 19 và mô hình nhà nước độc tài của đầu thế kỷ 20. Ghi chú: (1)   Chuyến công du với cường độ “chóng mặt”, http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Chuyen-cong-du-voi-cuong-do-cho... (2)   Đức im ắng về chuyến thăm của ông Dũng?http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/10/141016_nguyentandung_vis... (3)   North Korean Constitution, http://asiamatters.blogspot.ca/2009/10/north-korean-constitution-april-2... (4)   North Korea Responds to the UN Commission of Inquiry, http://38north.org/2014/10/dhawk101614/ (5)   UPR: Việt Nam chấp thuận 182, bác 45 khuyến nghị, http://vi.rfi.fr/viet-nam/20140621-khuyen-nghi-upr-viet-nam-chap-thuan-1...
......

BÁN ĐẤT BÁN NƯỚC BÁN CẢ ĐƯỜNG ĐI

Đi trên những bãi biển đẹp mênh mông của nước Mỹ tôi từng ngậm ngùi nghĩ đến nhiều bờ biển rất đẹp của Việt Nam đã bị kẻ cầm quyền đem bán, đến nỗi không nói đến việc tìm ra đường lội xuống nước để bơi là bất khả thi, muốn đi dạo chơi trên cát cho thư thái chốc lát cũng không được nữa. Bây giờ, đám chức sắc đã xướng lên việc bán đường đi. Nghĩa là các vị ấy đã túng quẫn lắm rồi đấy, bao nhiêu thứ bán được trước đây, con cái, phe nhóm họ đã ăn tiêu bằng sạch. Chao ôi, nghĩ đến mà thấy cảm thương! Cao tốc TPHCM - Long Thành - nằm trong danh sách chào bán Lại nhớ chí sĩ Phan Bội Châu, ông có viết trong cuốn Việt Nam vong quốc sử chuyện thực dân Pháp lừa dân chúng ở một vùng quê nọ bán trời cho chúng. Bán xong thì ngồi trong nhà cũng là ngồi vào trời của Đại Pháp, đi ra sân cũng là đi trong trời của Đại Pháp, cùng cực đến nỗi lại phải cùng nhau vét sạch sành sanh của cải để đi chuộc trời về. Với tình thế này, dám chắc người dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng sắp đứng trước thảm họa bị bán trời đến nơi, bởi các ông ấy đã như những con nghiện hêroin thời kỳ cuối, có gì mà không bán chứ. Các ông các bà Dương Nội và tất cả bà con những vùng miền bị cướp đất trắng tay trong nước ta ơi! Xin hãy tính trước sớm đi, mất đất thì vẫn kéo nhau đi ăn xin được, còn mất đường thì đội quân bị gậy biết đặt chân vào đâu để hành nghiệp? Chắc phải xắn cao quần lội xuống các bờ mương mà đi rồi. Nhưng đến khi mất trời thì nguy quá, chắc phải tìm sông lạch mà lặn mà vùi, chỉ để hở hai con mắt là còn yên thôi. Âu cũng là cái số trời đã định từ khi ông lạc Long Quân chia tay với bà Âu Cơ. Đang yên lành trên mảnh đất trung du của mình, bỗng hứng lên đem 50 con đi tuột xuống nước mà ở. Kể ra, Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử 4000 năm đến thế là tuyệt đỉnh. Cực lực hoan hô! Nguyễn Huệ Chi ****** BÁN ĐẤT BÁN NƯỚC BÁN CẢ ĐƯỜNG ĐI Phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập cần sự hợp tác đầu tư với nước ngoài là đương nhiên. Hơn thế nữa, cần phải sử dụng công nghệ, học hỏi kỹ năng quản lý, và tận dụng vốn của nước ngoài để thu được lợi ích nhiều nhất, nhưng phía mình lại bị tổn thất ít nhất. Đó là bài toán tối ưu cửa miệng. Ai cũng nói được nhưng không phải ai cũng làm được. Nhìn lại thực tế những gì mà chúng ta đã làm từ khi bắt đầu chính sách mở cửa trong suốt hai mươi năm qua, thì rút ra được một số kết luận cay đắng sau đây. 1. Chúng ta không thu được gì nhiều và không học được gì đáng kể ngoài việc đã bán đi tất cả những gì có thể bán Bán đất Một đoạn đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. (Ảnh: Đặng Tiến) Những vùng đất đai có phong cảnh đẹp hay đắc địa đều được bán cho người nước ngoài đầu tư, thời hạn thông thường là năm mươi năm. Nếu họ mang tiền đến phát triển sản xuất thì còn khả dĩ, nhưng phần lớn đó là các dự án dịch vụ, địa ốc. Nghĩa là họ lấy đất xây nhà để bán cho chính người Việt Nam, và tổ chức các dịch vụ để thu tiền của chính người Việt Nam. Tiếc thay, các dự án bán đất kiểu này, có thể mang lại sự phát triển bề mặt, nhưng không mang lại giàu có bền vững đích thực làm cho đất nước hùng cường. Lấy một thí dụ điển hình như thành phố Đà Nẵng. Không phủ nhận sự thay đổi khang trang của thành phố và đời sống người dân phần nào cải thiện trong thời gian đổi mới. Nhưng sau hai mươi năm mở cửa hội nhập, nền công nghiệp Đà Nẵng có được những gì đáng giá? Từ thí dụ của Đà Nẵng để mà suy nghĩ và không thể không xót xa về sự phát triển của đất nước. Bán tài nguyên Không cần phải liệt kê cụ thể. Không có loại khoáng sản nào mà chúng ta không nhanh chóng đem bán. Thậm chí đến khoáng sản khai thác lỗ và mang lại nhiều hậu quả tai hại như bô xít Tây Nguyên mà cũng vội vã đem bán tất. Bán nước Không chỉ bán khoáng sản, không chỉ bán rừng, mà chúng ta bán cả nước sông hồ và biển. Nhiều hồ đều bị bán quyền sử dụng khai thác trong nhiều năm. Ở Vũng Áng chúng ta bán đi cả hàng ngàn héc ta biển. Đến Vịnh Hạ Long cũng có người muốn bán quyền sử dụng khai thác. Bán đất, bán rừng, bán tài nguyên khoáng sản và bán cả nước. 2. Chúng ta đã bán một cách vội vã lấy được Nếu bán có chọn lọc cân nhắc thì còn chấp nhận được, nhưng dưới bình phong đầu tư phát triển, chúng ta đã bán tràn lan khắp mọi nơi có thể. Nguyên nhân là nhiệm kỳ lãnh đạo chỉ có hạn, nên trong nhiệm kỳ phải tìm mọi cách để bán bằng được các dự án đất đai và tài nguyên. Hiện tượng này phổ cập ở tất cả các tỉnh thành, từ trung ương cho đến tỉnh huyện xã. Chẳng hạn, mỏ sắt Thạch Khê Hà Tĩnh chưa khai thác bây giờ thì đời cháu chắt hay nhiều trăm năm sau sẽ khai thác cũng chưa nuộn. Vội vã chi mà phải hấp tấp bán cho nhà đầu tư Đài Loan Trung Quốc với những ưu đãi đặc biệt và ẩn chứa những hậu quả an ninh khôn lường? Tại sao người Đức người Pháp không đầu tư mà lại là người Trung Quốc? Lãnh đạo Hà Tĩnh và Chính phủ Việt Nam có ý thức rằng mình đã vội vã bán rẻ mạt tài nguyên mà cha ông để lại từ ngàn đời? Người Đức người Nhật có làm giàu bằng cách bán tháo tài nguyên của tổ tiên để lại hay không? Lãnh đạo Việt Nam có biết không khi chính người Trung Quốc đang đi mua tài nguyên các nước khác thì họ lại đang chắt chiu để dành nguồn tài nguyên trong nước? 3. Chúng ta đã bán dài lâu đến hết cả đời cháu chắt Vũng Áng đã được cho thuê 70 năm. Nghĩa là nếu bố và mẹ lúc 61 tuổi nghỉ hưu đã cho thuê đất 70 năm, thì con 41 tuổi, cháu 21 tuổi và chắt 1 tuổi, đợi đến 70 năm sau đều không được quyền sử dụng đất. Lúc đất được trả về thì chắt đã 71 tuổi, và người chít đời thứ 5 cũng đã 51 tuổi, mới được nhận lại quyền sở hữu đất! Vậy mà có người còn dự định bán đất 99 năm, và thậm chí là 120 năm. Nếu cha ông đều bán đất kiểu đó thì thế hệ bây giờ ở đâu? 4. Không chỉ bán đất bán nước chúng ta đang bán cả đường đi Ai cho phép Bộ giao thông vận tải và VEC bán đường? Những ngày gần đây báo chí đồng loạt đưa tin rằng Tổng công ty phát triển đường cao tốc Việt Nam đang chuẩn bị bán một số tuyến đường cao tốc. Thoạt nghe đã rùng mình. Khi bán đi những khu đất, những cánh rừng, người dân buộc phải di cư sang những nơi khác, dẫu là hẻo lánh cằn cỗi, nhưng vẫn còn có chỗ để ở và mưu sinh. Khi bán đi hồ nước sông ngòi và cả từng vùng biển, người dân phải dạt sang vùng nước khác, dẫu sóng gió nguy hiểm, nhưng vẫn còn có chỗ để mò cua bắt cá mà tồn tại. Nhưng nay lại bán đi cả đường sá, quyền đi lại của người dân không còn nữa. Không thể ngồi ở nhà, mà muốn đi ra thì phải trả tiền theo giá tùy tiện. Ngày xưa đường nhỏ gồ ghề, chịu khó còn đi được. Nay đường to rộng nhưng không có tiền đành phải bó chân. Nói một cách cụ thể hơn. Ở thôn có con đường làng dân vẫn đi lại. Nay bỗng chốc trưởng thôn bán cho người khác xây to hơn. Ai muốn đi phải trả phí theo giá của chủ mới. Nếu không phải lội xuống ruộng vượt rào hay tìm đường mà đi. Bởi vậy, người dân có quyền thét to lên rằng: Hãy trả đường cho dân đi, nhỏ hay xấu cũng là đường của dân, tại sao lại lấy mất đường của dân rồi bắt dân muốn đi thì phải trả tiền theo giá tùy ý của các ông? Trong số tiền mà các ông xây dựng đường có bao nhiêu tiền thuế dân đóng? Trong số tiền mà các ông xây dựng đường dân sẽ phải gánh chịu bao nhiêu nợ? Ai cho các ông quyền lấy đất của dân làm đường rồi lại bán cho người khác? Có ai trong Bộ Giao thông Vận tải đặt ra những câu hỏi tương tự? Xây dựng đường cao tốc hình thức BOT ở đâu ? Hệ thông giao thông là huyết mạch của quốc gia. Nó không chỉ là huyết mạch về kinh tế mà còn là huyết mạch an ninh quốc gia. Bởi vậy quốc gia phải nắm quyền kiểm soát hệ thống giao thông chứ không thể là người nước ngoài. Nếu VEC bán đường cao tốc Lào Cai – Hà Nội cho người nước ngoài, thí dụ là Trung Quốc, thử xem điều gì sẽ xẩy ra? Trong vô vàn khả năng có thể, chỉ xin nêu ra vài điều: - Lệ phí có thể lên cao ngất phục vụ cho lợi ích của chủ mới, bất chấp thiệt thòi của dân địa phương. - Dùng lệ phí để cản trở, hoặc điều tiết luồng giao thông, chủng loại giao thông, thời gian giao thông theo ý định của chủ đường. Chẳng hạn như: xe Trung Quốc có thể có lệ phí khác với xe Việt Nam, xe quân sự khác với xe dân sự, xe chở lương thực khác với xe chở khách, xe chạy đêm khác với xe chạy ngày… - Khai thác đường tối đa, thu hồi vốn thật nhanh, bàn giao lại cho nước sở tại con đường nát rách không thể sử dụng. - Nắm được số liệu, quy luật, và thực tế dòng vận tải giao thông của một vùng lãnh thổ nước khác. - Nước sở tại mất quyền chủ động trong những trường hợp thiên tai, nhân đạo, chiến tranh… Bởi vì thế, các quốc gia rất hạn chế trong việc cho người nước ngoài tham gia xây dựng giao thông dưới dạng BOT. Muốn cho các đối tác nước ngoài tham gia xây dựng giao thông dưới hình thức BOT, nước sở tại rất cân nhắc trên các phương diện sau: - Chọn tuyến đường thúc đẩy phát triển được kinh tế cục bộ (chẳng hạn của một hòn đảo, một đặc khu, một phần thành phố…) - Chọn tuyến đường ngắn đầu tư đắt, chủ yếu là rút ngắn thời gian đi lại, tăng lưu lượng giao thông đột biến, vì thế có thể xây dựng nhanh và thu hồi vốn theo đúng thời hạn. - Tuyến đường thường chỉ có giá trị cục bộ và không là duy nhất. - Tuyến đường ít phương hại đến an ninh quốc gia. - Tuyến đường BOT phải được thông tin đầy đủ và rộng rãi cho các đối tác thừa năng lực, trong một thời gian đủ dài trước khi triển khai, để đối tác tìm hiểu nghiên cứu, cũng như để nước sở tại có nhiều đối tác tiềm năng cho việc chọn lựa. VEC có bán đúng giá? Phải thẳng thắn nêu ra những nhận xét sau khi giao cho VEC bán đường cao tốc: 1. VEC không đủ tầm và năng lực để đánh giá lựa chọn đối tác. 2. VEC không có khả năng xác định đúng giá. 3. VEC không bán đúng giá vì lợi ích cục bộ. Một thực tế đáng buồn cho Việt Nam, ở nhiều nơi trong các cơ quan nhà nước, là cấp trưởng phải quay lại hỏi cấp phó, cấp phó phải quay lại hỏi chuyên viên. Tờ giấy nhắc Thứ trưởng con số 34. 000 tỷ cho sách giáo khoa, cũng như 2 tỷ USD đầu tư sân bay Long Thành của ADPi “do nhầm lẫn đánh máy” là những dẫn chứng cay đắng, rằng người lãnh đạo chẳng nắm được bản chất vấn đề. Bán quyền thu phí đường – rước người ngoài đến bóc lột Khi không có tiền thì phải kêu gọi đầu tư dưới hình thức BOT. Điều lạ ở Việt Nam là xây dựng xong đường cao tốc lại bán cho người ngoài quản lý khai thác. Ở đây có hai điều có thể nói là “thông minh” khác người. Một là, đã đầu tư xong chỉ quản lý thu phí, tại sao VEC lại phải bán quyền thu phí cả gói. Tiếng là lấy vốn để đầu tư nơi khác, nhưng kỳ thực còn một lý do nữa quan trọng hơn nhiều. Đó là khi bán trọn gói, có thể đút túi phần trăm một tổng tiền lớn một lần và mất hút. Còn chờ thu phí hàng năm mới lấy được một phần lời, thì đến bao giờ cho xong. Hơn nữa, nhiệm kỳ có hạn, các nhiệm kỳ sau là của người khác. Quả đúng là một quyết sách “thông minh” khác người. Hai là, nhà đầu tư nước ngoài khi trả một gói để lấy quyền thu phí đường, họ không mang lại lợi ích gì cho kinh tế Việt Nam, vì chính họ không tham gia xây dựng đường như hình thức BOT. Chẳng qua họ trả trước tiền để thu lại gốc và lời theo quyền đặt phí của họ mà người dân Việt Nam là người cuối cùng phải gánh chịu. Đây cũng là một nước cờ khác người. Chỉ không thể gọi là thông minh được, vì thực chất là cõng rắn cắn gà nhà, là rước người về bóc lột dân mình. Một điều cần lưu ý là nếu VEC là công ty tư nhân, VEC phải mua đất của dân để làm đường, VEC có vốn riêng thế chấp để vay tiền đầu tư, thì VEC muốn làm gì thì làm, VEC muốn bán cho ai với giá nào thì VEC bán. Nhưng VEC là công ty nhà nước; VEC lấy đất của dân với giá đền bù rẻ mat; VEC lấy tài sản nhà nước thế chấp để vay tiền. Tất cả tài sản của VEC chính là của dân. Vì thế, cả VEC lẫn Bộ Giao thông vận tải không có quyền muốn bán đường cao tốc nào thì bán, muốn bán cho ai thì bán, và muốn bán với giá nào thì bán. Có ai trong số lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải ý thức được sự khác biệt mang tính nguyên tắc này không? Từ những điều đã nêu trên, xin được gửi tới lãnh đạo Việt Nam hai kết luận sau đây. 1. Việt Nam không cần sự phát triển vội vã bằng cách bán hết mọi thứ Chúng ta muốn trở thành con rồng. Chúng ta muốn có tốc độ phát triển GDP nhanh nhất châu Á. Hậu quả là chúng ta bán vội vã, bán tống tháo những gì có thể bán được để mua lấy một sự phát triển bề ngoài giả tạo. Người xưa đã dạy, muốn tiến nhanh thì phải đi chậm. Xin hãy nhớ kỹ điều này. 2. Chính sách “Sở hữu đất đai toàn dân” là căn nguyên dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế quốc dân và làm phương hại đến an ninh quốc gia. Ai cũng thấy tại vạ của chính sách sở hữu toàn dân. Bán đất bán rừng bán tài nguyên bán đường đi bán nước, bán nhiều năm cho đến tận đời cháu chắt chít – tất cả là do sở hữu đất đai toàn dân mà ra cả. Rồi sẽ vội vã cổ phần hóa. Tài sản toàn dân sẽ bị các nhóm thâu tóm với giá bất công rẻ mạt. Một thể chế bất công mới đã và đang được hình thành. Chừng nào chưa xóa bỏ sở hữu toàn dân, nhất là sở hữu đất đai, thì chừng đó đất nước không chỉ bị tàn phá khánh kiệt, mà người dân còn phải quay về thời bị làm thuê bóc lột, chỉ là ở mức độ khác và dưới tấm áo choàng khác mà thôi. Xin hãy vì quyền lợi quốc gia dân tộc mà dũng cảm tiến hành những cải cách căn bản, trong đó có quyền tư hữu đất đai. V.T.D. Theo Bauxite Việt Nam
......

Đòi quyền ư? Đòi cái gì?

Ngày 21/10/2014, người tù lương tâm nổi tiếng – blogger Điếu Cày – được chính quyền Việt Nam “đày” sang Mỹ. Sự kiện này đã, đang, và sẽ được nhiều blogger, giới đấu tranh dân chủ trong nước và nước ngoài coi là một tin tốt lành. Điếu Cày, với những hy sinh của ông suốt gần 10 năm qua, sẽ được đồng bào ở hải ngoại đón tiếp hân hoan và nhiệt thành. Nhưng xen lẫn trong niềm vui, cũng có cả những chua xót. Chính quyền luôn “thắng lớn” Nỗi chua xót thứ nhất là, việc trả tự do cho Điếu Cày mà thực chất là trục xuất sang Mỹ “cho rảnh nợ”, chỉ một lần nữa cho thấy chính quyền Việt Nam sử dụng công dân mình, nhất là những người bất đồng chính kiến, như con bài để mặc cả, đổi chác như thế nào. Và điều đáng nói là giới đấu tranh dân chủ cả trong và ngoài nước đều đi đúng vào hướng mà chính quyền mong muốn: Tất cả đều sa vào những cuộc đấu tranh đòi “free Nguyễn Tiến Trung”, “free Lê Quốc Quân”, “free Điếu Cày”, v.v... tóm lại vận động trả tự do cho tù nhân lương tâm, mà xao lãng những vấn đề khác – những vấn đề thực sự là mấu chốt của cải cách chính trị, mà chính quyền luôn tìm cách lờ đi. Đó là sửa đổi Hiến pháp, cải cách tư pháp để đảm bảo sự độc lập của tư pháp. Là sửa đổi Bộ luật Hình sự, sửa Luật Báo chí, Luật Đất đai, v.v. Là hủy bỏ tất cả những điều luật và quy định “xiết chặt quản lý” thay vì bảo vệ quyền tự do của người dân – như hàng loạt điều khoản vi phạm nhân quyền trong Bộ luật Hình sự và những nghị định, thông tư đầy rẫy vô lý, vi hiến… Chính quyền đưa tù nhân lương tâm ra làm công cụ để đổi chác. Giới hoạt động dân chủ liền vận động quốc tế gây sức ép để buộc nhà nước Việt Nam phải trả tự do cho tù nhân lương tâm, mà chỉ riêng việc vận động cho một người thôi cũng đã làm hao tổn không biết bao nhiêu tâm trí, sức lực, nguồn lực. Có lẽ mỗi năm, mỗi tổ chức chỉ cần tiến hành 1-2 chiến dịch cũng đủ… hết sức, hết thời giờ, hết tiền. Mỗi cá nhân được thả lại được coi là một thắng lợi của cuộc đấu tranh, đủ làm giới đối kháng hoan hỉ, cộng đồng quốc tế ghi nhận. Còn những vấn đề mấu chốt kia thì vẫn giữ nguyên trạng!. Biến công dân thành tù nhân lương tâm rồi đem ra mặc cả quả là có lợi: Vừa có cái để đổi chác với Mỹ và Tây phương, vừa gây hao tổn nguồn lực của giới đấu tranh dân chủ (nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại), lại vừa phân tán, đánh lạc hướng sự tập trung của họ khỏi các vấn đề có tính chất tử huyệt của chế độ. Lợi nhiều như thế, chẳng tội gì nhà nước không duy trì việc bỏ tù “bọn phản động”. Suy cho cùng, nhà nước mới thực là bên thắng, mà thắng lớn. Điều đau khổ là kể cả có biết vậy, giới hoạt động dân chủ và cộng đồng quốc tế cũng không thể không đấu tranh cho tự do của tù nhân lương tâm, vì ngoài ý nghĩa chính trị thì đây còn là chuyện nhân đạo. Và thế là, họ tiếp tục đi đúng hướng mà chính quyền Việt Nam mong muốn: Sa vào cuộc đấu tranh cho những cá nhân cụ thể mà quên mất cái lớn hơn.   Nguồn ảnh: Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ (2011) Sự bế tắc của cuộc đấu tranh Trong niềm vui đón mừng Điếu Cày được tự do, vẫn có những cái nhìn của blogger nói lên nỗi chua xót thứ hai. Ông Lê Quốc Tuấn, thành viên phong trào Con Đường Việt Nam, viết: “Một tương lai đích thực cho người Việt Nam vẫn còn nằm ở phía trước, cho đến khi đại đa số người Việt hiểu được rằng dân chủ tự do và quyền con người quan trọng hơn cơm áo qua ngày của một loại đời sống cúi mặt nhẫn nhục chờ đợi như hiện nay để cùng đứng dậy, tìm đến nhau cho một câu trả lời chung. Và, nếu người Việt Nam còn tiếp tục chịu đựng, đến lúc các nước phương Tây sẽ thấy họ lẻ loi trong việc cứ đi đòi hỏi Hà Nội những điều mà ngay chính người dân không màng đến… Khi ấy, tôi tin rằng những người tù lương tâm sẽ không còn được thả nữa”. Một thành viên khác của Con Đường Việt Nam, ông Hoàng Triết, cũng bình luận trên Facebook: “Dân chủ của Việt Nam không thể nào đến từ những người đấu tranh đơn độc trong nước. Càng không thể đến từ những nỗ lực giúp đỡ từ hải ngoại. Và càng không thể từ sự quan tâm của người nước ngoài.... Khi mà đại đa số người dân trong nước chẳng muốn làm gì cả”. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao ĐẠI ĐA SỐ người dân trong nước lại chẳng muốn làm gì cả? Có phải vì các nhà đấu tranh chưa hiểu đúng, hoặc không thật hiểu người dân Việt Nam không? Dân chủ, tự do, nhân quyền. Đó đều là các khái niệm đẹp đẽ, và đều trừu tượng. Một người dân thường điển hình, chẳng hạn, một công chức ở Hà Nội hoặc TP.HCM, khi nghe câu “dân chủ tự do và quyền con người quan trọng hơn cơm áo qua ngày của một loại đời sống cúi mặt nhẫn nhục”, chắc hẳn sẽ có suy nghĩ phản biện như thế này: “Sao? Chúng tôi đâu có thấy chúng tôi mất tự do gì đâu? Chúng tôi có nhẫn nhục cúi mặt gì đâu. Chúng tôi đi làm hàng ngày, hôm nào có kha khá tiền thì đi nhậu, không có thì về nhà xem tivi, thỉnh thoảng đi hát karaoke, xem phim, du lịch quanh quanh. Chúng tôi vẫn đọc báo đều, vẫn có Internet để vào mạng, lên Facebook chém gió, vẫn có tivi mà xem các game show, nóng nực vẫn có cái máy điều hòa, lạnh vẫn có máy sưởi... Chúng tôi có thấy chúng tôi làm sao đâu mà các vị bảo chúng tôi là đang nhẫn nhục, phải đòi tự do? Ông Điếu Cày đấu tranh gì gì đấy, thì đi tù, rồi được Mỹ nó bảo lãnh cho qua. Ừ, tốt, cũng mừng cho ông ấy. Nhưng mà cụ thể ông ấy đòi hỏi cái gì ấy nhỉ? Tự do à? Ủa, thì chúng ta vẫn tự do mà, có ai bị làm nô lệ như thời thuộc Pháp đâu? Ổng đòi tự do báo chí à? Ô hay, thì chúng ta vẫn lên mạng viết lách, lên Facebook chém gió ầm ầm kia kìa; vẫn mua báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp luật Thành phố… ê hề ngoài sạp kìa, có thiếu gì đâu, mất gì đâu? Tóm lại là các vị đòi cái gì?”. Tự do, dân chủ, nhân quyền là các khái niệm đẹp đẽ, nhưng cũng chính là cái bẫy chết người mà các học giả, các nhà đấu tranh trong nước và hải ngoại rất dễ rơi vào: Đa số người dân không hiểu chúng là cái gì, mà những nhà hoạt động thì lại đang đấu tranh cho những thứ rất “chung chung”, “mơ hồ” đó. Và đi đến tận cùng con đường tranh đấu, nhà hoạt động bị bỏ tù, trở thành tù nhân lương tâm, trong khi dân chúng đa số không hiểu vì sao họ phải quan tâm đến một cá nhân đã bị cầm tù vì một sự nghiệp không liên quan gì đến họ. Hình ảnh xiềng xích, còng, dây thép gai... là biểu tượng của sự mất tự do, nhưng đang tỏ ra rất thiếu thuyết phục trong tuyên truyền,  vì đa số người dân VN chỉ thấy nghĩa đen của vấn đề là họ không hề bị xích chân tay gì cả. Nguồn ảnh: PJMedia Giới hoạt động dân chủ tiếp tục đi vào hướng mà chính quyền Việt Nam mong muốn, nhưng ở đây thì lại ngược hoàn toàn với phần trên: Họ sa vào cuộc đấu tranh cho những điều có vẻ rất xa vời, trừu tượng, lý thuyết đối với dân chúng, mà quên mất những lợi ích cụ thể, rõ ràng trước mắt người dân, nôm na như quyền được dùng thực phẩm sạch, không phải uống rượu giả, bia giả chẳng hạn. Các quyền đất đai cũng là một lĩnh vực gần gũi, sát sườn với nông dân. Nhưng khẩu hiệu “đấu tranh vì quyền đất đai” vẫn là một khái niệm chung chung, trừu tượng, cần được cụ thể hóa hơn nữa, ví dụ trở thành mục tiêu “đền bù công bằng”. (Thế nào là đền bù công bằng, đền bù công bằng thì phải được thực hiện ra sao, lại cũng là những điều cần làm rõ). Có lẽ, chỉ khi nào phong trào đối kháng ở Việt Nam tìm được cách đấu tranh vì những điều cực kỳ cụ thể, thì việc làm của họ mới trở nên dễ hiểu và dễ thuyết phục dân chúng. Theo phamdoantrang.com/2014/10
......

Lý Bằng tiết lộ hội nghị Thành Đô 1990

Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990 là bước ngoặt của quan hệ Trung-Việt... Hai bên ký kết "Kỷ yếu hội nghị" đồng thuận bình thường hóa quan hệ song phương. Cuộc đàm phán bí mật, đảng cộng sản Việt Nam không tiết lộ và cũng không công bố cho toàn nhân dân Việt Nam biết một sự kiện lịch sử quan trọng. Đến ngày 5/11/1991, Đỗ Mười Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, và Võ Văn Kiệt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán Bắc Kinh (钓鱼台国宾馆). Một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, được tiết lộ bởi "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (李鹏外事日记 ) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình (和平发展合作), ngoài ra tác giả công bố hơn 230 bức ảnh phụ trang, phần lớn đã được công bố tại Trung Quốc. Nguồn: Công bố bởi Nhà xuất bản Tân Hoa Xã. Chúng tôi xin tóm lược một luồng thông tin giới thiệu tới độc giả như để tham khảo những tài liệu sau này về Hội Nghị Thành Đô 1990: Lý Bằng (Li Peng) viết hai cuốn Hồi ký "Nhật ký ngoại sự", và "Hòa Bình phát triển hợp tác", đó là những cuốn sách nhật ký chú trọng phần hoạt động đối ngoại của Lý Bằng đã từng là Phó Thủ tướng, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Thường vụ (NPC). Bài này trích trong cuốn "Nhật ký ngoại sự" và "Hòa bình phát triển hợp tác" của tác giả Lý Bằng. NXB Tân Hoa xã xuất bản. Nguồn:people.com.cn. [1] Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư. (3) Phạm Văn Đồng, (4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân), (5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), (6) Lý Bằng, (7) Đỗ Mười, (9) Hồng Hà (bìa phải) và Đinh Nho Liêm. Ảnh chụp tại Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!" [2] Lý Bằng "Nhật ký ngoại sự" (外事日记). Về hình thức ghi lại quá trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt như sau: Cuối những năm 1970. Việt Nam đưa quân sang Campuchia. Năm 1979, quan hệ Trung-Việt đụng đáy hết thuốc chữa. Tháng 12 năm 1986, thời đó Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đương quyền, tình hình quốc tế thay đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Liên Xô bị tan rã. Nguyễn Văn Linh tìm kiếm chính sách, điều chỉnh lại bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc-Việt Nam. Sau khi hai bên Trung-Việt thông qua đường liên lạc, đồng ý hội nghị bí mật vào ngày 03 - 04 tháng 9 năm 1990. Nguyễn Văn Linh và Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười chấp nhận đàm phán với các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên. Thứ Sáu, ngày 26 tháng 12 năm 1986. Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời vào tháng 7. Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, tại Đại hội 6 đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 8. Hôm nay, Việt Nam tuyên bố rằng "Rút toàn bộ quân đội của Việt Nam ra khỏi Campuchia". Lần này, tạo ra các điều kiện để giải quyết "trơn tru" cho mọi thuận lợi của vấn đề Campuchia, đồng thời làm "sạch" các chướng ngại bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Thứ Tư, ngày 6 tháng 6. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hẹn gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei) [3] tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn (Văn Linh), hy vọng cho một lần đầu, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai đảng, đồng thời mong sớm được đàm phán tại Trung Quốc. Chủ Nhật, ngày 26 tháng 8. Giới thiệu chuyến viếng thăm nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc, gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mục đích giải tỏa những vấn đề hai nước, hai đảng..., tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, ông cho biết hoàn toàn tán thành. Thứ Hai, ngày 27 tháng 8. Về đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến với Nguyễn Văn Linh theo những dự thảo liên quan, tôi đã báo cáo lên đồng chí Đặng Tiểu Bình. Theo quan điểm của Thế vận hội Châu Á (Asian Games), sắp tới tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng cuộc họp này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt, đặc biệt hệ trọng, nên để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm sẽ được bố trí ở Thành Đô. Thứ Năm, ngày 30 tháng 8. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đi đến Thành Đô để đàm phán nội bộ với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, đã có ban hành lời mời phía Việt Nam. Bây giờ thử xem Việt Nam trả lời thế nào. Chủ Nhật, ngày 02 tháng 9. 15 giờ 30, tôi lên chiếc máy bay chuyên cơ, cất cánh từ vùng ngoại ô sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 00 đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi di chuyển bằng ô-tô qua lộ trình mất hơn 20 phút đến Kim Ngưu tân quán (宾馆金牛), Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ đợi. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chiếc bay chuyên cơ đến Thành Đô chậm hơn tôi nửa giờ sau, tôi đến Thành Đô. 08 giờ 30 tối. Đến 11 giờ đêm, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi chính sách cho cuộc đàm phán với phía Việt Nam vào ngày mai. Thành Đô thứ Hai, ngày 03 tháng 9. Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc tiến hành đàm phán với phía Việt Nam. Khoảng 14 giờ 00, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng cùng đến Kim Ngưu tân quán Thành Đô (成都宾馆金牛) [4]. Giang Trạch Dân và tôi chào đón họ tại tầng lầu 1. Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, mặc veston cà phê, phong thái học giả. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười mái tóc bạc trắng cũng có thái độ mạnh mẽ, mặc veston màu xanh. Họ là những người trên bảy mươi tuổi, và Phạm Văn Đồng thị giác mắt nheo đục, mặc veston đại cán phù hợp với màu xanh, ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc. Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Buổi chiều, cuộc đàm phán bắt đầu, Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên thực hiện một bài phát biểu dài. Mục đích mong muốn bày tỏ giải quyết các vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt, đồng thời đàm phán việc thành lập Hội đồng tối cao của Campuchia là một phần ưu tiên, không nên loại trừ bất kỳ bên nào, không thể bày tỏ sự miễn cưỡng để can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh có vẻ chỉ muốn bày tỏ thái độ tuyên bố về nguyên tắc, trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Cuộc đàm phán tiếp tục cho đến 8 giờ 00, sau 08 giờ 30 mới bắt đầu mở tiệc buổi tối. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh? Thứ Ba, ngày 04 tháng 9. Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Tại thời điểm này, có thể nói những vấn đề nêu ra trong đàm phán đã đi đến sự đồng thuận một cách khá thỏa đáng, cùng quyết định soạn thảo một bản "Kỷ yếu hội nghị". 14 giờ 30, trong hai bên Trung-Việt tổ chức một buổi lễ ký kết tại khách sạn trên tầng số 1 Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt đồng ký do Tổng bí thư và Thủ tướng Chính phủ tương ứng. Đây là một bước ngoặc lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đọc câu thơ của Lỗ Tấn "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Tặng cho các đồng chí Việt Nam. Về vấn đề này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra hài lòng. 16:00, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 như vậy đã đến nơi. Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội 7 Thứ Bảy, ngày 29 tháng 6 năm 1991. Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được đắc cử Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng làm cố vấn. Những giai điệu tổng thể của Đại hội 7, Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh kiên trì giáo lý chủ nghĩa xã hội, tham gia vào các cải cách kinh tế, chủ trương tình hữu nghị Việt-Xô, Việt-Trung. Tinh thần của Đại hội 7 có lợi cho việc cải thiện quan hệ song phương Trung-Việt. Bắc Kinh thứ ba, ngày 30 tháng 7. Buổi chiều, tôi đã gặp gỡ các đại diện đặc biệt của Lê Đức Anh của Ủy ban Trung ương Việt Nam và Hồng Hà. Họ yêu cầu mở cuộc họp cấp cao Trung-Việt tổ chức tại Việt Nam. Tôi cho rằng, để nhân dân hai nước có sự chuẩn bị trước, để cho ASEAN và các nước khác không nảy sinh nghi ngờ, hai bên Trung-Việt. Cần tiến hành cuộc đáp ứng, gặp ở các cấp thứ trưởng và bộ trưởng ngoại giao trước đã, như cuộc họp cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng không có vấn đề về nguyên tắc. Ngày hôm sau Tổng bí thư Giang Trạch Dân sẽ trả lời chính thức với phía Việt Nam. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, cả hai đối tác thông qua tham khảo ý kiến và giải quyết. Trung Quốc giữ thái độ tích cực với tất cả các lĩnh vực về thương mại, bưu chính, vận chuyển, thanh toán ngân hàng, khôi phục giao thông đường bộ. Thứ Ba, 17 giờ 00, ngày 05 tháng 11. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đã tổ chức lễ đón chính thức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tại quảng trường ở ngoài cửa phía đông Đại lễ Đường Nhân dân. Tiếp đó, chúng tôi tổ chức tiến hành cuộc đàm phán. Đỗ Mười có thái độ rất rõ ràng về vấn đề Đài Loan. Đồng chí Giang cho biết, sau khi quan hệ song phương một thời quanh co, nay đã trải qua một quãng đường gập ghềnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam có thể ngồi lại với nhau để tiến hành cuộc đàm phán cấp cao mang ý nghĩa quan trọng. Đây là một kết thúc của các cuộc đàm phán trong quá khứ, hướng tới tương lai, nó đánh dấu sự bình thường hóa trong quan hệ hai nước, sẽ có tác động sâu sắc đến sự phát triển của quan hệ song phương. Đỗ Mười nói rằng, bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời cũng giúp ích cho hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới. Tiếp đó, tổ chức bữa tiệc. Thứ Tư, ngày 06 tháng 11. Buổi chiều, tôi đàm phán với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt, bầu không khí rất tốt. Đầu tiên tôi nêu ra rằng Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tiến hành đàm phán khả quan, đã trao đổi đầy đủ quan điểm. Về vấn đề Đài Loan, thái độ Võ Văn Kiệt thể hiện rất tốt. Tôi điểm qua các vấn đề về vay nợ, biên giới, người dân tị nạn… trong cuộc hội đàm. Hai bên đồng ý sau này sẽ không bàn tới nữa. Với các dự án vay vốn do phía Việt Nam vừa đề xuất, tôi đã hứa sẽ cho khảo sát các dự án của phía Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nêu rõ, thỏa thuận về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia đã được ký tại Paris, việc thực hiện thỏa thuận vẫn đòi hỏi các bên phải tiếp tục nỗ lực. Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆) Thứ Năm, ngày 7 tháng 11. Buổi chiều, Hiệp định Thương mại Trung-Việt và Hiệp định tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới giữa hai nước đã được ký kết và thỏa thuận tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆). Các lãnh đạo đảng và chính phủ hai nước đã dự lễ ký kết, sau đó, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân chia tay Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi du lịch đến Quảng Châu, Thẩm Quyến và đến thăm những nơi khác. Huỳnh Tâm (Dân Làm Báo)
......

Chuyện Lăng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh (HCM) chết ngày 2-9-1969.   Ngày 2-9 là quốc khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên Bộ chính trị đảng Lao Động (BCTĐLĐ), sợ xui xẻo, cho đổi ngày chết của HCM là 3-9-1969.  Di chúc chót (thứ ba) của HCM bị Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ, sửa đổi rồi mới cho công bố, đề ngày 10-5-1969. (Toàn văn các bản di chúc của HCM được Nxb. Thanh Niên, TpHCM ấn hành năm 1990.) Bản di chúc do Lê Duẫn sửa đổi, hoàn toàn không đề cập đến việc chôn cất HCM.  Trong bản di chúc đầu tiên do HCM đánh máy và ký tên ngày 15-5-1965, có chữ ký "chứng kiến"[nv] của Lê Duẫn, HCM viết: "Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là "hỏa táng"... Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn.  Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt... thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam…" (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc, Nxb. Thanh Niên, TpHCM, tt 13-16.)  Hồ Chí Minh sửa đổi đôi chút về việc chôn tro cốt trong bản di chúc thứ hai viết năm 1968, theo đó "Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành.  Một hộp cho miền Bắc.  Một hộp cho miền Trung.  Một hộp cho miền Nam.  Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó... " (HCM, sđd. tr. 26-29.)  Dầu tỏ ra khiêm nhượng, nhưng cho đến khi gần chết, HCM vẫn còn tham vọng muốn dân chúng chiêm ngưỡng ông rộng rãi khắp nước sau khi chết.  Gần ba tháng sau khi HCM chết, trong cuộc họp ngày 29-11-1969, BCTĐLĐ quyết định ướp xác HCM và xây dựng mộ phần HCM mà CS gọi là lăng.  (Bài nầy gọi mộ HCM là lăng theo tên gọi chung.)  Nếu để đến ba tháng mới ướp xác thì cái xác HCM đã bị sình thối, nên chắc chắn việc ướp xác đã được BCTĐLĐ cho thi hành ngay sau khi HCM chết.  Một chuyên viên Liên Xô đã bí mật đến Hà Nội vào năm 1968 để cố vấn tiến trình ướp xác HCM.  Tháng 3-1969, một toán chuyên viên Bắc Việt được gởi qua Moscow tham khảo thêm.  Khi HCM chết ngày 2-9-1969, Bắc Việt lúng túng, phải giữ xác HCM trong hầm nước đá, và vào giữa tháng đó, một chuyên viên thứ hai của Liên Xô được gởi sang Hà Nội để lo ướp xác HCM.  (William J. Duiker, Ho Chi Minh, Nxb. Hyperion, New York, 2000, tr. 565, và phần chú thích số 3 tr. 669.)  Vậy tất cả mọi việc đều đã được chuẩn bị ngay cả trước khi HCM qua đời, và ngày 29-11-1969 chỉ là ngày BCTĐLĐ công khai hóa vấn đề ướp xác, xây lăng mà thôi. Cộng sản vốn chủ trương duy vật vô thần, chống lại các tín ngưỡng, tiêu diệt các tôn giáo, triệt hạ các đền đài, chùa chiền và nhà thờ, tại sao đảng LĐ lại đi ngược lại di chúc HCM, ướp xác xây lăng HCM để mọi người chiêm bái?  Trước khi chết, HCM đã viết trong di chúc: "...Vì vậy tôi để sẵn mấy lời nầy, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin và các vị c. m. đàn anh khác..." Khi chết, HCM không đi thăm ông bà cha mẹ, mà đi thăm người nước ngoài chưa một lần gặp mặt.  Dầu sao, điều nầy còn có nghĩa là trước khi chết, HCM tin tưởng rằng linh hồn con người còn hiện hữu sau khi qua đời, và cũng có nghĩa là HCM phản bác lại chủ nghĩa duy vật, quay về với tín ngưỡng linh hồn cổ xưa của người Việt.  Về phía BCTĐLĐ, chắc chắn không phải vì tin vào sự hiện hữu của linh hồn, mà BCTĐLĐ quyết định xây lăng cho HCM.  Ý đồ của  đảng LĐ được dân chúng phỏng đoán khi đảng LĐ xây lăng HCM là:  1) Vinh danh sự thừa kế. 2)  Sùng bái cá nhân. 3)  Duy trì chế độ độc tài. 4) Bất tử hóa đảng LĐ. Một uỷ ban xây dựng lăng HCM được thành lập, gồm đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng do Đỗ Mười, lúc đó là Uỷ viên Trung ương đảng, làm chủ tịch.  Uỷ ban nầy nghiên cứu nhiều kiểu mẫu kiến trúc lưu niệm như Kim tự tháp Ai cập, Đền Victor Emmanuel ở Rome, Đài tưởng niệm Lincoln ở Washington D.C. và lăng Lenin ở Moscow.  Những dự án kiến trúc đề nghị được BCTĐLĐ đưa ra trưng bày trên toàn quốc để hỏi ý kiến công chúng.  (Tại sao những vấn đề chính trị quan trọng không hỏi ý kiến dân chúng mà chỉ hỏi mẩu mộ HCM?)  Tháng 12-1971, BCTĐLĐ quyết định lần chót đồ án xây cất.  Công cuộc xây lăng bắt đầu một thời gian ngắn sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27-1-1973). (William J. Duiker, sđd. tt. 565-566.)  Lúc đó, Bắc Việt không còn sợ bị Mỹ ném bom.   Quần thể lăng HCM Lăng HCM được xây dựng tại khu vực Quảng trường Ba Đình, gần vườn Bách thảo, phía trước Phủ Chủ tịch chính phủ VNDCCH.  Đồ án lăng HCM được BCTĐLĐ chọn lựa do người Liên Xô vẽ kiểu, đứng  cao lên giữa Hà Nội, được giải thích là hình ảnh một đóa hoa sen nhô cao lên mặt nước, theo kiểu dáng một ngôi chùa gần đó, chùa Một Cột, được xây dựng vào thế kỷ 11.  Thật ra, ai cũng thấy lăng HCM giống như lăng Lenin ở Công trường Đỏ tại Moscow.  Liên Xô cử người sang làm tổng công trình sư, điều khiển tiến trình thiết kế thi công, và chỉ để cho phía Bắc Việt cung cấp nhân công và vật liệu mà thôi.  Công trình xây cất kéo dài hơn 2 năm, tập trung tất cả những vật liệu quý hiếm khắp nơi trong nước, như gỗ quý từ lâm viên Quốc gia Cúc Phương, những vật liệu quý hiếm ở các tỉnh miền Nam như đá cẩm thạch Non Nước, Đà Nẵng, và đặc biệt sử dụng cả những khối đá lớn mua từ Crimée, tây nam Liên Xô.  Lăng HCM được khánh thành ngày 29-8-1975, mở đầu tuần lễ mừng chiến thắng miền Nam sau khi CS Bắc Việt tràn quân cưỡng chiếm miền Nam tháng 4-1975, mừng quốc khánh của CS (2-9) và kỷ niệm ngày chết của HCM theo chủ trương lúc đó là 3-9.  Đây là tòa nhà công cộng duy nhứt lúc đó ở Bắc Việt được điều hòa không khí, đứng sừng sững đơn độc cao ngất trước và trên Phủ chủ tịch, ngự trị một cách oai vệ vùng trung tâm thành phố Hà Nội.  Lăng HCM là công trình xây cất duy nhứt ở Hà Nội trong suốt hơn 20 năm cầm quyền của đảng LĐ ở Bắc Việt từ năm 1954.  Từ năm 1954 đến 1975, toàn bộ thành phố, đường sá, nhà cửa, kể cả nhà cửa tư nhân ở Hà Nội đều vẫn như cũ.  Không xây nhà cho dân chúng hoặc công trình tiện ích xã hội, mà đảng LĐ lại tập trung tài vật toàn quốc xây một nhà mồ ướp xác như các hoàng đế Ai Cập cổ xưa xây Kim tự tháp.  Điều nầy cho thấy quan niệm của CS chỉ là "Trung với đảng, hiếu với lãnh tụ". Trước khi ra mắt công chúng, đảng LĐ ra lệnh cho toàn thể các tỉnh thành khắp nước gởi về các loại cây cối, bông hoa quý hiếm trồng chung quanh lăng để tạo phong cảnh thiên nhiên Việt Nam.  Lăng HCM, ngay khi mới khánh thành, đã bị nhiều người lúc đó phê bình về nhiều điểm: Trước hết, người ta nói rằng đảng LĐ (nay là đảng Cộng Sản) đã vi phạm di chúc của HCM.  HCM muốn thiêu xác sau khi chết, chứ không phải ướp xác trưng bày trong lăng.  Mô hình lăng có tính cách ngoại lai theo kiểu vua chúa ở Âu châu chứ không mang những đặc tính Việt Nam.  Điều nầy không lấy gì làm lạ vì người Liên Xô vẽ kiểu theo mẫu lăng Lenin ở Công trường Đỏ tại Moscow, Liên Xô.  Đương nhiên, người Liên Xô muốn chứng tỏ ưu thế chính trị và văn hóa của họ ở Bắc Việt nên đã xây lăng HCM theo mô thức lăng Lenin ở Moscow.  Ngay từ đầu, đảng LĐ  gọi ngôi mộ của HCM là “lăng”.  Trong tiếng Việt, "lăng, hay lăng miếu, lăng mộ, lăng tẩm" là những từ ngữ để gọi ngôi mộ của vua chúa hay các đại quan thời quân chủ (ví dụ lăng Gia Long, lăng Ông tức lăng Lê Văn Duyệt...), trong khi chế độ CS luôn luôn tự cho là dân chủ, hô hào chống lại nền quân chủ phong kiến.  Đảng LĐ xây lăng HCM quá đồ sộ trong lúc dân tình đói khổ, nhà cửa cũ kỹ xơ xác, nghèo khổ.   Sự tương phản lớn lao nầy ngay tại thủ đô Hà Nội tạo ra một hình ảnh xã hội cách biệt sâu rộng giữa người cầm quyền và dân chúng dưới chế độ CS.  Nhà cầm quyền CS lại còn bắt dân chúng cung phụng những gì quý hiếm ở các địa phương, đưa về trang trí lăng HCM, không khác gì các vua chúa ngày xưa đòi các địa phương phải hiến dâng phẩm vật tiến triều. Sau khi lăng HCM xây xong, việc tổ chức và duy trì lực lượng quân sự để bảo vệ lăng HCM hao tốn một ngân quỹ nhà nước hằng năm hết sức lớn lao từ 1969 cho đến nay.  Báo chí hải ngoại ước tính trung bình mỗi năm việc bảo trì xác ướp và bảo vệ lăng HCM tốn kém trên một trăm ngàn Mỹ kim, nhưng theo một đảng viên trong nước tiết lộ, thì số tốn phí mỗi năm cao hơn rất nhiều.  Các chi phí gồm có:  Quân đội bảo vệ lăng, đứng đầu là một sĩ quan cấp tướng, với ít nhất hai tiểu đoàn chính quy, và không biết bao nhiêu cảnh sát vừa nổi vừa chìm đứng gác.  Tiền lương cho ông tướng, bộ tham mưu và hai tiểu đoàn cùng đám cảnh sát mỗi tháng đã khá cao.  Sinh hoạt của lăng nầy tiêu thụ một lượng điện và nước tiêu dùng bằng một quận lớn ở thành phố, trong khi lúc đó dân chúng thiếu thốn điện nước trong sinh hoạt hằng ngày.  Để quảng cáo cho lăng HCM, nhà nước CS ra lệnh các trường học và các địa phương phải tổ chức những cuộc đi thăm lăng "bác".  Có khi ít người thăm viếng lăng nầy, ban Bảo vệ lăng có sáng kiến tặng quà, kể cả thức ăn, cho những ai chịu khó sắp hàng vào thăm lăng.  Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, ở Hà Nội việc duy trì xác ướp HCM gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh.  Hiện nay, tại Hà Nội, dư luận đồn rằng việc bảo trì không được tốt, nên xác HCM đã bị hư thối, và dư luận cũng cho rằng cái xác trong lồng kính hiện đặt ở Ba Đình chỉ là hình nộm bằng sáp hóa học mà thôi. (Robert Templer, sđd. tr. 43.) Nhắm mục đích vinh danh sự thừa kế, sùng bái cá nhân và duy trì chế độ độc tài đảng trị, BCTĐLĐ đã phản lại di chúc HCM, quyết định xây lăng HCM bất kể tốn kém và xem lăng nầy là một quốc bảo.  Các khách quý nước ngoài đến Việt Nam đều được mời thăm lăng HCM.  Hai quốc gia có nhiều liên hệ văn hóa, lịch sử, chính trị với Việt Nam trong giai đoạn cận và hiện đại là Pháp và Hoa Kỳ, nhưng tổng thống hai nước nầy khi đến Hà Nội đều không vào thăm lăng HCM. Tổng thống Pháp, François Mitterand, đến Việt Nam từ ngày 23 đến ngày 27-6-1993, và tổng thống Hoa Kỳ, Bill Clinton, đến Việt Nam từ 16 đến 18-11-2000, đều không vào lăng viếng HCM. Trong khi đó, cả hai ông đều vào thăm Văn Miếu Hà Nội, nơi tụ khí anh linh văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam do vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054-1072) lập ra năm 1070 (canh tuất). Nghe nói lãnh đạo đảng CSVN hiện nay đang tìm cách “hạ cánh an toàn”. Người thì làm sui với Việt Kiều, người qua Mỹ trị bệnh, người gởi tiền qua các ngân hàng Tây Phương (Không ai dại gởi tiền qua ngân hàng Trung Cộng hay Nga cả.). Thế thì đã đến lúc cũng nên cho HCM “hạ cánh an toàn”, hỏa thiêu và đem chôn HCM theo ý muốn của HCM.  Làm như thế, đảng CSVN vừa làm gương trước dân chúng, học tập và thi hành đúng di chúc HCM, vừa tiết kiệm ngân sách bảo vệ lăng vốn do tiền thuế của dân đài thọ, vừa dành cho kẻ chết chỗ yên nghỉ cuối cùng theo ý muốn.  Trong dịp Tết vừa qua, ngày 3-2-2014, có bốn người vác búa dự tính đập phá lăng HCM, có lẽ nhằm tiêu hủy xác chết HCM.  Cả bốn người đều bị bắt và bị kêu án tổng cộng là 19 năm tù.  Nếu bốn người thành công, có lẽ HCM đã bị bêu đầu. Thật ra, không nên đập phá lăng nầy vì lăng là tài sản của toàn dân. Chắc chắn một ngày gần đây sẽ có sự thay đổi chế độ, vì không một chế độ độc tài nào trường tồn trên cõi đời nầy, thì lúc đó sẽ không biết số phận xác chết HCM như thế nào, vì không ai cản nỗi tâm lý đám đông nổi giận, và cũng không ai công đâu mà lo chôn cất một cái xác thối nát. Chỉ riêng cái lăng đồ sộ nầy sẽ là nơi thích hợp nhứt để làm trung tâm triển lãm tội ác HCM và tội ác đảng CSVN. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 01-09-2014)
......

CCRĐ – Tội ác vượt chỉ tiêu trên giao

Hiện nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cho mở triển lãm về cải cách ruộng đất (1947-1957) nhằm tuyên truyền sai sự thật về cuộc cải cách vô cùng àn bạo này, khoác lên mình toàn máu của nó những đóa hoa của nhân bản và thắng lợi; rằng cải cách đã chia ruộng cho dân nghèo. Để hai năm sau, năm 1958, phong trào hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp đã cướp hết ruộng đất , trâu bò, cày cuốc …của nông dân nghèo vừa được chia ruộng, gom vào trong tay một tên đại địa chủ khét tiếng khác có tên là nhà nước. Riêng việc ông Hồ Chí Minh đã ký quyết định đấu tố và xử bắn bà địa chủ yêu nước, tham gia kháng chiến , có công lớn với dân tộc đất nước là bà Cát Hanh Long ( tức bà Nguyễn Thị Năm) đã nói lên bản chất phi nghĩa của cuộc cải cách ruộng đất. Thử tưởng tượng nếu không có sự đóng gióp vô cùng to lớn của hàng chục vạn địa chủ trong kháng chiến chống Pháp thì thử hỏi Việt Minh của ông Hồ Chí Minh lấy đâu ra thóc gạo để nuôi ngót một triệu bộ đội cùng dân quân và bộ máy khổng lồ chỉ đạo cuộc kháng chiến ? Thế mà, thay vì trả công cho tầng lớp địa chủ kháng chiến yêu nước này, các ông lại ký lệnh bắt nhốt hàng vạn địa chủ yêu nước lại, rồi đấu tố họ tàn bạo và bắn giết họ không thương tiếc mà còn dám huênh hoang khoe khoang rằng cải cách ruộng đất tốt đẹp lắm thì còn giời đất gì nữa ? Quê tôi làng Bình Hải, năm ấy có tên là xã Thúc Kháng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định được trên ưu ái cho long trời lở đất làm cuộc cải cách ruộng đất vào đông xuân 1956-1957 khi tôi đã 10 tuổi; nên tôi đã là chứng nhân, là một thành viên trong cuộc cải cách đầy máu và nước mắt này. Như có lần tôi đã kể, tôi có hai ông nội. Một ông nội nuôi bố tôi từ thơ bé, theo đạo Thiên Chúa, đã dựng vợ gả chồng cho bố tôi, rồi năm 1954 di cư vào Nam nên ông nội họ Trần của tôi và các cô chú tôi thoát khỏi tai nạn cải cách ruộng đất. Ông nội sinh ra bố tôi họ Phạm, theo đạo Phật, gia đình nuôi cán bộ trong kháng chiến nên không bị quy lên địa chủ, chỉ phải nhục nhã kiểm thảo trước nhân dân vì tội có học, biết chữ Hán và chữ quốc ngữ, nhà có nhiều sách, để cho ông em ruột có chữ, được vua ban cho chức quan thấp nhất là cửu phẩm. Chính ra ông nội họ Phạm của tôi đã bị xử bắn vì bị quy lên hàng trí thức, nhưng vì có quý nhân là quan lớn cải cách che đỡ nên cho thôi. Chỉ có một ông em ruột, em út của ông nội họ Phạm của tôi là cụ sư Niên ( Phạm Văn Niên) là sư cụ trụ trì một ngôi chùa to trong huyện bị quy lên địa chủ và bị đội cải cách lệnh cho phá chùa. Trước ngày bị đấu tố, biết chắc chắn sẽ bị chúng xử bắn, cụ sư Niên đã treo cổ chết phản đối chính quyền đã vu oan giá họa cho sư cụ nhằm phá chùa. Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị trói nhốt chuồng trâu chờ ngày đấu tố. Tôi đã chứng kiến Tậy đi càn quét nhưng không khí làng tôi những ngày cải cách đấu tố bắn bỏ địa chủ còn kinh khủng hơn nhiều đầu năm 1954 quân Pháp càn quét tìm Việt Minh. Cùng với các ông đội bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính ( hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ : rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư… Bọn thiếu nhi thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiêu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước. Đến lượt mình, tôi run bắn ấp úng thưa : - Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ ! Ông đội hét : Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng ! Tôi run run lí nhí : - Dạ em đấu tố thằng bố em ạ ! - Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đã đảo tên địa chủ Hiền… Tất cả bọn thếu nhi hô to đả đảo làm tôi mất hết tinh thần, run lên như chính mình sắp bị xử bắn. Tôi bèn kể lể dông dài một cách điêu toa là thằng địa chủ Hiền kia đã bóc lột con gà nhà bà Lộng, bóc lột con chó nhà bà Y, bóc lột gạo thóc ngoài ruộng nhà bần cố nông…Ông đội chỉ đạo cuộc đấu tố thí nghiệm hét lên : - Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn. Tôi hết hồn, điên lên hét thật to : - Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo ! Trong tiếng hô đả đảo vang trời của bọn thiếu niên thiếu nhi con cái các ông bà nông dân, thì ông đội tát cái bốp vào mặt tôi, khiến tôi ngã dúi, vừa tát ông vừa hét : - Thôi, câm ngay, đấu tố, chửi bố mình vượt chỉ tiêu trên giao ! Nghĩa là tôi đấu tố bố mình điêu hơn, ngoa hơn cả bài tố điêu tố gian của toàn đảng toàn dân ta đang long trời lở đất, kinh quá ! Lấy ý của ông đội cái cách tát bốp vào mặt tôi như vừa kể trên trong ngày giáp tết năm 1956-1957 ấy, tôi xin kết luận rằng : TỘI ÁC MÀ CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT từ năm 1947-1957 xảy ra ở Việt Nam do cấp trên Stalin, Mao Trạch Đông giao cho những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã vượt chỉ tiêu trên giao.,. Sài Gòn ngày 12-9-2014 T.M.H
......

Cải Cách Ruộng Đất : Sự Thật vẫn bị che dấu !

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...   Ngày 8/9/2014 tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội đã tổ chức cuộc triển lãm với 150 hình ảnh và các di vật về “Cải cách ruộng đất” trong khoảng thời gian từ 1946-1957.  Khác với cuộc triển lãm được tổ chức năm 1955 tại khu triển lãm Cát Linh với diện tích máy ngàn mét vuông, cuộc triển làm này chỉ trong không gian hẹp 250 mét vuông. Đây là sự kiện thu hút sự quan tâm của giới sử học và nhiều người dân… Chủ đề triển lãm tái hiện giai đoạn lịch sử mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đã giúp “người cày có ruộng, xóa bỏ giai cấp bốc lột ở nông thôn”. Nhưng  trên thực tế họ đã phản bội giai cấp nông dân, lừa dối họ để huy động lưc lượng đóng góp rất lớn vào trường kỳ kháng  chiến chống thực dân  Pháp. Cảm nhận chung là cuộc triển lãm cải cách ruộng đất này là không trung thực. Sự thật của cuộc cải cách ruộng đất vẫn bị che dấu.   Từ Hà Nội, sau khi xem triển lãm, nhà báo tự do JB Nguyễn Hữu Vinh đã nói lên những cảm nhận của mình qua cuộc  phỏng vấn của phóng viên Trần Quang Thành. Nội dung như sau. Mời quí vị theo dõi : http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...
......

Putin và bài học cho Việt Nam

Không có nước Nga, chỉ có người Nga Chúng ta không bình luận đến vấn đề đúng sai. Điều đó thuộc vào góc nhìn của từng người. Nhưng thông điệp đá tảng mà Putin gửi đến cho tất cả rất rõ ràng, không dấu giếm, và không hai nghĩa: Biên giới nước Nga mở rộng đến nơi nào có người Nga sinh sống. Lời nói và hành động của Putin đã làm cho NATO phải thay đổi. Chẳng thế mà NATO đã phải vội vã nhóm họp để có những biện pháp thích nghi cần thiết. Riêng tổng thống Obama còn phải vội vã bay đến Estonia để trấn an các đồng minh Estonia, Latvia và Lituanie, là các quốc gia thuộc Liên Xô trước đây có nhiều người Nga sinh sống. Bài học cho Việt Nam Yêu hay ghét Putin, bênh vực hay phê phán Putin, đó không phải là chủ đề và đó không phải là quan trọng. Điều quan trọng là từ thông điệp và hành động của Putin, nhất thiết phải rút ra những bài học cho Việt Nam. Có thể cô đọng ở mấy điểm chính sau đây. 1. Dân tộc là tối thượng Putin nói rằng: “Không có nước Nga, chỉ có người Nga”. Còn Obama thì tuyên bố: “ Chúng ta là khác biệt”. Phát biểu của hai người đứng đầu hai cường quốc thế giới đương thời đã nói lên tất cả. Nhưng Mao Trạch Đông còn vượt xa cả Putin lẫn Obama về dân tộc chủ nghĩa. Từ tháng 10 – 1959 tại hội nghị Quân ủy Trung ương, Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”. Nước Mỹ chỉ mới hơn hai trăm năm. Nước Nga chưa đủ mười thế kỷ. Còn dân tộc chủ nghĩa của đế chế Trung Hoa thì đã tồn tại chí ít cũng hơn bốn ngàn năm. Không có tình đồng chí đồng giai cấp đồng minh nào bằng tình máu mủ. Tình máu mủ đồng bào là sản phẩm của tạo hóa. Bởi vậy dân tộc là tối thượng. 2. Không để tồn tại các phố xá người Hoa Nước Nga chỉ có một Crưm, một Donbas. Vì người Nga sống ở Crưm mà Putin đã lấy gọn Crưm về Nga. Vì người Nga sống ở Donbas mà Putin đã tách Donbas thành nước Nga mới. Chúng ta không đề cập đến lý do, không bàn đến đúng sai. Chúng ta chỉ nói đến sự kiện thực tế tồn tại. Nhưng China Town thì hằng hà sa số. “Nạn Hoa kiều” đã là một trong những cớ để Đặng Tiểu Bình mang 60 vạn quân tiến đánh Việt Nam ngày 17-2-1979. Điều đáng sợ nhất là chính quyền Việt Nam hiện nay đang tạo nên cơ hội thuận lợi chưa bao giờ có cho sự phát triển các phố xá người Hoa tại Việt Nam. Dân tộc Nga và Ucraina có quan hệ cả ngàn năm chung sống, nhưng ở Ucraina người Nga chỉ sinh sống chủ yếu ở phía Đông Ucraina, còn phía Tây là người Ucraina. Còn ở Việt Nam hiện nay, người Hoa đã có mặt từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, khắp cả hang cùng ngõ hẻm. Một “Nạn Hoa kiều” có thể tạo dựng ra bất cứ lúc nào. Lúc đó không như Crưm, không như Donbas ở Ucraina, khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều là Crưm, đều là Donbas. Cũng không cần đến “Nạn Hoa kiều”, khi Trung Quốc dấy binh thì khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều có nội ứng người Hoa. Một số người cầm quyền ở trung ương và địa phương ngây thơ tin rằng, khi hết hạn hợp đồng là đưa được lao động Trung Quốc về nước. Họ không biết rằng người Trung Quốc đã kịp lấy vợ khi vừa đặt chân đến đất Việt Nam. Họ cũng không ngờ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc bí mật cho tiền những kẻ bất lương tội phạm ra nước ngoài sinh sống, một kiểu lưu đày trá hình trong thời đại tích hợp toàn cầu. Hãy chặn đứng ngay việc đưa người Hoa sang Việt Nam buôn bán làm việc. Đừng mang họa về cho dân tộc. 3. Các cường quốc sẽ tránh đối đầu Ngày 29-8-2014 trong cuộc gặp mặt với thanh niên ở hồ Seliger Putin nói: “ Nước Nga sẽ không can dự vào các đụng độ lớn… Và ơn Chúa, chắc cũng không có ai có ý định phát động một cuộc xung đột lớn với Nga. Nga là cường quốc hạt nhân hàng đầu. Đây là sự thật”. Việc Mỹ và NATO không ủng hộ mạnh Ucraina trong vấn đề Đông Ucraina cũng chính là tránh đối đầu trực diện với Nga. Và có thể nhận thấy ngay rằng NATO sẽ không mặn mà với việc kết nạp Ucraina là thành viên NATO. Nga sẽ làm mọi biện pháp có thể để ngăn chặn điều này. Và như thế sẽ dẫn đến sự đối đầu trực diện giữa Nga và NATO. Kết quả là Ucraina sẽ hoàn toàn bị chia rẽ. NATO chỉ có thể giúp đỡ Ucraina bằng tiền bạc, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, và chuyên gia huấn luyện; nhưng sẽ không có quân đội NATO đến Ucraina để tham chiến chống lại Nga. Thảm họa hạt nhân và sức mạnh của vũ khí hủy diệt là lý do căn bản buộc các cường quốc phải né tránh đối đầu. Các cường quốc cũng sẽ không vì các quốc gia khác mà đi đến đối đầu. Không chỉ không phát động xung đột, ngay cả khi bị ràng buộc bởi một cam kết liên minh quân sự, các cường quốc cũng phải tìm cách không cho leo thang, giảm dần căng thẳng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đụng độ. Khi xẩy ra chiến tranh, các nước nhỏ sẽ phải tự chiến đấu bằng chính con người của nước mình. Bởi vậy ngoài liên minh ra, nhất thiết phải xây dựng được một Việt Nam giàu mạnh tự cường. 4. Việt Nam phải đối mặt với đế quốc Đại Hán còn đáng sợ nhiều lần hơn các đế chế khác Sự phản ứng của nước Nga cũng là điều tự nhiên. NATO đã tiến sát đến sườn nước Nga. Không chỉ thế, phương Tây bắt đầu chọc vào da thịt người Nga khi động đến Ucraina, một trong ba bộ tộc Slavo gần gũi nhất: Nga, Bạch Nga và Ucraina. Nước Nga quẫy mạnh vì bị đâm vào sườn. Còn đế chế Đại Hán từ mấy ngàn năm luôn mang gươm đi xâm chiếm nước khác mà không cần bất cứ lý do nào. Số phận đã buộc Việt Nam phải sống cạnh một đế chế ngang ngược đáng sợ nhất trong lịch sự phát triển nhân loại. 5. Hãy hành động cương quyết vì quyền lợi dân tộc Thống kê xã hội cho thấy Putin đang có uy tín cao trong nhân dân Nga. Tại sao vậy? Đơn giản là Putin đang làm sống lại một đế chế Nga. Điều mà nhiều người Nga rất mong mỏi. Nhiều người Hoa cũng sẽ rất phấn khích khi lãnh đạo Trung Quốc tiến hành một chính sách bá quyền. Nếu lãnh đạo Trung Quốc làm cho đế chế Đại Hán bành trướng lớn mạnh, thì họ sẽ được nhiều người Hoa ủng hộ, bất chấp các biện pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành. Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi liên quan đến dân tộc thì phải suy nghĩ kỹ nhưng lại phải hành động kịp thời và rất cương quyết, không do dự, không nhu nhược, không đớn hèn. Sức mạnh dân tộc sẽ truyền vào người ra quyết định, hợp thành một sức mạnh nối dài vô địch. Putin thì rất cương quyết rất tiến công. Còn lãnh đạo Việt Nam thì ngược lại. Vai trò lãnh tụ rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Chừng nào Việt Nam chưa có phương thức dân chủ thực sự để chọn ra được những người lãnh đạo xứng đáng thì chừng đó số phận dân tộc còn long đong. Bài học từ Putin dễ thấy nhưng lại khó học. V.T.D. Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Đặng Tiểu Bình Chỉ Huy Trận Chiến Hoàng Sa 1974

Ký giả Bill Hayton vừa cho xuất bản một quyển sách rất hay liên quan đến Biển Đông: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Trong Chương 3 đề cập về “Danger and Mischief từ 1946 -1995”, tác giả đã dựa theo tài liệu quân sự của Hoa Kỳ thập niên 70 được giải mật, và một tài liệu được soạn thảo bởi Hải quân Trung cộng vào năm 1987 – trong đó, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai là người - vào năm 1973 - đã đưa ra quyết định đánh chiếm Hoàng Sa, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao và Nixon năm 1972. Người được giao trách nhiệm thực hiện quyết định này là Đặng Tiểu Bình do sự đề bạt của Chu Ân Lai. Đặng Tiểu Bình lúc đó đang bị thất sủng sau cuộc cách mạng văn hóa vào năm 1966, và phải sống lưu đày cùng với vợ tại Giang Tây từ năm 1969 đến 1973. Chu Ân Lai đã cho đưa họ Đặng về Bắc Kinh vào ngày 20/3/1973 để tiến hành quyết định đánh Hoàng Sa của hai thủ lãnh Mao, Chu. Kế hoạch đánh chiếm bắt đầu được chuẩn bị và luyện tập từ tháng 9/1973. Theo tin tức tình báo Hoa Kỳ vào lúc đó, cảng Beihei đã được Trung Cộng cho kiểm soát gắt gao và từ giữa tháng 12/1973, hàng trăm lính Trung Cộng được đưa xuống 6 tàu đánh cá, hàng ngày rời khỏi cảng Beihei và trở lại cảng lúc trời tối, liên tục trong vòng 10 ngày. Kế hoạch đưa người ra chiếm Hoàng sa hoàn tất vào đầu tháng 1 năm 1974. Những nghiên cứu của ký giả Bill Hayton nói trên đã cho chúng ta thấy là việc đánh chiếm Hoàng sa của Trung Cộng là bước khởi đầu, nằm trong chiến lược khống chế biển Đông đã được vạch ra từ những lãnh đạo cao cấp nhất của Bắc Kinh là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Vì thế mà sau khi đưa hàng trăm lính ra chiếm các đảo của Việt Nam Cộng Hòa, ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại giao Trung Cộng ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đương nhiên Việt Nam Cộng Hòa đã ra tuyên bố khẳng định Hoàng sa, Trường sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ mọi cáo cuộc phi lý của Trung Cộng. Lo ngại Trung Cộng có thể đưa quân chiếm đóng, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra các đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm. Nhưng đã quá trễ. Ngày 16/1/1974 khi phái đoàn Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra thăm các đảo ở Hoàng sa để nghiên cứu thiết lập phi trường thì đã phát hiện lính Trung Cộng nằm đầy trên các đảo. Trận hải chiến Hoàng Sa bùng nổ và kết thúc vào ngày 19/1/1974. Lý Thái Hùng 8/9/2014
......

Trường Sa của chúng ta sẽ bị uy hiếp

Khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dươg 981 vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta, nhân dân ta phẫn nộ đấu tranh quyết liệt, báo chí dư luận thế giới phê phán như tát nước vào mặt Trung Quốc, tiếc rằng lãnh đạo Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội kiện Trung Quốc. Rát mặt quá, giới cầm quyền Trung Quốc tạm rút giàn khoan đi nơi khác để tình hình lắng dịu xuống. Nhưng âm mưu của Trung Quốc đối với Biển Đông không thay đổi, họ vẫn dựa vào cái “lưỡi bò” phi lý, phi pháp của họ để tuyên bố chủ quyền biển, đảo của họ trong đó và họ vẫn từng bước lặng lẽ tiếp tục hành động... Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Trung Quốc là kẻ cướp đất, cướp biển, Việt Nam là nạn nhân, Trung Quốc là kẻ mạnh, đặc phái viên của TBT Nguyễn Phú Trọng đi cầu hòa là ở thế yếu. Thông thường thì trong đàm phán, kẻ mạnh thường áp đặt điều kiện cho kẻ yếu. Ví dụ như trong đàm phán về lập lại quan hệ bình thường ở Thành Đô, do Việt Nam ở thế yếu nên sau khi đoàn về, phía lãnh đạo ta không còn đả động gì đến cuộc xâm lược của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới của ta năm 1979, đến cuộc đánh chiếm điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Không truy tặng liệt sĩ cho bộ đội chiến đấu hy sinh năm ấy và 64 cán bộ chiến sĩ hy sinh năm 1988 ở Gacma. Không ai chăm sóc mồ mả và hương khói cho các liệt sĩ, sau đó là Bộ Trưởng Ngoại giao đầy tài năng Nguyễn Cơ Thạch đã sớm biết rõ dã tâm của Trung Quốc, mất chức. Đối với “đặc phái viên” Lê Hồng Anh, phía Trung Quốc có nêu điều kiện gì không thì không biết. Trong hội đàm với Lưu Vân Sơn, đặc phái viên Lê Hồng Anh cầm giấy đọc, nội dung những gì thì không được biết. Sau đó Lưu Vân Sơn phát biểu, khi hội kiến TBT Tập Cận Bình thì Tập Cận Bình cũng phát biểu. Qua báo chí công khai của cả ở Việt Nam và Trung Quốc, tổng hợp lại phát biểu của hai nhà lãnh đạo Trung Quốc cơ bản không có gì mới, chủ yếu vẫn là những câu phỉnh phờ, mê hoặc, “ăn người’ lâu nay họ từng nói, nào là: Trung Quốc rất tôn trọng Việt Nam, là hai nước láng giềng không tránh khỏi “va chạm” (!), vấn đề chính là xử lý như thế nào..., mâu thuẫn ở Nam Hải (Biển Đông) song phương đàm phán tìm giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được, hợp tác cùng khai thác, cùng là Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng có mục đích xây dựng Chủ nghĩa xã hội, cần thường xuyên giao lưu trao đổi ý kiến, lấy đại cục quan hệ Trung - Việt làm trọng, giữ gìn truyền thống hữu nghị giữa hai nước, kiên trì phương châm 16 chữ và 4 tốt, hai bên quan tâm định hướng dư luận nhân dân hai nước... Thử phân tích xem những nhà lãnh đạo Trung Quốc nói như trên có thật không và có ý gì? -Trung Quốc rất tôn trọng Việt Nam: Có thật vậy không? Vài năm trước báo chí Trung Quốc không ngớt thóa mạ và đe dọa Việt Nam, nào là Việt Nam là lang sói, là quân ăn cháo đá bát, phải dạy cho Việt Nam bài học thứ hai, gần đây trong chuyến đi Việt Nam của Dương Khiết Trì, báo Trung Quốc còn đăng câu: “Hãy đưa đứa con hoang đãng trở về” (ám chỉ Việt Nam). Lần này họ nói với Việt Nam như thế để buộc chặt Việt Nam vào cỗ xe của họ. Đừng gần gũi quá với họ. - Hai nước láng giềng có “va chạm” nhau là điều không tránh khỏi, quan trọng là xử lý thế nào... Trung Quốc lấn, cướp của Việt Nam chứ đâu phải là va chạm, họ muốn ta không đấu tranh, không làm ồn ào, các mâu thuẫn họ gây ra ở Biển Đông, họ muốn ta đàm phán “song phương” để dễ bắt nạt, đồng thời chia rẽ ta với các nước Đông Nam Á. - Hợp tác cùng khai thác: Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng nêu “Chủ quyền về ta” (Trung Quốc), gác tranh chấp cùng khai thác”. Nay họ tạm giấu đi mấy chữ “chủ quyền về ta” để dỗ ta cho khai thác trong phạm vi thuộc chủ quyền của ta. - Gìn giữ truyền thống hữu nghị giữa hai nước: Làm gì có truyền thống hữu nghị mà giữ gìn? Ai cũng biết từ các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến thời Đặng Tiểu Bình đều đem quân xâm chiếm nước ta, giết hại nhân dân ta, Đặng còn cướp Hoàng Sa của ta, lấn thác, lấn đất biên giới, lấn Vịnh Bắc Bộ của ta. Ngay trong hai cuộc kháng chiến, Trung Quốc có giúp ta nhưng cũng có lợi ích của họ đồng thời cũng nhằm thu phục ta vào vòng tay của họ. Khi ta thắng lợi, họ lại phản bội ta. Giữa Trung Quốc và Việt Nam chỉ có xâm lược và chống xâm lược mới là truyền thống. - Hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đều có chung mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm: Từ khi Đặng Tiểu Bình phát biểu: “Mèo trắng mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì thực tế Trung Quốc đã từ bỏ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, rẽ theo con đường khác rồi, nên ba thập niên qua, họ đã tiến những bước khổng lồ. Họ vẫn nêu “xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc nhưng họ đương thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình để trở thành một thứ Đế chế hùng cường. Còn Việt Nam thì đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên mây. Họ cứ nói bừa cùng chung mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội để buộc ta với họ, không ngả về Mỹ. - Kiên trì phương châm “16 chữ, 4 tốt”, định hướng dư luận nhân dân: Từ khi nêu ra chiêu ấy, chỉ có lãnh đạo Việt Nam thực hiện, Trung Quốc có thực hiện đâu? Toàn làm ngược lại, còn yêu cầu Việt Nam tuyên truyền cho thứ “hữu nghị giả dối” ấy, ngăn chặn tuyên truyền và biểu tình chống Trung Quốc. Đoạn trình bày trên đây cho thấy giới cầm quyền Trung Quốc có tài lừa phỉnh, có tài đổi trắng thay đen, đem 60 vạn quân xâm lược nước ta, lại nói là “phản kích tự vệ”, đánh cướp đảo của Việt Nam lại nói là “thu hồi”, đưa hàng trăm tàu có cả tàu chiến, đâm hỏng tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư, đâm chìm tàu cá của ngư dân ta lại nói là “tàu Việt Nam khiêu khích”. Giới cầm quyền Trung Quốc, chuyên nói một đàng làm một nẻo, mồm nói “hữu nghị”, nhưng đương chuẩn bị căn cứ để “đánh chiếm đảo”, cụ thể là: Gần đây máy bay do thám của nước ngoài cho biết trên bãi đá Gacma không người ở trong quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đánh chiếm của chúng ta năm 1988, Trung Quốc đương đổ cát đá để xây dựng Gacma và các bãi đá xung quanh thành các đảo nhân tạo nhằm khẳng định chủ quyền của họ đồng thời sẽ xây dựng thành căn cứ chiến đấu có đường cho máy bay cất, hạ cánh. Sự kiện nguy hiểm này lẽ nào lãnh đạo và Bộ Quốc phòng Việt Nam lại không biết. Bộ máy truyền thông không đả động, lãnh đạo vẫn im lặng. Nếu giới cầm quyền nước ta không sớm tố cáo, đấu tranh, lại bưng bít thông tin, không để cho nhân dân đấu tranh... để đến khi căn cứ quân sự của Trung Quốc hoàn thành sẽ trở thành sự uy hiếp nặng nề đối với quần đảo Trường Sa của chúng ta. Không hành động, không chuẩn bị là có tội với Tổ quốc./.   N. T. V.
......

Tranh luận cần thiết và hữu ích

Hy vọng cuộc tranh luận trong Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là hữu ích Thưa các anh. Bước đầu, chúng ta đã có thể thở phào, khi được nghe cả 2 anh Phạm Chí Dũng và Ngô Nhật Đăng phát biểu trên RFA, nói chung là đúng mực và xây dựng. Nhưng bây giờ phải ngồi lại với nhau, thẳng thắn bàn những việc căn bản. Nội quy tuy đã có như trong quá trình hình thành cần kịp thời tu chỉnh. Tôi xin phép được góp mấy ý kiến, mong được cả 2 trang Web và Facebook đều chấp nhận đăng. Kính thư Hsp   Vừa qua, một số bài tranh cãi nảy lửa giữa mấy thành viên chủ chốt trong Hội nhà báo Độc lập (ngay lúc sơ sinh mới tròn 2 tháng tuổi) không khỏi làm cho nhiều người lo lắng trước nguy cơ tan vỡ, nói ví von thì “khiến cho kẻ thù khoái trí người thân đau lòng”. Phạm Chí Dũng - Ngô Nhật Đăng Nhưng cuộc giãi bày tâm tư trong một bài phỏng vấn của chính hai “đối thủ” trẻ đang “so găng” (nói vui thế cho thân mật), nhà báo kiêm chủ bút Phạm Chí Dũng và blogger Ngô Nhật Đăng, đã khiến cho những người trong cuộc tạm thời có thể thở phào, cơn giông bão tạm qua để cùng ngồi lại với nhau bàn lại những chuyện căn bản. Mong sao sự “thở phào” này không trở thành vô duyên. Cuộc tranh cãi trong một hội có tên là “hội nhà báo độc lập” thì tất nhiên xoay quanh quan niệm làm báo và viết báo. Cái đích hướng tới thì quá lớn: phải dân chủ hóa đất nước để hồi sinh một dân tộc đã quá mệt mỏi, chán chường, nhân tâm ly tán, đang lao vào sống gấp hoặc sống cam chịu, để tìm lại sức chiến đấu cho một cuộc vừa chống nội xâm vừa chống ngoại xâm, đáp ứng nhu cầu xây dựng xã hội và bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm đã đến bên thềm! Nhiệm vụ đã khó tày trời lại phải tiến hành trong điều kiện chưa được tự do và hầu như tay trắng! Thật là một bài toán đố hóc búa, trong tình hình như vậy thì giữa những người tiên phong nếu không tranh cãi kịch liệt mới là chuyện lạ. Tôi mừng vì đã có tranh cãi, mà tranh cãi quyết liệt, và hy vọng sẽ được tiến triển theo chiều hữu ích. Thật vậy, có hai luồng suy nghĩ: - nên tìm sức mạnh ở tính có tổ chức, có chỉ đạo nhất quán, có điều lệ bài bản tương đối, có một đầu mối chỉ huy (coi là phương án 1), - hay bước đầu cứ tạm lỏng lẻo, mạnh dạn khơi dậy tính năng động đa dạng rồi từ thực tế sẽ phát hiện, sàng lọc và hun đúc ra cái tối ưu (coi là phương án 2)? Phương án nào có độ an toàn và hiệu quả cao, có độ phiêu lưu (rủi ro) thấp nhất? Thực ra xã hội loài người vốn đã phải đối mặt với hai con đường này quá nhiều rồi. Phương án 1 sẽ là tuyệt vời nếu có một minh quân, một thủ lĩnh tuyệt vời muôn năm, và phương pháp là cho thủ lĩnh đó càng độc quyền càng tốt, càng nhanh đến đích. Nhưng nếu có rủi ro thì rủi ro sẽ cực lớn khó lòng cứu vãn, kiểu được ăn cả ngã về không!. Chủ nghĩa CS đã đi đúng con đường đó và kết quả là đảng CS đã “ăn cả” còn nhân dân thì đã “về không”, vì biết bao người “chân chính” đã đinh ninh là tìm được Minh… quân rồi nên quyết lao theo, không tiếc cả mạng sống! Vẻ bề ngoài thì đó là bản lĩnh, là kiên quyết nhưng thực chất đó là tư duy ngại khó nên muốn liều đi thẳng một phen cho đơn giản. Phương án thứ hai thì “cứ phải có nhiều để chọn lọc”! Tất nhiên đã nhiều thì tốt xấu cùng xuất hiện, xen kẽ nhau, nên phải thi đua, phải cạnh tranh, phải cọ xát. Các thủ lĩnh ham quyền thường không ưa sự thi đua “mất thì giờ” này, nhưng nhân dân thì được lợi. Nêu ra hai đường lối ấy chẳng qua là điển hình hóa rành mạch cho dễ hiểu thôi. Trường hợp cụ thể của Hội nhà báo độc lập chúng ta không phải điển hình như vậy đâu, có mặt thế này, có mặt thế khác, nên phải dung hòa. Để khỏi mất thì giờ, xin cho phép tôi, với tư cách một hội viên, thử nêu mấy giải pháp dung hòa như sau: 1/ Vẫn có tính tổ chức của một hội nghề nghiệp nhưng tạm thời chỉ nên lỏng lẻo. Đừng “bắt” Hội trưởng Phạm Chí Dũng phải chịu trách nhiệm quá nặng nề, cái gì cũng đổ lên đầu Chủ tịch hội thì TS Dũng không chịu nổi đâu. Nói chữ nghĩa thì đó là sự phân quyền, đồng thời phân trách nhiệm, sẽ nói rõ trong những phần sau. 2/ Là Hội nhà báo tất nhiên phải ra báo, nhưng ngoài ra còn những hoạt động khác. Cần có một tờ báo của hội (đang là Việt Nam thời báo), nhưng ông Phạm Chí Dũng không làm trưởng Ban biên tập, để có thì giờ lo công việc chung. Ban Biên tập cũng không nên quá thuần nhất. 3/ Ngoài tờ báo chính thức của Hội, các cá nhân hội viên hoặc các nhóm hội viên cùng ý tưởng có thể ra các Blog hay Facekook khác nhau (nghĩa là có thể nhiều chứ không phải chỉ một Facebook của ông Ngô Nhật Đăng hiện nay). Báo của nhóm nào thì nhóm ấy phải chịu trách nhiệm mọi mặt về tờ báo của mình. Ban Chấp hành Hội chỉ có trách nhiệm liên đới. 4/ Vì có trách nhiệm liên đới nên khi một nhóm nào định ra báo cần thảo luận trước với BCH, trên manchette phải có 2 dòng, một dòng “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” và dòng dưới là tên cụ thể của nhóm, của phân hội ra báo đó. Các báo của nhóm (hay phân hội) được quyền tự biên tập, không cần BCH hội phải duyệt. Nhưng sự tự do ấy cần theo tinh thần hợp tác, nhìn nhau mà làm, khi có vấn đề quan trọng thì cần phối hợp, và điều này không cản trở quyền tự do tư tưởng và tinh thần tự do báo chí của hội viên. 5/ Tổ chức nào, càng sơ khai càng phải coi trọng tính “nội bộ”. Những ý kiến trao đổi cá nhân hoặc trao đổi nội bộ, muốn đăng công khai phải được sự đồng ý của cá nhân đó hoặc tập thể đó. Vi phạm nét văn hóa trao đổi này sẽ phá vỡ sự đoàn kết, phá vỡ sự tin cậy để đàm thoại, và dẫn đến sự phân ly không thể khác. 6/ Vì nhu cầu ra báo nên ngoài sự phân chia thành 3 chi hội Bắc-Trung-Nam có thể thành lập các nhóm hay các phân hội theo sự tương đồng về ý tưởng, về sở trường, sở thích. Các nhóm hãy đặt một tên cho nhóm mình để dễ xưng danh, dễ gọi. Một mặt về phía hội viên cần chia nhỏ để dễ gặp nhau, dễ sinh hoạt, nhưng một mặt không để tình trạng BCH hội bị đơn độc như thời gian vừa qua. Ở Hà nội và nhất là Sài gòn cần bổ sung thêm người vào BCH, đại diện được nhiều thế mạnh khác nhau, để cùng hỗ trợ nhau. Thực tế vừa qua Chủ tịch Hội phải gánh quá nhiều việc trong khi lại đơn độc, thiếu sự hỗ trợ của một tập thể các ủy viên. Mấy ý chắc còn vội vàng, xin mạnh dạn góp vào công việc của Hội, và xin chúc thành công. Đà Lạt 7/9/2014H.S.P
......

Buổi tọa đàm về UPR tại Sài Gòn

Buổi Tọa Đàm về UPR (Kiểm điểm định kỳ toàn cầu) diễn ra tại số 38 Kỳ Đồng   (05.8.2014) – Sài Gòn – Để ‘phổ biến kết quả Kiểm điểm định kỳ toàn cầu 2014 (Universal Periodic Review – UPR) của Việt Nam’, và để áp dụng cơ chế nhân quyền này nhằm ‘chuyển tiếng nói [đối lập] ra diễn đàn quốc tế’, liên minh 3 tổ chức xã hội dân sự bao gồm Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Phong trào Con đường Việt Nam, Văn phòng Công Lý-Hòa Bình đã tổ chức buổi tọa đàm chuyên đề: “UPR Việt Nam: Tiến trình – Tiềm năng và Thực tiễn”. Buổi tọa đàm diễn ra hôm nay, thứ Sáu, 5/9 tại số 38 Kỳ Đồng quận 3 Sài Gòn (DCCT), với sự tham gia của các đại diện đại sứ quán Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ, các tổ chức Xã hội Dân sự (XHDS) và các chức sắc tôn giáo. Sự kiện diễn ra chỉ hơn hai tháng sau khi Việt Nam hoàn thành kỳ Kiểm điểm định kỳ Phổ quát (UPR) nhân quyền lần 2 tại Geneva hôm 20/6/2014. Diễn giả của buổi tọa đàm bao gồm những nhân vật đã tham dự các kỳ UPR Việt Nam như tiến sĩ Nguyễn Quang A, thân phụ ông Trần Huỳnh Duy Thức, ông Phạm Lê Vương Các và ông Bùi Tuấn Lâm. Kiểm điểm Định kỳ Toàn cầu (The Universal Periodic Review – UPR) là một tiến trình độc nhất trong đó các thành tích nhân quyền của tất cả 193 thành viên Liên Hợp Quốc sẽ được kiểm điểm định kỳ. Cơ hội chuyển tiếng nói nhân quyền ra quốc tế Trong kỳ UPR 2014 vừa qua, Việt Nam chấp nhận 182 trong tổng số 227 kiến nghị của 106 nước. Tuy nhiên ông Phạm Lê Vương Các, một blogger cho biết, “trong thời gian vừa qua, chúng tôi ghi nhận nỗ lực rất ít của nhà nước trong việc phổ biến kết quả [UPR] này” vì thế qua buổi tọa đàm “chúng tôi hy vọng rằng công chúng sẽ biết đến UPR nhiều hơn”. Ông Các nhấn mạnh: “theo tôi đánh giá, cái cơ chế để mình có thể chuyển tiếng nói nhân quyền từ trong nước ra đối với quốc tế, không gì khác hơn ngoài việc tham gia vào tiến trình UPR này.” Ông Các giải thích thêm: “ở trong nước, giữa nhà nước và các tổ chức XHDS có một khoảng cách chênh lệch rất lớn, tuy nhiên khi tham gia diễn đàn quốc tế [UPR] thì chúng ta [các XHDS] bình đẳng với nhà nước”, đây cũng “là cơ hội để các nhóm XHDS phát biểu trước Hội đồng nhân quyền LHQ.” Tiến sĩ Nguyễn Quang A thuộc tổ chức Diễn Đàn XHDS cũng đồng thuận với ý kiến trên và cho rằng: “sự hiện diện của các tổ chức XHDS” tại các diễn đàn quốc tế là điều quan trọng. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một trong 4 người thuyết trình tại buổi tọa đàm Ông nói: “ở trong nước, các tổ chức XHDS chưa được đăng ký bị chính quyền coi là tổ chức thù địch và phản động. Sự hiện diện của họ tại LHQ, EU, các bộ ngoại giao … chứng tỏ họ là một đối tác được quốc tế công nhận, tôn trọng” vì “quy định của quốc tế là một tổ chức có được đăng ký hay không là không quan trọng, miễn là nó hoạt động như thế nào… và trách nhiệm của nhà nước là phải để họ được đăng ký”   “Các tổ chức XHDS hiện nay chưa có cơ hội đối thoại với chính quyền nên phải thông qua sự hiện diện như thế để đối thoại một cách gián tiếp,” ông nói tiếp: “chúng tôi kỳ vọng sẽ dần dần, [các XHDS] có thể đối thoại trực tiếp” vì các tổ chức ”XHDS rất cần cho chính hoạt động của chính quyền và xã hội.” ‘Một thông điệp gửi tới chính phủ’ Buổi tọa đàm về UPR cũng có sự tham gia của các đại diện đại sứ quán nước ngoài. Ông Andrej Motyl, Đại sứ Thụy sĩ, chia sẻ, ông đến để ‘học hỏi và tìm hiểu’ những gì đang xảy ra. Ông còn cho biết, sự hiện diện của ông như là ‘một thông điệp’ gửi tới chính phủ Việt Nam về sự ủng hộ của Ông đại sứ đối với hoạt động của các tổ chức XHDS. Quá trình UPR còn cần đến các XHDS chứ không chỉ của nhà cầm quyền Việt Nam. Tuy không đưa ra phát ngôn chính thức nào, nhưng Charles Sellers thuộc Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ cũng cho biết, ông đến “để học hỏi và quan sát.” Ông khẳng định, Hoa Kỳ muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam và mong muốn Việt Nam thi hành đầy đủ các hiệp ước về quyền con người, trả tự do vô điều kiện các tù nhân chính trị. Bên cạnh việc thừa nhận tầm quan trọng của cộng đồng quốc tế, tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng lưu ý không nên kỳ vọng quá nhiều. Ông nhận định thêm, tuy Việt Nam Việt Nam chấp nhận 182 trong tổng số 227 kiến nghị của các nước trong kỳ UPR vừa qua, nhưng các kiến nghị bị bác bỏ đều là ‘những khuyến nghị hết sức cốt lõi về nhân quyền’ về ‘đa nguyên, quá trình dân chủ, tự do biểu đạt.’ Các tổ chức XHDS cần tìm ra những điểm tích cực mà Việt Nam đã chấp nhận để đối thoại, ông kết luận. Đức Thiện, VRNs Nguồn: VRNs
......

VÌ SAO MẶT TRẬN TỔ QUỐC KHÔNG THẾ CÓ TIẾNG NÓI ĐỘC LẬP ?

Bù nhìn rơm còn tác dụng đuổi chim, giữ cho ruộng lúa chín. Còn MTTQ VN, quả là hình nộm để Đảng khoác lên đó chiếc áo dân chủ ma mị. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam – một văn bản như Luật Đảng: “Đảng viên có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng”. (Điều 2) Cũng theo Luật Đảng, nhân sự trong bộ máy nhà nước, tất cả đều phải là đảng viên. Những nhân sự chủ chốt như bí thư các tỉnh, thành phố, bộ, ngành đều phải được Bộ Chính trị - cơ quan cao nhất của Đảng chuẩn y. Các tổ chức tiếng là “xã hội nhân sự”, như Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) cũng không ngoại lệ, tất cả đều phải là đảng viên. Mà đảng viên thì có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. Một tiếng nói trái tai Đảng là không thể. Độc lập trong vòng kim cô của Đảng Vừa qua đã diễn ra Hội nghị Đoàn chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ VN lần thứ 15 khóa VII, thảo luận các báo cáo và công tác nhân sự Đại hội Mặt trận lần thứ 8. Nhiều ý kiến cho rằng, vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận vừa qua còn mờ nhạt. Nguyên Phó chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ VN Lê Truyền góp ý: Cần làm rõ tính độc lập của Mặt trận trong điều kiện Đảng vừa lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. “Tính độc lập không phải là Mặt trận thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, mà độc lập để nói được tiếng nói của các tầng lớp nhân dân", ông Truyền nói. Quan điểm của ông Lê Truyền cho thấy sự mâu thuẫn: đã gọi là “độc lập” sao lại phải lệ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng? Tiếng nói của các tầng lớp nhân dân hiện nay, có thể như lời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, là không còn tin Đảng. Như vậy, đây có thể coi là “thoát ly sự lãnh đạo của Đảng”? Bù nhìn rơm còn giữ được ruộng lúa Hiến pháp 2013, tại Điều 9 quy định “MTTQ VN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. “MTTQ VN là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, quyền được trao cho MTTQ VN là “tham gia xây dựng Đảng”, mà lại tự ti cho rằng mặt trận không được thoát ly sự lãnh đạo của Đảng – như lời của ông Lê Truyền, thì quả thật khó lòng kỳ vọng vào điều gì ở MTTQ VN. Bù nhìn rơm còn tác dụng đuổi chim, giữ cho ruộng lúa chín. Còn MTTQ VN, quả là hình nộm để Đảng khoác lên đó chiếc áo dân chủ ma mị. Nước đẩy thuyền thì cũng lật thuyền Ông Lê Truyền cũng không sai. Ở văn bản có tên “Quy định 172-QĐ/TW quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của đảng đoàn, ban cán sự đảng Trung ương do Bộ Chính trị ban hành”, do ông Lê Hồng Anh ký ngày 7-3-2013, tiếp tục trao cho đảng viên “quyền bắt buộc” là lãnh đạo, chỉ đạo những định hướng chính trong các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng mà cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể có trách nhiệm trong soạn thảo; những nội dung quan trọng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. (Trích Điều 2.2) Đã nói đến “tiếng nói độc lập” thì không thể chấp nhận một cơ chế giám sát hay hạn chế nào riêng biệt, vì những hành vi quá đà tự thân nó không còn là “tiếng nói độc lập” và đã được các bộ luật hành chánh, dân sự và hình sự điều chỉnh.   Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, kể rằng năm 2011, khi ông cùng cộng sự thành lập hãng truyền thông tại Hoa Kỳ. Sau khi hoàn thành mọi thủ tục và đã ra mắt, ông đề nghị những cộng sự viên của mình là công dân Hòa Kỳ đến cơ quan quản lý báo chí tiểu bang và liên bang để đăng ký và xin phép cấp mã số báo chí để làm thẻ cho các nhà báo. Các cơ quan chức năng xứ Mỹ bảo rằng quý vị hãy về tự cấp thẻ lấy và tự chịu trách nhiệm về uy tín của tấm thẻ của mình. Ngay các hãng lớn như CNN hay AP cũng làm thế đó. Nói thật, mất lòng. Trung ngôn thì nghịch nhỉ. Dẫu vậy, mất lòng và nghịch nhỉ cùng lắm chỉ tạo sự khó chịu. Ở đây, nếu “tiếng nói độc lập” không theo ý “lãnh đạo của Đảng” thì chuyện tù tội như từng xảy ra với các anh, chị Nguyễn Văn Hải (tức Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Lê Công Định, Trương Duy Nhất…, có lẽ sẽ còn xảy đến dài dài khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang công nhiên vi hiến. “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Trích Điều 4.3, Hiến pháp 2013).   Minh Tâm Nguồn: Trí Nhân Media
......

Ngày độc lập nào?

Từ lâu tôi luôn tự hỏi phải chăng ngày 2 tháng 9 năm 1945 thật sự là ngày độc lập của nước Việt Nam mới sau gần một thế kỷ làm thuộc địa của Pháp? Trước khi trả lời câu hỏi nghiêm túc này, cần lần giở lại các trang sử hiện đại của nước nhà, để ghi nhận một số sự kiện quan trọng sau đây: Cảnh ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng, Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngay sau đó, vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là thời điểm đáng lưu ý. Ngày 7/4/1945, vua Bảo Đại chuẩn y thành phần nội các mới, trong đó học giả Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập. Tháng 6/1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Đến khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Thủ tướng Trần Trọng Kim vào ngày 16/8/1945 khẳng định bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sau đó, vào ngày 18/8/1945, vua Bảo Đại tái xác nhận nền độc lập của Việt Nam đã công bố vào ngày 11/3/1945. Cần lưu ý, tuy là một chính quyền thực tế và chính danh từ tháng 3/1945, nhưng Đế quốc Việt Nam không đủ lực lượng quân sự để kiểm soát tình hình. Đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị. Nhiều tổ chức và đảng phái hình thành trước đó đã tranh thủ thế đứng chính trị riêng trước vận hội mới của Việt Nam, trong đó Việt Minh dường như là lực lượng được tổ chức hoàn bị nhất, khả dĩ tranh giành quyền lực vượt trội. Từ ngày 19/8/1945 tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh tiến hành đảo chính cướp chính quyền, buộc nhà nước Đế quốc Việt Nam chuyển giao quyền lực, một sự kiện mà sau đó được gọi là “Cách mạng tháng Tám”. Trước tình thế đó, vua Bảo Đại quyết định thoái vị và giải tán chính phủ Trần Trọng Kim. Dù tồn tại không bao lâu và phải dung hòa ảnh hưởng của các thế lực quốc tế cùng chủ thuyết Đại Đông Á của Nhật, nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế chính trị độc lập và mang đến niềm hy vọng về nền tự chủ đầu tiên cho Việt Nam sau ngần ấy năm lệ thuộc Pháp. Ngày 2/9/1945, chớp thời cơ về một khoảng trống quyền lực và sự yếu kém của các đảng phái chính trị khác tại Việt Nam khi ấy, đại diện Việt Minh là ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trong một buổi lễ long trọng tại Hà Nội, và sau đó tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sơ lược lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động như trên để thấy rằng nhiều điều bấy lâu nay bộ máy tuyên truyền và giới sử nô mặc định là đương nhiên đúng rất cần xem xét lại một cách công tâm, chẳng hạn nội các Trần Trọng Kim có thật là “bù nhìn” không, và ngày 2/9/1945 phải chăng là ngày độc lập trên phương diện thực tế và pháp lý? Như đã nói trên, sau khi bị quân đội Nhật đảo chính tại Đông Dương, nước Pháp trên thực tế đã đánh mất quyền kiểm soát về chính trị và quân sự ở các nước này, dù họ chưa bao giờ muốn từ bỏ thuộc địa béo bở như thế. Với tư cách là một đại diện chính danh và hợp pháp của một chính quyền đã và đang cai trị đất nước liên tục từ năm 1802, vua Bảo Đại ngay lập tức tuyên cáo Việt Nam độc lập. Ông đã thủ giữ vai trò đại diện đương nhiên của quốc dân và quốc gia trong sự chuyển tiếp từ thể chế chính trị cũ sang thể chế mới, mà không một nhân vật chính trị nào đương thời hội đủ tư cách thay thế được. Do đó, xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11/3/1945. Vậy không lý gì đến ngày 2/9/1945 người ta lại cần tuyên bố độc lập một lần nữa, mà người tuyên bố đơn thuần chỉ là thủ lĩnh của một phong trào chính trị, dù là mạnh nhất trong số nhiều tổ chức và đảng phái khác nhau cùng tồn tại khi ấy, và người đó cũng chưa bao giờ được quốc dân lựa chọn hoặc công nhận, dù mặc nhiên hay bằng một thủ tục hợp pháp, là đại diện chính danh của quốc gia tính đến thời điểm ấy. Cần lưu ý, trước thời điểm 2/9/1945 danh tính Hồ Chí Minh chưa từng được biết đến rộng rãi như một nhân vật chính trị có uy tín, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ nổi danh như một trong các nhà cách mạng đương thời tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam mà thôi. Hai tên ấy của một con người vốn luôn thích bí ẩn, dù về sau rất nổi tiếng, vẫn chưa đủ mang đến cho ông tư cách chính danh và hợp pháp vào lúc đó để có thể đứng ra đại diện tuyên bố độc lập cho quốc gia. Tất nhiên, chân lý thuộc về kẻ mạnh, nên khi thắng cuộc người ta có thể diễn giải mọi sự kiện lịch sử theo ý riêng của mình, rằng ngày 2/9/1945, chứ không phải ngày 11/3/1945, trở thành ngày độc lập của nước Việt Nam mới. Tuy nhiên, với cách đọc sử không lệ thuộc vào ý thức hệ, từ lâu tôi đã bác bỏ lối tường thuật và nhận định lịch sử theo hướng bóp méo vì mục đích chính trị như vậy. Cho nên, nếu gọi đó là ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn có thể đồng ý, nhưng nếu áp đặt đấy là ngày độc lập thì dứt khoát không đúng, bởi với tôi chỉ có thể là ngày 11/3/1945 khi vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam độc lập mà thôi.   nguồn: facebook.LSLeCongDinh
......

ĐẶC SẢN CÔNG LÝ CỦA CHXHCNVN

1. Theo tin DCCT (nguồn: http://www.chuacuuthe.com/2014/08/cong-an-danh-chet-nguoi-dan-bi-18-than...): Ông Y Két Bdap trú buôn Kmar, xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuini đã bị hai công an viên trên đánh chết ngày 28.11.2013 vì bị tình nghi ăn trộm bò. Trong đồn, ông Y Két bị trói vào cửa sổ và công an dùng gậy cao su tra tấn, buộc ông nhận tội, cho đến chết. 2 công an dùng nhục hình chỉ bị xử 18 tháng tù. 2. Vụ án Đồng Tháp mà dân cư mạng mỉa mai là "2 xe đi hàng 3" xử bà Bùi Thị Minh Hằng 3 năm tù về tội gây rối giao thông. Vụ án vô lý đến nỗi Đại sứ quán Đức tại Hà Nội vốn rất hiền lành và nhân bản đã phải ra một thông báo phản đối. Xin trích lời ông đặc sứ Christoph Strässer:   "Tôi lo ngại về hình phạt tù giam nhiều năm đối với ba nhà hoạt động nhân quyền vì tội "gây rối trật tự công cộng". Như vậy ba nhà hoạt động này bị giam trong tù nhiều năm chỉ vì cản trở giao thông trong một thời gian ngắn. Điều đó hoàn toàn không tương xứng và kỳ lạ. Rất tiếc là nó cho thấy rằng, tình hình nhân quyền ở Việt Nam vẫn rất khó khăn: Những người khác chính kiến vẫn tiếp tục bị trấn áp, đe dọa hoặc bắt giam. Tôi yêu cầu các cơ quan chức trách Việt Nam đình chỉ án phạt tù và thả ngay ba người này. Việt Nam là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc và đã ký kết nhiều công ước Liên hiệp quốc về nhân quyền. Việt Nam phải coi đó là thước đo." Nguồn: http://www.hanoi.diplo.de/Vertretung/hanoi/vi/05-Aussenpolitik_20u_20D-V...
......

SỨC MẠNH CỦA MỘT NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ

Nhớ lại. Ngày 27/01/1973, hiệp định Paris được ký kết, mở đầu cho Cộng sản miền Bắc, hai năm sau đó, không tốn nhiều súng đạn, đã thôn tính miền Nam Việt Nam. Uất ức, đau đớn cùng cực, người dân miền Nam kết tội người Mỹ là kẻ phản bội đồng minh Việt Nam Cộng hoà, bán đứng miền Nam tự do cho độc tài Cộng sản miền Bắc. Nhưng bình tĩnh và khách quan, chúng ta sẽ không thể đứng trên quyền lợi của mình để kết tội người khác như vậy.   Người Mỹ biết rất rõ, không thể kéo dài cuộc chiến tại Việt Nam, một cuộc chiến không có ánh sáng ở cuối đường hầm. Họ phải rời Việt Nam trong danh dự. Họ không thể để cho con em họ chết trên rừng rậm tại một đất nước xa xôi. Họ phải hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam trong mỗi người Mỹ, mỗi gia đình Mỹ. Người Mỹ phải dành thì giờ để ổn định lại nền kinh tế của đất nước họ sau 20 năm lâm chiến tại Việt Nam. Họ ra đi, trong tư thế của kẻ thua trận sau khi có gần 60 ngàn đồng đội của họ đã vĩnh viễn nằm xuống. Vậy người Mỹ bỏ miền Nam là để cứu đất nước họ, và có thể để nghỉ ngơi trước khi chuẩn bị cho những dự định tốt đẹp khác. Hiểu một cách độ lượng và công bằng như thế, chúng ta sẽ thấy người Mỹ không phải là kẻ phản bội đồng minh miền Nam Việt Nam. Khi quân đội Mỹ ra đi khỏi Việt Nam, 7 căn cứ không quân của Mỹ ở Thái Lan đóng cửa (1961-1976). Dân Phillippines đứng lên đòi Mỹ trả lại căn cứ Không quân Clark và căn cứ Hải quân tại vịnh Subic. Đây là hai căn cứ hải quân và không quân lớn nhất của Mỹ ở ngoài nước Mỹ. Chúng được xây dựng từ năm 1903 và đóng cửa gần 100 năm sau, năm 1991. Do áp lực của dân chúng, Nhật Bản cũng đã lập kế hoạch để yêu cầu quân đội Mỹ rời khỏi đảo Okinawa. Thế rồi, mộng Trung Hoa hoá thế giới của Cộng sản Trung Quốc trỗi dậy như Tổng thống Eisenhower của Mỹ đã cảnh báo cách đây 70 năm trong lý thuyết “domino” của ông. Trung Quốc đưa ra đường lưỡi bò 9 đoạn chiếm gần trọn biển Đông. Họ lập ra Vùng Nhận dạng Phòng không. Đưa Giàn khoan HD981 vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Một phần lãnh thổ của Phillippines bị đe doạ. Tranh chấp quyết liệt về quần đảo Điếu Ngư hay Senkaku đã xảy ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Biển Đông dậy sóng. Trước sự hung hãn ấy của một nước Cộng sản độc tài hùng mạnh Trung Quốc, những nước nhỏ khó bề ngăn cản được con hổ Trung Quốc. Nhật Bản cấp tốc hoãn lại, nếu không nói là bỏ hẵn kế hoạch đòi Mỹ trả lại căn cứ quân sự trên đảo Okinawa. Tháng 6 năm 2012 Phillippines đã mời Mỹ trở lại vịnh Subic và căn cứ Clark như xưa. Sau khi bị người anh em “4 tốt” Trung Quốc ức hiếp và sỉ nhục, đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã phải buộc lòng tìm đến cầu cứu kẻ cựu thù Mỹ. Vốn rất thực dụng và thực tế, như người Mỹ đã tiên đoán trên 40 năm về trước rằng họ sẽ trở lại Việt Nam và vùng đất ở châu Á, và sẽ trở lại trong tư thế để chiến thắng, như họ thua lần đầu khi đổ bộ lên bờ biển Normandy ở Pháp và họ đã trở lại Normandy và đã chiến thắng, giải phóng toàn châu Âu thoát khỏi hoạ phát xít Đức. Gần 10 ngàn người lính Mỹ đủ các loại cấp bậc đã nằm xuống chỉ cho một mục tiêu duy nhất: bảo vệ lý tưởng tự do. Vậy, lần này người Mỹ trở lại Việt Nam và biển Đông không phải vì Việt Nam hay Phillippines hay vì Nhật Bản mà, để họ phục vụ đất nước Mỹ, phục vụ mục tiêu hoà bình, dân chủ, thịnh vượng cho người Mỹ và các nước đồng minh trên vùng biển Đông. Người Mỹ và mọi người trên thế giới đã thấy thủ đô kinh tế tài chính thế giới ngày nay không còn ở London, New York hay Tokyo mà đang tiến dần về khu vực Đông Nam Á. Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) lúc đăng ký đầy đủ sẽ có 12 quốc gia thành viên trong đó có 4 quốc gia sáng lập là Bruney, Chile, New Zealand, Singapore và 8 nước đang đàm phán gồm Mỹ, Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản. TPP lúc ấy sẽ trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế toàn cầu. Tiềm năng của TPP rất lớn: GDP trên đầu người: 34.750 tỷ đô la Mỹ chiếm 37,5% GDP của thế giới, có dân số là 798,5 triệu người chiếm 11,2% dân số thế giới, và kim ngạch thương mại bằng 25% kim ngạch của thế giới. Với một khu vực có một nền kinh tế tiềm năng như vậy chắc chắn, bằng mọi giá, con người trong các quốc gia TPP phải đồng lòng, nhất trí trong việc tránh chiến tranh, giữ gìn an ninh, ổn định, hoà bình, để tập trung vào phát triển. Để đạt được những mục tiêu ấy điều căn bản là phải có sự đồng thuận của mọi người, nghĩa là các xã hội phải dựa trên nền tảng dân chủ. Dân chủ là đầu mối của tự do, công bằng, chính trực. Chính những giá trị này sẽ làm cho con người tin tưởng nhau để tập trung xây dựng cuộc sống cho cao đẹp hơn, nhân hậu hơn, hạnh phúc hơn. Nước Mỹ đã tốn không biết bao nhiêu xương máu để có được một nền dân chủ và một nền kinh tế hàng đầu thế giới như ngày nay. Người Mỹ tự hào đã xây dựng được một nền khoa học, kỹ thuật phục vụ cuộc sống có chất lượng của con người. Họ muốn các nước trong vùng xuyên Thái Bình Dương cũng có những nền kinh tế mạnh và cuộc sống bình an, hạnh phúc. Họ muốn Việt Nam có một chính quyền dân chủ, minh bạch và một đất nước có nhiều tổ chức xã hội dân sự. Chính những tổ chức này sẽ tạo nên một đất nước công bằng, quý trọng sự khác biệt của nhau, giúp chính phủ nghe được tiếng nói của lương tâm, thấy được trong lòng người dân mình muốn gì. Giống như xã hội Mỹ, nhờ có dân chủ, có nhiều tổ chức xã hội dân sự mà đất nước họ tự do được phát triển hơn, giàu mạnh hơn. Đối với Việt Nam, dân chủ, tự do còn là sức mạnh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Độc tài, toàn trị, quan liêu, tham nhũng, bất công, xem quyền lợi cá nhân, đảng phái lên trên lợi ích của quốc gia là cái hoạ lớn cho toàn dân tộc Việt Nam. Người Mỹ thích giúp các nước đối tác mạnh. Một nước đối tác mạnh là một nước hợp lòng dân, được người dân hỗ trợ. Với nhiệm sở ở nước ngoài như Toà Đại sứ, Tổng lãnh sự, người Mỹ có hàng trăm cách để biết một chính phủ có hợp lòng dân hay không, những ai tham nhũng, những ai độc tài, những ai thân Trung Quốc, những ai bài Mỹ, những ai theo Nga, những ai thân Pháp. Đối với các nước tự do, đây là chuyện bình thường, họ không quan tâm đến các vấn đề nội bộ của người khác. Nhưng trong quan hệ quốc tế, muốn có lòng tin và sự ủng hộ của nhau, Việt Nam không nên nói điều không thực, tránh thói quen tuyên truyền. Phải làm cho được những điều mình đã hứa. Việt Nam sẽ là một thành viên của TPP. Nếu hợp lòng dân, giữa chính phủ và nhân dân là một. Đó là một sức mạnh vũ bão. Ngoài ra, Việt Nam còn có thêm sự hỗ trợ chân tình của các nước thành viên trong Hiệp định TPP và các nước bằng hữu dân chủ khắp mọi nơi trên thế giới. Sức mạnh của Việt Nam lúc đó là một sức mạnh tổng hợp. Không có một nước nào dám đe doạ Việt Nam. Nguyễn Phương Linh 21/08/2014   Nguồn: diendantheky.net
......

VIỆT NAM : QUỐC GIA CHUỘT NHẮT ?

Việt Nam, ôi quê hương yêu dấu rừng vàng biển bạc của chúng ta, nhưng mà có phải nó đang tụt xuống hàng “hố rác” của nhân loại?   Từ Bắc chí Nam, từ Quảng Ninh đến Cần Thơ các cô gái trẻ nườm nượm đi thi để lọt qua vòng tuyển lấy chồng Hàn Quốc. Với một lý do mở màn rất đơn giản, ít nhất người ta được xuất ngoại lần đầu, được đáp máy bay lên bầu trời. Trái lại, nếu không dám dứt bỏ một lần làm sao thoát cảnh lội bì bõm bên bờ ruộng để leo lên phi cơ phản lực vượt ra quốc tế? Những cô gái Việt này ao ước đàn ông Hàn Quốc chẳng khác gì “tây mũi tẹt”, giống cha ông châu Á đã từng khao khát phương Tây như thần thánh cái gì cũng có. Trời ơi, quả là một trời một vực, cùng da vàng mũi tẹt như nhau, chỉ sau vài thập kỷ, một đằng thì thành tây, đi đâu cũng leo lên xe hơi và máy bay; một đằng thì bán cả đời mình chỉ để nếm một lần leo phi cơ. Tại sao? Có phải tại trí khôn của người Việt mà rất nhiều người chúng ta lúc nào cũng thường trực tự hào? Có nhiều người Việt phản ứng rất mạnh mẽ khi thấy ai nói về cái xấu của người Việt, như thể nói thế là chạm đến quốc hồn – quốc túy, nói xấu tổ tiên, ông cha… và họ phản đối như thể đó là thước đo chứng minh lòng yêu nước của mình rằng: tôi yêu tổ quốc, tổ tiên, dân tộc, giống nòi, và tôi phản đối lại là để bảo vệ tổ quốc. Họ có bảo vệ tổ quốc không? Thực ra, họ chỉ bảo vệ cái xấu trong chính con người họ. Hoàng đế Napoleon có nói “Bao dung với cái xấu là sự đồng tình với nó”. Đúng vậy một kẻ ăn cắp thường có cái nhìn vô tội với một thằng ăn cắp khác. Kẻ nói dối cũng vậy. Kẻ độc ác, đố kỵ, ích kỷ cũng thế, nó không giành cho những ai giống nó một cái nhìn phán xử khác lạ… Kết quả bao dung cũng là bao che cho cái ác tràn lan vô bờ đến vậy dẫn đến dân tộc Việt ngày nay theo các bảng sắp hạng đều không ngoi ra khỏi vị trí đội sổ, thua xa cả những nước trong khu vực từ 50 đến 100 năm. Nói đâu xa, nước Lào là nước nhỏ bé nghèo nàn bậc nhất thế giới, nhưng từ xưa đến nay luôn trở thành giấc mơ của người Việt. Thời bao cấp, mấy anh sinh viên Lào chỉ có vài cái nhẫn vàng đeo ngón tay đã trở thành niềm ao ước của nhiều cô gái Việt. Còn giờ đây, xe hơi loại bán tải của Lào nhiều như xe đạp từ quê lên phố vẫn là mơ ước của giới trung lưu Việt Nam. Còn giới cán bộ trung lưu Việt hí hửng về thu nhập cỡ dăm chục triệu đồng mỗi tháng thì vẫn còn thua loại rửa bát, làm thuê ở Singapore, một nước nằm trong khu vực. Sự bao dung – bao che – cũng là đồng hóa đó đã gây ra vô số cái xấu cái ác ở Việt Nam: nào ăn cắp nắp cống, tháo đinh đường tầu, tháo đinh rầm cầu, cắt đường dây điện thoại, rải đinh “đa cạnh” ra đường, rồi xi măng cốt tre…đã gây ra nhiêu tai nạn khủng khiếp. Mới nhất là nạn pha trộn tạp chất vào xăng dầu đã gây ra hàng loạt vụ cháy xe gây thiệt hại tài sản và chết chóc tang thương. Đó là một thảm họa! Nhưng còn thảm họa hơn ngay khi đã tìm ra mầm mống của những vụ pha trộn, người ta vẫn triển khai sự bao dung, nghĩa là vẫn bao che cho những thứ nguy hiểm chết người rình rập ngay trong chiếc xe của người dân. Tại sao? Vì các công ty xăng dầu đều thuộc các ông lớn, chẳng lẽ ông lại muốn phơi áo sân sau của mình! Trong một buổi gặp mặt các phóng viên. Một vị quan chức nêu ra ý kiến chỉ đạo: để kích thích du lịch Việt Nam báo chí cần khai thác đưa tin về những lời nói tốt đẹp của khách thăm quan nước ngoài, như vậy mới lôi kéo được du lịch. - Vậy những lời nói về cái xấu của người Việt thì sao? – một nhà báo hỏi lại. Vị quan chức cười xòa “cái này thì…” – có nghĩa là không được đăng. Tóm lại, người Việt chỉ quen với những “sự thật” được biên tập, nói thẳng ra chỉ thích lời khen mà không muốn bị chê. Như vậy là người Việt chưa trưởng thành, chỉ là những đứa trẻ thích nghe lời khen mà không muốn bị chê. Mới đây có nhiều bài báo như của học giả Vương Trí Nhàn tập hợp những bài viết của các học giả lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Đặng Thái Mai … hoặc của nhà báo Hoàng Tùng… đã nêu ra từ xưa, nhiều chuyên gia phương Tây đã nhận xét người Việt rất nặng như: “nói dối”, “ăn cắp”, và “sát nhân”.   Đặc biệt có chuyên gia nói: “Việt Nam là quốc gia của những con chuột”.   Trong một phóng sự truyền hình, người ta phản ánh nạn người Việt qua các nước Tây Âu, có rất nhiều người tham gia trồng cây cần sa. Họ bị giam trong nhà kín, không được ra ngoài, suốt ngay lo chăm bón các cây cần sa dưới ánh đèn điện. Việc họ bị giam cầm trong nhà không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời liệu có phải là những con chuột? Gần hơn, một loạt các vụ giam cầm công nhân người Việt tại Nga, ăn ở và làm việc trong nhà hầm như súc vật, đến khi cháy không có đường thoát hiểm đành ôm nhau chết. Liệu có phải họ bị đối xử như những con chuột và chết như những con chuột? Và ai đã đối xử với họ như chuột? Bọn thực dân ư? Không, đó chính là những người Việt mới đó vẫn còn chân lấm tay bùn nhưng đã sớm bước vào con đường lưu manh hóa tiểu nông, rồi thành tư bản đỏ học đòi. Ai mà nói về cái xấu của người Việt thì đám này uất ức đầu tiên. Tại sao? Vì đó là những cái xấu mà chính họ mới là đại biểu cao cấp nhất.   Một quốc gia muốn trưởng thành và tiến bộ thì nó phải kiện toàn pháp luật bởi vì không có pháp luật không thể thành quốc gia mà đó chỉ là sắc tộc gia đình trị bán khai. Điều kiện đầu tiên để có pháp luật là không ai cho dù là vua chúa, chủ tịch hay thủ tướng được ở trên pháp luật. Vua phạm tội xử như thứ dân. Nhưng cái điều hiển nhiên đó cho đến nay đã đầu thiên niên kỷ thứ ba người Việt vẫn không được sống trong Nhà nước pháp quyền. Cái gọi là nhà nước của chúng ta là thứ hầm bà làng, đồng nát như lãnh đạo vẫn thường cất tiếng nói cửa miệng “đảng, nhà nước, và nhân dân”. Trong câu nói này dù bao sân nhưng vẫn thiếu một cơ quan trực tiếp của pháp luật đó là “chính phủ”, và như thế chẳng có ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi đó ở các nước người ta luôn phải tuyên bố: chính phủ đã làm việc này việc kia. Việt Nam làm sao có pháp luật khi điều bốn của hiến pháp, Đảng tuyên bố “lãnh đạo tất cả”, cả quốc hội là cơ quan lập hiến, cả chính phủ là cơ quan hành pháp. Người ta nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao”, nhưng mở màn kỳ họp quốc hội, người ta lại đem nghị quyết của trung ương đảng vào đọc như một định hướng bất khả biện, thì làm sao quốc hội còn là cơ quan tối cao được. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng lại chịu sự lãnh đạo cao nhất hơn của đảng, thử hỏi ai thứ nhất? ai thứ nhì? Có một việc giản dị như vậy sao người ta vẫn ấp úng che đậy, không thể minh bạch? Vì thế ở Việt Nam, từ lập pháp đến hành pháp đều chỉ là lối tập trận giả, nhưng có một sự thực bên trong đó: là mong muốn và định vị tuyệt đối của quyền lực. Quyền lực tuyệt đối để làm gì? Để có được quyền lợi tuyệt đối! Quốc hội Việt cộng ở trình độ nào? Quốc hội đúng nghĩa là bàn của chủ tịch đoàn ngồi thấp hơn ghế của các nghị viên, được đặt ở giữa, để các nghị viên thoải mái tranh biện. Trái lại quốc hội Việt cộng thì nghị viên ngồi dưới như xem kịch, còn chủ tịch đoàn ngồi phía trên như ban giám khảo. Chủ tịch bước ra bệ nói như Mc, còn ở dưới giơ tay tán thưởng. Đúng là hình thức văn công chẳng giống ai. Đó là bằng chứng sờ sờ chứng tỏ cái gọi là quốc gia của chúng ta còn ấu nhi đến mức nào? Hội trường quốc hội đúng nghĩa của Việt nam vẫn đang xây để chờ cơ hội sánh bước với loài người. Than ôi vào thiên niên kỷ thứ ba rồi mà người Việt vẫn chưa nhấc chân bước đầu tiên vì HIẾN PHÁP ĐÍCH THỰC. Thử hỏi người Việt là người hay là chuột? Theo các chuyên gia, chuột là thứ sống theo bầy và thuộc loại thông minh bậc nhất, chúng không bao giờ để bị dính bẫy đến lần thứ hai. Một con bị sập bẫy, cho dù bẫy sắt, bẫy tre hay bẫy dính, thì chúng liền tụ lại họp hành rút kinh nghiệm rồi thông báo cho cả bầy trên toàn lãnh thổ cống ngầm cách thức nhận biết và tránh bẫy. Nhưng dù bầy chuột có khôn đến mấy, chúng cũng không phải là thứ kiêu hãnh của ánh sáng. Sự khôn ngoan của chúng chỉ là chui rúc để tồn tại, mà không phải là vươn thẳng để sống minh bạch và tiến bộ. Đó là quan lại cũng như dân chúng. Giờ đến văn hóa. Thơ là thứ phổ biến cũng như dễ nhất của Việt Nam hiện nay. Thôi thì tiểu nông, tiểu thương, các cụ hưu trí, các em mới lớn đua nhau làm thơ. Giờ hãy nhìn tập đoàn làm thơ, có đông rinh rích và rúc ríc làm thơ không? Mới đây Trung quốc lĩnh giải Nobel văn học lần hai. Tại sao họ có hai thành tựu đó? Bởi vì cách đây hơn nửa thế kỷ người Trung Quốc đã bỏ làm thơ, và coi thường thơ.   Ai chẳng yêu quê hương. Nhưng người đi xa về bao giờ cũng yêu quê hương hơn, yêu da diết và đau đáu. Tại sao? Bởi vì tình yêu của họ đã lên men rất nhiều bởi nỗi nhớ cồn cào. Người làm thơ sẽ yêu thơ hơn nếu người ta biết từ bỏ thơ để sống trong một cuộc đời toàn diện có công lý, tình yêu, tranh đấu, sám hối và cứu chuộc.   Văn là người! Thi ca là cuộc đời! Người làm thơ sẽ trở về với thơ như nước nguồn từ đỉnh cao ùa xuống, chứ không phải như tí nước mài mực rồi cọ lên giấy vòi vĩnh khúc vinh quang. Hãy viết văn làm thơ như những con đại bàng sà xuống từ lý tưởng cuộc đời, chứ không phải bằng những khúc rúc ríc lẩn trốn khôn ngoan của bầy chuột chỉ quen thủ thế trong cơ chế xin cho của bóng tối. Một chút thành công tem phiếu bao cấp chỉ là cách con chuột chui qua kẽ hở kiểm duyệt bé tí của ông chủ, đó không phải là cách con ngựa phi nước đại cùng những con khác trên thảo nguyên để tìm xem con nào mạnh nhất?! Dám ra gió cuộc đời! Dám ganh đua minh bạch! Mới có thể tìm được giải quán quân đại bàng, hay những con chiến mã! Còn đua trong ao hợp tác ư? Chính những nhà quán quân mậu dịch đã thừa nhận “chúng ta chỉ là tép”. Mong rằng mọi người Việt đều biết vượt qua tự ái để phấn đấu cho một xã hội tiến bộ, minh bạch và kiêu hãnh thực sự. XIN ĐỪNG ĐỂ BỊ HẠ NHỤC VÌ LÀ THẦN DÂN CỦA VƯƠNG QUỐC CHUỘT !! N H Đ Nguồn: ViệtNamThờiBáo
......

Tuyên bố chung của các Tổ chức Xã hội Dân sự

Tuyên bố chung của các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập tại Việt Nam trước phiên xử Bùi Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh Theo công văn số 69/2014/HSST-QĐ do thẩm phán Bùi Phước Lộc ký ngày 28-07-2014 với nội dung “đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự truy tố về tội “gây rối trật tự công cộng” theo Khoản 2, Điều 245 BLHS”, bà Bùi Minh Hằng, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và ông Nguyễn Văn Minh sẽ bị xét xử vào lúc 7g30 ngày 26-08-2014 tại tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Cả 3 người đã bị bắt giam từ ngày 11-02-2014 tại đồn công an huyện Lấp Vò (Đồng Tháp), sau đó bị chuyển về giam giữ tại trại giam công an tỉnh Đồng Tháp (xã An Bình, huyện Cao Lãnh). I- Chúng tôi, các Xã hội Dân sự ký tên dưới đây đồng nhận định: 1- Vụ việc xảy ra tại con đường nông thôn liên xã thuộc khu vực cầu Nông Trại, xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp ngày 11-02-2014 liên can đến 3 bị can nói trên và 18 bạn đồng hành đang trên đường viếng thăm một gia đình đồng đạo là vợ chồng ông Nguyễn Bắc Truyển, nạn nhân của công an mấy ngày trước đó. Đa phần trong đoàn đã cùng làm chứng họ bị một lực lượng công an hàng trăm người cải trang thành côn đồ, mai phục trong rừng cây bên đường, bất ngờ xuất hiện chặn xe máy của họ, hạch sách giấy tờ, khiêu khích thóa mạ. Trước việc đòi cho ra lẽ của đoàn người, công an đã phản ứng bằng cách dùng gậy gộc đánh đập dã man tất cả, bất kể nam phụ lão ấu, vừa quay phim chụp hình với máy móc chuẩn bị sẵn (x. Đơn tố cáo của tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm ngày 23-02-2014 và Thư gởi đồng bào của Đặng Thị Quỳnh Anh -con gái bà Hằng- ngày 05-03-2014). Sau khi nhiều người đã bị đổ máu, thương tích và bất tỉnh nhân sự, các nhân viên cảnh sát công an này (trong đó có đại úy Huỳnh Văn Thuận, đội phó an ninh huyện Lấp Vò và thượng tá Lê Hoàng Dũng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra Công an Lấp Vò, kẻ nặng tay nhất với bà Hằng và sau này sẽ là người ký lệnh khởi tố) mới khoác sắc phục công an rồi dẫn giải cả 21 người về giam giữ, đồng thời tước đoạt mọi tài sản họ mang theo (máy vi tính, máy chụp hình, điện thoại, băng-rôn…). Tất cả bị bỏ đói nửa ngày, bị ép tội “chống người thi hành công vụ”, bị giam trong nơi tối tăm bẩn thỉu và sau đó 18 người được thả ra. 2- Trong ba người còn lại bị giam giữ với lý do “gây rối trật tự công cộng” thì bà Hằng là một chiến sĩ dân chủ nổi tiếng và kiên cường, có mặt từ các cuộc xuống đường biểu tình ôn hòa chống quân xâm lược Trung cộng đến những phiên tòa bất công xử người yêu nước. Từ các phong trào khiếu kiện đòi công lý của dân oan mất đất đến những chuyến đi phát Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Bà từng bị giam giữ 5 tháng tại trại Thanh Hà năm 2012. Cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh thì từ năm 2010 đã tham gia phong trào biểu tình ở Sài Gòn để chống hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, sau đó dấn thân vào nhiều hoạt động nhân quyền dân chủ. Còn ông Nguyễn Văn Minh là một tín đồ nhiệt thành thuộc Phật giáo Hòa Hảo độc lập, con rể và anh rể của hai cha con tù nhân lương tâm là ông Bùi Văn Trung và anh Bùi Văn Thâm. Khi bị bắt, cả 3 đã bắt bắt đầu tuyệt thực để phản đối. Riêng cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị dụ dỗ hãy buộc tội bà Hằng như kẻ cầm đầu việc tổ chức gây rối để được thả ngay (nhưng cô không làm). Còn bà Hằng thì đã tuyệt thực đến 04 lần dài ngày và mãi tới gần đây (19-08-2014) mới được gặp con gái. 3- Ngày 27-02-2014 chương trình “Vì An ninh Tổ quốc” của Đài truyền hình Đồng Tháp đã thực hiện phóng sự về việc bắt giữ ông Nguyễn Bắc Truyển rồi 21 người liên quan trong vụ án nói trên. Mọi sự đã được ghi hình chu đáo ngay từ lúc vụ việc xảy ra, nhằm mục đích miêu tả lại toàn bộ diễn biến của vụ việc, cho dư luận thấy những người bị bắt giữ trong vụ án này đã vi phạm pháp luật, và Công an Đồng Tháp đã thực hiện đúng theo quy định luật pháp!?! Phân tích băng hình phóng sự, người ta thấy tất cả các cáo buộc của công an đưa ra đối với 3 người đang bị bắt giữ là “gây cản trở giao thông nghiêm trọng”, “chống người thi hành công vụ”, và “gây rối trật tự công cộng” đều vô căn cứ. Dù phóng sự đã được dàn dựng và chuẩn bị từ trước, công an đã không thể đưa ra bất kỳ bằng chứng nào cho các cáo buộc đã nêu. Trái lại, nó là bằng chứng tố cáo cách hành xử côn đồ, lối vu khống công dân, thói đổi trắng thành đen của công an Đồng Tháp. 4- Ngày 10-03-2014, để tìm chứng cứ gian, nhằm hợp thức hóa hành vi “vô cớ hành hung công dân” và “bắt giam người trái pháp luật”, công an huyện Lấp Vò đã triệu tập 5 người thuộc nhóm đồng hành là ông Tô Văn Mãnh, anh Phan Đức Phước, anh Nguyễn Vũ Tâm, chị Bùi Thị Diễm Thúy và chị Đỗ Thị Thùy Trang. Cả 5 người ngay sau đó đều tố cáo trước công luận (qua đài RFA ngày 11-03-2014:http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/lap-vo-poli-comp-witns-031...) rằng nhân viên điều tra đã có hành động mớm cung và ép cung, tự tiện ghi trên biên bản nhiều điều mà các nhân chứng hoàn toàn không nói tới. Thêm nữa những điều họ chứng kiến, khai ra thì nhân viên điều tra không ghi vào biên bản. Trong các buổi làm việc ấy, để xây dựng “người đầu vụ”, công an luôn xoáy vào vai trò “tổ chức gây rối” của bà Hằng, ngõ hầu dễ đưa bà vào tròng pháp luật. Rõ ràng công an muốn bằng chứng hóa lời vu cáo của thượng tá Huỳnh Văn Thạnh, phó trưởng Công an Lấp Vò: “Đoàn người đó đánh công an trước, tấn công công an trước, công an không thể đánh lại, thì dân ở hai bên đường mới nhảy vào đánh phụ công an”!?! 5- Chưa hết, Công an huyện Lấp Vò còn gửi thông báo cho luật sư Trần Thu Nam (văn phòng luật sư Tín Việt – Hà Nội) nói rằng bà Bùi Minh Hằng từ chối thuê luật sư. Nhưng trước bằng chứng không thể chối cãi do luật sư Nam cung cấp là bản hợp đồng trợ giúp pháp lý chính tay bà Hằng đã ký với ông cùng văn phòng luật sư của ông (chính các con của bà Hằng cũng đồng lòng với ý muốn nhờ luật sư Nam tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mẹ), nên ngày 12-03-2014, công an huyện Lấp Vò đã buộc phải gửi giấy chứng nhận người bào chữa số 03 cho luật sư Trần Thu Nam và đồng ý để luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hằng. 6- Cũng phải kể thêm: Tối ngày 22-03-2014, sau thánh lễ cầu nguyện cho bà Bùi Hằng và 2 người bạn Thúy Quỳnh và Văn Minh tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội, cô.. II- Từ những nhận định nêu trên, chúng tôi, các tổ chức Xã hội Dân sự ký tên dưới đây đồng tuyên bố: 1- Ba bị can Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh phải được trả tự do lập tức và vô điều kiện vì họ vô tội hoàn toàn. Chính công an mới là những kẻ mắc tội “gây rối trật tự công cộng” vì đã âm mưu từ trước, lén phục kích, đánh người dã man, khiến cho nhân dân phải tụ tập lại đông đảo. 2- Những động thái đầy mưu mô xảo trá của nhà cầm quyền tiếp đó (ép cung chứng nhân, bức bách nạn nhân, đầu độc công luận…) nhằm đưa những người hoạt động nhân quyền can đảm vào vòng tù tội chứng tỏ đây không phải là một vụ án hình sự bình thường mà đã được chính trị hóa, xuất phát từ động cơ chính trị. 3- Việc đánh đập giam giữ hoàn toàn phi lý rồi tiến hành tố tụng hoàn toàn phi pháp này không chỉ là hành vi chà đạp nhân quyền trầm trọng mà còn chà đạp cả chính bộ mặt pháp quyền giả tạo của chế độ. Đây mới là thực tế tình trạng nhân quyền tại Việt Nam chứ không phải như những luận điệu dối trá của mọi quan chức của bộ máy cầm quyền CSVN khi trả lời các chất vấn và phê phán của công luận hoàn vũ. 4- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như toàn thể phong trào dân chủ quốc nội lẫn hải ngoại hãy chung tay và kiên trì tranh đấu (với sự trợ giúp của các quốc gia dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế) cho một nền pháp chế theo đúng những chuẩn mực của nhân loại văn minh, một nền pháp chế không còn là công cụ trong tay đảng cầm quyền độc tài. Làm tại Việt Nam ngày 21-08-2014 Các Tổ chức Xã hội Dân sự đồng ký tên: 1) Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải2) Cao Đài: Ông Hứa Phi, Bà Bạch Phụng3) Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn ĐanQuế4) Con Đường VN: Ông Hoàng Văn Dũng5) Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A6) Hiệp Hội Dân Oan: Ông Nguyễn Xuân Ngữ7) Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo: Ông Nguyễn Bắc Truyển8) Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài9) Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo: Lm. Nguyễn Ngọc Thanh10) Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng11) Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi12) Hội Đồng Liên Tôn: Lm. Đinh Hữu Thoại13) Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts. Phạm Chí Dũng14) Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, Bà Trần Thị Hài15) Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh16) Mạng Lưới Blogger: Cô Nguyễn Hoàng Vi17) Nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải18) Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm19) Phong Trào Liên Đới Dân Oan: Bà Trần Ngọc Anh20) Tăng Đoàn PGVNTN: HT. Thích Không Tánh21) Tin Lành: MS Nguyễn Hoàng Hoa, MS Nguyễn Mạnh Hùng
......

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Trong những lúc gần đây nhân sĩ trí thức Việt Nam đang cố vươn tới điều mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm cách nay nhiều thập niên đó là nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung Quốc. Liệu đây là nỗ lực có tỷ lệ thành công ra sao và vai trò nhà nước trong vận động này là gì? Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến tham dự một cuộc họp của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc tổ chức tại Hà Nội hôm 22/12/2011.   Khi nói về văn hóa không những chỉ có yếu tố tích cực mà còn những tiêu cực, do hoàn cảnh lịch sử khiến cả một dân tộc trong nhiều thế kỷ phải theo đuổi một cách mù quáng đôi khi miễn cưỡng một triết thuyết do tập đoàn cầm quyền hay chế độ phong kiến muốn áp đặt cho dễ dàng trong việc cai trị. Lệ thuộc văn hóa Trung Quốc đến từ đâu? Văn hóa Trung Quốc với Khổng giáo làm chủ đạo thâm nhập vào Việt Nam đã hơn 1.000 năm, tại sao giờ này mới nảy sinh ý định thoát ra khỏi nó và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu có khác gì với Nhật Bản và Hàn Quốc hay không?   Ngoài nguyên nhân văn hóa, hệ thống chính trị của Trung Quốc đã làm cho Việt Nam không thể độc lập tự chủ, ít nhất trong các quyết sách chính trị mà lý tưởng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi đường lối. Nguyên nhân ấy ăn sâu vào từng con người trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam khiến mọi nỗ lực thoát Trung gần như tuyệt vọng trong một giai đoạn kéo dài gần một thế kỷ. Nhà văn Hoàng Hưng, một trong những người tổ chức buổi tọa đàm có tên “Thoát Trung về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết quan điểm của ông: "Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó. Họ đưa vào điều lệ đảng, đưa vào hiến pháp các thứ. Trong xã hội thì ai cũng biết rằng bản thân người lãnh đạo Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đang tìm cách để thoát dần dần ra khỏi nó. Thí dụ như về kinh tế thì rõ ràng họ đã thoát ra và chấp nhận kinh tế thị trường chứ không còn chấp nhận cái đuôi Xã hội chủ nghĩa, cái cách mà nhà nước nắm quyền chi phối. Nếu mà nói đúng thì nó phải là một nền chuyên chính vô sản của công nhân, của nông dân. Thế nhưng ai cũng biết công nhân và nông dân hiện nay là tầng lớp khổ nhất trong xã hội. Đất đai không được ai bảo vệ, nghèo khổ bị đàn áp. Cái được gọi là chủ nghĩa Mác Lênin thực chất chỉ là cái vỏ đễ giữ lại nội dung chuyên chính độc tài toàn trị của một giới đặc quyền nắm quyền cai trị. Cái giả dối lớn nhất là giả dối về lý tưởng rao truyền trên xã hội. Những điều giả dối như vậy thì làm sao xã hội không giả dối theo trên tất cả mọi lãnh vực?" Khổng giáo và ý thức nữ quyền   Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011. Nhà báo Lê Phú Khải nhìn nguyên nhân ở một góc độ khác: sự lệ thuộc Khổng Mạnh một cách mù quáng đã khiến xã hội Việt Nam rơi vào quỹ đạo mà vua quan phong kiến thiết lập ra cho dễ bề thao túng quyền con người, đặc biệt là ở người phụ nữ:   "Khổng giáo nó ngấm vào mạch máu, nó ngấm vào từng con người và người ta xem đó là chân lý. Chẳng hạn người ta nói người phụ nữ chồng chết thì phải theo con. Tại sao phải theo con mà không lấy chồng khác? Nhưng người phụ nữ Việt Nam lại xem đó là chân lý, là lẽ phải. Trinh tiết, tiết tháo, thủy chung với chồng. Những chân lý mà người ta tiếp thu giống như người khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Cái nguy hiểm của văn hóa Khổng Mạnh tức là anh khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Điều này nó ngấm vào tiềm thức của xã hội Việt Nam và rất khó cho phép con cãi lại cha. Cha có thể sai chứ? Cấp trên có thể sai chứ? Thứ văn hóa bầy đàn mà chúng ta không thể thoát ra vẫn đi theo con đường toàn trị. Cho nên cái gốc của nó là như thế." Giáo sư Ngô Đức Thọ, người nghiên cứu văn hóa Trung Quốc trong hàng chục năm trời cho biết kinh nghiệm của ông và nguyên nhân chính khiến Việt Nam lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc là do nhà cầm quyền cố ý tránh né sự thật lịch sử Việt Nam bị nô lệ hàng ngàn năm từ cái gọi là giao lưu văn hóa hai nước:   "Ba cuộc chiến tranh dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc thì mọi người Việt Nam học lịch sử đều thuộc cả, ta gọi là ba lần Bắc thuộc. Chính xác phải là 13 thế kỷ hơn 1.300 năm. Như vậy nó là một trang sử rất u tối của chúng ta. Nói đến 1.000 năm Bắc thuộc thì mọi người nói rất nhiều mà sử sách thì viết không biết được bao nhiêu phần trăm? Lướt qua một cách thoải mái. Thực ra trong một nghìn năm đó lịch sử Việt Nam đau thương vô cùng mà lớp trẻ bây giờ không rõ. Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư của chính phủ Trần Trọng Kim thời trước khi chúng tôi còn đi học thì người ta vẽ một vài tấm tranh trong thời kỳ đó rất tang thương. Những ngôi mộ thời Đường như thế nào, cảnh hoang tàn của quân Nam Chiếu ở trên Vân Nam nó tàn sát như thế nào. Thế hệ bây giờ thì không có nữa, rõ ràng là rất thiếu. Cứ nghiên cứu trên quan niệm là giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc nên mới có chuyện người Việt học chữ Hán… Rất nhiều lĩnh vực của xã hội đen tối dưới thời Bắc thuộc, tội ác của những thái thú đối với người dân Việt Nam thế nào trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc đấy tàn sát bao nhiêu vụ? bóc lột thu thuế má vượt sản như thế nào, bắt quân dịch các đợt như thế nào …nhưng lịch sử chính thức của nước ta bây giờ hỏi số liệu đó thì hoàn toàn không có, không một trang nào viết cả, đó là một thiếu sót rất lớn." Nô bộc chính trị Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định tính chất nô bộc chính trị của lãnh tụ đã biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Sự coi thường văn hóa nước nhà đã gây ra hậu quả ngày nay: "Có một thời gian dài mình đã gửi cái hồn phách cho Tàu còn cụ Hồ thì nói là gửi hồn sang Mạc Tư Khoa thì đều không đúng. Vấn đề là phải gửi gấm cái hồn dân tộc vào văn hóa của mình vào lòng người, vào văn hóa. Đấy là những cái mà chúng tôi muốn nói đến. Hai nữa văn hóa nó phải bồi đắp cho một sức sống mới của một dân tộc cho nên vấn đề quốc văn quốc sử phải xem xét lại. Vấn đề quốc sử chẳng hạn: hiện nay có một điều là giới sử học, chính trị thì đã đành rồi, nhưng giới sử học ngay vấn đề lịch sử ¼ thế kỷ của Việt Nam Cộng Hòa chả ai nghiên cứu cả mặc dù nó là một thực thể lịch sử, nó có cái hay, cái dở, cái đúng cái sai nhưng trong ¼ thế kỷ ấy không có nghiên cứu, tức là một khoảng trống của một nửa nước. Và bây giờ rõ ràng về mặt chính trị người ta muốn thừa kế nó thì phải thừa nhận tính chính thống trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình nhưng các mặt khác thì mình có thừa kế không và làm sao bỏ nó đi được?" Thói quen theo đuôi hữu nghị   Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa).   Từ Úc châu, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết những quan sát của ông về thói bắt chước một cách mù quáng của hệ thống cầm quyền Việt Nam đã khiến đất nước này biến thành một phiên bản của Bắc Kinh từ ngôn ngữ hành chánh cho tới sinh hoạt khoa học và thậm chí trong cả lãnh vực quốc phòng, ông nói: "Những motif về tham nhũng, phong trào các quan lớn có bồ nhí… tất cả đều xuất phát từ bên Tàu, Việt Nam chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. Nếu xem lại các tàu kiểm ngư của Việt Nam mình thì sẽ thấy nó có màu trắng có vẽ mấy cái gạch xéo xéo xanh đỏ trên sườn tàu. Nếu nhìn những cái gạch đó của tàu cảnh sát biển Việt Nam và cảnh sát biển Trung Quốc thì giống y chang nhau! Hóa ra trước đó có mấy ông cảnh sát biển của Tàu nó qua giao lưu với Việt Nam và 4 tuần sau thì xảy ra xung đột. Trong khoa học, khi qua thăm Trung Quốc trong mấy năm gần đây mình thấy Việt Nam quan tâm tới vấn đề như phòng thí nghiệm trọng điểm hay các chương trình có những con số như 322 này nọ… khi mình qua Tàu mình thấy cũng y như vậy. Nó cũng có chương trình trọng điểm, những chương trình khoa học 917… như vậy thì mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!"   Lệ thuộc chính trị kéo theo bất động của cả nước trước sự xâm lấn văn hóa của phương Bắc ngày càng trầm trọng. Nỗ lực thoát ra khỏi những hệ lụy ấy đang là đầu đề của các buổi thảo luận căng thẳng đầy khó khăn. Câu hỏi đặt ra trước mắt: Thoát Trung, phải thoát điều gì? Nhà văn Hoàng Hưng cho biết những suy nghĩ của ông trước câu hỏi hóc búa này: "Khi ta bàn thoát Trung về Văn hóa là phải thoát cái gì. Tôi nghĩ rằng có một nét văn hóa tồi tệ vì giới cầm quyền Maoist của Trung Quốc đã xây dựng trên xã hội của họ và truyền sang xã hội Việt Nam do quan hệ được gọi là môi răng. Một nền văn hóa mà tôi đặt là “văn hóa giả dối”. Bây giờ nó đã thành một cái nạn rất là tệ hại, nghiêm trọng đối với toàn bộ đời sống tinh thần của tất cả các tầng lớp trong xã hội từ quan cho đến dân. Về lâu dài tôi cho nó là một tội ác. Nó phá hoại nền tảng tinh thần của Việt Nam rất là nguy hiểm. Tôi cho đó là một trong những tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao và nó gây hại cho dân tộc Việt Nam." Văn hóa quỳ lạy Nền “văn hóa giả dối” ấy theo nhà báo Lê Phú Khải cần phải nâng lên một tầng nấc khác, đó là “văn hóa quỳ lạy” do Khổng Mạnh cấy vào xã hội Trung Hoa từ hàng ngàn năm về trước. Sự quỳ lạy mà cộng đồng ngấm ngầm chấp nhận và thực hiện như một ước mơ đã tạo ra hàng trăm thế hệ hư đốn mà không nhận ra sự nô dịch của mình. Văn hóa quỳ lạy ấy đã tràn sang Việt Nam và nở rộ như nấm dưới mưa trong thời đại cộng sản: "Văn hóa nào thì nó chọn cái chính trị đó. Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa quỳ lạy tức là anh chí thú đi học để làm quan, để quỳ lạy trước nhà vua, để được hậu thưởng bổng lộc và chỉ có vua là đúng còn tất cả bàng dân đều là số không. Chỉ có anh ta đúng thôi. Ý vua là ý trời! Trong khi đúng vào cái thời kỳ đó thì ở phương Tây Aristos nói rằng có tranh luận, có đi tìm chân lý thì mới có chân lý. Thoát Trung là thoát khỏi văn hóa Khổng Mạnh của Trung Quốc, ảnh hưởng giới trí thức Việt Nam. Căn bản nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa chỉ có trên đúng còn dưới thì sai. Chỉ có vâng lời không có đối thoại. Tôi cho cái đó là quan trọng nhất." Chủ nghĩa cộng sản Giáo Sư Ngô Đức Thọ trong khi công tác tại Viện Hán Nôm ngoài kinh nghiệm về lịch sử giữa hai nước, ông phân tích sự lệ thuộc một cách mù quáng của lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã bất chấp giá nào để đạt được mục đích ngay cả phải hy sinh con người trong những phong trào đấu tố diệt chủng. Chủ tịch HCM đã nhắm mắt theo lời Stalin để cải cách ruộng đất và từ đó đất nước thấm đẫm oan khiên. Lịch sử này nếu không thoát ra hôm nay liệu Việt Nam còn có cơ hội nào khác nữa?   "Về mặt tư tưởng ta phải thoát Trung. Thoát Trung là gì? Đó là thoát tư tưởng đấu tranh giai cấp, tư tưởng Mao Trạch Đông, những tư tưởng này rất ảnh hưởng đến Việt Nam. Chúng ta đã biết những tư tưởng này là cách mạng chuyên chính của Mao được các cán bộ tầm cỡ của ta mang về từ Diên An. Kể cả Đề cương Văn hóa của đồng chí Trường Chinh viết năm 1943 cũng đậm màu sắc Trung Quốc trong đó văn học đại chúng không khác gì các đề cương văn hóa của Trung Quốc ở Diên An cả. Cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông tại Diên An  gần như được mô phỏng trong đề cương Văn hóa Việt Nam, tôi ví dụ như vậy. Cái tư tưởng này là gì thì mọi người đều biết rồi. Tư tưởng của anh Tàu rất tai hại. Theo tôi nghiên cứu tài liệu thì trước đây chỉ có mỗi Tàu nhưng sau này đọc lại thì thấy cũng ảnh hưởng quốc tế cộng sản từ Nga. Vấn đề “Cải cách ruộng đất” không hẳn của Tàu, chính Stalin chỉ thị cho Chủ tịch HCM về Việt Nam cải cách ruộng đất còn nếu không làm cải cách thì không công nhận đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên đảng cộng sản ra đời phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất này. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng rằng thời gian rồi nó sẽ qua, lấy thời gian làm vũ khí nhưng vũ khí thời gian không nghĩa gì cả bởi vì tai nạn này, kiếp nạn này là rất lớn."   Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh sự lệ thuộc về văn hóa từ mỗi cá nhân do tác động từ các việc làm của hệ thống chính trị. Cá nhân phải tự thân ý thức sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc của mình có hại cho quốc gia dân tộc như thế nào mới may ra cải đổi khuôn mặt văn hóa Tàu trong lòng từng người như hiện nay:   "Muốn hay không muốn thì văn hóa của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu rất lâu. Một ngàn năm bị đô hộ, sống chung với họ thì rất là khó để mình gột rửa nét văn hóa của họ đặc biệt dưới sự cai trị khắc nghiệt như thế này thì nó lại càng khó hơn. Cả Việt Nam mình hiện nay nó như một phiên bản của Trung Quốc, rập khuôn Tàu trên tất cả mọi lãnh vực từ chính trị cho đến tổ chức xã hội, kinh tế, khoa học và khá là ngạc nhiên vì tôi mới phát hiện nhiều cái rập khuôn về khoa học nữa. Thậm chí có những cái tên nhiều khi mình không để ý. Những cái tên mình đang dùng hiện nay cũng là bắt chước, xuất phát từ Tàu. Nếu muốn thoát Trung Quốc thì không phải chỉ thoát về hệ thống chính trị hay các thiết chế và tổ chức xã hội mà còn phải thoát từ trong tư tưởng của mỗi người, thậm chí thoát những cái bắt chước từ Trung Quốc. Tôi nghĩ nó không phải bắt đầu từ chính quyền mà bắt đầu từ mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân cần phải gột rửa những ý tưởng, những cách hành xử mà lâu nay mình tưởng là của truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng là của Tàu." Nhà văn Thùy Linh, người luôn có mặt trong các cuộc biều tình chống Trung Quốc cho biết quan sát của bà về vấn đề này mà theo nhà văn chính Khổng giáo là nguyên nhân sâu xa nhất nhưng nhà cầm quyền hiện nay muốn nó tồn tại để dễ dàng thao túng:   "Đời sống văn hóa Việt Nam sau năm 1945 đến giờ gần như đã bị chính trị hóa cho nên không còn đời sống văn hóa thật sự nguyên bản. Ngay cả tín ngưỡng dân gian cũng đã bị chính trị hóa. Đầu tiên người ta dẹp bỏ và cho đấy là mê tín dị đoan nhưng sau khi mở cửa thì tất cả những tín ngưỡng dân gian đều bị biến màu. Không có cái gì trong đời sống văn hóa mà không bị ảnh hưởng trong đời sống chính trị. Chính trị Việt Nam và Trung Quốc thời gian gần đây, cận hiện đại, hai nước có sự giao thoa ảnh hưởng rất sâu sắc, nhưng lui về trước nữa thì đạo Khổng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam. Chính Khổng giáo làm méo mó nhân cách, méo mó tất cả đời sống tự nhiên của con người và Việt Nam bị ảnh hưởng trong cái vòng ảnh hưởng đó. Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu. Hiện tại Khổng giáo đang làm cho chính quyền hưởng lợi chính vì vậy việc thoát Trung tại Việt Nam hết sức cam go."   Câu hỏi đặt ra, nếu sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc sẽ làm đất nước trì trệ, lạc hậu và không có cơ hội phát triển như các nước lân cận liệu chính quyển có đủ can đảm từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nay đã mịt mùng cộng với sự mê đắm vào Khổng giáo làm mê muội trí thức hầu củng cố quyền lực của mình hay không? Nhật hay Hàn, bài học nào cho Việt Nam? Nếu cho rằng thoát Trung là một ý tưởng hoàn toàn không thể thực hiện được người lạc quan có ngay một motif để chứng minh ngược lại, đó là sự thành công của hai nước lân cận với Trung Hoa là Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ không những đã thoát được vòng kểm tỏa của văn hóa Khổng Mạnh mà còn vượt ra khỏi hủ lậu của cả Châu Á nữa là đằng khác. Nhật Bản có lẽ là nước sâu sát với Trung Quốc hơn ai hết nhưng sau thế chiến thứ II nước này ý thức được muốn đứng lên bằng đôi chân của mình phải chịu đau đớn rời bỏ hai thanh nạng mà Trung Quốc ép vào tay trong suốt hàng ngàn năm qua chủ thuyết Khổng Mạnh mà nói theo nhà báo Lê Phú Khải là văn hóa quỳ lạy. Tinh thần Samurai không cho phép người Nhật quỳ lạy dù bất cứ trước thần tượng nào để đổi lấy miếng đỉnh chung như triết lý Khổng Mạnh của người Trung Quốc. Thiên Hoàng của Nhật được thần dân kính trọng và tôn sùng như thần thánh vì là hiện thân của con cháu Thái Dương Thần Nữ trong phạm trù tín ngưỡng và sự tôn sùng ấy vẫn được gìn giữ cho tới ngày nay. Ngược lại, Nhật Hoàng luôn tỏ ra là một minh quân hết lòng chăm lo cho dân chúng đã khiến niềm tin của người dân thêm được củng cố. Khổng Mạnh không chiếm giữ được văn hóa Nhật Bản mặc dù chủ nghĩa này được du nhập rất sớm vào xứ sở Phù tang. Việc du nhập văn hóa, văn minh phương Tây và chủ trương các trường quốc học Kokugaku là nỗ lực thành công thoát ra khỏi quỹ đạo văn hóa Trung Quốc vào cuối thế kỷ 17 đã mang Nhật đến gần hơn niềm mơ ước tự lực tự cường. Nam Bắc Triều và Hà Nội- Sài Gòn Hàn Quốc gần với tình trạng Việt Nam hơn nhưng họ vượt qua được cũng từ ý chí muốn đất nước thoát ra nghèo đói và nhục nhã. Thoát Trung nảy sinh trong lòng người dân Hàn Quốc phát sinh từ sự phân ranh Nam Bắc mà phía bên kia là Trung Quốc, một thế lực lớn lao công khai ủng hộ, giúp đỡ cho Bình Nhưỡng chống lại Seoul. Hoàn cảnh lịch sử này ngược lại với Việt Nam khiến người dân và chính phủ Hàn Quốc ý thức rõ rằng, thoát nền văn hóa Trung Quốc là tiền đề cho việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Lý do thứ hai làm cho thoát Trung thành một yếu tố cần thiết hiển nhiên là sự vận động dân chủ của Hàn Quốc đã tới mức cao nhất có thể. Một đất nước có dân chủ thật sự sẽ không thể chịu nổi bản chất độc tài đảng trị mà thể chế cộng sản theo đuổi. Không ai bỏ căn nhà tiện nghi của mình để chấp nhận vào hang động trú thân nhằm tìm cho ra chủ nghĩa xã hội là gì như Việt Nam đang lần mò trên con đường vạn dặm. Nhà văn Thùy Linh tự hỏi không biết Việt Nam rồi đây sẽ làm gì và bằng cách nào để có thể theo chân hai nước đồng văn đồng chủng với Trung Quốc này:   "Nhật hay Hàn quốc họ cũng bị ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng tại sao họ thoát được? Họ phải xây dựng một nền văn hóa thoát được Khổng giáo, họ xây dựng được một bản sắc rất độc đáo vậy thì tại sao chúng ta không làm được điều đó? Gần đây chúng ta mới đặt ra việc thoát Trung, chặng đường ấy tôi nghĩ rất dài nhưng chúng ta phải làm. Việt Nam bị ảnh hưởng Trung Quốc gần như một số phận khiến chúng ta phải ở cạnh một đất nước như thế nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể thoát nỗi sự ảnh hưởng của gã khổng lồ đó. Muốn phát triển phải có con đường đi riêng giống như Hàn Quốc hay Nhật." Hãy giải phóng chính mình   Nhà báo Lê Phú Khải chủ trương cổ vũ cho một tư duy độc lập trước khi có được một thái độ độc lập đối với sự cai trị nếu muốn thoát Trung như Nhật và Hàn Quốc đã làm:   "Như Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn họ còn muốn thoát Á nữa. Nó đã dân chủ, văn minh rồi tại sao vẫn muốn thoát Á? Bởi vì nó muốn thoát hẳn cái văn hóa Khổng Tử, cái văn hóa không có tranh luận, văn hóa bầy đàn mà họ muốn phải giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân rất quan trọng. Mỗi một con người đều là một tiềm năng nếu giải phóng được thì giống như phản ứng hạt nhân còn không có nó thì không có sức mạnh của cả dân tộc. Con số 1 đứng trước 6 con số 0 thì thành hàng triệu nhưng nếu mất con số 1 rồi thì 6 số không kia cũng vô nghĩa. Nhưng nếu con số 0 ấy là số 1 thì nó không cần ai chăn dắt cả." Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định một chính sách đứng đắn của nhà nước tạm gọi là “quốc chính” phải được đặt ra nếu muốn thoát Trung. Tấm gương của Hàn Quốc rất rõ trong trường hợp này, ông cho biết: “Quốc chính” là một nền chính trị để nó cầm nhịp cho bước phát triển mới tiến bộ nhân văn…thế nhưng hiện nay nền quốc chính của ta có nhiều điều rất lạc hậu. Một đội ngũ công chức đáng lẽ là lực lượng cầm nhịp cho sự phát triển xã hội thì tham nhũng là chính, hành dân là chính, làm sao mà đưa dân tộc phát triển được, đấy là các vấn đề phải đặt ra. Khi nói văn hóa mà quên đi vấn đề làm sao đưa giá trị văn hóa để cho nền chính trị của đất nước nó tử tế hơn lên, làm thăng hoa giá trị con người. Nhân văn, nhân ái, tình thương, dân chủ, tôn trọng con người….những vấn đề ấy văn hóa phải đóng góp và sửa đổi sớm những lệch lạc của cái được gọi là nền quốc chính, tức là nền chính trị của đất nước." Những ý kiến, tư duy cũng như trăn trở cho một tương lai đất nước vẫn đang được nhiều người, nhiều giới hưởng ứng, đồng tình. Tuy nhiên nếu mọi cố gắng thoát văn hóa Trung Quốc này không được nhà nướ quan tâm kể như 3 phần 4 câu chuyện sẽ không có hồi kết thúc.   Nguồn: rfa.org
......

Trần Đĩnh và tác phẩm Đèn Cù

Trong chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu tác phẩm Đèn Cù của nhà văn nhà báo Trần Đĩnh. Sách dày 600 trang sẽ được nhà xuất bản Người Việt phát hành vào hạ tuần tháng 8 này. nhà văn nhà báo Trần Đĩnh Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận. Những phân tích tinh tế   Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản. Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân, tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.   Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc. Những ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái tim thi sĩ. Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật. Khi đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết: “Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu”. Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy, do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính. Nhân chứng lịch sử Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật. Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do tác giả cung cấp.   Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”. Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật. Qua lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới Bắc Kinh. Chính ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể: “Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam? Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức. Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”. Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh… Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi. Những con rối không tự biết mình là rối   Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do tác giả cung cấp.   Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này. Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như nguyên bản. Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.   Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số phận Việt Nam: “Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh”. Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào. Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.   Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”. Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản. Và rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ cộng sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh. Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.   Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do tác giả cung cấp.   Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế  An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai… Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại: “Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba màu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã. Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng... Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng. Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì? Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười”. Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”. Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.   Thất tình Hồ Chí Minh? Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế? Trần Đĩnh: Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi. Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp. Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy? Trần Đĩnh: Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc. Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lênin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lênin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi. Ông Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế! Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiển viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông? Trần Đĩnh: Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được. Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay? Trần Đĩnh: Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được. Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không? Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.   Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ? Trần Đĩnh: Trước hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lênin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”. Có nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản tổng giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.   Anh hùng hay anh hèn? Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về việc này? Trần Đĩnh: Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa. Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không? Trần Đĩnh: Bây giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ, nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nổi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ. Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.   Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một show về thời trang của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!   Mặc Lâm: Xin cám ơn ông. M.L.- T.Đ. nguồn: rfa.org Bài liên quan Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt nam http://www.ttdq.de/node/1678  
......

LÊ VĂN TÁM - " I NỚP U"

Anh yêu thương! Tính đến ngày em hết là "con lừa" thì em đã yêu anh ngót nghét được 20 năm có lẽ..., em bắt đầu yêu anh kể từ ngày em nhập học lớp 1, em bị nhét vào ngôi trường mang tên Lê Văn Tám, và thế là cái tên anh lúc nào cũng nằm chình ình ngay trên ngực áo em, phập phồng theo nhịp thở của trái tim em, sáng nào tung tăng đến trường em cũng hát vang toáng cả con đường như con điên bài hát về anh mà em đã bị bắt học thuộc, và điều đặc biệt là em đã được vinh dự chọn đi thi kể chuyện về "Lê Văn Tám - người anh hùng tí hon giả tưởng của chế độ"...em đã rinh 1 cái giải cộng với phần thưởng lớn lao bao gồm 1 tấm giấy khen, 1 bịch kẹo và 1 cuốn sổ. Ôi chao ơi cái đám bạn em "lồng lộn" lên vì ghen tức với em, cả lũ chúng nó cũng đều rất yêu anh nhưng chưa có đứa nào được vinh dự học thuộc lòng và kể vanh vách chiến công của anh trước "Trại súc vật" toàn tai to mặt lớn...trong cái đại hội gì đó em quên mẹ nó rồi. Em đành an ủi chúng nó bằng cách chia kẹo và cả lũ giơ tay "thề quyết tâm" sẽ noi gương anh là bọn lừa chúng em sẽ sẵng sàng là "ngọn đuốc sống" thiêu cháy tất cả những gì Đảng và NN cho là "phản động"...   Anh yêu! Em những tưởng tình yêu em dành cho anh sẽ theo em mãi mãi đến suốt đời suốt kiếp nhưng không ngờ tình chúng ta ngang trái quá. Em đã đau đớn vật vã, khóc lóc suýt đâm đầu vào xe bus tự tử mấy lần khi cái thằng "in tẹt nét" nó dám bảo là anh không có thật, anh là do một bọn chính trị khốn nạn vẽ vời xây dựng lên. Nó và một số người có tên tuổi như GS Phan Huy Lê khẳng định cái hình tượng chúng em yêu dấu là hình ảnh giả tưởng "láo toét, bịa đặt" do ông Trần Huy Liệu bị ép viết theo yêu cầu của chế độ. Em đau đớn đến bầm tím ruột gan, sao lại có sự thật phũ phàng đến thế? Sao tình yêu quê hương, đất nước, yêu anh hùng của em và các thế hệ chung "chuồng lừa" lại có thể bị "chà đạp" đến như vậy? Tụi em đã được "nhồi sọ" là phải yêu anh đến chết bỏ thì làm sao mà chúng em không đau đớn, vật vã cho được khi phát hiện ra Honey của em chỉ là sản phẩm của một sự tuyên truyền, dối trá, lừa lọc... Anh yêu thương! Dù sao em cũng đã lỡ yêu anh, vì yêu anh nên em phải nói cho cái bọn khốn nạn tạo dựng nên anh biết rằng: dù anh là ai? Anh là thật hay là giả thì tụi nó cũng là lũ vô lương tâm và bỉ ổi khi dùng thủ đoạn chính trị, dùng hình tượng "trẻ em" để tuyên truyền kích động trẻ em "tự sát". Bọn chúng chẳng khác gì các bọn khủng bố trên Thế Giới bắt trẻ em ôm bom tự sát, lợi dụng trẻ em cho những mưu đồ chính trị... Nói trắng ra tụi nó còn tàn độc và thâm hiểm hơn nhiều vì chúng dùng quyền của chúng ngụy tạo lịch sử, bơm đầy gian dối vào sách giáo khoa, chúng nhồi sọ, đóng gói biết bao điều tàn tệ, man trá, phi lí vào đầu hàng triệu hàng triệu đứa trẻ, từ thế hệ này sang thế hệ khác... để rồi lớp trẻ VN sau 1975 không khác gì những con cừu ngây ngô bảo sao nghe vậy, cho gì ăn nấy, chỉ biết ấm ức cúi đầu thinh lặng, vô cảm vô tình với quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước...Chúng đã sử dụng thuốc độc tiêm vacxin cho tụi em từ lúc mới học mẫu giáo cho đến lớp Đại học, chúng em đã miễn nhiễm với các từ "tự do, dân chủ, hạnh phúc", chúng em chỉ biết có mỗi "độc lập" và hả hê với vinh quang "chiến thắng quân thù" của đất nước VN. Chúng tạo dựng dây chuyền sản xuất và thải ra hàng loạt các thế hệ có mắt, có tai, có tim, có óc... cũng như mù, câm, điếc vì mắt chỉ thấy có mỗi Đảng CSVN quang vinh, tai chỉ nghe những được những thông tin gian dối 1 chiều bị bóp méo, óc chỉ luẩn quẩn nghĩ đến cơm ngày 3 bữa, tim luôn phập phồng nơm nớp lo sợ, hèn kém chưa bao giờ dám lên tiếng đòi hỏi quyền lợi chung và đấu tranh vì chính nghĩa...Ôi, chúng đã thành công và hả hê trước "sự im lặng của bầy cừu"...!   Lê Văn Tám, anh là minh chứng hùng hồn nhất cho sự man trá của chế độ này. Nếu anh có "linh thiêng ", hãy châm ngọn lửa dũng cảm vào các thế hệ trẻ, hãy giúp họ nhận ra đâu là sự thật, hãy giúp họ cởi bỏ lốt cừu, lên tiếng và hành động để xứng đáng là thế hệ tiên phong trong công cuộc "giải phóng" đất nước. Your Love!
......

Hoàng Sa - dữ kiện lịch sử từ wikileaks

Hoàng Sa - những diễn biến lịch sử theo các tài liệu của wikileaks lại các điện tín mà Wikileaks đã lưu trữ và công bố trên trang của họ [1], mình có thể liệt kê các biến cố quan trọng theo tình tự thời gian: 1) Ngày 11 tháng Một năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) bất thình lình tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Ngày 16 tháng Một năm 1974, tàu Lý Thường Kiệt (HQ-16) ra Hoàng Sa để kiểm sát thì phát hiện có hai "tàu cá" của Trung Quốc ở đó. Chiều ngày 16 tháng Một năm 1974, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc thay mặt chính phủ VNCH chính thức lên tiếng lên án thái độ phi pháp của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc về việc tuyên bố sai sự thật và việc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam bất hợp pháp. Ngoại trưởng Bắc liệt kê những bằng chứng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của VNCH: - Vua Gia Long năm 1802 đã hình thành quân đội kiểm soát quần đảo Hoàng Sa theo tài liệu của Đại Nam Nhất Thống Chí. - Vua Minh Mạng năm 1834, trình điều Huế đã có bản đồ Hoàng Sa trong Hoàng Việt Địa Du. - Thời Pháp thuộc đã có sắc luật 156/SC vào ngày 16 tháng Sáu năm 1932 ấn định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của tỉnh Thừa Thiên. - Vua Bảo Đại một lần nữa ra quyết định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của Thừa Thiên vào 30 tháng Ba năm 1938. - Toàn quyền Đông Dương một lần nữa xác định quyền quản lý Hoàng Sa thuộc chính phủ bảo hộ vào ngày 5 tháng Năm 1939. - Dưới thời đệ nhất VNCH, sắc lệnh 174-NK vào năm 1961 quyết định quần đảo Hoàng Sa thuộc Định Hải, Hoà Vang, Quảng Nam thay vì Thừa Thiên. - Dưới thời đệ nhị VNCH, sắc lệnh 079-BNV quyết định Định Hải sáp nhập với Hoà Long thuộc Hoà Vang. - Phái đoàn Việt Nam tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam và không có bất cứ quốc gia nào trong 51 nước tham dự đã phản đối. [2] "Đại Nam nhất thống toàn đồ” vẽ năm 1838 triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán. 2) Ngày 18 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc với vai trò thành viên dự khuyết của nước VNCH gởi thư đến chủ tịch LHQ Gonzalo J. Facio về thông tin đã được phát thanh vào chiều 16 tháng Một năm 1974 [3]. 3) Ngày 19 tháng Một năm 1974, hải quân VNCH và hải quân CHNDTH đụng độ tại Hoàng Sa. Báo Hoà Bình, một tờ báo độc lập của nam Việt Nam lên tiếng chỉ trích cộng sản Bắc Việt hoàn toàn im lặng trong khi họ rêu rao việc đấu tranh cho độc lập và trọn vẹn lãnh thổ [4]. 4) Ngày 20 tháng Một năm 1974, đại diện VNCH gởi thư cho chủ tịch LHQ thỉnh cầu triệu tập cuộc họp khẩn cấp để giàn xử việc CHNDTH cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và phía VNCH hiểu được tình trạng có thể thiếu sự ủng hộ của các thành viên của hội đồng bảo an LHQ [5] và bức thư này đã được ký nhận [6]. 5) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận việc phía VNCH đã kêu gọi hội đồng bảo an LHQ triệu tập cuộc họp khẩn cấp [7]. 6) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cho biết đã gặp phía VNCH và đại diện VNCH nhận thấy sẽ có những khó khăn để tìm 9 phiếu ủng hộ từ hội đồng bảo an LHQ nhưng phía VNCH cho biết họ sẽ làm việc với phía Anh, Pháp, Indonesia và Úc cũng trong ngày [8]. 7) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cũng đã chuyển thư thỉnh cầu của phía VNCH đến tổng thư ký LHQ Kurt Waldheim [9]. 8) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía VNCH và VNCH cho biết họ xác nhận cần tiến hành cuộc họp khẩn cấp với hội đồng bảo an LHQ và cần 3 ngày để sắp xếp nhân sự có mặt ở New York. Facio cũng cho biết chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, ông bắt đầu làm việc với từng đại diện của hội đồng bảo an LHQ, bắt đầu với Trung Quốc và sẽ cho phía VNCH biết tình hình vào sáng 22 tháng Một năm 1974 [10]. 9) Chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía CHNDTH và cho biết phía CHNDTH rất giận dữ và họ xác định chuyện Hoàng Sa là chuyện nội bộ của Trung Quốc và việc ông chủ tịch làm việc với các thành viên hội đồng bảo an LHQ để đưa đến cuộc họp khẩn này có thể dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền quốc gia Trung Quốc. [11] 10) Cũng trong chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, theo Kissinger, đại sứ Phương (của VNCH) đã gọi cho Hummel [12] và Stearns [13]. Phương cho biết dù nhận thấy những điểm bất lợi của vụ họp khẩn này của hội đồng bảo an LHQ nhưng VNCH không có chọn lựa nào khác trong tình thế này. Hummel và Stearns cho biết họ e ngại rằng phía Trung Quốc sẽ đưa ra một phiên bản khác và lật ngược thành chuyện VNCH đã khiêu khích và xâm chiếm và sự vụ sẽ trở nên rắc rối và bất lợi cho phía VNCH. Họ cũng cho biết, trong tình trạng này, sự từ chối khiếu nại của VNCH sẽ có hại cho VNCH [14]. 11) Cũng trong ngày 21 tháng Một năm 1974, Kissinger đánh giá tình thế bất lợi của VNCH do thành viên của hội đồng bảo an LHQ có những thay đổi: Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ tốt với VNCH. VNCH cần 9 phiếu thuận (trong 15 phiếu) trong tình trạng gấp rút này e rất khó thành [15]. 12) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Phillipines cho biết quan điểm của họ về vụ Hoàng Sa là "thái độ xâm lấn của Trung Quốc là kết quả của việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam". Sự vụ này cho thấy Philippines nên tiếp tục duy trì căn cứ của Hoa Kỳ tại Phillipines. Phillipines cũng nhận định sự vụ này nhắm vào phía VNCH khiến Hà Nội ắt đã vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên, Hà Nội có lẽ cũng đã nhận ra rằng sự mất mát Hoàng Sa là sự mất mác không thể lấy lại được [16]. 13) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Mã Lai yêu cầu cho biết thêm chi tiết về sự vụ và nghi ngờ rằng đây là một trong những bước đầu tiên Trung Quốc kiểm soát tất cả các đảo trong khu vực mà họ đã công bố chủ quyền [17]. 14) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Liên Xô cho biết nhận định của họ về sự vụ cần được giải quyết giữa các phía liên can (VNCH, CHNDTH và Phillpines). Theo Liên Xô, bắc Việt (VNDCCH) chưa bao giờ xác nhận chủ quyền của họ ở quần đảo Hoàng Sa. Theo Trifonov, sự vụ này diễn ra do VNCH muốn hợp tác với Mỹ để khai thác dầu hoả [18]. 15) Ngày 22 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio liên lạc với phía VNCH và đánh giá tình hình. Ông cho rằng VNCH đang nằm trong thế bất lợi để có thể có đủ phiếu thuận. Theo thẩm định của ông, Phiếu thuận: Úc, Áo, Anh, Mỹ và Costa Rica Phiếu chống: Beylorussia, Trung Quốc, Indonesia, Iraq và Liên Xô Phiếu trắng: Careroon, Pháp, Kenya, Maritania và Peru [19]. 16) Ngày 23 tháng Một năm 1974, phía Indonesia xác nhận quan điểm của họ là Hoàng Sa thuộc Trung Quốc theo hội nghị San Francisco 1951. Tuy nhiên, đại diện Indonesia từ dối xác định vị thế của họ trước cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [20]. 17) Ngày 23 tháng Một năm 1974, đại sứ Martin cho biết vì thiếu mối quan hệ ngoại giữa VNCH và Peru cho nên Peru sẽ chọn phiếu trắng trong cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [21]. 18) Ngày 23 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc kêu gọi SEATO áp dụng điều khoản 4 của hiệp định Manila và kêu gọi các quốc gia trong hiệp hội SEATO có những động thái cần thiết [22]. 19) Ngày 23 tháng Một năm 1974, theo Kissinger thì chính phủ Hoa Kỳ đã nhận được tuyên bố phía Indonesia cho rằng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và được quốc tế công nhận [23]. 20) Ngày 23 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ đã xác nhận phổ biến bức thư của đại sứ VNCH Nguyễn Hữu Chi, đại diện VNCH như thành viên dự khuyết của hội đồng bảo an LHQ trình bày sự vụ Hoàng Sa [24]. 21) Ngày 23 tháng Một năm 1974, Kissinger chuyển gởi thông tin đến phía VNCH về việc Costa Rica xác định ủng hộ VNCH. Tuy nhiên tình thế vẫn rất bất lợi cho phía VNCH vì chỉ có 5 phiếu thuận, 5 phiếu trắng và 5 phiếu chống [25]. 22) Ngày 24 tháng Một năm 1974, Kissinger cho biết phản ứng của SEATO với sự vụ VNCH kêu gọi ngày 23 tháng Một năm 1974 là "tiêu cực" (negative) và Hoa Kỳ rất ngờ vực khả năng của SEATO [26]. 23) Ngày 25 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc gởi thông điệp qua đại sứ thường trực Nguyễn Hữu Chi về việc phía VNCH rút thỉnh cầu kêu gọi cuộc họp khẩn cấp dựa theo quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng mong mỏi hội đồng bảo an LHQ ghi nhận trường hợp này và xử lý sao cho thích hợp [27]. 24) Ngày 25 tháng Một năm 1974, chính phủ Pháp xác nhận việc Pháp dự định bỏ phiếu trắng là không đúng sự thật. Tuy nhiên, đại diện chính phủ Pháp cho rằng sự vụ rất phức tạp và ngay lúc này họ không thể chọn ủng hộ bên nào. Pháp muốn biết quan điểm cụ thể của Hoa Kỳ như thế nào [28]. --------------------------------------- Nhận định cá nhân: - Sự việc xảy ra nhằm lúc có những điểm bất lợi cho VNCH vì hội đồng bảo an LHQ vừa thay đổi thành viên thường trực. Trong đó, Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ mật thiết với VNCH. Byelorussia thuộc USSR thì việc ủng hộ VNCH là việc không thể. - Chính phủ VNCH đã cố gắng hết sức để vận động cả hội đồng bảo an LHQ lẫn tổ chức SEATO nhưng SEATO không mang lại kết quả nào tích cực. - Liên Xô dù đang va chạm với Trung Quốc nhưng không muốn ủng hộ VNCH và cũng không muốn ra mặt đối chọi với Trung Quốc trong việc ra phiếu thuận cho VNCH. - Indonesia và China bắt đầu quan hệ ngoại giao từ năm 1950 nhưng bị ngưng vào năm 1967 vì biến cố Gestok năm 1965 tại Indonesia. Tuy nhiên, Indonesia luôn luôn xác định Hoàng Sa là của Trung Quốc và cho đến phút chót, vị trí bỏ phiếu chống VNCH của Indonesia vẫn không thay đổi mặc dù theo dư luận chung của quốc tế, quần đảo Hoàng Sa thời điểm này vẫn thuộc dạng "dispute" (tranh chấp). Indonesia đã tạo thêm bất lợi cho VNCH. - Pháp có thái độ mập mờ về việc ủng hộ VNCH với chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mặc dù trong thời Pháp thuộc, Pháp đã nhiều lần xác định cơ quan hành chánh cho Hoàng Sa. Sự quyết định chậm trễ và mập mờ của Pháp đã góp phần vào việc VNCH phải huỷ bỏ cuộc họp khẩn cấp về sự vụ Hoàng Sa. - Nếu Ấn Độ và Sudan vẫn còn là thành viên thường trực của hội đồng bảo an LHQ và Indonesia và Pháp có động thái tích cực và chính xác hơn thì có lẽ VNCH đã có thể chiếm 9 phiếu thuận trên 15 phiếu và sự vụ đã được khép lại. - Hội đồng bảo an LHQ và phía Hoa Kỳ đã làm việc rốt ráo và có những đóng góp ý kiến có giá trị vì nếu VNCH không nắm tình hình mà lao vào cuộc biểu quyết và bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Phía VNCH và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định rút đơn thỉnh cầu và đó là một quyết định đúng đắn vì nếu VNCH bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Sau 1975, chính phủ VNDCCH chưa bao giờ đưa sự vụ Hoàng Sa ra LHQ. Cho đến ngày nay, Hoàng Sa đã trở thành căn cứ và thuộc đơn vị hành chánh "Tam Sa" nhưng chính phủ CHXHCNVN chưa bao bao giờ có bất cứ động thái rốt ráo và quyết liệt nào cả. Chú thích: [1] wikileaks.org [2] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00752_b.html [3] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00175_b.html [4] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00859_b.html [5] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00188_b.html [6] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012722_b.html [7] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012732_b.html [8] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00190_b.html [9] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00192_b.html [10] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00194_b.html [11] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00203_b.html [12] Hummel, Arthur William, Jr. trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [13] Stearns, Monteagle, phó trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [14] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013405_b.html [15] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013407_b.html [16] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MANILA00775_b.html [17] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974KUALA00310_b.html [18] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MOSCOW01036_b.html [19] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00219_b.html [20] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974JAKART00961_b.html [21] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01039_b.html [22] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974BANGKO01283_b.html [23] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE014788_b.html [24] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00233_b.html [25] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015338_b.html [26] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015405_b.html [27] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01040_b.html [28] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974PARIS02298_b.html Nguồn: https://www.facebook.com/notes/773727779316198/  
......

CHUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974.  Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây. 1.-  TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển.  Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển.  Riêng  quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị:  3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý.  Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất.  Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.  Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.)  Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau: (1)   Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc. . . . . . . . . . . . . . . (4)  Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).  Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý.  Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].  Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.  Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay. 2.-   CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam.  Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo.  Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.  Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.  Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”  Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông thường.  Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.” Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt.  Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I.  Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai.  Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.  3.-  TRUNG QUỐC BIỆN MINH Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện. Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc.  Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng. Thứ nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc.  Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”  Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược]. Người thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5.  Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai...  Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975.  Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.” 4.-   CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.  Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.  Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý...” Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của chính phủ mình.  Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy.  Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy. 5.-  HIỂU CÁCH NÀO? Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.  Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.    Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.”  Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài.  Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”?  Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt Nam.  Khi  cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài?  (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao - danlambaovn.blogspot.com) Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).  Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ.  Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng.  Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội.  Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản.  Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội.  Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết. Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).  Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau.  Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.  Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm.  Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc. 6.-  LIÊN MINH QUÂN SỰ? Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc.  Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn. Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.) Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức ...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)   Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới.  Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi.  Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)?  Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.  Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa.  Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.  Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?  Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước.  Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai.  Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng. Như thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để chống Trung Quốc.  Trung Quốc dư biết điều đó.  Cộng sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra.  Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm.  Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước ... 7.-   PHẢI QUYẾT ĐỊNH Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài.  Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình. Muốn thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.  Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm.  Phạm Văn Đồng đã chết.  Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn.  Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội.  Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.  Có hai cách giải thể: Thứ nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết.  Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen. Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông? Thứ hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản.  Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng.  Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.  Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.  Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN  theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi.  Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 5-6-2014)
......

Khắp nước biểu tình chống Trung Quốc

Sáng hôm nay Chủ Nhật ngày 11 tháng 5. 2014, người dân quan tâm đến việc Trung Quốc kéo giàn khoan dầu HD 981 vào sâu trong khu đặc quyền kinh tế Việt Nam biết rằng sẽ có biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn để chống lại hành động xâm lược này. Được biết hàng ngàn người đã âm thầm chờ đợi để sáng hôm nay biểu lộ lòng yêu nước cũng như sự phẫn nộ qua hành động biểu tình chống Trung Quốc lần đầu tiên trên ba miền đất nước. Tại Hà Nội vào lúc 8 giờ hàng trăm người dân đã tập trung đông đảo tại công viên Lenin và cùng nhau tiến tới trước Đại sứ quán Trung Quốc. Trên tay họ là những biểu ngữ chống Trung Quốc bằng nhiều câu chữ khác nhau. Anh Nguyễn Đức Quốc, từ Lăng Cô, Huế ra Hà Nội hai ngày trước đây cho biết: “Bây giờ mọi người đang dần dần đổ về tại công viên Lenin cũng được ba bốn trăm người rồi theo thông báo thì lúc 9 giờ mới bắt đầu. Công an đứng chung quanh rất nhiều nhưng chưa thấy hàng rào. An ninh cầm máy quay phim quay người tham gia biểu tình rất đông. Đồng bào các nơi đổ vể rất đông có Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An đang tập trung lại.” Sài Gòn Biểu tình chống Trung Quốc Xâm lược Đà Nẵng bất ngờ biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Không khí biểu tình rực lửa tại Hà Nội     Chị Nga một khuôn mặt bất đồng chính kiến nổi tiếng cho chúng tôi biết cụ thể: “Hôm nay người dân Việt Nam có xuống đường để phản đối Trung Quốc xâm lược trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc. Lực lượng an ninh mật vụ cùng lực lượng dư luận viên từng đàn áp các cuộc biểu tình trước đây cũng có mặt. Hôm nay được huy động thêm bộ đội thanh niên sinh viên cầm biểu ngữ cờ đỏ sao vàng để chống Trung Quốc.” Không riêng tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài gòn, thành phố tiêu biểu của miền trung là Đà Nẵng cũng có biểu tình chống Trung Quốc, Anh Nguyễn Văn Thạnh có mặt từ sớm tại công viên 2 tháng 9 cho biết: “Hôm nay chắc cũng trên trăm người. Anh chị em đến thể hiện chính kiến củ mình đố với hành vi xâm lược của Trung Quốc có rất nhiều khẩu hiệu và an ninh cũng như lực lượng chức năng không làm khó dễ gì anh em họ chỉ thực hiện chức năng của họ. Bây giờ sau khi làm lễ các anh linh liệt sĩ anh em sẽ tập trung tuần hành đến Hội đồng Nhân dân thành phố.”   Ở Đà Nẵng không biết chắc chắn số lượng người biểu tình là bao nhiêu nhưng tại Thp.HCM thì người ta đoán chừng con số có thể lên tới it nhất hai ngàn người sẽ có mặt tại Nhà Hát lớn thành phố và Nhà văn hóa Thanh Niên gần khu vực Hồ Con Rùa. Tại Nhà hát lớn thành phố từ 8 giờ đã có vài chục người tập trung và 30 phút sau đã lên đến vài trăm người. Có một trở ngại cho người biểu tình giống như tại Hà Nội trước đây đã làm.  Đó là một dàn nhạc đã được mang tới trước nhà hát thành phố.   Không biết đây là sự sắp đặt hay chỉ vô tình nhưng ông Lê Công Giàu một thành viên trong nhóm người kêu gọi biểu tình cho biết: “Bây giờ đang tập họp trước nhà hát lớn nhưng chưa đông lắm chỉ vài trăm người. Có một dàn nhạc trước nhà hát theo tôi nghĩ thì nó vẫn chơi hàng tuần lát nữa mình sẽ nói với họ. Tôi nghĩ lần này nhà nước sẽ không cản trở đâu.” Tuy nhiên khác với sự yên ắng tại các nơi, nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế không được tự do tập trung người biểu tình như những khu vực khác. Lúc 8 giờ một số an ninh, dân phòng cùng với cảnh sát giao thông đã bao vây DCCT. Những khuôn mặt trước đây từng đàn áp dân oan cũng có mặt như muốn cảnh cáo những người biểu tình sáng nay. Chị Trần Ngọc Anh, một trong hàng chục dân oan chuẩn bị tham gia biểu tình cho biết:   “Đúng rồi đang bị bao vây và bây giờ bắt đầu xuất phát. Chúng nó bao vây thì kệ nó mình cứ ra chứ biết sao bây giờ? Những khuôn mặt mà chúng tôi thường bị cưỡng chế bắt lên xe gặp tụi tôi biết chứ. Chúng tôi là dân oan chúng tôi biết tụi nó chứ.” Bùng nổ Đến 9 giờ 30 sáng tại Hà Nội người biểu tình tập trung rất đông đảo con số đã lên đến hơn hai ngàn người.   Những khuôn mặt từng biểu tình chống Trung Quốc trước đây gần như đầy đủ. Có rất nhiều an ninh, dư luận viên, dân phòng trà trộn vào nhưng tất cả đều hướng về Đại sứ quán Trung Quốc để tỏ thái độ chống đối sự xâm lược của Bắc Kinh và không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra trong đoàn người biểu tình. Blogger Khúc Thừa Sơn cho biết: Từ chuyện giàn khoan HD 981 của Trung Quốc xâm phạm biển Đông thì người dân Việt Nam đều xuống đường để chống đối. Không những tại Hà nội mà người dân cả nước đều cùng chung một tiếng nói. Chưa bao giờ thấy người dân Việt Nam đoàn kết một lòng như thế này. Mọi người đang diễu hành trên đường rất là khí thế tập trung đầy đủ các nhân sĩ trí thức đủ mọi thành phần. Hình ảnh cho thấy hàng trăm dân phòng đứng sau những hàng rào dã chiến mang băng đỏ đứng nhìn nhưng không có một sự cố nào xảy ra.   Nhà báo tự do JB. Nguyễn Hữu Vinh ghi nhận: Đoàn biểu tình đã từ sứ quán Trung Quốc ra đến bờ hồ. Khí thế người dân hết sức hừng hực và mạnh mẽ. Khá nhiều người không thể đếm hết được nhưng tôi nghĩ phải hơn nghìn người. Hôm nay công an khá mềm mại hòa nhã không đến nỗi làm những trò bẩn như các cuộc biểu tình trước đây. Tại Đà Nẵng do con số người tham gia biểu tình ít ỏi hơn và không khí biểu tình cũng êm dịu hơn so với Hà Nội và ThP-HCM. Hơn trăm người đã giải tán vào lúc 10 giờ sáng sau khi tuần hành tới UBND thành phố. Không có ghi nhận rắc rối nào xảy ra. Anh Nguyễn Văn Thạnh cho biết: Tình hình phản đối đã xong bây giờ đã giải tán rồi ạ. Tuy nhiên nhìn chung cuộc biểu tình lớn và đa dạng, quan trọng nhất đã diễn ra tại thành phố HCM. Lúc 9 giờ 30 sáng nhà thơ Đỗ Trung Quân thuật lại: Sáng nay rất nhiều đoàn, do đó ai nhập vào đoàn nào thì chỉ biết đoàn đó. Đoàn của chúng tôi vừa mới ra Lãnh sự quán Trung Quốc xong và một nhóm khác rẽ ra. Bây giờ tôi thấy một nhóm lớn tập trung rất đông tại Nhà hát thành phố. Thực ra tình hình cài răng lược đã xảy ra. Tôi cho là khí thế hừng hực và một điều đáng ghi nhận là lực lượng an ninh giữ trật tự khá tốt cho đoàn biểu tình. Hai nữa họ không phá sóng điện thoại như mọi lần ở khu vực nhạy cảm và cũng chưa xảy ra va chạm gì cho tới giờ này. Hiện tại tôi đang đứng trước nhà hát thành phố và tôi cho rằng người tham dự biểu tình hôm nay có thể hơn ba ngàn người. Nhóm biểu tình "quốc doanh"!   Trước nhà hát lớn thành phố nơi một nhóm nhân sĩ tổ chức biểu tình đã có một sự cố nhỏ đó là sự không đồng thuận giữa ban tổ chức cuộc biểu tình và Thành đoàn. Theo lời kể lại của ông Huỳnh Kim Báu thì có sự phá rối âm thanh khi ông Huỳnh Tấm Mẫm phát biểu. Cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn được Thành đoàn cho một số rất lớn thanh niên tham gia nhưng các phát biểu của họ làm người dân phẫn nộ. Các ngôn từ như “Việt Nam muốn giữ hòa hiếu với Trung Quốc” hay “Việt Nam luôn kiểm chế”, “người dân đứng sau chính phủ” hay “sống và làm việc theo pháp luật”…đã bị la hét chống đối và cuộc biểu tình đôi lúc tưởng có thể vỡ ra nhưng cuối cùng không có gì đáng tiếc xảy ra.   Ông Huỳnh Kim Báu một thành viên tổ chức thuật lại sự việc này:   Bọn quốc doanh, cái đoàn thanh niên nó cướp diễn đàn nó đem khẩu hiệu của nó ra kêu gọi “bình tĩnh, hòa khí” tùm lum hết thì tụi anh chiếm lại diễn đàn để hô đúng khẩu hiệu của tụi anh. Cái thứ hai là hai mươi tổ chức xã hội dân sự tại số 4 Duy Tân thì lực lượng khoảng 2 ngàn người còn lực lượng bên này tổ chức thành đoàn thì khoảng 1.000 người. Bây giờ anh đang tham gia cuộc biểu tình của 3 ngàn người của quần chúng nhân dân tự phát đang đi trên đường Võ Thị Sáu dự kiến sẽ kéo đến Lãnh sự quán Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ bị nó ngăn. Ông Huỳnh Tấn Mẫm, người có phát biểu trước Nhà Hát lớn hôm nay thuật lại: Thấy rõ ràng là họ muốn phá nhưng phá không được. Thành đoàn thì nó không phối hợp nhưng nó có mặt nó cố ý phá. Không biết từ phía công an hay phía Thành đoàn nhưng rõ ràng là vào giờ chót thì nó lại có phá rối đối với một số anh em phát biểu, có sự giằng co chỗ đó. Mình thấy khí thế quần chúng rất là dữ dội, nhìn chung rất tốt, khí thế quần chúng đang lên quyết tâm phản đối Trung Quốc rất mạnh mẽ. Lúc 10 giờ 30 hơn năm ngàn người đã tập trung biểu tình tại nhiều địa điểm của thành phố HCM. Từng đoàn người kéo ngang Lãnh sự quán Trung Quốc, Nhà văn hóa Thanh Niên ở số 4 Duy Tân và trên các con đường như Võ Thị Sáu, Đồng Khởi cùng vài con đường khác cho thấy khí thế của người dân đã bùng dậy không còn bị kềm chế như trước đây. Trong tất cả các đoàn biểu tình đều có an ninh và thành đoàn thanh niên trà trộn cái răng lược. Người biểu tình đều biết nhưng không cần chú ý và không gây đụng chạm. Những biểu ngữ của nhà nước ghi các dòng chữ như: “Biểu tình bằng lòng yêu nước, không lợi dụng xuyên tạc và kích động bạo lực” chen với một rừng biểu ngữ cầm tay tuy nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của nhân dân và các tổ chức dân sự.   Từ Hà Nội Luật sư Hà Huy Sơn có mặt trong đoàn biểu tình cho biết nhận xét của ông: Trước hết cuộc biểu tình này là thành công và theo quan sát của tôi thì cuộc biểu tình này được nhà nước ủng hộ. Tôi cho rằng đây là dịp thức tỉnh cái nhận thức của người dân vể vấn đề chủ quyền cũng như bày tỏ quan điểm trước các vấn đề xã hội của đất nước. Con số người dân tham gia biểu tình vượt trội thành phần nhà nước tại thành phố HCM đã làm các cuộc biểu tình mang một ý nghĩa rất lớn. Những nhân vật bất đồng chính kiến tham dự biểu tình nói với đài Á Châu Tự do họ tin rằng nhân dân sẽ thức tỉnh trước dã tâm thôn tính Biển Đông của Trung Quốc sau những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa của ngày hôm nay. Nguồn: rfa.org Hình Internet tổng hợp:   Người biểu tình tại Hà Nội căng tấm băng rôn: “Thủ tướng Đức chỉ cho Tập cận Bình bản đồ TQ không có Hoàng sa Trướng sa” Khu vực chợ Bến Thành Khu vực nhà thờ Đức Bà Hai hình ảnh biểu tình trái ngược Đây là cuộc biểu tình quốc doanh để chụp hình  đăng báo của nhà cầm quyền tại Sài Gòn:  
......

Chúng ta đương mất nước từng phần vào tay giới cầm quyền Trung Quốc

TQ tuồn đủ mọi hàng hóa rẻ tiền vào lũng đoạn thị trường nước ta, bóp nghẹt mọi sản phẩm của ta; họ thực hiện mọi thủ đoạn thâu tóm kinh tế nước ta đồng thời phái thương nhân vào phá hoại kinh tế của ta; về chính trị, họ cũng chi phối phía ta; về quân sự, họ không ngừng lấn, cướp biển đảo của ta, bắt tàu cá, tịch thu tài sản, đánh thuyền viên, đâm hỏng tàu, bắn ngư dân, phá mọi hoạt động của ta trong thềm lục địa của mình, báo chí của họ luôn đe dọa dùng vũ lực với ta. Mọi sự việc nêu trên, những ai quan tâm theo dõi đều đã biết cả.   Tình hình còn nguy hiểm và bức xúc hơn là chúng ta đương mất nước từng phần vào tay những nhà cầm quyền TQ, và sẽ mất nữa:   Trước đây họ đã mua được hàng ngàn ha rừng biên giới, một đoạn bãi biển Đà Nẵng, người Việt Nam không ai vào được. Thế là mất chủ quyền, cũng là mất một phần đất nước vào tay TQ. Vài năm gần đây, họ đổ tiền vào đầu tư bất động sản, địa ốc, những nơi ấy họ đã xây nhà hay chưa cũng là lãnh địa của họ rồi.   Họ chi 40 triệu đôla mua hơn 6 triệu cổ phiếu của Công ty Vinacafe Biên Hòa, trở thành cổ đông lớn thứ 2 của công ty. Họ tăng cường mua cổ phần của nhiều công ty nước ta, đến một lúc họ mua được 51% cổ phần, sẽ biến thành công ty của TQ, những mảnh đất mà các công ty này tọa lạc sẽ nghiễm nhiên trở thành đất của TQ. Tập đoàn Yulun, Giang Tô xây dựng nhà máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm tại Vụ Bản, Nam Định chiếm 80.000 m2 đất. Lấy Tập đoàn dệt may Việt Nam làm bình phong, TQ dự kiến xây dựng nhà máy dệt tại huyện Nghĩa Hưng chiếm diện tích khoảng 1.500 ha.   Theo một người dân Kỳ Anh nói: “Người TQ hầu như đã làm chủ thức tế huyện Kỳ Anh”. Họ xây dựng tường cao tốc dọc phía Đông đường quốc lộ suốt từ Kỳ Anh qua Cẩm Xuyên đến chân Đèo Ngang, phía trong bức tường ra biển, họ là gì trong đó không ai biết được. Họ thuê cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Họ được Đài Loan nhượng dự án khu kinh tế Formosa bao gồm cả cảng Vũng Áng chiếm một diện tích rất rộng, riêng cảng là 3.300 ha. Cảng Vũng Áng là điểm cực kỳ xung yếu, nó là yết hầu của miền Trung, TQ làm chủ, khi họ trở mặt, họ có thể khống chế đường giao thông của ta cả trên bộ lẫn trên biển, chia cắt nước ta làm 2 phần. Cửa Việt và Vũng Áng, họ cấm người ra vào, có thể họ đương xây dựng thành căn cứ quân sự. Tóm lại, những nơi mà TQ thuê, mua, đầu tư đã trở thành lãnh địa của TQ. Người Việt Nam, công an, chính quyền địa phương không được vào, ngay cả công trường nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân do TQ thầu đương xây dựng, phó Giám đốc công an tỉnh Bình Thuận cũng không được vào. Thế là tất cả những nơi nói trên, ta mất chủ quyền, chẳng phải là mất nước từng phần là gì? Những nơi TQ thuê, mua, đầu tư họ đều đưa người của họ sang làm. TQ trúng thầu 90% công trình trọng điểm của nước ta. Bằng nhiều thủ đoạn, bất chấp luật pháp của nước ta, họ đưa ồ ạt lao động phổ thông vào. Thế là họ vừa thực hiện được mục đích di dân vừa bố trí được đội quân thứ 5 hàng vạn người rải khắp nước ta. Rất nhiều người trong số họ lấy vợ Việt Nam, sau thời hạn 50, 70 năm sẽ có hàng trăm “làng TQ” trong nước ta. Cứ đà này, sớm muộn nước ta sẽ trở thành “thuộc quốc” hoặc “thuộc địa kiểu mới” của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Đại Hán! Vì đâu nên nỗi? Phải nói thẳng ra đây là trách nhiệm của các cấp nắm quyền của ta từ dưới lên trên.   Hoặc do mê muội bởi “16 chữ, 4 tốt”, “cùng ý thức hệ”, mà không thấy được giới cầm quyền TQ miệng thì nói “hữu nghị”, nhưng hành động thì ác độc, đầu óc thì thâm hiểm, nên tạo cho họ mọi sự dễ dàng. Làm gì có “cùng chung ý thức hệ”? Từ khi Đặng Tiểu Bình nói: “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì họ đã đi theo con đường TBCN rồi, dù vẫn nêu xây dựng CNXH đặc sắc TQ. Còn ở nước ta, tuy tên nước vẫn là XHCN, nhưng trong nội dung có gì là XHCN đâu!? Hoặc do không tiếp thụ được ý chí quật cường của cha ông, nên tự ty, tự cho mình là nước nhỏ, quân yếu, nhân nhượng họ cho yên, vẫn giữ được quyền, được ghế. Hoặc quá sợ họ đánh, nên họ đề xuất gì, yêu cầu gì đều chấp nhận; họ sai trái, vi phạm luật pháp của ta, không dám xử lý. Hoặc có vị “ăn xôi chùa ngọng miệng”, quyền ký thì ký, quyền bỏ qua thì bỏ qua, để mặc họ muốn gì cũng được. Hoặc chỉ thấy tiền, cho thuê, bán, cho đầu tư, cấp dự án, thì được tiền, tiền cho ngân sách đồng thời cho cả cá nhân, cho nhóm lợi ích, bất chấp sự nguy hại cho đất nước, đúng là “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Phải làm gì? 1. Nhân dân kêu gọi những ai trong bộ máy cầm quyền còn tâm huyết với dân tộc, với Tổ quốc hãy đấu tranh thực hiện dân chủ, quay lại với dân, dựa vào sức mạnh của dân ngăn chặn mối nguy cho đất nước. 2. Các tổ chức, các lực lượng yêu nước liên kết nhau thành sức mạnh đấu tranh quyết liệt loại bỏ những hình bóng của loại Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, ủng hộ người có thực đức, thực tài xuất hiện cùng nhau giữ độc lập, tự chủ và đưa đất nước tiến lên. Xây dựng tuyến đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội là chuốc họa.   Tôi rất tâm dắc với suy nghĩ của bạn Hoàng Mai về con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội, cho rằng: “Mục đích trước mắt của tuyến đường này là để hàng hóa TQ xâm nhập Việt Nam một cách nhanh hơn, rẻ hơn, qua đó nhằm bóp chết nền sản xuất của Việt Nam, cũng là để vơ vết tài nguyên của Việt Nam một cách nhanh hơn…”. Tôi nghĩ, đến một thời cơ nào đó, TQ xuất quân đánh ta thì chính con đường cao tốc này cho phép bộ đội cơ giới của họ tiến rất nhanh đến Hà Nội. Từ xưa đến nay, các thế hệ cầm quyền TQ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta và tiến xuống bá chiếm Đông Nam Á. Đồng ý với bạn Hoàng Mai, tôi cho rằng con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội lợi cho ta thì ít, lợi cho TQ thì nhiều. Trong khi tài chính của ta đương rất khó khăn, nợ nước ngoài đã chồng chất mà vay để chi một khoản tiền khổng lồ 896 triệu đôla cho con đường cao tốc này thì thật là phi lý. Là con nợ của TQ, sau này không chỉ phải trả bằng tiền mà còn phải trả họ bằng nhiều thứ khác theo đòi hỏi của họ. N.T.V http://xuandienhannom.blogspot.de/2014/04/nguyen-trong-vinh-chung-ta-ang...
......

Gạc Ma: 14 tháng 3- Ngày của nỗi đau và uất hận!

Lời giới thiệu: Trong bài thơ nhan đề: “THÁNG BA, NGÀY 14, VIỆT NAM ƠI!” hướng về các chiến sĩ đã gửi thân xác lại vùng biển Trường Sa trong trận chiến Gạc Ma, Giáo sư Hà Văn Thịnh đã uất nghẹn hỏi rằng “Sao tôi chẳng được quyền kể về các anh? (Và nếu) Lỡ gọi tên (các anh)  có thể là tù tội”. Dưới tựa đề “14 tháng 3- Ngày của nỗi đau và uất hận!” để giới thiệu cho bài thơ vừa kể, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã viết trên trang blog ngày 13/3/2012 của mình như sau:  “Trong một cuộc thẩm vấn người biểu tình chống Trung Quốc, một sĩ quan công an đã hỏi Gạc Ma là cái gì? Nếu anh ta hỏi Gạc Ma ở đâu, chuyện gì xảy ra ở đó thì hảy còn dễ hiểu, đằng này anh ta lại hỏi Gạc Ma là cái gì? Thật là kinh khủng. Đó là hậu quả cuả những nổ lực thảm hại đánh đu với 16 chữ vàng. Sự ngu tín hóa toàn dân đã dẫn đến những hậu quả đau lòng và nhục nhã. Đảm bảo cho đến bây giờ vẫn có nhiều người như sĩ quan công an kia không biết Gạc Ma là cái gì, như một ông bí thư chi bộ vẫn đinh ninh Hoàng Sa chỉ là bãi chim ỉa. Hôm nay không một tờ báo nào trên tất cả các báo lề phải nhắc đến sự kiện Gạc Ma 14/3/1988. Đó cũng là một nỗi đau và nhục nhã. Nực cười thay, sự im lặng khốn cùng ấy được đánh tráo bằng hai chữ hữu nghị! “ DĐ/CTM xin trân trọng gửi đến quý độc giả bài thơ “THÁNG BA, NGÀY 14, VIỆT NAM ƠI!” của giáo sư Hà Văn Thịnh. THÁNG BA, NGÀY 14, VIỆT NAM ƠI! Hà Văn Thịnh Tháng Ba Mùa Xuân chở mây ra khơi xa Nước xanh như màu mây ấy Biển thét gào nỗi đau sống dậy: 64 linh hồn uất nghẹn Gạc Ma! Tháng Ba Tự cổ chí kim chưa thấy bao giờ: 64 người con hy sinh vì Tổ Quốc Chết cho Nước khỏi sống quỳ sống nhục Bị biến thành ma!? Tháng ba Sao tôi chẳng được quyền kể về các anh? Lỡ gọi tên có thể là tù tội Anh dũng hiên ngang bị vùi trong bóng tối Việt Nam ơi, nhức mỏi đến bao giờ? Tháng Ba Nỗi đau Ngày Mười Bốn Tháng Ba Năm có hai số tận cùng Phát Phát (1988) Các anh chết để cho ai phát tài, phát nhát? Phát cả tai ương – dân tộc đoạ đày Phát cả nỗi căm hờn thành hữu hảo chua cay… Tháng Ba Xương cũng hoá thành bùn héo rũ những vòng hoa Thành mười sáu chữ vàng nhức buốt Lũ giặc Tàu nghênh ngang cùng lũ chuột Rứt rỉa đau thương bày tiệc trận cười! Tháng Ba Chẳng có cái chết nào có thể hoá phôi pha Dẫu bạo ngược cường quyền muốn thế Dẫu cuộc đời ngập chìm dâu bể ViệtNamơi, không khiếp sợ, bao giờ! Tháng Ba Chúng muốn ta quỳ mỏi gối xin cho Để Hoàng Sa, Trường Sa máu cuộn cùng nước mắt Các anh đã hy sinh để hôm nay, sự thật Tổ Quốc biết những gì CÒN – MẤT Từ những ngọn sóng xanh bầm đỏ căm thù! Tháng Ba Nỗi đau ngày đuổi tận mơ đêm Cả dân tộc nhớ thương bằng tiếng thĩ thầm Khen kẻ ngoài là chê bên trong dở Nhắc lại ngày xưa là chê thời nay đó Thuỷ Hoàng ư? Khép nép tẽn tò… Tháng Ba Tôi viết bài ngợi ca người Nhật Tsunami! Chẳng thèm rơi nước mắt Bonsai như nửa nụ cười… Có kẻ chỉnh nhắc rằng, khen ít lại, vừa thôi! Tháng Ba Ngày mười bốn, mỗi năm Người Việt nào cũng khóc Khóc bởi 24 năm qua không biết chỗ Các Anh nằm Khóc bởi biết rằng trong chốn mù tăm Các anh hiểu hàng triệu người vẫn nhớ! Tháng Ba, Không thể gọi là thơ những câu chữ ghép vần Nhưng tiếng trái tim của muôn người là sự thật Lịch sử sẽ ghi những dòng tươi sáng nhất Tên các anh Mãi mãi rạng ngời Trong bất khuất Lạc Hồng Sống mãi, Việt Nam ơi!… Huế, tháng Ba, 2012. Theo BVN.http://bolapquechoa.blogspot.ca/2012/03/14-thang-3-ngay-cua-noi-au-va-ua...
......

Tuyên bố Tưởng niệm các Chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, Tự do cho người dân

40 năm ngày Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa (19/1/1974), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược biên giới Việt Nam (17/2/1979) với biết bao chiến sĩ và đồng bào ngã xuống. Máu xương và anh linh những người con đất Việt vẫn còn đấy… Thế mà cũng những tháng năm ấy, máu xương và anh linh những người con đất Việt đã bị cố tình quên lãng. Không một lễ tưởng niệm nào được tổ chức chính thức để tri ân những chiến sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Thậm chí mọi sự tưởng nhớ do nhân dân thực hiện còn bị nhà cầm quyền vùi dập. Hành động phá đám sai khiến công an giả dạng cưa đá và phóng loa của CAND ồn ào, gây bụi mù mịt, và cho người nhảy nhót trơ trẽn theo điệu nhạc Trung Quốc dưới tượng đài Lý Thái Tổ linh thiêng đã lập công nơi chốn Thăng Long ngàn năm văn vật này là một điều không thể hiểu và không thể giải thích nổi, nhất là với một quốc gia vẫn còn nắm trong tay chủ quyền và có chân trong Hội Đồng Nhân Quyền LHQ. Tưởng niệm 26 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Trường Sa (14/3/1988) cũng sắp đến. Liệu chúng ta sẽ tiếp tục bị tước đoạt như những kẻ nô lệ chỉ vì một phát lịnh của đường dây nóng? Không! Vì tương lai và sự trường tồn của dân tộc, chúng tôi thiết nghĩ chẳng cần truy tầm ai là đạo diễn của thứ kịch bản này, mà phải đủ thấy rằng chính họ là lý do gây lên trong chúng tôi không chỉ những tiếng than, mà còn khiến chúng tôi phải thức tỉnh kết đoàn và ký tên dưới đây. Chúng tôi muốn được xem đây là tiếng nói của mọi thành phần người dân mạnh dạn tuyên bố: 1. Quyền tập họp dâng hoa, thắp nến tưởng niệm một biến cố lịch sử trọng đại của dân tộc vốn mang thuộc tính tâm linh đạo đức, và nhân văn lịch sử nước nhà, không chấp nhận để nước ngoài can thiệp.   2. Không thể quên: “19/1 Hoàng Sa, 17/2 biên giới Việt Nam, 14/3 Trường Sa” là những mốc điểm bi hùng lịch sử, không một ai có quyền xóa nhòa, chôn vùi hoặc bôi bác. 74 anh hùng chiến sĩ VNCH đã lính-chết-theo-tàu trong cuộc hải chiến 19/1 Hoàng Sa để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ phải được vinh danh. 60 ngàn quân dân bộ đội đã bỏ mình trong Ngày Biên giới Việt Nam không thể bị lãng quên. 64 hải quân đã hy sinh tức tưởi trên đảo Gạc Ma, Trường Sa phải được Tổ quốc Việt Nam công nhận ghi ơn. 3. Quyền thiêng liêng tưởng niệm của một sự kiện lịch sử dân tộc càng trở nên có ý nghĩa và danh dự bổn phận, khi đất nước đang bị đe dọa từng ngày bởi tham vọng bá chủ bá quyền Trung Cộng. 4. Vinh danh, tưởng nhớ, tri ân phải được chính thức ban hành và tổ chức trọng thể. 5. Mọi hành vi cấm cản, sách nhiễu với những người mong muốn thực hiện các nghi thức tưởng niệm phải được coi là một thái độ thách thức lòng tự trọng và lương tri người Việt Nam muốn đảm bảo sự vẹn toàn độc lập của đất nước. 6. Quyền bày tỏ cũng như các quyền tối thượng con người của người dân phải được tôn trọng. Xin được gởi những tín hiệu SOS Việt Nam đến với những trái tim tử tế ngợi ca Tự Do và những nhà tù lương tâm chính trị đã đóng cửa vĩnh viễn trên thế giới. Làm ơn ghé mắt xem cho rõ để cùng chuyển tải, chia sẻ hoặc trắc ẩn về những bần cùng và rách nát nhân quyền của Việt Nam. Hãy nắm chặt tay nhau trong một ngày tự quyết quyền tưởng niệm toàn quốc và toàn cầu. Xin khẳng định ngày 14/3 cũng là ngày tưởng niệm linh thiêng các chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc. Không một thế lực đen tối nào ngăn được lòng yêu nước của chúng ta. Tổ quốc Việt Nam muôn năm! Trân trọng kính mời quý đồng bào tham gia ký tên và Danlambao sẽ cập nhật danh sách. Mỗi chữ ký tự nó sẽ là chất xúc tác động viên cho chính mình và bạn bè. Xin ủng hộ bằng cách ký tên ở địa chỉ email này: Congdantudotuongniem@gmail.com Danh sách ký tên đầu tiên theo thứ tự abc (và sẽ cập nhật theo thứ tự thời gian sau đó): 1.     Thi Vũ Võ Văn Ái, nhà thơ & nhà đấu tranh dân chủ (Pháp) 2.     Hòa thượng Thích Nhật Ban, GHPGVNTN (Đồng Nai, Việt Nam) 3.     Trịnh Ngọc Bằng, về hưu (Irving, Texas, Hoa Kỳ) 4.     Nguyễn Mạnh Bảo, giáo sư  (Cao Đài Tây Ninh, Việt Nam) 5.     Nguyễn Ngọc Bích, giáo sư (Springfield, Virginia, Hoa Kỳ) 6.     Nguyễn Thị Thanh Bình , nhà văn & nhà thơ (Washington DC, Hoa Kỳ) 7.     Nguyễn Minh Cần, nhà báo (Moscow, Nga) 8.     Bùi Chát, nhà thơ (Sài gòn, Việt Nam) 9.     Bùi Thị Dung, về hưu (Irving, Texas, Hoa Kỳ) 10.   Lâm Đăng Châu, kỹ sư (Hannover, Đức) 11.   Ngô Cao Chi, giáo sư (Tampa, Florida, Hoa Kỳ) 12.   Nguyễn Bảy Giáp Dần (Sài Gòn, Việt Nam) 13.   Ca Dao, nhà báo (Paris, Pháp) 14.   Phạm Chí Dũng, nhà văn, nhà báo, tiến sĩ kinh tế (Sài Gòn, Việt Nam) 15.   Lê Khánh Duy (Quảng Nam, Việt Nam) 16.   Đào Tăng Dực, luật sư (Sydney, Úc) 17.   Nguyễn Văn Đài, luật sư (Hà Nội, Việt Nam) 18.   Lê Diễn Đức, nhà báo (Houston, Texas, Hoa Kỳ) 19.   Trần Đông Đức, nhà báo (Pennsylvania, Hoa Kỳ) 20.   Trương Minh Đức, ký giả tự do (Bình Dương, Đồng Nai, Việt Nam) 21.   Linh mục Nguyễn Hữu Giải (TGP Huế, Việt Nam) 22.   Nguyễn Thanh Giang, giáo sư (Hà Nội, Việt Nam) 23.   Nguyễn Thanh Hà, kỹ sư (California, Hoa Kỳ) 24.   Đỗ Nam Hải, kỹ sư (Sài Gòn, Việt Nam) 25.   Ni sư Như Hải (Chicago, Illinois, Hoa Kỳ) 26.   Trịnh Đình Hồng Hạnh, kỹ sư (California, Hoa Kỳ) 27.   Vũ Thư Hiên, nhà văn (Pháp) 28.   Trần Thanh Hiệp, luật sư (Pháp) 29.   Huỳnh Trọng Hiếu, blogger (Quảng Nam, Việt Nam) 30.   Phạm Hoàng, nhà báo (CHLB Đức) 31.   Đoàn Viết Hoạt, giáo sư (Virginia, Hoa Kỳ) 32.   Huỳnh Thị Thu Hồng (Quảng Nam, Việt Nam) 33.    Hoàng Vi Kha, nhà thơ (Virginia, Hoa Kỳ) 34.   Thượng tọa Thích Thiện Khanh, GHPGVNTN (Phú Yên, Việt Nam) 35.   Đặng Đình Khiết, giáo sư (Virginia, Hoa Kỳ) 36.   Linh mục Phan Văn Lợi (TGP Huế, Việt Nam) 37.   Cao Xuân Lý , nhà văn (Sydney,  Australia) 38.   Trần Thị Ngọc Minh (mẹ của Đỗ Thị Minh Hạnh, Lâm Đồng, Việt Nam) 39.   Thượng tọa Thích Thiện Minh, GHPGVNTN (Sài Gòn, Việt Nam) 40.   Phan Nhật Nam, nhà văn (California, Hoa Kỳ) 41.   Nguyễn Thị Ánh Ngân (Quảng Nam, Việt Nam) 42.   Phan Ngữ,  bác sĩ  (Đà Nẵng, Việt Nam) 43.   Bùi Thị Kim Phượng (Đồng Tháp, Việt Nam) 44.   Đặng Phùng Quân, giáo sư (Houston, Texas, Hoa Kỳ) 45.   Nguyễn Quốc Quân, bác sĩ, đại diện Tổ Chức Tập Hợp Nền Dân Chủ (Falls Church, Virginia, Hoa Kỳ) 46.   Nguyễn Đan Quế, bác sĩ, chủ tịch Cao Trào Nhân Bản (Sài Gòn, Việt Nam) 47.   Bùi Minh Quốc, nhà thơ (Đà Lạt, Việt Nam) 48.   Bắc Phong, nhà thơ (Toronto, Gia Nã Đại) 49.   Lê Huy Phong, ca nhạc sĩ đấu tranh (San Jose, California, Hoa Kỳ) 50.   Thượng tọa Thích Không Tánh (Huế, Việt Nam) 51.   Liêu Thái, nhà thơ (Quảng Nam, Việt Nam) 52.   Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh (DCCT Sài Gòn, Việt Nam) 53.   Trần Quang Thành, nhà báo (Tiệp Khắc) 54.   Trần Ngọc Thành, kỹ sư (Warsaw, Ba Lan) 55.   Uyên Thao, nhà văn, nhà xuất bản Tiếng Quê Hương (Virginia, Hoa Kỳ) 56.   Huỳnh Phương Thảo (Quảng Nam, Việt Nam) 57.   Linh mục Đinh Hữu Thoại (DCCT Sài Gòn, Việt Nam) 58.   Trần thị Thức (Virginia, Hoa Kỳ) 59.   Nguyễn Đăng Thường, nhà thơ (London, Anh) 60.   Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, GHPGVNTN (Vũng Tàu, Việt Nam) 61.   Nguyễn Thanh Trang, giáo sư (San Diego, California, Hoa Kỳ) 62.   Đỗ Ngọc Xuân Trầm (Áo) 63.   Nguyễn Mậu Trinh, dược sĩ (Gaithersburg, Maryland, Hoa Kỳ) 64.   Huỳnh Anh Trí (Sài Gòn, Việt Nam) 65.   Huỳnh Anh Tú (Sài Gòn, Việt Nam) 66.   Nguyễn Quốc Tuấn, kỹ sư (Florida, Hoa Kỳ) 67.   Hàn Song Tường, nhà thơ, (Houston, Texas, Hoa Kỳ 68.   Đoàn Việt Trung, kỹ sư (Melbourne, Úc) 69.   Nguyễn Bắc Truyển, luật sư (Đồng Tháp, Việt Nam) 70.   Đỗ Ty (Lâm Đồng, Việt Nam) 71.   Nguyễn Đình Vinh, cựu sĩ quan tiền sát QLVNCH (Virginia, Hoa Kỳ) 72.   Huỳnh Khánh Vy (Quảng Nam, Việt Nam) 73.   Huỳnh Thục Vy, blogger (Quảng Nam, Việt Nam) 74.   Dương Triệu Vỹ (Ontario, Gia Nã Đại)
......

Tôn Vinh Chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Trận Gạc Ma 14-3-1988

GĐ Trung Tâm Minh Triết, Thường trực Ban Điều hành Chương Trình Minh Triết Làm Chủ Biển Đông   I- Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã diễn ra cuộc chiến bi hùng giữa một lực lượng nhỏ, chỉ có ba tàu vận tải với chủ yếu là công binh để bảo vệ đảo Gạc Ma, bãi đá Cô Lin và bài đá Len Đao đối địch với hơn 40 tàu chiến trang bị cả tên lửa và pháo lớn hàng 100 mm của quân xâm lược Trung quốc. Quân ta đã anh dũng chiến đấu, cũng đã gây cho phía Trung quốc thiệt hại và thương vong. Lực mỏng, tàu không phải chiến hạm, vũ khí chỉ là thứ cầm tay, nhưng tinh thần quyết tử của chiến sĩ ta thật oai hùng. Những gương hy sinh cao cả của thuyền trưởng Vũ Phi Từ, Lữ phó Trần Đức Thông, của Thiếu úy Trần văn Phương, trước khi ngã xuống còn hô vang ”Thà hy sinh không chịu mất đảo, hãy để máu mình tô thắm truyền thống Hải quân Việt Nam”... và của 61 liệt sĩ Hải quân Việt Nam anh hùng trong trận Gạc Ma, cũng như hành động dũng cảm chiến đấu, mưu trí chống lại quân Trung quốc xâm lược của các chiến sĩ bảo vệ Gac Ma, Cô Lin, Len Đao thuở ấy đã để lại mãi mãi trong lòng các thế hệ người Việt lòng nhớ thương, kính phục và biết ơn.   Gương hy sinh của họ, hành động mưu trí, dũng cảm của họ, tinh thần căm thù kẻ xâm lược của họ, đời đời sẽ là những giá trị tinh thần để nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam yêu nước, không hèn hạ khiếp sợ trước quân thù, luôn biết thức tĩnh, cảnh giác trước mọi mưu mô và hành vi thâm độc của quân bành trướng đại Hán, cũng như với mọi thế lực cường quyền gian ác khác. Tri ân và ghi nhớ những người con đã bỏ mình, đã chiến đấu để bảo vệ non sông Đất nước, chính là để nuôi dưỡng tâm hồn và văn hóa của người Việt. Vì thế bất cứ ai, do một lý lẽ nào, mà vô cảm quay lưng lại với lịch sử, với tiền nhân đều có tội, đáng lên án và phỉ nhổ.   II- Sự kiện Gạc Ma và những bài học không bao giờ được quên 1. Âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của Trung quốc Trung quốc là nước lớn, đang hưng phát, dù họ tuyên bố đường lối phát triển hòa bình, họ nói láng giềng tốt, bạn tốt, đối tác tốt… chớ cả tin. Họ đang khát không gian sinh tồn, và với bản chất bành trướng đại Hán, họ sẵn sàng theo đuổi những phương thức của chủ nghĩa đế quốc dẫu đã lỗi thời. Rõ ràng Việt Nam đã không rút ra được bài học từ Hoàng Sa năm 1974, nên đã không sẵn sàng đối phó được với mưu đồ của Trung quốc chiếm Gạc Ma và trước đó đối với cả chục bãi đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đối với Trung Quốc thì mềm nắn, rắn buông. Rõ ràng một tháng sau khi Gạc Ma đã bị chiếm, ta đã bí mật cho công binh ra xây nhà đánh dấu chủ quyền trên bãi Len Đao, Trung Quốc đem 7 chiến hạm đến vây Len Đao, nhưng không quân VN đã cho 7 máy bay ra chi viện, và chiến hạm của Trung Quốc phải rút chạy khỏi Len Đao. 2- Thế trận bảo vệ biển đảo của Việt Nam   Cha ông ta đã để lại những tư tưởng chiến lược thiên tài, thế kỷ 16 Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: Biển Đông vạn dặm dang tay giữ, Đất Việt muôn năm vững trị bình. Giữ cho được chủ quyền Biển Đảo, và khai thác được lợi thế của một quốc gia biển đảo là chiến lược sinh tử của Việt Nam. Phải tăng cường sức mạnh quân sự để bảo vệ chủ quyền Biển Đảo. Đúng. Phải khai thác lợi thế biển để xây dựng một nền kinh tế biển khá hoàn chỉnh và tầm cỡ. Đúng. Phải phát triển khoa học biển, văn hóa biển. Đúng. Nhưng còn phải coi trọng thế trận lòng dân. Không biết giáo dục tinh thần và ý chí vì chủ quyền biển đảo sẽ là sai lầm nghiêm trọng. Chỉ trên cơ sở một sức mạnh nội lực của Dân tộc về cả tinh thần và vật chất, với một nhân cách mới của người Việt Nam, một nhân cách mới của Dân tộc thật sự văn minh, dân chủ, giàu mạnh mới có tự cường để làm chủ vận mệnh của mình trên biển cả cũng như trên đất liền. Việt Nam thường nói đến phương châm kết hợp sức mạnh của dân tộc và của thời đại. Sức mạnh thời đại chính là sự liên minh, liên kết với những quốc gia, dân tộc văn minh tiến bộ, chứ không thể khư khư cúi mình phục vụ cho một thế lực cường quyền. Đối phó với hiệu ứng “bóng đè” của Trung Quốc trên biển Đông không thể không coi đoàn kết, hô ứng lẫn nhau trong ASEAN là quan trọng. 3-Coi trọng nghiền ngẫm những bài học lịch sử, cả thành công và thất bại   Vấn đề ở đây không chỉ là kể công hay luận tội, mà phải là trao lại cho thế hệ mới một năng lực nhận thức mới, những kinh nghiệm thực tiễn, những giá trị tinh thần về làm chủ, về trách nhiệm, về lòng dũng cảm, tinh thần sẵn sàng hy sinh… về cả kinh nghiệm đối phó với những tình huống chính trị phức tạp. Cho nên cách hành xử ngăn cấm tưởng niệm, nghiên cứu, bình luận, rút tỉa những bài học từ chúng ta, từ đối phương… đều là thiển cận, nếu không nói là vô trách nhiệm với Dân với Nước. Phải làm cho thế hệ trẻ biết trân trọng những giá trị, kể cả bài học sai lầm và thất bại đó sẽ là sự khôn ngoan có văn hóa và đạo đức. Cũng là sự thể hiện một phép thử về máu anh có bao nhiêu nước lã và bao nhiêu là tình dân, nghĩa nước. Dạy cho con em biết trân quý những con người cao quý, đã hy sinh chiến đấu vì Dân vì Nước, đó cũng là nuôi dưỡng một năng lượng mới, một chất lượng mới của nhân cách Việt Nam. Vấn đề không hề nhỏ tí nào. Nhân dân có lý lẽ để chê trách cũng như đòi hỏi một tầm nhìn cao hơn đối với những người đang có trọng trách với Nhân dân và Đất Nước. Ví như Đà nẵng thì chủ trương cho 1974 thanh niên cầm nến tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa. Còn Hà Nội lại tổ chức nhảy nhót với điệu nhạc Tàu vào đúng ngày phải nhớ nghĩ đến 6 vạn đồng bào và chiến sĩ hy sinh để đánh đuổi quân cướp nước! Một cái Tâm đẹp, một cái tầm cao trí tuệ mới là đòi hỏi về cái đức cầm cân nảy mực mới của đất nước. III- Kính lạy trước anh linh 64 liệt sĩ Gạc Ma. Kính chào các chiến sĩ anh dũng chiến đấu ở Gạc Ma Không giống như nhiều năm trước. Năm nay cuộc tưởng niệm trận chiến Gạc Ma đã được Vùng Hải quân III tổ chức trang nghiêm, xúc động. Nhiều bài báo đề cập đến sự kiện bi hùng này. Tình cờ tôi gặp một chuẩn đô đốc Hải quân. Anh ấy nói, chúng cháu vẫn có nề nếp hễ đi qua vùng biển Gạc Ma là thực hiện điều lệnh Hải quân, thả hoa hướng về Gạc Ma tưởng niệm đồng đội đã hy sinh anh dũng. Chúng cháu vẫn đều đặn tổ chức thăm hỏi gia đình các liệt sĩ. Tôi nói nên quan tâm nhiều hơn đến các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng và trở về từ Gạc Ma. Vẫn còn những người bao năm nay vẫn chưa được xác nhận công tích, vẫn còn thất nghiệp. Chương Trình Minh Triết Làm Chủ Biển Đông nhân dịp này xin gởi đến các bạn bè gần xa, các bạn sinh viên, thanh niên, các bậc cha chú, các anh chị em có tấm lòng kính cẩn tri ân đối với những người con của Tổ quốc đã bỏ mình để bảo vệ Gạc Ma, cùng những chiến sĩ đã trở về từ Gạc Ma lời kêu gọi nghĩa tình. Hãy cùng nhau tổ chức những cuộc thăm hỏi tới các gia đình liệt sĩ và chiến sĩ Gạc Ma. Chúng tôi xin công bố danh tính theo từng tỉnh thành để bà con tiện thực hiện. Xin nhờ các báo đài tiếp tay truyền thông giúp. Lời kêu gọi này cùng danh sách liệt sĩ cũng sẽ được gởi đến các tổ chức hội đoàn ở TƯ và các địa phương có liệt sĩ. Thành kính mong có được sự hưởng ứng tốt đẹp. Hà nội ngày 5 tháng 3 năm 2014 N.K.M. ******************* Phương Danh 64 Liệt sĩ Gạc Ma 14-3-1988 (Xếp theo Tỉnh, Thành) I- Quãng Bình: 14 Liệt sĩ 1. Trần văn Quyết. Xã Quãng Thủy, H. Quãng Trạch 2. Trương Minh Phương. Xã Quãng Sơn, H Quãng Trạch 3. Hoàng văn Tùy. Xã Hải Ninh, H.Lệ Ninh 4. Võ Văn Đức. Xã Liên Thủy, H. Lệ Ninh 5. Võ Văn Từ. Xã Trường Sơn, H.Lệ Ninh 6. Trương Văn Hướng. Xã Hải Ninh, H. Lệ Ninh 7. Nguyễn Tiến Doãn. Xã Nghi Thủy, H. Lệ Ninh 8. Phạm Hữu Tý. Xã Phong Thủy, H. Lệ Ninh 9. Phạm Văn Thiêng. Xã Đông Trạch, H. Bố Trạch 10. Trần Đức Hóa. Xã Trường Sơn, H. Lệ Ninh 11. Trần Quốc Trị. Xã Đông Trạch, H. Bố Trạch. 12. Trần Văn Phương. Xã Quãng Phúc, H. Quãng Trạch 13. Nguyễn Mậu Phong. Xã Duy Ninh, H. Lệ Ninh 14. Phạm Văn Lợi. Xã Quãng Thủy, H.Quãng Trạch ** Lệ Ninh, nay đã tách trở lại là Lệ Thủy và Quãng Ninh. Xin tìm chính xác cho __________________________ II. Thái Bình: 9 Liệt sĩ 1. Nguyễn Minh Tâm. Xã Dân Chủ, H. Hưng Hà 2. Mai Văn Tuyến. Xã Tây An, H. Tiền Hải 3. Trần Văn Phong. Xã Minh Tâm, H. Kiến Xương 4. Trần Đức Thông. Xã Minh Hóa, H. Hưng Hà 5. Nguyễn Văn Phương. Xã Mê Linh, H. Đông Hưng 6. Bùi Duy Hiển. Xã Điêm Điền, H. Thái Thụy 7. Phạm Hữu Đoan. Xã Thái Phúc, H. Thái Thụy 8. Nguyễn Văn Thắng. Xã Thái Hưng, H. Thái Thụy 9. Trần văn Chức. Xã Canh Tân, H. Hưng Hà _________________________ III. Nghệ An: 9 Liệt sĩ 1. Trần Văn Minh. Đại Tân. Xã Quỳnh Long, H. Quỳnh Lưu 2. Nguyễn Tấn Nam. Xã Thường Sơn, H. Đô Lương 3. Đậu Xuân Tư. Xã Nghi Yên, H. Nghi Lộc 4. Nguyễn Văn Thành. Xã Hương Điền, H. Hương Khê 5. Phạm Huy Sơn. Xã Diễn Nguyên, H. Diễn Châu 6.Lê Bá Giang. X. Hưng Dũng. TP Vinh. 7.Phạm Văn Dương.X. Nam Kim. H Nam Đàn. 8.Hồ Văn Nuôi. X Nghi Tiên. H Nghi Lộc. 9. Vũ Đình Lương. Xã Trung Thành, H. Yên Thành ________________________________ IV. Đà Nẵng: 7 Liệt sĩ 1. Trần Tài. Tổ 12, Xã Hòa Cường 2. Phạm Văn Sửu. Tổ 7, Hòa Cường 3. Nguyễn Phú Doãn. Tổ 47, Xã Hòa Cường 4. Trương Quốc Hùng. Tổ 5, Xã Hòa Cường 5. Nguyễn Hữu Lộc. Tổ 22, Xã Hòa Cường 6. Trần Mạnh Viết. Tổ 36, Xã Bình Hiên 7. Lê Thế. Tổ 29, Xã An Trung Tây ________________________________ V. Thanh Hóa: 6 Liệt sĩ 1. Hồ Công Đệ. Xã Hải Thượng, H. Tĩnh Gia 2. Đỗ Viết Thắng. Xã Thiệu Tân, H. Đông Sơn 3. Lê Đình Thơ. Xã Hoàng Minh, H. Hoàng Hóa 4. Vũ phi Trừ. Xã Quãng Khê, H. Quãng Xương 5. Cao Xuân Minh. Xã Hoàng Quang, H. Hoàng Hóa 6. Lê Đức Hoàng. Nam Yên. Xã Hải Yến, H. Tĩnh Gia ____________________________________ VI. Hà Nam: 3 Liệt sĩ 1. Phạm Gia Thiều. Hưng Đạo, Xã Trung Đồng, H. Nam Ninh 2. Trần Đức Bảy. Phương Phượng, Xã Lệ Hòa, H. Kim Bảng 3. Nguyễn Văn Thủy. Phú Linh, Xã Phương Đình, H. Nam Ninh __________________________________ VII. Hải Phòng: 3 Liệt sĩ 1. Bùi Bá Kiên. Xã Vân Phong, H. Cát Hải 2. Đoàn Đắc Hoạch. 163 Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân 3. Nguyễn Văn Hải. Xã Chính Mỹ, H. Thủy Nguyên _____________________________________ VIII. Quãng Trị: 2 Liệt sĩ 1. Tống Sĩ Bái. Phường 1, TP Đông Hà 2. Hoàng Anh Đông. Phường 2, TP Đông Hà ___________________________________ IX. Nam Định: 2 Liệt sĩ 1. Nguyễn Trung Kiên. Xã Nam Tiến, H. Nam Ninh 2. Trần Văn Phong. Xã Hải Tây, H. Hải Hậu _________________________________ X. Phú Yên: 2 Liệt sĩ 1. Trương Văn Thinh. Xã Bình Kiên, TP Tuy Hòa 2. Phan Tấn Dư. Xã Hòa Phong, TP Tuy Hòa _______________________________ XI. Hà Tĩnh: 2 Liệt sĩ 1. Đào Kim Cương. Xã Vương Lộc, H. Can Lộc 2. Nguyễn Thắng Hai. Xã Sơn Kim, H. Hương Sơn _________________________________ XII. Hà Nội: 1 Liệt sĩ 1. Kiều Văn Lập. Phú Long, Xã Long Xuyên, H. Phúc Thọ. _______________________________ XIII. Ninh Bình:1 Liệt sĩ 1. Đinh Ngọc Doanh. Xã Ninh Khang, H. Hoa Lư ________________________________ XIV. Quãng Nam: 1 Liệt sĩ 1. Nguyễn Bá Cường. Xã Thanh Quýt, H. Điện Bàn _________________________________ XV. Phú Thọ: 1 Liệt sĩ 1. Hàn Văn Khoa. Xã Văn Lương, H. Tam Thanh __________________________________ XVI. Khánh Hòa: 1 Liệt sĩ 1. Võ Đình Tuấn. Xã Ninh Ích, H. Ninh Hòa Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Bài II: Gạc Ma, Những Năm Sau Đó

"Cuộc chiến chỉ xảy ra 20 phút nhưng cuộc đời kéo dài hàng chục năm. Để có hành động anh hùng trong một trận chiến không khó. Để thành công trong cuộc đời khó thay” – Lê Hữu Thảo đốt thuốc liên tục trong suốt buổi nói chuyện với chúng tôi, tối 17-2-2014, rồi thốt lên câu đó. Quê Nhà   “Ngay trong ngày” 14-3-1988, Bộ Ngoại giao ra tuyên bố “lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc”. Nhưng, phải vài hôm sau Đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân mới cho hay: “Sáng 14-3, các tàu chiến Trung Quốc đã ngang nhiên nổ súng vào 3 tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu Trung Quốc”[1]. Ngày 25-3-1988, đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân cho biết chi tiết: “Họ (Trung Quốc-HĐ) đã dùng súng bắn chết thiếu úy Trần Văn Phương, dùng súng và dao găm đâm bị thương nặng chiến sỹ Nguyễn Văn Lanh, bắn chết một số chiến sỹ khác. Từ trên các tàu chiến, họ tập trung hỏa lực bắn xả vào các chiến sỹ ta ở trên các đảo và trên những tàu bị cháy đang nhảy xuống nước, bắn vào các chiến sỹ đang bơi trên thuyền cao su, dùng cả câu liêm, bắn mạnh vào các chiến sỹ ta đang bơi trên biển. Cho đến nay, chúng ta vẫn còn 74 anh em mất tích”.   Sáng 25-3-1988, ông Nguyễn Văn Mạo dậy sớm đi đôn đốc các gia đình trong xã lên xe đi “kinh tế mới”. Khoảng 8 giờ, khi trở về, ông thấy nhà mình đông nghẹt người. “Tôi rụng rời”, ông Mạo nhớ lại. Nguyễn Văn Phương, con trai ông, có tên trong danh sách 74 người mất tích. Ông Mạo vốn là một chuẩn úy pháo phòng không phục viên, lúc ấy đang là Chủ tịch xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, Thái Bình. “Tôi buồn đến mức xin thôi làm chủ tịch ngay sau đó”- ông nói.   Tâm Điểm của Báo Chí Thảo và Chúc ở lại Sinh Tồn Lớn 10 ngày, “ngày nào cũng nhìn thấy tàu Trung Quốc chạy qua chĩa súng vào đảo”. Ngày thứ 11, có tàu ra, đưa Thảo và Chúc vào bờ. Hàng tháng sau đó, những “người hùng Gạc Ma” sống sót trở thành tâm điểm của báo chí và các sinh hoạt chính trị. Đoàn Thanh niên Cộng sản phát động phong trào “Hướng về quần đảo Trường Sa thân yêu”. Lê Hữu Thảo kể: “Liên tục, báo chí, lãnh đạo, các đại biểu tới thăm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng bay vào Cam Ranh. Tôi và Chúc ‘thay mặt bộ đội Trường Sa’ nhận rất nhiều quà ‘của đồng bào cả nước’. Tôi được mời đóng một đoạn phim tài liệu; được mời vô Sài Gòn; được mời lên truyền hình, nói: Sẵn sàng quay lại Trường Sa”. Khi đó, trong số những người thực sự tham chiến còn sống sót chỉ có Thảo và Chúc là không bị thương. Lanh nằm viện nhiều tháng liền. Lê Hữu Thảo nhớ lại: “Chúng tôi được thông báo, cả hai sẽ được cử đi dự festival Thanh niên Sinh viên Thế giới diễn ra vào giữa năm sau tại Bình Nhưỡng. Hai thằng được tập huấn cách phát biểu và trả lời báo chí. Sau đó lại được thông báo, tên tôi được ghi vào bảng vàng danh dự của Hải quân. Cuối cùng, một sỹ quan quân lực gọi chúng tôi lên nói: Có đợt học tập ở Đức, Thảo và Chúc nên đi, chờ dự Festival thì chậm mất. Chúng tôi đi, té ra là ‘xuất khẩu lao động’ chứ không phải đi học”.   Những Tấm Huân Chương Tháng 12-1988, hàng chục cán bộ chiến sĩ được phong tặng, truy tặng huân chương, phong hoặc truy phong danh hiệu anh hùng. Năm “suất” anh hùng được phân bổ: Thiếu úy Trần Văn Phương (sinh 1965-Quảng Bình), Lữ 146 (hy sinh); Trung tá Trần Đức Thông (sinh 1944-Thái Bình), Phó lữ đoàn trưởng 146 (hy sinh); Đại úy Vũ Phi Trừ (sinh 1957-Thanh Hóa), Thuyền trưởng HQ-604 (hy sinh); Thiếu tá Vũ Huy Lễ (sinh1946-Thái Bình), Thuyền trưởng HQ-505; Nguyễn Văn Lanh (sinh 1966-Quảng Bình), chiến sỹ công binh E83. Thảo và Chúc không nghe nhắc gì tới tên mình. Khi đó, cả hai đang lao động ở Đông Đức, không còn màng tới bằng khen, giấy khen. Trong nước, sự kiện Gạc Ma nhạt dần và biến mất trên báo cũng như trong đời sống chính trị kể từ sau “Hội nghị Thành Đô” (9-1990). Ở Thái Bình, ông Nguyễn Văn Mạo cũng không biết con trai mình, liệt sỹ Nguyễn Văn Phương được truy tặng Huân chương chiến công hạng 3. Ông nói: “Họ đút huân chương đâu đó trên Huyện đội. Một thời gian sau, cậu xã đội trưởng lên huyện họp, nhìn thấy, cầm về”. Bố của liệt sỹ Phạm Gia Thiều, ông Phạm Gia My – người từng ở trong Quân đội từ 1953-1975 – thì không ứng xử như vậy.   Thượng úy Phạm Gia Thiều không thuộc biên chế của tàu HQ-604 nhưng khi 604 được lệnh ra đảo, một thuyền phó vắng mặt, Thiều đã đi thay. Ông My nói: “Khi được mời lên xã làm lễ truy điệu, tôi không đi vì chưa được làm rõ: Anh Trừ, thuyền trưởng, được phong anh hùng; con tôi, thuyền phó cùng chiến đấu trong giờ đó có công, có tội gì mà không nghe nói đến? Một thời gian sau, họ cử một cán bộ mang về nhà tôi tấm huân chương chiến công hạng nhất. Bà nhà tôi nói: không nhận. Đơn vị bảo gia đình yêu sách. Tôi nói: Huân chương là tặng thưởng của ‘nhà vua’ đâu có trao như thế được. Sau, đơn vị cho người mang về, mời tôi ra xã trao”. Những người đã có mặt trên đảo Gạc Ma sáng 14-3 như Thảo thì không câu nệ ai được huân chương, ai không. Trong khoảng gần 20 phút nổ súng đó, không ai có thể quan sát bao quát, để biết, ai đã chiến đấu như thế nào để về báo công. Về sau, báo chí nói khi bị bắn, thiếu úy TrầnVăn Phương hô: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Đấy có thể là ý chí của Phương. Trước đó, khi giao nhiệm vụ, Phương dặn, “Bằng mọi giá, phải giữ cờ”, nhưng khi bị bắn, Thảo biết, Phương không có đủ thời gian để hô khẩu hiệu. Với Thảo, những đồng đội sẵn sàng ra đảo hôm 11-3-1988 đều là những anh hùng. Họ đã nhận nhiệm vụ với tinh thần cảm tử. Một vài bạn của Thảo xin đi đã không được chấp nhận. Một vài người sợ hãiđã đào ngũ trước đó. Vấn đề không chỉ là những tấm huân chương mà là cuộc sống của những ông bố, bà mẹ, của những người vợ, của những đứa trẻ.   Các Góa Phụ Gạc Ma Y sỹ Phạm Huy Sơn (Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An) tưởng có thể được ăn Tết cùng vợ con sau hai năm ở đảo Trường Sa. Nhưng, 15 ngày trước khi hết phép, anh được lệnh quay lại đơn vị, nhận nhiệm vụ mới ở “nhà giàn” Gạc Ma. Phạm Huy Sơn hy sinh khi vợ anh – chị Trần Thị Ninh – đang có thai ở tháng thứ hai (con gái anh Sơn, Phạm Thị Trang, sinh ngày 27-10-1988), đứa con trai sinh năm 1984 bị bại não bẩm sinh. Chồng mất năm 27 tuổi, chị Ninh ở vậy nuôi con trong đau thương và cả những tủi hổ không nói được. Ba năm sau, mấy mẹ con phải ra khỏi nhà chồng. Các cậu, các dì góp chút gạch, chút ngói, cất cho một căn nhà nhỏ. Ông ngoại cho một con bò. Cậu con trai, đến nay đã 31 tuổi, nhưng đến bữa vẫn phải nằm ngửa ra, đợi mẹ xay thức ăn bón vào miệng. Trí não không phát triển nhưng chân tay khỏe mạnh. Nhiều hôm cậu lang thang hết làng trên, xóm dưới. Làm đồng về không thấy con, chị vừa chạy tìm, vừa khóc. Năm 2006, Quân chủng Hải quân cho 15 triệu, chị Ninh nói: “Các anh ấy xét hoàn cảnh, linh động gửi tiền trước thay vì xây xong nhà mới ‘giải ngân’. Đó cũng là cơ hội, tôi vay thêm các cậu, ‘cắm’ sổ liệt sỹ trong hai năm vay thêm 15 triệu của ngân hàng. Xây được căn nhà này rồi trả dần, giờ vẫn còn nợ các cậu 15 triệu”. Căn nhà ngói 3 gian, có gắn bảng “nhà tình nghĩa” của chị Ninh, tuy không to đẹp như các nhà trong xóm, nhưng trông khang trang hơn hẳn so với căn nhà cất hồi năm 1991. Chị Cao Thị Bình và cháu ngoại Chị Cao Thị Bình – vợ liệt sỹ, bác sĩ quân y Hồ Công Đệ (Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) – vốn là một người lính ở vùng Biên phía Bắc. Năm 1981, họ cưới nhau khi chị ra quân. Từ năm 2012, “các đoàn” về thăm thấy chị có một căn nhà khá khang trang, ít ai biết, cho đến năm 2011, chị vẫn phải làm “osin” ở Vũng Tàu. Tám năm giúp việc cho một gia đình, nhà chủ thông cảm hoàn cảnh, để chị mang 3 đứa con vào cùng ăn học. Chồng chết năm 31 tuổi, khi mới mang thai 6 tháng đứa con thứ 3, chị Bình kể: “Bốn năm sau khi anh mất, một người bạn mới mang đồ đạc của anh về. Khi đó, 4 mẹ con đang sống trong một căn nhà tranh, vách đất. Đêm đêm, tôi lặn ngụp, mò cua, bắt ốc, bệnh sưng khớp đeo đẳng tới bây giờ. Hai đứa con gái đã lấy chồng, rất thương mẹ. Cháu trai, Hồ Công Được, cũng đã có bằng trung cấp cơ điện. Chỉ mong cháu xin được một chỗ làm trong công trường xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, rồi tôi có chết cũng mãn nguyện”. Trung úy hải đồ Lê Đình Thơ (Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) hy sinh khi con gái, Lê Thị Thủy, mới vừa tròn một tuổi. Chín tháng sau, mẹ anh, bà Lê Thị Lương, kể: “Ngày 20-12-1988, đơn vị cho xe về đón tôi ra, đến lượt vợ thằng Thơ mất”. Mất con, rồi mất dâu, bà thay mẹ nuôi đứa cháu nội mới gần 2 tuổi. Bà Lương nói trong nước mắt: “Tôi khổ cả đường tình, cả đường con. Tôi sinh đứa thứ 4 thì chồng bỏ đi lấy vợ khác. Nhiều năm trời không biết giấc ngủ là gì bác ạ”. Cô dâu út thấy bà kể lể, nắm áo: “Thôi, bà ơi!” .Bà Lương quay sang con dâu, quyệt mắt: “Mi có biết khổ là chi mô”.   Được bà nội và các cô chú chăm sóc, Thủy lớn khôn, học giỏi. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Mỏ Địa Chất, cô được đơn vị cũ của cha – Đoàn do đạc biên vẻ bản đồ và nghiên cứu biển, Hải quân -nhận về làm. Bà Lương cho biết, đơn vị cha cháu vẫn giữ liên lạc suốt bao nhiêu năm và luôn quan tâm đến cháu. Bà khoe, mỗi khi ra thăm cháu, cứ hết người này đến người kia mời. Bà nói: “Gần đây, tôi nằm mơ thấy thằng Thơ về, nó mặc quân phục, đeo quân hàm rất đẹp, nói với tôi: Mẹ chăm cháu thế là được rồi, mẹ không phải ra nữa, vậy là tôi ở nhà”. Bà Lương bảo: “5 triệu các anh (Nhịp Cầu Hoàng Sa) đưa hôm Tết, tôi dùng để mua một cỗ hòm”. Các ông bố, bà mẹ, những người vợ liệt sỹ hết tuổi lao động được cấp tiền tử tuất, trước đây là 370 nghìn/ tháng; sau đó tăng lên 670 nghìn; năm 2013 là 1 triệu 100 nghìn; năm 2014 là 1 triệu 220 nghìn/ tháng. Từ năm 2008, nhiều đơn vị phối hợp với địa phương, cấp cho một số gia đình liệt sỹ Gạc Ma từ 15, 20 triệu đến 30, 50 triệu/ gia đình để xây “nhà tình nghĩa”, nhiều gia đình cố vay mượn thêm để xây được căn nhà. Ngày 19-2-2014, khi chúng tôi đến xã Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An, thăm gia đình liệt sỹ Đậu Xuân Tư, hai cha con người em của Tư, Đậu Xuân Chương, vẫn đang “đi Lào làm phụ hồ”. Chị Phan Thị Lương, vợ anh Chương, nói: “Anh ấy rất muốn mua cái máy cày hoặc máy tuốt lúa (khoảng 35 triệu) để khỏi phải đi làm thuê xa nhưng ngân hàng không cho vay vốn vì vẫn còn nợ 6 triệu chưa trả hết”.   Có những ngôi nhà thực sự tình nghĩa, như nhà của ông Phạm Gia My. Bạn bè liệt sỹ Phạm Gia Thiều, thời anh học ở đại học Hàng hải đã góp 500 triệu xây nhà tặng ông. Năm 2010, bà Nguyễn Thị Nhơn (83 tuổi), mẹ của Đậu Xuân Tư, được một đơn vị tặng 50 triệu. Thay vì tu sửa căn nhà cũ của gia đình Chương, người em đang chăm sóc bà Nhơn, theo chị Lương: “Họ yêu cầu phải xây riêng cho bà, chúng tôi phải vay mượn thêm 45 triệu”.   Cuộc Chiến, Cuộc Đời Phần lớn các cựu binh Gạc Ma khi trở về đều sống rất chật vật. Trừ một số người nhận danh hiệu anh hùng, nhận huân chương, thăng tiến trong quân đội, số còn lại “hết nghĩa vụ ra quân” không có chế độ gì. Phạm Xuân Trường, Trương Văn Hiền… tuy đã ổn định gia đình nhưng kinh tế chỉ đắp đổi qua ngày. Ngôi nhà Phạm Xuân Trường xây đã mấy năm vẫn chưa kiếm đủ tiền mua cửa. Còn Lê Hữu Thảo thì vẫn lông bông, chưa vợ, chưa nhà. Trong một lần về quê đầu năm 1991, Thảo yêu một “cô gái đẹp có tiếng ở Hà Tĩnh”. Suốt mấy năm sau đó, cô nhất mực chờ anh. Năm 1995, sốt ruột vì tuổi con gái lớn dần, bố cô điện thoại sang Đức cho Thảo nói: “Nếu con yêu và quyết tâm lấy nó thì đêm nay suy nghĩ kỹ, ngày mai điện về. Khi đó, nó muốn đợi bao lâu cũng được”. Đêm ấy,Thảo bị bắt trong một chiến dịch truy quét thuốc lá lậu của cảnh sát Đức. Mối tình sau đó, cho Thảo một đứa con trai, cũng chỉ kéo dài được mấy năm. Đã từng hào hiệp với bạn bè. Để rồi, nay trở về quê, Thảo nói: “Thật xấu hổ khi gần như chỉ còn hai bàn tay trắng”. [1] TuổiTrẻ thứ Năm, 17-3-1988. Nguồn: http://newosin.wordpress.com/2014/03/01/bai-ii-gac-ma-nhung-nam-sau-do/
......

Chúng ta biết ơn những người bị bắt.

Có lần một thượng nghĩ sĩ của một nước châu Âu, hỏi trực tiếp tôi   ( qua phiên dịch). Bây giờ thì hình như ông ta là bộ trưởng hay phó thủ tướng gì đó. Các Bà Mẹ của những người bị bắt   - Anh nghĩ sao về chuyện có những người bị bắt và có những người chưa bị bắt. Tôi vẫn thấy nhiều người viết hoặc đấu tranh nhân quyền không bị bắt đó thôi. Tôi trả lời.   - Tôi nghĩ là chỉ có người  bị bắt và người chưa bị bắt thôi. Vì sự bắt bớ vẫn diễn ra, năm nay người này, năm sau người khác. Cho nên tôi chờ đợi ở những người như ông câu hỏi - Chừng nào ở Việt Nam không có người viết, người bất đồng chính kiến bị bắt ?- Câu hỏi đó tôi nghĩ mới cần thiết. Ở cuôc gặp này có 3 người Việt Nam được đối thoại với các nghị sĩ, hai trong số 3 người đó là người của nhà nước Việt Nam.   Trong câu hỏi của vị thượng nghị sĩ kia, chắc chắn ông ta có những thông tin về người bị bắt, và chắc chắn ông ta còn có những lý giải của ai đó về việc vì sao có người không bị bắt. Ví dụ người bị bắt là không phải đấu tranh ôn hòa cho nền dân chủ, nhân quyền mà họ đi gây sự, đi phá phách ...vv và vân vân.   Những lý giải này từ phía người của nhà nước Việt Nam, đó là chuyện tất nhiên. Nhưng đang tiếc những lý giải này còn có ở những người đấu tranh chưa bị bắt. Tôi rất buồn khi nhìn báo cáo của họ, tôi vẫn cứ nghĩ rằng báo cáo đó do an ninh mạo danh soạn ra và cách nào đó gửi đến đây, nghĩ thế cho đỡ buồn.   Trở lại câu chuyện người bị bắt và chưa bị bắt. Nói nôm na theo dân chúng, chẳng qua chỉ là chuyện nạc và xương. Bao giờ hết nạc mới vạc đến xương. Những người bị bắt là nạc, những người chưa bị là xương. Đương nhiên người ta cứ chén nạc cái đã, bao giờ hết mới đến bọn xương.   Tôi nằm trong số bọn xương, nhiều khi tôi nghĩ mình chưa bị bắt, không phải là khôn ngoan hơn người bị bắt. Chẳng qua những người bị bắt đã mạnh mẽ quá, và họ đã hứng chịu thay cho mình. Thử hỏi không có họ xem, ôn hòa à, hữu nghị à, chỉ viết lách à...với một chính quyền chuyên chế thì chỉ bóng gió thôi cũng đi tù mút mùa cải tạo như trước đây nhiều người đã bị khi nói vài câu ở hàng nước.   Nhưng hôm nay ở hàng nước nhiều người nói thế không sao. Bởi vì có người viết hẳn bài trên mạng, người viết bái trên mạng không sao, vì có người viết hẳn tên tuổi đích danh quan chức. Và nếu có bắt thì những người viết đích danh như Cù Huy Hà Vũ, Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào sẽ bị bắt trước, chẳng bao giờ người ta đi bắt bọn phê phán ôn hòa ở hàng nước vỉa hè trước cả.   Tương tự như thế, những người ở đảng phái sẽ bị bắt trước những người không đảng phái. Khi mà không có người ở đảng phái, tổ chức thì ắt những người đấu tranh không đảng phái vô tù. Lúc đó thì đừng nghĩ mơ đến chuyện tôi không đảng phái gì, tôi độc lập, tôi trong sáng lý tưởng.   Cũng tương tự như thế, người đấu tranh trực tiếp trên đường phố bằng hành động thực tế như Nguyễn Phương Uyên . Đinh Nguyên Kha và Bùi Thị Minh Hằng sẽ đương nhiên bị ưu tiên hốt trước tiên.   Cho nên những người chưa bị bắt có đi con đường ôn hòa ( con đường không nạc mỡ ) thì đừng chê trách những người bị bắt. Vì hiểu thấu đáo nguyên nhân thì họ đã chịu trận cho mình. Chúng ta, những người chưa bị bắt chả khôn ngoan gì hơn họ, nói thẳng chúng ta đang hưởng chút an toàn từ họ. Nhưng còn chê trách họ, ngầm tạo dư luận bất lợi cho họ trước phiên xử, trước khi cơ quan anh ninh ra quyết định khởi tố. Cung cấp những thông tin về họ thiếu khách quan cho tổ chức báo chí quốc tế, nhân quyền, đại sứ, chính phủ các nước.  Để họ bị cô lập trước một cuộc tấn công sắp xảy ra. Đó là điều không giản đơn.   Tôi chia sẻ với ông Huỳnh Ngọc Tuấn, là một người đấu tranh nhiều năm, chịu án tù nhiều năm, ông cảm giác cơn giông bão sắp tới với con thuyền gia đình mình là điều tất nhiên. Cảm giác ấy khó nói được thành lời để giãi bày thiên hạ.   Không phải tình cờ, một Hồ Lan Hương ngồi một chỗ, không mấy tiếng tăm, không tham gia các hoạt động. Càng chưa bao giờ gần với Bùi Thị Minh Hằng. Bỗng nhiên một ngày giật status nói Bùi Hằng đi gây sự, và hai hôm sau cơ quan an ninh chuyển từ tạm giữ sang tam giam và khởi tố Bùi Thị Minh Hằng với tội danh chống người thi hành công vụ, một tôị danh rất phù hợp với từ '' gây sự ''   Chúng ta hãy xem lại đoạn phim Bố Già, khi Mai Cơn vào viện thăm ông, không thấy ai bảo vệ. Mai Cơn đã hiểu đằng sau đó có vấn đề sắp đến với sinh mạng bố mình. Cũng như Trần Bùi Trung đi đòi bảo vệ mẹ mà không thấy những người trước kia gọi mẹ xưng con, chị chị em em đi theo.   Dù sao ở bài viết này, tôi vẫn muốn nhấn mạnh chuyện vì sao có người bị bắt và chưa bị bắt. Và vì sao những người chưa bị bắt nên cám ơn họ. Chứ không phải là chê trách họ ngu hơn mình. Đó cũng là lý do vì sao tôi hay bênh vực những người bị bắt bớ giam cầm vì lý tưởng
......

Vừa hợp tác vừa đấu tranh

Có lẽ ít người biết đến cụm từ này cụ thể là hành động thế nào. Tôi thấy một số người vẫn thắc mắc tại sao đối tượng A, nhóm B cũng đấu tranh mà lại đi đánh phá người khác. Người Buôn Gió Hợp tác có nghĩa là làm cho an ninh một số việc, đồng thời được an ninh cho phép làm nhà "đấu tranh" trong mức độ có lợi cho an ninh. Tất nhiên trong về này, an ninh bao giờ cũng hời hơn. Vì họ được cả một cuộc chiến. Còn những kẻ kia về cá nhân họ cũng được hời. Ở giá cả trao đổi như vậy hai bên đều cảm thấy hài lòng. Có những người vì thiếu hiểu biết, đố kỵ, ghen tức nhau mà vô tình để những lời an ninh nói nhập vào đầu mình. Dẫn đến tự nguyện làm một người vừa đấu tranh mà vừa hợp tác trong khi chính họ không biết. Nhưng có người thì nhận thức được điều đó, và họ bằng lòng với việc này. Bởi họ hy vọng sẽ mượn tay an ninh triệt phá các nhóm đấu tranh cạnh tranh với họ, hòng dành được nguồn tiền trợ lực từ hải ngoại cho nhóm của mình. Sâu xa hơn là họ hy vọng vào sự thay đổi xã hội, họ sẽ là lực lượng được ĐCS chọn làm đối thoại trong buổi giao thời. Bởi thế họ luôn tạo cho mình vẻ ngoài là ôn hòa, là chừng mực, là vì một chuyển biến tốt đẹp cho dân tộc mà cả hai bên đều thấy ổn thỏa, hài hòa. Hợp tác là năng chịu khó cà fe với an ninh, kể những chuyện mình nghe, mình biết về người nào đó đang làm gì, đang định thế nào. Qua câu chuyện cà fe này, an ninh có thông tin về thằng kia đang yêu một con bé dưới tuổi thành niên, thằng này đang khó khăn trong việc thuê nhà, kiếm việc làm, con nọ là vợ hai của lão này, con kia dây dưa với bọn Việt Tân, Dân Chủ, 8406.. Cái việc gặp gỡ kể chuyện tưởng như đối thoại tầm phào như hai người bạn trao đổi quan điểm đó, thực chất là một cuộc cung cấp thông tin về nhóm khác, người khác đang hoạt động hay tình trạng thế nào cho anh ninh nắm bắt. Đổi lại họ nhận thêm từ phía an ninh những thông tin về người đấu tranh này đã có những gì không xứng đáng là nhà đấu tranh, ví dụ như nhận tiền để đấu tranh, theo đảng nọ kia...   Sau đó hai bên ra về, khai thác sử dụng thông tin theo cách của mình.  An ninh thì gia tăng việc ngăn cản thuê nhà, xin việc hay triển khai bắt người (như trường hợp Dũng aduku).   Còn kẻ  "đấu tranh" thì từ nguồn tin an ninh về sẽ rỉ tai rằng người này, người kia có vấn đề. Những kẻ "đấu tranh" này rất chịu khó làm quen với các trang truyền thông lớn quốc tế hoặc những trang báo ngoài lề. Để khi cần thiết có thể lái dư luận hoặc cô lập thông tin về vấn đề nào đó. Chúng cũng hay chịu khó ghi danh vào bất cứ nhóm nào để chiếm vị trí trong nhóm, khi cần đưa ra những ý kiến làm phân tán sức mạnh của nhóm. Được cái bề ngoài nhiều người lầm tưởng kẻ "đấu tranh" này đang nỗ lực hoạt động vì tham gia nhiều nhóm. Nhưng nhìn thực chất thì chúng không làm gì hiệu quả thực sự. Thậm chí chúng còn lái các hoạt động đấu tranh đi sang hướng khác, chúng nhanh chân chiếm vị trí để nắm thông tin hoạt động của nhóm. Khi nhóm có việc gặp các cơ quan ngoại giao, chúng sẽ chiếm một phần tiếng nói trong đó. Đôi khi nội dung phát biểu của chúng với cơ quan ngoại giao chỉ nhằm mục đích lấy đi thời gian của người khác mà nội dung cần thiết hơn. Chúng tập trung một số thanh niên trẻ quanh mình, lợi dụng sự khác biệt giữa lớp già với lớp trẻ để khoét sâu mâu thuẫn, gia tăng sự hiềm khích. Khiến cho các hoạt động của nhóm lớn tuổi và nhóm trẻ trở thành riêng rẽ. Đồng thời chúng cũng thâm nhập vào các nhóm để làm phân hóa, tan rã các nhóm bằng cách kích động tự ái của một số người, xúi dục họ tách ra lập nhóm này nhóm kia. Sau khi lập nhóm mới xong, chúng cho hoạt động vài ba trò rồi để nhóm tự tan rã. Bởi mục đích của chúng chỉ là phân hóa nhóm ban đầu. Điều này giải thích vì sao nhiều nhóm đầu voi đuôi chuột. Lúc đầu rất hăng hái bên nhau, sau cứ mâu thuẫn dần, các hoạt động nhạt dần rồi tan rã. Điều độc ác hơn là khi những người đấu tranh nào đó bị bắt, chúng phân tán dư luận bằng những luận điệu như với Tạ Phong Tần chúng bảo là an ninh trá hình, với Nguyễn Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh chúng bảo đó là do nghe theo thế lực chính trị bên ngoài. Với Huỳnh Thục Vy chúng gây sự, với Lê Thị Công Nhân chúng moi móc thông tin cá nhân để dèm pha. Nhiều người e ngại không dám nói, vì có thể trước đó có chút giao du, hoặc có thể để an phận mình, hoặc có thể chúng đánh nhóm khác mà mình cũng không ưa. Hoặc họ nghĩ nhầm đây là mâu thuẫn giữa những người đấu tranh, không tham gia làm gì. Xin thưa, đây là cả một chiến dịch có âm mưu kết hợp bài bản của cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ. Nếu đọc được sách hướng dẫn "đấu tranh chống diễn biến hòa bình". Bạn sẽ thấy hoạt động này nằm hẳn trong một trương về "phân hóa". Và đã gọi là "phân hóa" diễn biến bên trong thì tất nhiên kẻ tham gia phải nằm trong hàng ngũ những người đấu tranh. Một số bạn trẻ vẫn nghĩ rằng, con người này vẫn đấu tranh, mình làm việc với họ thấy thế mà. Ở đây cũng nằm trong sách lược, vì cơ quan an ninh tính rằng ngăn chặn từ đầu hơn là bắt bớ. Nên họ ngầm để bạn theo những kẻ này, hoạt động trong vòng kiểm soát, ở những mức độ họ có thể thấy chấp nhận. Ví dụ như phong trào xuống đường biểu tình lên cao, họ sợ bạn tham gia, họ để bạn theo kẻ kia để biểu tình trong nhà. Họ sợ bạn tham gia Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, nên họ để các bạn tham gia các nhóm nhỏ này nọ để thỏa mãn sự đấu tranh trong bạn. Vì họ biết không thể dập tắt thì họ chọn một lối đi cho bạn cũng là đấu tranh khác. Cũng như nguồn nước sẽ xuôi theo về với sông lớn. Họ cho bạn chảy riêng theo một dòng khơi, bạn không hòa vào con sông lớn, bạn có bản sắc của riêng mình, thỏa mãn cái tôi của bạn, cái tiếng đấu tranh của bạn. Mục đích của những người bảo vệ chính trị nội bộ là không để cho một con sông lớn được hình thành. Những dòng suối nhỏ chảy mãi rồi cũng thấm dần vào đất và mất tích êm đềm, đúng như các nhóm nhỏ đã sinh ra và mất đi như thực tế. Sẽ có người hỏi, tại sao chúng hợp tác với an ninh mà thỉnh thoảng vẫn bị làm khó dễ.? Nhìn thực chất thì những khó dễ đó không nhiều, nó chỉ mang tính nhất thời trong một vụ việc nào đó. Mà do các cơ quan an ninh không kịp phối hợp trao đổi cho nhau. Hoặc vì ngăn chặn cả một đám đông thì chúng lọt vào đó nếu đẩy ra cũng khó. Nhưng cũng phải thẳng thắn công nhận là có lúc để cần thể hiện mình là nhà "đấu tranh" chúng đi quá những gì mà an ninh mong muốn. Tôi là kẻ chưa học hết phổ thông, từng đâm chém thuê, tàng trữ vũ khí, buôn ma túy, trấn lột tài sản, tổ chức cá độ cờ bạc... một kẻ từng làm những điều như thế để kiếm lợi  thì khó có gì bảo đảm lời nói của mình là trong sáng, khách quan. Tôi thực sự thú nhận không hề có danh dự gì để bảo đảm lời mình nói là đúng. Cũng có thể tôi nói lời này vì không kiềm chế được cơn giận khi Bùi Thị Minh Hằng đương trong lao tù mà bị bên ngoài đánh phá.   Đọc một bài viết, phụ thuộc vào cảm nhận của chính các bạn đọc. Nhưng nếu các bạn được tiếp cận hồ sơ những vụ án của tôi nói, sẽ thấy một điều là vụ nào lời khai của tôi cũng chỉ có một mình tôi phạm tội. Một kẻ đã từng dám làm những điều như vậy, thì không thể viết một bài viết dài mà không có tên tuổi ai, khiến thiên hạ đoán mò.   Người mà tôi nói trên là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm Gấu. Người đứng đằng sau trong các vụ đánh phá Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh, Tạ Phong Tần và Bùi Thị Minh Hằng lần này.   Còn có những người đứng đằng sau MNG ở Hải ngoại và một số chân rết ở trong nước. Nhưng thiết nghĩ động cơ của họ chỉ vì muốn đấu tranh dân chủ mà có những hướng đi nhất thời chưa khớp với thực tế. Nên không nhắc tên họ ở đây sẽ ảnh hưởng đến việc đấu tranh của họ sau này. Bức tranh toàn cảnh đấu tranh Việt Nam rất đa dạng, mỗi con người là một nét vẽ, mỗi nét vẽ có những xuất xứ, động cơ khác nhau. Chính thế khi nhìn vào bức tranh đó, người ta khó trông cậy được một điều gì hoàn chỉnh, tổng thể.   nguồn:facebook's Người Buôn Gió
......

Tin Nhanh Tổng Hợp về buổi Tưởng Niệm Ngày Biên Giới tại Hà Nội

"Nếu để ý, những cuộc xuống đường của người Hà Nội về sau này không còn cờ đỏ, được công bố một cách chính thức bởi các nhóm dân sự, ngoài những khầu hiệu chống ngoại xâm họ đã không ngần ngại gọi chính quyền là bán nước. Chính những người CS đã đẩy những người ban đầu chỉ vì tinh thần dân tộc thành thế lực đối đầu không khoan nhượng. Chính quyền bối rối phản ứng một cách ngây ngô, thêm dầu vào lửa và đốt cháy nhanh chóng sự chính danh yếu ớt của mình." Trong suốt chiều và đêm ngày 15/2/2014, nhà cầm quyền đã cho dựng gấp rút một sân khấu tại khu tượng đài Lý Thái Tổ để tìm lý cớ mới ngăn chận buổi tưởng niệm Ngày Biên Giới hôm nay. Các thủ thuật mới hôm nay chắc sẽ khác với các trò công an đã dùng vào ngày 19/1 vừa qua để cản trở buổi tưởng niệm chiến sĩ Hoàng Sa. Đây là biểu hiệu mà mọi người đã đồng ý chọn qua mạng Internet để tưởng nhớ đến các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh Từ sáng sớm, công an chìm nổi đã kéo đến hiện trường. Trong khi đó người dân Việt tại Hà Nội và các vùng phụ cận vẫn lên đường tiến đến khu tượng đài. Chúng tôi nhận thấy có nhiều khuôn mặt quen thuộc của giới trí thức và văn nghệ sĩ:   Vành khăn đỏ trên đầu: Nhân Dân không quên 1979 – 2014 Cụ bà Hiền Đức là người niệm hương đầu tiên và cũng là người đầu tiên bị công an xô đẩy. Sau đây là cảm nghĩ và dự phóng của nhà hoạt động Nguyễn Tường Thụy về buổi tưởng niệm hôm nay: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nguyen-tuong-thuy-ve-ngay-16-2 Từ Hà Nội những khuôn mặt thân thương đang đại diện cho cả dân tộc trước anh linh Quân và Dân Việt đã hy sinh vì đất nước   Công an tiếp tục kéo đến nhưng ẩn núp kín đáo và chờ lệnh, trong khi đó đoàn côn an, với đầy đủ thủ lãnh lớn nhỏ và đầy đủ cả nam lẫn nữ, đành hậm hực đứng nhìn đoàn người Việt yêu nước đi quanh bờ hồ đả đảo Trung Quốc xâm lược: Đồng bào tụ tập trước tượng đài Lý Thái Tổ và hô to khẩu hiệu đả đảo Trung quốc xâm lược: https://www.facebook.com/photo.php?v=593506354075190&set=vb.100002474930... https://www.facebook.com/photo.php?v=593596350732857&set=vb.100002474930...   'Dư Lợn Viên' gào thét, quấy phá:http://www.youtube.com/watch?v=oSGVQndXfd4   Nhưng những con dân Việt đang có mặt tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ vẫn tập trung vào ý nghĩa của Ngày Biên Giới hôm nay. Họ đang đại diện cho cả dân tộc trên khắp nước và trên khắp thế giới để đốt những nén hương đầu tiên trước anh linh các anh hùng đã ngã xuống để bảo vệ Tổ Quốc:   Phóng viên nước ngoài có mặt để ghi lại quyết tâm của dân tộc Việt và cũng để sẵn sàng ghi lại các trò hèn kém của công an:   Và sau đây là cảm tưởng của Blogger Gió Lang Thang và cũng là cảm tưởng tiêu biểu của giới trẻ tại Hà Nội về cuộc tưởng niệm Ngày Biên Giới hôm nay: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/blogger-gio-lang-thang-ve-ngay-16-2 Trong lúc nhà cầm quyền tổ chức văn nghệ tưng bừng, Đoàn người Việt mang Hoa Sim tưởng niệm đi quanh bờ hồ   Cán bộ đảng múa may quay cuồng trước tượng đài Lý Thái Tổ: https://www.youtube.com/watch?v=xO5daEqa-3o https://www.facebook.com/photo.php?v=459129564188852&set=vb.100002754387... Trong ngày tưởng niệm nhiều vạn sinh mạng của Quân và Dân Việt để bảo vệ đất nước, nhà cầm quyền lại làm một hành động vô văn hóa, vô đạo đức. Đó là tổ chức ca nhạc và nhảy nhót để chiếm lấy hầu như toàn bộ khu vực tượng đài Lý Thái Tổ. Sau đây là khung cảnh hiện trường theo lời tường thuật của blogger JB Nguyễn Hữu Vinh: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nguyen-huu-vinh Đoàn người Việt yêu nước đành xót xa đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm và bày tỏ sự phẫn nộ đối với dã tâm xâm lược của Trung Quốc. Blogger Nguyễn Tường Thụy chuyển lại các âm thanh sau đây: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nguyen-tuong-thuy-ve-cuoc-di-quanh-bo-ho Ngoài các vành khăn đỏ trên đầu, đoàn người Việt yêu nước cũng cùng mang huy hiệu Hoa Sim: Đoàn côn an hậm hực nhìn theo những người yêu nước Khi thủ thuật nhiều công phu suốt đêm để gấp rút chiếm hết hiện trường bằng buổi ca nhạc, nhảy nhót vẫn thất bại trong ý đồ chận đứng cuộc tưởng niệm của đồng bào, và khi không giở lại được những trò hèn kém của ngày 19/1 (cắt đá, chỉa loa, giật băng rôn bỏ chạy, v.v...), đoàn côn an, với đầy đủ thủ lãnh lớn nhỏ và đầy đủ cả nam lẫn nữ, đành hậm hực đứng nhìn đoàn người Việt yêu nước đi quanh bờ hồ đả đảo Trung Quốc xâm lược: Sau đây là nhận xét của Blogger Lê Anh Hùng: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/le-anh-hung Hành động vô văn hoá, vô đạo đức Nhiều người Việt yêu nước có mặt tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ và nhiều đồng bào khác trên mạng Internet lắc đầu đau đớn nhìn cảnh tượng mà một số bloggers gọi là "hành động vô văn hóa, vô đạo đức". Nhà cầm quyền đã gấp rút cho tổ chức các màn nhảy nhót trong ngày tưởng nhớ hàng vạn người đã hy sinh, chỉ để cố ngăn cản cho được những người dân Việt muốn bày tỏ lòng tiếc thương: Trước cảnh tượng này, Cụ Bà Lê Hiền Đức phải thốt lên những lời sau đây: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/cu-le-hien-duc Nỗi đau và phẫn nộ của giới trí thức tại Ngày Biên Giới Sau đây là chia sẻ của 4 vị tiêu biểu cho giới trí thức, văn nghệ sĩ có mặt trong cuộc tưởng nhớ Ngày Biên Giới hôm nay, bao gồm cả Nghệ Sĩ Kim Chi. https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nghe-si-kim-chi Trong đoàn người Việt yêu nước hôm nay có sự tham gia của nhiều con cháu Bà Trưng, Bà Triệu: Tiếng hô của các bác, các chị hòa cùng dòng người yêu nước vang rền giữa lòng thủ đô Hà Nội: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/khi-the-buoi-tuong-niem (Hình ảnh tổng hợp từ các nguồn của RadioCTM và Internet) Văn Ngọc Thu, Vũ Hạ Quyên, Vĩnh Ánh, và Trần Quang Thành tường thuật  
......

Đừng quên "Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới"

“Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới, quân xâm lược bành trướng dã man, đã dày xéo mảnh đất tiền phương, lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp nẻo biên cương." Khúc ca hùng tráng này đã thịnh hành trong suốt thập niên 80 và được đưa vào chương trình sinh hoạt quân đội Việt Nam.   Đêm rạng sáng ngày 16-2-1979, khi quân xâm lược Trung Quốc đổ một lực lượng quân đội hùng hậu vào đánh chiếm sáu tỉnh biên giới phía Bắc nước ta, thì ngày 17-2 -1979, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã cho ra đời bài hát này. Bài hát như một bài hịch hiệu triệu toàn dân vào cuộc chiến đấu mới  và được lưu truyền rộng rãi trong nước để khích lệ sĩ khí quân dân ta đứng trước hiểm họa ngoại xâm từ phương Bắc. Khi bình thường hóa quan hệ Việt-Trung xong, bài hát này đã bị khai tử, và người ta không còn nghe hát trên các đài phát thanh hay trên các kênh thông tin đại chúng nữa. Dầu vậy nhưng âm vọng của nó vẫn trỗi dậy trong lòng mọi người mỗi khi kỷ niệm cuộc chiến oanh liệt chống quân Trung Quốc ngày 17-2 hằng năm. LỬA ĐÃ CHÁY VÀ MÁU ĐÃ ĐỔ   Làm sao có thể quên khi không biết bao nhiêu máu xương của quân và dân ta đã đổ xuống để bảo vệ cho toàn vẹn lãnh thổ ngày ấy. Trung Quốc đã dùng hàng trăm đại pháo, xe tăng, hỏa lực bắn giết hàng vạn dân và quân ta, gây ra cái chết trên 60.000 người. Bầu trời biên giới miền Bắc đã nhuốm màu máu lửa tang thương. Ba mươi lăm năm trôi qua, vết thương chiến tranh tuy đã lành nhưng ấn chứng, di tích hãy còn đó với những tấm bia tưởng niệm hãy còn đó khắc ghi tội ác của quân thù xâm lược Trung Quốc mà bây giờ nhà nước ta hôm nay phải gọi là "Bạn", là đồng chí với tinh thần "4 Tốt + 16 Chữ vàng". Cũng vì tình hữu nghị đồng chí anh em giữa hai Đảng CS VN và Đảng CS TQ mà hôm nay báo chí chính thống trong nước đều phải tháo gỡ những bài viết đã đăng về sự kiện lịch sử này. Và cũng vì tình hữu nghị mà trang sách sử giáo khoa Việt Nam vẫn chưa được phép đưa vào để giáo dục cho thế hệ con em mai sau về tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm. Hằng năm, chúng ta có quá nhiều ngày quốc lễ để kỷ niệm, nhưng ngày 17-2 - ngày biến cố lịch sử quan trọng cần phải được tổ chức sinh hoạt rộng rãi trong toàn đảng, toàn quân và toàn dân thành quốc lễ như kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, v.v... - nhưng đảng và nhà nước Việt Nam lại cố tình bỏ quên; trong khi có rất nhiều cựu tướng lĩnh, sĩ quan hưu trí, người trí thức yêu nước muốn được long trọng kỷ niệm. Nhân dân ta vốn yêu chuộng hòa bình, vì thế ai cũng muốn gác lại quá khứ thù hận để chung sống hòa thuận, hợp tác phát triển quốc dân. Nhưng lịch sử là chứa đựng quá khứ có bi thương, có hùng tráng của mỗi dân tộc. Chúng ta nên sòng phẳng khách quan với lịch sử vì “lịch sử là sự thật mà không ai có quyền lãng quên “ hay bóp méo nó đi. Nhận thức như vậy, chúng ta mới cần có những hành động thiết thực như tu sửa lại những bia tưởng niệm, trùng tu lại những di tích cảnh về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Hằng năm, phải tổ chức kỷ niệm để vinh danh, tri ân những người liệt sĩ đã ngã xuống cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Có như thế thì máu xương của họ đổ ra mới không oan uổng. Chín năm sau trôi qua, tiếng súng đã ngừng vang trên bầu trời biên giới nhưng tiếng súng lại vang lên nơi biên đảo Trường Sa năm 1988, giết đi 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam để chiếm đảo Gac-Ma. Cho đến nay, tàu hải quân Trung Quốc vẫn tiếp tục nổ súng bắn vào ngư dân Việt Nam vô tội nơi biển khơi Hoàng Sa của nước ta. Đối với, Trung Quốc, chúng ta phải đủ sáng suốt để nhận rõ ra: Bạn hay Thù? Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam hay là Tam Sa của Trung Quốc? Chúng ta không chống nhân dân Trung Hoa vì họ cũng lâm vào hoàn cảnh bị trị như chúng ta nhưng chúng ta cần có thái độ rõ ràng, mạnh mẽ với nhà cầm quyền Cộng sản Trung quốc. Bởi lẽ, mỗi ngày ông bạn tốt láng giềng luôn đưa ra những đòi hỏi ngang ngược về chủ quyền Biển Đông và ngăn cấm không cho ngư dân Việt Nam ra khơi tìm nguồn sống, bất chấp sự phản đối của chúng ta. Vì vậy, khi nào nhà nước Việt Nam đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích của Đảng thì mới có thể có chính sách đúng đắn và phù hợp lòng dân.  Ngược lại, mỗi người Việt chúng ta phải tiếp tục lên tiếng bảo vệ công lý cho dân tộc, và chủ quyền đất nước trên vùng đất, vùng biển của Tổ quốc Việt Nam. Viết để cùng tưởng niệm ngày 17-2-1979. Gia Lai ngày 14-2-2014Hồng Trung
......

Nhà văn Phạm Xuân Nguyên nói về cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979

......

Lời kêu gọi nhân tưởng niệm 35 năm cuộc chiến chống Trung Quốc trên biên giới

LỜI KÊU GỌI NHÂN KỶ NIỆM 35 NĂM ĐÁNH TAN CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC TRÊN BIÊN GIỚI PHÍA BẮC NƯỚC TA 17.2.1979   Ngày này cách đây 35 năm, hơn 60 vạn quân xâm lược Trung Quốc bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, tàn sát dân ta cực kỳ dã man theo cách bao đời ông cha chúng từng làm. Chúng đốt sạch, giết sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị trấn khác bị san phẳng. Tội ác của chúng quả là "trúc rừng không ghi hết tội, nước biển không rửa sạch mùi" như Nguyễn Trãi đã phẫn nộ lên án quân xâm lược nhà Minh phương Bắc cách đây hơn năm thế kỷ. Bọn xâm lược không lường được rằng, tuy bị bất ngờ, nhưng với truyền thống quật cường, quả cảm, quân dân ta trên 6 tỉnh biên giới đã giáng trả bọn cướp nước những đòn trí mạng. Bằng một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của Trung Quốc kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950, điều động 9 quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc lập với hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn hỏa tiễn cùng với sự yểm trợ của hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng phó, chúng đã thảm bại! Ngày 18 tháng ba năm 1979 Đặng Tiểu Bình phải tuyên bố rút quân. Tuy vậy, chúng vẫn chốt lại tại một số điểm trên biên giới, tiếp tục các cuộc bắn phá tranh giành biên giới. Xung đột kéo dài, ác liệt nhất trong các năm 1984-1985, điển hình là các cuộc chiến xảy ra tại Núi Đất thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, Hà Giang, cho đến gần hết năm 1988 mới chấm dứt. Không phải chúng ta, mà là một nhà văn Trung Quốc đã viết: "Đem quân gây chiến, đánh phá nước láng giềng mà không có tuyên bố là một điều sỉ nhục, hèn hạ".   Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979 - Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng Nhưng, cũng sẽ là hèn hạ không kém nếu không dám công khai và quyết liệt vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù, càng phi đạo lý hơn nữa khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái gọi là "giữ gìn đại cục", chui đầu vào thòng lọng của mười sáu chữ lừa bịp để tự trói tay, trói chân mình, quay lại đàn áp nhân dân mình biểu tỏ lòng yêu nước, lên án giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.   Trong khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu và dã man này thì bộ máy truyền thông Trung Quốc, từ thông tấn báo chí đến văn học nghệ thuật suốt 35 năm nay đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ và dân chúng họ "về cuộc đánh trả tự vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân Trung Quốc vẫn hiểu rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công, bắt buộc quân đội họ phải tự vệ! Và, cũng do sự "nín nhịn" vì "đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước ta hầu như không biết về cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu này! Máu người đâu phải là nước lã! Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã thấm đẫm biên cương phía bắc nước ta mười mấy năm trời. Ai sẽ phải gánh chịu trước lịch sử sự câm lặng về những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc cách đây 35 năm? Ai? Ai? Chẳng lẽ không ai cả sao? Có cái thứ ngoại giao "khôn ngoan" cỡ gì khi quyết bịt miệng dân bày tỏ lòng yêu nước, chí căm thù quân cướp nước, để cố giữ hòa khí giữa hai nhà nước cùng chung ý‎ thức hệ? Hay là người ta đang cố gắng đi tìm "kế sách Câu Tiễn" thế kỷ XXI? Vậy thì hãy để ai đó là "Câu Tiễn thế kỷ XXI" chịu nhục, chứ chớ dại dột bắt cả dân tộc này phải chịu nhục cùng với những Lê Chiêu Thống mới. Lịch sử đã từng ghi nhận những tấn bi kịch của những nhà cầm quyền quay lưng lại với ‎ý chí và nguyện vọng của dân để dựa dẫm vào ngoại bang nhằm giữ cái ngai vàng mục ruỗng, ngày nay là cái ghế quyền lực, đặt nó lên trên tổ quốc, phản bội lại truyền thống dân tộc. Ấy vậy mà dân tộc thì mãi mãi trường tồn! Chỉ có những triều đại, những chính thể yếu hèn, và do yếu hèn nhưng lại cố bám víu lấy quyền lực để vun vén cho lợi ích của vương triều hoặc của phe nhóm nên đã lúng túng, bế tắc, xa rời con đường quang minh chính đại của dân tộc, thì sớm muộn cũng phải tự cáo chung. Chính vì vậy, nhân 35 năm cuộc chiến tranh biên giới, chúng tôi, những người đang ưu tư về vận nước, những người đã từng ký‎ vào Tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược, Tuyên bố về thực thi Quyền dân sự và Chính trị, Tuyên bố về Hiến pháp sửa đổi 2013, Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp... công bố LỜI KÊU GỌI với nội dung như sau: 1. Chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc ngày 17.2.1979. Có nhiều hình thức tưởng niệm. Trước hết, đề nghị Nhà nước tổ chức trên quy mô cả nước và các địa phương. Cũng có thể do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể các cấp từ trung ương tới địa phương tổ chức để đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Từng cộng đồng dân cư, các nhóm hội đoàn và các cá nhân dưới các hình thức hoạt động xã hội dân sự tổ chức nhiều hình thức tưởng niệm phong phú và đa dạng tùy theo sáng kiến và hoàn cảnh riêng như: dâng hương, đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới, chống quân xâm lược, bảo vệ đất nước, quê hương. Vòng hoa tưởng niệm của cá nhân công dân yêu nước, của một nhóm người, một cộng đồng người tri ân người đã ngã xuống đặt tại nơi công cộng để đánh ‎thức lương tri của toàn xã hội nâng cao lòng yêu nước, quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền biển đảo, Hoàng Sa, Trường Sa. Mỗi cá nhân, mỗi gia đình có thể tổ chức tưởng niệm tại nhà riêng của mình theo hoàn cảnh và sáng kiến như trước đây chúng ta đã làm: thắp một nén nhang trên bàn thờ với khẩu hiệu: Đời đời đời nhớ ơn chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược trên biên giới phía Bắc 17.2.1979. Khẩu hiệu này có thể dán trước cổng nhà, trước cửa ra vào nhà, trước bàn làm việc, đeo trên mũ, trước ngực khi đi ra đường trong một tuần kể từ ngày 17.2.2014. 2. Phải trả lại vị trí xứng đáng cho những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm lược. Cần có chủ trương công khai và cụ thể trong việc tổ chức biên soạn và đưa vào sách giáo khoa các cấp về cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược tại biên giới phía Bắc gắn với cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và cuộc chiến đấu chống xâm lược tại Hoàng Sa, Trường Sa (nhất là cuộc chiến đấu tại Gạc Ma) để thấy rõ thêm bộ mặt của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, nâng cao tinh thần cảnh giác và ‎ ý‎ thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trên tất cả các mặt. Khẳng định rõ hành động bành trướng của giới cầm quyền Trung Quốc không những gây tội ác và hiểm họa cho đất nước ta và nhiều nước trong khu vực mà còn đi ngược và làm tổn hại tinh thần láng giềng hữu nghị của nhân dân Trung Quốc mà nhân dân ta luôn tôn trọng và cùng vun đắp vì lợi ích của hai dân tộc, vì hòa bình, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Rà soát lại chính sách và chế độ đối với những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh mà lâu nay vì những thiếu sót và sai lầm đã bỏ quên nhiều đối tượng, gây nên những bất công xã hội và bất bình trong nhân dân. 3. Chính thức đưa ngày 17.2 hàng năm là ngày kỷ niệm cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc như cách ông cha ta đã từng làm với Giỗ Trận Đống Đa kỷ niệm chiến thắng đánh tan 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh thế kỷ XVIII. CHIẾN SĨ VÀ ĐỒNG BÀO ĐÃ NGÃ XUỐNG TRONG CUỘC CHIẾN ĐẤU CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TRUNG QUỐC SỐNG MÃI TRONG KHÍ THIÊNG SÔNG NÚI CỦA TỔ QUỐC, TRONG ANH LINH TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC, TRONG TRÁI TIM CỦA MỖI NGƯỜI VIỆT NAM TP HCM, ngày 12.2.2014 ĐỒNG KÝ TÊN: 1. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM 2. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC), TP HCM 3. Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội 4. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM 5. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM 6. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM 7. Giang Thị Hồng (bà quả phụ Lê Hiếu Đằng), cán bộ hưu trí, TP HCM 8. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM 9. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM 10. Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 11. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành Ủy TP HCM 12. Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, TP HCM 13. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM 14. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP HCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, TP HCM 15. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên văn hóa, TP HCM 16. André Menras Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị chế độ cũ, Cộng hòa Pháp 17. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM 18. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, TP HCM 19. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, cựu binh cuộc chiến 17/2, số hiệu quân nhân 79476979, TP HCM 20. Nguyễn Trí Nghiệp, giám đốc công ty Nông Trang Island, Vĩnh Long 21. Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TP HCM 22. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh 23. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM 24. GB. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn 25. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM 26. JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn 27. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM 28. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM 29. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM 30. Bùi An, TP HCM 31. Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, hưu trí, TP HCM 32. Hà Dương Dực, cựu giáo sư trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt và cựu giáo sư Vạn Hạnh Sài Gòn, MBA Mỹ 1970 33. Trần Minh Quốc, tác giả bài thơ “Biển gọi”, TP HCM 34. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 35. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP HCM 36. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới – Saigontourist 37. Huỳnh Thục Vy, Quảng Nam 38. Hoàng Cao, người Việt tỵ nạn 39. Đặng Nguyệt Ánh, TS, cán bộ hưu trí 40. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, nguyên Giảng viên Đại học Pau (UPPA), Cộng hòa Pháp 41. Phạm Thu Hà, nội trợ, TP HCM 42. Nguyễn Lương Thúy Kim, TP HCM 43. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TP HCM 44. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng 45. Hồ Hiếu, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ TP Đà Lạt, nguyên Chánh văn phòng Quận ủy quận 1, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy TP HCM 46. Phan Văn Thuận, doanh nhân, TP HCM 47. Nguyễn Mai Oanh, nghiên cứu viên nông nghiệp nông thôn, TP HCM 48. Nguyễn Văn Lê, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy TP HCM 49. Lê Thanh Văn, nguyên Phó Ban Dân vận thành ủy TP HCM 50. Trần Văn Nhiệm, nguyên Phó Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP HCM 51. Nguyễn Lê Thu An, nhà báo, TP HCM 52. Nguyễn Lê Thu Mỹ, nguyên chiến sĩ biệt động Sài Gòn, TP HCM 53. Trần Văn Mỹ, giảng viên Đại học Sài Gòn, đã nghỉ hưu, TP HCM 54. Hoàng Thị Lệ, cán bộ hưu trí, TP HCM 55. Lê Văn Tâm, TS Hóa, Ủy viên UBTƯMTTQVN, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật 56. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM 57. Trần Khuê, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM 58. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM 59. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội 60. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên thành viên Viện IDS, Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội 61. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM 62. Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, hiện sống ở Paris 63. Nguyễn Thị Ngọc Toản, Đại tá, GS, bác sĩ, cựu chiến binh, Hà Nội 64. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội 65. Phạm Xuân Phương, Đại tá, cựu chiến binh, nguyên phái viên của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội 66. Lê Thăng Long, nhà nghiên cứu kinh tế - chính trị - xã hội, TP HCM 67. Nguyễn Huệ Chi, giáo sư, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội 68. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội 69. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đại học Bách khoa, Đà Nẵng, Phó Tổng thư ký Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam 70. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội 71. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, TP HCM 72. Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM 73. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM 74. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
......

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (kỳ 3)

QUAN HỆ VIỆT - TRUNG QUA LỜI CÁC TƯỚNG TÁ ĐANG CẦM QUYỀN 1. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng chia sẻ rằng: Thứ Trưởng Quốc Phòng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng, với hơn 1 tỷ 350 triệu dân, đang phát triển, có vị thế và uy tín ngày càng cao trên thế giới, một khi các đồng chí tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam và mong muốn Việt Nam cùng phát triển?”. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng cho hay: “Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu chống phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các luận điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/37476/-viet—trung-tuyet-doi-khong-du... 2. “…Đại tướng Phùng Quang Thanh ghi rõ: Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động diễn biến hòa bình; lợi dụng các hoạt động dân chủ, nhân quyền, tôn giáo nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, chia rẽ quan hệ hữu nghị Việt – Trung, đang đặt ra những khó khăn, phức tạp mới cho Đảng, Chính phủ, nhân dân và quân đội hai nước.   Bộ Trưởng Quốc Phòng Đại Tướng Phùng Quang Thanh “Quân đội hai nước chúng ta cần tăng cường tình đoàn kết, hợp tác chặt chẽ và bảo vệ thành quả cách mạng của mỗi nước. QĐND Việt Nam đặc biệt coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện và bền vững với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đây là chủ trương nhất quán, là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam”, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định…” NGUỒN: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/10/50/50/199608/Default.aspx 3. Đại tướng Phùng Quang Thanh bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đã ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Bộ trưởng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần bốn tốt. Bộ trưởng khẳng định chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam là Việt Nam không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác.http://www.vietnamplus.vn/Home/Quan-he-quoc-phong-VietTrung-ngay-cang-ph... 4. “Thủ tướng khẳng định Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc tiếp tục đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, theo đúng phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng điều này phù hợp với lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực.”http://dantri.com.vn/su-kien/tim-giai-phap-co-ban-lau-dai-cho-van-de-bie... Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng 5. ĐẠI TÁ-PGS-TS-NGND Trần Đăng Thanh: “KHÔNG ĐƯỢC QUÊN ƠN TRUNG QUỐC” Sau đây là đoạn audio ghi âm lại cuộc nói chuyện của Đại tá-PGS-TS-NGND Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng giảng về Biển Đông cho các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội. Đại Tá Trần Đăng Thanh [Trích] Đối với Trung Quốc hai điều không được quên: họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa. Trung Quốc là anh bạn núi liền núi, sông liền sông, chung một Biển Đông, chung tình hữu nghị. Hoặc là nói như ông Hồ Cẩm Đào: sơn thủy thì tương liên, lý tưởng thì tương thông, văn hóa thì tương đồng, vận mệnh thì tương quan… Còn Mỹ, các đồng chí nhớ người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả … Nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha. Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ. Nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp trước hết khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó. (Nghe toàn bộ audio ghi âm tại đây:https://anhbasam.wordpress.com/2012/12/19/1481-dai-ta-tran-dang-thanh-gi...) Theo nhật ký yêu nước.
......

Trung Quốc ép Việt Nam không được tưởng niệm Chiến tranh biên giới 1979?

Cuộc trao đổi qua đường dây nóng giữa ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng là lý do khiến Việt Nam đột ngột chấm dứt các hoạt động tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa và 35 năm Chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc 1979? Đèn xanh   2014 đánh dấu “năm chẵn” một loạt những sự kiện liên quan đến lịch sử bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Trong số này có 35 năm Ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (7/1/1979), 40 năm sự kiện Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (19/1/1974) và 35 năm ngày Trung Quốc tung 60 vạn quân quân nổ súng tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc (17/2/1979). Trong khi sự kiện gắn với biên giới Tây Nam được tuyên truyền tương đối bình thường thì việc báo chí chính thống của Việt Nam nhắc tới Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979 là điều gần như không có nếu không tính quãng thời gian từ 2009 trở lại đây. Cũng cần phải nói rằng câu chuyện về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới 1979 mới được hâm nóng trở lại trên các kênh truyền thông chính thức ở Việt Nam được vài năm nay mà bắt đầu là bài viết “Biên Giới Tháng Hai” của ký giả nổi tiếng Huy Đức (http://www.viet-studies.info/kinhte/HuyDuc_BienGioiThangHai.htm) trên báo Sài Gòn Tiếp thị ra ngày 9/2/2009. Lác đác trong những năm sau đó một số tờ báo như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Pháp luật Tp.HCM...đã có một số bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến sự kiện này trong đó nổi bật là báo Thanh Niên, tờ báo của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tháng 2/2011, báo Thanh Niên có bài viết về liệt sĩ Lê Đình Chinh (http://tinyurl.com/pm76349) và bài về chiến công chống quân Trung Quốc xâm lược của một đơn vị bộ đội tại Lạng Sơn năm 1979 (http://tinyurl.com/cas56wk) gây được sự chú ý của dư luận đặc biệt với hình ảnh về tấm bia ghi dấu chiến công bị đục bỏ. Năm 2013, đúng vào ngày 17/2, báo Thanh Niên cũng cho đăng tải bài phỏng vấn tướng công an Lê Văn Cương về việc phải công bố và đưa câu chuyện chiến tranh biên giới 1979 vào sách giáo khoa (http://tinyurl.com/n6cwr8w). Sau bài viết mang tính mở đường này nhiều tờ báo khác như Tuổi Trẻ, VietnamNet...cũng đã liên tiếp lên tiếng. Theo một nhà nghiên cứu, những diễn biến nóng trên Biển Đông trong những năm qua, nỗ lực của báo giới và những sức ép từ dư luận đã buộc chính quyền có độ mở nhất định đối với các thông tin về vụ Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988, chiến tranh biên giới 1979 trên các kênh chính thức của Việt Nam. Từ cuối tháng 12/2013 đầu 1/2014 một số tờ báo “lề phải” của Việt Nam bắt đầu đăng tải các bài viết về sự kiện Hoàng Sa 1974 với một sự thận trọng nhất định. Khởi đầu là Giaoduc.net.vn, tiếp sau đó là Tuổi Trẻ, Infonet.vn, PetroTimes, Vietnamnet...Tờ báo điện tử có lượng truy cập hàng đầu Việt Nam là Vnexpress.net đến gần sát thời điểm 19/1 cũng có một số bài. Các tờ báo chính thống như Nhân dân, Quân đội Nhân dân...như thường lệ không hề đả động gì đến những vấn đề vốn được mặc định là “nhạy cảm” này. Thanh Niên, nhập cuộc muộn hơn, nhưng tổ chức khá bài bản loạt bài về Hoàng Sa trên báo điện tử thành một chuyên đề (http://tinyurl.com/nlm6tql) với nhiều bài viết đa dạng. Sự kiện Hoàng Sa 1974 được tờ báo này nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc cạnh khá mạnh dạn so với báo chí chính thống trong nước. Việc báo chí có thể đăng tải thoải mái các tin bài về sự kiện Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, thậm chí động đến những chuyện khá “nhạy cảm” và gây tranh cãi mà trước nay mới chỉ được đề cập trên các kênh phi chính thống. Trong số này có thể kể đến việc đòi đánh giá lại sự kiện Hoàng Sa, ca ngợi những hy sinh của binh lính Việt Nam Cộng Hòa và coi họ như những anh hùng liệt sĩ chống ngoại xâm...đã tạo dư luận cho rằng chính quyền đã bật đèn xanh cho việc tuyên truyền này. Tưởng niệm hay không tưởng niệm? Chiều 30/12/2013, báo Thanh Niên điện tử đã xuất hiện bản tin về việc “Sẽ kỷ niệm sự kiện 40 năm Hoàng Sa và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” (http://tinyurl.com/nfn9tgp). Bản tin này sau đó đã bị gỡ bỏ sau đó chỉ vài giờ đồng hồ. Tuy nhiên nội dung của nó đã được nhiều website đăng tải lại. Theo bản tin này, trong cuộc làm việc với Hội Khoa học lịch sử VN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam đang lên kế hoạch tưởng niệm 40 năm sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (1/1974) và 35 năm sự kiện Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (2/1979). Bản tin của Thanh Niên còn cho biết Thủ tướng đã trả lời trực tiếp tại Hội Khoa học Lịch sử rằng: “Phải kỷ niệm. Nhưng kỷ niệm thế nào để ổn định. Rồi còn biên giới Tây Nam thế nào. Chứ không phải Bộ Chính trị không quan tâm”. Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam đang soạn thảo đề án kỷ niệm sự kiện: biên giới phía Bắc, Hoàng Sa. “Kỷ niệm thế nào cho vừa đạt yêu cầu đối nội, vừa đạt yêu cầu đối ngoại. Đó cũng là lợi ích của nhân dân. Bộ Chính trị rất quan tâm đến việc kỷ niệm này”, ông Dũng được Thanh Niên điện tử trích dẫn.   Cú phanh đột ngột Trong khi nhiều người tin rằng đúng ngày 19/1/2014 hàng loạt các bài viết về sự kiện Hoàng Sa 1974 sẽ được hàng loạt tờ báo bung ra thì một điều bất ngờ xảy đến : hầu hết các tờ báo đều đột ngột ngừng việc đưa tin về sự kiện này từ 18/1. Sáng 18/1, trang web của UBND huyện Hoàng Sa cũng bất ngờ đăng lời cáo lỗi (http://tinyurl.com/ox8kf9w) của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch UBND huyện, về việc hủy chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa dự kiến sẽ được tổ chức vào 19h00 cùng ngày tại tại Công viên Biển Đông, thành phố Đà Nẵng. Lý do được đưa ra là “do công tác chuẩn bị chưa được chu đáo” nên chương trình ca nhạc hát về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa đã không thể diễn ra theo kế hoạch. Cũng trong sáng 18/1, báo Thanh Niên điện tử cho đăng tải bài phỏng vấn cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (http://tinyurl.com/nvzs2hl) liên quan đến chủ đề Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979. Tuy nhiên bài viết này sau đó cũng nhanh chóng bị gỡ xuống. Đến thời điểm ấy người ta chỉ có thể lờ mờ phỏng đoán đã có một quyết định được đưa ra vào giờ chót, ngay trước 19/1/2014, nhằm ngăn cản việc tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa 1974 đồng thời “bịt miệng” báo chí trong nước. Điều khó hiểu là quyết định này dường như được đưa ra khá bất ngờ chứ không phải như chủ trương “đèn xanh” như trước đó. Dường như đã có một sự thay đổi vào phút chót trong việc kiểm soát thông tin của sự kiện này từ giới lãnh đạo Việt Nam. Ngày 21/1, sau cuộc giao ban báo chí định kỳ hàng tuần của lãnh đạo Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông với lãnh đạo các báo, đài, trên một số diễn đàn báo chí đã lan truyền thông tin lãnh đạo báo Thanh Niên và Infonnet.vn đã bị “cạo” ra trò tại cuộc giao ban này. Cũng xuất hiện thông tin nói rằng báo Thanh Niên và báo Infonet.vn sẽ bị kỷ luật do không chấp hành chỉ đạo liên quan đến việc tuyên truyền về sự kiện Hoàng Sa 1974. Chỉ thị mật Điều có lẽ không nhiều người biết biết đó là vào ngày 16/1/2014, các tổng biên tập, giám đốc các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình đã bất ngờ được Ban Tuyên giáo triệu tập đến trụ sở của cơ quan này tại 2 Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, Hà Nội. Họ được gọi lên để nhận tận tay một chỉ thị mật liên quan đến việc tuyên truyền về Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979. Theo một cựu lãnh đạo báo chí thì việc gọi các Tổng biên tập đến để trao tận tay một văn bản chỉ đạo mật là điều ít khi xảy ra. Thông thường các vụ việc thế này Ban Tuyên giáo chỉ cho người gọi điện/gửi tin nhắn hoặc qua đường công văn. Nội dung chính của chỉ đạo mật này đó là theo yêu cầu trực tiếp từ Bộ Chính trị, các cơ quan báo chí phải tuân thủ nghiêm “kỷ luật thông tin” trong tuyên truyền về Hoàng Sa, Trường Sa và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Cụ thể, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Tuyên giáo đã ra lệnh cho các báo không được đưa tin về các hoạt động kỷ niệm, tưởng niệm các sự kiện nêu trên nếu chưa có sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo TƯ. Các báo, đài nào đã đăng thì được yêu cầu phải “dừng ngay” và “tuyệt đối không được đăng tiếp”. Chỉ thị mật này cũng nêu rõ khi cần báo, đài nào lên tiếng, Ban Tuyên giáo TƯ sẽ có sự chỉ đạo cụ thể đồng thời răn đe, dọa dẫm, yêu cầu một cách khá gay gắt rằng các cơ quan báo chí “không được tự tiện, manh động”. Bên cạnh đó chỉ thị đồng thời cũng yêu cầu “thông tin, tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn giữ mức độ, nội dung, cách thức tuyên truyền như lâu nay” (?!) và không đẩy việc tuyên truyền lên mức cao hơn. Đặc biệt, chỉ thị mật này yêu cầu báo chí “tuyệt đối không đưa thông tin kích động, gây tâm lý dân tộc cực đoan, làm nóng dư luận, gây bất lợi về đối nội, đối ngoại” và chú ý đến các nội dung liên quan đến “đấu tranh phản bác thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tác đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước tạo chia rẽ, tạo mâu thuẫn trong quan hệ Việt Nam- Trung Quốc”. Trong chỉ thị này Ban Tuyên giáo TƯ cho biết họ cùng Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ thành lập một “Tổ công tác đặc biệt” để chỉ đạo, theo dõi việc thực thi chỉ thị và các các báo, đài vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Đường dây nóng Một nguồn thạo tin tại Hà Nội cho biết ngày 15/1/2014 phía Trung Quốc đã bất ngờ nêu yêu cầu trao đổi giữa Chủ tịch, Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đường dây nóng nhân dịp kỷ niệm 64 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc (18/1/1950-18/1/2014). Nguồn tin không nói rõ thời điểm cuộc điện đàm được thực hiện, nhưng nhiều khả năng thời gian điện đàm từ 15-16/1/2014. Điều đáng chú ý là theo thông tin công khai trên báo chí thì có một cuộc điện đàm với lý do tương tự (http://tinyurl.com/pww2foa) nhưng được thực hiện vào ngày 22/1/2014 cũng giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình. Thông tin công khai này không cho biết cuộc điện đàm bình thường hay được thực hiện qua đường dây nóng. Không rõ đây chính là cuộc điện đàm được thực hiện trước thời điểm 16/1/2014 nhưng được ém thông tin và đăng tải thành ngày 22/1/2014 hay là một cuộc điện đàm khác. Theo dự đoán của người viết thì nhiều khả năng chỉ có một cuộc điện đàm nhưng thời gian công bố đã có sự điều chỉnh. Nguồn tin cũng cho biết nhiều khả năng trong cuộc điện đàm này phía Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu và được ông Nguyễn Phú Trọng đồng ý về việc Việt Nam hủy bỏ chương trình tưởng niệm Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979 mà trước đó được dự kiến thực hiện. Nếu điều này là sự thật thì có thể thấy một lần nữa Trung Quốc lại cho thấy sự cao tay trong việc “dắt mũi” giới lãnh đạo Việt Nam khi đặt Hà Nội vào thế bị động. Nó cũng cho thấy những nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam thiếu tầm nhìn trong việc ứng xử với Trung Quốc như thế nào, nguồn tin bình luận. Hẳn là Hà Nội chưa quên bài học vừa mới xảy ra năm ngoái khi họ đón Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ngay trong thời điểm lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Việc những lá cờ rủ đã buộc phải thay đổi cấp tập thành cờ mừng đã gây ra một làn sóng dư luận phẫn nộ trong dân chúng. Một chuyên gia về chính trị Việt Nam cho rằng những ứng xử mang tính chất đối phó và dường như có phần quá nể sợ Trung Quốc của giới lãnh đạo Việt Nam cho thấy họ sẽ chẳng bao giờ có được sự tôn trọng từ phía người láng giềng “khó chơi”. “Người Trung Quốc vốn kính nể những đối thủ cứng rắn. Họ muốn các chư hầu thần phục nhưng cũng coi thường những kẻ thần phục. Đó là văn hóa của họ”. “Điều mà tôi lo lắng là không biết đến bao giờ chúng ta mới có những thủ lĩnh đủ tầm trong ứng xử với Trung Quốc Nếu những nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta cứ mãi “trẻ con” thế này thì đất nước sẽ còn tiếp tục bị đè nén và sỉ nhục”.   Hà Nội ngày 4/2/2014 (Kỷ niệm 225 Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Xuân Kỷ Dậu 1789) Hoàng An Vĩnh Nguồn: viet-studies.info
......

Văn tế Đồng bào và Chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc tháng 2 năm 79

Hỡi ơi! Thấm thoắt đã ba lăm năm Mới đấy đã thành thiên cổ! Trời biên giới ầm vang tiếng súng, thanh niên lớp lớp lên đường Miền biên cương máu nhuộm đỏ sông, dân chúng nhà nhà tan tác Nhớ linh xưa: Chiến sĩ tòng chinh Tuổi hoa niên đang bận sách đèn Lòng trai tráng chứa bao mơ ước Đáp lời non sông, hăm hở lên đường Từ biệt quê hương, gạt niềm thương nhớ Súng bắn chưa quen, quân sự đôi bài, đánh giặc bằng lòng căm hận Chiến trận chưa từng, ba lô một gánh, nhắm bắn bằng nỗi hờn căm. Nhân dân biên giới Đang yên ổn làm ăn, đâu ngờ phút chốc loạn ly Gặp buổi thanh bình, ai tưởng được điều thảm khốc Pháo giao thừa vừa nổ, hội xuân vừa mở rộn ràng Năm mới vừa sang, hy vọng ngập tràn phơi phới Đì đùng súng bắn, trẻ con vẫn tưởng pháo giao thừa Loa réo vang trời, cụ già còn ngờ loa hội mở Thương thay! Chiến đấu ngoan cường, xông thẳng nơi mũi tên hòn đạn Kiên trung giữ đất, sợ chi nơi súng nổ pháo rền. Máu loang mặt đèo, mùi thuốc súng khét lẹt còn vương Xác nghẽn gềnh sông, tiếng kêu thương ngút trời đau xé Địch giết người không ghê tay Địch nã pháo không ngừng nghỉ Hãm hiếp đàn bà, lộ mặt loài dê chó. Tiếng kêu thương xé nát một góc trời Cắt đầu trẻ nhỏ, hiện rõ lũ sài lang. Hồn oan khuất vật vờ miền biên viễn. Ôi! Máu xương gửi lại biên cương Hồn phách tụ về nơi đền miếu Tuổi thanh xuân dâng Tổ quốc ngàn năm Hoa chiến thắng dâng Đất Mẹ vạn thưở. Đền nợ nước nào đợi vinh danh Chết vì dân đâu chờ tưởng vọng Hôm nay Tưởng niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh Thương nhớ 60 ngàn đồng bào ra đi vĩnh viễn Chúng tôi Đốt nén hương thơm Dâng vòng hoa thắm Đơn sơ lễ bạc lòng thành Thành kính tâm hương dâng cúng Cúi xin chư vị anh linh sống khôn thác thiêng Phù trợ cho Non sông đất nước thăng bình muôn thưở Cũng xin chư vị Tha thứ hết lỗi lầm Của những kẻ cố tình vong ân bội nghĩa Của những kẻ quên hết công lao và máu xương của chư vị anh linh Lại xin chư vị anh linh, cùng chúng tôi: Nguyền rủa đời đời bọn bành trướng Bắc Kinh Nhắc nhở muôn năm mối thù truyền kiếp! Hỡi ơi! Hồn có linh thiêng Xin về nhận hưởng! Lâm Khang phụng soạn Nguồn: xuandienhannom.blogspot.com
......

Sài Gòn tưởng nhớ Hoàng Sa

Bốn mươi năm qua cứ đến ngày 19.1, ngày giặc Tàu chiếm Hoàng Sa của tổ tiên ta, trong trái tim mọi người Việt Nam lại thầm thì, tha thiết gọi tên Hoàng Sa! Hoàng Sa!   Năm nay tiếng Hoàng Sa không phải chỉ là tiếng thầm thì, tha thiết trong tim mà đã vang lên thành tiếng gọi vang vọng trong không gian, vang vọng trong thời gian, vang vọng từ thế hệ trước sang thế hệ sau, vang vọng ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam, vang vọng ở mọi nơi có người Việt sinh sống trên thế giới. Chiều 18.1.2014, khoảng 100 người Sài Gòn gọi nhau đến Phòng họp Phạm Tiên Long, 43 đường Nguyễn Thông, quận Ba, để được cùng nhau nhắc đến Hoàng Sa, để nghe tiếng Hoàng Sa từ trong lồng ngực vang trong không gian, để tưởng nhớ những dòng máu Việt Nam đã hòa trong nước biển Hoàng Sa. Tại đây, Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình đã tổ chức thánh lễ tưởng niệm, tri ân và cầu nguyện cho tất cả đồng bào và chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ biển đảo Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988), dưới sự Chủ tế của Linh mục Nguyễn Trọng Viễn. Có mặt ở đây, bên nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu 95 tuổi là hai người vợ góa của hai chỉ huy chiếm hạm chiến đấu và ở lại mãi mãi với Hoàng Sa, bà Ngô Thị Kim Thanh vợ tử sĩ Nguyễn Thành Trí, Thiếu tá hạm phó hộ tống hạm Nhựt Tảo và bà Huỳnh Thị Sinh vợ tử sĩ Ngụy Văn Thà, Trung tá hạm trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo. Những trí thức: bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm, GS Tương Lai, nhà khoa học Huỳnh Kim Báu, kỹ sư Đỗ Thái Bình, PGS TS Hoàng Dũng, TS Vũ Thị Phương Anh, TS Nguyễn Xuân Nghĩa, các nhà thơ Nguyễn Duy, Hoàng Hưng, nhà văn Phạm Đình Trọng, các nhà báo Lê Phú Khải, Lê Công Giàu, Thế Thanh, Nguyễn Quốc Thái, các nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Thị Khánh Trâm,… bên cạnh những gương mặt của tuổi trẻ Sài Gòn. Từ trái qua: Các anh Huỳnh Tấn Mẫm, Tương Lai, Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu Từ trái qua: bà Ngô Thị Kim Thanh và bà Huỳnh Thị Sinh Mở đầu buổi lễ, Linh mục Chủ tế nêu rõ: “Chúng ta nhớ lại lịch sử Hoàng Sa không để oán thù mà để khơi dậy lòng yêu nước, yêu hoà bình và công lý”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã đọc bài luận văn quan trọng “Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam”, trong đó ông lược thuật diễn biến lịch sử của việc quản lý liên tục Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từ các chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1945), Bảo Đại (1949), Việt Nam Cộng hoà (1955) cũng như quá trình Trung Quốc (Cộng sản) xâm chiếm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Kết thúc bài nói, ông chân thành bộc lộ tâm sự của một trí thức công giáo Sài Gòn đã từng ủng hộ miền Bắc trong cuộc “kiến tạo độc lập – thống nhất”: “Sau tháng 4/1975, dần dần tôi mới thấy ý đồ của TQ đã từ lâu vẫn giữ não trạng “đại Hán” xâm chiếm từng mảng lãnh thổ hay lãnh hải của nước ta mỗi khi có nguy cơ ngoại xâm hay nội chiến. Nói ra quá đau lòng, nhưng đó là sự thật”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu Linh mục Lê Quốc Thăng, người con của một sĩ quan hải quân Sài Gòn (tàu HQ 5) bảo vệ Trường Sa và cháu của hai sĩ quan tham gia chiến đấu trên HQ 10 trong trận chiến bi hùng 17-19/1/1974, đã kết thúc phần giảng lễ với lời nguyện: “Hòa bình không thể tách rời khỏi những đòi hỏi của công lý, được hỗ trợ bằng sự hy sinh, lòng khoan dung nhân từ và tình yêu thương của con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các quốc gia, nhất là các nước lớn mạnh biết tôn trọng các công ước quốc tế được ký kết, biết đối xử bình đẳng, tôn trọng giữa các quốc gia và biết đối thoại trong sự thật để xây dựng hòa bình trên thế giới và khu vực”. Linh mục Lê Quốc Thăng Thay mặt những người dự lễ, GS Tương Lai có bài phát biểu đầy nhiệt huyết và mạnh mẽ nói lên tâm tình của trí thức nhân sĩ và nhân dân luôn đau đáu nỗi đau Hoàng Sa, Trường Sa, kiên trì lên tiếng đòi Nhà nước thể hiện quyết tâm bảo vệ biển đảo của đất nước ở những việc làm rõ ràng, cụ thể. Một trong những việc ấy là: sớm chính thức biểu dương lòng yêu nước của các chiến sĩ bảo vệ Hoàng Sa năm 1974 (xem toàn văn bài Và rồi hôm nay cánh cửa đã hé mở đăng ngay sau bài này). GS Tương Lai đang phát biểu Sau buổi lễ, một số anh em đến nhà của bà Ngô Thị Kim Thanh, một căn hộ ở chung cư Trần Quốc Toản, để thắp nhang cho liệt sĩ Nguyễn Thành Trí. Vừa đến cầu thang chung cư, thì gặp hai nhà báo Huy Đức và Mạnh Quân đang ôm một giỏ hoa quả đi lên. Sau khi thắp nhang, kỹ sư Đỗ Thái Bình và nhà báo Huy Đức thông báo cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Thành Trí và cả bà quả phụ Ngụy Văn Thà về kết quả cho đến nay của chương trình Nhịp cầu Hoàng Sa. Hai anh nhấn mạnh chương trình sẽ là một điểm nối kết Nam Bắc, thúc đẩy tình cảm hòa giải hòa hợp dân tộc. Hoàng Sa – đó là nơi chúng ta thấy rõ kẻ xâm lược. Mà xâm lược thì thời nào cũng vậy, là kẻ thù chung của con dân nước Việt, bất kể Nam hay Bắc.   Từ trái qua: kỹ sư Đỗ Thái Bình, nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà báo Huy Đức, nhà báo Mạnh Quân, nhà văn Phạm Đình Trọng và hai người con của liệt sĩ Nguyễn Thành Trí – Nguyễn Thị Thanh Thảo và Nguyễn Thanh Triết. Nhà văn Phạm Đình Trọng thắp nhang TS Phạm Chí Dũng thắp nhang   Nguồn: PV BVN  
......

Mỹ thắng Tàu một bước

Tập Cận Bình đang nhường một nước cờ ngoại giao, để rảnh tay củng cố địa vị qua “trận càn quét” các đối thủ chính trị quy tụ trong “Ðảng Dầu lửa” và “Ðảng An ninh” mà Chu Vĩnh Khang đứng đầu cả hai. Trong lúc Tập Cận Bình lo các nước cờ hạ thủ Chu Vĩnh Khang một cách ngoạn mục, thì John Kerry đã thắng một cuộc cờ ngoại giao ngay trong vùng Ðông Nam Á, nơi Bắc Kinh vẫn coi là “ao nhà” của mình, không muốn cho Mỹ can dự.   Ngoại trưởng Kerry trò chuyện với các sinh viên trước khi đọc một bài phát biểu tại xã Tân An Tây, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.  Ảnh: Bộ Ngoại giao Mỹ.   Trong cuộc thăm viếng Việt Nam, rồi Philippines, những lời tuyên bố và hành động của ngoại trưởng Mỹ đều công khai nhắm vào Trung Cộng, không úp mở. Về hành động thì những việc làm mới của chính phủ Mỹ thì không có gì đáng coi là nghiêm trọng; nhưng các lời nói thì cố ý gây ảnh hưởng mạnh. Trên trường ngoại giao, người ta chỉ cần tạo ảnh hưởng tâm lý như thế. Chi tiền ít mà vẫn nói được nhiều, rõ ràng là lợi lớn.   Tại Việt Nam, John Kerry chỉ giúp thêm 32.5 triệu Mỹ kim cho các nước ASEAN. Nhưng lời tuyên bố nói rõ mục đích là giúp vùng Ðông Nam Á bảo vệ lãnh hải chống xâm lăng. Số tiền 32 triệu không đáng là bao. Nhưng Hiệp Hội Các Quốc Gia Ðông Nam Á lo bị ai xâm lăng? Ai cũng biết, chỉ có Trung Cộng. Số tiền 18 triệu Mỹ kim giúp riêng cho Việt Nam cũng không cao. Chắc là các lãnh tụ đảng Cộng sản ở Hà Nội rất thất vọng. Không phải vì ngoại trưởng Mỹ lại lên lớp đặt vấn đề nhân quyền; điều này John Kerry bắt buộc phải làm vì trước khi lên đường đã nhận được thư thúc đẩy của 47 nhà lập pháp Hoa Kỳ yêu cầu. Nỗi thất vọng của các quan chức Hà Nội là chính phủ Mỹ chỉ viện trợ dưới hình thức năm chiếc tầu thủy cho Lực Lượng Phòng Vệ Duyên Hải sử dụng trong việc tuần tiễu. Lính đi tuần tiễu tức là các quan lớn khó nhân cơ hội rút ruột. Trong khi đó thì nhân cơ hội có mặt tại chiến trường mà ông đã đóng vai chiến sĩ Hải quân Mỹ nửa thế kỷ trước, John Kerry lại tấn công ngoại giao nhắm vào Bắc Kinh.   John Kerry nói: “Hòa Bình và ổn định trong Biển Hoa Nam là ưu tiên hàng đầu của Hoa Kỳ và những quốc gia trong vùng. Chúng tôi rất lo ngại và phản đối mạnh mẽ những chiến thuật ép buộc và gây hấn để tiến hành những đòi hỏi lãnh thổ.” Nước nào gây hấn và ép buộc? Nước nào đã và đang tìm cách bành trướng lãnh thổ? Ai cũng biết, đó là Trung Cộng. Tại Philippines, John Kerry cũng chỉ đến để kết thúc những cuộc đàm phán giữa các viên chức ngoại giao hai nước. Các hiệp ước xác định thủ tục để quân đội Mỹ, gồm cả máy bay, tầu thủy, và bộ binh được đóng tạm trên đất Philippines. Sau khi Mỹ đóng cửa các căn cứ ở Philippines từ năm 1992, đây là những thỏa hiệp đầu tiên chính thức cho phép quân đội Mỹ trở lại. Nhưng trong thực tế, phi cơ và tàu chiến Mỹ đã tới Philippines rất nhiều lần trong các năm qua, được dư luận dân chúng hoan nghênh nồng nhiệt. Cho nên việc ký kết các thỏa ước mới chỉ là công việc bình thường. Nhưng những lời tuyên bố của cả hai ông ngoại trưởng Albert F. del Rosario và John Kerry thì không bình thường.   John Kerry nói: “Hiệp Chúng Quốc mạnh mẽ chống lại đường lối sử dụng hăm dọa (intimidation), cưỡng bách (coercion) hay hiếu chiến (aggression) của các quốc gia để bành trướng lãnh thổ. Kho tự vựng ngoại giao của các nước Ðông Nam Á trong tương lai sẽ chứa đầy những chữ hăm dọa, cưỡng bách, và hiếu chiến; quà tặng của ông ngoại trưởng Mỹ. Và chắc chắn họ sẽ thong thả đem ra dùng mỗi khi nói đến Trung Cộng (trừ chính quyền hai xứ Camphuchia và Việt Nam). Món quà mà ông John Kerry đem lại cho chính phủ Philippines chỉ có 40 triệu Mỹ kim, cũng nhắm vào việc tuần tiễu duyên hải. Nhưng quan trọng hơn là lời nói, tuy chỉ nhắc lại những lời mà chính phủ Mỹ vẫn nói: Nước Mỹ cương quyết bảo vệ nền an ninh của Philippines. Ðiều này thực ra không cần nói, vì hai nước vẫn còn hiệp ước phòng thủ hỗ tương; nhưng nhắc lại vẫn tạo thêm ảnh hưởng trước mắt. Nhưng trong khi nhắc lại, Kerry còn nói thêm “và an ninh trong vùng.” Mấy chữ chót này là món quà cho các nước Ðông Nam Á. Cũng như khi đến Việt Nam, tại Philippines ông Kerry đã nhắc lại những lời chỉ trích chính quyền Bắc Kinh trong việc công bố “vùng phòng không” (ADIZ) trong vùng biển Ðông Bắc. Ông nói chính thức: Nước Mỹ không công nhận vùng ADIZ này. Trong thực tế, chính quyền Mỹ đã cho ngay hai pháo đài bay B52 lượn qua vùng này ngay sau khi Bắc Kinh công bố, mà chẳng sao cả. Nhưng khác với chính quyền Cộng sản Việt Nam, Ngoại trưởng Albert F. del Rosario của Philippines cũng lớn tiếng đả kích Bắc Kinh trong vụ ADIZ. Nhưng lời tuyên bố quan trọng hơn nữa, là cả hai ông ngoại trưởng đã báo trước sẽ không chấp nhận nếu Trung Cộng vẽ ra một vùng ADIZ trong vùng biển Ðông Nam Á. Ðây là điều mọi người vẫn biết là thái độ của chính phủ Mỹ. Nhưng điều đó được công bố, và công bố ngay tại Manila, là một nước cờ ngoạn mục. Chuyến đi của ông Kerry tại Philippines tình cờ trùng hợp với các công tác cứu trợ nạn nhân bão Haiyan, mà số đóng góp của chính phủ Mỹ đang được người Phi hoan hô. Ngoài số tiền 20 triệu đô la, họ còn gửi tới một mẫu hạm, với một ngàn thủy quân lục chiến đến làm việc.   Người Phi ai cũng biết chính phủ Bắc Kinh tuyên bố chỉ giúp 100,000 đô la, bằng một phần tư số tiền do một tổ chức thiện nguyện VOICE của người Việt Nam đóng góp (Luật sư Trịnh Hội cho biết, riêng một ngôi chùa người Việt tại Mỹ đã nhờ chuyển 50 ngàn đô la cứu trợ). Sau khi nghe dư luận thế giới đàm tiếu, Bắc Kinh đã phải nâng số tiền cứu trợ lên hai triệu Mỹ kim. Họ không biết câu tục ngữ Việt Nam: Ðồng tiền đi trước là đồng tiền khôn; đồng tiền đi sau là dại. Chuyến đi của John Kerry phải đặt trong bối cảnh những xung đột ngoại giao đang diễn ra giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, ở phía Bắc Á Châu. Sau khi Bắc Kinh tuyên bố lập vùng phòng không ADIZ, nước Nhật đã phản ứng, bằng việc làm. Ngày hôm qua, 17 tháng 12, 2013, chính phủ Nhật Bản đã công bố những chiến lược quốc phòng mới. Thủ tướng Shinzo Abe gọi đây là kế hoạch quốc phòng, nhưng ai cũng thấy tầm quan trọng trong lâu dài. Nhật Bản sẽ mua thêm các máy bay không người lái và các tàu đổ bộ, là những thứ không thể coi là vũ khí “phòng thủ” như bản Hiến pháp Nhật đòi hỏi. Ngân sách quốc phòng Nhật sẽ gia tăng trong mười năm tới, đi ngược lại chiều hướng cắt giảm trong mười năm qua. Chính phủ Nhật cũng sẽ giảm bớt các hạn chế trong việc xuất cảng vũ khí. Các biện pháp đó chắc sẽ được giới tư bản công nghiệp ở Nhật hoan nghênh. Bản kế hoạch của ông Shinzo Abe công bố hôm qua sẽ tăng ngân sách quốc phòng thêm 12 tỷ trong năm năm tới. Số chi tiêu sẽ lên tới 246 tỷ Mỹ kim. Ngân sách quốc phòng Nhật Bản hiện đứng hàng thứ 5 trên thế giới, mặc dù vẫn bị cấm không được lập quân đội ngoài lực lượng tự vệ. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đứng hàng thứ hai, sau nước Mỹ. Nhưng nếu so sánh lực lượng hải quân và không quân thì Nhật Bản vẫn mạnh hơn Trung Quốc. Một điểm mới trong kế hoạch mới là việc nghiên cứu sẽ mua các vũ khí tấn công có tầm xa; lý do được nêu lên là đề phòng Bắc Hàn tấn công bằng hỏa tiễn và bom nguyên tử. Ông Abe còn giải thích công việc tự vệ bao gồm cả việc bảo vệ một nước đồng minh bị xâm lăng. Rõ ràng là ông đang giải thích bản Hiến pháp “hòa bình, phi quân sự” của nước ông theo lối mới. Tất cả là những phản ứng trước thái độ hung hăng của Bắc Kinh trong vùng biển phía Ðông Trung Quốc. Trong khi đó thì đối với nước Mỹ, Bắc Kinh vẫn rất hòa dịu. Cuộc đụng độ với chiến hạm Mỹ USS Cowpens khi đang bám theo quan sát mẫu hạm Liêu Ninh xảy ra ngày 5 tháng 12 đã được Bắc Kinh dìm xuống hàng tin tức không quan trọng. Sau đó, Bắc Kinh cho biết sẽ tiếp tục tham dự một cuộc tập trận lớn, mang tên Rimpac, do bộ chỉ huy hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương tổ chức.   Tập Cận Bình đang lo đối phó với các đối thủ trong đảng, trong nước. Cho nên Ngoại trưởng John Kerry tha hồ múa gậy vườn hoang. Nhưng đối với các nước Ðông Nam Á, cuộc múa gậy này rất ngoạn mục. Dân chúng miền này sẽ ngủ ngon hơn khi biết chính phủ Mỹ vẫn giữ đúng chủ trương “chuyển trục” về Á Châu. 17.12.013 - Ngô Nhân Dụng Nguồn: nguoi-viet.com
......

Người Trung Quốc Lập Xóm, Lập Phố Và Sẽ Lập Gì Nữa?

Đôi lời: Đã từ nhiều năm nay, có một tài liệu tiết lộ những bí mật kinh hoàng, được lưu truyền trên mạng, rồi rất nhiều người dân, trong đó có cả các cán bộ đảng viên, đã tự in ra, phát tán, trao đổi, bán tín bán nghi, rồi lo lắng. Tài liệu đó chứa nội dung được cho là ghi lại một cuộc bàn bạc giữa cơ quan tình báo hai nước Trung – Việt về một kế hoạch trong nhiều năm, để ngấm ngầm đưa Việt Nam dần trở thành một khu tự trị của Trung Quốc. Nghe như chuyện giả tưởng! Thế nhưng, hãy thử nhìn vào bao nhiêu diễn biến liên quan trong nhiều năm qua, những hiện tượng tuy mới là bề nổi, không thể kể hết, trong một xã hội bị bưng bít thông tin bậc nhất thế giới, cũng đã khiến ta vô cùng lo ngại, để mà suy ngẫm. BT (diendanxahoidansu)   Dân trí Thứ Bẩy, 30/11/2013 – 07:38 (Dân trí) – Tại phiên thảo luận về Dự án Luật nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam chiều 28.11, các đại biểu Quốc hội nêu lên một vấn đề rất đáng lo ngại, lao động nước ngoài, đông nhất là từ Trung Quốc, nhập cư vào Việt Nam, đang “lập xóm, lập phố ở một vài địa phương”. (Minh họa: Ngọc Diệp) Theo đại biểu Trần Ngọc Vinh, có hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu như Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, Xi măng Ninh Bình, Tây Ninh, bauxite Lâm Đồng… Nói là lao động nước ngoài chung chung, nhưng ai cũng biết chủ yếu là người Trung Quốc. Họ có mặt từ các tỉnh biên giới phía Bắc vào đến Cà Mau, lên tận Tây Nguyên, rải dài các tỉnh duyên hải miền Trung, các tỉnh Đông Nam Bộ. Có những nơi, họ sống theo xóm, theo phố. Dân mình cũng lập phố đưa biển hiệu như phố Tàu. Mới đây, báo chí đưa tin phố Tàu ở Bình Dương là một ví dụ. Người Trung Quốc sang Việt Nam bằng con đường du lịch, rồi ở lại làm việc cho các công trình của nhà thầu Trung Quốc. Số lao động được cấp phép và không được cấp phép khó nắm được hết. Chỉ riêng ở khu kinh tế Vũng Áng, chỉ có 1.100 người nước ngoài được cấp phép lao động, nhưng tại đây có đến 2.600 lao động nước ngoài, trong đó lao động Trung Quốc là 1.526 người. Các nhà thầu Trung Quốc nhận thầu tại Việt Nam, họ tìm cách đưa người của họ sang để “tranh” việc làm. Lao động phổ thông trong nước thất nghiệp ngày càng cao, nhưng kiếm một chỗ làm ở các nhà thầu Trung Quốc là rất khó. Ở các thành phố, bác sĩ Trung Quốc (chưa biết thật giả) sang mở phòng khám chui lấy tiền dân mình, để lại nhiều hậu quả kinh hoàng, nhưng không hiểu vì sao chỉ chuyện này thôi cũng không quản được. Ở các dự án bauxite Tây Nguyên cũng vậy, lao động Trung Quốc sang lập thành khu vực riêng biệt, làm việc và sinh sống trên cao nguyên. Ngoài giờ làm việc, đàn ông Trung Quốc cũng chẳng ngại gì mà không tìm vợ Việt Nam khi có cơ hội, thế là gia đình Hoa – Việt ngày càng nhiều, người Trung Quốc cắm rễ trên đất Việt Nam với tư cách là chàng rể. Lấy vợ, sinh con rồi cất nhà, sinh sống ở Việt Nam. Từ lao động bất hợp pháp thành công dân hợp pháp. Với việc đưa dân sang lao động như các nhà thầu Trung Quốc đang làm, chỉ cần chục năm nữa, người Trung Quốc ở Việt Nam sẽ nhân lên gấp nhiều lần hiện nay, lúc đó sẽ không chỉ là xóm, là phố, mà cả khu người Hoa khắp đất nước này. Các nhà quản lý không thể không nhận thấy phương cách “gặm nhấm” trên đất theo cách này của họ. Lê Chân Nhânhttp://dantri.com.vn/blog/nguoi-trung-quoc-lap-xom-lap-pho-va-se-lap-gi-...
......

Pages