GHI NHANH CUỘC “KHÁCH THĂM” NHÀ CỤ NGUYỄN TRỌNG VĨNH

Chiều 19/11/2014 Hà Nội đã vào cuối thu, lạnh. Tôi tranh thủ đến thăm sức khỏe lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Tôi quen biết cụ đã gần 40 năm nay và rất kính trọng và khâm phục cụ về nhân cách, đạo đức cũng như tấm lòng của cụ đối với dân và đất nước. Dù năm nay đã 99 tuổi song cụ vẫn nhanh nhẹn, khỏe mạnh và minh mẫn! Mặc dù hơn tôi 26 tuổi song cụ vẫn coi tôi là một người bạn vong niên thân thiết. Tiếp tôi, ngoài cụ còn có con gái cụ là nhà văn Nguyên Bình và chồng chị là anh Trịnh Văn Trà, một đại tá quân đội đã nghỉ hưu.   Tôi đứng lên chào và xin phép cụ ra về vì đã tâm tình và trò chuyện với cụ hơn một tiếng đồng hồ thì cụ bảo tôi cố nán lại ít phút để dự buổi cụ tiếp đoàn khách của Thành ủy Hà Nội đến thăm cụ.    Năm phút sau khách đến. Dẫn đầu là Ủy viên Thường vụ Thành ủy kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy cùng 5 quan chức của Đảng, gồm: Một chuyên viên của UBKT Thành ủy; ông Phó bí thư Quận ủy Đống Đa; ông Chủ nhiệm UBKT Quận ủy Đống Đa; bà Bí thư Đảng ủy phường Kim Liên và ông Bí thư chi bộ nơi cụ sinh hoạt Đảng. Đoàn khách đi luôn vào nội dung cuộc viếng thăm: Hỏi cụ có phải là người ký vào Thư ngỏ 61 (toàn văn xem tại đây) không và ai là người chấp bút, thảo ra thư đó? Họ thuyết phục cụ tuyên bố rút tên khỏi danh sách 61 đảng viên ký Thư ngỏ đó vì đã vi phạm vào quy định của Đảng, đặc biệt là "19 điều cấm" mà Đảng không cho đảng viên làm.  Cụ khẳng đinh chính cụ là người ký vào Thư ngỏ 61 đó, và vì cụ nhiều tuổi đảng nhất, 75 năm tuổi đảng, nên anh em xếp cụ lên danh sách đầu tiên. Còn ai là người soạn thảo thư đó thì cụ nói là mọi người ngồi trao đổi với nhau, đều nhất tri và đồng tình những nội dung cấp thiết phải kiến nghị với Lãnh đạo Đảng như nội dung Thư ngỏ đã nêu rõ, còn ai là người chấp bút khởi thảo thì không quan trọng, cụ không đáp ứng câu hỏi này vì cụ cho rằng mọi người ký vào Thư ngỏ thì đều có trách nhiệm như nhau và sẵn sàng đối thoại, tranh luận công khai và dân chủ với lãnh đạo Đảng về những vấn đề mà Thư ngỏ 61 đã nêu lên. Liệu Đảng có đồng ý đối thoại và tranh luận công khai với nhóm 61 đảng viên ký vào Thư ngỏ này không ? Còn về yêu cầu cụ tuyên bố rút tên khỏi danh sách những người ký tên Thư ngỏ này thì cụ nói không, dứt khoát không bao giờ tôi rút theo yêu cầu của các anh!  Còn việc đoàn “đến thăm” kết luận rằng cụ cùng 61 đảng viên ký tên tập thể vào Thư ngỏ là vi phạm qui định của Đảng và "19 điều cấm" không cho đảng viên làm  thì cụ hoàn toàn bác bỏ, cụ nói chính những qui định đó đã triệt tiêu tinh thần dân chủ trong đảng và ngay "19 điều cấm" cũng vi phạm Điều lệ Đảng ! Ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy trách cụ là tại sao cụ không trực tiếp góp ý kiến với Đảng theo con đường mà Đảng đã qui định mà lại tán phát những quan điểm sai trái, làm cho đảng viên và người dân hoang mang, dao động? Cụ trả lời là cụ rất thất vọng vì trong suốt gần 10 năm qua cụ đã kiên trì và chân tình góp ý, đã không dưới 10 lần viết thư tay gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban CHTW Đảng và cả Tổng Bí thư nhưng không lần nào cụ được hồi âm, trả lời! Cụ nói: Đến như cụ 16 năm là Ủy viên Trung ương Đảng (Khoá III), là lão thành cách mạng, có 75 năm tuổi đảng, mà các anh ấy trốn tránh, không thèm trả lời thì thử hỏi những góp ý, kiến nghị của các đảng viên khác các anh ấy coi ra gì? Lãnh đạo Đảng ngày nay chỉ thích nghe những ý kiến xu nịnh, thuận tai của bọn cơ hội, giáo điều, nhưng ngược lại họ coi các ý kiến phản biện và những đóng góp chân tình, xây dựng, tâm huyết và khoa học của rất nhiều nhân sỹ trí thưc và đảng viên là những ý kiến có “động cơ xấu”, thậm chí còn bị chụp mũ là “suy thoái, biến chất” hoặc “bị các thế lực thù địch xúi giục”! Đấy chính là một trong các lý do cụ ký tên vào Thư ngỏ 61 và công khai thư đó cho nhân dân biết sau khi thư đó đã gửi chuyển phát nhanh cho TBT, BCT, BBT và  tất cả gần 200 UVTW Đảng. Ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy trách là việc tán phát Thư ngỏ đó trên mạng là sai trái, làm cho các đảng viên hoang mang, dao đông, không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng. Nghe đến đây tôi phải xin phép cụ Vĩnh để có đôi lời với ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy. Tôi nói: “Vâng, thưa đồng chí Chủ nhiệm UBKT, tôi nguyên là cán bộ Bộ Công an, đã về nghỉ hưu 11 năm nay và là một trong 61 đảng viên ký tên vào Thư ngỏ 61. Ý kiến đồng chí vừa nói rất đúng. Nếu có ai hoang mang, dao động và không tin vào sự lãnh của Đảng thì người đó chính là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí Phú Trọng nói "Đến hết thế kỷ này không biết là đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa?"  Đồng chí TBT không phải nói ở chỗ riêng tư mà phát biểu chính thức trong một buổi thảo luận Tổ đại biểu ở Quốc Hội khóa XIII để góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 tháng10 năm ngoái và đã được VTV, VOA và TTXVN loan tải rộng rãi!  Chính phát biểu bi quan đó của đồng chí TBT làm tôi thực sự dao động, hoang mang và không còn tin vào sự lãnh đạo hiện nay của Đảng nữa, và đây cũng chính là một trong các lý do khiến tôi ký vào Thư ngỏ 61. Lúc nãy tôi  có hỏi về di chúc của Chủ tịch HCM và đồng chi trả lời là di chúc của Bác Hồ rất đúng và tuyệt đối đúng! Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý với đồng chí. Di chúc của Bác không căn dặn Đảng ta xây dựng CNXH mà chỉ  dặn Đảng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, giàu mạnh và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ văn minh thôi, và trong di chúc không có một từ nào Bác đề cập đến chủ thuyết Marx-Lenine và căn dặn nhân dân và đảng ta phải kiên định con đường này! Vậy tại sao Đảng ta không làm theo di chúc của Bác? Ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy không trả lời trực tiếp mà chuyển sang việc đề cập đến thành tựu lãnh đạo cách mạng của Đảng. Ông gợi lại chuyện 75 năm trước (1939) khi cụ vào Đảng và thoát ly tham gia cách mạng thì đất nước ta còn nghèo lắm, dân ta còn khổ lắm nhưng nhờ sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng nên ngày nay nước ta đã hết nghèo, dân ta đã hết khổ, nay thì nhà nào cũng có ít nhất một xe máy thì làm sao cụ lại nói đường lối của Đảng là sai lầm, cần phải từ bỏ con đường xây dựng CNXH theo mô hình Xô-viết ? Ông ta còn nói rằng Đảng đã và đang kiên định con đường XHCN, mang lại hạnh phúc cho nhân dân, xã hội ta không có người bóc lột người, Đảng không cho phép bọn tư bản bóc lột giá trị thặng dư nhân dân lao động VN, hiện nay nhân dân làm theo sức và hưởng theo lao động, mai này khi tiến lên xây dựng CNCS thì người dân sẽ làm tùy sức và sẽ hưởng thụ theo nhu cầu!  Về đối ngoại, Đảng ta cũng có chính sách khôn khéo và cương quyết với TQ, buộc họ phải rút giàn khoan HD981 khỏi vùng đặc quyền kinh tế của ta trước thời han. Đây rõ ràng là thắng lợi của ta...(!?). Cụ Vĩnh nói: “Nó rút chủ yếu là do sức ép quốc tế. TBT Nguyễn Phú Trọng không hề có một lời nào lên án TQ. Hội nghị TW9 đang họp, cũng không hề có một tuyên bố nào. Rồi đến Quốc Hội họp cũng không ra tuyên bố hoặc nghị quyết lên án TQ, Chính phủ cũng vậy! Sao nay lại tự nhận là do ta đấu tranh kiên quyết , mạnh mẽ nên buộc nó phải rút? TQ không bao giờ từ bỏ dã tâm bành trướng, xâm lược nước ta.Đảng phải hết sức cảnh giác và phải thực sự dựa vào nhân dân và phải đặt lợi ích của đất nước,của dân tộc lên trên lợi ích của Đảng thì mới có thể thắng lợi kể cả trong xây dựng đất nước cũng như bảo vệ Tổ quốc, và đừng có quá nhẹ dạ tin vào 16 chữ vàng và 4 tốt , kẻo sẽ bị lừa và dễ mất nước”! Đại tá Trà dù đã rất kiên nhẫn ngồi nghe từ đầu, song đến đây ông không kìm được, ông nói: “Nghe các đồng chi lập luận, tôi không thể thông! Đồng chí khẳng định VN chỉ có thể chọn mô hình XHCN để xây dựng đất nước, ngoài ra không có con đường nào khác. Thế thì đồng chí giải thích tại sao lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đi hết nước tư bản này đến nước tư bản kia để van nài họ công nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường? Phải chăng điều đó chứng tỏ chính Đảng không tin vào CNXH và thú nhận học thuyết Marx-Lenine là bế tắc?”. Không thấy vị Chủ nhịêm UBKT Thành ủy và các vị khách trả lời, tôi nói: “Cho đến lúc này, ngay cả Hội đồng lý luận Trung ương cũng như các nhà nhà lý luận của Đảng cũng không có ai đưa ra được một định nghĩa có sức thuyết phục thế nào là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Kinh tế thị trường và Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và giao thoa cùng nhau được! Có cái này thì không có cái kia và ngược lại”. Cụ Vĩnh nghe vị Chủ nhiệm UBKT Thành ủy thuyết giảng, chắc cảm thấy rất mệt, song cụ vẫn vui vẻ nói: “Lúc nãy nghe đồng chí Chủ nhiệm UBKT Thành ủy nói thời tôi vào Đảng và tham gia hoạt động CM đã cách đây 75 năm rồi. Vâng, đồng chí nói đúng. Hồi đó tôi vào đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương sau này đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam, và tôi thấy Đảng tôi chọn lúc đó đều rất trong sáng và thực sự vì dân tộc và đất nước, và nó khác xa  ĐCSVN hiện nay. Mong các đồng chỉ về và phản ảnh trung thực, đầy đủ các ý kiến ta trao đổi hôm nay, và kiểm tra giúp các đơn thư mà tôi đã gửi lãnh đạo Đảng trong hơn 9 năm qua và nhắc họ cố gắng đọc và nghiên cứu. Nếu bố trí gặp trực tiếp tôi thì tốt, nếu không thì cố gắng hồi âm các thư tôi đã gửi. Đoàn “khách” cũng cảm thấy khó có gì để nói thêm nên đứng dậy xin phép ra về. Ông Trưởng đoàn kính chúc cụ mạnh khỏe để tiếp tục đóng góp ý kiến xây dựng Đảng theo đúng quy định để Đảng thực sự trong sạch và vững mạnh. Tôi về đến nhà  là  đã gần 6 giờ chiều, tuy khá mệt song cố gắng ghi lại trung thực nhưng chắc không đầy đủ nội dung cuộc gặp này,kẻo để lâu lại quên. Tôi nghĩ chắc đây chưa phải là cuộc thăm viếng và trao đổi cuối cùng. Và cũng không riêng với cụ Vĩnh, với những khác biệt giữa nhận thức và thực tiễn, giữa quyền hành và dân chủ như thế này, tôi nghĩ rằng những đoàn “khách” như thế này còn “hỏi thăm sức khỏe” nhiều người khác nữa, cho dù có góp ý với lãnh đạo đảng, nhà nước những ý kiến chân thành, xây dựng, nhưng “khác chủ trương, khác ý lãnh đạo”! NĐQ Tác giả gửi BVB lúc 05:05, ngày 20-11-2014 ____________   *Tễu:Cuộc gặp ngày 19.11 là cuộc gặp thứ 2 đối với Tướng Vĩnh trong thời gian 1 tháng trở lại đây. Lần trước, người đến viếng thăm chỉ ở cấp Quận, gồm: Phó Bí thư Quận ủy Đống Đa dẫn đầu và tùy tòng là các cán bộ đảng của Phường Kim Liên, quận Đống Đa. Lần này, nâng cấp lên cấp Thành phố: Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP Hà Nội Trần Trọng Dực và tùy tòng. Lần sau, chắc là Bí thư Thành ủy và tùy tòng. *Cụ Vĩnh đã 75 năm tuổi đảng. Nhưng đảng đang cân nhắc, dỗ cụ không ý kiến ý cò gì nữa thì sẽ phát huy hiệu 75 năm tuổi đảng. Cụ bảo: Chẳng phát thì tôi cũng 75 năm tuổi đảng, phát hay không là tùy các anh! Theo Blog Bùi Văn Bồng  
......

Ls. Lê Công Định: Thư ngỏ gửi “người khuất mặt khuất mày”,

Hôm nay một vài bạn hữu gửi đến tôi đường dẫn bài viết công kích cá nhân tôi trên báo Nhân Dân. Tác giả tên Vũ Hợp Lân, có lẽ là bút danh của một người không dám lộ diện công khai. Vậy tôi xin mạn phép trò chuyện với “người khuất mặt khuất mày” ở đây. Nội dung chính của bài viết nhằm chỉ trích việc tôi bày tỏ lòng kính trọng đối với các chính khách và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, cụ thể là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quả thật, tôi vô cùng kính trọng hai nhân vật lịch sử anh hùng đã ngã xuống vì quốc gia ấy. Nếu so sánh họ với các nguyên thủ và tướng lĩnh ngày nay trước mối đe dọa và hành vi xâm lấn của ngoại bang đối với lãnh thổ mà tổ tiên chúng ta để lại, thì lời ca ngợi của tôi dành cho hai vị e rằng chưa diễn đạt hết niềm cảm phục pha lẫn tiếc thương của tôi. Sự đời vẫn vậy, những người đáng sống thì lại chẳng may qua đời quá sớm! Tướng Nguyễn Khoa Nam lúc quyết định tuẫn tiết, do không làm tròn bổn phận của một quân nhân, ắt hẳn đã không đến nỗi quá “tâm tư” vì không được thăng cấp bậc Trung Tướng trước khi xả thân bảo vệ lãnh thổ mà mình mang trọng trách. Một vị danh tướng không màng đến địa vị và bổng lộc, đã chọn cái chết oai hùng, không đáng để nhiều người trong đó có tôi kính trọng sao? Việc tôi “đứng về phía nào” chẳng lẽ cũng phải xin phép ai? Yêu ghét một con người, một nhân vật lịch sử, lẽ nào cũng phải theo “định hướng”? Luật pháp nào quy định thế? Thưa ông Vũ Hợp Lân, xã hội này có thể còn thiếu tự do, nhưng tôi không cho phép mình mất tự do trong tư tưởng của chính mình, vì tôi là Con Người! Ông có quyền trung thành với ai đó, nên dù vẫn tôn trọng ông, tôi không nhất thiết phải giống ông. Tôi khác. Bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không có nghĩa là muốn tái lập trong tương lai một thể chế của quá khứ. Cũng tương tự, ngưỡng mộ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và chiến công vĩ đại của ngài, không đồng nghĩa với ý định thiết lập một vương triều quân chủ đời nhà Trần vào Việt Nam ở thế kỷ 21 này. Và nếu tôi tôn trọng cụ Hồ trong tư cách một nhân vật lịch sử, như tôi vẫn luôn bày tỏ bất kể ai phiền muộn, thì trừ phi tôi bị tâm thần mới có ý mong muốn chế độ mà cụ Hồ thiết lập từ năm 1945 mãi trường tồn cùng với bao vấn nạn tham nhũng và vi phạm nhân quyền thế này! Viết như vậy đã dễ hiểu chưa ông Vũ Hợp Lân? Suy nghĩ theo cách ấy liệu sẽ bị suy diễn là có ý đồ chống và lật đổ chế độ chăng? Thú thật, nếu ông cố tình suy diễn theo hướng đó, thì không việc gì tôi phải e ngại hay sợ ông cả. Dù sao cũng phải cám ơn ông Vũ Hợp Lân đã trích đăng công khai những câu chính trong các bài viết của tôi, vì điều đó vô hình chung quảng bá suy nghĩ của tôi đến một số độc giả mà tôi không có dịp tiếp cận. Chỉ tiếc là tờ báo ông dùng để đăng ít người đọc quá! Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, hồi ở tù tôi rất thường đọc báo Nhân Dân, vì không một tờ báo nào khác được phép phổ biến trong khuôn khổ các trại giam ở Việt Nam dù là Thanh Niên hay Tuổi Trẻ của chính nhà nước này. Đọc để mỉm cười vui vẻ, thay vì xem hài kịch vốn không thể có trong tù. Tôi chưa bao giờ tự xưng am tường sử học, vì đó là một lĩnh vực sâu rộng đòi hỏi nhiều năng lực và thời gian nghiên cứu, mà tôi thì chỉ dừng lại ở sự say mê học hỏi từ lịch sử cho riêng mình thôi. Tuy nhiên, có hồ đồ lắm không khi một “người khuất mặt khuất mày” viết vài ba dòng “vỗ mông ngựa” (mượn chữ của tác giả Kim Dung trong tác phẩm “Lộc Đỉnh Ký”) trên một tờ báo chuyên về tuyên truyền, chứ không chuyên ngành sử học, lại nhận định tôi “kém hiểu biết lịch sử” hoặc “xuyên tạc lịch sử”? Để tránh tình trạng chụp mũ bừa bãi vô ích, tôi đề nghị ông Vũ Hợp Lân sớm tổ chức một mục đàm luận công khai và dân chủ với tôi về các vấn đề lịch sử Việt Nam hiện đại trên chính tờ báo Nhân Dân để độc giả rộng đường nhận định. Đây không phải là lời thách thức, mà là việc làm cần thiết để tránh tiếng “cả vú lấp miệng em” vốn thường dành cho những tay bồi bút, và cũng giúp tờ báo của ông nâng lên một tầm cao mới, thu hút thêm nhiều độc giả có đầu óc hơn. Ông đồng ý nhé? Trân trọng, Lê Công Định   nguồn: FB Luật sư Lê Công Định
......

Phải quì rạp cả đoàn cho chúng xem

Trong vài ngày qua, Trung tướng Lê Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5, đã công khai phản đối kịch liệt việc giao đèo Hải Vân, một trọng điểm quân sự, cho doanh nghiệp Trung Quốc - để họ lại viện cớ dựng khu biệt lập mới cho "công nhân" từ Tàu kéo sang ở luôn. Đọc tin này, người ta vừa mừng vừa lo! Mừng là trong hàng ngũ tướng lãnh quân đội vẫn còn những người như tướng Lê Chiêm . Nhưng lo vì không biết ông còn giữ chức đó được bao lâu để báo động công luận, trước khi những kẻ muốn bán khu vực này cho Tàu sẽ loại trừ ông và vẫn âm thầm tiến hành kế hoạch, như đã thấy quá nhiều lần tại Nóc nhà Đông Dương, tại các khu vực dọc theo bờ biển miền Trung kể cả khu Cam Ranh, tại các khu vực dọc theo biên giới phía Bắc, và rải khắp các khu vực sâu trong đất nước Việt Nam. Thật vậy, chỉ cần nhìn phái đoàn 13 tướng kéo nhau sau chầu Bắc Kinh mới mấy tuần trước, người ta đủ thấy những người đang tại chức như tướng Lê Chiêm hiếm quí tới đâu. Ngay sau chuyến đi Tàu của Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và là đặc sứ của TBT Nguyễn Phú Trọng, để xin Bắc Kinh "cùng khai thác chung Biển Đông", vào cuối tháng 10.2014, một đoàn tướng lãnh quân đội nhân dân Việt Nam hùng hậu chưa từng có nối đuôi nhau qua Tàu. Đoàn này do chính Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh dẫn đầu. Giới phân tích không sao giải thích được lý do tại sao, nhất là ngay sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 được nối tiếp bằng các lời đe doạ lẫn phỉ báng liên tục từ Bắc Kinh, mà Bộ Chính Trị đảng CSVN lại sai Phùng đại tướng kéo một lượt 12 tướng lãnh cao cấp của quân đội từ tham mưu, đến chính trị, biên phòng, hải, lục, không quân lục tục sang Bắc Kinh. Có người đặt câu hỏi có phải để được Tàu huấn luyện gì đó không? Quả đúng là từ năm 2009, mỗi năm, Bộ Quốc phòng Việt Nam có cử hàng trăm cán bộ quân sự qua Tàu gọi là để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm quân sự nhưng thực chất là các buổi sinh hoạt tư tưởng để tô đậm "quân Việt Nam phải luôn nhớ ơn quân Trung Quốc”. Tuy nhiên, các khóa đó đều kéo dài ít là nửa tháng và thường diễn ra tại Học viện Chính trị Tây An của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Vì vậy huấn luyện không phải là mục đích của phái đoàn Phùng Quang Thanh, vốn chỉ diễn ra 2 ngày 16 đến 18.10.2014 và chỉ quanh quẩn tại Bắc Kinh. Cũng có người đặt giả thiết phải chăng vì phải trao đổi rất nhiều chi tiết quân sự nên phải kéo theo người trách nhiệm của từng ban ngành quân đội? Cụ thể như tuyên bố của tướng Phùng Quang Thanh với báo chí về mục đích chuyến đi là để "Tăng cường thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa quân đội của hai nước cũng như giữa hai Đảng, nhà nước và nhân dân hai nước. Giữ gìn môi trường ổn định, hoà bình và kiểm soát cho được hoạt động của lực lượng vũ trang hai nước trên biển, không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và để xảy ra xung đột vũ trang ở trên biển”. Nhưng chính giải thích của tướng Thanh lại làm vấn đề khó hiểu hơn nhiều: - Nếu theo đúng tuyên bố trên thì rõ ràng đây là chuyến đi mang tính ngoại giao, chính trị để xây đắp quan hệ thì tại sao lại cần đến một phái đoàn quân sự, mà lại quân sự hùng hậu tới mức đó? - Nếu chỉ để tránh "xung đột vũ trang ở trên biển" thì tại sao lại cần đến các tướng tư lệnh quân khu 1, 2, 3 vốn chẳng liên hệ gì đến khu vực có xung đột trên biển Đông? Đặc biệt quân khu 1 và 2 không hề có tới 1 mét bờ biển? Đó là chưa kể tại sao lại kéo theo các tướng lo về thông tin, không quân, và chính trị? - Nếu vì lý do phải trao đổi nhiều chi tiết quân sự thì trong thời đại điện toán ngày nay loại việc đó phải do các sĩ quan cấp dưới thực hiện trong một thời gian dài, chứ làm sao các tướng có thể cầm khối dữ kiện theo để tuông ra trong vòng 2 ngày? Các tướng lãnh chỉ có thể đồng ý về các nguyên tắc. Và vì vậy, như trong vô số các cuộc trao đổi quân sự hệ trọng trên thế giới, mỗi bên chỉ cần bộ trưởng quốc phòng và một vài phụ tá là quá đủ. Chẳng ai kéo theo các tướng với trách nhiệm điều hành nội bộ theo cả. Vì vậy, lý do duy nhất của phái đoàn Phùng Quang Thanh và 12 tướng đi Tàu là để đáp ứng đòi hỏi của Bắc Kinh muốn biểu diễn cho toàn dân thiên hạ nói chung và dân chúng Trung Quốc nói riêng thấy rõ sự thần phục của Việt Nam. Rõ ràng Bắc Kinh không đòi 13 lãnh tụ đảng CSVN, hay 13 quan chức thuộc Bộ Ngoại giao sang bái lạy. Nhưng họ đòi buộc phải đúng 13 tướng lãnh ở hàng cao nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam xếp hàng xụp lạy vì như thế mới đủ thuyết phục dân chúng Trung Quốc rằng Tập Cận Bình đã hoàn toàn làm chủ Biển Đông; và có như thế họ mới hy vọng bóp chết hẳn được những tư tưởng "chống Tàu xâm lược" còn sót lại trong quân đội Việt Nam. Điều đó cũng giải thích được tại sao lãnh đạo Bắc Kinh liền cho báo chí Trung Cộng đăng hàng loạt và gọi đây là "chuyến đi cầu hòa" của Việt Nam. Điều đáng nói là chắc chắn giới lãnh đạo đảng, đặc biệt là các tướng lãnh quân đội Việt Nam, đều biết rõ trò cố tình sỉ nhục của Bắc Kinh từ trước ngày lên đường sang Tàu. Nhưng họ đều cúi đầu chấp nhận. Và khi cả giàn lãnh đạo đều đã mang tâm thức chấp nhận như thế thì các trò tuyên bố "đang chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc", hay đang mua vũ khí từ nước này nước nọ, hay đang thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản,... đều là những màn kịch cực kỳ mắc tiền, dành riêng cho dân tộc Việt Nam. Điều lạ sau cùng trong sự việc này là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, người vẫn được xem là sứ thần của Bắc Kinh, và Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham mưu trưởng, đều không có mặt trong đoàn. Họ đủ tinh ranh để biết thoái thác cái sứ mạng đi công khai bái lạy Bắc Kinh. Họ tránh né được chuyến đi ô nhục, bôi bẩn tên tuổi dòng họ nhiều đời. Thật vậy, lịch sử dân tộc mai sau chắc chắn sẽ ghi lại đoàn tướng đi Tàu ngày 16.10.2014 với đầy đủ tên họ của từng thành viên: -                      Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng quốc phòng; -                      Trung tướng Bế Xuân Trường, Phó tổng Tham mưu trưởng; -                      Trung tướng Lương Cường, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; -                      Trung tướng Dương Đức Hòa, Tư lệnh Quân khu 2; -                      Trung tướng Phương Minh Hòa, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; -                      Trung tướng Võ Trọng Việt, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; -                      Trung tướng Phạm Hồng Hương, Tư lệnh Quân khu 3; -                      Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; -                      Thiếu tướng Phan Văn Tường, Phó tư lệnh Quân khu 1; -                      Trung tướng Vũ Văn Hiển, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng; -                      Thiếu tướng Vũ Anh Văn, Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; -                      Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng, Cục trưởng Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng và -                      Thiếu tướng Ngô Quang Liên, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng.
......

Trung Quốc trấn đèo Hải Vân: Trách nhiệm Thủ tướng

Thừa Thiên-Huế đẩy quả bóng trách nhiệm cho Thủ tướng về việc cho phép nhà đầu tư Trung Quốc khai thác 200 ha đất ở vị trí chiến lược trên đèo Hải Vân.   Nhà phản biện độc lập TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho rằng, cho dù Thủ tướng chịu trách nhiệm vì đã phê duyệt qui hoạch, thì nay cũng là lúc phải thu hồi ngay lập tức giấy chứng nhận đầu tư cấp cho doanh nghiệp Trung Quốc, trao quyền cho họ thực hiện dự án nghỉ dưỡng nằm ở vị trí chiến lược, có thể khống chế vịnh Đà Nẵng và chia cắt đất nước.   Từ Hà Nội TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh: “Chắc chắn phải như vậy nếu ông ấy đã ký thì phải có trách nhiệm, về việc không nhìn ra thì có thể có nhiều lý do, một lý do là do sơ xuất vì sơ xuất là chuyện con người. Nếu mà là sơ xuất thì có thể bỏ qua mà chỉ có thể đánh giá là năng lực hơi kém. Còn nếu không phải là sơ xuất mà biết mà vẫn làm như thế thì trách nhiệm càng nặng hơn.”   Phát biểu gay gắt của TS Nguyễn Quang A được ghi nhận tiếp sau thông tin: ngày 14/11/2014 ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên-Huế khẳng định với VnExpress rằng Thừa Thiên-Huế làm đúng qui định của Nhà nước. Suốt hai tuần qua trên báo chí, Thừa Thiên-Huế đã lập luận rằng, dự án 200 ha ở mũi cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn xa nhất ra biển Đà Nẵng là nằm trong Qui hoạch chung về xây dựng Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế đến hết năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1771 ngày 5/12/2008.   Chính quyền Thừa Thiên - Huế không trả lời dư luận về việc Dự án mũi Cửa Khẻm giao cho nhà đầu tư Trung Quốc nằm ở vị trí chiến lược khống chế vùng trời, vùng núi, vùng biển Đà Nẵng và nếu xảy ra chiến tranh sẽ chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 16. Chính quyền Thừa Thiên-Huế chỉ biện giải về khu vực tranh chấp địa giới giữa Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng. Theo các chuyên gia địa phương nào quản lý mũi Cửa Khẻm không phải là điều quan trọng, cốt lõi ở đây Thừa Thiên-Huế đã bỏ qua vấn đề an ninh quốc phòng trao quyền khai thác 200 ha cho nhà đầu tư nước ngoài trong vòng 50 năm, mà cụ thể là doanh nghiệp Trung Quốc. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc hiện nghỉ hưu ở Hà Nội đã phản ứng mạnh mẽ về điều ông là góp phần làm tăng nguy cơ mất nước. Ông nói:   “Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”   Từ đầu tháng 11, chính quyền Đà Nẵng kiến nghị Thủ tướng rút giấy phép đầu tư mà Thừa Thiên-Huế cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc từ năm 2013 để xây dựng một quần thể nghỉ dưỡng du lịch chiếm 200 ha ở mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn ra xa nhất trên biển Đà Nẵng. Hai lý do Đà Nẵng đưa ra là vị trí chiến lược ảnh hưởng an ninh quốc phòng và dự án nằm trên vùng tranh chấp địa giới giữa hai địa phương. Ngày 17/11/2014, Trung tướng Lê Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5 được VnExpress trích lời khẳng định đèo Hải Vân là khu vực trọng điểm quân sự  cấp độ 1 được Chính phủ quy định. Đất tại khu vực này muốn  làm bất cứ việc gì phải báo cáo và được sự nhất trí của Bộ Quốc Phòng để xin ý kiến của Thủ tướng. Tướng Chiêm nhấn mạnh, Thừa Thiên - Huế tự động cho doanh nghiệp nước ngoài vào xây dựng khu nghỉ dưỡng là “dứt khoát không được”. Chuyện thu hồi giấy phép Đáp câu hỏi của chúng tôi là chính quyền Việt Nam có vẻ không chú ý tới yếu tố an ninh quốc phòng khi kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế và để đến khi dư luận lên tiếng lúc đó mới tính chuyện sửa sai. Nhà phản biện TS Nguyễn Quang A nhận định:   “Tôi nghĩ cũng không hẳn hoàn toàn như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam rất quan tâm tới vấn đề an ninh quốc gia, người ta có những qui trình rất chặt chẽ về những chuyện như vậy. Nhưng thực tế người ta có thể lách những qui trình ấy một cách rất ngoạn mục, hoàn toàn do ý định của người ta mà thôi. Ngay cả việc hủy một dự án, bất kỳ dự án nào cũng có hàng trăm điều kiện mà tôi tin là không có nhà đầu tư nào không vi phạm đến khoảng 30% các điều kiện qui định trong giấy phép. Nếu người ta muốn thì có thể dẫn chiếu bất kể một cái lỗi nào đấy của nhà đầu tư và người ta có thể hủy cái giấy phép ấy mà chẳng cần phải đền bù gì cả, bởi vì ông đã vi phạm qui định.”   Việt Nam có chính sách trải thảm đỏ mời gọi đầu tư để phát triển kinh tế, người Trung Quốc chọn được nhiều vị trí mà dư luận cho là nhạy cảm về an ninh quốc phòng là vì nhờ các mánh lới đặc biệt. Làm thế nào để giảm bớt tình trạng nguy hiểm này. TS Nguyễn Quang A trả lời câu hỏi này: “Nếu chúng ta kỳ vọng vào những người cánh hẩu với Trung Quốc để người ta bớt đi thì không bao giờ cả, số người như thế ở Việt Nam không phải là ít. Chỉ có mỗi một cách như vừa rồi là dư luận của công chúng, của các giới khác nhau, kể cả những người đương quyền mà còn thực sự lo lắng cho vận mệnh đất nước. Những người ấy, các thế lực ấy phải lên tiếng và chỉ có như thế mới có thể chặn được những sự móc ngoặc với những thế lực nước ngoài mà để làm tổn hại đến đất nước mà thôi.”  Được biết, Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp giấy chứng nhận đầu tư và giao 200 ha đất ở mũi Cửa Khẻm cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu từ tháng 10/2013 với thời hạn 50 năm. Thế Diệu đã giải ngân 80 tỷ để khởi sự thực hiện dự án khu nghỉ dưỡng du lịch có tổng vốn đầu tư 250 triệu USD. Tại Cửa Khẻm nơi núi Hải Vân vươn ra biển xa nhất, nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023, Thế Diệu đã xây dựng trụ sở điều hành dự án tại khu vực Cửa Khẻm. Còn tỉnh Thừa Thiên-Huế cho biết đã chi 50 tỷ đồng mở con đường 5 km vào Cửa Khẻm. Cho tới ngày 17/11/2014 chưa có thông tin về việc thu hồi giấy phép dự án đầu tư trên núi Hải Vân của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng báo chí phản ứng dư luận hết sức gay gắt đòi dừng ngay dự án vì ảnh hưởng an ninh quốc phòng, đặc biệt có yếu tố Trung Quốc. Theo ý kiến chuyên gia một quyết định hợp lòng dân là điều Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ phải tính tới trong giai đoạn này. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Việt Nam công lý giống như anh hề?

Bìa cuốn sách luật vừa phát hành có in biểu tượng hình một người đàn ông mặc… "quần nhỏ" đứng trên quả cầu lửa, hai tay cầm hai cán cân "công lý", với khuôn mặt cắt ghép giống hệt diễn viên hài (anh hề) Công Lý. Mặc dầu phản ảnh đúng xã hội hiện nay, nhưng vẫn bị thu hồi theo lệnh vừa ban ra sáng nay 17-11-2014, Theo ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục Xuất bản,  thú nhận "để xảy ra sự cố dở khóc dở cười này của NXB Lao Động- Xã Hội như thế này thể hiện sự yếu kém của công tác biên tập." Ông cho biết, trong ngày mai, 18/11 phía Cục Xuất bản sẽ ra văn bản kết luận xử lý về vụ việc này.! Theo FB Chau Kelley, mặc là sự cố nhưng phản ảnh đúng "TỰ DO" CẦM CÁN CÂN CÔNG LÝ dưới chế độ XHCN hiện nay. Trong khi " ...ở xứ "tư bản giãy chết" Mỹ thì người ta dùng biểu tượng của nữ thần công lý thời La Mã bịt hai mắt lại bằng khăn quàng để chỉ sự công bình dựa trên lý lẽ để xử lý chứ không mở mắt nhìn xem ai là tội nhân để thiên vị, với 1 tay bà cầm thanh kiếm biểu tượng cho việc thi hành công lý dựa theo cán cân pháp luật đã phán xét một cách công bình trong tay còn lại... thì ở xứ "thiên đàng xhcn" cộng sản dùng một thằng...  ... hai con mắt mở thao láo để nhìn xem hàng hối lộ là thứ gì hầu biết tay nào nghiêng về bên đâu... đó là biểu tượng "công lý và luật pháp" của đảng CSVN…". Cũng theo FB Chau Kelly, "Màn 'bôi nhọ đảng và chính quyền' này chắc chắn là không phải do 'bè lũ phản động' làm ra..?! hình tượng cái thằng "đĩ đực' đại diện cho biểu tượng 'công lý và pháp luật' trên bìa của quyển sách 'BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH 2014' của nhà nước CHXNCHVN, 'Độc Lập - Tự Do - Tự Sướng' sản xuất ra là do chính Nhà Xuất Bản Lao Động - Xã Hội mới vừa in ấn đàng hoàng...     Chỉ tội cho anh diễn viên hài Công Lý. Cá nhân anh cho biết, việc tự ý dùng hình ảnh anh để như vậy là có phần "phản cảm".
......

Múa Đôi Hoa Mỹ

Tại Thượng đỉnh APEC vừa qua ở Bắc Kinh, lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đạt một thỏa thuận được các con vẹt Dân Chủ và bọn "ôm cây", các nhóm bảo vệ môi sinh, đánh giá là mang ý nghĩa thời đại: hai bên đồng ý về nhu cầu tiết giảm khí thải để bảo vệ địa cầu khỏi nạn nhiệt hoá trong thế kỷ này. Giới bình luận đểu cáng thì nói rằng "vào chi tiết mới ra chuyện độc", nhưng ít ra Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình đã có dịp cười toe trước ống kính về một thành quả biểu kiến. Còn lại là sự trống vắng.   Bài này bàn về chuyện lấp đầy khoảng trống đó. Ngay từ nhiệm kỳ đầu, vào đầu Tháng Giêng 2009, Chính quyền Obama đã đánh giá sai quan hệ Mỹ-Hoa, khi Ngoại trưởng tân nhậm Hillary Clinton tới Bắc Kinh khẳng định rằng không để chuyện nhân quyền chi phối việc làm ăn giữa hai nước. Nhân đó bà kêu gọi các đấng con trời tiếp tục mua trái phiếu Mỹ, tức là tiếp tục cho Mỹ vay tiền. Clinton chẳng hiểu rằng Bắc Kinh có tiền mà không gửi qua Mỹ thì làm gì cho đồng tiền khỏi mất giá? Hai năm sau, cũng qua ngòi bút Clinton và ý kiến của ban tham mưu trong Bộ Ngoại giao, Chính quyền Obama nói đến việc "chuyển trục" về Đông Á, làm các nước Á Châu nức lòng tin tưởng. Nhưng Chú Cuội chỉ múa với Chị Hằng được một con trăng, màn chuyển trục hay "pivot" được sửa thành "tái quân bình". Rồi để đó từ năm 2012. Không, trước đà bành trướng của Bắc Kinh khiến các nước Á Châu lo ngại, năm 2012, Chính quyền Obama còn mời Trung Quốc tham dự cuộc thao dượt quân sự RIMPAC với 22 quốc gia trong vành cung Á châu Thái bình dương, lần đầu tiên kể từ năm 1971. Cũng hợp lý thôi: không mời em vào chơi để phơi của quý thì làm sao biết của quý của em nó quý đến cỡ nào! Hãy nói về chuyện sinh tử hơn vậy. Từ hai chục năm nay, qua bốn nhiệm kỳ của hai Tổng thống cả Dân Chủ lẫn Cộng Hoà, lãnh đạo Hoa Kỳ đều theo đuổi một chánh sách có tính chất lưỡng đảng - và hai mặt. Mặt tích cực là nên kết ước với Trung Quốc, cứ hợp tác làm ăn để cường quốc mới nổi này trở thành đối tác biết điều và cùng Hoa Kỳ gánh vác thiên hạ sự từ hai bờ biển Thái bình. Nhưng đồng thời cũng phải có ý phòng thủ nếu Bắc Kinh lại chẳng biết điều mà chơi bạo. Đó là mặt kia. Chánh sách đó từ thời Bill Clinton mới cho Trung Quốc quy chế "tối huệ quốc" rồi được Quốc hội Cộng Hoà nâng cấp thành "quan hệ mậu dịch bình thường và thường trực" để mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO từ cuối năm 2001 và vươn lên thành một thế lực kinh tế trong vùng. Nhưng cũng Chính quyền Clinton vào Tháng Ba năm 1996 đã gửi hai hàng không mẫu hạm vào Eo biển Đài Loan khi Bắc Kinh bắn hỏa tiễn qua đầu đảo quốc này trong lúc dân chúng lần đầu tiên đi bầu Tổng thống theo thể thức phổ thông đầu phiếu. Xin nhắc lại: lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm mà dân Tầu trực tiếp đi bầu lãnh tụ nhưng Bắc Kinh lại không ưa một tiền lệ nguy hiểm như vậy và tìm cách phá bĩnh nên mới phóng hỏa tiễn qua không phận Đài Loan để hăm dọa. Cho tới khi Mỹ gửi chiến hạm vào làm nguội cái hỏa khí trên đầu Thiên tử đỏ! Ngay từ đây rồi, một viên tướng của Bắc Kinh đã giở giọng hỗn khi hỏi một nhà ngoại giao Mỹ: quý quốc có thể hy sinh Los Angeles hay San Francisco để bảo vệ Đài Loan không? Lối suy nghĩ ấy cho thấy rằng hai chục năm sau là ngày nay, Hoa Kỳ cần duyệt lại chánh sách hai mặt kết ước và phòng thủ với Trung Quốc. Vì phần kết ước thì có lợi cho Trung Quốc, khía cạnh phòng thủ có tính chất dương cương thì chưa có tác dụng thuyết phục. Hai chục năm sau, lãnh đạo Bắc Kinh không biết điều hơn. Bên trong còn tập trung quyền lực và gia tăng chà đạp nhân quyền. Với bên ngoài thì uy hiếp lân bang, trong khi không che giấu tham vọng quân sự là kiểm soát vùng Tây Thái bình dương được gọi là "quyền lợi cốt lõi" Lý luận ngoại giao thì đầy chất mị dân: "Á châu là của người Á" - không phải của Mỹ. Mà người Á ở đây là "thiên hạ" ngàn đời dưới sự lãnh đạo của Thiên triều. Về mặt quân sự đang tiến hành thì đó là chiến lược ngăn cản chiến hạm  Hoa Kỳ đi vào vùng biển mà Trung Quốc gọi là của mình. Sự thật này đã càng tỏ lộ trong nhiệm kỳ hai của Tổng thống George W. Bush, khi Mỹ lún sâu vào trận chiến chống khủng bố toàn cầu và bận rộn với hai chiến trường nóng là Afghanistan và Iraq. Vì vậy, người ta chờ đợi là qua triều đại Obama, từ đầu năm 2009, lãnh đạo Hoa Kỳ phải có chánh sách mới. Quả nhiên là mới - và lạ. Hoa Kỳ tiếp tục kết ước và còn ra sức hòa dịu với Bắc Kinh để Tổng thống rộng tay cải tạo nước Mỹ ở bên trong. Khi Trung Quốc tỏ vẻ hung hăng thì Obama nói đến việc chuyển trục cho bảnh, rồi cho cái trục xoay trong chân không. Khi Ngoại trưởng Cliton tới Bắc Kinh mời chào trái phiếu của Mỹ thì cũng là lúc ngân sách Hoa Kỳ bị bội chi tới đáy. Vài năm sau, khi Hoa Kỳ hăm dọa sẽ đưa 60% phương tiện hải quân vào biển Thái bình thì cũng là lúc ngân sách quốc phòng bị cắt. Chẳng ai ngạc nhiên là Bắc Kinh nhân dịp mở rộng khu vực kiểm soát phòng không ADIZ, thè cái lưỡi bò đòi liếm lung tung và tung phương tiện vào không gian điện toán để xục xạo bí mật an ninh và kinh tế của Hoa Kỳ. Sáu năm vừa qua đã thấy quan hệ Mỹ-Hoa trở nên tồi tệ hơn và nước Mỹ mất dần sự khả tín. Đồng minh không tin mà đối thủ cũng chẳng sợ. Nhưng may là Hoa Kỳ có nền dân chủ và sau khi mua hớ những lời hứa nhảm thì dân Mỹ cũng có thể sửa sai bằng lá phiếu. Trong cuộc bầu cử tuần qua, họ mạnh tay trao lại quyền kiểm soát cho đảng Cộng Hoà tại Quốc hội. Và trong hai năm tới, Hành pháp Obama rơi vào cảnh "vịt què".... Hiến pháp Hoa Kỳ giới hạn quyền Tổng thống bằng các định chế bên trong như Quốc hội hay Tối cao Pháp viện. Khi lâm vào thế yếu và muốn để lại danh tiếng cho đời thì một Tổng thống Mỹ vịt què chỉ có thể tìm kiếm thành quả về đối ngoại - qua một bản hiệp định về khí hậu chẳng hạn! Nhưng với đảng Cộng Hoà đa số tại Thượng viện, quyền phê chuẩn hay nhượng bộ cũng lọt khỏi tay đảng Dân Chủ. Và sau cuộc bầu cử 2014, dân Mỹ còn có tổng tuyển cử vào năm 2016. Trong hai năm tới, phe Cộng Hoà sẽ rà soát và xiết lại những nhượng bộ đã qua và vì viễn ảnh bầu cử Tổng thống năm 2016, phải vạch ra một đối sách khác với Trung Quốc. Hai năm đó cũng là giai đoạn khó khăn cho lãnh tụ Tập Cận Bình khi phải cải cách kinh tế ở nhà, với đà tăng trưởng giảm sút chưa từng thấy từ mấy chục năm nay, trong khi đồng Mỹ kim cứ vùn vụt lên giá. Bối cảnh đó khiến chúng ta lần lượt xét lại việc Trung Quốc và Hoa Kỳ tái lập cái thế quân bình trên vùng biển Thái bình dương trước sự thẩm xét của các nước Á châu. Và chỉ nên coi dự án cải thiện khí hậu như một điệu vũ cho vui. Một cảnh múa đôi huê dạng. Theo blog dainamax tribune
......

Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?

Rất nhiều người có chung một nỗi băn khoăn: Bao giờ thì Việt Nam được dân chủ hoá? Để trả lời câu hỏi ấy, hầu như ai cũng biết một cuộc cách mạng dân chủ ở Việt Nam chỉ có thể xảy ra với một trong hai tình huống: Một, từ trên xuống; và hai, từ dưới lên. Dân chủ hoá từ trên xuống là một cuộc cách mạng lý tưởng nhất bởi nó nhanh nhất và ít bị trả giá nhất: Đó là các cuộc cách mạng đã diễn ra tại Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, khi giới lãnh đạo ý thức là không thể kéo dài nguyên trạng và chấp nhận thay đổi chế độ ngay cả khi biết với sự thay đổi ấy họ sẽ mất tất cả quyền lực. Theo tôi, một cuộc cách mạng loại này rất khó xảy ra ở Việt Nam. Có hai lý do chính. Thứ nhất, ở Việt Nam không có, và sẽ không có một nhà lãnh đạo nào, dù sáng suốt đến đâu, có quyền lực để tự mình quyết định những sự thay đổi lớn lao liên quan đến số phận của cả chế độ. Kết cấu quyền lực ở Việt Nam khác hẳn ở các quốc gia cộng sản khác trước đây cũng như hiện nay: Ở các nước ấy, chủ tịch đảng cũng đồng thời là chủ tịch nước. Khi nắm trong tay cả hai chức vụ ấy, người ta dễ dàng trở thành kẻ quyết định cuối cùng. Ở Việt Nam, ngược lại, người lãnh đạo đảng và người lãnh đạo nhà nước và chính phủ khác nhau, do đó, không ai thực sự có quyền quyết định những vấn đề lớn cả. Tất cả đều phải thông qua ý kiến tập thể, ít nhất của Bộ Chính trị. Để cả tập thể ấy thống nhất với nhau về việc thay đổi chế độ để dân chủ hoá là một không tưởng. Thứ hai, chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận Việt Nam được dân chủ hoá trước. Khi thấy Việt Nam có dấu hiệu rục rịch từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, chắc chắn Trung Quốc sẽ can thiệp ngay. Trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc trong rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế đến chính trị, những sự can thiệp ấy rất dễ thực hiện. Bởi vậy, triển vọng lớn nhất của xu hướng dân chủ hoá ở Việt Nam là từ dưới lên. Tuy nhiên, ở đây lại có một vấn đề lớn: Lực lượng nào sẽ đảm nhiệm công việc thay đổi theo chiều hướng dân chủ ấy? Để trả lời câu hỏi ấy, các nhà bình luận chính trị và xã hội có thói quen nhìn vấn đề từ góc độ kinh tế - xã hội với những thành phần giai cấp khác nhau. Trước hết, đông đảo nhất ở Việt Nam là các nông dân. Trong nhiều năm qua, những kẻ bị áp bức và bóc lột nhiều nhất ở Việt Nam cũng là các nông dân. Những cuộc biểu tình đông đảo và gây chú ý trong dư luận nhất cũng gắn liền với nông dân. Lý do dễ hiểu: một trong những yếu tố quan trọng nhất bị giới lãnh đạo Việt Nam khai thác để làm giàu và phân phối lợi nhuận để mua chuộc sự trung thành của các đảng viên chính là đất đai. Việc cướp đất ấy dẫn đến sự bất mãn của nông dân ở nhiều địa phương khác nhau. Lâu nay, rải rác đây đó, có các cuộc biểu tình của nông dân nhằm chống lại lệnh cưỡng chế của chính quyền. Nhưng những sự bất mãn và các cuộc biểu tình ấy có thể dẫn đến việc làm thay đổi chế độ hay không? Câu trả lời hầu như chắc chắn: Không. Lý do đầu tiên là hầu hết nông dân thường chỉ nghĩ đến những cái lợi cụ thể trước mắt: khi chính quyền cướp đất của mình thì mình vùng lên tranh đấu, nhưng khi chính quyền cướp đất của người khác thì người ta dễ khoanh tay đứng ngó, hoặc, khi tình hình căng thẳng quá, chính quyền chỉ cần nhân nhượng một tí, họ cũng dễ dàng thoả mãn và từ bỏ mọi toan tính chống đối. Lý do thứ hai là tuy nông dân chiếm một phần lớn dân số nhưng họ bị cô lập về phương diện địa lý: làng này xuống đường tranh đấu, làng khách chưa chắc đã biết. Từ việc cô lập về địa lý dẫn đến sự cô lập về truyền thông và hậu quả là không có nhiều người biết. Điều này dẫn đến hai hậu quả khác: Một, ít người ủng hộ; và hai, khó phát triển thành những cuộc xuống đường rầm rộ để có thể uy hiếp được chính quyền. Còn lực lượng công nhân? Ở Việt Nam, giai cấp công nhân càng ngày càng lớn và đời sống kinh tế của họ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, sự bất mãn của họ, nếu có, thường nhắm vào chủ nhân của xí nghiệp hơn là vào chính quyền. Chủ nhân của các công ty lớn lại thường gắn liền với người ngoại quốc, do đó, thù hận của họ cũng hướng ra bên ngoài. Đó là lý do tại sao cho đến nay, hầu hết các cuộc đình công hay biểu tình thường diễn ra trong các xí nghiệp và công ty do người ngoại quốc làm chủ. Giới thanh niên và trí thức Việt Nam hiện nay có thể được xem là thành phần “tiến bộ” nhất: Nhiều người trong họ thấy được những sự bất lực và bế tắc của nhà cầm quyền cũng như có khát vọng được tự do. Tuy nhiên, “nhiều” không có nghĩa là đa số. Khác với ở Ai Cập và các quốc gia Trung Đông trong cách mạng mùa xuân đầu năm 2011, nơi tỉ lệ thanh niên, dù đã tốt nghiệp đại học, thất nghiệp rất cao, ở Việt Nam, về phương diện kinh tế, thanh niên không đến nổi quá khó khăn, do đó, rất khó hy vọng họ sẽ kết tập lại thành một trận chung để đấu tranh cho dân chủ. Một thành phần khác có khả năng đương đầu với chính quyền là các tôn giáo. Ở tôn giáo nào cũng có những người phản kháng, nổi bật nhất là Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo và Công giáo. Hai tôn giáo đầu chỉ giới hạn ở các tỉnh phía Nam; Phật giáo thì bị quá phân tán; chỉ có Công giáo là tương đối thống nhất, và do đó, khá mạnh, nhưng dù mạnh đến mấy thì, một mặt, Công giáo cũng chỉ chiếm khoảng 10 phần trăm dân số; mặt khác, do chỉ là một thiểu số, họ khó trở thành những nhà lãnh đạo cho phong trào dân chủ trong cả nước. Nói tóm lại, từ góc độ kinh tế và xã hội, sẽ không có lực lượng nào đủ sức để chống lại chính quyền, thậm chí, gây sức ép để chính quyền phải thay đổi chế độ. Một vấn đề có thể được đặt ra: Tại sao tất cả các thành phần trên không thể kết hợp lại với nhau để thành một lực lượng duy nhất và mạnh mẽ? Dĩ nhiên, điều đó có thể xảy ra, và trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, đó là niềm hy vọng duy nhất để có dân chủ. Có điều: khi nào, và với điều kiện nào, tất cả các thành phần trên có thể đứng lại được với nhau? Câu trả lời: Tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Người Việt Nam, bất kể thành phần kinh tế, xã hội và tôn giáo, sẽ đoàn kết lại khi đất nước bị uy hiếp và khi chính quyền bất lực, thậm chí, đầu hàng trước những sự uy hiếp ấy. Tất cả những sự uy hiếp ấy chỉ đến từ một nguồn: Trung Quốc. Nói cách khác, theo tôi, lực lượng đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam chỉ đoàn kết và trở thành mạnh mẽ khi Trung Quốc gia tăng mức độ lấn chiếm biển đảo và khi chính quyền Việt Nam càng lộ rõ bản chất nhu nhược của họ trong thế trận đối đầu với tham vọng bành trướng ấy. Nguồn: voatiengviet.com
......

Vẫn nghĩ chỉ mình biết đi dây

Nói về chuyện đi dây tôi nhớ đến nỗi trăn trở của thi sĩ Phùng Quán “người làm xiếc đi dây rất khó/nhưng không khó bằng nhà văn/đi trọn đời trên con đường chân thật”. Để đối diện với chính mình Phùng Quán đã phải trăn trở nhiều như thế, trong khi đó cầm chịch một đất nước, trước con mắt của 90 triệu dân và thế giới, lãnh đạo VN cứ thản nhiên tự hào: chỉ mình biết đi dây! Thử nhìn vào màn xiệc mới cùng các hiện tượng xoay chiều trái ngược một cách khó hiểu của nhiều quan chức Việt Nam gần đây: Đầu tiên là ông thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh, trước giờ ông vẫn là cái “loa” cho Trung Quốc, từ các chính sách quyết giữ toàn vẹn lãnh thổ bằng tình hữu nghị 16 chữ vàng, 4 tốt, giữ nước bằng chính sách ba không cho đến những tuyên bố kiểu như: “Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng…”. Vậy mà, ông Trung Tướng thân Tàu, kẻ vẫn giữ nhiệm vụ lãnh chỉ thị trực tiếp từ Bắc Kinh đem về cho Trung ương Đảng CSVN thi hành trong nhiều năm qua, bỗng dưng, đùng một cái ông chuyển sang vai liên lạc, giao dịch với Hàn Quốc và Hoa Kỳ.     Trong khi đó, Tướng Phùng Quang Thanh sau nhiều năm giữ vai "tướng dữ" đi mua sắm vũ khí chống Tàu khắp nơi, nay lại chuyển qua vai "tướng hiền", với câu tuyên bố thắm thiết nghĩa tình tại Sangri-La rằng các biến động tại Biển Đông chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình; rồi gần đây ông kéo nguyên một giàn 12 tướng lãnh cực kỳ hoành tráng sang Tàu xụp lạy. Điều nhức nhối là trong lúc tướng Thanh đang xum xoe một điều bạn, hai điều bạn, và rằng sang thăm được “bạn” đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, thì báo chí “bạn” lại vẫn giữ nguyên cái giọng điệu xấc láo khinh thường lãnh đạo VN như mọi khi. Tội nghiệp, báo chí công cụ nhà nước ta vừa phải nhận lệnh thổi tối đa tin tức 13 tướng lãnh sang thăm Tàu cũng cố “tình hữu nghị”, vừa phải hằn học chửi rủa báo chí Trung Quốc là “xuyên tạc” khi dám gọi chuyến đi này là "chuyến đi cầu hòa". Cũng cần nói thêm là trước chuyến đi làm lễ “phụng bái” của phái đoàn tướng lãnh này, ông Lê Hồng Anh, nhân vật quyền lực thứ 5 trong Bộ Chính Trị cũng đã chính thức sang Bắc Kinh để bày tỏ niềm mong ước xin được “cùng khai thác Biển Đông”. Rồi mới đây nhất là tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ công an đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của bộ sang bái kiến Trung Quốc. Như thế là đề huề, hai tướng lĩnh đứng đầu hai lực lượng vũ trang trụ cột của nước nhà đã liên tiếp sang viếng thăm Trung Quốc chỉ trong vòng một tháng. Riêng ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, sau bao nhiêu năm ông hãnh diện ra mặt là người được Ban Tuyên Giáo Trung Ương đảng CSTQ đào tạo, và theo sát mọi kế sách của Bắc kinh như kiểu "Kinh Tế Thị Trường theo định hướng XHCH", thì nay ông lại lu loa tuyên bố rằng ta đã chiến thắng Bắc Kinh tại biển Đông. Nhưng dĩ nhiên chỉ nói nho nhỏ với một nhóm cử tri nho nhỏ ở Hà Nội. Lạ lùng hơn nữa là cả làng báo lề phải cũng được lệnh đăng rình rang các tuyên bố của tướng Đỗ Bá Tỵ, Ông Tỵ cảnh báo rằng dù đã rút giàn khoan ra khỏi thềm lục địa VN, nhưng Bắc Kinh sẽ không từ bỏ mộng xâm lấn Biển Đông. Các bài báo công cụ trên còn liệt kê tràn lan các bằng chứng về ý đồ thâm hiểm của Bắc Kinh qua các việc cho xây phi trường, trại lính trên các đảo; cử các quan chức lớn của họ ra tham quang; cho di dân Trung Quốc ra sinh sống dài hạn tại đây; tổ chức các đoàn du lịch; v.v… Với bằng ấy các động thái, làm sao hiểu được căn nguyên của 2 hiện tượng trái chiều này? Không lẽ Bộ Chính Trị đã nứt làm hai? Quân Đội đã rời thành 2 mảng không còn ai bảo ai được? hay Ban Tuyên Giáo đã bó tay, không còn ra lệnh được cho làng báo công cụ, và để xảy ra tình trạng ai muốn đăng gì thì đăng? Phân tích đi phân tích lại, rốt cuộc chỉ có câu trả lời hợp lý nhất là: giới lãnh đạo đảng vẫn nghĩ chỉ mình là khôn; chỉ có mình mới biết thủ thuật đi dây; chơi với cả 2 phía và bịt mắt cả 2 phía; hay lấy phía này để bẩy hay mặc cả với phía kia; ... như thời chiến tranh. Nhưng cũng thật khó hiểu tại sao lãnh đạo Hà Nội vẫn tin họ bịt mắt được Bắc Kinh khi trọn vẹn ý định đi dây đó đã được viết ra rành rọt trên các trang mạng chính thức lẫn bán chính thức của Bắc Kinh, đặc biệt là tờ Bưu Điện Nam Hoa, kèm theo với các lời cảnh cáo thẳng thừng về hệ quả. Các trang mạng này còn vạch ra luôn cả các ý định di dây với Ấn Độ rất gần đây của Hà Nội.   Và cũng thật khó hiểu, tại sao lãnh đạo Hà Nội tin rằng họ vẫn có thể tiếp tục bịt mắt dân tộc Việt Nam với những động tác: quì lạy lí nhí ở Bắc Kinh rồi về đứng phán nẩy lửa ở Hà Nội. Dù người có trí nhớ yếu cũng không quên được các màn xảo trá gần đây như: theo sau các bản tin mua tàu ngầm, tên lửa là các tuyên bố thề hứa không bao giờ dùng quân sự với Bắc Kinh, các thề hứa không bao giờ tham gia các liên minh chống lại Bắc Kinh. Cũng vậy, theo sau các thông báo "Đang chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc về Biển Đông" là các bản tin Quốc Hội nhất định không ra thông báo chính thức nào để phản đối Bắc Kinh đưa giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam; rồi sau đó là các bản tin đăng chuyến đi của đại diện Bộ Chính Trị CSVN Lê Hồng Anh sang Tàu xin được cùng "khai thác chung tại Biển Đông" và các chuyến triều kiến của quân đội và công an VN như đã nêu trên. Và vô số các sự việc tương tự. Rõ ràng trong thời đại thông tin với tốc độ ánh sáng ngày nay, giới lãnh đạo Hà Nội vẫn chỉ biết và chỉ muốn dùng lại các thủ thuật của 50 năm trước. Họ đang nhắm mắt mà lại tưởng nhân dân và thế giới đều đang bị bịt mắt. Rõ ràng cảnh đi dây ngày nay là trò xiếc chưa diễn đã nhàm. Bằng chứng lớn nhất là chẳng có ai thèm xem, dù đó là người Tàu, người Tây, hay người Việt.
......

Á Châu trước hai viễn kiến Đông Tây

Trong thượng đỉnh APEC của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương năm nay các nước Á Châu thấy hai cường quốc ở hai bờ Thái Bình Dương đề nghị hai viễn kiến có vẻ tương đồng mà lại đối nghịch. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về những lợi hại của hai đề nghị này cho các nước Á Châu. Xin quý vị theo dõi cách Vũ Hoàng đặt câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Barack Obama (trái) tại Hội nghị thượng đỉnh APEC 2014 ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 2014.AFP PHOTO Kinh tế hay an ninh, chính trị? Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, đằng sau ngôn từ ngoại giao của lãnh đạo 21 quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương khi họ gặp nhau tại Hội nghị cấp cao là Thượng đỉnh APEC ở Bắc Kinh, mọi người đều thấy các nước Á Châu đang được hai cường quốc ở hai bờ Đông Tây của Thái Bình Dương là Hoa Kỳ và Trung Quốc mời chào vào hai dự án hội nhập kinh tế. Kỳ này, xin đề nghị ông phân tích cho hai đề nghị có vẻ là kinh tế đó mà thực chất vẫn liên hệ đến cả lĩnh vực an ninh và chính trị của các nước trong khu vực. Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng về bối cảnh sâu xa thì ta cần nhớ lại vài sự kiện trước khi đi vào hai viễn kiến Mỹ-Tầu được Hoa Kỳ và Trung Quốc chiêu dụ các nước châu Á. Trước hết, các nước đều có thể đồng ý với nhau rằng tự do thương mại theo quy luật thị trường là có lợi cho đôi bên trong việc giao dịch mua bán và đầu tư với nhau. Tuy nhiên, đi vào áp dụng thì từng nước phải đồng ý về quy tắc tự do đồng đều qua tiến trình đàm phán. Lý tưởng tự do mậu dịch toàn cầu dẫn tới sự hình thành của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà về sau cả Trung Quốc và Việt Nam đều gia nhập. Nhưng thực tế của thương thảo về quyền lợi và tương nhượng chung khiến vòng đàm phán gọi là Doha của WTO, được đề xướng từ Tháng 10 năm 2001, vẫn bế tắc sau 13 năm. Vì thế, các nước mới tìm qua ngả thương thuyết tay đôi hay giữa từng nhóm quốc gia trong từng khu vực với nhau rồi mở dần cho các nước khác tham dự. Vũ Hoàng: Thưa ông có phải đấy là bối cảnh của sự ra đời của sáng kiến TPP không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa từ 10 năm trước, vào năm 2005, một nhóm nhỏ các nước có vị trí địa dư nằm trong vành cung Á Châu Thái Bình Dương đồng ý quy tắc tự do buôn bán theo chủ trương giảm thuế suất nhập nội và hạn ngạch xuất nhập khẩu đến tối đa để có một khu vực tự do mậu dịch. Sau đó, từ năm 2008, Hoa Kỳ là quốc gia có thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới mới tham dự và mở rộng sáng kiến này. Về nội dung thì có tính chất hội nhập cao hơn để các thành viên trở thành đối tác về kinh tế lẫn chiến lược. Về phạm vi thì mời nhiều nước khác cùng tham gia, quan trọng nhất chính là Nhật Bản, mà quan trọng hơn nữa là không mời Trung Quốc. Tinh thần hợp tác ở đây là ngần ấy thành viên lớn nhỏ phải cùng đồng ý với một quyết định thì mới có giá trị. Sau mấy chục vòng đàm phán, Hiệp định TPP chưa thành hình như Chính quyền Barack Obama đã yêu cầu từ hai năm trước. Một phần cũng do phản ứng bảo hộ mậu dịch ngay trong nội bộ nước Mỹ, xuất phát từ cánh tả của đảng Dân Chủ. Phần kia là phản ứng bảo vệ của Nhật, khi họ cân nhắc sự lợi hại của việc mua bán xe hơi với nhập khẩu nông sản và lương thực chẳng hạn. Thực tế thì các nước, và nhất là nhiều thành phần tại Mỹ, cứ chú ý đến chuyện áo cơm mắm muối mà quên hẳn khía cạnh chiến lược kia là sự bành trướng của Trung Quốc. Vũ Hoàng: Trong khi đó, Trung Quốc chẳng ngồi yên mà cũng đã có nỗ lực mở rộng hợp tác với các nước nên ngày nay lãnh đạo Bắc Kinh mới đề nghị một lộ trình hội nhập để thành lập một khu vực tự do mậu dịch trong vùng Á Châu Thái Bình Dương. Thưa ông, diễn tiến việc đó là như thế nào? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin được nhắc lại rằng khi ba bốn nước sơ khởi, là Chile, Singapore và New Zealand rồi Brunei, đàm phán việc hợp tác và dẫn tới sự hình thành của sáng kiến TPP thì từ năm 2004, Nhật cũng có đề nghị tương tự là lập ra một khu vực tự do mậu dịch cấp vùng. Nhưng chính Trung Quốc mới thúc đẩy sáng kiến đó với 10 nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á là ASEAN để tiến tới sự hình thành của diễn đàn ASEAN + 3 là thêm Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn. Tiếp theo thì họ mở ra diễn đàn ASEAN + 6 là mời thêm Ấn Độ, Úc và New Zealand. Sáng kiến ASEAN + 6 là nền tảng của đề nghị gọi là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện trong Khu vực, gọi tắt là RCEP, được đưa ra lần đầu vào năm 2012 tại Thượng đỉnh của các nước ASEAN ở Cambodia, với triển vọng thành hình vào năm 2015. Sáng kiến RCEP do Trung Quốc đưa ra mới là nguyên ủy của dự án đàm phán về Hiệp định FTAAP gọi là Thương mại Tự do Á Châu Thái Bình Dương mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa nhắc lại và vẽ ra lộ trình sẽ cùng các nước hoàn tất vào năm 2025, là 10 năm sau tiêu chí của Hiệp định Đối tác Toàn diện RCEP... Vũ Hoàng: Khi ông nhắc đến hội nghị cấp cao của ASEAN tại Phnom Penh vào năm 2012 đó thì thính giả của chúng ta cũng nhớ đến việc quốc gia đăng cai tổ chức hội nghị này vào năm đó là xứ Cam Bốt đã bác bỏ việc các nước Đông Nam Á đề cập tới hồ sơ an ninh tại Biển Đông để khỏi gây mâu thuẫn với Trung Quốc. Có phải như vậy không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ông nhớ sự kiện đó là chí lý vì mọi đồng tiền đều có hai mặt. Mọi dự án hợp tác hay hội nhập kinh tế đều bao gồm cả khía cạnh an ninh vì các thành viên buôn bán với nhau đều có xu hướng là đối tác kinh tế sẽ dễ là đồng minh về an ninh và chiến lược. Nếu Hoa Kỳ mở ra sáng kiến TPP mà không có Trung Quốc thì Bắc Kinh cũng có sáng kiến FTAAP giữa 16 quốc gia sản xuất ra 40% sản lượng của thế giới mà không có Hoa Kỳ. Mục tiêu của Mỹ và TQ? Vũ Hoàng: Nhìn cách khác và chúng ta trở lại chủ điểm của chương trình, phải chăng các nước Á Châu được Hoa Kỳ và Trung Quốc mời vào hai kế hoạch hợp tác kinh tế khác biệt và thậm chí đối nghịch nữa? Hai cường quốc này nhắm vào những mục tiêu gì và các nước Á Châu nên cân nhắc ra sao trước sự mời chào của Hoa Kỳ và Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi nhắc lại diễn tiến từ chục năm trước thì ta thấy ra hai viễn kiến gần như hai cực đối nghịch của Mỹ và Tầu ở hai đầu Thái Bình Dương. Các nước Á Châu phải cân nhắc nhiều mặt lợi hại về kinh tế lẫn an ninh trong viễn ảnh năm mười năm tới chứ không thể chỉ nghĩ đến chuyện mua bán với ai thì có lợi! Nói về mục tiêu của từng cường quốc Mỹ Hoa khi chiêu dụ các nước Á Châu, tôi nghĩ rằng ta nên thấy ra vài khác biệt sau đây . Hoa Kỳ tôn trọng quy tắc tự do kinh tế và coi trọng quy luật thị trường, với hệ thống luật lệ rõ ràng và là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới dù kinh tế không lệ thuộc vào ngoại thương như Trung Quốc. Đấy là một ưu thế khách quan. Trung Quốc có dân số cao nhất và lần đầu tiên trong lịch sử xứ này, lệ thuộc rất nhiều vào việc trao đổi buôn bán với thiên hạ để phát triển xứ sở. Nhờ vậy, các nước có thể tìm ra mối lợi khi làm ăn với thị trường Hoa Lục mà không thể quên chủ ý "phân công lao động" của Bắc Kinh, đó là bảo đảm nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu cho một xứ đói ăn, khát dầu và đang cần tiếp nhận hoặc thậm chí ăn cắp công nghệ cao của thế giới.   Vũ Hoàng: Ông có thể nào nêu vài thí dụ về chú ý này của Bắc Kinh không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Lãnh đạo Bắc Kinh ve vãn một quốc gia có nhiều tài nguyên khoáng sản như Úc, thậm chí đã từng gây sức ép với doanh nghiệp Úc như vụ Rio Tinto năm kia, để bảo đảm nguồn cung cấp lâu dài với giá rẻ. Trong khi đó họ cũng ráo riết tìm cách ký kết hiệp định tự do mậu dịch với Nam Hàn, là xứ không có tài nguyên mà đầy chất xám và sản phẩm công nghệ cao. Mục tiêu kinh tế là để tranh thủ hai quốc gia có các sản phẩm và dịch vụ mà Bắc Kinh rất cần. Nhưng mục tiêu an ninh thì cũng để trấn an nước Úc khỏi lo sợ và hợp tác quân sự với Hoa Kỳ hoặc tham gia bảo vệ an toàn trên vùng biển Đông Nam Á là cửa ngõ thông thương của nước Úc. Với Nam Hàn thì mục tiêu an ninh cũng là kéo Nam Hàn về phía mình hầu giảm thiểu ảnh hưởng của một cường quốc kinh tế và quân sự mà họ e ngại nhất tại Đông Á là Nhật Bản. Vũ Hoàng: Vì thời lượng có hạn, chúng ta phải đi vào đoạn kết. Ông nghĩ sao về sự chọn lựa của các nước Á Châu trước hai viễn kiến hay dụng ý đó của Hoa Kỳ và Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đầu tiên, tôi xin nhắc lại rằng các nước Châu Á cần cái nhìn dài hạn và toàn diện về quyền lợi và sự an toàn trước sức hút của hai cực ở hai bờ Thái Bình Dương. Thứ hai, Trung Quốc có rất nhiều nhược điểm nội tại về kinh tế và xã hội cho nên nay mai có thể bị khủng hoảng và đấy là vấn đề cho Đông Á. Thứ ba, Trung Quốc ít tôn trọng cam kết và luật lệ mà cũng chẳng che giấu mục tiêu chiến lược về quân sự trên vùng biển từ Thái Bình Dương qua tới Ấn Độ dương. Trong khi đó, Hoa Kỳ là siêu cường ở xa, chẳng có tham vọng thôn tính mấy xứ Đông Nam hay Đông Bắc Á, nhưng có khả năng bảo vệ quân sự trên vùng biển và trong vài chục năm tới vẫn là lực đối trọng trước đà bành trướng của Trung Quốc tại Đông Á. Sau cùng, Hoa Kỳ là một xứ dân chủ, lãnh đạo phải quan tâm đến dư luận và có thể bị thay thế qua bầu cử công khai minh bạch nên khó thi hành loại âm mưu mờ ám và cứ phải công khai hóa tiến trình quyết định của mình, thí dụ như qua từng đợt đàm phán về Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương. Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, thưa ông, khi nhắc đến chuyện bầu cử tại Mỹ vừa qua, các nước Á Châu nên kết luận ra sao và so sánh thế nào với Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đảng Cộng Hoà thắng lớn tại Quốc hội sẽ giải tỏa cản trở của xu hướng bảo hộ mậu dịch trong đảng Dân Chủ nên tạo cơ hội cho ông Obama khai thông nhiều chướng ngại mậu dịch, nhất là với Nhật Bản trong dự án TPP. Vì vậy, Hiệp định TPP sớm có hy vọng thành hình trước Hiệp định FTAAP của Tầu. Thứ hai, đảng Cộng Hòa có xu hướng nghi ngờ Trung Quốc về an ninh nên sẽ gây sức ép với Chính quyền Obama để có những quyết định chuyển trục thật về Đông Á thay vì cứ nói vu vơ mà chẳng làm gì kể từ ba năm qua. Sau cùng, nếu so sánh thì lãnh đạo mới của Trung Quốc cứ nói tới giấc mộng Trung Hoa mà thực tế vẫn củng cố quyền lực và bành trướng ảnh hưởng ra ngoài. Kế hoạch mà ông Tập Cận Bình gọi là xây dựng lại "Con Đường Tơ Lụa" mở rộng trên đại lục và đại dương, từ Indonesia qua Ấn Độ vào Trung Á, có hàm ý quân sự để xác định lại sức mạnh của Trung Quốc tại Đông Á. Vì thế viễn kiến của Bắc Kinh có thể là ác mộng Châu Á. Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Thấy Gì Ở Hội Nghị APEC Bắc Kinh 2014

Theo thứ tự, năm 2014 đến phiên Trung quốc tổ chức Hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Lúc đầu chính quyền Trung quốc dự định sẽ tổ chức hội nghị này tại Hồng Kông, nhưng từ đầu năm 2014 đến nay công cuộc đấu tranh đòi bầu cử tự do của người dân Hồng Kông ngày càng mạnh nên nhà cầm quyền Trung quốc quyết định dời địa điểm tổ chức sang Bắc Kinh vì không muốn cho các nguyên thủ quốc gia tham dự hội nghị thấy cảnh người dân Hồng Kông biểu tình.   Chọn Bắc Kinh để tổ chức cũng gặp phải một trở ngại vì không khí ở đó đang bị ô nhiễm nặng bởi khói bụi PM2.5, thế nhưng đành phải chịu vì không một thành phố lớn nào ở Hoa lục có được bầu không khí trong lành. Để cho bầu không khí giảm thiểu ô nhiễm, chính quyền thủ đô Bắc Kinh đã phải ra lịnh hạn chế lượng xe ô tô lưu thông trong thành phố bằng cách áp dụng biện pháp xe mang bảng số chẵn không được lưu thông vào ngày chẵn và ngược lại. Họ cũng ra lịnh cấm không cho 375 công xưởng quá cũ nằm trong thủ đô hoạt động. Hơn 2.390 hãng xưởng ở những vùng phụ cận Bắc Kinh cũng cùng chung số phận, và khoảng 2.450 công trình xây dựng phải tạm ngưng thi công. Tất cả sẽ được hoạt động trở lại sau khi hội nghị APEC kết thúc. Hiển nhiên các chủ hãng xưởng, chủ các công trình xây cất cũng như nhân viên bất mãn ra mặt vì bị thiệt hại quá lớn mà chẳng được bồi thường gì. Tại Trung quốc, người ra lịnh không có trách nhiệm và cũng không cần biết đến các thiệt hại do lịnh gây ra cho dân chúng. Những hội nghị lớn thường là nơi để lãnh đạo các quốc gia đến gặp nhau bàn về một đường lối chung hay để điều chỉnh một số trục trặc hơn là bàn về chi tiết vì phần này sẽ có các cấp dưới lo. Việc các lãnh đạo gặp nhau bắt tay cũng là phần rất quan trọng của các hội nghị lớn vì qua đó người ta sẽ thấy sự thân thiện hay đang có vấn đề căng thẳng giữa quốc gia này và quốc gia khác. Ngay cả cách thức bắt tay cũng thường cho thấy chỉ dấu về quan hệ giữa 2 nước. Kế đến, việc sắp xếp chổ đứng để chụp hình cũng rất quan trọng. Qua đó người ta thấy nước chủ nhà trọng vọng nguyên thủ quốc gia nào. Ai cũng biết Hoa Kỳ là cường quốc số một của thế giới thế mà chổ đứng chụp hình của Tổng thống Obama ở rìa phải, cạnh nữ Tổng thống Hàn quốc, trong khi Tổng thống Nga, ông Pitin đứng giữa cạnh ông Tập Cận Bình. Điều này cho thấy rõ Trung quốc và Hoa Kỳ có vấn đề cho dù ông Tập và ông Obama vẫn tươi cười bắt tay nhau. Truyền thông quốc tế, đặc biệt Trung quốc và Nhật Bản, chú mục nhiều vào cái bắt tay giữa Chủ tịch Trung quốc và Thủ tướng Nhật.Trong khi ông Abe bắt tay với một nụ cười ngoại giao thì ông Tập lại lạnh lùng nhìn chổ khác không muốn nhìn mặt. Truyền thông Trung quốc khi đưa hình ảnh này lên báo đài đều thòng thêm một câu bình luận rằng vì ở vị thế chủ nhà nên Chủ tịch Tập Cận Bình buộc phải bắt tay chứ chẳng thích thú gì, ngày nào mà Tokyo còn tuyên bố quần đảo Điếu Ngư thuộc chủ quyền của Nhật là ngày đó không thể nói chuyện được với họ. Truyền thông Nhật thì cho rằng chuyện hội đàm song phương giữa Nhật Bản và Trung quốc là lợì ích chung cho cả hai quốc gia chứ đâu phải riêng gì cho Nhật nên đâu cần phải nhượng bộ, mà nhượng bộ sao được khi mà quần đảo Senkaku thuộc chủ quyền bất khả xâm phạm của Nhật Bản. Thái độ lạnh lùng của ông Tập Cận Bình được giới bình luận Nhật xem là thiếu hiểu biết về ngoại giao. Với các chỉ dấu đó, rõ ràng tình hình ngoại giao căng thẳng giữa Nhật và Trung quốc đang tăng chứ không giảm. Thêm một vấn đề khác, một ngày trước khi hội nghị APEC diễn ra, các phái đoàn của 12 quốc gia đứng đầu là Mỹ-Úc-Nhật gặp nhau ở Bắc Kinh để bàn về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP), điều này đã làm cho Bắc Kinh khó chịu đến nổi phải cho phát ngôn viên Hồng Lỗi họp báo nói rằng: "Hiệp định TPP cũng quan trọng, nhưng quý phái đoàn đến đây nên chú tâm vào hội nghị APEC, chứ không phải đến đây để bàn về TPP". Theo các nguồn từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì Tổng thống Obama đã đặt vấn đề nhân quyền và chuyện biểu tình đòi tự do bầu cử của người dân Hồng Kông trong cuộc hội đàm song phương với Trung quốc. Ngược lại, các nguồn từ Trung Quốc cho biết ông Obama đã nêu các chuyện đó, nhưng ông Tập Cận Bình trả lời đó là chuyện nội bộ của Trung quốc, Hoa Kỳ không nên nhúng tay vào. Ngoài ra ông Tập còn cho rằng chiến lược xoay trục sang Châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng cho thấy Washington muốn xen vào chuyện nội bộ của các nước trong vùng. Giới bình luận tại Nhật đánh giá cao việc Tổng thống Obama đặt vấn đề nhân quyền trong cuộc hội đàm tay đôi với ông Tập Cận Bình, nhưng mong mỏi phía Hoa Kỳ cũng có hành động đi kèm, đặc biệt trong 2 năm cuối trong nhiệm kỳ của ông Obama.
......

Những cái chết từ “quan hệ”

Chắc chắn, những người đi tìm việc ở Việt Nam ai cũng thuộc nằm lòng câu nói: “Nhất quan hệ, nhì tiền tệ, chót bét là trí tuệ.” Nhưng tôi nghĩ, câu nói ấy không chỉ đúng với những người đi xin việc, những cử nhân vừa mới tốt nghiệp mà còn đúng với rất nhiều mặt khác trong xã hội Việt Nam chúng ta. Đặc biệt là ở “mặt trận” kinh tế, nơi mà mối quan hệ được xem như chiếc “chìa khóa vạn năng” có thể mở được nhiều kho báu trù phú và màu mỡ. Nhưng đôi lúc nó cũng chính là mồ chôn của những chủ nhân chiếc chìa khoá ấy. Qua những “con hổ” lớn vừa bị xẻo thịt và đưa lên lò nướng, chúng ta đã thấy rằng, những kẻ đi lên bằng “quan hệ” cuối cùng cũng sụp đổ vì chính nó, thậm chí còn bị nó bóp chết và giết thịt.   Sau một thời gian dài được nuôi dưỡng, chăm sóc và vỗ béo. Gần đây, nhiều Đại gia lớn đã lần lượt được đưa lên bàn mổ và xẻo thịt. Có thể nói, đây là cuộc thanh trừng ác liệt nhất trong lịch sử nền kinh thương của Việt Nam. Nó có thể gây ra sự đổ vỡ không gì có thể ngăn cản nỗi. Bầu Kiên Ba tháng trước, thị trường chứng khoán đã được một phen chao đảo khi Đại gia Bầu Kiên bị kê đầu vào máy chém. Cách đây vài tuần, một ông lớn sở hữu hàng ngàn tỷ là Minh Châu Bắc Ninh cũng vừa bị làm thịt. Tuần trước, báo giới đã tốn khá nhiều giấy mực khi Đại gia Hà Văn Thắm bất ngờ bị “úp sọt”. Mới đây nhất là nguyên giám đốc sổ số miền Nam. Và trước đó là Dương Chí Dũng, Bình Vinashin…toàn những con Hổ đầu đàn của nền kinh tế. Theo tin mới nhất tôi vừa được biết từ một tờ báo giáo dục là tỷ phú Phạm Nhật Vượng, ông chủ của Vincom, Royal City, Time City… cũng chuẩn bị được “nhận nhiệm vụ”. Đó là tiếng chuông cảnh báo cho người đàn ông giàu nhất Việt Nam hãy tắm rửa sẵn sàng để “lên bàn mổ”, đó là lý do gần đây Vingroup đang bán đỗ, bán tháo nhiều dự án trọng điểm. Tiến sĩ Alan Phan đã từng nói, lý do các nhà thầu và doanh nghiệp Trung Quốc thường trúng “quả lớn” ở Việt Nam là vì họ có “vốn quan hệ” rất lớn, là những bậc thầy về “kỹ năng” luồn lách cửa sau. Trong một cơ chế XIN CHO ở xứ sở này thì những doanh nhân có “năng khiếu” như người Trung Quốc cũng sẽ luôn thắng lớn trên nhiều mặt trận. Điều khiến dân tình tò mò và khó hiểu là tại sao các vị “nô bộc” của dân lại để cho nhiều doanh nghiệp tư nhân mở chui sàn vàng cho kinh doanh 3-4 năm sau mới bắt? Vì sao để Hà Văn Thắm thâu tóm hàng loạt tài sản quốc gia từ kem Tràng Tiền, ngân hàng Bảo Việt, Ocean bank…rồi mới bắt? Vì sao Bình Vinashin đến thời “cuốn chiếu” rồi mà ba Dũng vẫn bơm thêm 750 triệu đô la vay của nước ngoài để “ném vào” mặc cho các chuyên gia và nhà cố vấn ra sức can ngăn? Nguyên nhân là ngân khố quốc gia đang trong tình trạng thủng đáy. Phải đi vay về để ăn và đảo nợ. Khi nợ đã quá cao (gần 50% GDP) lâm vào bí bách đành quay lại “giết thịt” những con Hổ béo để lấy tiền nuôi bộ máy đang bần cùng, túng quẩn, nuôi đội ngũ công chức đang ngày một phềnh to. Chẳng có dân nào nuôi nỗi bộ máy cồng kềnh,  tham nhũng, lãng phí, ăn hại như vậy cả. Quản lý  90 triệu dân, tài sản GDP mỗi năm hơn 200 tỷ USD mà cần đến 2,8 triệu công chức, nhân viên. Trong khi đó, nước Mỹ với 310 triệu dân, GDP 17.500 tỷ USD, có mặt ở mọi điểm nóng trên toàn thế giới, chỉ cần 2,1 triệu người làm quản lý. Túng quẩn, bí bách. Thịt, thịt và thịt, thịt từ cao xuống thấp, từ “con” to đến “con” nhỏ. Đầu tiên là các đại gia ngân hàng, tiếp theo là bất động sản, rồi đến tập đoàn nhà nước – những kẻ ăn hại và phá phách, sau cùng là những “con” gầy hơn, là sân sau của các đại gia và những ông quan lớn. Tất tần tật, những kẻ được “nuôi” bằng quan hệ giờ cũng sẽ bị thịt bằng “quan hệ”. Đó là sự trớ trêu và nghiệt ngã mà chẳng bên nào mong muốn. Chẳng ai ngờ rằng, khi “kết nối” được với “kho báu”, khi đã đào sâu vét đầy thì bất ngờ bị “sập hầm” và vùi chôn luôn dưới ấy. Những cái chết nhục nhã bị dân tình phỉ nhổ, nguyền rủa và xâu xé. Chưa rõ hệ quả của cuộc thanh trừng này là gì. Nền kinh thương của đất nước có lật sang được trang mới hay không. Nhưng với một cuộc truy quét sâu rộng như vậy thì “lợi phẩm” thu về phải tính bằng con số chục tỷ đô. Một khoản đủ lớn để trám vào lỗ thủng sâu hoáy của cái đảy ngân sách. Và thị trường chứng khoán cũng khó tránh khỏi một phen nghiêng ngã và chao đảo. Người Việt có câu: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Chính vì suy nghĩ ấy nên “văn hoá” quan hệ luôn được “lên ngôi” cao nhất. Bên cạnh mỗi ông quan luôn tấp nập nhiều thành phần ký sinh đang bám chặt như bầy đĩa đói. Điều chua xót nhất ở xứ sở chúng ta là những người tạo dựng tài sản thực sự cho quốc gia lại thường bị trù dập, hạch sách và hãm hại, thường thua thiệt trước những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ dối láo, chụp giật, manh mún, thủ đoạn, bòn vét… Nhưng ở đời nhân quả là bất biến, có mấy ai dám khẳng định rằng, chơi với “voi” thì không bị voi dẫm chết. Nguyễn Văn Thương Theo triethocduongpho.com
......

Bàn về dân trí

Từ đầu thế kỷ trước, Phan Chu Trinh đã nói đến công cuộc “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” cho Việt Nam. Đến hôm nay và có thể là một thời gian dài sau này, riêng chuyện dân trí chắc sẽ còn tốn nhiều thời gian và giấy mực của chúng ta. Không ít lần, bộ máy tuyên truyền của nhà cầm quyền cộng sản rêu rao rằng: Việt Nam dân trí chưa cao để có thể có dân chủ; vì vậy, Đảng và Nhà nước cộng sản cần cai trị thêm, chờ khi nào dân trí đủ cao thì họ sẽ tự động thay đổi hệ thống chính trị và dân chủ hóa. Thời gian chờ đợi này có thể là năm mươi năm hoặc  một trăm năm? Đây chắc chắn không phải chỉ  là lời chống chế cho sự cầm quyền bất xứng, không chính đáng và dai dẳng của Đảng cộng sản lên hơn chín chục triệu dân Việt Nam; mà nó có thể còn là suy nghĩ chân thành và thiện chí của nhiều người có học Việt Nam. Chưa có dân trí cao thì chưa thể có dân chủ?!   Và với nền giáo dục ngăn cản tự do, sáng tạo và đang ngày càng lụn bại như tại Việt Nam thì còn lâu trình độ tri thức của người dân Việt Nam mới có thể sánh kịp các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, thậm chí là Thái Lan…Vậy thì Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ở đây, ngay trên đầu chúng ta trong một vòng định mệnh luẩn quẩn: độc tài -> dân trí thấp, dân trí thấp -> độc tài?! Tất nhiên, tri thức là điều kiện không thể thiếu để phát triển đất nước một cách toàn diện và vững chắc. Chính tri thức cũng là yếu tố củng cố nền dân chủ. Tri thức giúp người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng, am hiểu luật pháp và có những phản ứng hữu hiệu cho các chính sách quốc gia hoặc những thực hành chính trị của nhà cầm quyền. Tri thức và sự sáng tạo cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, sự hòa nhập của quốc gia vào cộng đồng quốc tế trong mọi lĩnh vực để người dân được sống ngày một thịnh vượng và có uy tín trên trường quốc tế hơn. Không ai có thể phủ nhận vai trò của trình độ tri thức đối với tiền đồ một quốc gia. Nhưng chúng ta đang nói đến dân trí. Dân trí phải chăng đơn giản chỉ là trình độ tri thức của người dân, là chỉ số có thể đo lường được thông qua con số người có bằng cấp cao, tốt nghiệp những đại học danh tiếng? Chúng ta hãy cùng nhau dành thời gian để suy nghĩ về mệnh đề: “Dân thấp thấp thì chưa thể có Dân chủ”. Ấn Độ năm 1947 khi giành được độc lập, dân trí có cao hơn Việt Nam bây giờ không? Miến Điện hay Cambodia đã bắt đầu con đường dân chủ hóa có dân trí cao hơn Việt Nam không? Nếu các bạn lưỡng lự, thì chúng ta có thể cần nhiều thời gian hơn nữa trước khi đưa ra bất cứ khẳng định một cách khoa học nào về chuyện Dân trí - Dân chủ. Theo thiển ý của người viết bài này, dân trí không chết cứng trong cái nội hàm “tri thức”. Dân trí là một tập hợp những điều kiện thuộc về não trạng và văn hóa nhiều hơn là tri thức. Dân trí cao không phải là tỷ lệ cao những người có học và có bằng cấp cao mà là các yếu tố thuộc về nhận thức (chứ không phải tri thức) có thể chi phối hành động và phản ứng của người dân trong mối quan hệ của họ với nhau và của họ với chính quyền. Ví dụ, những người có học hành nhiều chưa chắc là những người có hành xử văn hóa. Trong cách dùng thông dụng do những người cộng sản hiện nay áp đặt, người có bằng cấp cao thì được gọi là người có trình độ văn hóa cao. Nhưng thực tế, những hành xử văn hóa không phụ thuộc nhiều vào việc người ta có học nhiều hay không, mà phụ thuộc vào nền tảng đạo đức từ môi trường gia đình - xã hội, những quy tắc hành xử phổ biến trong xã hội và nhận thức của chính người đó về các giá trị công bằng, bác ái, tự do và công lý;  để rồi từ đó có nhận thức đạo đức cơ bản và hành xử luân lý tương ứng. Một người đàn anh đáng kính của tôi từng chia sẻ: Dân trí là chỉ số để đo (và luôn tỷ lệ nghịch với)  mức độ thờ phụng quyền lực các loại. Người dân thờ phượng quyền lực chính trị, trí thức thờ phượng một trí thức tên tuổi khác… Người viết tạm thời đưa ra vài đặc điểm dưới dây mà tôi xem như là biểu hiện của một nền dân trí cao:   - Người dân và đặc biệt là giới trí thức không/ ít sợ hãi và tôn sùng quyền lực, dù đó là quyền lực chính trị, kinh tế, học thuật hay tôn giáo. Người dân không xem những người cầm quyền chính trị là những người có vị thế ưu thắng tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Đối với họ, các vị trí lãnh đạo quốc gia là có thể thay đổi được, dựa trên ý chí của chính người dân; và các vấn đề to lớn của quốc gia không phải là sân chơi riêng của những người ở “tầng lớp trên”. - Giới trí thức không/ ít khao khát quyền lực chính trị. Họ không xem việc nắm quyền chính trị hoặc hưởng lợi nhờ quyền lực chính trị là mục tiêu hoặc là biểu hiện thành công của sự nghiệp mình. Tất nhiên tham chính và lãnh đạo quốc gia không phải là điều xấu nhưng đó không phải là cách duy nhất khiến một người có được vinh quang, sự khen ngợi và công ích xứng đáng. Trí thức đặt mình vào một vị thế còn quan trọng hơn, đó là giám sát chính trị, đề nghị chính sách quốc gia và phục vụ người dân. - Người dân có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày và các mối quan hệ với cộng đồng thông qua các hoạt động tự lập và tự quản, không viện đến sự xử lý của chính quyền nếu chưa cần thiết. Những sự phụ thuộc nhỏ lẻ vào chính quyền cho thấy ở họ tâm lý lệ thuộc thực chất còn lớn hơn nhiều. - Người dân có xu hướng tôn trọng hạnh phúc và tự do của từng cá nhân con người; đề cao tự do và phẩm giá con người với tư cách từng cá nhân cụ thể; dù trân quý những hy sinh của cá nhân cho cộng đồng nhưng không coi sự hy sinh của cá nhân cho tập thể là giá trị luân lý bắt buộc. - Người dân có xu hướng giải quyết vấn đề bằng phương pháp hòa bình và tinh thần khoan dung, không đề cao vũ lực và không/ít bị kích động bởi khuynh hướng bạo lực. Và họ có khả năng đề kháng tương đối đối với những hô hào mị dân về chủ nghĩ dân tộc cực đoan. - Người dân có ý thức về lợi ích của sự hợp tác và có khả năng xây dựng đồng thuận một cách lành mạnh và tuân thủ luật pháp để hợp tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cộng đồng và quốc gia. Nếu mệnh lệnh tùy tiện và độc đoán là đặc trưng của những xã hội bán khai  từ thời xa xưa của nhân loại thì khả năng tạo đồng thuận và hợp tác là kỹ thuật đặc biệt của những cộng đồng văn minh của thế giới hôm nay. - Người dân giữ được sự bình tĩnh tương đối, khả năng hành động tương hỗ và sự thượng tôn luật pháp khi cộng đồng hoặc quốc gia lâm vào những tình huống khẩn cấp như thiên tai, chiến tranh, tội phạm. Họ có khả năng ứng phó một cách khoa học, lý tính trong những trượng hợp đó. - Người dân có khả năng tư duy và phán đoán độc lập, không/ ít tôn sùng biểu tượng, không đeo bám cứng nhắc những giáo điều hay chủ thuyết nhất định. Bởi theo logic tâm lý, khi người dân quá tôn sùng biểu tượng thì  trong tâm lý của họ không có điều gì khác hơn ngoài việc người ta cũng muốn trở thành biểu tượng nếu có cơ hội. Tâm lý tôn sùng biểu tượng càng mạnh thì sự hãnh tiến khi nắm được địa vị ưu thắng càng lớn. Đây cũng có thể được xem là một khía cạnh của sự thờ phượng quyền lực. Sau khi xem xét xong những điều trên đây, chúng ta gần như có thể trả lời được câu hỏi: Vì sao ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam đi du học nước ngoài nhưng hầu như có rất ít người trong số những con người bằng cấp đầy mình ấy có đủ can đảm để dấn thân cho dân chủ và đóng góp cho cộng đồng xã hội.Những người kiến thức sâu rộng ấy cũng vô cùng sợ hãi và thiếu trách nhiệm giống như bao người thất học khác, vì kiến thức không giúp họ trở nên can đảm, bớt lệ thuộc quyền lực và sốt sắng nhận lãnh trách nhiệm cộng đồng. Bởi vậy nhiều con cái các gia đình cán bộ cộng sản cấp địa phương cũng như cấp quốc gia du học và trở về, nhưng cái họ đang và sẽ trở thành không phải là điều gì khác hơn ngoài những “ông bà độc tài con”. Vấn đề là ở chỗ nhận thức về chính trị - xã hội và kỹ thuật tổ chức cuộc sống chung trong một cộng đồng văn minh chứ không phải là việc có nhiều bằng cấp hay không. Như tôi đã từng chia sẻ, giải thể một chế độ độc tài để bắt đầu con đường dân chủ hóa tuy khó nhưng còn dễ hơn rất nhiều so với công cuộc xây dựng dân chủ hậu độc tài. Và tri thức, khi đó sẽ đóng vài trò rất quan trọng; nhưng  nếu chúng ta không thể bắt đầu ngay bây giờ thì ngày mai chẳng có gì xảy ra cả. Ngay chính trình độ tri thức của người dân cũng ngày càng thoái hóa dưới chế độ độc tài chứ chưa nói là nó có cơ hội để đóng góp xây dựng dân chủ hay không. Bởi vì chính dân chủ và sự tự do hiến định trong một nền dân chủ xứng đáng cũng góp phần quyết định nâng cao trình độ tri thức của người dân. Trong một buổi nói chuyện dành riêng cho Hội PNNQVN, ông Ngô Nhân Dụng đã chia sẻ: Bạn không thể nói tôi không biết bơi vì vậy tôi không dám xuống nước. Vì nếu bạn không xuống nước, bạn sẽ không bao giờ biết bơi cả. Và cũng xin dùng lời hữu lý trên để kết thúc bài viết này trong tâm tình mong muốn tiếp thu nhiều chia sẻ hữu ích hơn từ các bạn trẻ Việt Nam. Buôn Hồ, 7/11/2014 H.T.V Theo FB HuynhThucVy
......

Chính giới Thụy Sĩ tranh đấu cho Đặng Xuân Diệu (Schweizer Politiker engagieren für Blogger Dang Xuan Dieu)

Sáng ngày 10 tháng 11, 2014, một phái đoàn gồm dân biểu và chính giới Thụy Sĩ đã đến tòa lãnh sự Việt Nam tại Genève/Thuy Sĩ để trao cho bà lãnh sự Đỗ Hà Thảo một Thỉnh Nguyện Thư gửi Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng về trường hợp tù nhân lương tâm (TNLT) Đặng Xuân Diệu bị cầm tù trong hoàn cảnh khắc nghiệt với tình trạng sức khỏe của anh đang gặp nguy cơ.Am 10. November 2014 „besuchte“ eine Delegation Schweizer Politiker das Konsulat von Vietnam in Genf / Schweiz. Die Politiker überreichten dem Konsul Do Ha Thao eine Petition, gerichtet an Premierminister Nguyen Tan Dung, zugunsten des Gefangenen des Gewissens Dang Xuan Dieu, der unter widrigsten Umständen eingesperrt ist und sich in erster Lebensgefahr befindet. Từ trái sang phải: Ông Michel Rossetti, cựu thành viên Hội đồng quản trị, cựu thị trưởng thành phố Genève; bà Anne-Marie von Arx-Vernon, Dân biểu Quốc Hội tiểu bang Genève; ông Rolin Wavre, nghị viên thị xã Pregny-Chambesy tiểu bang Genève; ông Jean-Marc Comte, thành viên Hội đồng quản trị và đương kim thị trưởng thành phố Grand-Saconnex tiểu bang Genève. Die Schweizerdelegation: von links nach rechts, Herr Michel Rosseti, Frau Anne-Marie von Arx-Vernon, Herr Rolin Wavre (mit dem Foto von Dang Xuan Dieu) und Herr Jean-Marc Comte. Phái đoàn được dẫn đầu bởi bà Anne-Marie von Arx-Vernon, Dân biểu Quốc Hội tiểu bang Genève; ông Michel Rossetti, cựu thành viên Hội đồng quản trị và cựu thị trưởng thành phố Genève; ông Jean-Marc Comte, thành viên Hội đồng quản trị và đương kim thị trưởng thành phố Grand-Saconnex, tiểu bang Genève; và ông Rolin Wavre, nghị viên thị xã Pregny-Chambesy, tiểu bang Genève.Die Delegation wurde von Frau Anne-Marie von Arx-Vernon, der Abgeordneten das Kantons Genf, Herrn Michel Rossetti, einem ehemaligen Mitglied des Verwaltungsrates und ehemaligen Bürgermeister von Genf, Herrn Jean-Marc Comte, Chef des Verwaltungsrates und amtierendem Bürgermeister von Grand-Saconnex, Kanton Genf und Herrn Rolin Wavre, Genfer Stadtrat und Frau Pregny-Chambésy, Genfer Stadträtin. Thỉnh Nguyện Thư yêu cầu ông Nguyễn Tấn Dũng quan tâm đến điều kiện giam giữ khắc nghiệt của anh Đặng Xuân Diệu và yêu cầu ông can thiệp để anh được khám bệnh và được chữa trị như mọi tù nhân.Die Unterzeichner der Petition beklagten ganz besonders über die unmenschlichen Haftbedingungen, unter denen der Blogger Dang Xuan Dieu leidet. Sie baten Premier Nguyen Tan Dung um Hafterleichterung sowie die Gewährung der notwendigen, medizinischen Untersuchungen für Herrn Dang Xuan Dieu. Theo bà Anne-Marie von Arx Vernon, trường hợp TNLT Đặng Xuân Diệu là một trường hợp nhân đạo nên bà xin ông Nguyễn Tấn Dũng cho phép một phái đoàn Thuy Sĩ đến viếng thăm anh trong trại giam. Bà cũng yêu cầu trường hợp anh Đặng Xuân Diệu được duyệt xét lại dựa theo Hiệp ước quốc tế và các quyên dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký.Laut Anne-Marie von Arx-Vernon ist die Behandlung des Gefangenen des Gewissens Dang Xuan Dieu ein scherwiegender Verstoß gegen internationale Verpflichtungen Vietnams gemäß den von Vietnam unterzeichneten Abkommen über bürgerliche und politische Rechte. Die Mitglieder der Delegation wollen Herrn Dang Xuan Dieu im Gefängnis besuchen und fragen nach einem Visum. Bà Anne-Marie von Arx-Vernon cho biết là bà lãnh sự Đỗ Hà Thảo có hứa sẽ chuyển Thỉnh Nguyện Thư đến ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông Michel Rossetti chia sẻ là ông luôn sát cánh cùng người Việt đấu tranh cho một nền tự do dân chủ tại Việt Nam. Ông Jean-Marc Comte nói ông hân hạnh tham gia ký tên Thỉnh Nguyện Thư và mong anh Đặng Xuân Diệu sớm được nhà cầm quyền thả. Ông Rolin Wavre yêu cầu Việt Nam cần phải tôn trọng nhiều hơn các công ước quốc tế mà Viet Nam đã ký kết.Frau Anne-Marie von Arx-Vernon verpflichtete den Konsul Do Ha Thao, die Petition an Vietnams Premier weiterzuleiten. Herr Michel Rossetti teilte mit, dass er immer Seite auf der Seite der Kämpfer für demokratische Freiheiten in Vietnam steht. Herr Jean-Marc Comte sagte, er sei geehrt, die Petition unterzeichnen zu dürfen und wünscht sich die baldige Freilassung von Herrn Dang Xuan Dieu. Herr Rolin Wavre ermahnte Vietnam zu mehr Respekt gegenüber  internationalen Verträgen, die Vietnam selbst unterzeichnet hatte. Als Mitglied des Menschenrechtsrates der UNO steht Vietnam in der besonderen Verpflichtung zur Einhaltung der Menschenrechte gegenüber seinen kritischen Bürgern. Trước đây vài năm, bà Anne-Marie von Arx Vernon cũng đã có 2 lần viết thư đến tòa lãnh sự Việt Nam để can thiệp cho trường hợp nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (nhưng toà lãnh sự không có hồi âm).In den letzten Jahren hatte Frau Anne-Marie von Arx Vernon schon zweimal an das Konsulat Vietnams in Genf geschrieben, um Hafterleichterung für den Schriftsteller Nguyen Xuan Nghia zu ersuchen. Vom Konsulat erhielt sie keine Antwort. Được biết bà Anne-Marie von Arx Vernon và ông Rolin Wavre đã có lần đến Việt Nam thăm gia đình các nhà dân chủ bị cầm tù.Frau Anne-Marie Arx-Vernon und Herr Rolin Wavre hatten Familien von inhaftierten Dissidenten besucht. Übersetzung aus dem Vietnamesischen von Dr. Thanh Nguyen-BremQuelle: http://diendanctm.blogspot.de/2014/11/chinh-gioi-thuy-si-tranh-au-cho-an... (Text in Vietnamsisch)    
......

Di sản Đông Đức 25 năm sau ngày thống nhất

Hai mươi lăm năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức Thống Nhất, cùng với ngân khoản khổng lồ để tái thiết những vùng trước kia ở bên kia bức màn sắt của nước Đức lên tới một ngàn năm trăm tỷ Euros, khoảng 2000 tỷ mỹ kim, hai miền của nước Đức nay vẫn còn nhiều khác biệt từ kinh tế đến con người. Một bản tin của AFP vào cuối tháng 10 vừa qua (1) cho biết như vậy. Ngân khoản to lớn vừa kể (ước tính cho đến nay) là khoản tiền thuế phụ trội 5.5% có tên gọi là thuế “đoàn kết” (solidarity tax) mà người dân Tây Đức phải đóng thêm từ năm 1991 cho đến năm 2019 để tái thiết lại Đông Đức sống dở chết dở sau bao nhiêu kế hoạch ngũ niên của nhà nước cộng sản Đông Đức.   Một bản tin khác của AFP tháng trước đó (2) thuật lại một số chi tiết trong bản báo cáo hàng năm, đánh giá về việc tái thiết Đông Đức để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 25 năm nước Đức thống nhất năm nay, tuy có đưa ra hình ảnh tích cực hơn của Đông Đức sau 25 năm nước Đức thống nhất, nhưng vẫn cho thấy những nét ảm đạm của “di sản Đông Đức”. Bản báo cáo vừa kể của bà Iris Gleicke, đại diện của những tiểu bang “mới” cho biết, mặc dù việc tái thiết 5 tiểu bang thuộc Đông Đức cũ đã đạt được nhiều tiến triển và hài lòng về “bức tranh tổng thể”, cũng như đã thành công phần lớn trong việc hội nhập của người dân Đông Đức, nhưng vẫn còn một khoảng cách đáng kể giữa hai miền trong lãnh vực kinh tế và công ăn việc làm. Mặc dù lợi tức bình quân đầu người của người dân Đông Đức nay đã tăng gấp đôi so với lúc bức tường Bá Linh vừa sụp đổ vào năm 1990, nhưng lợi tức này nay vẫn chỉ bằng khoảng 2/3 lợi tức bình quân của người dân Tây Đức, trong khi đó thì sự thịnh vượng của Tây Đức gần gấp đôi Đông Đức. Bản báo cáo này còn cho biết, từ năm 1995 đến năm 2013 nền kinh tế ở Đông Đức tăng trưởng 20%, cùng thời gian đó kinh tế Tây Đức Tăng trưởng 27%. Theo bản báo cáo thì con số ít ỏi các công ty lớn di chuyển sang Đông Đức là yếu tố quan trọng làm cho năng suất lao động của người dân vùng này thấp kém, điều này cũng khiến sự hội nhập của người dân Đông Đức trong mấy năm vừa qua chậm lại. Mặt khác, nền công kỹ nghệ ở Đông Đức sau năm 1990 chỉ gồm những công ty loại trung bình và nhỏ. Không có một công ty nào có tên niêm yết trên thị trường chứng khoán DAX của Đức đặt trụ sở của họ ở phía Đông Đức. Các công ty đa quốc gia đặt trụ sở ở phía Tây Đức vì điều kiện làm việc tốt hơn, họ cũng trả lương cao hơn, và nhờ thế họ mới giữ được lực lượng lao động có tay nghề và năng suất cao.   Theo các con số chính thức thì tỷ lệ thất nghiệp ở phần đất Đông Đức là 10.3%, dù rằng trong năm 2013 Đông Đức đã hạ được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất kể từ khi nước Đức thống nhất đến nay; trong khi tỷ lệ đó ở Tây Đức chỉ khoảng 6%. Mười năm trước đây tỷ lệ thất nghiệp ở Đông Đức lên đến 18.4%, gấp đôi ở Tây Đức. Một báo cáo khác của viện nghiên cứu kinh tế Ifo công bố gần đây cũng cho thấy một hình ảnh tương tự. Theo một cuộc thăm dò vào cuối tháng 9 thì có đến 75% “Ossis”, tức những người ở Đông Đức cũ như ở Đức vẫn gọi họ, thấy nước Đức thống nhất là sự kiện tích cực, trong khi đó chỉ có 48% "Wessis" (người ở phía Tây Đức) cảm nhận tương tự. Nhiều người dân Đông Đức thuộc thế hệ già cả vẫn nuối tiếc hệ thống y tế và giáo dục “bao cấp” thời cộng sản. Nhìn chung thì ai cũng phải thừa nhận những nguyên nhân, sự khác biệt và yếu kém của nền kinh tế Đông Đức cũ dưới chế độ cộng sản. Nó để lại một di sản nặng nề và tồi tàn cho nước Đức sau khi thống nhất. “Việc tái thiết (Đông Đức) vẫn chưa xong, rõ ràng là như vậy. Tuy nhiên đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm”. Ông Michael Burda, kinh tế gia ở đại học Humboldt, Berlin, đã nhận xét như vậy khi nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất.   --- (1) Theo ước đoán của giáo sư Thomas Lenk, đại học tài chánh công Leipzig (public finance at Leipzig University), 25 years on, Germany's east-west divide still palpable (http://news.yahoo.com/25-years-germanys-east-west-divide-still-palpable-...) (2) Eastern Germany still lags 25 years after Berlin Wall's fall, (http://news.yahoo.com/eastern-germany-still-lags-25-years-berlin-walls-2...)   Theo FB CTM
......

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói “tôi không tự hào là người Việt” thì chắc chắn sẽ bị “ném đá” như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình. Một cuốn sách có tựa đề là “Tôi tự hào là người Việt Nam” mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một “devil advocate” về đề tài này. Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc? Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima. Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt. Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong “Việt Nam văn hoá sử cương”) như sau: “Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo“. Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh. Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, Orange county, San Jose, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả. Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội! Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bảo của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị. Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội ác đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào. Thất bại về kinh tế Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những “VINA” hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, Toshiba và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng. Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều “di sản” tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tập đoàn kinh tế bị sụp đỗ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác. Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD. VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cản tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người “đày tớ của nhân dân” sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế? Giáo dục và khoa học làng nhàng Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ. Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger (3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau: “Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ.” Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất … hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền. Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, Tommy Hilfiger, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được. Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con “gà chọi” chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ. Xã hội bất an Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an.  Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự “ưa chuộng” đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần! Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%). Một trong những tội phạm đang kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!  Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm “sex” trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế? Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá!  Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội. Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31,266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32,266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến! Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị uể oải và ảnh hưởng đến năng suất làm việc. Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiềng, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời “Cải cách ruộng đất”, và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn “sống sót” cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào. Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là “Good Country Index” (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó? Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó? Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế. Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp  nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu. Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ. Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng đã đến mức độ mà những người đứng đầu đảng và Nhà nước xem là “quốc nạn”, là đe doạ đến sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện, cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải “chạy”. Nói trắng ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177 nước trên thế giới (12). Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật. Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng. Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai. Theo FB Nguyễn Văn Tuấn
......

Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung – Việt tại Thành Đô

Bài sau đây có nguồn gốc từ một trang mạng bán chính thức của Trung Quốc và mang giọng điệu gián tiếp đe dọa sẽ bật mí tất cả trong thời gian tới. Điều này cho thấy nếu Hà Nội không sớm công bố các ký kết bí mật tại Hội Nghị Thành Đô thì Bắc Kinh sẽ ra tay trước và theo hướng có lợi cho họ. Không những thế, Bắc Kinh còn có thể thêm bớt vào các ký kết để thủ lợi tối đa vì không ai ngoài các thủ lãnh CSVN và CSTQ biết bản nào thật, bản nào giả. (BBT-TTĐQ). *****************   Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.   Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai   Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.   Tháng 7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao, cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu Bình thổ lộ điều bí mật Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.   Không ngờ hai vị lãnh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.   Đặng Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói: Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam  khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch. Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ý hữu hảo Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết. Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ. Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này. Nguyễn Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông. Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế. Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.   Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.   Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung. Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.   Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói : “Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.” “Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.” “Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.” “Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.” “Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”   Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng. Hoàng giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành. Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng? Vì việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ. Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc phòng Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này. 8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết. Trong tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.   Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này. Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương. Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương   Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý. Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.   Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn. Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.   Gặp gỡ bí mật Thành Đô   Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Lãnh đạo Trung cộng & Việt cộng tại Thành Đô Lý Bằng & Giang Trạch Dân nâng ly chúc mừng Hội nghị thành công Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh. Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên. Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều nay. Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm. Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh. Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3] Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.   16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc -Việt Nam Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”. Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới. Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết có đăng trên mạng China.com. ————— [1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lý Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND). [2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND). [3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình hữu nghị muôn đời (ND). [4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và ngoài Trung Quốc. (ND) Nguồn: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
......

Đức Ông ‘Xí Tà tà’ ra tay

Đầu tháng 10 vừa qua trên Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh đăng một bài báo rất đặc biệt ca ngợi ý chí dấn thân cho Giấc Mộng Trung Hoa -  Trung Hoa Mộng, của lãnh tụ số 1 hiện nay là ông Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí thư đảng CS Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Điều nổi bật là bài báo gọi ông Tập Cận Bình là ‘ Xi Ta ta ‘, phát âm là Xí Tà tà, chữ Hán là  ‘Tập  Đại đại’, một cách gọi vừa cung kính vừa thân mật, lâu nay rất ít dùng trong xã hội và trên sách báo Trung quốc.   Trước đây dưới thời Mãn Thanh,‘Ta ta – Đại đại ‘ chỉ dùng cho những ông Hoàng được quý trọng nhất trong Triều đình, sát với ngôi Hoàng Đế. Các nhà dịch thuật Việt nam từng dịch Đại đại là ‘Đức Ông’. ‘Xí Ta ta - Tập Đại đại‘ có thể dịch là Đức Ông họ Tập. Trong bài báo nói trên, tên gọi ‘Đức Ông Tập’ được lắp đi lắp lại đến 23 lần. Bài báo ca ngợi ông là nhà lãnh đạo có tư duy chính trị tiên tiến, thấu hiểu nguyện vọng của nhân dân, nhận rõ sự hư hỏng của đảng CS, quyết sắn tay áo dọn dẹp cho đảng sạch sẽ, khôi phục niềm tin của nhân dân, đề cao uy lực của pháp luật và của các cơ quan thi hành luật pháp nghiêm minh, như Ủy ban chính pháp, Ban kỷ luật và thanh tra trung ương, hệ thống Tòa án và Kiểm sát, quyết kiên trì các chiến dịch quét tham nhũng, ‘đả hổ diệt ruồi’, ‘săn sói tháo chạy’, dù cho hàng ngũ đảng có bị chấn động, thu hồi tiền phi pháp trở về cho công quỹ…Ông là người dám hành động, ngay thẳng, kiên cường. Đi cùng với bài của Nhân dân Nhật báo là những bài báo trên báo Xây dựng đảng, Quân Giải phóng nói về cung cách tuyển mộ cán bộ dưới thời Tập Cận Bình (TCB) là hoàn toàn mới mẻ, phải có đức thanh liêm làm đầu,  rồi đến thực tài phải ngang tầm thời đại và thế giới. Không gì tệ hại hơn là chọn những kẻ ham tiền và mê gái như Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, Lý Đông Sinh, Tưởng Khiết Mẫn … vào cơ quan lãnh đạo. Các bài báo nhắc đến tướng Lưu Nguyên con trai Lưu Thiếu Kỳ như một mẫu mực, là chính ủy Tổng cục Hậu cần mà vẫn ở nhà công cộng, không nhận dinh thự riêng, đi công tác xuống dưới bằng xe ô tô bình dân, không đi xe sang, mang theo xuất ăn riêng, không dự tiệc tùng sang trọng, thường không báo trước, phát biểu luôn gọn, rõ ý, có kiến thức rộng, yêu cầu cao, kỷ luật nghiêm. Tướng Lưu Nguyên vừa được cử là phó bí thư Quân ủy trung ương, nhân vật số 2 cùng TCB thống lĩnh quân đội.   Sau cuộc họp thứ 4 khóa XIII, công khai hạ bệ một nhóm do Chu Vĩnh Khang - vốn được coi là nhân vật bất khả xâm phạm, từng là trùm dầu khí rồi trùm Công an,  cầm đẩu,  nay TCB lại dấn thêm những bước mới, theo hướng mở rộng từng bước chiến dịch ‘đả hổ diệt ruồi,săn sói tháo chạy’ một cách vững chắc. Những bước mới này đã chặt thêm vây cánh của ông Giang Trạch Dân, đồng thời hạ uy tín của ông Giang một cách thê thảm. Đầu tháng 11, báo mạng Weiboscope từ Hông kông phát đi một tin rất nóng, ông Tăng Khánh Hồng, từng là ủy viên thường vụ bộ chính trị đảng CS khóa XVI, phó Chủ tịch nước, anh em kết nghĩa với Chu Vĩnh Khang, cùng con trai là Tăng Vĩ đã bị cấm di chuyển, giam lỏng để điều tra về tội tham nhũng nghiêm trọng tài sản công. Tiền tham nhũng rút ra từ việc cưỡng bức mua lại công ty Lỗ Năng khai thác và kinh doanh than ở Sơn Đông theo kiểu ép giá, giá trị thực là 110 tỷ nhân dân tệ, nhưng chỉ phải trả có 3,3 tỷ. Với số tiền tham nhũng, Tăng Vĩ và vợ là Tưởng Mai đã tậu một biệt thự cực sang ở Sydney – Úc trị giá 250 triệu US$ vào tháng 3 năm 2008. Hiện ngôi nhà này đã bị chính quyền Úc phong tỏa theo đề nghị của phía Trung Quốc. Báo chí Úc cũng xác nhận việc này. Báo chí Hồng Kông cho biết theo tin từ lục địa Trung Quốc, năm 2008 đã có 18 ngàn quan chức Trung quốc mang ra nước ngoài 800 tỷ US$, chủ yếu là ở Hoa Kỳ, Úc, Canada và Liên Âu. Đài VOA cũng đưa tin là trong cuộc họp 21 nước khu vực châu Á Thái bình Dương APEC sắp diễn ra ở Bắc Kinh, ông Tập Cận Bình sẽ yêu cầu các nước giúp chiến dịch ‘ Đả hổ diệt ruồi săn sói tháo chạy’ để bắt giữ, phong tỏa và chuyển giao cho phía Trung Quốc những kẻ phạm tội tham nhũng cùng các loại tài sản phi pháp của chúng.   Một tin động trời hơn nữa cũng vừa phát xuất từ Hông Kông, Mạng Weiboscope  có nguồn tin đáng tin cậy từ Hoa Lục cho biết Bắc Kinh đã bắt đầu phổ biến miệng, kiểu nửa công khai, trong nội bộ đảng CS TQ một số tin tuyệt mật về Giang Trạch Dân. Đó là Giang là con đẻ của một tên Hán gian từng là viên chức cao cấp trong chính quyền Uông Tinh Vệ, tay sai cho phát xít Nhật. Ông nội của Giang Trạch Dân là Giang Thạch Khê thày thuốc Đông y, có 7 người con, 2 chết sớm. Bố đẻ của Giang Trạch Dân là Giang Thế Tuấn, mẹ là Ngô Nguyệt Khang. Giang Thế Tuấn từng làm việc cho chính quyền Uông Tinh Vệ ở Nam Kinh, cộng tác chặt chẽ với Quán Thiên là thứ trưởng bộ tuyên truyền, làm việc dưới trướng của Hồ Lan Thành và Cao Tác Nhân, 2 tên đại Hán gian trong ngành truyền thông thời đó. Con thứ 6 của Giang Thạch Khê là Giang Thế Hầu, còn có tên là Giang Thượng Thanh lại là đảng viên đảng CS Trung quốc từ năm 1928, chết năm 1938 khi 28 tuổi, được coi là liệt sỹ thời chống Nhật. Giang Trạch Dân sinh năm 1925 chỉ kém chú ruột có 15 tuổi. Để tránh tiếng xấu là con tên Hán gian, Giang Trạch Dân khai lý lịch là con của chú ruột là Giang Thượng Thanh, không bao giờ nhắc đến tên bố đẻ là Giang Thế Tuấn. Chuyện khai gian này bị lộ tẩy khi một số nhà sử học và nhà báo muốn viết tiểu sử thật đầy đủ và chân thực của Giang Trạch Dân, đã tiếp cận những người trong họ hàng, bạn bè, đồng hương, đồng học, như bà chị ruột ông là Giang Trạch Phân, em gái ông là Giang Trạch Nam (còn là Trạch Lan), thím ruột ông là Vương Giả Lan (vợ ông Giang Thượng Thanh mà Giang Trạch Dân nhận là bố nuôi), 2 con bà Vương Giả Lan là Giang Trạch Linh và Giang Trạch Tuệ, thì biết bao nhiêu điều phi lý, giả dối hiện ra. Có vẻ như chuyện làm con nuôi của người chú ruột là không có thật vì lúc đó người chú quá trẻ, quá nghèo, không thể nhận ông làm con nuôi, và các trường sang trọng ông theo học không chứnh minh cho điều ấy. Vẫn chưa hết, các bản tin ở Hồng Kông còn đưa tin về con trai Giang Trạch Dân là Giang Miên Khang đã bị khám nhà ngày 20 tháng 8 vừa qua và Giang Miên Khang đã lợi dụng chức quyền của bố để lũng đọan tòan bộ ngành bất động sản Thượng Hải, tập trung trong tay 6 doanh nghiệp quốc doanh nhà đất để kiếm lợi khủng, không giới hạn. Trong khi đó lại có tin hồ sơ điều tra một cuộc đảo chính hụt (đầu năm 2012) nhằm hạ bệ nhóm Hồ Cẩm Đào - Ôn Gia Bảo - Tập Cận Bình – Lý Khắc Cường để đưa nhóm Bạc Hy Lai  lên tiếm quyền, được Chu Vĩnh Khang, Giang Trạch Dân, tướng Từ Tài Hậu tận lực hỗ trợ, có thể đã hoàn tất, một tòa án binh đặc biệt có thể mở ra, nhằm chứng minh cho một thời kỳ mới, cai trị quốc gia theo đúng luật pháp, ‘Y pháp trị quốc’. Có người bảo Bắc Kinh mưa thì Bộ chính trị Hà Nội vội vàng che ô. Công sản Bắc Kinh sổ mũi thì Bộ chính trị Hà Nội hắt hơi. Hà Nội hay làm theo ông anh Hai nay đã thành anh Cả trong đại gia đình CS lớn, nay chỉ còn thưa thớt vài mống lẻ loi. Đế chế tư bản đỏ Chu Vĩnh Khang và Hoàng đế CS Giang Trạch Dân tưởng như bất khả xâm phạm đang lâm đại nạn. Thì ở Việt Nam hàng lọat đại gia tài chính – ngân hàng cũng đã và đang lâm nạn. Một tướng số 2 ngành công an chịu chết để khỏi vào tù một cách nhục nhã. Đế chế tài chính – ngân hàng họ Nguyễn Sinh đang được trình diện, với tài sản khổng lồ vài trăm nghìn tỷ đồng, lớn dần lên theo đà  người cháu trực hệ của bác Hồ này được giao làm Cục trưởng kho bạc, rồi Vụ trưởng ngân sách, rồi lên Thứ trưởng tài chính, rồi Bộ trưởng tài chính, rồi phó Thủ tướng thường trực và nay đang cầm đầu ngành lập pháp. Vụ tài sản khủng này sẽ giải quyết ra sao ? ai giải quyết ? ai giải trình cái tài sản vài trăm nghìn tỷ đồng ấy từ đâu mà ra, từ lao động lương thiện ư ? Và ‘vụ đại án Thành Đô’ đang thành hồ sơ tội phạm bán nước cho ngọai bang.  Danh sách nhóm tội phạm đang hiện ra ngày càng rõ ràng. Có kẻ đã chết, kẻ còn sống. Nhân chứng còn nhiều. Mở ra, không thể đóng lại, ý chí của tìan dân phải được biểu lộ. Trong khi ở TQ họ chống tham nhũng mạnh mẽ đến thế, ngành công an trong sạch hóa để chống tham nhũng, Ban kỷ luật – thanh tra trung ương đảng năng động là thế mà Ban nội chính của đảng CS VN đang tê liệt, Ban kiểm tra trung ương càng liệt hẳn, các thanh tra chính phủ chỉ lo bán chúc tước ăn tiền. Hãy biết giật mình. Người dân nhìn sang TQ, tuy đó không phải là mẫu mực gí hay ho, nhưng ít nhất họ cũng đã dám làm những việc theo hướng tiến lên. Còn ở ta sao lại tệ đến thế ? Bùi Tín
......

Ls. Lê Công Định: Buổi làm việc định kỳ với CA ngày 6-11-2014

Sáng hôm qua tôi đến phường trình diện định kỳ hàng tháng theo luật về quản chế. Có đến 8 người cùng làm việc với tôi, trong đó 6 người là sĩ quan công an. Buổi làm việc tập trung vào các bài viết đăng trên trang FB của tôi. Đầu tiên, tôi được yêu cầu ký tên vào các bản in sẵn, nhưng tất nhiên tôi từ chối với lý do rằng FB là một trang công khai để mọi người bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc, ai thích vẫn có quyền đọc và bình luận, và đó không phải là một tài liệu phạm pháp để có thể bị áp dụng những biện pháp có tính cách tố tụng hình sự. Một câu hỏi được nêu ra thường xuyên đối với mỗi bài viết của tôi là: “Anh viết bài này với mục đích gì, nhằm truyền đạt điều gì?” Tôi trả lời rằng, "suy nghĩ là suy nghĩ, cảm xúc là cảm xúc, chẳng có mục đích gì, trừ phi các anh suy diễn một mục đích nào đó cho nó, nhưng đó là sự suy diễn của các anh, chứ không phải của tôi." Đến bài viết về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm đăng ngày 1/11 vừa qua, một sĩ quan công an nói rằng, “thằng Diệm đã lê máy chém khắp miền Nam để tàn sát đồng bào mà anh ca ngợi nó, lịch sử phải khách quan chứ!” Tôi đáp, “khi tôi viết nền giáo dục ở VN dạy học sinh gọi ông Diệm là thằng, thì có nhiều dư luận viên phản bác, nay anh gọi thế là đủ chứng minh lời tôi rồi. Việc vu cáo ông Diệm lê máy chém chỉ là luận điệu tuyên truyền của nhà nước này.” Một sĩ quan khác nói lại, “vậy cái máy chém đặt ở Nhà trưng bày tội ác chiến tranh là gì?” Tôi đáp, “đó chỉ là công cụ tuyên truyền của các anh, ai làm chẳng được!” Anh ấy lập lại, “khi viết về lịch sử anh phải khách quan.” Tôi gật đầu, “đúng vậy, lịch sử phải khách quan, chứ không phải lịch sử bị tuyên truyền!” Một anh khác hỏi, “tại sao anh viết bài đó, nhằm mục đích gì?” Tôi trả lời, “tôi ngưỡng mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm nên kể lại một câu chuyện có thật của tôi trong quá khứ, anh nghĩ tôi có mục đích gì?” Cuộc đối đáp về bài viết nêu trên của tôi dừng lại tại đó. Chuyển sang đề tài khác, nhân tạp chí luatkhoa.org ra đời mà tôi đã chia sẻ với nhiều bạn đọc, một anh sĩ quan hỏi tôi, “anh có định lập đại học luật online như có người đề nghị hay không?” Tôi đáp, “tôi vẫn suy nghĩ về điều đó vì đấy là ước mơ của tôi từ rất lâu.” Quả thật, tôi có thích làm chính trị đâu, từ thuở niên thiếu tôi đã muốn trở thành một giáo sư đại học để nghiên cứu và giảng dạy những đề tài học thuật mình yêu thích mà thôi. Chính biến cố bắt giam tôi ngày 13/6/2009 đã đẩy tôi vào con đường chính trị một cách bất đắc dĩ. Âu cũng là định mệnh! Nhìn chung, buổi làm việc vui vẻ dù hơi dài dòng, các anh nhân viên công quyền đều hành xử tử tế và đàng hoàng đối với tôi như mọi khi. Chúng tôi trao đổi thẳng thắn với nhau nhiều vấn đề. Tôi luôn tôn trọng chức trách mà các anh đảm nhận, ngoại trừ những đòi hỏi vượt khỏi nguyên tắc của tôi. Mỗi tháng tôi đều phải gặp các anh như những “người thân”, mà thân ai người đó lo! Theo FB Lê Công Định
......

Bắc Kinh gởi ông Nguyễn Phú Trọng đi Hàn Quốc

Bắc Kinh nói chung và cá nhân Chủ tịch Tập Cận Bình nói riêng đã thực sự tức điên người với Kim Chính Ân - lãnh tụ tối cao của Bắc Hàn. Hàng loạt những hành động được xem là từ chặt rễ đến bạt tai Bắc Kinh thẳng thừng đã được guồng máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên xì ra khắp thế giới: -    Khởi đi bằng việc xử tử người dượng kiêm cố vấn tối cao Trương Thành Trạch, một người được xem là gạch nối chính giữa Bắc Kinh và Bình Nhưỡng từ thời Kim Chính Nhật - bố của Kim Chính Ân. -    Tiếp sau đó là màn xử tử mấy chục người thân cận và dưới quyền ông Trạch để chặt mọi gốc rễ mà Kim Chính Ân cho là mạng lưới của Bắc Kinh ở thượng tầng Bắc Hàn. -    Tướng Choe Ryong-hae, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Triều Tiên, người được xem rất thân với Bắc Kinh, bị thanh trừng kế tiếp. -    Trong 40 ngày "nghỉ dưỡng bệnh" vừa qua, ông Kim Chính Ân diệt thêm ít là 12 cán bộ cao cấp khác thuộc phe thân Tàu mà báo đài Bắc Hàn gọi là "như Trương Thành Trạch".   -    Ông Kim Chính Ân, vào tháng 4.2014, còn dám lôi cái học thuyết mang tính quốc sách tối cao của ông Tập Cận Bình - có tên là "Giấc mơ Trung Quốc" và được xếp ngang hàng với thuyết "Ba Đại Diện" của Giang Trạch Dân và thuyết "Xã Hội Hài Hòa" của Hồ Cẩm Đào ra diễu cợt. Trong một sắc lệnh chỉ thị mọi cấp phải từ bỏ "Giấc mơ Trung Quốc", ông Ân viết: “Trước đây, Trung Quốc là một người bạn cách mạng của Triều Tiên… Nhưng ngày nay, Trung Quốc đã trở nên ích kỷ, theo đuổi cải cách và mở cửa, bởi thế đặt các giá trị vật chất lên trên ý thức hệ”. Tuy mất mặt với tập thể đảng viên CSTQ, ông Tập Cận Bình không còn nhiều vũ khí để trả đũa Bắc Hàn vì các khoản viện trợ đã cắt gần hết trong những năm qua khi bảo Bình Nhưỡng không nghe, và nay hệ thống thái thú đã cài đặt cũng bật rễ gần hết và phần còn lại phải chui sâu trốn kỹ. Cách trả thù duy nhất còn sót lại là: ông Tập Cận Bình từ khi lên ngôi chưa hề đến Bắc Hàn nhưng lại đi thăm chính thức Nam Hàn, kẻ thù không đội trời chung của Bình Nhưỡng, vào tháng 7.2014. Liền sau chuyến đi đó, ông Kim Chính Ân chính thức cho mọi cấp cán bộ, quan chức học tập: “Nhật Bản chỉ là kẻ thù trăm năm, Trung Quốc mới là kẻ thù nghìn năm” của nhân dân Triều Tiên. Thấy đòn này đủ để làm Kim Chính Ân tức giận, ông Tập Cận Bình nhấn tiếp để cho Bình Nhưỡng thấy rằng cả các "nước XHCN anh em" - những đồng minh cuối cùng của Bình Nhưỡng - cũng sẽ xa lánh họ theo lệnh của Bắc Kinh. Và đó là lý do TBT Nguyễn Phú Trọng đi thăm Nam Hàn vào đầu tháng 10.2014 với những lời phê phán Bình Nhưỡng thậm tệ. Dĩ nhiên, đối với Nam Hàn, mọi kẻ thù của kẻ thù đều là bạn. Hơn thế nữa Nam Hàn hiện không có các tranh chấp trên biển với Trung Quốc như Nhật Bản; Nam Hàn đang làm ăn buôn bán suông sẻ với Bắc Kinh; và trên hết, Nam Hàn muốn Bắc Kinh và Bình Nhưỡng thù nhau càng nhiều càng tốt và họ hiểu ông Trọng là người đi nói thông điệp cho Bắc Kinh. Thế là Hán Thành đón rước ông Nguyễn Phú Trọng rất trọng thể tuy hoàn toàn sai với nghi thức lễ tân. Ông Trọng đại diện một đảng chính trị, dù là đảng cầm quyền, nhưng không có vai trò đại diện quốc gia. Vai trò đại diện đó phải là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Xem ra hiện nay đối với Bắc Kinh, ông Trọng là công cụ đáng tin cậy hơn cả. Nhưng dù tin cậy như thế, Bắc Kinh vẫn cẩn thận gởi tướng Nguyễn Chí Vịnh đi kèm theo. Tướng Vịnh là người từ lâu được xem là sứ thần của Bắc Kinh. Ông luôn xuất hiện vào những lúc dầu sôi lửa bỏng để lên tiếng bào chữa cho Trung Quốc, hoặc tuyên bố quan điểm của Việt Nam quyết không đối đầu với Trung Quốc, hoặc thề hứa "giải quyết triệt để" những hành động phản đối của dân chúng Việt Nam. Nhìn các văn kiện hợp tác đầu tư mà ông Trọng ký kết với Nam Hàn, người ta không chỉ thấy trật khớp mà còn phải đặt câu hỏi liệu chữ ký của ông Trọng có giá trị gì không vì ông hoàn toàn không có thẩm quyền để ký. Tuy nhiên, có người cho rằng các văn kiện đó chỉ thuộc loại hứa hẹn nếu làm được thì quí, không thì thôi. Do đó, chúng chỉ cung cấp lý cớ cho chuyến đi mà thôi.   Các văn kiện mà tướng Nguyễn Chí Vịnh ký cũng thuộc loại vớ vẩn, chẳng hạn như bản giác thư, tức biên bản ghi nhớ, giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Cơ quan Quản lý Chương trình mua sắm Quốc phòng Hàn Quốc về đảm bảo chất lượng nhà nước đối với sản phẩm và dịch vụ quốc phòng. Rõ ràng sứ mạng của ông Trọng (và ông Vĩnh) trong cả chuyến đi chẳng dính dáng gì đến Việt Nam cả. Công việc chính của ông Trọng, sau bao năm ca ngợi chế độ Bắc Hàn và tình hữu nghị anh em XHCN Hàn-Việt, là nói cho được câu phát biểu nẩy lửa: Bắc Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân là điều không thể dung thứ. Ngay cả Nam Hàn cũng không nói mạnh được tới mức độ của TBT Trọng. Trong bản thông báo chung họ chỉ viết: "Hàn Quốc thể hiện lo ngại sâu sắc về sự đe dọa tiến hành vụ thử hạt nhân mới và các vụ phóng tên lửa đạn đạo gần đây của CHDCND Triều Tiên...".   Nhưng nếu nói cho công bằng, chuyến đi này không chỉ là ý muốn của Bắc Kinh mà còn phù hợp với nhu cầu của ông Trọng hiện nay. Cuộc chạy đua ráo riết vào chiếc ghế Tổng Bí Thư Đại Hội XII đã bắt đầu. Tuy vào đầu năm 2011, khi lên nắm chức Tổng bí thư, công luận nói chung đều nghĩ rằng ông Trọng chỉ nắm giữ ghế này tối đa 1 nhiệm kỳ vì phải đến tuổi nghỉ hưu. Có người còn cho rằng chỉ đến giữa nhiệm kỳ là hết. Nhưng, nhiều chỉ dấu cho thấy ông Trọng rất muốn giữ vai trò TBT thêm 5 năm nữa và cũng đã khởi động nỗ lực vận động của riêng ông trong thời gian qua, đặc biệt là những hứa hẹn không điều tra tham nhũng trong hàng ngũ cán bộ đảng viên (không đập chuột để giữ bình quí). Trong quá khứ, đã từng có tiền lệ trong một số Đại Hội đảng CSVN: miễn luật giới hạn tuổi tác cho các "vị trí đặc biệt". Bắc Kinh, nhiều phần, cũng muốn như vậy. Theo Diễn Đàn CTM
......

Thân và thù tướng Giáp lại đang nổi lên

Thấm thoát đã hơn một năm trôi qua. Tháng 10 vừa rồi đánh dấu 1 năm tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Rất nhiều người, đặc biệt là dân Hà Nội và các cựu bộ đội, còn sôi sục bực tức về thái độ và cách hành xử của giới lãnh đạo đảng đối với tang lễ của ông. Một thái độ mà họ cho là giả nhân giả nghĩa. Lãnh đạo đảng chính thức gọi là "quốc tang" và lãnh đạo Hà Nội cũng xì xụp vái lạy nhưng đoàn xe tang chưa ra khỏi ranh giới Hà Nội, chưa tới cả sân bay Nội Bài, thì cờ tang và mọi thứ liên hệ đến tang lễ đều được lệnh phải gỡ xuống lập tức. Lý do đưa ra là để đón tiếp thủ tướng Trung Quốc. Cho đến nay, những vị bất bình vẫn không thể giải thích được tại sao một nước đang có "quốc tang" mà nhà cầm quyền không thể đề nghị hay thỉnh cầu hay ngay cả "lạy lục" khách nước ngoài hoãn giờ đến lại chỉ 24 tiếng để tang lễ được cử hành cho ra hồn. Và ngược lại, nếu biết trước ngày giờ đón khách thì tại sao lãnh đạo đảng không cho tang lễ tướng Giáp diễn ra sớm hơn 24 giờ. Nhiều người được thuyết phục đây là sự cố ý để giới hạn uy tín và ảnh hưởng của tướng Giáp, y như lúc ông còn sống. Có lẽ vì sự ấm ức đó mà trong ngày giỗ đầu vào tháng 10 năm nay, từ sáng sớm đã có nhiều người đến viếng trước nhà dù gia đình tướng Giáp không có kế hoạch tổ chức giỗ đầu cho ông tại nhà. Nhiều người mang hoa đến đành phải để lên một bàn đặt ở phía ngoài. Khi số người đến quá đông, gia đình tướng Giáp quyết định mời mọi người vào viếng bên trong nhà. Nhưng một sự kiện trái ngược khác cũng diễn ra gần như cùng lúc ở Hà Nội. Vào tháng 9.2014, báo chí quảng cáo rầm rộ bộ phim “Sống cùng lịch sử” do nhà nước Việt Nam đổ vào đến 21 tỷ đồng để thực hiện. Vẫn theo làng báo chí công cụ thì cuốn phim được Ban Tuyên Giáo bảo là để ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ và tướng Giáp. Tuy nhiên, tại cả hai nơi trình chiếu tại Hà Nội, rạp Kim Đồng và Trung tâm Chiếu phim Quốc gia, gần như không một ai đến xem trong suốt mấy tuần liền và cuốn phim đã được nhanh chóng lôi xuống. Có phải vì dân chúng ghét tướng Giáp nên tẩy chay cuốn phim không? Câu trả lời hoàn toàn ngược lại. Một số cựu chiến binh tại Hà Nội cho biết: chính vì muốn bảo vệ thanh danh của tướng Giáp mà mọi người không tham gia vào trò làm phim để bóp méo lịch sử này. Các vị này còn dẫn chứng cuốn phim về vua Lý Thái Tổ lại sặc mùi Trung Cộng trong dịp kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long. Và càng nhớ cái văn thư xua đuổi xe tang tướng Giáp để đón khách Tàu mới năm ngoái, họ hoàn toàn không tin vào ý định "ca ngợi tướng Giáp" của lãnh đạo đảng. Đặc biệt với sự xuất hiện của các cuốn sách Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Bên Thắng Cuộc của Huy Đức, và gần đây nhất là cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh, ít ai còn không biết tướng Giáp đã bị mấy thế hệ lãnh đạo đảng đẩy ra khỏi chính trường từ giữa thập niên 1960 và liên tục tìm mọi cách làm nhục để hạ uy tín của ông, mà hèn hạ nhất là buộc ông phải nhận chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch. Thế là mọi người bảo nhau không đi làm khán giả cho cuốn phim có xác suất cao vừa gian vừa dối đó. Và sự nghi ngờ của họ hóa ra khá chính xác. Vì chỉ vài tuần sau khi cuốn phim được âm thầm cất đi, người ta thấy xuất hiện bức thư của bà Bảy Vân, vợ hai của cố Tổng Bí Thư Lê Duẫn. Nói cách khác, bức thư được phóng ra để làm cái công việc mà cuốn phim đã không làm được. Bà Bảy Vân, hơn 80 tuổi với nét chữ ký run rẩy và đang bị đủ loại bệnh kinh niên, nhưng lại có thể ngồi đánh máy một lá thư dài mười mấy trang với những lời lẽ cay độc để tấn công tướng Giáp, từ việc cố chứng minh ông làm gián điệp cho thực dân Pháp; đến việc tố cáo ông chiếm đoạt nhiều công lao của người khác để thỏa mãn lợi ích cá nhân; đến các dẫn chứng ông là kẻ hèn nhát nhu nhược trong chiến đấu và lãnh đạo;…để đi đến kết luận tướng Giáp là người có tội, và thỉnh cầu lãnh đạo không cho ai được phép gọi ông là "anh hùng dân tộc". Ai cũng biết bức thư ngỏ gởi lãnh đạo này là nỗ lực của cả một phe cánh mà bà Bảy Vân chỉ là mặt tiền. Nhưng câu hỏi là lý do gì khiến nhiều người lo lắng tới độ phải đẩy bà vợ ông Lê Duẫn ra làm vũ khí để bắn hạ uy tín một ông tướng đã chết như thế? Câu trả lời khá rõ và gọn: Đại Hội Đảng XII. Như công luận đang thấy. Cuộc chạy đua vào các ghế thượng tầng lãnh đạo đảng CSVN đã bắt đầu, dù Đại Hội Đảng XII đến tháng 1.2016 mới khai mạc. Các vụ giành giật nhau xuất ngoại - khó giải thích lý do ngoại trừ để gia tăng tư thế cá nhân - đã trở nên quyết liệt:   - Một ông Phạm Quang Nghị, chẳng có vai trò gì trong chính phủ, bỗng nhiên đẩy Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ra lề để ông sang Mỹ, bất kể ông Minh đã được Ngoại Trưởng Mỹ mời gặp để bàn chuyện Giàn Khoan 981; - Một ông tướng công an Lê Hồng Anh, không ở hàng tứ trụ, bỗng nhiên đại diện toàn đảng sang yết kiến Tập Cận Bình xin "được khai thác chung tại Biển Đông"; - Một tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, không có vai trò gì về kinh tế, lại dẫn một ông thứ trưởng quốc phòng là Nguyễn Chí Vịnh sang Nam Hàn ký kết hợp tác tài chính. Không lẽ để mai mốt phủi nợ với lý do chữ ký không có hiệu lực vì không đúng chức năng? - Một thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn vợ đi Ấn để bắt tay chung chung, và đi Âu chẳng biết để làm gì; - Nhưng đáng kinh ngạc nhất là Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh dắt theo 12 tướng khác sang chầu Bắc Kinh để khẳng định sự thần phục. - Đó là chưa kể những chỉ dấu như ứng viên sáng giá trong những năm trước, ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban nội chính Trung Ương, chấp nhận bỏ cuộc chạy đua từ sớm và cấp tốc xin đi Mỹ chữa bệnh. Một số nguồn tin cho biết ông mắc bịnh ung thư máu vì bị đầu độc bằng chất phóng xạ. Trong cuộc chạy đua quyết liệt trong những tháng tới, đang có nhiều nỗ lực trong hàng ngũ đảng viên muốn chấm dứt chính sách nhu nhược và lệ thuộc vào Bắc Kinh của giới lãnh đạo hiện nay. Họ muốn đề cao lại hình ảnh của tướng Giáp, đặc biệt những cảnh báo của ông về mối họa cho phép công nhân Trung Cộng trá hình lên ’nóc nhà Đông Dương’ và ý đồ xâm lược tiệm tiến của Bắc Kinh. Các đảng viên này cũng muốn đề cao lại vai trò của quân đội trong việc bảo vệ đất nước chống ngoại xâm và sẽ ủng hộ các ứng viên nghiêng về khuynh hướng "Thoát Trung". Hiển nhiên, nhiều nhân vật lãnh đạo hiện nay đang lo sợ hàng ngũ đảng viên sẽ tận dụng hình ảnh và quan điểm của tướng Giáp để làm bộ mặt thân Bắc Kinh của giàn lãnh đạo thêm xấu xí hơn nữa. Nhưng điều họ lo nhất là chính một vài cá nhân đang đứng trong hàng ngũ lãnh đạo hiện nay sẽ xé rào, chiêu dụ hàng ngũ đảng viên, dùng hình ảnh tướng Giáp để lấy điểm cho riêng mình, và quay lại đánh hàng lãnh đạo thượng tầng. Họ cũng sợ sự ngưỡng mộ tướng Giáp sẽ góp phần kích động lại sự sôi sục trong dân chúng về việc mất dần chủ quyền đất nước; sợ thành phần quân đội đang căm hận vì bị lãnh đạo đảng buộc phải quì gối lạy Bắc Triều, mà đau đớn nhất là phái đoàn 13 ông tướng sang quì lạy Bắc Kinh nêu trên, cho báo chí và lãnh đạo Tàu bêu rếu. Hiển nhiên, Bắc Kinh cũng rất lo âu về hiện tượng Võ Nguyên Giáp và sẽ tìm mọi cách triệt hạ các tiếng nói nương theo hình ảnh tướng Giáp kêu gọi thoát Trung. Nhiều người tin rằng một trong những chỉ dấu rất rõ ý đồ của Bắc Kinh là việc Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cứ nhất định phải đến Việt Nam vào đúng ngày đưa tang tướng Giáp. ooOoo Khác với các lãnh tụ như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, dù đã bị đẩy ra khỏi chính trường cả hơn nửa thế kỷ qua và nay đã quá cố, dấu ấn của tướng Võ Nguyên Giáp trước thềm Đại Hội XII Đảng CSVN vẫn đang càng lúc càng đậm nét ... bất kể sự lo âu và giận dữ của những người lãnh đạo hiện nay.
......

25 tổ chức lên tiếng về bạo hành và tra tấn

Ngày 6/11/2014, 25 tổ chức xã hội  tại Việt Nam lên tiếng về các vụ bạo hành tra tấn gần đây của công an. Điều này khiến người dân ngày càng lo ngại vê nạn công an gia tăng hành xử như côn đồ, hành hung, chửi bới, trấn lột từ thường dân đến các chiến sĩ dân chủ, tra tấn tới chết vô số người bị bắt vào đồn công an. Nhưng rồi chẳng có mấy công an thủ phạm bị nghiêm trị đúng pháp luật. Từ Thừa Thiên – Huế Linh mục Phan Văn Lợi đã đọc bản lên tiếng của 25 tổ chức XHDS, nội dung như sau mời quý vị theo dõi: Bản lên tiếng của 25 tổ chức XHDS     Bản lên tiếng về các vụ bạo hành tra tấn gần đây của công an Việt Nam (Các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam)   Kính gởi - Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, - Quốc hội và Bộ Công an Việt Nam. - Các Chính phủ dân chủ và các Cơ quan Nhân quyền quốc tế             Ngày 7-11-2013, phái đoàn thường trực của VN tại Liên Hiệp quốc ra thông cáo báo chí cho biết VN đã trở thành thành viên mới nhất của Công ước Liên Hiệp Quốc chống Tra tấn và những hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, hạ nhục phẩm giá con người. Mới đây, ngày 23-10-2014, Chủ tịch nước Việt Nam đã trình Quốc hội phê chuẩn Công ước quốc tế ấy. Thế nhưng, kể từ hôm đó tới nay, đột nhiên bùng phát nhiều hành vi đối xử tàn ác, nhiều hành động tra tấn dã man, hạ nhục nhân phẩm giáng xuống những công dân vô tội do chính lực lượng an ninh thực hiện.             1- Ngày 29-10, cựu tù nhân lương tâm Phạm Bá Hải và tín đồ Hòa Hảo Lê Văn Sóc lên Đà Lạt để thăm một cựu tù nhân chính trị Dương Âu. Cuộc viếng thăm đó đã bị an ninh vào tận nhà can thiệp, sau đó lực lượng này (mặc thường phục) bám theo hai ông rồi đột nhiên xông vào hành hung họ cách dã man tại một ngõ vắng dẫn vào nhà trọ. Kết thúc là màn kịch công an đến giải cứu.             Hôm sau, 30-10, hai ông ra Vinh để viếng thăm ủy lạo một số cá nhân và gia đình tù nhân lương tâm khác, trong đó có anh Chu Mạnh Sơn, Đậu Văn Dương, gia đình Đặng Xuân Diệu... Tuy nhiên, ngay khi vừa xuống sân bay, họ đã bị an ninh vây bắt với lý do (vu cáo) là đã hành hung và cướp giật tài sản một người dân tại Đà Lạt. Ông sĩ quan chỉ huy lực nượng an ninh, đã nhục hình tra tấn anh Phạm Bá Hải qua việc móc mũi giật ngược đầu, dí thuốc cháy đỏ vào cánh tay và lăng nhục anh như tội đồ thực thụ.             Trong khi đó, anh Chu Mạnh Sơn chưa kịp đón hai người bạn thì đã bị bắt đưa về đồn công an xã Nghi Ân và trụ sở huyện Yên Thành. Tại hai nơi đó, anh đã bị các tay an ninh nhục mạ (gọi là đồ chó), đánh đập (với lời hăm dọa đánh cho chết, đánh cho ngu đần). Cuối cùng là bắt anh nộp phạt 2.500.000 đồng (nếu không thì chẳng trả lại xe máy và đồ đạc) vì “tội” vi phạm lệnh quản chế tại địa phương.             2- Ngày 01 và 02-11-2014, hàng trăm côn đồ được công an thuê mướn và chỉ đạo tại chỗ đã ngăn chặn các lối vào nhà nguyện của Hội thánh Tin lành Mennonite tại Mỹ Phước, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, mục đích là cản trở các tín đồ sinh viên sắc tộc H’Mong và công nhân thuộc khu công nghiệp Mỹ Phước đến thờ phượng thứ bảy và chúa nhật. Cùng lúc, lực lượng phối hợp ấy đã ném gạch đá vào nhà nguyện, xông vào bên trong đánh đập tín đồ, khiến nhiều người trọng thương (nhưng không dám đi bệnh viện cấp cứu) và còn lùng bắt những ai vì hoảng sợ mà bỏ trốn vào các khu rừng lân cận. Các nạn nhân và người dân sở tại đã gọi điện cho công an khu vực và chính quyền địa phương các cấp nhưng họ chẳng hề đến hiện trường để giải quyết và cứu nguy.             Từ lâu, nhà cầm quyền Bình Dương đã muốn xóa sổ cộng đoàn Tin lành (vốn nằm ngoài hệ thống quốc doanh) này và đã nhiều phen sách nhiễu chính vị đứng đầu là Mục sư Nguyễn Hồng Quang, hành hung lẫn cướp bóc nhiều chức sắc chức việc của họ và tàn phá trụ sở của họ (như vụ 76 mục sư nhân sự Tin lành Mennonite bị  sỉ nhục, vu cáo, đánh đập ngày 9/6-12/6/2014 bởi cảnh sát cơ động và cảnh sát 113 tỉnh Bình Dương). Biến cố hôm 01 và 02 là cao điểm (nhưng chưa phải là tận điểm) cho chiến dịch triệt hạ tôn giáo ấy.             3- Tối ngày 2-11-2014, cựu tù nhân lương tâm kiêm nhà báo tự do Trương Minh Đức đã bị một nhóm công an mặc thường phục chặn đường, đuổi bắt rồi đánh đập hết sức tàn nhẫn tại khu vực ngã 3 Suối Giữa (quốc lộ 13, Bình Dương). Ít nhất 8 tay đã tham gia vào cuộc truy sát này trong đó có một trung tá từng bắt giữ trái phép và đánh đập ông Đức trước đó tại nhà riêng ở Bến Cát, Bình Dương. Một số dùng mũ bảo hiểm liên tục đập mạnh vào mặt và đầu nhà báo. Những tên khác tiếp tục đấm đá vào mạn vào sườn. Sau khi đánh cho nạn nhân bất tỉnh, đám công an côn đồ còn cướp sạch những gì ông mang theo, gồm 1 máy tính xách tay, 1 máy tính bảng, 04 thẻ ATM và 600 USD.             Được biết đây là lần thứ ba trong vòng hai tháng, nhà báo Trương Minh Đức bị hành hung bởi những công an côn đồ mà trong cả ba lần đều có sĩ quan hiện diện. Lần nhất vào chiều ngày 08-09-2014 tại khu vực số 63 Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội. Lần hai vào nửa đêm ngày 11-9-2014, tại trụ sở công an thị trấn Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương.             Từ 3 sự việc tiêu biểu trên đây, các Tổ chức Xã hội dân sự ký tên dưới đây đồng nhận định:             1- Khi phát biểu trước Quốc hội hôm 23-10, ông Trương Tấn Sang nói việc áp dụng Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc phải phù hợp với pháp luật và hiến pháp của Việt Nam (BBC 24-10-2014). Vậy phải chăng những sự kiện trên đây chính là các phương cách phù hợp hóa mà ông đề cập? Ngoài ra, ông Trần Văn Hằng, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội, nói việc phê chuẩn Công ước chống Tra tấn là "cơ sở pháp lý quan trọng" để "đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về việc tra tấn, ngược đãi phạm nhân..." của "các thế lực thù địch chống phá Nhà nước Việt Nam". Vậy những hành vi nghênh ngang tàn nhẫn vừa thấy phải chăng là dàn dựng của các thế lực địch thù?             2- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa mới sang Italia (18-10) gặp Giáo hoàng Phanxicô để cho biết Nhà nước VN hoàn toàn tôn trọng tự do tôn giáo. Ông cũng vừa đến Ấn Độ (27-10) và tới thăm nơi Đức Phật thành đạo để tỏ ra mình cũng là một kẻ có tín ngưỡng. Vậy những gì ông vừa cho thuộc hạ làm tại giáo xứ Thái Hà (cướp hồ Ba Giang của họ cuối tháng 10 vừa qua), tại nhà và tại nhà nguyện cộng đoàn Tin lành Mennonite Bến Cát như vừa nói phải chăng là cách ông tôn trọng và cổ vũ quyền tự do tôn giáo của dân ông?             3- Toàn dân Việt Nam ngày càng khốn đốn vì đồng tiền mất giá, nợ công oằn lưng (20 triệu/đầu người), môi trường ô nhiễm, y tế tồi tệ, học phí cắt cổ, cán bộ tham nhũng vòi tiền… Nay lại còn phải nơm nớp vì nạn công an ngày càng hành xử như côn đồ và cướp giật: hành hung, trấn lột từ thường dân đến các chiến sĩ dân chủ, tra tấn tới chết vô số người bị bắt vào đồn nhiều khi chỉ vì những chuyện không đâu. Và rồi chẳng có mấy công an thủ phạm bị nghiêm trị đúng pháp luật.             4- Đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam phải hoàn toàn chịu trách nhiệm khi tạo nên những công cụ mù quáng và tàn bạo, chỉ biết “còn đảng còn mình”, những kẻ hoàn toàn mất hẳn lương tâm, bất chấp luật pháp, chỉ biết làm theo lệnh, để mong chúng giúp giữ vững chế độ. Chủ trương thâm độc này chỉ làm dày hồ sơ tội ác và làm dài bản cáo trạng mà một ngày nào đó, nhân dân sẽ đưa ra vừa cho những kẻ chỉ thị vừa cho những kẻ thừa hành mà mặt mũi và tên tuổi đều đang được ghi nhớ.             Làm tại Việt Nam ngày 6 tháng 11 năm 2014             Các tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên: 1)      Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải2)      Bauxite Việt Nam: GS Nguyễn Huệ Chi, GS Phạm Xuân Yêm3)      Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn Đan Quế4)      Con Đường Việt Nam: Ông Trần Văn Huỳnh5)      Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A6)      Giáo Hội Cao Đài: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Bạch Phụng7)      Giáo Hội Liên Hữu Lutheran VN-HK: MS Nguyễn Hoàng Hoa.8)      Giáo hội Tin Lành Mennonite: MS Nguyễn Hồng Quang, MS Phạm Ngọc Thạch9)      Hiệp hội Đoàn kết Công nông: Ông Nguyễn Mai10)  Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo: Ông Nguyễn Bắc Truyển11)  Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài12)  Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo: Cô Hà Thị Vân13)  Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng14)  Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi15)  Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts. Phạm Chí Dũng16)  Hội Phụ nữ Nhân quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, Bà Trần Thị Hài, Cô Trần Thúy Nga17)  Hội Thánh Tin Lành Chuồng Bò: MS Nguyễn Mạnh Hùng, MS Lê Quang Du18)  Khối Tự do Dân chủ 8406: Kỹ sư Đỗ Nam Hải.19)  Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh20)  Mạng Lưới Blogger: Cô Nguyễn Hoàng Vi21)  Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Linh mục Nguyễn Hữu Giải22)  Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm, Phan Tấn Hòa, Tống Văn Chính, Lê Văn Sóc.23)  Phong trào Dân oan Liên kết đấu tranh: Bà Trần Ngọc Anh.24)  Tăng Đoàn GH Phật Giáo VNTN: HT. Thích Không Tánh, TT. Thích Viên Hỷ.25)  Văn phòng Công lý Hòa bình DCCT: Lm Đinh Hữu Thoại. ===============Vietnam civil society organizations condemn the recent violence and torture of public security service To: - The entire Vietnam compatriots at home and abroad, - National Assembly and the Vietnam Ministry of Public Security. - Democratic governments and the International Human Rights Agencies       On Nov 7, 2013, Vietnam permanent mission at the United Nations announced Vietnam was the latest member of the United Nations Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment. Recently, Vietnam President has submitted this convention to Vietnam National Assembly for ratification on Oct 23, 2014. To date, there has been a sudden outbreak of many acts of cruelty, brutal torture, humiliation inflicted upon innocent civilians by the public security forces.              1. On 29 October, former prisoners of conscience Pham Ba Hai and Hoa Hao Buddhist Le Van Soc went to Dalat to visit a former prisoner of conscience Duong Au. There was a security officer sitting next them to interfere. Then this force (plainclothes) followed Mr. Hai and Mr. Soc to near their hotel and suddenly assaulting them brutally in a deserted street. The end of the play is an appearance of a plain clothed policeman coming to rescue.             On the next day 30 October, Mr Hai and Soc took flight to the northern Vinh city (Nghe An province) to visit other former PoC and PoC’s families such as Chu Manh Son, Dau Van Duong, Dang Xuan Dieu. As soon as they got off the plane at the airport, they were rounded up and arrested for a brazenly trumped-up excuse that the duo had assaulted and robbed belongings of a resident in Dalat. During harassment, a high-ranked security officer tortured and used corporal punishment by hooking his nose and jerked upwards; stubbing a burning cigarette on his arm and insulted him as a real criminal.              Meanwhile, former PoC Chu Manh Son he had not picked two friends up yet was arrested and taken to the Nghi An police station and headquarter of Yen Thanh district. At the two places, he was called as “dog” and beaten and threatened beating to death. Finally, they fined him 2,500,000 VND (120 USD) otherwise not returned his motorbike and gadgets) with reason as violating administrative probation.              2. On Nov 1 and 2, 2014, hundreds of police-hired thugs blocked the entrances to the chapel of the Christian Mennonite church at My Phuoc village, Ben Cat District, Binh Duong province aimed at preventing H’Mong believers, students and workers from worshiping on Saturday and Sunday. At the same time, the combined force threw stones, bricks into the chapel and then rushed into the chapel to beat believers. Many injuries had to remain inside the chapel  because they were afraid of going out. Some other believers were hunt when fled into the nearby forest. The victims and residents have phoned the local police and local authorities, but they did not arrive at the scene to solve and rescue.              Binh Duong authorities long want to wipe these unregistered Mennonite Protestants and harassing the head, Pastor Nguyen Hong Quang, assaulting and robbing many dignitaries, breaking down their headquarter such as the incident of 9th and 12th June, 2014 with 76 pastors and followers beaten, slandered. The incident on Nov 1st and 2nd is the climax, but not the end point for the campaign to erase this religion.              3. On the evening of Nov 2, 2014, former prisoner of conscience, freelance journalist Truong Minh Duc on a motorbike was stopped by a group of plainclothed police. He was chased and beaten very brutally at the T-junction Suoi Giua of highway 13, Binh Duong province. Among at least 8 agents involved in the raid there is a lieutenant colonel who illegally detained and beat Mr Duc before at his home in Ben Cat district, Binh Duong province. Some used helmets repeatedly to hit at his head while others kicked on his flank to be unconscious. They took away his all belongings, including ID card, a laptop, a tablet, four ATM cards and 600 US dollars.              With two months, Mr. Duc reportedly was assaulted three times by police-sponsored thugs. The first is at 63 Kham Thien street, Dong Da district, Hanoi on Sep 8, 2014. The second is at midnight of Sep 11, 2014 at the police headquarters of My Phuoc town, Ben Cat district, Binh Duong province.              From the three incidents above, the civil society organizations declare: 1. When taking the floor before Assembly on 23 October, President Truong Tan Sang said adopting United Nations Convention against Torture must conform to the laws and constitution of Vietnam. So the above incidents are the appropriate modes mentioned? In addition, Mr. Tran Van Hang, chairman of the Foreign Affairs Committee of the National Assembly, said the ratification of the UN Convention against Torture is "an important legal basis" to "fight against the false, slandered allegations about torture, mistreatment of prisoners, etc. by "hostile forces against the State of Vietnam". So the acts of ruthless swagger took place were staged by the hostile forces? 2. Prime Minister Nguyen Tan Dung, gone to Italia recently to meet Pope Francis on 18 October, said Vietnam fully respects religious freedom. He had just come to India (27 October) and visited the place that Buddha attained enlightenment to show his having religion. So far what he has ordered for the administration to do in Thai Ha parish as confiscating land of Ba Giang lake in the end of October, and attacking into the chapel of the Mennonite believers are the way he is exercising the respect and promotion for religious freedom? 3. All Vietnamese people are increasingly reeling from currency devaluation, public debt buckling backs (20 million VND per capita), environmental pollution, poor health, exorbitant school fee and corruption, etc. Now people are in the state of suspense because police increasingly behaves like thugs and robbers: assaulting, plundering from civilians to pro-democracy activists, torturing to death countless detainees with undeserving crimes. And then there may have only a few perpetrators severely punished according to law. 4. State and the Communist Party of Vietnam must take full responsibility for creating the blind and brutal tools, just knowing "the party lives on, so I live on”; persons completely lost conscience, despite laws, only knowing how to follow orders to help maintain the regime. The sinister policy only thickens a criminal records and prolongs indictment that one day people will show them to both those who had instructed and who enforce. Their faces and names are being recorded.     Vietnam, November 6, 2014.    The civil society organizations co-signed: 1)      Bach Dang Giang Foundation: Pham Ba Hai (MBE). 2)      Bauxite Việt Nam: Prof. Nguyễn Huệ Chi, Prof. Phạm Xuân Yêm 3)      Non-violent movement: Dr. Nguyễn Đan Quế 4)      Vietnam Path: Mr. Trần Văn Huỳnh 5)      Civil Society Forum: Nguyễn Quang A (Ph.D.) 6)      Cao Dai Church: Mr. Hứa Phi, Mr. Nguyễn Kim Lân, Mrs. Bạch Phụng 7)      Evangelical Lutheran Community Church Vietnam-America: Pastor Nguyễn Hoàng Hoa. 8)      Christian Mennonite Church: Pastor Nguyễn Hồng Quang, Pastor Phạm Ngọc Thạch 9)      Worker Farmer Solidarity Association: Mr. Nguyen Mai 10)  Friendship Association of Political and Religious Prisoners: Nguyễn Bắc Truyển (LLB) 11)  Brotherhood for Democracy: Lawyer Nguyen Van Dai. 12)  Association to Protect Freedom of Religion:Ms. Hà Thị Vân 13)  Gourd and Squash Mutual Association: Mr. Nguyen Le Hung 14)  Former Vietnamese Prisoners of Conscience: Dr. Nguyen Dan Que, Catholic Priest Phan Van Loi. 15)  Independent Journalists Association of Vietnam: Pham Chi Dung (Ph.D.) 16)  Vietnamese Women for Human Rights: Ms.Huynh Thuc Vy, Mrs. Tran Thi Hai, Ms. Tran Thuy Nga 17)  Evangelical Protestant Church: Pastor Nguyễn Mạnh Hùng, Pastor Lê Quang Du 18)  Democracy Bloc 8406: Engineer  Đỗ Nam Hải. 19)  Viet Labors: Ms Đỗ Thị Minh Hạnh 20)  Network of Vietnamese Bloggers: Ms. Nguyen Hoang Vi 21)  Nguyen Kim Dien Group: Catholic Priest Nguyen Huu Giai 22)  Hoa Hao Buddhists Church, Purity: Mr. Lê Quang Liêm, Mr. Phan Tấn Hòa, Mr. Tống Văn Chính, Mr. Lê Văn Sóc. 23)  Oppressed Petitioners Solidarity Movement: Ms. Tran Ngoc Anh 24)  Delegation of Vietnamese United Buddhists Church: Ven. Thich Khong Tanh. Ven. Thich Vien Hy. 25)  Justice and Peace Office of Vietnam Redemptorists: Father Dinh Huu Thoai. *Translation by Trang Thien Long
......

An ninh Tp. HCM tấn công TLS Pháp tại Sài Gòn

  Vào sáng ngày 5/11/2014, công an, an ninh thành phố Sài Gòn đã có một hành động khiêu khích trước nhà trọ của ông Nguyễn Bắc Truyển, cũng là nhà của thân mẫu của giáo sư Phạm Minh Hoàng, ở số 383/6 Bà Hạt, quận 10, Sài Gòn. Sự kiện này đã được sự can thiệp của ông Ông Tổng Lãnh Sự (TLS) Pháp, tuy nhiên công an, an ninh Sài Gòn đã có những hành vi hết sức côn đồ với Ông. hình Ông Emmanuel Ly Batallan, TLS Pháp đang trong nhà thân mẫu chụp hình chung với GS. Hoàng và TNCT Truyển Để hiểu rõ sự việc mời quý thính giả theo dõi phần tường thuật của Giáo sư Phạm Minh Hoàng: Tường thuật của GS. Phạm Minh Hoàng   ***** VRNs – Sài Gòn Ông Emmanuel Ly Batallan, Tổng Lãnh Sự (TLS) Pháp tại Sài gòn đến nhà thân mẫu của giáo sư Phạm Minh Hoàng, ở 383/6 Bà Hạt, quận 10 và đã bị một thanh niên lực lưỡng kẹp cổ kèm với lời nói thách thức: “Tổng thống nào cũng không sợ”. Sự việc được ông Nguyễn Bắc Truyển, cựu tù nhân chính trị, mô tả từ đầu ngày hôm nay (05.11), ba công an đến nơi nhà ông ở trọ, cũng là nhà của thân mẫu giáo sư Phạm Minh Hoàng, cựu tù nhân chính trị, đảng viên Việt Tân, bày bàn ra uống rượu trước cửa nhà. Bà Oanh (phu nhân giáo sư Hoàng) và ông Tuyển yêu cầu họ dọn đi nơi khác nhậu nhẹt thì họ dùng dao đang gọt mận để đe dọa. Người cởi trần đã đe dọa. An ninh bầy bàn ngồi nhậu ngay trước cửa nhà thân mẫu GS. Phạm Minh Hoàng Viên an ninh dùng con dao đang gọt trái cây đe dọa những người trong nhà An ninh ngồi phơi bụng trước nhà dân để đe dọa Gia đình GS. Hoàng phải đóng cửa để tự bảo vệ Sau đó, giáo sư Phạm Minh Hoàng phải đưa Mẹ của đi khám bệnh, vì bà cụ tăng huyết áp khi chứng kiến cảnh an ninh côn đồ đe dọa bằng hung khí những người trong nhà bà cụ. Sự việc an ninh canh cổng không cho ông Truyển ra khỏi nhà như một mệnh lệnh của hệ thống an ninh, vì cùng lúc, tại phường 6 và phường 8, quận 3, anh Nguyễn Trí Dũng, con trái blogger Điếu Cày và bà Dương Thị Tân, vợ blogger này cũng bị an ninh canh theo cách đặt bàn ngồi ngay trước cửa nhà. Nhiều người không biết chính xác nguyên nhân tại sao. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế cũng cho biết, an ninh canh ngay trước cửa nhà của ông. Sau một thời gian không hiểu nguyên nhân, bác sĩ Quế cho biết: “Một người của TLS Pháp (không biết có phải là chính ông TLS Pháp hay nhân viên ngoại giao cấp nào của TLS Pháp) đã đến khi nhận được tin thông báo của giáo sư Hoàng”. Ông Nguyễn Bắc Truyển, người cùng giáo sư Phạm Minh Hoàng tiếp chuyện ông TLS Pháp cho thông tin cụ thể như sau: “Ông TLS Pháp tại Sài gòn đến nhà thân mẫu của anh Phạm Minh Hoàng, 383/6 Bà Hạt, để chứng kiến cảnh công an ngồi ngay trước nhà nhậu và còn dùng dao đe dọa. Chủ ý là chúng không muốn tôi ra khỏi nhà ngày hôm hay. Khi ông TLS đến, ông đã chụp hình những tên ngồi ngay trước nhà và bước qua đường chụp những tên ngồi ở nhà đối diện. Chúng bỏ chay, ông ta bước vào nhà và chúng khóa cửa lại. Lúc đó, bên trong có một nhân viên thông dịch của TLS Pháp, anh Hoàng và ông TLS Pháp. Chúng giữ mọi người khoảng 10 phút. Có một tên kẹp cổ ông Tổng Lãnh sự và nói “Tổng thống nào cũng không sợ”. Tên này là một trong những tên thường xuyên theo dõi vợ chồng tôi và là một trong ba tên có mặt lúc chúng dùng tông tôi. Ông TLS có chụp được nhiều hình ảnh và cả hình tên kẹp cổ ông ta. Khi xảy ra sự việc, chị Oanh (vợ anh Hoàng) có gọi điện cho công an phường, nhưng họ không xuống, đến khi sự việc lớn ra thì mới thấy cảnh sát khu vực (CSKV) có mặt, nhưng cũng không giải quyết được chuyện gì, CSKV hỏi qua loa chiếu lệ rồi đi. Sau đó, viên chức Sở ngoại vụ TP HCM đến gặp ông TLS Pháp tại nhà thân mẫu anh Hoàng. Phía Sở ngoại vụ, họ đề nghị ông TLS Pháp làm một công hàm phản đối chính thức. Ông Emmanuel Ly Batallan, TLS Pháp đang trong nhà thân mẫu chụp hình chung với GS. Hoàng và TNCT Truyển   Ông Emmanuel Ly Batallan, TLS Pháp sau đó có ngồi nghe tôi và anh Hoàng trình bày những sự đe dọa thường xuyên từ phía nhà cầm quyền, ông rất thông cảm và dặn dò mọi người bình tĩnh, khi có chuyện gì nên thông báo cho ông biết. Khi ông ra về, tôi và anh Hoàng tiễn ông ta ra đầu ngõ. Viên chức Sở ngoại vụ có bước qua nhà chứa đám mật vụ để hỏi chuyện. Có lẽ hai bên bất đồng gì đó nên viên chức này cũng vội vàng dắt xe về luôn”. nguồn: chuacuuthe.com   Phóng viên Dân Luận phỏng vấn nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Bắc Truyển: Côn đồ hành hung ông Tổng lãnh sự Pháp tại Tp. HCM Sáng ngày 5/11/2014, nhà báo độc lập Huỳnh Công Thuận thông báo việc vợ chồng anh Nguyễn Bắc Truyển, cùng chị Oanh (vợ thầy giáo Phạm Minh Hoàng) bị những người mặc thường phục bao vây và đe dọa. Chúng tôi đã liên lạc được với anh để nghe anh tường trình về sự việc này. Dân Luận: Chào anh Nguyễn Bắc Truyển, chúng tôi nhận được tin anh và gia đình bị những người mặc thường phục đe dọa, anh có thể cho độc giả được biết sự việc xảy ra sáng nay như thế nào?   Nguyễn Bắc Truyển: Công an thường xuyên canh gác phòng trọ của tôi. Đây là nhà của mẹ anh Phạm Minh Hoàng đã cho tôi ở 4 tháng nay. Hàng ngày công an mật vụ đều ngồi ở căn nhà phía đối diện để theo dõi vợ chồng tôi. Chuyện này cũng khá bình thường vì ở Việt Nam những nhà vận động nhân quyền, dân chủ đều bị theo dõi như vậy. Có đều là họ theo là công việc của họ, còn công việc của mình vãn cứ làm bình thường thôi.   Nhưng sáng nay họ ngang ngược đến mức độ bày ra một bàn nhậu ở cửa ra vào phòng trọ của tôi. Tôi đi ra và nói với họ: "Đề nghị các anh ra nơi khác nhậu vì nơi đây là chỗ bước ra bước vô của gia đình." Phòng trọ tôi ở ngay chợ, phía trước có người bán quần áo, bán thịt nhưng họ vẫn cứ ngồi như vậy. Họ trả lời là: "Chúng tôi ngồi trên vỉa hè!" Vì đây là nhà của anh Hoàng, chị Oanh nên tôi không thể nói nhiều hơn mà mời chị Oanh đến để mời họ dọn đi. Ngay lập tức một người da trắng, bụng phệ đuổi chị Oanh đi với một thái độ hết sức xấc xược, vẫn với một luận điệu là họ đang ngồi trên lề đường. Sau đó, người này kêu một người dân phòng đem con dao gọt trái cây qua và huơ trước mặt chị Oanh đe dọa. Thực sự những hành động như thế này không làm cho chị Oanh sợ, hoặc những người trong nhà sợ hãi. Thế là người này ngồi lì ra trước cửa và không đi đâu cả. Tôi gọi điện thoại báo cảnh sát khu vực đề nghị họ xuống làm việc nhưng họ bảo bận họp nên không xuống được. Thầy giáo Phạm Minh Hoàng báo tin cho ông Tổng lãnh sự Pháp tại Sài Gòn và tôi gọi điện cho Tổng lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn. Khoảng 30 phút sau, ông Tổng lãnh sự Pháp tại TpHCM Emmanuel Ly Batallan xuống đến nơi. Ông lấy máy chụp hình những người đang ngồi trước phòng trọ của tôi, thì những người này bỏ chạy toán loạn. Thầy Hoàng sau đó dẫn ông Emmanuel Ly Batallan sang phía nhà đối diện, nơi thường canh gác tụi tôi để quan sát thì những người trong này cũng tránh đi nơi khác. Nhà mở cửa nên ông Tổng lãnh sự bước vào, thì những người mặc thường phục khóa trái cửa bên ngoài, và một vài người siết cổ ông Tổng lãnh sự Pháp. Thầy Phạm Minh Hoàng thấy thế liền la lên: "Đó là ông Tổng lãnh sự Pháp!" thì một người trong số đó (người này thường xuyên theo dõi tôi) bảo: "Tổng thống tao còn làm luôn huống hồ Tổng lãnh sự." Những người này nhốt ông TLS trong vòng 10 phút rồi mở cửa cho ông qua phòng trọ của tôi. Ông TLS đã mời đại diện Sở ngoại vụ xuống để làm việc ngay tại đây. Một tiếng sau thì cảnh sát khu vực (CSKV) xuống hỏi qua loa rồi ra về. Qua việc này chúng ta có thể thấy những việc làm phía công an Việt Nam là "lưu manh". Một là công an thường phục giả dạng côn đồ, hai là sử dụng côn đồ để đánh đập những người đấu tranh. Bản thân tôi từ đầu năm đến nay bị hành hung 3 lần, ký giả Trương Minh Đức bị hành hung lần thứ tư trong năm. Dân Luận: Anh có biết lý do tại sao sáng hôm nay họ lại có những hành động như thế đối với anh và gia đình thầy Phạm Minh Hoàng? Nguyễn Bắc Truyển: Tôi không đoán được tại sao sáng nay họ lại có những hành động khiêu khích như vậy vì chúng tôi luôn giữ thái độ ôn hòa. Không biết là hôm nay có sự kiện gì xảy ra không mà nhà bác sĩ Nguyễn Đan Quế, chị Dương Thị Tân, thầy Thích Thiện Minh đều bị canh gác và khiêu khích trăng trợn. Đây là giai đoạn tôi cảm thấy công an Việt Nam đang có những hành động điên cuồng đối với những nhà đấu tranh. Biết đâu được đây cũng là những hành động nhắm vào các nhà đấu tranh để đẩy Việt Nam ra khỏi hiệp định TPP, trùng với mưu đồ của nhóm lợi ích thân Trung cộng. Các giả thiết nêu ra cũng nhờ các nhà đấu tranh khác nhận định giúp. Dân Luận: Những hành động vừa qua của những người côn đồ đối với ký giả Trương Minh Đức và anh có làm cho anh chùn chân hay không? Nguyễn Bắc Truyển: Tất cả việc họ làm gần đây thì họ cũng đã làm xuyên suốt 39 năm nay rồi. Đánh đập là chuyện bình thường lắm, trước đây là tử hình, tù chung thân như ông Nguyễn Hữu Cầu bị ba mươi mấy năm tù. Những hành động đó cũng có tác dụng làm cho một số người sợ sệt, nhưng khi những người đấu tranh đã vượt qua cái ngưỡng sợ sệt thì xem cái chết là chuyện bình thường. Chúng ta ngồi ở đây và ngày mai chúng ta ở tù, hay chúng ta không còn sống vì sự tra tấn hành hạ của nhà cầm quyền thì chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta đang đi đến những bước cuối cùng để đòi nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam, tôi nghĩ là sẽ không có ai chùn chân đâu.   Dân Luận: Cảm ơn anh đã trả lời phỏng vấn của chúng tôi ngày hôm nay. nguồn: danluan.org
......

Thảm cảnh của cả một đất nước, của cả một dân tộc…

Khi đang hát, sợ nhất là bị khán giả níu vai & chồm lên nói nhỏ vào tai. Chuyện này có nhiều cơ hội xảy ra khi người ca sĩ cầm microphone rời sân khấu để đi xuống bên dưới. Và tại sao “sợ” ư? Có thể bạn thắc mắc, chẳng hiểu. - Thứ nhất: Đang mải lo trình bày một nhạc phẩm, âm thanh đang ầm ầm thì người ca sĩ làm sao có thể nghe kịp & hiểu người kia đang muốn nói gì với mình? - Thứ hai: Nếu lắng nghe coi nói gì thì bài hát sẽ có khả năng bị khựng lại & có nhiều khả năng bị phân tâm mà quên luôn cả câu hát kế tiếp. Không tin bạn thử vừa hát vừa lắng nghe ai nói chuyện gì đó thử xem, nếu bạn làm được cả 2 chuyện cùng lúc thì có thể bạn là siêu nhân (superman) mà không biết đấy… Tuần rồi trong một buổi gây quĩ, ban tổ chức nhờ cầm rổ đi xuống dưới khán giả, vừa hát vừa nhận phong bì tiền ủng hộ từ những vị hảo tâm, một bác lớn tuổi đã níu vai thì thầm gì đó thì vào tai. Dĩ nhiên là đã … chẳng hiểu bác nói gì, phải nói lẹ: “Thưa, cháu chẳng nghe được gì cả! Ghế bác chỗ nào, khi hát xong cháu xin trở ra tận nơi ạ?” Và đúng như đã hứa, hát xong phần mình vào trong lau mồ hôi xong trở lại tìm. Được níu lại chụp hình ở một số bàn, nhưng rồi cuối cùng cũng kiếm được. Bác kéo tay bảo: “Trong này ồn quá, ra ngoài bác có tí chuyện xin nhờ đến cháu…” Chút hồi hộp lẫn với tò mò. Mái tóc gần như bạc phơ, nhìn bác có vẻ lớn tuổi lắm nhưng vẫn còn rất minh mẫn. Dáng người nhỏ nhắn, lịch sự, nói chuyện giọng của những người Bắc di cư giống hệt mẹ. Bác như hơi đắn đo chút rồi bắt đầu: - “Bác xin lỗi có hơi chút đường đột, nhưng bác có chuyện này muốn nhờ đến cháu vì bác nghĩ cháu có thê có khả năng giúp được …” - “Dạ… Bác cứ nói, nếu làm được gì cháu sẽ làm.” - “Chuyện như thế này…” Ánh mắt bác trở nên xa xăm, giọng trầm hẳn xuống “Bác có đứa con gái nhỏ đi vượt biên năm 1980 rồi bặt tăm tin tức. Gia đình bác nhiều năm đã nhờ rất nhiều nơi để kiếm em nhưng không có kết quả. Không biết cháu có thể giúp bác, mỗi nơi cháu đi qua để mắt kiếm dùm em?” - “Thưa…” Dường như bác đã lạc vào một thế giới khác, chẳng còn nghe, còn thấy gì chung quanh… - “Em nó tên là Trần-Thị-Thanh-Lan, năm ấy em nó mới có 13 tuổi, vẫn còn láu táu lắm, tóc dài chấm vai. Gia đình bác thời ấy chỉ có khả năng cho mỗi một đứa con đi nên mới gởi gấm em đi theo gia đình người bạn quen. Cả tàu không có một tin tức trở về, chẳng biết chết sống. Nếu em nó còn, năm nay em nó tròn 47…” Tới phiên mình bị đẩy lạc trở về cái khoảng quá khứ đầy mộng mị. Cũng cuối năm 1980 ấy, con tàu vượt biên nhỏ xíu chật ních những người, khoang tàu xâm xấp nước biển lẫn lộn cùng chất thải từ cơ thể bấy nhiêu hành khách. Con bé tóc ngắn nằm sát bên cạnh dường như đi một mình, từ lúc đặt chân xuống ghe chẳng nghe mở miệng nói một câu. Mà mở miệng nói với ai bây giờ, cả chiếc ghe bốn mươi mấy người có mấy ai quen ai! Con bé dường như cũng bị say sóng nặng giống hệt mình, cũng ói lên ói xuống ngay tại chỗ và cũng lả đi nằm thiêm thiếp. Một lần quay đi không kịp, con bé ói văng đầy cả vào mặt mình sát cạnh! Biết được nó còn sống là nhờ có một lần bắt gặp ánh mắt của con bé yếu ớt dòm qua. Ánh mắt dường như muốn xin lỗi. Anh mắt thăm thẳm, lạc lõng, vướng vất nhiều tảng mây xám ngắt chiều thu. Ánh mắt đã đi theo ám ảnh mình suốt cả mươi năm đầu lúc mới tới được Hoa Kỳ… Con bé chắc còn nhỏ lắm, cũng chỉ cỡ 12, 13 là cùng, và là người con gái đầu tiên bị thằng hải tặc ỡ trần vấn xà rông xốc cho ngồi lên, rồi chọc thẳng tay vào áo rờ rẫm mà rú lên cười! Con bé cũng là bé gái nhỏ nhất trong nhóm phụ nữ đầu tiên bị bắt chuyền qua tàu hải tặc và chẳng bao giờ còn nghe tin. Con bé nằm ngay sát cạnh mình mà chẳng hề biết được tên… Giọng bà bác ngay sát tai mà như rất mơ hồ đến tự đâu đâu… - “34 năm rồi đó cháu, biết đâu con bé tội tình của bác đang sống lưu lạc ở một nơi nào đó trên thế giới mà không có cách nào để tìm lại được gia đình. Biết đâu em nó ở đâu đó trong những thành phố cháu đi qua…” Ôi… người mẹ tội nghiệp tìm con, đã chừng mấy năm rồi mà vẫn không vơi đi niềm hy vọng dù rất mỏng manh… Tần ngần hỏi: - “Thưa bác, chị ấy đã … đi từ đâu?” Giọng 2 bác cháu đều trở nên tự lư, nhẹ như tơ tự lúc nào. - “Ghe em nó đi từ Rạch Giá cháu…” Một phiến đá nặng chặn nghẹn nãy giờ bỗng được nhấc lên khỏi lồng ngực, không phải con bé ấy rồi! Ghe mình đã xuất phát khời hành từ mũi Cà Mau… - “Anh em cháu cũng vượt biên vào khoảng thời gian ấy, tụi cháu may mắn đã đến được bến bờ. Cháu … chưa biết sẽ phải làm gì, nhưng cháu sẽ ráng…” Trao đổi nhau số phone. Bác gái nhũ danh: Trương Thị Hoà, nhà đã ở khu Hoà Hưng Sài gòn… Sợ bác sẽ khóc, nhưng nước mắt bác chẳng ra. Chắc những dòng nước mắt đã chảy cạn khô trong suốt ba mươi mấy năm qua rồi, chẳng còn! Bác run run siết chặt đôi bàn tay cảm ơn, xin lỗi đã làm phiền, rồi xiêu vẹo bước trở lại vào khán phòng. Mình ngồi thừ lại ở bên ngoài phải cho mãi một thời gian. Lâu lắm mới buồn như thế! Và cái buồn chắc chắn sẽ còn vương vất mãi chẳng biết đến bao giờ… Gần 35 năm rồi, khả năng còn sống sót của người con chắc không nhiều nhưng cũng có thể… Biết đâu ở đâu ở nước nào đó trong vùng Đông Nam Á không chừng…. Và không phải chỉ có mỗi chị Thanh-Lan này, mà còn biết bao nhiêu người con gái khác cũng mất tích, biết đâu cũng đang lưu lạc ở đâu đó… Và nếu đúng thế, biết đâu bạn … quen, bạn biết? Biết đâu bạn có chút tin tức? Hoặc giả nếu như không thấy phiền bạn có thể “share” dùm bài này đến bạn bè như một tờ truyền đơn nhắn tin, tìm kiếm. Biết đâu ở một mảnh đất nào đó có một người con gái cũng bao nhiêu năm mong mỏi tìm được lại gia đình của mình … Thảm cảnh của cả một đất nước, của cả một dân tộc… Buồn nhỉ! Giá như mình có thể khóc được … Ca sĩ DON HỒ VRNs (05.11.2014) Nguồn: chuacuuthe.com
......

Chúng ta cần biết:vì sao anh hùng ngã ngựa?

Cuối tháng 10/2014 vài tờ báo lề phải như Người Lao Động đăng tin Chủ tịch nước vừa ký Quyết định số 2721/QĐ CTN đề ngày 24/10/2014 hủy bỏ Quyết định cũng của Chủ tịch nước cách đây hơn 4 năm, phong Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân cho ông Hồ Xuân Mãn do những thành tích nổi bật trong chiến tranh trên chiến trường Thừa Thiên - Huế. Ông Hồ Xuân Mãn Ông Hồ Xuân Mãn là ai? Vì sao ông Mãn được phong Anh hùng? Vì sao Quyết định phong Anh hùng lại bị hủy bỏ? Vì sao báo chí lề phải không dám đi sâu tìm hiểu, phân tích và rút kinh nghiệm sâu sắc về một vụ lừa bịp cỡ quốc gia nghiêm trọng như thế? Đây là vấn đề người dân nước ta cần biết rõ và cần được giải đáp cho ra lẽ. Đây cũng là một món nợ của Ban Tuyên giáo Trung Ương đảng CS, của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN và của Ban Thi đua Trung Ương là những cơ quan then chốt trong quyết định việc phong Anh hùng phải giải thích đầy đủ cho công luận.   Tôi nêu sơ qua vài nét vụ việc này, đọc được trên mạng và báo địa phương (Thừa Thiên – Huế), nghĩ rằng đây là việc làm cần thiết để nâng cao dân trí về quê hương đất nước.   Ông Hồ Xuân Mãn được phong danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân tại Đại hội thi đua yêu nước Thừa thiên - Huế tháng 8 năm 2010, khi đang là Bí thư Tỉnh ủy Thừa thiên - Huế, theo đúng thủ tục là do Thủ tướng đề nghị và Chủ tịch nước ký quyết định. Ông là ủy viên Ban Chấp hành Trung Ương Đảng trong 2 khóa IX và X, Bí thư Thành ủy từ năm 2001 đến năm 2011, về hưu sau đó. Bản đề nghị tuyên dương anh hùng của ông Mãn được gửi lên Bộ Quốc phòng và Ban Thi đua Trung Ương được toàn thể 15 người trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhất trí thông qua, trong đó có trình bày 17 thành tích nổi bật trong chiến tranh từ khi ông còn là trinh sát viên, chỉ huy du kích xã, rồi bộ đội địa phương huyện Phong Điền, cho đến tham gia chiến dịch cuối cùng tháng 3 năm 1975 trên địa bàn Thừa Thiên - Huế.   Bản tóm tắt thành tích cá nhân thật đặc biệt: “Từ năm 1969 đến năm 1975, ông Mãn đã đánh hơn 100 trận, diệt 150 tên địch, phá hủy một trực thăng Mỹ, phá hủy 37 xe quân sự, 33 lần là Dũng sỹ diệt Mỹ, nhiều lần được là Chiến sỹ thi đua, nhận nhiều Huân chương Kháng chiến, Chiến công, Giải phóng…”. Sau khi thành tích của ông Mãn được công bố rộng rãi trên báo Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân, rồi trên báo Thừa thiên - Huế, nhiều đồng đội cũ ở huyện Phong Điền, ở Huế liền phản ứng, gửi thư cho văn phòng tỉnh ủy chỉ rõ rằng bản tóm tắt thành tích đưa ra công khai của ông Mãn có nhiều phần giả tạo, có một số trận ông Mãn vắng mặt lại nói là có dự và lập công. Tỉnh ủy không trả lời. Những người thắc mắc còn bị đe dọa rất thô bạo, bị chụp mũ là “gây rối, bị phản động giật dây”. Số anh em trung thực đó càng thêm giận dữ, gặp nhau trao đổi ý kiến, trình bày ra Trung Ương, ra Bộ Quốc phòng. Sau 2 năm đấu tranh, đầu năm 2014 Bộ Chính trị mới cử đoàn cán bộ của Ban Kiểm tra Trung Ương vào điều tra. Đoàn Kiểm tra xuống địa phương gặp các nhân chứng còn sống của một số trận đánh, kết luận về từng thành tích một đã được ông Mãn miêu tả khi kể công để đi đến kết luận chung. Đó là xét 17 thành tích đã kể chỉ có 2 trận đánh là có thật, ông Mãn có tham dự, thành tích cá nhân ông Mãn là có thật trong thành tích chung, 7 trận đánh ông Mãn không có mặt, “cướp công” của người khác, 7 trận khác là dựng đứng lên, hoàn toàn tưởng tượng ra, không hề có thực. 33 lần được công nhận là Dũng sỹ diệt Mỹ đều là tự phong, không ai xác nhận. Nhất là chuyện cá nhân ông bằng khẩu súng và lựu đạn phá 1 trực thăng Mỹ cũng là bịa ra.   Ban Kiểm tra Trung Ương gửi báo cáo lên Trung Ương, Bộ Quốc phòng, Ban Thi đua Trung Ương và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đề nghị Chủ tịch nước ra quyết định hủy bỏ việc tuyên dương 4 năm trước, từ đó có quyết định ngày 24/10/2014 của ông Trương Tấn Sang, kết thúc cuộc lừa đảo ô nhục trên đỉnh cao quyền lực này.   Vấn đề là lòng tham của con người sao mà có thể kỳ dị đến vậy. Đã vào Ban Chấp hành Trung Ương rồi, leo được lên đến chức Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế rồi, nhà cao cửa rộng, quyền thế lãnh tụ một vùng rồi mà vẫn còn ham hố vô độ, thèm khát cái danh hiệu Anh hùng, kèm theo phụ cấp cho anh hùng mỗi tháng hơn 1 triệu đồng. Cái niềm tự tin quá mức, nghĩ rằng là lãnh tụ số một thì bảo gì thuộc hạ chả làm theo, cho nên cả 15 ủy viên tỉnh ủy đều sẵn sàng ký không chút do dự vào bản chừng nhận thành tích cá nhân do ông Mãn đưa ra, họ không chút băn khoăn về con số hơn 100 trận đánh, diệt 150 địch, về 33 lần được danh hiệu Dũng sỹ diệt Mỹ, 37 lần phá hủy xe quân sự, nhất là một mình hạ và phá hủy được trực thăng Mỹ. Tất cả thành tay sai mù quáng của lãnh tụ. Đây là nối dài tiếp theo của thành tích thiếu niên Lê Văn Tám tự đổ xăng vào người châm lửa đốt thành đuốc sống để chạy vào đốt cháy rụi kho xăng Pháp (do ông Trần Huy Liệu bịa ra), của Bế Văn Đàn lấy thân mình bịt lỗ châu mai cho đồng đội hạ đồn Tây, của Phan Đình Giót lấy thân mình chèn khẩu pháo khỏi lăn xuống vực thẳm…   Một điều kinh hoàng là ông Hồ Xuân Mãn từng được Ban Thi đua Trung Ương tuyên dương là một trong 3 bí thư tỉnh ủy trong cả nước gương mẫu nhất trong phong trào “Học tập và làm theo gương đạo đức của bác Hồ”. Trong khi uy tín ông Hồ bị xuống thấp nhất qua 2 cuốn hồi ký của triết gia Trần Đức Thảo và nhà báo Trần Đĩnh thì vụ Anh hùng vùng cố đô thất thế lao xuống bùn đen càng làm cho phong trào “học theo đạo đức của bác Hồ” thêm mỉa mai, hụt hẫng, biến thành trò cười. Vẫn chưa hết. Bà con Thừa thiên - Huế biết khá rõ bà Hoàng Thị Cam, vợ ông Mãn, vốn là du kích thất học được đưa vào làm mậu dịch viên, rồi đưa lên làm ban sáng lập trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, nay lại trở thành bà Trưởng Ban Quản trị Lâm trường Mồng 1 thánh 5; em ruột ông Mãn là Hồ Xuân Phán, nguyên chỉ là dân vệ được đưa vào đảng, lên làm bí thư đảng ủy bưu điện, nay đã là giám đốc sở Thông tin Truyền thông tỉnh đầy thế lực. Còn con rể ông Mãn là Phương có tiếng ăn chơi ngang tàng được cơ cấu vào làm giám đốc Sở Giao thông Vận tải, nay đã là giám đốc Sở Kế họach và Đầu tư nhiều triển vọng. Chưa nói đến các ngành khác hầu hết đều là bạn bè thân thuộc phe cánh của “anh hùng trượt ngã” Hồ Xuân Mãn. Thời thế nào có anh hùng ấy. Thời thế đảng CS trượt dài trong đà suy thoái tự diệt đã sinh ra cái quái thai anh hùng tự phong Hồ Xuân Mãn. Cả một chế độ đầy lừa dối bịp lẫn nhau. Muốn hoàn lương thành một đảng chân chính, vì dân vì nước, đảng CS phải dám mổ xẻ các vụ đại bịp ra trước dư luận, rút ra những bài học cần thiết, dám chịu sự giám sát nghiêm cách của nhân dân, dám tự chấp nhận sự ganh đua của các tổ chức chính trị bình đẳng trong đời sống dân chủ đích thật của cộng đồng dân tộc. Bùi Tín  
......

Minh Hạnh: Nhớ về Nguyễn Hoàng Quốc Hùng

Hôm nay, nghe mẹ và chị gái kể về anh là em nghĩ đến anh rất nhiều. Tất cả kỷ niệm chợt tràn về, và em cảm thấy muốn được nhìn thấy anh, thấy nụ cười của anh và đôi mắt nghiêm nghị ấy.... Mẹ và chị em đã nói rằng : Thằng Hùng nó không chịu đi đâu khi nghe tin con bị bắt, nó không chịu rời khỏi Lâm Đồng. Chị con phải hối thúc nó, nó mới chạy đi, thì nó bị bắt.... Người ta đánh nó, hăm dọa nó, nhưng nó không khai, thậm chí còn đe dọa là sẽ nhốt nó vào nhà thương điên hoặc chích máu nhiễm HIV. Nó bị đánh rất dã man ở Tiền Giang....nhưng nó kiên cường lắm, nó tuyệt vời lắm.... Nghe những chuyện về anh, em muốn khóc và em càng tự hào về anh và Chương... Những người cộng sự tuyệt vời của em... Anh biết không, còn nhớ lúc bị bắt, em đã lo cho anh ở bên ngoài, không biết anh thế nào, em đã đập nát máy điện thoại để họ không truy ra tông tích của anh. Vậy mà.... Em đã gào thét và hát cho anh nghe trong trại giam, mà em không biết anh đang bị giam giữ nơi nào...Sau này em mới biết, trong phòng giam, anh sống như một người câm, không mở miệng nói một lời nào, vì bảo vệ em và anh em của mình... Chính vì vậy, anh đã sống hết toàn bộ khoảng thời gian ở B34 trong cảnh nhốt kín nóng bức, bị tra tấn.... Và khi đọc bảng kết luận điều tra, ghi rõ : Nguyễn Hoàng Quốc Hùng không hợp tác điều tra, đề nghị tòa án xét xử nghiêm minh để thể hiện tính công bằng của pháp luật. ....Em đã òa khóc vì sự kiên cường của anh.....Và lo cho số phận của anh.... Rồi cảnh anh ra tòa, anh hếch mặt lên trời, anh hiên ngang làm em và anh Chương tự hào. Anh gầy còm, không giống anh Hùng trước đây, đôi mắt anh lạnh lùng, và thần thái lắm. Anh ngồi im lặng nghe em và Chương hát, anh chỉ nhìn em nhoét miệng cười.... Em vẫn còn nhớ rất rõ .... Nói gì thêm đây, em chẳng thể nói gì thêm cả, vì nhớ anh, một người cộng sự tuyệt vời..... Theo FB Đỗ thị Minh Hạnh
......

Khát vọng làm báo tư nhân

Sau năm 1975, khi người cộng sản chiếm miền Nam, tất cả báo chí tư nhân đều bị cấm tiệt nhưng cái khát vọng tự mình làm một tờ báo thì chưa bao giờ bị tiêu diệt trong trái tim của những người yêu thích tự do. Và dù phải thỏa hiệp, lách luật, mua giấy phép..., tại Sài Gòn từ hơn vài chục năm nay, "báo" do tư nhân làm chủ vẫn xuất hiện, tất nhiên dưới danh nghĩa một "cơ quan chủ quản" là nhà xuất bản hay "ké" theo một pháp nhân của tờ báo nào đó.   Một trong những người làm báo tư nhân lách luật cự phách nhất Sài Gòn nay đã mất là ông Lâm Quốc Trung, ông Trung từng dám bán nhà mặt tiền về ở chung cư để lấy tiền mua lại một số “phụ trang” của các tờ báo từ Cà Mau đến Vũng Tàu, làm ra những tờ báo giải trí mang dấu ấn cá nhân ông. Còn ở mảng văn nghệ, từ những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, khi tình hình xuất bản đã bớt bị kìm kẹp, rất nhiều người đã tự bỏ tiền túi để làm những “tờ báo” thuần túy văn nghệ, gần như không thu hồi vốn như Thời Văn (Nguyễn Đăng Trình), Gieo và Mở (nhiều người làm), Văn tuyển (Phạm Viêm Phương, Nguyễn Liên Châu- đến nay… vẫn còn ra lai rai) và vài anh em văn nghệ cũ, vẫn ra những tuyển tập văn chương, tự tìm bài, tự in, chỉ có phải mua giấy phép của các nhà xuất bản. In ra, phân phát nhau đọc, mua giúp nhau. Gần như không bán được và vì vậy bài in cũng không có nhuận bút bằng tiền, mà lấy bằng sách! (Các tuyển tập văn chương do tư nhân thực hiện đặc biệt chỉ có ở Sài Gòn, không có ở Hà Nội và bất kỳ nơi nào tại Việt Nam). Có báo chí xuất bản tư nhân chưa hẳn đã là có tự do báo chí, nhưng thật đáng buồn, cho đến giờ dù thực tế đã chỉ ra rằng ngành xuất bản hiện đã bị tư nhân chi phối mạnh mẽ, rất nhiều tờ báo nhà nước vẫn tiếp tục bán giấy phép cho tư nhân ra các phụ trương để nuôi sống tờ báo chủ, nhưng nhà cầm quyền vẫn chưa dám cho phép báo chí, nhà xuất bản tư nhân ra đời, dù chịu sự kiểm duyệt. Và vì vậy cái khát vọng tự mình bỏ tiền làm ra một tờ báo, sống chết cùng với nó vẫn chưa thành hiện thực, người có tâm làm ra những sản phẩm văn học vẫn chịu sự chi phối đầy bất trắc của các nhà xuất bản. Đã gần bốn mươi năm trôi qua từ khi tự do báo chí bị bóp nghẹt, những người có tâm, có tầm dần mệt mỏi, trong khi đó truyền thông thế giới đã đi những bước dài trong môi trường internet. Tại Việt Nam hiện nay, những tờ báo có hàm lượng thông tin, văn hóa và học thuật đã dần lép vế, biến thái để tồn tại hoặc nhường chỗ cho những “sân chơi” xô bồ, thô tục của những trang web được cấp phép nằm dưới sự khuynh loát của tư nhân, mà mục đích chính của những “ông chủ” này là tiền! Ngành báo chí xuất bản Việt Nam chắc chắn sẽ càng suy đồi hơn trong tình trạng nửa nạc nửa mỡ bây giờ. Lối thoát duy nhất là chấp nhận báo chí xuất bản tư nhân và điều hành bằng hệ thống kiểm duyệt!   Theo nguyendinhbon.blogspot.com
......

Cất “lưỡi hái tra tấn” trên đầu người VN

Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của nước mình. Điều này cũng áp dụng với những hành vi cố gắng thực hiện việc tra tấn hoặc hành vi của bất kỳ người nào đồng lõa hoặc tham gia việc tra tấn. Mỗi quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm này bằng những hình phạt thích đáng tương ứng với tính chất nghiêm trọng của chúng. (Điều 4. Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc). Nguồn ảnh: Vietbao. Bài "5 công an dùng nhục hình. Ám ảnh vết thương nạn nhân. 27/3/2014   * Cam kết cứ ký, “luật rừng” cứ làm? Ngày 7/11/2013, VN ký công ước quốc tế về chống tra tấn, đứng sau 154 quốc gia khác đã ký trước đây và ở năm thứ 29 sau khi công ước ra đời. Lại càng quá trễ khi gần một năm sau – ngày 23/10/2014 Chủ tịch nước mới trình QH phê duyệt tại kỳ họp này. Đến nay hệ thống luật pháp VN cũng chưa sửa đổi gì để phù hợp cam kết đã ký. Tình trạng vi phạm công ước tại VN ngày càng dồn dập với nhiều vụ việc nghiêm trọng, gây nhiều người chết khiến người dân càng thêm phẫn nộ. Điều này chứng tỏ những người có trách nhiệm của VN đã thờ ơ trong việc bảo vệ tính mạng và phẩm giá của người dân. Nguồn ảnh: Vietbao. 2/8/2011 Trong khi đó, Điều 2 của Công ước cấm việc tra tấn, và yêu cầu các bên ký kết phải có biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn ở bất kỳ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình. Việc cấm tra tấn này là tuyệt đối và không được vi phạm. “Không có bất cứ trường hợp đặc biệt (ngoại lệ) nào có thể được viện dẫn để biện minh cho tra tấn, bao gồm cả chiến tranh, mối đe dọa của chiến tranh, bất ổn chính trị nội bộ, tình trạng khẩn cấp chung, hành vi khủng bố, tội phạm bạo lực, hoặc bất cứ hình thức xung đột vũ trang nào. Tra tấn không thể được biện minh như một phương tiện để bảo vệ an toàn công cộng hoặc ngăn chặn các trường hợp khẩn cấp. Cũng không có thể được biện minh bằng các lệnh từ các sĩ quan cấp trên hoặc các quan chức.”. Việc ký và phê chuẩn Công ước này là một việc hết sức cần thiết mà nhà cầm quyền VN không thể trì hoãn thêm được nữa trước áp lực quốc tế, nhất là khi phải “dọn mình” cho những tiêu chuẩn tối thiểu về nhân quyền nếu muốn đạt một số quyền lợi về kinh tế. Nhưng khi trình QH phê chuẩn, VN lại gây thất vọng khi tuyên bố: Không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước của LHQ chống tra tấn và các hình thức đổi xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Việc thực hiện các quy định của Công ước này sẽ theo nguyên tắc Hiến pháp và pháp luật thực định của Việt Nam trên cơ sở thỏa thuận hợp tác song phương hoặc đa phương với nước khác và nguyên tắc có đi, có lại... (theo VnExpress, bài “Chủ tịch nước trình công ước về chống tra tấn”).   Nếu thế thì không chỉ có nhiều điều trái Công ước, mà còn trái với Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của VN đã quy định tại khoản 1 điều 6: ”trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”. Qua những động thái này, người ta có thể đo được mức độ thành thật và thiện chí của nhà cầm quyền trong việc bảo vệ người dân VN.   Thẩm tra việc phê chuẩn Công ước, Chủ nhiệm UB Đối ngoại Trần Văn Hằng lại nhấn mạnh: việc phê chuẩn là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về việc tra tấn, ngược đãi phạm nhân, người bị tạm giữ, tạm giam của các thế lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước ta.   Như vậy, người ta có thể đặt câu hỏi: phải chăng ông không thấy không nghe không biết về bao người dân chết bởi tay công an và những người bị bức cung nhục hình tra tấn ở khắp nơi, thông tin được đưa rất nhiều trên báo chí VN. Vì thế ông mới có thể nói rằng đó là vu cáo và xuyên tạc! Và lẽ nào người dân lại bị rẻ rúng tới mức nhà cầm quyền chỉ quan tâm việc ký cam kết chống tra tấn để dập tắt những “luận điệu xuyên tạc” chứ không vì tính mạng của người dân?! Điều 13 Công ước quy định: mỗi thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ cá nhân nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của nước đó và được những cơ quan này xem xét một cách khẩn trương và khách quan. Quốc gia đó cũng phải thực hiện các biện pháp để bảo đảm rằng người khiếu nại và nhân chứng được bảo vệ tránh sự ngược đãi hay hăm dọa như là hậu quả của việc khiếu nại hoặc cung cấp bằng chứng. Điều 14 ghi rõ, “mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo trong hệ thống pháp luật của mình rằng các nạn nhân của hành động tra tấn sẽ được cứu chữa và có quyền khả thi được bồi thường công bằng và thỏa đáng, kể cả được cung cấp những điều kiện để phục hồi một cách đầy đủ đến mức có thể. Trường hợp nạn nhân chết do bị tra tấn, những người phụ thuộc vào người đó có quyền hưởng bồi thường.   Không một quy định nào trong điều này ảnh hưởng tới bất kỳ quyền được bồi thường nào của nạn nhân hay của người khác có thể có theo pháp luật quốc gia”. (Công ước) Bất kỳ một mạng dân nào bi bức cung, nhục hình, tra tấn hoặc chết oan ức dưới bàn tay của cơ quan hành pháp, cũng như bất kỳ một vụ điều tra nào để oan sai, một phiên tòa nào xử trái pháp luật... cũng đều thuộc trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, ngành, lĩnh vực đó. Người đó phải hết lòng sửa chữa, đền bù thiệt hại trong quyền hạn trách nhiệm của mình và thường phải từ chức. Gần đây nhất, hai vị Bộ trưởng của Nhật đã từ chức ngay khi để xảy ra một chút xíu lạm dụng trong lĩnh vực mình quản lý.   Nhưng VN thì không. Người dân VN chỉ còn cách trông đợi vào lương tâm hiếm hoi của người thi hành công vụ. Và vì thế ngày càng nhiều dân chết oan ức. Vẫn “vừa đá bóng vừa thổi còi” Để thực thi Công ước chống tra tấn, VN cần làm nhiều điều, trong đó có việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan. Nội dung này không thể tùy tiện, mà phải phù hợp các quy định của công ước. Phải sửa đổi, bổ sung bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ở các nội dung: bổ sung tội danh tra tấn để phù hợp với định nghĩa tra tấn trong đó có hành vi tra tấn về tinh thần; sửa đổi, bổ sung quy định về tội dùng nhục hình, tội bức cung và một số hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người có thể bị coi là tra tấn. VN cũng chưa từng có Luật tạm giữ tạm giam. Vì thế VN cần xây dựng luật này, đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật Thi hành án hình sự. Hiện VN chưa có quy định về tội danh tra tấn, từ chối dẫn độ đối với người có nguy cơ bị tra tấn, chưa quy định cụ thể việc bồi thường tổn thất cho nạn nhân bị tra tấn...Tất cả đều là những điều luật hết sức quan trọng, sống còn đối với người dân cũng như để ngăn ngừa sự lạm dụng của cơ quan công quyền nên rất cần sự khách quan, chất lượng cao.   Nhưng kỳ này, QH vẫn lặp lại sai lầm trong quy trình xây dựng luật. Một sai lầm mà nhiều đại biểu QH đã cảnh tỉnh từ các kỳ họp trước. Đó là hiện trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Về vấn đề này đã có một nhận định rất xác đáng qua tổng kết của Hội luật gia Hà Nội: “Với quy định Trưởng ban soạn thảo “là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo”, trong hầu hết các trường hợp, đó là Bộ trưởng các Bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Như vậy việc “làm luật” từ chức năng, nhiệm vụ của QH đã tự động chuyển sang cho cơ quan hành pháp. Tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” đã được hợp thức hóa. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng nhiều văn bản quy phạm pháp luật chỉ có tác dụng nâng cao quyền lực của cơ quan quản lý nhà nước, không xét đến hoặc xét đến với mức độ rất mờ nhạt, chung chung về quyền của đối tượng thi hành”. (theo luatsungaynay.vn, bài “ 5 hạn chế, bất cập cơ bản của Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật”). Lần này cũng vậy, đơn vị được QH giao soạn thảo những luật liên quan đến Công ước chống tra tấn là Bộ Công an, trong khi trách nhiệm làm luật và sửa luật là của QH. Như vậy, ngành duy nhất có thể lạm dụng tra tấn, bức cung nhục hình thì lại được giao ban hành dự thảo, sửa chữa luật để ngăn chặn quyền lạm dụng của chính họ! Làm sao tránh được sự thiếu khách quan khi xây dựng luật?! Nếu xẩy ra, điều này không những nguy hại cho toàn xã hội và cho chính ngành công an vì sẽ mất nhiều cán bộ, chiến sĩ vì có điều kiện dấn sâu vào phạm tội. Như vậy, QH cần xem xét lại việc chuẩn bị thực thi Công ước chống tra tấn. Nếu cứ theo cách làm hiện nay, việc đó chỉ càng tăng thêm quyền lực của ngành công an, người dân thì cứ tiếp tục chết oan. Cũng cần đề phòng nguy cơ ngay cả khi có thuê chuyên gia giỏi để soạn ra một luật khách quan phù hợp công ước quốc tế thì trên thực tế đã cho thấy từ nhiều năm nay, hệ thống tư pháp và hành pháp rất nhiều khi vẫn không tuân theo công ước quốc tế mà lại hành xử theo luật VN. Nguy cơ bị lạm dụng, tra tấn, bức cung, nhục hình vẫn như một lưỡi hái thần chết treo lơ lửng trên đầu người VN. Theo rfavietnam.com
......

Tù nhân lương tâm Trần Hữu Đức ra tù

Sau hơn 3 năm bị chính quyền CS Việt Nam bắt cóc thì đến sáng hôm nay vào khoảng 10h30 ngày 02/11/2014 anh TNLT Trần Hữu Đức đã được ra tù về với gia đình, theo như thông tin mà gia đình cho biết thì chiều hôm nay anh mới được về nhà, nhưng sáng hôm nay anh đã được ra tù sớm hơn dự kiến. Anh về trong sự chào đón của bố mẹ bà con lối xóm và bạn bè, những giọt nước mắt sung sướng hạnh phúc của người mẹ của người bà ngoại đã lăn chảy trên khuôn mặt gầy gò, sau hơn 3 năm dài đằng đẵng mong chờ người con người cháu của mình, một hình ảnh thân thương rất cảm động của anh là khi gặp lại bố mẹ, anh đã quỳ xuống để cảm ơn bố mẹ, một hình ảnh này đã được anh tái hiện trong phiên tòa của anh. Lúc đi qua ngôi thánh đường Giáo Xứ Nam Lộc thân thương, nơi mà ngày xưa đã gắn bó tuổi thơ của anh, anh đã quỳ xuống cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa đã gìn giữ anh trong suốt hơn 3 năm trong nhà tù CS khắc nghiệt và tàn bạo.   Xin nói thêm anh Đức bị bắt cóc vào ngày mùng 02/8/2011, anh bị phiên tòa ô nhục của CS kết tội anh 39 tháng tù giam và 12 tháng quản chế, và suốt thời gian ở trong tù anh liên tục được phát phiếu định kỳ với "hạnh kiểm Kém" với lý do: "Trần Hữu Đức vào trại giam không chịu nhận tội, không chấp hành kỷ luật". Anh Đức là một người luôn hoạt động hăng say trong các hoạt động công giáo và từ thiện, một người luôn đấu tranh chống cái giả dối, chống sự bất công. Có lẽ không có một đất nước nào khi mà những người tù trở về lại được chào đón nồng nhiệt như ở thiên đường CS Việt Nam. Dù mới được về, nhưng anh luôn ủng hộ anh FX Đặng Xuân Diệu, đang chịu những cực hình trong nhà tù CS, anh đã khoác lên mình chiếc áo để ủng hộ anh. Mặc dù anh về sớm hơn dự kiến mấy giờ đồng hồ, nhưng những người bạn của anh, hay là những người chỉ nghe kể về anh, thì sáng hôm nay cũng đã về để chào đón anh và chia vui với gia đinh anh, như vậy thì chúng ta thấy họ là những con người như thế nào. Là một người bạn đã gắn bó với 3 năm trước khi anh bị bắt tôi luôn hiểu con người anh, một lần nữa tôi xin chúc mừng anh, dù chỉ hỏi thăm người bạn được đôi câu, nhưng những giọt nước mắt đã chảy, mừng quá cho người bạn của tôi.   Theo Nhỏ Bé Thôi facebook.com
......

Ls Lê Công Định: Công lao Tổng thống Ngô Đình Diệm cần được tôn vinh

"Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long: Việc tưởng nhớ cụ không còn là một sự hoài niệm đầy xót xa và cũng không nằm trong không khí tiếc hận của những người “phò Ngô” hay thất thế xa cơ. Mục đích của chúng ta hôm nay cũng không còn đơn thuần là phục hồi danh dự cho ông hay lột trần những giả dối của những người và những thế lực thù ghét ông. Có những người vì thương mến ông, muốn đưa ông và bào đệ đến một nơi an nghỉ xứng đáng hơn. Thiển nghĩ đó là những điều thứ yếu. Vả lại, với một con người coi nhẹ sự phù vân ở thế gian, ông cũng chẳng màng gì những điều ấy. Việc tưởng nhớ ông chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng ta –những người con dân nước Việt còn trăn trở cho hiện tình đất nước– cùng nhau thực hiện giấc mơ chưa thành của ông. Giấc mơ đó là gì thưa quý vị và đồng bào? Đó là ngày khải hoàn của công lý, của sự thật, của sự nhân bản, của những giá trị Chân-Thiện-Mỹ trên quê hương. Đó là ngày chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Đó là ngày cánh chung của chế độ Cộng Sản và ngày quang phục của một Việt Nam thực sự độc lập, dân chủ và vững mạnh trước những thử thách mới."   Lúc thiếu thời đi học, nhắc đến cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đa số thầy cô dưới mái trường XHCN của tôi đều gọi là “thằng Diệm” và “thằng Thiệu”. Về nhà tôi kể lại cho ba mẹ nghe. Ông bà nghiêm nghị cấm tôi không nên bắt chước thầy cô, vì như thế là vô lễ và bất kính đối với các bậc tiền nhân. Sau này, trưởng thành, có dịp đi làm việc ngang vùng Ninh Thuận, một đồng nghiệp lớn hơn tôi vài tuổi hỏi: “Nghe nói vùng này là quê hương của thằng Thiệu?” Tôi cau mày, đáp: “Dù sao ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đáng bậc cha chú của anh mà! Nếu mình đi đến vùng Nghệ An, em nói đây là quê hương của thằng Hồ, anh sẽ cảm thấy thế nào?” Anh ấy chống chế: “Xin lỗi, thói quen thôi mà!” Từ đấy anh ấy xem tôi là “phản động” (!). Tôi hãnh diện về tiếng “phản động” đó, vì nhớ đến lời giáo huấn đạo làm người của cha mẹ tôi.   Ba tôi, một người tham gia phong trào cộng sản, vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ông thường nhận định với tôi rằng dân tộc này sẽ tốt đẹp hơn nhiều, thậm chí có thể sánh ngang với Nhật Bản ở Á châu, nếu cụ Diệm lèo lái con thuyền đất nước đến được bờ bến mà cụ tâm niệm và tranh đấu cả một đời. Khi tôi tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao ông chưa bao giờ bày tỏ sự tôn trọng tối thiểu đối với bất kỳ lãnh tụ cộng sản nào, ba tôi lắc đầu trả lời: “Ba chọn lầm đường!” Và ông luôn căn dặn tôi: “Thế hệ của con không được quyền lạc lối như ba.”   Mỗi sáng mùng một Tết hàng năm lúc tôi còn là học sinh tiểu học và trung học, sau khi sang chúc Tết ông nội về, ba mẹ thường đưa anh em chúng tôi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng mộ dượng sáu tôi là ký giả Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, Chủ bút nhật báo Đông Phương ở Sài Gòn trước 1975. Bao giờ cũng vậy, trước khi đến mộ dượng tôi, ba tôi luôn dừng lại thắp hương, còn mẹ tôi (một giáo dân Công giáo) đọc kinh cầu nguyện trước mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu và bà cụ cố thân sinh của hai ngài. Anh em chúng tôi phải đứng chấp tay, cúi đầu. Điều đó đã trở thành thông lệ của gia đình tôi ngày xưa.   Năm 1998, sang Pháp học, tôi đọc một quyển sách về Tổng thống Ngô Đình Diệm và biết rằng sau khi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi bị giải tỏa năm 1985, hài cốt của ba vị cùng với ông Ngô Đình Cẩn được thân nhân chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu. Tết năm 1999, nhân dịp trở về Việt Nam dự chương trình Orientation dành cho sinh viên nhận học bổng Fulbright du học Hoa Kỳ, tôi chở ba tôi đi Bình Dương tìm nghĩa trang Lái Thiêu, mà ông còn nhớ tên gọi xưa là “Nhị Tì Quảng Đông”. Chúng tôi dò hỏi những người dân gác mộ xung quanh đó, thì được hướng dẫn tận tình và đưa đến tận nơi. Họ còn nhắc nhở chúng tôi viếng nhanh rồi về, vì buổi trưa các du kích xã đi ăn cơm nếu không chúng tôi có thể bị mời về xã đội điều tra lý do viếng mộ ông Ngô Đình Diệm (?). Theo quyển sách tôi đọc, bia mộ của cố Tổng thống ghi “Giacôbê Đệ”, còn bia mộ của ông Cố vấn ghi “Baotixita Huynh”, do thân nhân lúc cải táng cố tình tráo hai chữ “huynh” và “đệ” để kẻ gian nhầm lẫn. Tôi không rõ thực hư việc này, nhưng quả nhiên thấy rõ những dòng chữ ấy. Giữa mộ hai ngài là mộ của bà cụ cố thân sinh. Cách một quãng xa, ngôi mộ có tấm bia dựng cao ghi chữ “Can” và năm mất 1964, chính là mộ phần của ông Ngô Đình Cẩn. Hai cha con tôi kính cẩn làm lễ, thắp hương, đọc kinh cầu nguyện và chụp ảnh lưu niệm. Suốt đoạn đường về ba tôi trầm ngâm, muộn phiền trước cảnh một nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20 mà cuối đời chỉ còn nắm tro tàn vùi chôn tại một nơi và theo một cách thức không tương xứng với tầm vóc và đóng góp của ông. Nỗi buồn của ba lây sang cả tôi. Trở lại Paris năm đó, tôi tìm đến thăm trường Ecole des Chartres, một trong những trường danh giá nhất của Pháp, nơi ông Ngô Đình Nhu từng theo học. Ngôi trường ấy tọa lạc gần trường luật Panthéon-Assas của tôi. Tôi vẫn nể phục ông Nhu như một nhà tư tưởng lớn hiếm hoi của Việt Nam đương thời. Từ chuyến đi năm 1999 trở về sau, lúc thì vào dịp Tết, lúc nhân ngày giỗ hai ông, tôi âm thầm đến viếng mộ phần của bốn vị đều đặn. Giữa năm 2007, một buổi chiều cuối tuần, đón tiếp luật sư Lê Quốc Quân vào Sài Gòn, tôi đưa anh và hai vợ chồng luật sư đồng nghiệp cùng đến nghĩa trang Lái Thiêu. Chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ tôn nghiêm dành cho các vị, với nguyện ước một ngày không xa công lao và danh dự của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ được phục hoàn và tôn vinh tương xứng với sự nghiệp vĩ đại của ông.   Tiếc rằng giờ đây đang trong thời gian quản thúc, ngày mai tôi không thể đến viếng mộ phần của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ba vị tiền nhân như mong ước, hy vọng lời chia sẻ này thay cho nén hương tưởng niệm để tỏ lòng kính trọng và niềm tiếc thương của tôi dành cho nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam. Theo FB Ls. Lê Công Định  
......

Thông cáo báo chí của UB Nhân quyền Quốc hội CHLB Đức

Thông cáo báo chí của UB Nhân quyền Quốc hội CHLB Đức về vụ án blogger Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm) và tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng   Nghị sĩ Sabine Bätzing-Lichtenthäler (UB Nhân quyền QH Đức) đấu tranh vì nhân quyền ở Việt Nam. "Tự do tư tưởng là một quyền mà ai cũng phải được có", bà Sabine Bätzing-Lichtenthäler tuyên bố. Là thành viên Ủy ban Nhân quyền Quốc hội Đức, bà không ngừng đấu tranh cho những nhà họat động nhân quyền ở Việt Nam. "Theo nhận thức của tôi, can thiệp vào quyền tự do biểu đạt tư tưởng một cách chủ ý qua điều 258 Bộ luật hình sự Việt Nam là không phù hợp với các quyền tự do dân chủ cơ bản của con người, là vi phạm nhân quyền một cách rõ ràng", bà khẳng định. Về trường hợp nhà họat động nhân quyền Nguyễn Hữu Vinh (blogger Ba Sàm) bị bắt giữ và giam cầm từ tháng Năm năm nay tại Việt Nam, mới đây bà Sabine Bätzing-Lichtenthäler đã tiếp xúc với bà Lê Thị Minh Hà - vợ ông Vinh. Cuộc gặp gỡ được thực hiện bởi sáng kiến của Tổ chức Nhân quyền VETO! - The Human Rights Defenders Network (Hệ thống Mạng lưới bảo vệ nhân quyền), một tổ chức đấu tranh cho tự do chính trị và chống vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tổ chức này tự hào phối hợp hành động thành công với bà Bätzing-Lichtenthäler. Ông Vinh bị bắt vào tháng Năm năm nay, vì lập trang blog từ năm 2007, nhằm cung cấp cho đồng bào ông những tin tức chính trị - xã hội – kinh tế - văn hóa – giáo dục – môi trường... tổng hợp và thông tin độc lập. Qua đó, muốn góp phần vào việc xây dựng quan điểm tự do ở Việt Nam, bổ khuyết cho hệ thống thông tin do Nhà nước điều khiển. Ngay từ 2010 đến 2013, trang mạng không ngừng bị tấn công đến tê liệt. Ông Vinh trở thành nạn nhân của chủ trương đàn áp. Tháng Năm 2014, vụ việc trở nên xấu hơn, ông Vinh cùng một nữ cộng tác viên bị bắt giữ và giam cầm theo điều 258 - Bộ luật hình sự Việt Nam, bị cáo buộc đã lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí... và các quyền tự do khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp nháp của tổ chức, công dân, có thể bị giam cầm tới bảy năm. Cuộc điều tra vụ này kết thúc ngày 30 tháng Mười. Vợ ông, bà Lê Thị Minh Hà, hy vọng được CHLB Đức giúp đỡ. Bà muốn tác động để ông Vinh và nữ cộng tác viên được trả tự do ngay lập tức vô điều kiện và hướng tới việc hủy bỏ điều 258 - Bộ luật hình sự Việt Nam. Vụ việc khiến bà Bätzing-Lichtenthäler xúc động. Vị đại biểu Quốc hội của vùng Altenkirchen và Neuwied đã yêu cầu Chính phủ Việt Nam và Đại sứ Việt Nam tại Đức nỗ lực để giải quyết công minh, trả tự do cho ông Vinh và nữ cộng tác viên. Nguyên bản tiếng Đức:   Einsatz für vietnamesischen Menschenrechtsaktivisten Pressemitteilung Meinungsfreiheit steht jedem zu Sabine Bätzing- Lichtenthäler engagiert sich für Inhaftierten „Meinungsfreiheit ist ein Recht, welches jedem Menschen zusteht“, so Sabine Bätzing- Lichtenthäler. Sie ist Mitglied im Menschenrechtsausschuss des Deutschen Bundestages und hat sich wiederholt für Menschenrechtsaktivisten in Vietnam eingesetzt. „Nach meinem Verständnis sind Eingriffe in die freie Meinungsäußerung, wie sie durch Artikel 258 des vietnamesischen Strafgesetzbuches vorgenommen werden, nicht mit den grundlegenden demokratischen Freiheitsrechten eines jeden Menschen vereinbar. Sie stellen einen klaren Verstoß gegen die Menschenrechte dar“, machte die Abgeordnete ihre Position deutlich. Im Fall des vietnamesischen Menschenrechtsaktivisten NGUYEN Huu Vinh kam es kürzlich zu einem Gespräch mit Frau LE Thi Minh Ha, der Ehefrau des seit Mai dieses Jahres in Vietnam inhaftierten Herrn Nguyen. Das Treffen kam auf Initiative der Menschenrechtsorganisation VETO! –The Human Rights Defenders Network zu Stande, welche sich für politische Freiheit und gegen Menschenrechtsverletzungen in Vietnam einsetzt. Sie kann bereits auf eine erfolgreiche gemeinsame Arbeit mit Frau Bätzing- Lichtenthäler zurückblicken. Herr Nguyen wurde im Mai dieses Jahres verhaftet, da er seit 2007 einen Internetblog führt, der seine Landsleute mit unabhängigen politischen Nachrichten und Informationen versorgt. Damit wollte er die freie Meinungsbildung in Vietnam abseits der staatlich gesteuerten Informationssysteme ermöglichen. Bereits zwischen 2010 und 2013 wurde Nguyen Huu Vinhs Internetseite wiederholt angegriffen, lahmgelegt und er wurde Opfer von Repressionen.   Im Mai 2014 eskalierte die Situation und Herr Nguyen wurde gemeinsam mit seiner Mitarbeiterin nun auf Grundlage des Art. 258 des vietnamesischen Strafgesetzbuches inhaftiert. Dabei wird Ihm der Missbrauch von demokratischen Freiheiten vorgeworfen, um die Rechte und Interessen des Staates zu beeinträchtigen. Ihm droht eine Haftstraffe von bis zu sieben Jahren. Die abschließende Verhandlung dieses Falls findet am 31.Oktober statt. Seine Frau LE Thi Minh Ha hofft nun in Deutschland auf Hilfe. Sie will die sofortige Entlassung ihres Mannes und dessen Mitarbeiterin erwirken und zielt auf eine Abschaffung des Art. 258 des vietnamesischen Strafgesetzbuches.   Frau Bätzing- Lichtenthäler ist von diesem Fall erschüttert: Die Abgeordnete für den Wahlkreis Altenkirchen und Neuwied hat sich dementsprechend direkt an die Regierung Vietnams und die vietnamesische Botschaft gewandt, um sich für einen fairen Prozess einzusetzen und will erreichen, dass Herr Nguyen und die Mitarbeiterin freigelassen wird. Im November wird ein Termin mit Abgeordneten alle Fraktionen des Deutschen Bundestages stattfinden, um über den Fall weiter zu beraten. Sabine Bätzing-Lichtenthäler, Mitglied des Deutschen Bundestages   http://www.baetzing-lichtenthaeler.de/index.php?nr=46021&menu=1
......

Tan hỏa mù

Ít lâu nay, trong giới bình luận thời sự trong và ngoài nước đã có không ít người lạc quan cho rằng trong lãnh đạo đảng CS có một sự phân hóa, bên cạnh xu hướng thân Tàu, dựa vào Tàu, đã có một bộ phận muốn cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ và phương Tây.   Khi ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị được cử sang Hoa Kỳ trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sẵn sàng khăn gói theo lời mời của Ngoại trưởng Hoa Kỳ vẫn chưa được lệnh xuất phát, có dư luận cho rằng nhóm thân Mỹ trong Bộ Chính trị đã chiếm ưu thế, mở ra triển vọng mới cho vị thế quốc tế của Việt Nam, thoát khỏi sự khống chế của người khổng lồ phương Bắc. Xu hướng lạc quan này xét ra là có lý, thuận theo suy luận lô-gíc của các sự kiện. Vụ Bắc Kinh ngang nhiên đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Đông nước ta là một hành động ngạo mạn gây nên sự căm phẫn mạnh mẽ của toàn dân cũng như sự lên án của công luận quốc tế. Bộ Chính trị không thể làm ngơ trước thái độ giận dữ ấy. Thêm nữa, Bộ Chính trị cảm thấy rõ sức ép quốc tế từ Liên Hiệp Quốc, từ Quốc hội Hoa Kỳ, từ Liên Âu … yêu cầu nghiêm cách VN phải tôn trọng nhân quyền, trả tự do cho tù chính trị, tôn giáo, cho phép lập công đoàn tự do, để củng cố thế đứng của VN trong Hội đồng Nhân quyền của LHQ, gia nhập vào khối TPP nhiều lợi lộc. Cho nên lãnh đạo đảng CS buộc phải tìm cách xoa dịu nỗi căm phẫn của nhân dân đối với hành động hung hăng ngạo mạn của Bắc Kinh, đồng thời họ cũng cố làm động tác chìa bàn tay thân hữu với Hoa Kỳ và phương Tây để hòng trục lợi, những món lợi không nhỏ. Thế là các tù nhân Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Tiến Trung và một số sỹ quan và viên chức Việt Nam Cộng hòa ở tù lâu năm được trả tự do. Từ sau tháng 9/1990, với cuộc mật đàm và Thỏa thuận ngầm ở Thành Đô, Bộ Chính trị bị ngấm đòn do roi vọt của Đặng Tiểu Bình, hoảng sợ khi hàng lọat nước CS Đông âu tan vỡ, người anh Cả CS Liên Xô trên bờ vực, liền lao vào bẫy của Bắc Kinh để kiếm chỗ dựa trước khả năng bùng nổ của ngọn triều dân chủ của nhân dân mình như ở Rumani, Bungari.… Họ sẵn sàng chuyển kẻ thù thành người Anh lớn, cùng chung học thuyết, cùng chung chế độ xã hội, chung lý tưởng CS, sống chết có nhau. Họ cho đó là cao kiến, là thượng sách, cứu đảng đặt cao hơn cứu dân. Đây là cuộc câu kết mang bản chất phản bội nhân dân 2 nước, phản bội tình hữu nghị chân chính giữa 2 dân tộc Việt - Trung, chống lại nhân dân toàn thế giới khi toàn thể lòai người tiến bộ đã kết luận chủ nghĩa CS hiện thực là tội ác gây nên cái chết của hơn 100 triệu nhân mạng, trong đó có hơn 40 triệu dân Trung Quốc và hơn 4 triệu dân VN. Thỏa thuận Thành Đô là văn kiện tuy có thể không có thỏa thuận nào phía VN đồng ý trong 30 năm trở thành khu tự trị của TQ, nhưng chắc chắn nó là văn kiện nhục nhã bất bình đẳng, mở đường cho phía TQ lấn hàng trăm cây số vuông trên bộ, hàng vạn cây số vuông trên biển, chiếm hàng lọat đảo của VN, còn thâm nhập khai thác hàng vạn héc ta rừng biên giới, thâm nhập sâu cả vùng chiến lược Tây Nguyên để khai thác bô-xít, chiếm các gói thầu lớn nhất trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, còn mở đường cho hàng mấy chục vạn người TQ xâm nhập sinh cơ lập nghiệp với những bản làng Trung Hoa trên đất nước ta. Thiệt hại, mất mát đó là vô giá, không thể tính hết. Mất mát về chủ quyền, về lãnh thổ, về biển đảo, về tài nguyên, về môi trường, về dân sinh, về kinh tế, tài chính, về quốc thể, không sao tính hết. Có thể khẳng định chưa có một mảy may dấu hiệu nào là lãnh đạo VN tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm kinh khủng của Thỏa thuận Thành Đô, công khai nhận sai lầm với toàn dân, toàn quân đội, phủ định những hớ hênh đã cam kết, trả hẳn lại cho phía TQ “4 tốt” và “16 chữ vàng” do chính phía TQ cố tình chà đạp, để khẳng định quyền thay đổi đường lối đối ngọai, quyền ‘ xoay trục’ của mình. Vậy những chuyện tạo nên ảo vọng, hồi hộp, phán đoán lạc quan vừa qua là gì? Là động tác chiến thuật, là thuộc chiến tranh tâm lý, là thủ đọan thâm hiểm, là tạo nên màn khói giả tạo, thiện chí giả tạo. Bởi vì cả 16 người trong Bộ Chính trị hiện vẫn là một đồng một cốt, tuy có thể có những mâu thuẫn kèn cựa cá nhân, nhưng đều thuộc về phái thân Tàu, coi Tàu là chỗ dựa toàn diện, chỗ dựa chiến lược lâu dài. Họ yêu đảng CS để vụ lợi riêng, bảo vệ đảng để kiếm chác tận trong tim óc, chỉ yêu nước ở đầu lưỡi, chỉ phục vụ nhân dân ở 2 môi. Họ phân công đóng kịch, tung hỏa mù, làm như có một thiểu số trong Bộ Chính trị có quan điểm dân chủ, làm cho dư luận lầm tưởng rằng có phe này phái nọ đối lập nhau, phe thân Tàu, phái thân Mỹ. Do đó có kẻ sang Bắc Kinh nói toàn lời hữu hảo, bị Tàu coi là đứa con hư hãy trở về gia đình vẫn cứ ‘hảo, hảo’, mới đây còn lập đường dây điện thọai nóng giữa 2 Bộ Quốc phòng, rồi cử 13 viên tướng sang chầu Thiên triều. Đồng thời lại cử người sang Washington nở nụ cười tươi, tặng quà độc đáo, dọa kiện TQ ra trước tòa án quốc tế, hứa kết bạn với Philippines, rồi huênh hoang tuyên bố «dân chủ và nhà nước pháp quyền là 2 thành quả song sinh của nền chính trị hiện đại» - nhưng không hề khởi động theo những lời hứa ấy.   Do đó mà cầm chắc rằng việc gia nhập TPP sẽ còn vời vợi, việc mua vũ khí sát thương của Hoa Kỳ còn khá xa xăm, và hạnh kiểm Nhân quyền của Bộ Chính trị Hà Nội sẽ tiếp tục bị điểm xấu dài dài. Bùi Tín Theo voatiengviet.com
......

“Dân chủ là xu thế của thời đại”... chứ đâu phải của Đảng!

Theo cùng cây đũa hòa nhịp của Ban Tuyên Giáo, báo chí Việt Nam đồng loạt cất tiếng ca vang lừng về chuyến đi Âu Châu kéo dài một tuần vào trung tuần tháng 10.2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Có báo còn giật tít khá “giật gân” để câu độc giả (1). Tuy nhiên, nếu đọc kỹ những tin tức đó, người ta không thấy thành quả cụ thể nào trong chuyến đi của ông Dũng ngoài những tiếp xúc ngoại giao bình thường. Sau cuộc hội đàm với ông José Manuel Barroso, Chủ tịch Liên Hiệp Âu Châu ngày 12.10, ông Nguyễn Tấn Dũng không ký kết được Hiệp định Tự do Thương mại giữa EU-VN (EVFTA) như mong muốn. Nước Đức hẳn là quốc gia trọng tâm trong chuyến “du thuyết” của ông Nguyễn Tấn Dũng nên ông đã dừng chân ở đó đến 3 ngày, nhưng theo nhận xét của giới quan sát quốc tế, cụ thể như BBC qua bài ”Đức im ắng về chuyến thăm của ông Dũng” (2), thì giới truyền thông hầu như chẳng đả động gì đến sự có mặt của ông thủ tướng CSVN tại nước họ. Hiện tượng này hẳn nhiên không được các báo tại Việt Nam ghi nhận.   Vẫn chỉ những câu trả lời viết sẵn Công bằng mà nói thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tạo được một chút chú ý qua cuộc nói chuyện trước một số chính trị gia, doanh nhân và nhà báo Đức do hội bất vụ lợi Körber Stiftung tổ chức tại khách sạn Adlon thuộc thành phố Berlin.   Trong buổi nói chuyện này, ông Nguyễn Tấn Dũng mở đầu bằng bài thuyết trình dài hơn 3500 chữ, tức hơn nửa tiếng. Nội dung đề cập đến 3 điểm chính: (1) Thành quả kinh tế Việt Nam sau gần 30 năm “đổi mới”, (2) Chính sách ngoại giao của Hà Nội nói chung, và tranh chấp với Bắc Kinh trên biển Đông nói riêng, (3) Mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với cộng Đồng Âu Châu, đặc biệt với nước Đức. Ông Nguyễn Tấn Dũng hoàn toàn không nói gì về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi sang phần thảo luận thì câu chất vấn đầu tiên được Tiến sĩ Paulsen, Giám đốc Thời sự Quốc tế của Körber-Stiftung, đặt ra cho ông Dũng là câu hỏi về việc thực hiện những cải cách chính trị mà ông Dũng hùng hồn đưa ra trong thông điệp đầu năm 2014. Thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi, ông Dũng chỉ đọc một tuyên bố tổng quát đã thuộc lòng: “Chúng tôi tin rằng nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. Việt Nam không phải ngoại lệ, không đứng ngoài xu thế này”.   Nếu vài năm trước mà nghe câu đó - như hồi ông Dũng kêu gọi Myanmar hãy mở rộng dân chủ - thế giới hẳn đã vui mừng với câu trả lời. Nhưng ông Dũng đã coi thường trí nhớ của người nghe quá nhiều lần rồi nên lần này cử toạ vặn tiếp: “Vậy từ đó đến nay, ông đã tiến hành những biện pháp gì để tăng cường dân chủ trực tiếp?”. Thế là ông Dũng dùng lại ngay thủ thuật của các phát ngôn viên bộ ngoại giao Nguyễn Phương Nga, Lương Thanh Nghị, Lê Hải Bình. Ông nói trong niềm tin tưởng tất cả sứ quán ngoại quốc tại Việt Nam đều không đọc được tiếng Việt: “Chúng tôi đã sửa đổi Hiến pháp, được Quốc hội thông qua năm 2013, là một bước tiến rất quan trọng trong việc bảo vệ và tăng cường quyền dân chủ và kinh tế thị trường. Tôi nghĩ các ông nên đọc Hiến pháp mới của chúng tôi để hiểu thêm.”   Đến đây thì cử tọa bó tay. Bó tay vì gặp phải một ông thủ tướng quá "bựa". Điều ông Nguyễn Tấn Dùng không ngờ là các học giả, các luật gia, các sứ quán quốc tế không chỉ đọc bản Hiến Pháp "đổi mới như cũ" của Việt Nam mà còn so sánh nó với Hiến Pháp Bắc Triều Tiên nữa.   Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Bắc Hàn   Nếu so sánh hiến pháp của nước CHXHCNVN được sửa đổi năm 2013 và hiến pháp của Bắc Triều Tiên được sửa đổi năm 2009, người ta phải giật mình vì quá nhiều điểm tương tự từ bố cục đến nội dung. Chắc chắn Hà Nội sẽ chối nếu có ai hỏi có phải họ bắt chước Bắc Triều Tiên không, nhưng thực tế vẫn là có 2 bản hiến pháp quá giống nhau và Bắc Triều Tiên sửa hiến pháp trước Việt Nam 4 năm.   Cả 2 bản đều có lời dẫn nhập dài giòng, một bên kể công trạng của đảng CSVN và một bên kể công trạng dòng họ Kim Nhật Thành; một bên ca tụng tư tưởng Hồ Chí Minh và một bên ca tụng tư tưởng Tự Lực của Kim Nhật Thành; mỗi bên có nguyên một chương nói về quyền và nghĩa vụ công dân, trong đó bảo đảm đầy đủ tất cả những quyền tự do căn bản của con người; cả 2 hiến pháp qui định quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nước, v.v...   Tóm tắt là thế giới ngán ngẩm cái trò viết hiến pháp để lót ghế ngồi của Hà Nội và Bình Nhưỡng như nhau. Khi các quan chức của 2 nước này nhắc tới hiến pháp tại bất kỳ diễn đàn quốc tế nào, cử tọa đều buồn cười và buồn nôn như nhau.   Và cũng chính vì vậy mà Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Bắc Hàn rất giống nhau trong mắt thế giới tại các kỳ Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát về Quyền Con Người” (UPR) của Liên Hiệp Quốc vào năm 2009 và vào tháng 5/2014 vừa qua. Trong kỳ UPR này, Bắc Hàn bị 268 khuyến nghị, bác bỏ 67 và chấp nhận 113; một số khuyến nghị được Bắc Hàn chấp nhận từng phần (4). Việt Nam bị 227 khuyến nghị, bác bỏ 45 và chấp nhận 182. Một điểm chung của 2 quốc gia này là khăng khăng cự tuyệt các khuyến nghị sửa đổi những điều luật mơ hồ về các hoạt động bị coi là “chống lại nhà nước và xã hội” (activities against the State or society), như điều 79, 88 và 258 của bộ luật hình sự Việt Nam (4,5).   Có lẽ ấn tượng đơn giản nhất còn trong đầu giới quan sát là: Cộng sản Việt Nam chỉ đứng sau Cộng sản Bắc Hàn về con số khuyến nghị phải cải thiện nhân quyền. Tình trạng chà đạp giá trị con người dưới chế độ Bắc Hàn tồi tệ và đáng ghê tởm đến mức nào thì đã quá rõ đối với thế giới rồi. Nay Cộng sản Việt Nam đang càng lúc càng tiến tới tiêu chí đó. Chính trong bối cảnh này mà người ta lợm giọng khi nghe câu nói trâng tráo của ông Nguyễn Tấn Dũng: "Nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. Việt Nam không phải ngoại lệ".   ********Không biết đến bao giờ thì giới lãnh đạo Hà Nội mới hiểu ra rằng loại phát biểu trâng tráo như của ông Dũng không chỉ đã mất hoàn toàn tác dụng bịt mắt thế giới, mà còn lập tức làm biến dạng người nói thành những con quái vật đáng khinh tởm trong mắt những người có mặt.   Cụ thể như thái độ của ông Tom Malinowski, trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, vào cuối tuần trước. Trong cuộc họp báo sau 5 ngày thăm viếng và làm việc ở Hà Nội, ông đã phải ngưng giọng lịch sự ngoại giao để nói thẳng thừng cho Hà Nội biết rằng: “Sẽ không có tiến triển nếu cứ thả một chục người này lại bắt thêm chục người khác”.   Hoá ra, ông Nguyễn Tấn Dũng nói thật: Dân chủ là xu thế của thời đại ngày nay chứ không phải của giới lãnh đạo cộng sản, những người vẫn sống ở mốc điểm 100 năm trước - vẫn ôm chặt cái chủ nghĩa của cuối thế kỷ 19 và mô hình nhà nước độc tài của đầu thế kỷ 20. Ghi chú: (1)   Chuyến công du với cường độ “chóng mặt”, http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Chuyen-cong-du-voi-cuong-do-cho... (2)   Đức im ắng về chuyến thăm của ông Dũng?http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/10/141016_nguyentandung_vis... (3)   North Korean Constitution, http://asiamatters.blogspot.ca/2009/10/north-korean-constitution-april-2... (4)   North Korea Responds to the UN Commission of Inquiry, http://38north.org/2014/10/dhawk101614/ (5)   UPR: Việt Nam chấp thuận 182, bác 45 khuyến nghị, http://vi.rfi.fr/viet-nam/20140621-khuyen-nghi-upr-viet-nam-chap-thuan-1...
......

BÁN ĐẤT BÁN NƯỚC BÁN CẢ ĐƯỜNG ĐI

Đi trên những bãi biển đẹp mênh mông của nước Mỹ tôi từng ngậm ngùi nghĩ đến nhiều bờ biển rất đẹp của Việt Nam đã bị kẻ cầm quyền đem bán, đến nỗi không nói đến việc tìm ra đường lội xuống nước để bơi là bất khả thi, muốn đi dạo chơi trên cát cho thư thái chốc lát cũng không được nữa. Bây giờ, đám chức sắc đã xướng lên việc bán đường đi. Nghĩa là các vị ấy đã túng quẫn lắm rồi đấy, bao nhiêu thứ bán được trước đây, con cái, phe nhóm họ đã ăn tiêu bằng sạch. Chao ôi, nghĩ đến mà thấy cảm thương! Cao tốc TPHCM - Long Thành - nằm trong danh sách chào bán Lại nhớ chí sĩ Phan Bội Châu, ông có viết trong cuốn Việt Nam vong quốc sử chuyện thực dân Pháp lừa dân chúng ở một vùng quê nọ bán trời cho chúng. Bán xong thì ngồi trong nhà cũng là ngồi vào trời của Đại Pháp, đi ra sân cũng là đi trong trời của Đại Pháp, cùng cực đến nỗi lại phải cùng nhau vét sạch sành sanh của cải để đi chuộc trời về. Với tình thế này, dám chắc người dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng sắp đứng trước thảm họa bị bán trời đến nơi, bởi các ông ấy đã như những con nghiện hêroin thời kỳ cuối, có gì mà không bán chứ. Các ông các bà Dương Nội và tất cả bà con những vùng miền bị cướp đất trắng tay trong nước ta ơi! Xin hãy tính trước sớm đi, mất đất thì vẫn kéo nhau đi ăn xin được, còn mất đường thì đội quân bị gậy biết đặt chân vào đâu để hành nghiệp? Chắc phải xắn cao quần lội xuống các bờ mương mà đi rồi. Nhưng đến khi mất trời thì nguy quá, chắc phải tìm sông lạch mà lặn mà vùi, chỉ để hở hai con mắt là còn yên thôi. Âu cũng là cái số trời đã định từ khi ông lạc Long Quân chia tay với bà Âu Cơ. Đang yên lành trên mảnh đất trung du của mình, bỗng hứng lên đem 50 con đi tuột xuống nước mà ở. Kể ra, Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử 4000 năm đến thế là tuyệt đỉnh. Cực lực hoan hô! Nguyễn Huệ Chi ****** BÁN ĐẤT BÁN NƯỚC BÁN CẢ ĐƯỜNG ĐI Phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập cần sự hợp tác đầu tư với nước ngoài là đương nhiên. Hơn thế nữa, cần phải sử dụng công nghệ, học hỏi kỹ năng quản lý, và tận dụng vốn của nước ngoài để thu được lợi ích nhiều nhất, nhưng phía mình lại bị tổn thất ít nhất. Đó là bài toán tối ưu cửa miệng. Ai cũng nói được nhưng không phải ai cũng làm được. Nhìn lại thực tế những gì mà chúng ta đã làm từ khi bắt đầu chính sách mở cửa trong suốt hai mươi năm qua, thì rút ra được một số kết luận cay đắng sau đây. 1. Chúng ta không thu được gì nhiều và không học được gì đáng kể ngoài việc đã bán đi tất cả những gì có thể bán Bán đất Một đoạn đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. (Ảnh: Đặng Tiến) Những vùng đất đai có phong cảnh đẹp hay đắc địa đều được bán cho người nước ngoài đầu tư, thời hạn thông thường là năm mươi năm. Nếu họ mang tiền đến phát triển sản xuất thì còn khả dĩ, nhưng phần lớn đó là các dự án dịch vụ, địa ốc. Nghĩa là họ lấy đất xây nhà để bán cho chính người Việt Nam, và tổ chức các dịch vụ để thu tiền của chính người Việt Nam. Tiếc thay, các dự án bán đất kiểu này, có thể mang lại sự phát triển bề mặt, nhưng không mang lại giàu có bền vững đích thực làm cho đất nước hùng cường. Lấy một thí dụ điển hình như thành phố Đà Nẵng. Không phủ nhận sự thay đổi khang trang của thành phố và đời sống người dân phần nào cải thiện trong thời gian đổi mới. Nhưng sau hai mươi năm mở cửa hội nhập, nền công nghiệp Đà Nẵng có được những gì đáng giá? Từ thí dụ của Đà Nẵng để mà suy nghĩ và không thể không xót xa về sự phát triển của đất nước. Bán tài nguyên Không cần phải liệt kê cụ thể. Không có loại khoáng sản nào mà chúng ta không nhanh chóng đem bán. Thậm chí đến khoáng sản khai thác lỗ và mang lại nhiều hậu quả tai hại như bô xít Tây Nguyên mà cũng vội vã đem bán tất. Bán nước Không chỉ bán khoáng sản, không chỉ bán rừng, mà chúng ta bán cả nước sông hồ và biển. Nhiều hồ đều bị bán quyền sử dụng khai thác trong nhiều năm. Ở Vũng Áng chúng ta bán đi cả hàng ngàn héc ta biển. Đến Vịnh Hạ Long cũng có người muốn bán quyền sử dụng khai thác. Bán đất, bán rừng, bán tài nguyên khoáng sản và bán cả nước. 2. Chúng ta đã bán một cách vội vã lấy được Nếu bán có chọn lọc cân nhắc thì còn chấp nhận được, nhưng dưới bình phong đầu tư phát triển, chúng ta đã bán tràn lan khắp mọi nơi có thể. Nguyên nhân là nhiệm kỳ lãnh đạo chỉ có hạn, nên trong nhiệm kỳ phải tìm mọi cách để bán bằng được các dự án đất đai và tài nguyên. Hiện tượng này phổ cập ở tất cả các tỉnh thành, từ trung ương cho đến tỉnh huyện xã. Chẳng hạn, mỏ sắt Thạch Khê Hà Tĩnh chưa khai thác bây giờ thì đời cháu chắt hay nhiều trăm năm sau sẽ khai thác cũng chưa nuộn. Vội vã chi mà phải hấp tấp bán cho nhà đầu tư Đài Loan Trung Quốc với những ưu đãi đặc biệt và ẩn chứa những hậu quả an ninh khôn lường? Tại sao người Đức người Pháp không đầu tư mà lại là người Trung Quốc? Lãnh đạo Hà Tĩnh và Chính phủ Việt Nam có ý thức rằng mình đã vội vã bán rẻ mạt tài nguyên mà cha ông để lại từ ngàn đời? Người Đức người Nhật có làm giàu bằng cách bán tháo tài nguyên của tổ tiên để lại hay không? Lãnh đạo Việt Nam có biết không khi chính người Trung Quốc đang đi mua tài nguyên các nước khác thì họ lại đang chắt chiu để dành nguồn tài nguyên trong nước? 3. Chúng ta đã bán dài lâu đến hết cả đời cháu chắt Vũng Áng đã được cho thuê 70 năm. Nghĩa là nếu bố và mẹ lúc 61 tuổi nghỉ hưu đã cho thuê đất 70 năm, thì con 41 tuổi, cháu 21 tuổi và chắt 1 tuổi, đợi đến 70 năm sau đều không được quyền sử dụng đất. Lúc đất được trả về thì chắt đã 71 tuổi, và người chít đời thứ 5 cũng đã 51 tuổi, mới được nhận lại quyền sở hữu đất! Vậy mà có người còn dự định bán đất 99 năm, và thậm chí là 120 năm. Nếu cha ông đều bán đất kiểu đó thì thế hệ bây giờ ở đâu? 4. Không chỉ bán đất bán nước chúng ta đang bán cả đường đi Ai cho phép Bộ giao thông vận tải và VEC bán đường? Những ngày gần đây báo chí đồng loạt đưa tin rằng Tổng công ty phát triển đường cao tốc Việt Nam đang chuẩn bị bán một số tuyến đường cao tốc. Thoạt nghe đã rùng mình. Khi bán đi những khu đất, những cánh rừng, người dân buộc phải di cư sang những nơi khác, dẫu là hẻo lánh cằn cỗi, nhưng vẫn còn có chỗ để ở và mưu sinh. Khi bán đi hồ nước sông ngòi và cả từng vùng biển, người dân phải dạt sang vùng nước khác, dẫu sóng gió nguy hiểm, nhưng vẫn còn có chỗ để mò cua bắt cá mà tồn tại. Nhưng nay lại bán đi cả đường sá, quyền đi lại của người dân không còn nữa. Không thể ngồi ở nhà, mà muốn đi ra thì phải trả tiền theo giá tùy tiện. Ngày xưa đường nhỏ gồ ghề, chịu khó còn đi được. Nay đường to rộng nhưng không có tiền đành phải bó chân. Nói một cách cụ thể hơn. Ở thôn có con đường làng dân vẫn đi lại. Nay bỗng chốc trưởng thôn bán cho người khác xây to hơn. Ai muốn đi phải trả phí theo giá của chủ mới. Nếu không phải lội xuống ruộng vượt rào hay tìm đường mà đi. Bởi vậy, người dân có quyền thét to lên rằng: Hãy trả đường cho dân đi, nhỏ hay xấu cũng là đường của dân, tại sao lại lấy mất đường của dân rồi bắt dân muốn đi thì phải trả tiền theo giá tùy ý của các ông? Trong số tiền mà các ông xây dựng đường có bao nhiêu tiền thuế dân đóng? Trong số tiền mà các ông xây dựng đường dân sẽ phải gánh chịu bao nhiêu nợ? Ai cho các ông quyền lấy đất của dân làm đường rồi lại bán cho người khác? Có ai trong Bộ Giao thông Vận tải đặt ra những câu hỏi tương tự? Xây dựng đường cao tốc hình thức BOT ở đâu ? Hệ thông giao thông là huyết mạch của quốc gia. Nó không chỉ là huyết mạch về kinh tế mà còn là huyết mạch an ninh quốc gia. Bởi vậy quốc gia phải nắm quyền kiểm soát hệ thống giao thông chứ không thể là người nước ngoài. Nếu VEC bán đường cao tốc Lào Cai – Hà Nội cho người nước ngoài, thí dụ là Trung Quốc, thử xem điều gì sẽ xẩy ra? Trong vô vàn khả năng có thể, chỉ xin nêu ra vài điều: - Lệ phí có thể lên cao ngất phục vụ cho lợi ích của chủ mới, bất chấp thiệt thòi của dân địa phương. - Dùng lệ phí để cản trở, hoặc điều tiết luồng giao thông, chủng loại giao thông, thời gian giao thông theo ý định của chủ đường. Chẳng hạn như: xe Trung Quốc có thể có lệ phí khác với xe Việt Nam, xe quân sự khác với xe dân sự, xe chở lương thực khác với xe chở khách, xe chạy đêm khác với xe chạy ngày… - Khai thác đường tối đa, thu hồi vốn thật nhanh, bàn giao lại cho nước sở tại con đường nát rách không thể sử dụng. - Nắm được số liệu, quy luật, và thực tế dòng vận tải giao thông của một vùng lãnh thổ nước khác. - Nước sở tại mất quyền chủ động trong những trường hợp thiên tai, nhân đạo, chiến tranh… Bởi vì thế, các quốc gia rất hạn chế trong việc cho người nước ngoài tham gia xây dựng giao thông dưới dạng BOT. Muốn cho các đối tác nước ngoài tham gia xây dựng giao thông dưới hình thức BOT, nước sở tại rất cân nhắc trên các phương diện sau: - Chọn tuyến đường thúc đẩy phát triển được kinh tế cục bộ (chẳng hạn của một hòn đảo, một đặc khu, một phần thành phố…) - Chọn tuyến đường ngắn đầu tư đắt, chủ yếu là rút ngắn thời gian đi lại, tăng lưu lượng giao thông đột biến, vì thế có thể xây dựng nhanh và thu hồi vốn theo đúng thời hạn. - Tuyến đường thường chỉ có giá trị cục bộ và không là duy nhất. - Tuyến đường ít phương hại đến an ninh quốc gia. - Tuyến đường BOT phải được thông tin đầy đủ và rộng rãi cho các đối tác thừa năng lực, trong một thời gian đủ dài trước khi triển khai, để đối tác tìm hiểu nghiên cứu, cũng như để nước sở tại có nhiều đối tác tiềm năng cho việc chọn lựa. VEC có bán đúng giá? Phải thẳng thắn nêu ra những nhận xét sau khi giao cho VEC bán đường cao tốc: 1. VEC không đủ tầm và năng lực để đánh giá lựa chọn đối tác. 2. VEC không có khả năng xác định đúng giá. 3. VEC không bán đúng giá vì lợi ích cục bộ. Một thực tế đáng buồn cho Việt Nam, ở nhiều nơi trong các cơ quan nhà nước, là cấp trưởng phải quay lại hỏi cấp phó, cấp phó phải quay lại hỏi chuyên viên. Tờ giấy nhắc Thứ trưởng con số 34. 000 tỷ cho sách giáo khoa, cũng như 2 tỷ USD đầu tư sân bay Long Thành của ADPi “do nhầm lẫn đánh máy” là những dẫn chứng cay đắng, rằng người lãnh đạo chẳng nắm được bản chất vấn đề. Bán quyền thu phí đường – rước người ngoài đến bóc lột Khi không có tiền thì phải kêu gọi đầu tư dưới hình thức BOT. Điều lạ ở Việt Nam là xây dựng xong đường cao tốc lại bán cho người ngoài quản lý khai thác. Ở đây có hai điều có thể nói là “thông minh” khác người. Một là, đã đầu tư xong chỉ quản lý thu phí, tại sao VEC lại phải bán quyền thu phí cả gói. Tiếng là lấy vốn để đầu tư nơi khác, nhưng kỳ thực còn một lý do nữa quan trọng hơn nhiều. Đó là khi bán trọn gói, có thể đút túi phần trăm một tổng tiền lớn một lần và mất hút. Còn chờ thu phí hàng năm mới lấy được một phần lời, thì đến bao giờ cho xong. Hơn nữa, nhiệm kỳ có hạn, các nhiệm kỳ sau là của người khác. Quả đúng là một quyết sách “thông minh” khác người. Hai là, nhà đầu tư nước ngoài khi trả một gói để lấy quyền thu phí đường, họ không mang lại lợi ích gì cho kinh tế Việt Nam, vì chính họ không tham gia xây dựng đường như hình thức BOT. Chẳng qua họ trả trước tiền để thu lại gốc và lời theo quyền đặt phí của họ mà người dân Việt Nam là người cuối cùng phải gánh chịu. Đây cũng là một nước cờ khác người. Chỉ không thể gọi là thông minh được, vì thực chất là cõng rắn cắn gà nhà, là rước người về bóc lột dân mình. Một điều cần lưu ý là nếu VEC là công ty tư nhân, VEC phải mua đất của dân để làm đường, VEC có vốn riêng thế chấp để vay tiền đầu tư, thì VEC muốn làm gì thì làm, VEC muốn bán cho ai với giá nào thì VEC bán. Nhưng VEC là công ty nhà nước; VEC lấy đất của dân với giá đền bù rẻ mat; VEC lấy tài sản nhà nước thế chấp để vay tiền. Tất cả tài sản của VEC chính là của dân. Vì thế, cả VEC lẫn Bộ Giao thông vận tải không có quyền muốn bán đường cao tốc nào thì bán, muốn bán cho ai thì bán, và muốn bán với giá nào thì bán. Có ai trong số lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải ý thức được sự khác biệt mang tính nguyên tắc này không? Từ những điều đã nêu trên, xin được gửi tới lãnh đạo Việt Nam hai kết luận sau đây. 1. Việt Nam không cần sự phát triển vội vã bằng cách bán hết mọi thứ Chúng ta muốn trở thành con rồng. Chúng ta muốn có tốc độ phát triển GDP nhanh nhất châu Á. Hậu quả là chúng ta bán vội vã, bán tống tháo những gì có thể bán được để mua lấy một sự phát triển bề ngoài giả tạo. Người xưa đã dạy, muốn tiến nhanh thì phải đi chậm. Xin hãy nhớ kỹ điều này. 2. Chính sách “Sở hữu đất đai toàn dân” là căn nguyên dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế quốc dân và làm phương hại đến an ninh quốc gia. Ai cũng thấy tại vạ của chính sách sở hữu toàn dân. Bán đất bán rừng bán tài nguyên bán đường đi bán nước, bán nhiều năm cho đến tận đời cháu chắt chít – tất cả là do sở hữu đất đai toàn dân mà ra cả. Rồi sẽ vội vã cổ phần hóa. Tài sản toàn dân sẽ bị các nhóm thâu tóm với giá bất công rẻ mạt. Một thể chế bất công mới đã và đang được hình thành. Chừng nào chưa xóa bỏ sở hữu toàn dân, nhất là sở hữu đất đai, thì chừng đó đất nước không chỉ bị tàn phá khánh kiệt, mà người dân còn phải quay về thời bị làm thuê bóc lột, chỉ là ở mức độ khác và dưới tấm áo choàng khác mà thôi. Xin hãy vì quyền lợi quốc gia dân tộc mà dũng cảm tiến hành những cải cách căn bản, trong đó có quyền tư hữu đất đai. V.T.D. Theo Bauxite Việt Nam
......

Truất phế ngay Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh

Buồn và lo vì có vị Bộ trưởng Quốc phòng quá dớ dẩn Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quanh Thanh vừa dẫn đầu một đoàn 13 tướng lĩnh sang phụng bái Bắc Triều từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10 năm 2014. Đoàn gồm các ông: Trung tướng Bế Xuân Trường – Phó tổng Tham mưu trưởng;Trung tướng Lương Cường – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Dương Đức Hòa – Tư lệnh Quân khu 2; Trung tướng Phương Minh Hòa – Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; Trung tướng Võ Trọng Việt – Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Trung tướng Phạm Hồng Hương – Tư lệnh Quân khu 3; Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam – Phó tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; Thiếu tướng Phan Văn Tường – Phó tư lệnh Quân khu 1; Trung tướng Vũ Văn Hiển –Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng;Thiếu tướng Vũ Anh Văn – Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng – Cục trưởng Cục Đối ngoại – Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Ngô Quang Liên – Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng. Thực tế không biết họ đã bàn thảo với nhau những gì nhưng qua lời khai báo của Phùng Quang Thanh trong bài trả lời phỏng vấn các nhà báo bên lề cuộc họp Quốc hội hôm 20 tháng 10 năm 2014 thì không người Việt Nam nào không khỏi buồn lo, căm tức.   Nhà báo Vũ Đông Hà nhận xét: “Phùng Quang Thanh đã chính thức hùa theo Bắc Kinh để xem những vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông không còn là của Việt Nam nữa mà là khu vực chung của các quốc gia cùng khai thác. Ông ta "mượn" Đài Loan, Philippines, Malaysia để biện hộ cho những hành vi xâm lược của Bắc Kinh trên biển Đông. Phùng Quang Thanh đã trở thành người phát ngôn Việt Nam tích cực nhất cho chủ trương tằm ăn dâu của Bắc Kinh: "biến vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của Trung Quốc, và sau cùng biến vùng khai thác chính thức thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc"”. Mở đầu buổi phỏng vấn, Phùng Quang Thanh tí tởn khoe: “Chúng tôi sang thăm và làm việc thì bạn đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị”. Cái hoạt cảnh “nhử kẹo” này Thanh chẳng cần khoe thì tướng Nguyễn Trọng Vình, đại sứ lâu năm ở Trung Quốc cũng đã phác họa tử trước: “Chắc hẳn đoàn Bộ trưởng được đón tiếp trọng thị, khoản đãi hậu tình, có quà cáp đáng giá và được nghe những lời đường mật giả dối”. Trả lời câu hỏi: “Thưa ông, trong các cuộc làm việc, hai bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như chuyện giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước không?” Thanh nói: “Chúng tôi có trao đổi là bây giờ phải giữ nguyên hiện trạng trên biển Đông và phải thực hiện cho đầy đủ DOC. Tinh thần, quan điểm chung là không mở rộng tranh chấp, không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm”. Chết rồi! Ai đã cử Thanh sang Trung Quốc để lạy lục, cầu xin bọn chúng “giữ nguyên hiện trạng” chiếm biển, chiếm đảo của mình? Chẳng nhẽ Thanh đành cúi đầu dâng bái trước cái hiện trạng biển đảo của ta đã bị xâm lăng, chiếm đoạt rất đau lòng ư? Chẳng nhẽ Thanh không biết rằng chúng đã chiếm Hoàng Sa và đang tiếp tục lấn chiếm Trường Sa của ta ư? Từ cuối năm ngoái, Quân đội Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động xây dựng và cải tạo đất trên nhiều rạn san hô và đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa. Hình ảnh mà vệ tinh Mỹ thu được gần đây cho thấy các hoạt động của Trung Quốc đã làm tăng diện tích Đá Chữ Thập hơn 11 lần, từ 0,08 km vuông thành 0,96 km vuông. Đá Chữ Thập của ta bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp từ năm 1988 giờ đã trở thành đảo lớn thứ 5 ở Biển Đông sau đảo Phú Lâm, đảo Đông Sa, đảo Linh Côn và đảo Tri Tôn. Trên Đá Chữ Thập Trung Quốc đã xây dựng bãi đậu trực thăng, bến cảng, một tòa nhà hai tầng và một nhà kính 500 mét vuông. Hai trăm binh sĩ Trung Quốc đang đồn trú tại đó. Sau sân bay trên đảo Phú Lâm, Trung Quốc sẽ xây sân bay Đá Chữ Thập. Đá Chữ Thập được coi có vị trí chiến lược quan trọng ở Biển Đông, cách đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam khoảng 110 km. Nhẽ ra khi đàm phán Thanh phải nói: tạm thời giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng tranh chấp, không làm phức tạp thêm tình hình, Thế cũng đã là nhún lắm rồi. Nhún tạm thời nhưng nhất định sẽ chờ thời cơ đòi lại chủ quyền toàn vẹn. Trả lời câu hỏi: “Vậy Trung Quốc có đưa ra cam kết hay lời hứa nào về việc giữ nguyên hiện trạng không, thưa ông?” Thanh cho biết:“Hứa thì bạn không hứa nhưng nói chung hai bên đều thống nhất phải thực hiện DOC - nghĩa là không mở rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Còn hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng. Đài Loan cũng xây dựng, Philippines cũng tiến hành xây dựng đường băng, Malaysia có xây dựng và Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng. Đều là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo để đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đảm bảo điều kiện sinh hoạt trên đảo”. Sao lại lập lờ đánh lận con đen như vậy được? Sao lại hùm bà làng địch ta như vậy được! Tất cả như nhau ư? Tất cả đều được quyền tôn tạo để “tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo” ư? Nhân dân nào? Nhân dân hay thực dân? Lực lượng đóng quân nào? Đóng quân để giữ chủ quyền hay để xâm lăng? Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh, đại biểu Quốc hội tỏ ra tỉnh táo khi ông nói:“Theo tôi, việc Trung Quốc cơi nới các đảo, xây dựng các công trình ở Trường Sa vừa rồi không phải vì mục đích kinh tế, cũng không phải vì mục đích nhân đạo, mà họ phục vụ mục đích và ý đồ độc chiếm biển Đông”. Khi phóng viên bầy tỏ mối quan ngại sâu sắc qua câu hỏi: “Nhiều chuyên gia nêu ý lo ngại hướng xây dựng của Trung Quốc là để hình hành một căn cứ quân sự tấn công. Điều đó đe dọa mối an ninh hàng hải trong khu vực. Cảnh báo đó có đáng suy nghĩ, lo ngại?” thì Thanh lại cố tình bình thường hóa vấn đề: “Đó là các nhà nghiên cứu dự báo. Đương nhiên bên nào mà tiến hành xây dựng thì đó cũng là một căn cứ quân sự cả”. Đó là dự báo của các nhà nghiên cứu, còn Thanh thì sao? Có đáng suy nghĩ, lo ngại? hay Thanh cho rằng địch xây căn cứ quân sự trên lảnh thổ mình là chuyện đương nhiên? Nhảm nhí đến thế là cùng! Mù mờ đến thế là cùng!   Các hãng tin Trung Quốc thì tiết lộ: “Ngày 17/10, tại Bắc Kinh, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn đã cho biết: Hai bên đã đạt được ba nhân thức chung nguyên tắc về tiếp tục phát triển quan hệ giữa hai quân đội. Một là, thể theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng bước khôi phục và thúc đẩy quan hệ giữa hai quân đội phát triển lành mạnh. Hai là, tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước, bảo vệ sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Ba là, tuân thủ các nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước Trung-Việt, phát huy vai trò tích cực vì xử lý thoả đáng vấn đề trên biển, giữ gìn cục diện hoà bình và ổn định”. Thì ra, họ đến vời nhau chủ yếu là để: “tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước”, Đến nước này thì không thể còn nén chịu mà phải chửi thẳng vào mặt họ: “Chúng mày là lũ gian tặc, là tội đồ dân tộc, nếu chưa treo cổ ngay chúng mày lên được thì nhân dân cũng sẽ đời đời nguyền rủa chúng mày”. Nếu Thường Vạn Toàn nói sai sự thật thỉ Phùng Quang Thanh phải nghiêm túc cải chính ngay để không bị dư luận khẳng định là thằng phản bội tổ quốc. Cách đây mấy năm Nguyễn Phú Trọng đã chính thức ngỏ lời mời công an Trung Quốc sang đàn áp nhân dân ta, khi cần (Tìm đọc “Mấy nghi vấn đối với tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng ký kết” trong thư viện online “www.nguyenthanhgiang.com”). Có phải nay anh ta, với cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương, lại cử Phó Bí thư Quân ủy TW Phùng Quang Thanh mời Trung Quốc chuẩn bị sang chiến đấu với nhân dân Việt Nam để bảo vệ Đảng Cộng Sản Việt Nam!   Rõ ràng họ đang dụ voi về giầy mả tổ, chuẩn bị dâng giang sơn gấm vóc ta cho Tầu. Họ sẵn sàng lấy máu xương nhân dân ta chêm vững ngai vàng thống trị của họ (mà họ nhân danh Đảng).   Báo Quân đội Nhân dân thì đưa tin: “Chuyến thăm này (của Phùng Quang Thanh) nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên và bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và Quân đội hai nước”. Sao Phùng Quang Thanh lại ngồi với Thường Vạn Toàn để bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương? Có phải Quân đội Trung Quốc sẽ sung sướng được “quốc phòng” Việt Nam và quân đội Việt Nam sẽ phải đổ máu ra mà quốc phòng cho Trung Quốc? Cầu hòa, cầu thân thì phải cử lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ, Ngoại giao… đi đàm phán chứ sao lại cử quân đội đi tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên. Ôm chặt lấy nhau thì còn tay nào cầm súng khi cần thiết. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh dạy rằng: “Sinh ra bộ Quốc phòng là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia. Lẽ ra ông Bộ trưởng phải phân biệt rõ bạn, thù, ra sức tăng cường lực lượng quốc phòng về mọi mặt, luôn sẵn sàng chuẩn bị đối phó với tình hình xấu nhất theo tinh thần “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” như dân tộc ta đã thực hiện”. Không biết do phản bội tổ quốc hay vì quá non kém, ngu xuẩn mà Nguyễn Phú Trọng lại xuất tướng trong trường hợp này. Nói về thao lược thì một người đàn bà Việt Nam làm thơ cũng biết khi bí phải ghểnh sỹ, còn tốt đầu phải để dành mà dú dí vô cung. (Thơ Hồ Xuân Hương: “Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sỹ/ Chàng lừa thiếp đang khi thất ý/ Đem tốt đầu dú dí vô cung”). Đằng nay, họ thấp cơ thua trí đàn bà thế này thì đúng như tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lo ngại: “Có một ông Bộ trưởng Quốc phòng như thế thì việc mất biển, đảo và mất nước là khó tránh khỏi”. Từ nay đến Đại hội ĐCSVN thứ XII còn những hơn một năm nữa. Trong khoảng thời gian này không biết cái cặp đôi Nguyễn Phú Trọng – Phùng Quang Thanh sẽ còn gây biết bao nguy hại cho đất nước.   Chúng tôi khẩn thiết kiến nghị: “Truất phế ngay Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh”. Hà Nội 24 tháng 10 năm 2014 Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6, ngõ 235, đường Trung Văn Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội
......

Phía sau họ là những bậc cha mẹ can đảm!

Cuộc Cách Mạng đang diễn ra ở Hồng Kông là cuộc cách mạng mang đến cho thế giới nhiều nỗi xúc động nhất. Hình ảnh các sinh viên quỳ dọc theo đường ga xe lửa trên tay cầm tấm bảng với nội dung xin lỗi người dân vì những bất tiện gây ra bởi cuộc biểu tình, hình ảnh các sinh viên đồng loạt đứng dơ hai tay lên trời khi bị nhóm côn đồ theo lịnh Bắc Kinh trà trộn vào hành hung, và hình ảnh 5 sinh viên cúi đầu cám ơn những hỗ trợ dành cho phong trào sau buổi đàm phán với chính phủ, là những hình ảnh cảm động, đẹp nhất, và khó quên nhất. Nhìn các em, người ta thấy ngay một thế hệ người Hồng Kông đáng kính, những bậc cha mẹ phía sau họ. Đằng sau các sinh viên này, có lẽ không có những cấm đoán dữ dội, không có những lời khuyên răn kiểu như: “hãy mau trở về nhà, hãy im lặng để được sống an thân, hãy sống bàng quan, chuyện đất nước không phải là trách nhiệm của mình”. Phía sau họ là những bậc cha mẹ can đảm! Trả lời với đại diện chính quyền Hồng Kông về yêu cầu phải giải tán đám đông biểu tình, Alex Chow, lãnh tụ sinh viên đã xác định điều này, anh nói với họ: “nếu đi ra các khu biểu tình, quý vị sẽ thấy nhiều thế hệ dân HK ở đó. Chỉ chính phủ mới có thể làm cho họ đi về nhà, bằng cách trả lời các yêu cầu của dân chúng, cho họ thấy một lộ trình và một thời biểu để đạt đến các mục tiêu dân chủ”. Sinh viên Hồng Kông học bài, làm bài tập, ngủ trên đường phố từ ngày này sang ngày khác, sẵn sàng chịu bị còng tay, sẵn sàng hứng hơi cay… Và cha mẹ họ cũng sẵn sàng chịu hứng hơi cay với họ. Cách đây nửa thế kỷ, tại Hungary đã có một cuộc cách mạng của những người trẻ dũng cảm, và những bậc cha mẹ dũng cảm. Nhắc về những người trẻ này là nhắc về huyền thoại của “những chàng trai Pest” trên các đường phố của Hungary năm 1956. Những ai đã từng sống với chủ nghĩa cộng sản đều biết rằng phía sau những “những chàng trai Pest” này là những bậc cha mẹ can đảm! Đây là biến cố chấn động đầu tiên trong khối các nước Xã Hội Chủ Nghĩa ở Ðông Âu; vì đây là một cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản, chống quân xâm lược Liên Xô, đòi dân chủ và độc lập dân tộc. Nhưng trước khi nói đến cuộc cách mạng năm 1956, tưởng cũng nên nhắc lại linh hồn của những cuộc cách mạng Hungary – Thi Sĩ Petőfi Sándor. Ngày 15 tháng 3 năm 1848 trước Bảo tàng Quốc Gia Hungary, người thanh niên trẻ, lúc đó chỉ mới 24 tuổi, thi sĩ Petőfi Sándor đã dõng dạc đọc bài thơ “Bài Ca Dân Tộc” do chính ông sáng tác. Bài thơ có những câu: “Hỡi thánh thần của người Hung /Chúng con xin thề /Sẽ không bao giờ chịu kiếp nô lệ!…” Đây là một khúc tráng ca, hào hùng như tiếng kèn xung trận. Thi phẩm này được coi như linh hồn của cuộc cách mạng dân chủ Hung năm 1848, và Petőfi trở thành một thủ lĩnh tinh thần, một thi hào vĩ đại nhất của Hungary ở thế kỷ 19. Khi liên minh Áo-Sa hoàng ào ạt đổ quân vào Hungary, mặc dù bạn hữu can ngăn, nhưng Petőfi vẫn nhất quyết đầu quân ra chiến trường. Rồi như một định mệnh, với cái ước mơ được hiến dâng đời mình nơi chiến địa, ông gục ngã như hai câu thơ ông viết: “Ðể lũ ngựa ầm ầm phóng qua xác tôi/Mau kịp đến với lẫy lừng chiến thắng...” Cái chết của người con ái quốc Hungary, thi sĩ Petőfi Sándor, đã không bao giờ được chấp nhận. Nhiều năm sau này, dân tộc Hung vẫn đi tìm tung tích của ông. Nhiều huyền thoại đã được truyền tụng, rằng Petőfi chưa chết, ông chỉ bị thương nặng, bị bắt rồi bị đày đi ở chốn Siberia xa xăm. Petőfi Sándor của Hungary hay Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính của Việt Nam; cái họ để lại là phong cách của một con dân ái quốc trước quân xâm lược, trước cái chết tất yếu phải đối mặt. Họ đã truyền lại cho đời sau một sức mạnh có tác động mãnh liệt, mà chính họ cũng không thể ngờ tới; sức mạnh có thể làm xoay chuyển vận mệnh của cả một dân tộc. Tuy cuộc cách mạng năm 1848 sụp đổ, nhưng thừa hưởng một tình yêu thắm thiết và lãng mạn dành cho tổ quốc của thi sĩ Petőfi để lại, những thanh thiếu niên Hungary đã lao vào cuộc cách mạng chống lại quân xâm lược Nga giành độc lập năm 1956. Cuộc cách mạng này đã hội tụ được đông đảo thanh thiếu niên Hung quả cảm và can trường. Theo tường thuật lại, ở tại Corvin nơi xảy ra chiến sự ác liệt nhất, hơn 80% chiến binh chỉ ở độ tuổi 20, nhiều thiếu niên chỉ ở ngưỡng cửa tuổi 16 hoặc trẻ hơn. Họ là học sinh, sinh viên và những công nhân ở độ tuổi dưới 25. Những thiếu niên này đã đi vào lịch sử Hung với cái tên gọi đầy thương mến “những chàng trai Pest”. Nhiều thập niên sau này, người dân Hungary vẫn lưu truyền một câu nói cảm động, mang đầy tính tự hào: “Tại sao quân Liên Xô chỉ toàn tấn công vào sáng sớm? Là vì khi đó bọn trẻ vẫn đang ngủ!”. Đọc về cuộc cách mạng Hung 1956, chúng ta biết tuổi trẻ Hungary đã được các thế hệ cha anh dẫn dắt, trân trọng và nuôi lớn bằng lịch sử, bằng ý thức quốc gia, và bằng niềm tự hào dân tộc. Tuổi trẻ VN cũng đã từng được nuôi lớn bằng những chất liệu như thế. Gần đây nhất là thế hệ của Nguyễn Thái Học và đồng đội của anh. Tác giả Louis Roubaud đã từng viết về nỗi xúc động của ông khi chứng kiến 13 lời hô “Việt Nam muôn năm!” trước máy chém tại pháp trường Yên Bái. Hàng ngàn thanh niên trẻ của VNQDĐ đã đem sinh mạng mình hiến dâng cho tổ quốc. Có người không muốn bị giặc làm nhục phải tự sát đến ba lần như Nguyễn Khắc Nhu, hàng trăm người khác bị thực dân xử tử và hàng trăm người khác nữa bị lưu đày biệt xứ. Cả một thế hệ thanh niên sát vai nhau, cùng dấn thân để đánh đuổi ngoại xâm, cùng đồng tâm với cái quan niệm “không thành công cũng thành nhân”, cùng thản nhiên bước lên đoạn đầu đài với lời từ biệt gởi lại như một lời nhắn: “Việt Nam muôn năm”. Điều gì đã tạo nên thế hệ thanh niên đó? Nếu không phải là cách nhìn của họ về giá trị của một con người và về ý nghĩa của sự sống. Họ là hiện thân của những thế hệ Việt Nam đã đứng vững chân trên mảnh đất nhiều sóng gió này. Hiện thân của trách nhiệm, của lòng ái quốc, của lý tưởng trong sáng, của sự quyết tâm chấp nhận hy sinh. Họ còn thể hiện một ý chí bất khuất lưu truyền tự ngàn đời: KHÔNG CHẤP NHẬN SỐNG KIẾP NÔ LỆ. Chính vì những điều cốt lõi đó mà pháp trường hay máy chém của thực dân bỗng trở thành bùn đất.   Nhưng ngày nay, trước hiểm hoạ diệt vong, trước viễn ảnh mất nước, đâu rồi nội lực của dân tộc? Đâu rồi cả một thế hệ trách nhiệm và dấn thân? Phải chăng họ đã mất dấu sau gần 70 mươi năm dưới chủ nghĩa CS? Đâu rồi những con người đã sống cùng chiến tranh, sống qua chiến tranh? Chỉ những người nào đã đi qua chiến tranh mới biết được cái giá của độc lập quý báu đến dường nào. Và cũng chính chúng ta, có người mà máu đồng đội có lúc đã từng khô trên vai áo của mình; mới thực sự hiểu được giá trị của hy sinh cùng niềm hãnh diện khi được sống hiên ngang làm người Việt Nam. Hỡi các bậc cha mẹ! xin chia niềm hãnh diện đó với tuổi trẻ Việt Nam. Tôi tin chúng ta đang có thật nhiều những bậc cha mẹ như chị Kim Liên - mẹ của Đinh Nguyên Kha, chị Nhung - mẹ của Phương Uyên, bác Trần Văn Huỳnh - cha của anh Trần Huỳnh Duy Thức, … Xin hãy cùng góp mặt trong cuộc tử sinh của dân tộc. Đừng để tuổi trẻ Việt bơ vơ, mất phương hướng. Xin nắm tay họ bước theo điểm sáng của lịch sử như quý vị đã từng được dẫn dắt. Theo Viettan.org  
......

Ngô Minh Tâm: Kể chuyện đi thăm ba trong tù

Mấy ngày qua, những người tranh đấu cho tự do, dân chủ đã hân hoan chào đón chú Nguyễn Văn Hải, tức blogger Điếu Cày, bước ra khỏi nhà tù nhỏ, chấm dứt những năm tháng tù đày, khổ ải. Đây là một tin rất vui cho phong trào đấu tranh trong và ngoài nước. Nhưng xen lẫn niềm vui đó là nỗi buồn của thân nhân các nhà đấu tranh hiện đang bị giam cầm, đang phải chịu đựng sự đối xử bất công, sự trả thù tàn bạo trong các trại giam, như trường hợp anh Đặng Xuân Diệu, chị Tạ Phong Tần, cả ba tôi: ông Ngô Hào, cùng nhiều người tù chính trị khác. Tù nhân lương tâm Ngô Hào Nghe tin chú Hải được thả, tôi và nhiều anh em rất vui mừng cho gia đình cô Tân. Cô và những người thân trong gia đình cô đã không còn được tự do trong nhiều năm qua vì có người chồng, người cha là tù chính trị. Trong niềm vui đó, tôi lại bồi hồi nhớ đến ba tôi. Năm nay ba tôi đã 65 tuổi, cái tuổi lẽ ra đã có cháu chắt và vui vầy với con cháu; thế nhưng ông đã phải “hưởng tuổi già” trong nhà tù khắt nghiệt, thiếu ăn, thiếu mặc, không được chăm sóc y tế, chỉ vì ông đã dám lên tiếng phản đối những bất công trong xã hội, kêu gọi trả tự do cho các nhà tranh đấu, các tù nhân lương tâm. Nhớ lại hôm đi thăm ba ngày chủ nhật 19/10/2014, hôm đó trời Phú Yên mưa rất to, sấm chớp đùng đùng. Tôi cùng mẹ và em trai sửa soạn các thứ để mang cho ba tôi. Hôm nay khác với những lần đi thăm nuôi trước đây, mẹ tôi đã chuẩn bị nhiều thức ăn hơn, những món ăn mặn và lương khô để dành cho ba dùng trong các ngày mưa lụt. Mẹ nghĩ, hiện Phú Yên đang vào mùa bão, mà nhà tù ba đang ở thì xa, đường đi khó khăn, ngập lụt, không biết tháng sau có đi thăm nuôi ba được hay không, nên mẹ đã chuẩn bị nhiều đồ thăm nuôi cho ba hơn mọi khi. Sau khi chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, gia đình lên đường đi thăm ba. Trời mưa xối xả, những hạt mưa nặng trĩu bắn vào mặt rất đau. Em tôi chở mẹ đi trước, tôi đi sau. Nhìn mẹ ngồi trên xe như “một đứa trẻ với thân hình nhỏ nhắn”. Có lẽ do tuổi tác, bệnh tật, cuộc sống thiếu thốn và luôn phải đương đầu với bão táp cuộc đời, nhất là trong thời gian sau khi ba đi tù, đã làm cho mẹ tôi có dáng người khắc khổ như thế. Bước vào trại giam, mẹ và anh em tôi có cảm giác nôn nao khi sắp được gặp ba. Tới nơi, mẹ tất bật xuống xe kiểm tra đồ dùng mang theo, xem có bị ướt không. Sau khi chờ đợi hơn một giờ đồng hồ, hình ảnh người cha thân yêu thấp thoáng đằng xa. Ba vẫn bước đi chân thấp chân cao, do di chứng của một lần gãy chân và mảnh đạn còn sót lại từ thời chiến tranh. Không rõ do sức khỏe yếu, hay vì vui khi gặp lại ba mẹ con, nên ba luống cuống, đi muốn té. Ngồi đối diện ba, được tận mắt nhìn thấy người cha thân yêu của mình đang chịu sự dày vò, khổ cực trong chốn lao tù, tôi vô cùng đau xót. Mở đầu câu chuyện, ba hỏi thăm sức khỏe của mẹ, vì sao mẹ ốm yếu và xanh xao như vậy. Ba còn dặn dò: “Bà phải cố ăn đi, uống thuốc vô để có sức đi thăm tui, có sức mà lo cho con nữa chứ”. Tuy lần nào đi thăm ba, tôi cũng đều nghe ông dặn dò mẹ, nhưng mỗi khi nghe lời ba nói, tôi đều cảm thấy buồn và xót xa cho tình cảnh của cha mẹ tôi: Liệu có còn cơ hội nào để họ được sống bên nhau trong quảng đời còn lại? Ở nhà, mẹ trông ngóng từng ngày để được đi thăm ba, mua đồ ăn cho ba, ba thích ăn thứ gì, lần trước đã mang cho ba những gì, rồi mẹ lại lo lắng, không biết trong tù ăn uống ra sao, có thuốc men khi ba bị ốm đau hay không? Trong tù, ba lại lo cho mẹ, lo mẹ ở nhà bệnh, ăn uống không đầy đủ, sẽ không có đủ sức khỏe đi thăm ba trong những lần tới. Đó là những tình cảm yêu thương mà ba mẹ tôi, người ở trong nhà tù nhỏ, kẻ ở ngoài nhà tù lớn, đã dành cho nhau. Tôi hỏi trong tù ba ăn uống thế nào? Ba trả lời: vẫn là món rau muống như thường lệ mà mọi người thường gọi đùa đó là món “rồng xanh”. Không rõ đây có phải là tiêu chuẩn chung cho mọi người, hay đây là “ân huệ”, mà trại giam “chiếu cố” cho những người tù chính trị không chịu sự khuất phục như ba tôi, như anh Đặng Xuân Diệu hay chị Tạ Phong Tần và nhiều tù nhân “cứng đầu” khác? Kế đến, tôi hỏi ba về thuốc men trong trại thế nào, bởi ba tôi hiện đang mắc nhiều chứng bệnh như thiếu máu não, cao huyết áp, loét bao tử, cao mỡ trong máu... Thật bất ngờ khi nghe ba nói rằng ba được đi ký tên khám bệnh và nhận thuốc rồi. Tôi nghe ba nói vậy nên mừng quá, nhưng rồi tôi vô cùng thất vọng khi nghe ba kể tiếp rằng, ngày nào ba cũng phải đến trạm xá để ký tên nhận thuốc. Có những ngày được nhận thuốc nhưng có những ngày chỉ lên để ký xác nhận vào một cuốn vở học sinh là nhận thuốc, nhưng không hề được nhận một viên thuốc nào! Tôi không hiểu vì sao những người trong trạm y tế của trại giam phải làm như vậy? Có phải họ muốn dùng chữ ký của các tù nhân để chứng minh với các tổ chức nhân quyền, với chính phủ Mỹ và các nước phương Tây, rằng họ đã đối xử với tù chính trị ở Việt Nam “tử tế”, rằng tù nhân được chăm sóc y tế, được nhận thuốc men đầy đủ, để chứng minh Việt Nam “có tiến bộ về nhân quyền”? Và nhờ sự “tiến bộ” đó nên Mỹ đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm buôn bán vũ khí sát thương với Việt Nam?! Cũng chính nhờ sự “tiến bộ” đó nên các vòng đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Mỹ cũng dễ dàng hơn?! Sau đó ba có kể, cách đây khoảng 1 tháng, có một vị an ninh trên tổng cục VIII xuống gặp ba. Tôi không hiểu họ xuống gặp ba tôi để làm gì. Họ xuống hỏi thăm vì quan tâm tới ông, hay là xuống kiểm tra xem ba tôi đã chịu khuất phục hay vẫn còn ngoan cố? Tôi hỏi ba: khi gặp họ ba nói gì? Ba trả lời rằng, ba không ngần ngại tuyên bố: Ba là lính Việt Nam Cộng hòa, đã chiến đấu bảo vệ đất nước và bảo vệ sự tự do, dân chủ của người dân. Ba vào tù hôm nay cũng chỉ vì lên tiếng cho sự tự do của người dân và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Và ba đã bị bắt vào tù, bị đày ải thế này, vậy mà họ tuyên truyền “Mỹ ngụy” xấu lắm, ác độc lắm, thế sao người tù nào thời đó cũng được ăn uống đầy đủ, được vui chơi thoải mái?! Ba trải qua bao nhiêu chiến trận, bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu đày ải, ba không sợ, bởi việc làm của ba là quang minh chính đại, nên dù có bị bắt, dù có bị tù tội, tra tấn, ba cũng cam chịu vì ba hiểu việc làm của mình là chính nghĩa. Một chế độ không phải lúc nào thắng là đúng đâu, muốn biết chế độ đó đúng hay sai thì 50 năm, hay thậm chí 100 năm nữa, khi con cháu thấy được tự do, lúc đó mới biết ai đúng ai sai. Dù bây giờ những người tranh đấu đang bị tù đày, không có nghĩa là những điều họ làm là sai. Nghe những điều ba nói, tôi biết ba không sợ. Và tôi hiểu, một người lính Việt Nam Cộng Hòa như ba tôi, dù sống trong cảnh lao tù khổ ải, vẫn giữ nguyên khí chất của người lính ấy. Ba kể, kết thúc buổi gặp gỡ, vị an ninh đó nói với ba: Cố gắng giữ sức khỏe để ở tù nhé. À, thì ra họ đến để kiểm tra tinh thần của ba tôi ra sao, đã khuất phục chế độ này chưa?! Và cuối cùng thì giờ thăm nuôi cũng đã hết. Dắt xe ra về mà lòng tôi nặng trĩu, khi nghĩ tới thân thể già yếu, bệnh tật của người cha mình ngày đêm tranh đấu trong chốn lao tù. Liệu ông có còn đủ sức để sống thêm 14 năm nữa, bước ra khỏi tù khi mãn án, hay ông phải bỏ xác trong tù như những người tù chính trị đã từng gửi nắm xương tàn trong các trại tù nơi xa xăm nào đó? Tôi mong tất cả những người dân Việt Nam trong và ngoài nước đang tranh đấu cho lẽ phải, các tổ chức nhân quyền, các cơ quan truyền thông quốc tế, và chính phủ của những nước ủng hộ cho tự do dân chủ, hãy giúp lên tiếng, can thiệp cho tất cả các tù nhân lương tâm, những người đang bị bức hại trong chốn lao tù, như trường hợp anh Đặng Xuân Diệu, chị Tạ Phong Tần, bố tôi, cùng tất cả những người tù chính trị khác, được ăn uống đầy đủ, được chữa trị khi đau ốm và nhất là được tự do, sớm bước ra khỏi nhà tù nhỏ, về đoàn tụ với gia đình. Xin ghi nhận nơi gia đình tôi tấm lòng tri ân gửi đến tất cả mọi người! Ngô Minh Tâm 25-10-2014 nguồn: anhbasam.wordpress.com/2014/10/26/
......

Chống tham nhũng: voi, hổ đi săn, chỉ bắt được vài con chuột nhắt

Có lẽ hiếm có quốc gia nào có đội ngũ lực lượng chống tham nhũng mạnh mẽ như ở nước ta. Cả hệ thống chính trị Đảng, Chính Phủ và Mặt trận cùng vào cuộc chống tham nhũng. Về cơ quan chuyên môn trực tiếp hoặc gián tiếp chống tham nhũng thì khó có thể kể hết tên. Phía Đảng có Ủy Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Ủy ban Kiểm tra; phía nhà nước có Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Phòng chống tội phạm, hệ thống các cơ quan tố tụng từ trung ương đến địa phương; phía cơ quan quyền lực, Quốc hội có vai trò giám sát tối cao; phía nhân dân, Mặt trận Tổ Quốc các cấp cũng có vai trò phát hiện, phản biện đấu tranh chống tham nhũng. Quả là cả một đội ngũ trùng trùng điệp điệp.   Về các văn bản luật pháp, quy định hành chính, nghị quyết của Đảng cũng có cả rừng văn bản luật lệ đủ mọi cấp độ để phòng và chống tham nhũng. Lực lượng đông, quyền lực mạnh, công cụ pháp lý có đầy đủ, ấy vậy mà càng chống tham nhũng càng tăng, càng tham nhũng với mức độ lớn hơn, từ “một bộ phận không nhỏ” không biết đến nay nó đã phát triển đến mức độ nào, cắm rễ sâu đến đâu mà ngay đến người lãnh đạo cao nhất của Đảng cũng phải tuyên bố “ném chuột coi chừng vỡ cái bình quý!”. Như vậy, có thể hiểu chuột đang nằm trong bình quý hoặc nằm lởn vởn quanh đâu đó mới có nguy cơ đáng sợ như vậy! Chỉ có 1/1000.000 người vi phạm? Thử khảo sát một số hoạt động cụ thể của công tác phòng chống tham nhũng xem vì sao việc chống tham nhũng không hiệu quả. Trước hết là việc minh bạch công khai tài sản, tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, báo cáo công tác phòng chống tham nhũng năm 2014, Tổng TTCP Huỳnh Phong Tranh cho biết qua tổng hợp kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2013 cho thấy có gần một triệu người đã kê khai tài sản, thu nhập. Tuy nhiên chỉ có 5 trường hợp phải xác minh, trong đó có một người xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo do kê khai không trung thực. Chỉ mới nghe qua tỉ lệ một trên một triệu người kê khai tài sản bị xử lý kỷ luật cho thấy việc kê khai và xử lý thông tin kê khai này không hiệu nghiệm. Những cơ quan, con người có trách nhiệm quản lý cán bộ, quản lý và xử lý kê khai đã làm không hết trách nhiệm. Có môt so sánh vui, thử điểm qua một số tài sản khủng của cán bộ do bị trộm “phát hiện” ra và cách xử lý số tài sản này đủ cho thấy điều đó. Thì dụ điển hình là vợ chồng ông Đặng Xuân Thọ - Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Kon Tum và bà Trần Thị Xuân Lan - Trưởng phòng Tổ chức Cục thuế tỉnh Gia Lai. Kẻ trộm phát hiện dưới gầm giường một valy khóa số, bên trong có nhiều vàng thẻ đóng gói thành dây bọc trong túi nilon, nhiều nhẫn vàng, bông tai, lắc vàng, dây chuyền vàng... Tổng số tài sản do nhóm trộm lấy tại nhà ông Thọ khoảng 2,792 tỷ đồng, Nhóm trộm bị kêu án tù nhưng về phía người bị trộm không nghe thấy phải giải trình gì về số tài sản này. Tương tự như vậy, nhà Giám đốc Sở GTVT tỉnh Bắc Kạn cũng bị trộm khoắng trên môt tỉ đồng, ông Phạm Minh Tú, Trưởng Ban quản lý dự án huyện Đông Hải (Bạc Liêu), ở thị trấn Giá Rai, huyện Giá Rai (Bạc Liêu) bị lấy trộm tài sản với trị giá khoảng 1,5 tỷ đồng trong két sắt… Xem ra bọn trộm đã nắm được tài sản cán bộ tốt hơn nhiều so với cơ quan chức năng. Bị tố giác xác minh xử lý quá chậm   Việc phát hiện tài sản bất minh của người và cơ quan quản lý quá mù mờ đã đành, thế nhưng đối với các trường hợp đã được báo chí tố cáo thì việc kiểm tra xử lý lại càng quá chậm. Thí dụ điển hình là từ tháng 3/2014, báo Người Cao Tuổi đã có loạt bài phản ánh  khối "tài sản nổi" của ông Trần Văn Truyền - nguyên Tổng TTCP đếm sơ sơ cũng lên tới sáu cái bất động sản (ba nhà đất ở Bến Tre và ba nhà đất ở TP HCM), trong đó có hai tài sản khủng là căn biệt thự rộng 30.000 m2 ở Sơn Đông và một bất động sản ở Khu Đô thị 5 sao Phú Mỹ Hưng. Riêng căn nhà đất tại Phú Mỹ Hưng cũng lên tới 3 - 4 triệu USD, thì tổng số "của nổi" của ông Truyền phải chục triệu USD. Ông Truyền đã lý giải loanh quanh trong đó có cho rằng một phần tài sản là của người em nuôi làm doanh nghiệp cho tặng. Luật sư Phạm Công Út (Đoàn Luật sư TP HCM), cho rằng, với một người có chức vụ cao trong bộ máy thanh tra Chính phủ mà “kết nghĩa” và được quà tặng có giá trị đặc biệt lớn là điều bất bình thường, có thể xem điều đó có dấu hiệu vi phạm luật Phòng, chống tham nhũng, thậm chí vi phạm pháp luật hình sự. Nếu em kết nghĩa tặng quà với giá trị rất lớn, đặc biệt lớn, nhưng hoàn toàn không có mối quan hệ về lợi ích liên quan đến hoạt động công vụ của ông Truyền thì ông Truyền vẫn phải có nghĩa vụ kê khai thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, Thế nhưng từ đó đến nay đã hơn sáu tháng, việc xác minh tài sản của ông Trần Văn Truyền vẫn chưa có kết quả. Mới đây, ông Trần Đức Lượng Phó Thanh tra chính phủ cho biết Ban Bí thư đã giao cho Ủy ban Kiểm tra trung ương làm rõ nội dung này. Đến nay, TTCP chưa nhận được kết quả. Sáu tháng vẫn chưa xác minh xong tài sản chỉ một cá nhân đã được tố cáo công khai thì tiến độ công việc này quả là chậm chạp đạt kỷ lục. 8000 cuộc thanh tra, chỉ xử lý 48 người   Cũng theo báo cáo của Thanh Tra, từ đầu năm đến nay, cả nước đã tiến hành gần 8.000 cuộc thanh tra hành chính và 190.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành... Chỉ đọc mấy con số trên, có thể đã thấy một kỉ lục về tinh thần chống tham nhũng hào hùng, khẩn trương, quyết liệt của lực lượng thanh tra cả nước. Bởi từ đầu năm đến nay (ngày 20/10) mà có đến những 198.000 cuộc thanh tra, kiểm tra hành chính và chuyên ngành. Tức là quãng 20.000 cuộc thanh, kiểm tra mỗi tháng và cũng tức là mỗi ngày có khoảng... 700 cuộc thanh, kiểm tra tính cả thứ bảy, chủ nhật và ngày nghỉ. Tuy nhiên, báo cáo còn cho thấy một “kỉ lục” khác, đó là cả năm 2014 chỉ có 48 người đứng đầu thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng bị xử lý, trong đó chỉ có 3 người bị xử lý hình sự. Giống như chống tham nhũng thuê cho Nhật Đó là việc tham nhũng bị tố cáo trong nước, những hành vi tham nhũng bị phát giác và tố cáo ở nước ngoài thì việc xử lý còn chậm chạp nhiêu khê hơn nhiều thậm chí là chừng như có cả những động thái bao che bênh vực. Điển hình là vụ Đại lộ Đông Tây ở TPHCM, khi phía Nhật đã truy tố bắt giam và công bố công khai việc này trước dư luận quốc tế thì phía ta còn có tuyên bố ngược lại. Phải đến lúc phía Nhật cắt viện trợ ODA vụ án mới được xem xét.Mặc dù vụ án xảy ra ở Việt Nam, kẻ nhận hối lộ là Huỳnh Ngọc Sỹ và đồng phạm là người Việt Nam nhưng các cơ quan chức năng vẫn khoanh tay chờ phía Nhật cung cấp hồ sơ. Đến khi có được hồ sơ lại than hồ sơ quá nhiều không có tiền để thuê dịch thuật. Gần đây nhất là vụ nhận hối lộ của Tổng Công Ty đường sắt, phía Nhật cũng là người phát hiện, công bố và cung cấp hồ sơ, còn phía ta các bản kiểm điểm của các quan chức vi phạm đều cho rằng mình trong sạch. Cách làm thờ ơ này chừng như ta đang chống tham nhũng thuê cho Nhật Bản chứ không phải chống cho ta. Lý giải về nguyên nhân chậm chạp và không hiệu quả này, ông Phí Ngọc Tuyển, Phó Cục trưởng Cục chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ cho rằng “Chúng ta trải qua thời kỳ hoàn thiện chính sách từ năm 2007 đến nay và đã nhiều lần sửa đổi quy định về kê khai tài sản, thu nhập. Các lần sửa đổi ấy đều hướng đến giải quyết bài toán làm sao để khai được trung thực, khách quan. Thực tế hiện nay TTCP được Chính phủ giao tiếp tục nghiên cứu các biện pháp để đảm bảo việc kê khai tài sản trung thực”. Nói cách khác hơn là chúng ta đã có bảy năm nghiên cứu ban hành và sửa đổi chính sách rồi nhưng vẫn chưa phù hợp. Sắp tới sẽ còn nghiên cứu tiếp nhưng nghiên cứu đến bao giờ thì chưa biết được. Thời gian soạn thảo chính sách, kiểm tra xác minh từng vụ việc chậm chạp kéo dài từ năm này qua năm khác mà không có điểm dừng làm cho người dân băn khoăn liệu các cơ quan trách nhiệm có muốn chống tham nhũng thật hay không? Đàn voi, hổ, chó săn ấy có thật lòng muốn săn tham nhũng thật hay là để cho những con voi tham nhũng đi qua lỗ kim và chỉ bắt những con chuột lắc. Trong khi chúng ta mất thời gian ngắc ngứ cân nhắc hàng tháng, hàng năm trời với những tài sản bất minh hàng triệu đô la thì hai vị nữ bộ trưởng của Nhật đã nhanh chóng từ chức sau khi bị tố giác thâm lạm một số tiền trong quỹ bầu cử để mua mỹ phẩm. Ông Bộ trưởng Kinh tế mới lên thay có hai ngày đã lung lay chỉ vì số tiền hơn 130 Euro mà nhân viên của ông đã thanh toán cho dịch vụ sex. Chấn động này không chỉ ảnh hưởng đến an toàn của ông Bộ trưởng mà còn tác động đến chỉ số tín nhiệm của người dân đến Thủ tướng Nhật. Phải chăng chính sự nghiêm khắc đối với các quan chức cao cấp chính là động lực để sự minh bạch, chống tham nhũng trở nên hữu hiệu ở cả quốc gia? Chống tham nhũng phải bắt đầu và tập trung vào những người nắm quyền lực cao nhất của quốc gia. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy muốn chống tham nhũng phải diệt hổ chứ không chỉ diệt ruồi. Theo  nguoidongbang.blogspot.com.au
......

Cầu nguyện cho Đặng Xuân Diệu từ cả 3 miền Nam, Trung, Bắc

Vào chiều ngày chủ nhật 26/10/2014, các thánh lễ cầu nguyện cho Tù Nhân Lương Tâm Đặng Xuân Diệu, cho giáo xứ Thái Hà trong cơn hoạn nạn, và cho công lý & hòa bình, sẽ được cử hành tại: - Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế trên đường Kỳ Đồng, Sài gòn; - Nhà Thờ Giáo Xứ Thuận Nghĩa, Huỳnh Lưu, Nghệ An; và - Nhà Thờ Giáo Xứ Thái Hà, Hà Nội. Sau đây là thư thông báo của Linh Mục Gioan Nam Phong cho buổi lễ tại Thái Hà   THÔNG BÁO Thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hoà bình Trước tình cảnh tính mạng của tù nhân lương tâm Phanxico Đặng Xuân Diệu đang bị đe dọa trong nhà tù vì những hành động vô lương, bất chấp nhân tâm của nhà cầm quyền Việt Nam, Trước việc chính quyền Hà Nội trắng trợn, ngang nhiên thách thức công luận, vi phạm pháp luật về quản lý đất đai, ngang nhiên cưỡng chiếm tài sản, đất đai của Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà, Giáo xứ Thái Hà sẽ tổ chức thánh lễ cầu nguyện cho tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu và các tù nhân lương tâm khác đang bị giam giữ cách bất công tại các nhà tù Việt Nam, cho giáo dân đang sinh hoạt tôn giáo tại Thái Hà đoàn kết một lòng, dấn thân cho công lý và hoà bình, cho giáo xứ Thái Hà được bình an vượt qua cơn thọ nạn. Thánh lễ sẽ được cử hành vào lúc 20h00 ngày Chúa Nhật 26/10/2014 tới đây, tại nhà thờ Thái Hà, Hà Nội. Kính mời anh chị em giáo dân và những ai quan tâm tới tham dự. Thông báo này thay cho giấy mời. P/s: Xin cùng cầu nguyện và giúp chúng tôi chuyển thông báo này tới mọi người.
......

Đòi quyền ư? Đòi cái gì?

Ngày 21/10/2014, người tù lương tâm nổi tiếng – blogger Điếu Cày – được chính quyền Việt Nam “đày” sang Mỹ. Sự kiện này đã, đang, và sẽ được nhiều blogger, giới đấu tranh dân chủ trong nước và nước ngoài coi là một tin tốt lành. Điếu Cày, với những hy sinh của ông suốt gần 10 năm qua, sẽ được đồng bào ở hải ngoại đón tiếp hân hoan và nhiệt thành. Nhưng xen lẫn trong niềm vui, cũng có cả những chua xót. Chính quyền luôn “thắng lớn” Nỗi chua xót thứ nhất là, việc trả tự do cho Điếu Cày mà thực chất là trục xuất sang Mỹ “cho rảnh nợ”, chỉ một lần nữa cho thấy chính quyền Việt Nam sử dụng công dân mình, nhất là những người bất đồng chính kiến, như con bài để mặc cả, đổi chác như thế nào. Và điều đáng nói là giới đấu tranh dân chủ cả trong và ngoài nước đều đi đúng vào hướng mà chính quyền mong muốn: Tất cả đều sa vào những cuộc đấu tranh đòi “free Nguyễn Tiến Trung”, “free Lê Quốc Quân”, “free Điếu Cày”, v.v... tóm lại vận động trả tự do cho tù nhân lương tâm, mà xao lãng những vấn đề khác – những vấn đề thực sự là mấu chốt của cải cách chính trị, mà chính quyền luôn tìm cách lờ đi. Đó là sửa đổi Hiến pháp, cải cách tư pháp để đảm bảo sự độc lập của tư pháp. Là sửa đổi Bộ luật Hình sự, sửa Luật Báo chí, Luật Đất đai, v.v. Là hủy bỏ tất cả những điều luật và quy định “xiết chặt quản lý” thay vì bảo vệ quyền tự do của người dân – như hàng loạt điều khoản vi phạm nhân quyền trong Bộ luật Hình sự và những nghị định, thông tư đầy rẫy vô lý, vi hiến… Chính quyền đưa tù nhân lương tâm ra làm công cụ để đổi chác. Giới hoạt động dân chủ liền vận động quốc tế gây sức ép để buộc nhà nước Việt Nam phải trả tự do cho tù nhân lương tâm, mà chỉ riêng việc vận động cho một người thôi cũng đã làm hao tổn không biết bao nhiêu tâm trí, sức lực, nguồn lực. Có lẽ mỗi năm, mỗi tổ chức chỉ cần tiến hành 1-2 chiến dịch cũng đủ… hết sức, hết thời giờ, hết tiền. Mỗi cá nhân được thả lại được coi là một thắng lợi của cuộc đấu tranh, đủ làm giới đối kháng hoan hỉ, cộng đồng quốc tế ghi nhận. Còn những vấn đề mấu chốt kia thì vẫn giữ nguyên trạng!. Biến công dân thành tù nhân lương tâm rồi đem ra mặc cả quả là có lợi: Vừa có cái để đổi chác với Mỹ và Tây phương, vừa gây hao tổn nguồn lực của giới đấu tranh dân chủ (nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại), lại vừa phân tán, đánh lạc hướng sự tập trung của họ khỏi các vấn đề có tính chất tử huyệt của chế độ. Lợi nhiều như thế, chẳng tội gì nhà nước không duy trì việc bỏ tù “bọn phản động”. Suy cho cùng, nhà nước mới thực là bên thắng, mà thắng lớn. Điều đau khổ là kể cả có biết vậy, giới hoạt động dân chủ và cộng đồng quốc tế cũng không thể không đấu tranh cho tự do của tù nhân lương tâm, vì ngoài ý nghĩa chính trị thì đây còn là chuyện nhân đạo. Và thế là, họ tiếp tục đi đúng hướng mà chính quyền Việt Nam mong muốn: Sa vào cuộc đấu tranh cho những cá nhân cụ thể mà quên mất cái lớn hơn.   Nguồn ảnh: Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ (2011) Sự bế tắc của cuộc đấu tranh Trong niềm vui đón mừng Điếu Cày được tự do, vẫn có những cái nhìn của blogger nói lên nỗi chua xót thứ hai. Ông Lê Quốc Tuấn, thành viên phong trào Con Đường Việt Nam, viết: “Một tương lai đích thực cho người Việt Nam vẫn còn nằm ở phía trước, cho đến khi đại đa số người Việt hiểu được rằng dân chủ tự do và quyền con người quan trọng hơn cơm áo qua ngày của một loại đời sống cúi mặt nhẫn nhục chờ đợi như hiện nay để cùng đứng dậy, tìm đến nhau cho một câu trả lời chung. Và, nếu người Việt Nam còn tiếp tục chịu đựng, đến lúc các nước phương Tây sẽ thấy họ lẻ loi trong việc cứ đi đòi hỏi Hà Nội những điều mà ngay chính người dân không màng đến… Khi ấy, tôi tin rằng những người tù lương tâm sẽ không còn được thả nữa”. Một thành viên khác của Con Đường Việt Nam, ông Hoàng Triết, cũng bình luận trên Facebook: “Dân chủ của Việt Nam không thể nào đến từ những người đấu tranh đơn độc trong nước. Càng không thể đến từ những nỗ lực giúp đỡ từ hải ngoại. Và càng không thể từ sự quan tâm của người nước ngoài.... Khi mà đại đa số người dân trong nước chẳng muốn làm gì cả”. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao ĐẠI ĐA SỐ người dân trong nước lại chẳng muốn làm gì cả? Có phải vì các nhà đấu tranh chưa hiểu đúng, hoặc không thật hiểu người dân Việt Nam không? Dân chủ, tự do, nhân quyền. Đó đều là các khái niệm đẹp đẽ, và đều trừu tượng. Một người dân thường điển hình, chẳng hạn, một công chức ở Hà Nội hoặc TP.HCM, khi nghe câu “dân chủ tự do và quyền con người quan trọng hơn cơm áo qua ngày của một loại đời sống cúi mặt nhẫn nhục”, chắc hẳn sẽ có suy nghĩ phản biện như thế này: “Sao? Chúng tôi đâu có thấy chúng tôi mất tự do gì đâu? Chúng tôi có nhẫn nhục cúi mặt gì đâu. Chúng tôi đi làm hàng ngày, hôm nào có kha khá tiền thì đi nhậu, không có thì về nhà xem tivi, thỉnh thoảng đi hát karaoke, xem phim, du lịch quanh quanh. Chúng tôi vẫn đọc báo đều, vẫn có Internet để vào mạng, lên Facebook chém gió, vẫn có tivi mà xem các game show, nóng nực vẫn có cái máy điều hòa, lạnh vẫn có máy sưởi... Chúng tôi có thấy chúng tôi làm sao đâu mà các vị bảo chúng tôi là đang nhẫn nhục, phải đòi tự do? Ông Điếu Cày đấu tranh gì gì đấy, thì đi tù, rồi được Mỹ nó bảo lãnh cho qua. Ừ, tốt, cũng mừng cho ông ấy. Nhưng mà cụ thể ông ấy đòi hỏi cái gì ấy nhỉ? Tự do à? Ủa, thì chúng ta vẫn tự do mà, có ai bị làm nô lệ như thời thuộc Pháp đâu? Ổng đòi tự do báo chí à? Ô hay, thì chúng ta vẫn lên mạng viết lách, lên Facebook chém gió ầm ầm kia kìa; vẫn mua báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp luật Thành phố… ê hề ngoài sạp kìa, có thiếu gì đâu, mất gì đâu? Tóm lại là các vị đòi cái gì?”. Tự do, dân chủ, nhân quyền là các khái niệm đẹp đẽ, nhưng cũng chính là cái bẫy chết người mà các học giả, các nhà đấu tranh trong nước và hải ngoại rất dễ rơi vào: Đa số người dân không hiểu chúng là cái gì, mà những nhà hoạt động thì lại đang đấu tranh cho những thứ rất “chung chung”, “mơ hồ” đó. Và đi đến tận cùng con đường tranh đấu, nhà hoạt động bị bỏ tù, trở thành tù nhân lương tâm, trong khi dân chúng đa số không hiểu vì sao họ phải quan tâm đến một cá nhân đã bị cầm tù vì một sự nghiệp không liên quan gì đến họ. Hình ảnh xiềng xích, còng, dây thép gai... là biểu tượng của sự mất tự do, nhưng đang tỏ ra rất thiếu thuyết phục trong tuyên truyền,  vì đa số người dân VN chỉ thấy nghĩa đen của vấn đề là họ không hề bị xích chân tay gì cả. Nguồn ảnh: PJMedia Giới hoạt động dân chủ tiếp tục đi vào hướng mà chính quyền Việt Nam mong muốn, nhưng ở đây thì lại ngược hoàn toàn với phần trên: Họ sa vào cuộc đấu tranh cho những điều có vẻ rất xa vời, trừu tượng, lý thuyết đối với dân chúng, mà quên mất những lợi ích cụ thể, rõ ràng trước mắt người dân, nôm na như quyền được dùng thực phẩm sạch, không phải uống rượu giả, bia giả chẳng hạn. Các quyền đất đai cũng là một lĩnh vực gần gũi, sát sườn với nông dân. Nhưng khẩu hiệu “đấu tranh vì quyền đất đai” vẫn là một khái niệm chung chung, trừu tượng, cần được cụ thể hóa hơn nữa, ví dụ trở thành mục tiêu “đền bù công bằng”. (Thế nào là đền bù công bằng, đền bù công bằng thì phải được thực hiện ra sao, lại cũng là những điều cần làm rõ). Có lẽ, chỉ khi nào phong trào đối kháng ở Việt Nam tìm được cách đấu tranh vì những điều cực kỳ cụ thể, thì việc làm của họ mới trở nên dễ hiểu và dễ thuyết phục dân chúng. Theo phamdoantrang.com/2014/10
......

GIÁO SƯ ALLEN WEINER: Nhà cầm quyền VN tiếp tục vi phạm nhân quyền

GIÁO SƯ ALLEN WEINER CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT STANDFORD THÔNG TIN CẬP NHẬT ĐẾN LIÊN HIỆP QUỐC VỀ VIỆC NHÀ CẦM QUYỀN VIỆT NAM TIẾP TỤC VI PHẠM NHÂN QUYỀN STANFORD, California, ngày 21 tháng 10 năm 2014 - Giáo sư Allen Weiner, giám đốc Chương Trình Luật Quốc Tế và Đối Chiếu tại trường Đại Học Luật Stanford, ngày hôm nay đã gởi thông tin cập nhật liên quan đến kiến nghị đã được trình lên Ủy Ban Điều Tra Về Bắt Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc (UNWGAD) tại Geneva tháng Bảy năm 2012 đặt vấn đề về việc bắt giữ phi pháp và tiếp tục giam cầm mười sáu nhà hoạt động xã hội và chính trị tại Việt Nam. Bản cập nhật nêu việc nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã liên tục thất bại trong việc tuân theo phán quyết của UNWGAD tháng Tám năm 2013, rằng việc tước đoạt quyền tự do của những nhà hoạt động nêu trên là làm trái với nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam chiếu theo Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị và Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.Ủy Ban đã yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam thả tức khắc những người bị giam giữ và bồi thường thỏa đáng cho họ. Bản cập nhật nhấn mạnh rằng mặc dầu tính chất rõ ràng của phán quyết tháng Tám năm 2013 của UNWGAD, nhà cầm quyền Việt Nam vẫn còn đang tiếp tục vi phạm những nghĩa vụ pháp lý rõ ràng theo luật pháp quốc tế. Mười một trong số nhà hoạt động tiếp tục bị chính phủ Việt Nam giam giữ tùy tiện, vi phạm những nghĩa vụ quốc tế về nhân quyền. Ngoài ra, mặc dù năm trong số những nhà hoạt động đã mãn hạn tù, họ vẫn còn phải chịu những hạn chế phi pháp về quyền tự do do việc nhà cầm quyền thi hành những biện pháp "quản lý hành chánh", một cách hạn chế tự do đi lại, làm trở ngại trầm trọng đến sinh kế của họ và đồng thời vi phạm những nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam.   Ngoài ra, bản cập nhật liệt kê những đối xử đầy ác tâm của nhà cầm quyền Việt Nam đối với những người liên quan trong phán quyết của UNWGAD. Bản cập nhật nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt đến cách đối xử tàn nhẫn, mất phẩm giá con người đối với ông Fanxicô Đặng Xuân Diệu, một blogger đồng thời là thành viên của tổ chức ủng hộ dân chủ Việt Tân. Những vi phạm nhân quyền Theo lời một cựu tù nhân, ông Diệu đã bị biệt giam và bị đánh đập vì vẫn duy trì mình vô tội và từ chối mặc quần áo tù. Quản lý nhà tù đã liên tục không cung cấp thức ăn và nước sạch và bắt ông Diệu phải sống trong phòng giam chật hẹp và thiếu cả những phương tiện vệ sinh cơ bản. Sự ngược đãi ông Diệu là một vi phạm rõ rệt Điều 19(1) của Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị, theo đó: "Tất cả những người bị tước mất quyền tự do phải được đối xử một cách nhân đạo và nhân phẩm phải được tôn trọng." Sự ngược đãi này đồng thời cũng đi ngược lại với Điều 5 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, theo đó: "Không ai có thể bị tra tấn hoặc bị đối xử, trừng phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo, làm hạ phẩm giá." Hành vi này cũng hoàn toàn trái ngược với các tuyên bố của nhà cầm quyền Việt Nam khi ký Công Uớc Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn Và Những Đối Xử, Trừng Phạt Tàn Nhẫn, Vô Nhân Đạo Hoặc Làm Giảm Nhân Phẩm vào ngày 7 tháng 11 năm 2013. Đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, khi ký vào Công Ước đã khẳng định rằng, Việt Nam [một lần nữa] "tái xác nhận quyết tâm vững chắc ngăn ngừa tất cả những hành động tra tấn, tàn nhẫn, vô nhân đạo, hoặc làm giảm nhân phẩm và bảo vệ, cổ vũ tốt hơn những nhân quyền cơ bản." Vì những ngược đãi tiếp tục đối với những người tham gia vào những hoạt động xã hội và chính trị ôn hòa tại Việt Nam và việc nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục giam giữ những người đó một cách phi pháp, bản cập nhật yêu cầu UNWGAD có hành động khẩn cấp thay mặt cho ông Fanxicô Đặng Xuân Diệu và những người kiến nghị, điển hình là yêu cầu một chuyến viếng thăm Việt Nam, gồm cả việc đi thăm ông Diệu tại nhà tù; đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam điều tra về tình trạng và cách đối xử hiện nay đối với ông Diệu; lập lại Phán Quyết trước của Ủy Ban và tái yêu cầu thả tất cả mười sáu nhà hoạt động xã hội và chính trị bao gồm trong Phán Quyết tháng Tám năm 2013.   Vi phạm luật pháp quốc tế Theo ông Allen Weiner, giảng viên cao cấp của Trường Luật Stanford, cũng là luật sư của những người đệ đơn: "Dựa trên quan điểm của Ủy Ban Điều Tra Về Bắt Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc, không thể có câu hỏi chính đáng nào về việc Việt Nam giam giữ những nhà hoạt động xã hội và chính trị là đúng với lập pháp quốc tế hay không. Đó không thể là gì khác ngoài sự đàn áp của nhà cầm quyền đối với những người muốn thực thi những quyền dân sự và chính trị, được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế."   "Việc nhà cầm quyền Việt Nam từ chối thả những người đệ đơn, bất kể phán quyết rõ ràng của Ủy Ban Điều Tra Về Bắt Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc, phản ảnh sự coi thường trầm trọng luật pháp quốc tế và nêu lên những câu hỏi quan trọng về vai trò mà Việt Nam muốn có trong cộng đồng quốc tế", ông Weiner nhấn mạnh. "Trên hết, đó là một sự bất công nặng nề đối với các nhà hoạt động, chỉ muốn tham gia vào những sinh hoạt xã hội và chính trị mà chúng ta cho là những điều hiển nhiên trong một xã hội tự do." Trong phán quyết tháng Tám năm 2013, UNWGAD có trách nhiệm cứu xét những trường hợp bắt giữ tùy tiện, đã nêu rõ rằng việc có quan điểm và bày tỏ quan điểm, kể cả những quan điểm không phù hợp với chính sách của nhà nước, được bảo vệ bởi Điều 19 của Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị. Ủy Ban nhấn mạnh rằng những điều khoản của luật pháp Việt Nam được sử dụng để buộc tội những người đệ đơn, là "mơ hồ và quá chung chung". Ủy Ban nhận định rằng việc tước đoạt quyền tự do của những người đệ đơn, cũng như những sai sót trong thủ tục tại các phiên xử, là trái với nhiều điều khoản của Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị và Bản Tuyên Nhôn Quốc Tế Nhân Quyền.   Những người đệ đơn kể tên như sau: Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Nguyễn Văn Oai, Chu Mạnh Sơn, Đậu Văn Dương, Trần Hữu Đức, Lê Văn Sơn, Nông Hùng Anh, Nguyễn Văn Duyệt, Nguyễn Xuân Ánh, Hồ Văn Oanh, Thái Văn Dung, Trần Minh Nhật, Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình, và Nguyễn Đình Cương. [Đọc bản Phán quyết của Ủy Ban Diều Tra về Bắt Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc trong bản Kiến nghị nguyên thủy.] Về ông Allen Weiner Allen S. Weiner là giảng sư cao cấp, giám đốc Chương Trình về Luật Quốc Tế và Đối Chiếu Luật tại trường Đại Học Luật Stanford, đồng-giám đốc Trung Tâm Stanford về Xung Đột và Đàm Phán Quốc Tế tại Đại Học Stanford. Ông là một học giả về luật quốc tế với kiến thức chuyên môn về nhiều lãnh vực như luật an ninh quốc gia và quốc tế, luật chiến tranh, giải quyết tranh chấp quốc tế, và luật hình sự quốc tế (gồm cả công lý chuyển tiếp). Lãnh vực nghiên cứu của ông chủ yếu về luật quốc tế và đối sách với những đe dọa an ninh hiện đại của khủng bố quốc tế, việc gia tăng những vũ khí giết người hàng loạt, và những trường hợp tội ác chống nhân loại lan rộng. Ông cũng nghiên cứu quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trong bối cảnh những xung đột vũ trang không đối xứng giữa Hoa Ký và những nhóm phi chính phủ và đối phó với khủng bố. nguồn: http://blogs.law.stanford.edu/newsfeed/2014/10/21
......

Mừng Anh Điếu Cày

Tuy bị trục xuất khỏi Việt Nam, nhưng sự kiện CSVN đã phải thả anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải - một tù nhân lương tâm kiên cường đứng đầu trong danh sách can thiệp của chính phủ Obama trong nhiều năm qua - ngay sau khi ông Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh trở về nước qua chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào đầu tháng 10 vừa qua, đã gây một chấn động lớn trong dư luận Việt Nam và Thế giới.   Trên bề mặt, đây là một sự mặc cả giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn trong việc tháo bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương đối với CSVN sau khi xảy ra vụ Trung Quốc mang giàn khoan HD 981 vào tận vùng biển Việt Nam; nhưng việc Hà Nội đã phải trục xuất một nhân vật tiên phong khởi xướng phong trào biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Việt Nam từ năm 2008 cho đến nay là một chỉ dấu lo sợ làn sóng chống Bắc Kinh đe dọa sự tồn vong của chế độ. Không những thế, Điếu Cày còn là người sáng lập ra Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do và đã kiên cường đấu tranh cho lý tưởng này ngay trong nhà tù với một tinh thần gan dạ và quả cảm thu hút sự ủng hộ và kính trọng của hầu hết các tù nhân sống chung với anh. Với một người chống chế độ có sức ảnh hưởng lan tỏa rộng rãi như vậy, CSVN rất lo ngại và coi Anh là một đối thủ nguy hiểm. Vì thế mà CSVN cố che dấu và không dám thông báo cho gia đình về những tin tức liên quan đến các diễn tiến trục xuất Điếu Cày. Với bản lãnh đấu tranh kiên cường như vậy, Điếu Cày đã và tiếp tục làm cho CSVN khiếp sợ chứ không phải trục xuất anh ra khỏi nước là yên chuyện. Cuộc đấu tranh ngày nay đã và đang trải rộng không chỉ ở trong và ngoài Việt Nam mà còn gây tác động to lớn trên mạng ảo toàn cầu. Việc anh Điếu Cày trở lại với hàng ngũ đấu tranh sau 7 năm bị tù tội, sẽ góp phần tạo thêm những chuyển biến mới cho phong trào dân chủ Việt Nam trong thời gian tới.
......

Blogger Điếu Cày được phóng thích sang Mỹ

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã xác nhận Blogger Điếu Cày đang làm thủ tục rời Việt Nam và đang trên đường đến Los Angeles Gia đình một blogger nổi tiếng ở Việt Nam vừa được một nguồn tin đáng tin cậy thông báo thân nhân của họ tối nay đã được đưa thẳng từ nhà giam ra sân bay Nội Bài trong một động thái có phần chắc là trục xuất  ngay sau khi phóng thích trước thời hạn.   Trong cuộc trao đổi với Trà Mi VOA Việt ngữ lúc 9:30 tối nay (21/10), vợ blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải), cho biết chồng chị ‘bị ép ra đi trong một bối cảnh bí mật, vội vàng, gia đình không hề được thông báo trước’ sau 6 năm rưỡi thi hành bản án 12 năm tù về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’, một bản án bị quốc tế và giới bảo vệ nhân quyền tố cáo là nhằm trả đũa các hoạt động của ngòi bút cổ xúy dân chủ-nhân quyền và phản đối Trung Quốc xâm lấn Biển Đông. Chị Dương Thị Tân: Thông tin gia đình chúng tôi nhận được rất hạn chế. Một nguồn tin độc lập rất đáng tin cậy, một người có uy tín nhắn cho biết ông Hải đang trên đường ra sân bay Nội Bài. Một tiếng sau đó, cũng người đó nhắn lại rằng ông Hải đã ngồi trên máy bay và máy bay chuẩn bị cất cánh. VOA: Thông tin đầu tiên gia đình nhận được lúc mấy giờ hôm nay? Chị Dương Thị Tân: Gần 7 giờ tối. VOA: Đã 2 tiếng rưỡi kể từ khi có thông tin đó. Gia đình có liên lạc với chính quyền để xác nhận thông tin này? Chị Dương Thị Tân: Có liên lạc với những nguồn tin mà mình có thể tham khảo được thì hầu như là không ai trả lời gì cả. Tôi cũng thông báo cho một số anh em ngoài Hà Nội, họ cũng tích cực đi xác minh thông tin và một số bạn đã chụp được hình ảnh của đại diện bên Đại sứ Hoa Kỳ đang làm thủ tục ở sân bay. Nguồn tin thì rất đáng tin cậy rồi, thế nhưng tôi cũng không được vui khi ông Hải bị ép ra đi trong một bối cảnh rất bí mật, vội vàng, và gia đình không hề được biết, không được thông báo trước, cũng không được những người đại diện của Đại sứ quán Mỹ hay nhà cầm quyền Việt Nam thông báo. VOA: Mức độ chính xác của thông tin này cho tới giờ phút này, theo chị đánh giá, bao nhiêu phần trăm có thể tin chắc mọi chuyện đã diễn ra như vậy? Chị Dương Thị Tân: Mình có thể tin chắc việc này. VOA: Trước nay gia đình chắc cũng có giữ liên lạc với Tòa lãnh sự hoặc Đại sứ quán Hoa Kỳ. Gia đình có thử liên lạc với họ để hỏi thăm thông tin? Chị Dương Thị Tân: Họ cũng rất thận trọng. Sự thận trọng của họ là đúng nhưng ở những lúc chưa thể khẳng định thôi, chứ còn đến những lúc như thế này rồi thì đúng ra họ phải cho gia đình biết. Nhưng họ cũng không cho biết, mình cũng rất lấy làm buồn. Con gái mình đã 6 năm rưỡi nay chưa được nhìn thấy bố. Bây giờ họ đưa đi thế này không biết bao giờ cháu mới lại được nhìn thấy bố. VOA: Lần cuối cùng gia đình được thăm gặp blogger Điếu Cày là cuối tháng 9? Chị Dương Thị Tân: Đúng vào ngày 28/9. VOA: Tại cuộc gặp lần đó, blogger Điếu Cày cũng đã cho biết một số thông tin liên quan dù chưa chắc chắn. Hôm nay, khi nhận được tin này, cảm giác của chị thế nào? Chị Dương Thị Tân: Mình chuẩn bị tâm lý là họ phải thả ông Hải, chứ mình không nghĩ là một sự ra đi vội vàng, bí mật thế này. Mình cũng không lường đến đâu. Cách ra đi thế này chưa từng có. Hoa Kỳ có thể đã mang rất nhiều người đi rồi. Thế nhưng, chưa bao giờ có trường hợp nào như thế này cả. VOA: Vài trường hợp trước đây khi phóng thích-trục xuất tù nhân lương tâm ra khỏi nước có người thân đi kèm. Việc này hoàn toàn không xảy ra với thân nhân Điếu Cày, gia đình có cảm nghĩ thế nào? Chị Dương Thị Tân: Mình rất bàng hoàng. Ông Hải vừa trong tù ra, 6 năm rưỡi với một người tù đặc biệt như ông Hải không hề được tiếp cận với bất cứ một nguồn thông tin nào cả mà bây giờ lại phải ra đi đến một nơi xa lạ, xa xôi như thế không có người thân nào đi cùng. Ở Mỹ, gia đình mình không có thân nhân. Rất nhiều lo lắng. VOA: Giữa hai trường hợp với blogger Điếu Cày: một là mãn hạn tù 12 năm trở về với gia đình, hai là được can thiệp phóng thích sớm và trục xuất ra khỏi nước kiểu này. Trong hai trường hợp đó, theo chị, trường hợp nào tốt hơn cho blogger Điếu Cày? Chị Dương Thị Tân: Mỗi cách đều có vấn đề của nó. Ông Hải mà ở hết hạn tù thì đương nhiên vị thế của ông trong mắt bạn bè và giới đấu tranh dân chủ rất tốt, như là một tấm gương, một niềm khích lệ cho anh chị em. Nhưng ngược lại, nó lại có những nguy hiểm rình rập. Như cô thấy, thời gian gần đây một số tù nhân được thả ra thường là đau ốm, bệnh tật, cũng có những trường hợp ra tù không lâu thì chết. Việc ra đi như hôm nay thì tốt về vấn đề đỡ phải lo toan cho sinh mạng của ông trong tay họ. Nhưng ngược lại thì có những lo âu. VOA: Có ý kiến cho rằng Hoa Kỳ can thiệp cho tù nhân lương tâm Việt Nam là điều rất tốt, nhưng cũng có người nói sự can thiệp kiểu này không có tác dụng lâu dài, nhiều khi còn lợi bất cập hại, ảnh hưởng đến hoàn cảnh chung của phong trào dân chủ Việt Nam khi ai đấu tranh đến một mức nào đó thì cũng phải ra đi khiến con đường tương lai dân chủ Việt Nam nhìn chung chưa mấy được sáng sủa. Ý kiến riêng của chị, một người trong cuộc, thế nào? Chị Dương Thị Tân:Tốt cho cá nhân, nhưng không tốt cho phong trào chung. Thực tế mà nói cách ngoại giao con tin, cách mặc cả đổi chác bằng chính con dân của mình thì trên thế giới này không một quốc gia nào sử dụng chiêu bài này cả. Họ làm tổn hại đến quốc thể, một sự sỉ nhục quốc gia, khi mặc cả-đánh đổi những tù nhân lương tâm lấy những thứ họ cần. VOA: Một lời chia sẻ góp ý, một tiếng nói từ thân nhân tù nhân lương tâm trong nước được chính phủ Hoa Kỳ can thiệp, chị sẽ nói gì với chính phủ Mỹ? Chị Dương Thị Tân: Về mặt cá nhân, về mặt gia đình, tôi thay mặc ông Hải gửi lời cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ. Nhưng với cách can thiệp của chính phủ Hoa Kỳ thì hầu như họ cứ bật đèn xanh để cho chính phủ Việt Nam làm những việc tương tự trong tương lai. Con đường đấu tranh chắc còn gian nan nhiều lắm. Thay vì ủng hộ chúng tôi thì phải bằng những cách khác như giám sát, chế tài và làm những việc khác quyết liệt hơn chứ không phải là mang đi từng người, từng người một. Nhưng trước mắt, về khía cạnh gia đình, tôi có lời tri ân đến chính phủ Hoa Kỳ vì đã giúp đỡ một hoàn cảnh rất khắc nghiệt, rất đau thương là thân nhân gia đình tôi đi thoát khỏi những nơi chốn như vậy. Nhưng về vấn đề chung thì thật sự cũng không mấy vui. VOA: Cảm ơn chị rất nhiều vì thời gian dành cho cuộc trao đổi này. Nguồn: voatiengviet.com
......

HĐLTVN lên tiếng về tình trạng tù nhân lương tâm VN trong tù

Bản Lên Tiếng về tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu và các tù nhân lương tâm khác Ngày 09-01-2013, các đồng bào Việt Nam trong lẫn ngoài nước yêu tự do dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế đều hết sức bất bình phẫn nộ về phiên tòa bất công phi pháp mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam ngụy tạo để kết án 14 thanh niên Công giáo-Tin lành ở Nghệ An về tội gọi là “âm mưu lật đổ chính quyền” theo điều 79 Bộ luật Hình sự của Cộng sản với mức án tàn bạo (83 năm tù giam, 42 năm quản chế), trong lúc họ chỉ là những tâm hồn trẻ muốn đấu tranh ôn hòa cho tự do, nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam. Công luận đặc biệt chú ý đến ba người bị án nặng nề nhất (13 năm tù, 5 năm quản chế) là các Anh Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu và Lê Văn Sơn (anh Sơn về sau được giảm án trong phiên tòa phúc thẩm). Chưa hết, khi bắt đầu thụ án, các tù nhân lương tâm vô tội trên còn bị nhà cầm quyền Cộng sản -qua tay công an các trại giam- tiếp tục đối xử bằng nhiều cách thức tàn độc và hèn hạ, nhằm trả thù lòng yêu nước của họ và buộc họ phải nhận mình có tội. Chẳng hạn biệt giam cùm kẹp, cho ăn uống thiếu thốn, không chạy chữa thuốc men đầy đủ, nhốt trong nơi thiếu điều kiện vệ sinh, nhờ tù hình sự đánh đập hay hành hạ, không cho gặp người thân hoặc viết thư thăm gia đình, bỏ xó mọi đơn từ yêu cầu khiếu nại và triệt để cấm hưởng dụng quyền tự do tôn giáo… Chính những đòn thù vô nhân đạo và vô pháp luật này đã khiến nhiều tù nhân lương tâm đem sinh mạng mình ra để phản đối bằng cách tuyệt thực. Nhờ lời chứng của gia đình lẫn bạn tù vừa mãn án, công luận đang báo động về trường hợp thê thảm của Anh Đặng Xuân Diệu, hiện bị biệt giam ở Trại 5:huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa. Trước hết, với tinh thần bất khuất, tù nhân lương tâm này đã chẳng bao giờ nhận mình có tội, nên Anh cương quyết phủ nhận phiên tòa, không thèm kháng án để được phúc thẩm, không mặc áo tù có đóng triện “phạm nhân”, trái lại còn gởi thư phản kháng đến Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam (nhưng chẳng được trả lời). Hậu quả là từ khi bị đưa vào Trại 5, Yên Định, Thanh Hóa (sau phiên tòa sơ thẩm), một đàng Anh không hề được gặp mặt gia đình trong những lần họ đến thăm nuôi, đàng khác Anh còn bị biệt giam liên tục, bị cán bộ đánh đập, có lần bị nhốt chung nửa năm (22-04 đến 23-10-2013) với một phạm nhân can tội giết người mà Anh buộc phải phục vụ như một tên nô lệ. Anh cũng từng bị đưa vào “buồng kỷ luật”, ở đó phải bị cùm chân, uống nước bẩn, thiếu chăn màn, không được tắm rửa và sống trong hôi hám cùng tột. Vì đấu tranh cho các bạn tù có những điều kiện sống tối thiểu xứng với nhân phẩm và đấu tranh cho sự vô tội của mình trước một nền pháp chế bất nhân tàn độc, chủ yếu bằng tuyệt thực, hiện Anh Đặng Xuân Diệu đang tiếp tục gánh chịu những đòn thù của những cai ngục đã mất hẳn tính người và tình người. Giờ đây Anh đã suy sụp sức khỏe và tính mạng đang từng ngày bị đe dọa, trong lúc tại quê nhà, bà mẹ già 70 tuổi của Anh đang lâm bệnh nặng vì khổ đau và thương nhớ.   Đứng trước trường hợp thương tâm này, một trường hợp tiêu biểu cho thân phận các tù nhân trong hàng ngàn lao ngục Cộng sản, Hội đồng Liên tôn Việt Nam: – Cực lực phản đối nhà cầm quyền Việt Nam vì đã luôn chủ trương một chế độ lao tù chỉ nhắm trừng phạt, báo thù, bóc lột sức lao động của các tù nhân, nhất là tù nhân lương tâm; ngoài ra còn dùng mọi phương cách bạo lực và đê tiện để buộc hạng tù nhân này phải nhận tội. – Mạnh mẽ tố cáo lối ngụy biện và bao che thường thấy của quan chức Cộng sản là cho rằng chính sách nhà tù của CHXHCNVN luôn nhân đạo, chỉ có đôi nơi và đôi lúc nào đó, cán bộ công an cai tù làm sai chính sách do vô ý hay do chưa hiểu. – Khẩn cấp báo động trước lương tri nhân loại về các trường hợp giam tù nhân cho đến chết (Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại…), đầu độc tù nhân trong trại giam (Đinh Đăng Định, Huỳnh Anh Trí…), thả tù nhân trong tình trạng kiệt quệ sức khỏe (Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Tuấn Nam…), hành hạ tinh thần hay thân thể những tù nhân bất khuất (linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Nguyễn Công Chính, các tín đồ Mai Thị Dung, Dương Thị Tròn, các doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, Đặng Xuân Diệu, các nhà báo Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, các sinh viên Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đinh Nguyên Kha, công nhân Đoàn Huy Chương…) và vô số tù nhân lương tâm khác. Làm tại Việt Nam ngày 17-10-2014, nhân dịp Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng viếng thăm Lãnh đạo tinh thần tối cao của Công giáo, Đức Giáo hoàng Phanxicô. Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam Công giáo: - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh (đt: 0993.598.820) Phật Giáo: - Hòa thượng Thích Không Tánh (đt: 0165.6789.881) - Thượng toạ Thích Viên Hỷ (đt: 0937.777.312) Tin Lành - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (đt: 0121.9460.045) - Mục sư Đinh Uỷ (đt: 0163.5847.464) - Mục sư Đinh Thanh Trường (đt: 0120.2352.348) - Mục sư Nguyễn Hồng Quang (đt: 0978.207.007) - Mục sư Phạm Ngọc Thạch (đt: 0912.000.709) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn (đt: 0906.342.908) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (đt: 0906.342.908) - Mục sư Lê Quang Du (đt: 0121.2002.001) Cao Đài: - Chánh trị sự Hứa Phi (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (đt: 0988.477.719) Phật giáo Hoà Hảo: - Hội trưởng Lê Quang Liêm (đt: 0199.2432.593) - Ông Phan Tấn Hòa (đt: 0162.6301.082) - Ông Tống Văn Chính (đt: 0163.5745.430) - Ông Lê Văn Sóc (đt: 096.4199.039) Nguồn: http://fvpoc.org/2014/10/17/
......

FLD lên tiếng về an nguy của anh Đặng Xuân Diệu trong tù

Nhà hoạt động nhân quyền Đặng Xuân Diệu bị ngược đãi nghiêm trọng trong lao tù Vào ngày 7/10/2014, một người ở tù chung với tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu cho biết về tình trạng đối xử tồi tệ, vô nhân tính mà anh đã phải chịu từ tháng 4/2014. Thời gian này, anh đã bắt đầu tuyệt thực để đấu tranh cho quyền của tù nhân và sau đó bị biệt giam, không được quyền giao tiếp với bất kỳ ai. Trước khi bị bắt vào tháng 7/2011, anh Đặng Xuân Diệu là một kỹ sư và là một lãnh đạo cộng đồng, người tạo cơ hội cho học sinh nghèo được đi học và hoạt động cứu trợ các nạn nhân bão lụt. Anh đồng thời cũng là một cộng tác viên của Truyền Thông Chúa Cứu Thế. Vào ngày 9/1/2013, sau 2 năm bị tạm giam, anh Đặng Xuân Diệu bị kết án cùng với 14 nhà hoạt động xã hội khác bị gán tội “âm mưu lật đổ chính quyền” theo điều 79 Bộ luật hình sự. Anh bị kết án 15 năm tù giam, kèm theo 5 năm quản chế. Anh Đặng Xuân Diệu đã không có cơ hội kháng án và yêu cầu điều tra lại vụ án của anh. Anh đã bị giam tại nhà giam số 4 - B1 trong thành phố Hà Nội và sau đó được chuyển về trại giam số 5 tại Thanh Hóa. Được biết, anh Đặng Xuân Diệu khẳng định mình vô tội và từ chối mặc bộ đồng phục tù nhân có ghi “tội phạm” trên áo. Anh cũng cho hay, thư kiến nghị anh gửi cho nhà cầm quyền đã không được trả lời. Gia đình anh Đặng Xuân Diệu chỉ được cho phép vào thăm anh một lần duy nhất khi anh còn bị giam tại Hà Nội. Các bạn tù cho biết anh đã thường xuyên bị ngược đãi dưới nhiều hình thức. Phần ăn và nước uống hàng ngày của anh đều bị nhà tù cắt. Được biết, anh Đặng Xuân Diệu bị hành hung và đánh đập bởi các quản ngục. Để phản đối việc này, vào tháng 4 năm 2014, anh đã bắt đầu một thời kỳ tuyệt thực dài. Từ đó, anh bị biệt giam và gia đình đã không hề được thăm gặp thêm một lần nào. Do đó, phải tới ngày 7/10/2014, khi người bạn của anh và từng ở tù chung là anh Trương Minh Tam được tha tù, thông tin đầu tiên về anh mới được tiết lộ. Anh Trương Minh Tâm cho biết rằng anh Đặng Xuân Diệu đã bị đối xử như “súc vật” và như một “nô lệ” kể từ khi bị biệt giam. Phòng giam rộng từ 6 – 8 m2 và tù nhân thỉnh thoảng bị xích 3 người làm một. Theo chứng kiến của anh Trương Minh Tâm, vào mùa hè, quản ngục cho thêm người vào phòng giam của anh Đặng Xuân Diệu nhằm khiến phòng giam chật chội, dẫn đến khó thở. Vào mùa đông, anh bị bỏ mặc trong phòng giam lạnh. Theo thông tin nhận được, anh Đặng Xuân Diệu không được cung cấp giấy vệ sinh và phân bị để lại trong phòng giam của anh tới 10 ngày, tạo ra mùi hôi thối đến không thể thở được. Anh đã bị buộc phải sống, ăn, ngủ ngay bên cạnh phân của mình. Anh không được phép tắm và đánh răng, rửa mặt định kỳ. Bạn ở tù chung cho biết, anh Đặng Xuân Diệu đã nhiều lần tuyệt thực nhằm phản đối các hình thức cai ngục mà anh và các tù nhân khác phải đối diện. Anh cho rằng những hình thức cai ngục này đã tước đoạt những quyền cơ bản nhất của con người. Mỗi lần như vậy, quản ngục thường đáp trả bằng cách đối xử tồi tệ hơn. Anh Đặng Xuân Diệu đã thường xuyên bị làm nhục, bị đánh đập và bị đem bêu trước các tù nhân khác như một dạng “nửa người nửa quái vật”. Anh Trương Minh Tâm cho hay, vài ngày trước khi được tha, anh đã nghe Đặng Xuân Diệu la từ phòng giam bên cạnh: “Tôi muốn sống, tôi muốn ăn nhưng cổ họng đã bị bóp nghẹt. Hãy trả lại quyền được ăn cho tôi!”. Front Line Defenders quan ngại về sức khỏe và sự an nguy của anh Đặng Xuân Diệu cũng như sự đối xử mà anh đã phải chịu đựng trong thời gian bị biệt giam.   Xin xem thêm chi tiết tại: nguồn: http://www.frontlinedefenders.org/node/27514#sthash.VttE0AK5.dpuf\
......

Lý Bằng tiết lộ hội nghị Thành Đô 1990

Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990 là bước ngoặt của quan hệ Trung-Việt... Hai bên ký kết "Kỷ yếu hội nghị" đồng thuận bình thường hóa quan hệ song phương. Cuộc đàm phán bí mật, đảng cộng sản Việt Nam không tiết lộ và cũng không công bố cho toàn nhân dân Việt Nam biết một sự kiện lịch sử quan trọng. Đến ngày 5/11/1991, Đỗ Mười Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, và Võ Văn Kiệt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán Bắc Kinh (钓鱼台国宾馆). Một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, được tiết lộ bởi "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (李鹏外事日记 ) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình (和平发展合作), ngoài ra tác giả công bố hơn 230 bức ảnh phụ trang, phần lớn đã được công bố tại Trung Quốc. Nguồn: Công bố bởi Nhà xuất bản Tân Hoa Xã. Chúng tôi xin tóm lược một luồng thông tin giới thiệu tới độc giả như để tham khảo những tài liệu sau này về Hội Nghị Thành Đô 1990: Lý Bằng (Li Peng) viết hai cuốn Hồi ký "Nhật ký ngoại sự", và "Hòa Bình phát triển hợp tác", đó là những cuốn sách nhật ký chú trọng phần hoạt động đối ngoại của Lý Bằng đã từng là Phó Thủ tướng, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Thường vụ (NPC). Bài này trích trong cuốn "Nhật ký ngoại sự" và "Hòa bình phát triển hợp tác" của tác giả Lý Bằng. NXB Tân Hoa xã xuất bản. Nguồn:people.com.cn. [1] Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư. (3) Phạm Văn Đồng, (4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân), (5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), (6) Lý Bằng, (7) Đỗ Mười, (9) Hồng Hà (bìa phải) và Đinh Nho Liêm. Ảnh chụp tại Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!" [2] Lý Bằng "Nhật ký ngoại sự" (外事日记). Về hình thức ghi lại quá trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt như sau: Cuối những năm 1970. Việt Nam đưa quân sang Campuchia. Năm 1979, quan hệ Trung-Việt đụng đáy hết thuốc chữa. Tháng 12 năm 1986, thời đó Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đương quyền, tình hình quốc tế thay đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Liên Xô bị tan rã. Nguyễn Văn Linh tìm kiếm chính sách, điều chỉnh lại bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc-Việt Nam. Sau khi hai bên Trung-Việt thông qua đường liên lạc, đồng ý hội nghị bí mật vào ngày 03 - 04 tháng 9 năm 1990. Nguyễn Văn Linh và Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười chấp nhận đàm phán với các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên. Thứ Sáu, ngày 26 tháng 12 năm 1986. Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời vào tháng 7. Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, tại Đại hội 6 đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 8. Hôm nay, Việt Nam tuyên bố rằng "Rút toàn bộ quân đội của Việt Nam ra khỏi Campuchia". Lần này, tạo ra các điều kiện để giải quyết "trơn tru" cho mọi thuận lợi của vấn đề Campuchia, đồng thời làm "sạch" các chướng ngại bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Thứ Tư, ngày 6 tháng 6. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hẹn gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei) [3] tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn (Văn Linh), hy vọng cho một lần đầu, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai đảng, đồng thời mong sớm được đàm phán tại Trung Quốc. Chủ Nhật, ngày 26 tháng 8. Giới thiệu chuyến viếng thăm nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc, gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mục đích giải tỏa những vấn đề hai nước, hai đảng..., tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, ông cho biết hoàn toàn tán thành. Thứ Hai, ngày 27 tháng 8. Về đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến với Nguyễn Văn Linh theo những dự thảo liên quan, tôi đã báo cáo lên đồng chí Đặng Tiểu Bình. Theo quan điểm của Thế vận hội Châu Á (Asian Games), sắp tới tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng cuộc họp này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt, đặc biệt hệ trọng, nên để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm sẽ được bố trí ở Thành Đô. Thứ Năm, ngày 30 tháng 8. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đi đến Thành Đô để đàm phán nội bộ với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, đã có ban hành lời mời phía Việt Nam. Bây giờ thử xem Việt Nam trả lời thế nào. Chủ Nhật, ngày 02 tháng 9. 15 giờ 30, tôi lên chiếc máy bay chuyên cơ, cất cánh từ vùng ngoại ô sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 00 đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi di chuyển bằng ô-tô qua lộ trình mất hơn 20 phút đến Kim Ngưu tân quán (宾馆金牛), Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ đợi. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chiếc bay chuyên cơ đến Thành Đô chậm hơn tôi nửa giờ sau, tôi đến Thành Đô. 08 giờ 30 tối. Đến 11 giờ đêm, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi chính sách cho cuộc đàm phán với phía Việt Nam vào ngày mai. Thành Đô thứ Hai, ngày 03 tháng 9. Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc tiến hành đàm phán với phía Việt Nam. Khoảng 14 giờ 00, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng cùng đến Kim Ngưu tân quán Thành Đô (成都宾馆金牛) [4]. Giang Trạch Dân và tôi chào đón họ tại tầng lầu 1. Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, mặc veston cà phê, phong thái học giả. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười mái tóc bạc trắng cũng có thái độ mạnh mẽ, mặc veston màu xanh. Họ là những người trên bảy mươi tuổi, và Phạm Văn Đồng thị giác mắt nheo đục, mặc veston đại cán phù hợp với màu xanh, ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc. Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Buổi chiều, cuộc đàm phán bắt đầu, Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên thực hiện một bài phát biểu dài. Mục đích mong muốn bày tỏ giải quyết các vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt, đồng thời đàm phán việc thành lập Hội đồng tối cao của Campuchia là một phần ưu tiên, không nên loại trừ bất kỳ bên nào, không thể bày tỏ sự miễn cưỡng để can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh có vẻ chỉ muốn bày tỏ thái độ tuyên bố về nguyên tắc, trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Cuộc đàm phán tiếp tục cho đến 8 giờ 00, sau 08 giờ 30 mới bắt đầu mở tiệc buổi tối. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh? Thứ Ba, ngày 04 tháng 9. Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Tại thời điểm này, có thể nói những vấn đề nêu ra trong đàm phán đã đi đến sự đồng thuận một cách khá thỏa đáng, cùng quyết định soạn thảo một bản "Kỷ yếu hội nghị". 14 giờ 30, trong hai bên Trung-Việt tổ chức một buổi lễ ký kết tại khách sạn trên tầng số 1 Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt đồng ký do Tổng bí thư và Thủ tướng Chính phủ tương ứng. Đây là một bước ngoặc lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đọc câu thơ của Lỗ Tấn "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Tặng cho các đồng chí Việt Nam. Về vấn đề này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra hài lòng. 16:00, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 như vậy đã đến nơi. Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội 7 Thứ Bảy, ngày 29 tháng 6 năm 1991. Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được đắc cử Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng làm cố vấn. Những giai điệu tổng thể của Đại hội 7, Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh kiên trì giáo lý chủ nghĩa xã hội, tham gia vào các cải cách kinh tế, chủ trương tình hữu nghị Việt-Xô, Việt-Trung. Tinh thần của Đại hội 7 có lợi cho việc cải thiện quan hệ song phương Trung-Việt. Bắc Kinh thứ ba, ngày 30 tháng 7. Buổi chiều, tôi đã gặp gỡ các đại diện đặc biệt của Lê Đức Anh của Ủy ban Trung ương Việt Nam và Hồng Hà. Họ yêu cầu mở cuộc họp cấp cao Trung-Việt tổ chức tại Việt Nam. Tôi cho rằng, để nhân dân hai nước có sự chuẩn bị trước, để cho ASEAN và các nước khác không nảy sinh nghi ngờ, hai bên Trung-Việt. Cần tiến hành cuộc đáp ứng, gặp ở các cấp thứ trưởng và bộ trưởng ngoại giao trước đã, như cuộc họp cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng không có vấn đề về nguyên tắc. Ngày hôm sau Tổng bí thư Giang Trạch Dân sẽ trả lời chính thức với phía Việt Nam. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, cả hai đối tác thông qua tham khảo ý kiến và giải quyết. Trung Quốc giữ thái độ tích cực với tất cả các lĩnh vực về thương mại, bưu chính, vận chuyển, thanh toán ngân hàng, khôi phục giao thông đường bộ. Thứ Ba, 17 giờ 00, ngày 05 tháng 11. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đã tổ chức lễ đón chính thức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tại quảng trường ở ngoài cửa phía đông Đại lễ Đường Nhân dân. Tiếp đó, chúng tôi tổ chức tiến hành cuộc đàm phán. Đỗ Mười có thái độ rất rõ ràng về vấn đề Đài Loan. Đồng chí Giang cho biết, sau khi quan hệ song phương một thời quanh co, nay đã trải qua một quãng đường gập ghềnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam có thể ngồi lại với nhau để tiến hành cuộc đàm phán cấp cao mang ý nghĩa quan trọng. Đây là một kết thúc của các cuộc đàm phán trong quá khứ, hướng tới tương lai, nó đánh dấu sự bình thường hóa trong quan hệ hai nước, sẽ có tác động sâu sắc đến sự phát triển của quan hệ song phương. Đỗ Mười nói rằng, bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời cũng giúp ích cho hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới. Tiếp đó, tổ chức bữa tiệc. Thứ Tư, ngày 06 tháng 11. Buổi chiều, tôi đàm phán với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt, bầu không khí rất tốt. Đầu tiên tôi nêu ra rằng Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tiến hành đàm phán khả quan, đã trao đổi đầy đủ quan điểm. Về vấn đề Đài Loan, thái độ Võ Văn Kiệt thể hiện rất tốt. Tôi điểm qua các vấn đề về vay nợ, biên giới, người dân tị nạn… trong cuộc hội đàm. Hai bên đồng ý sau này sẽ không bàn tới nữa. Với các dự án vay vốn do phía Việt Nam vừa đề xuất, tôi đã hứa sẽ cho khảo sát các dự án của phía Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nêu rõ, thỏa thuận về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia đã được ký tại Paris, việc thực hiện thỏa thuận vẫn đòi hỏi các bên phải tiếp tục nỗ lực. Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆) Thứ Năm, ngày 7 tháng 11. Buổi chiều, Hiệp định Thương mại Trung-Việt và Hiệp định tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới giữa hai nước đã được ký kết và thỏa thuận tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆). Các lãnh đạo đảng và chính phủ hai nước đã dự lễ ký kết, sau đó, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân chia tay Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi du lịch đến Quảng Châu, Thẩm Quyến và đến thăm những nơi khác. Huỳnh Tâm (Dân Làm Báo)
......

Trông Người – Xét Mình

Tiếp theo bài trước: Tài Trí của Thanh Thiếu Niên OCLP Hong Kong - http://www.ttdq.de/node/1826 (Với một hiệu đính dòng cuối: Carie Lam không đi Bắc Kinh, mà đi Quảng Châu. CY Leong không đi cùng). * So sánh những tương ứng (về điều kiện đấu tranh) giữa Hong Kong & VN: Đó đây trên mạng đã có một số bài viết (và khá nhiều đoạn status ngắn trên Facebook) so sánh hiện tượng Hong Kong với hiện trạng Việt Nam. Đặc biệt là vào lúc quan chức Hà Nội rộn ràng với dự án pháo hoa đầy chất béo. Tình cảm đặt vào những bài viết, theo đó, cũng phân bố không đều giữa hai đường biên hy vọng và thất vọng. Phần này có lẽ chỉ gắng đề cập cô đọng tới những điểm tương ứng căn bản giữa Hongkong & VN, về điều kiện đấu tranh (ở mức khách quan tương đối), và tất nhiên, giống như bài dẫn nói trên, cũng rất cần nhiều ý kiến bổ túc. Giống nhau:       Đối thủ tàn ác – Tính từ gốc, thì CY Leong chỉ là đối thủ trung chuyển của Hongkongers. Bắc Kinh mới thật sự là đối tượng chính của yêu sách đòi hỏi thực thi cho đúng lời giao ước “một quốc gia hai thể chế”. Bắc Kinh, với tham vọng bành trướng trong đầu và cây gậy bạo lực trong tay, chỉ muốn ăn trùm và biến Hongkong thành một thứ sân sau của lãnh đạo. Bắc Kinh là bậc thầy của Hà Nội, lại cùng một giuộc độc tài còn sót lại từ cái cỗ máy xay cộng sản ruỗng mục, nên cái quyết tâm giữ ghế và cây dùi cui bạo lực của đôi bên không khác nhau mấy. Cả hai đã từng thản nhiên hy sinh hàng triệu người dân của họ để cướp quyền và giữ quyền. Hongkongers và người Việt Nam đều là nạn nhân của sự tàn ác vô đối của hai hệ thống tội ác có tổ chức đó.         Có cùng ý chí thoát cộng – Hongkongers, một khi nhất quyết bảo vệ nền dân chủ xưa giờ của họ trước định hướng nhuộm đỏ của Bắc Kinh, cũng gần như đồng nghĩa với ý thức thoát cộng. Tức là phải vượt qua mọi rào cản từng nhân danh một thứ chủ nghĩa không ai chọn để ngăn chận sức phát triển đất nước. Nhu cầu (và khát vọng) này của người VN còn cao hơn gấp bội, một khi Hoàng Trường Sa, biển Đông, thác đồi biên giới, đất rừng đầu nguồn, đặc khu chế xuất, thực phẩm/gia dụng, và cả nền thương mại oặt ẹo của VN đã và đang bị Trung cộng xâm thực gần trọn, bằng dã tâm chiếm đoạt hàng mấy nghìn năm nay, và nhờ có một dàn thái thú chư hầu (cúi đầu cong lưng sẵn) ngay tại Hà Nội. Muốn thoát Hán, VN cũng phải thoát cộng, ngay trên đất nước này.       Đã nong xích khá rộng – 17 năm qua, Hongkongers tự khẳng định là không phải, không muốn, và không để trở thành Chinese. Họ cố gắng duy trì/bảo vệ một số sinh hoạt dân chủ còn sót lại từ chính quyền Anh quốc, và từng ngày đòi hỏi thêm những quyền làm người. Một trong những bích chương cốt lõi trong lần chiếm đóng trung tâm này rất đáng để suy ngẫm: “Người dân không phải là tài sản” (hay vốn quý, của bất kỳ ai). Bên cạnh nhân quyền là dân quyền. Họ tranh đấu cho quyền tự quyết, chí ít (hay bắt đầu) là ở khâu chọn người đại diện điều hành chính quyền. Người VN không khác. Một khi các thứ màn sắt màn tre đã sập, sự thật được phơi bày từng mảng ra ánh sáng, dân Việt cũng đã tự nong xích liên tục trong hai thập niên qua (lắm khi bằng những giá cực đắt) để có thể có được một số mặt nổi sinh hoạt xã hội dân sự (cho dù còn non trẻ) hiện giờ, mà 10 năm trước đây không thể mơ.       Có lớp người trẻ – Hongkong có những lãnh đạo trẻ tuyệt vời: Alex Chao của Liên Hội Sinh Viên Hongkong; Joshua Wong của phong trào Scholarism. Họ là những người tài, lại được sự khuyến khích, tạo thêm điều kiện phát huy các tài năng sẵn có, từ những người đi trước (và đang đi cùng), để trở thành những ngọn cờ đầu của phong trào tuổi trẻ Hongkong. VN ta cũng không thiếu những người trẻ có tài (với mức độ dũng cảm trong hoàn cảnh nghiệt ngã VN có khi còn vượt hẳn) hai bạn trẻ Hongkong vừa nói. Chúng ta đã từng rung động và hãnh diện khi nghe nhắc đến các bạn Paulus Lê Sơn, Nông Hùng Anh, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Trần Minh Nhật, Nguyễn Tiến Trung, Lê Quốc Quân, Hồ Văn Oanh, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Xuân Anh, Hồ Đức Hoà, Đặng Xuân Diệu… Và có khi đang tự nhắc chính mình rằng cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để phát hiện & phát triển thêm người trẻ, tạo điều kiện hoạt động nhiều hơn nữa cho người trẻ, thay vì so bì những thanh niên đường phố VN với Joshua Wong và tự chuốc lấy thất vọng.   Khác nhau: (hoặc những yếu tố VN chưa đạt được)   1. Cơ chế đảng – Với 17 năm cầm quyền Hongkong trong tinh thần biểu diễn phần nào sự tôn trọng lời giao ước “một quốc gia hai thể chế”, Bắc Kinh chưa thật sự giương hết nanh vuốt lên con người và mảnh đất Hongkong. Cơ chế đảng, thông qua hệ thống đảng bộ (từ phường khóm lên đến đặc khu hành chánh HKSAR) chưa đủ chặt để thành một guồng máy kềm kẹp như Bắc Kinh mong muốn. Hongkong có cảnh sát riêng nhưng không có quân đội riêng. Trong lúc ở VN, hệ thống đảng cực kỳ kiên cố trong quá trình xiết chặt mọi ngõ ngách sinh hoạt xã hội suốt 84 năm qua. Ở đây, 3 ngành lập pháp/hành pháp/tư pháp đều sinh hoạt đồng nhất theo khuôn đảng bộ và các nghị quyết. Ở đây, chính phủ và quốc hội chỉ là tổ chức ngoại vi của đảng. Ở đây, quân đội không thực sự giữ chức năng quốc phòng, mà gần như một thứ trừ bị sẵn sàng cho bộ phận công an trong nhiệm vụ đàn áp nhân dân để lãnh đạo đảng níu giữ quyền lực cai trị. Vậy thì, nên chăng, yêu sách trước mắt của người Việt Nam là tách rời hệ thống đảng ra khỏi công an/quân đội?   2. Thể chế cai trị – Hong Kong còn giữ được một phần thể chế Pháp trị do người Anh để lại. Tức là người dân còn dựa vào những ràng buộc pháp lý khiến nhà cầm quyền không thể tuỳ tiện khạc nhổ lên luật pháp. Trên sơ đồ tổ chức, bộ phận Tư Pháp ngang hàng nhưng độc lập với hai bộ phận còn lại là Hành Chính & Tài Chính. Trong ngành Tư pháp còn có một Uỷ ban Độc lập Chống Tham Nhũng. Luật lệ Hongkong ít nhiều vẫn còn đủ sức mạnh để gìn giữ tối đa cán cân công lý, giúp cho người dân Hongkong khai thác được yếu tố pháp lý mà mạnh dạn đấu tranh.   Ngược lại, ở VN là một thể chế côn đồ công an trị. Ở đây, theo Carl Thayer, cứ 6 người VN đã có 1 người làm việc cho bộ phận an ninh. Truyền thống “toàn quyền sinh sát” của bộ phận an ninh, từ những chặng đầu của “đường kách mệnh” (“Luật là tao”) vẫn còn kéo dài suốt 8 thập niên tới ngày nay (“Tự do cái CC”). Cung cách trị an vẫn còn là thủ tiêu/bắt cóc/gây tai nạn/hành hung/ép ghe/chèn xe/đạp mặt/quặt tay/kẹp cổ/bức cung/cáo trạng… thậm chí, canh cửa/khoá trái bên ngoài/ném chất thải/gạch đá vào nhà dân. Còn để biểu diễn luật pháp thì vẫn một số hình thức ti tiện hạ đẳng để vu cáo nhân dân. Nói chung là những biện pháp trả thù chí chết để gây sợ hãi. Chính cái thể chế côn đồ công an trị này đã phần nào khiến cho số đông, dù biết rằng đó là phản ứng cùng đường của nhà nước, hay dù thấy việc phải làm, cần làm, nhưng vẫn còn dè dặt giữ tính thầm lặng. Cao hơn một bậc, người ta chỉ có thể kể đến những phản đối (chủ động và cả thụ động) của số đông thầm lặng này (biểu hiện qua cuộc Triển lãm Cải Cách Ruộng Đất, hay gần nhất là cuốn phim Sống Cùng Lịch Sử). Số đông này không thể kéo dài vị trí thầm lặng. Muốn thay đổi xã hội, số đông này cần có một số điều kiện tối thiểu để phản ứng công khai và mạnh dạn hơn (ngay cả cư dân mạng online thành offline). Có phải VN ta đang rất cần một hiệp hội luật sư độc lập, hoạt động song song với một vài tổ chức phi chính phủ trên lãnh vực pháp lý, vừa cung cấp cho người dân kiến thức luật pháp cơ bản để tránh bị bắt nạt, vừa làm giảm thiểu (hay chùn tay) những công an vi luật?     3. Trách nhiệm công dân vs. Trách nhiệm “kẻ sĩ” – Nếp sống văn minh của người Hongkong khá cao so với người Hoa Lục, nhờ được hưởng một thế kỷ hấp thụ nếp sinh hoạt của người Anh. Nền giáo dục của Hongkong cũng khá vững chắc và tương đối cập nhật với thế giới bên ngoài. Lợi tức đầu người, theo Wiki, tương đối cao trong khu vực châu Á và một số quốc gia khác. Ý thức về quyền lợi và trách nhiệm công dân khá quân bình. Qua đó, người sinh viên xuống đường với tư cách một công dân. Vị giáo sư đại học xuống đường cũng với tư cách một công dân. Thậm chí, ngay cả vị doanh nhân tỷ phú truyền thông xuống đường cũng chỉ với tư cách công dân. Tất cả ngang bằng nhau ở đó. Động lực xuống đường không hẳn là (và cũng không cần là) lòng yêu nước. Không cần cả cờ xí. Không cần cả khiên chắn anh hùng. Đó chỉ thuần là động lực thôi thúc bởi sự đòi hỏi thiết thực những quyền đương nhiên mà con người phải có. Trong lúc ở VN, một số truyền thống hủ nho vẫn còn được đảng và nhà nước ở đây tận tình nuôi dưỡng và cật lực phát huy, thông qua vài ba hình ảnh tô hồng chuốt lục cho thành thần tượng các thứ. Bằng cái tương quan mất dạy: đảng là cha mẹ, dân là con cái. Bằng thói quen ơn đảng, ơn chính phủ. Bằng thông lệ xin-cho. Bằng thói quen ví von con kiến-củ khoai. Thậm chí, bằng cả cái xác ướp cho tuyên giáo rỉa dần thành khẩu hiệu. Truyền thống bỉ ổi đó, cộng thêm chính sách giáo dục ngu dân và bưng bít thông tin trong gần một thế kỷ, ít nhiều đã thôi miên một khối lượng dân Việt (không phân biệt nông thôn hay thành thị) chấp nhận một thứ não trạng tự kỷ thấp bé/hèn mọn, thậm chí chỉ là thân phận con giun cái kiến. Ở tầm thấp tự kỷ đó, người ta thấy việc thay đổi xã hội là đội đá vá trời; thấy mình đơn độc trước những quả núi ngáng chân dân tộc; thấy không dễ gì vươn lên hay vùng lên mà không nguy hại đến bản thân hay gia đình; và sau cùng, thấy ra dường như đây là trách nhiệm của những …ai khác, dễ quy nhất, đó là trách nhiệm của …“kẻ sĩ”. Hãy chờ xem sao cái đã. Có khi, chờ xem các “kẻ sĩ” kia có chờ nhau không đã. Trong lúc đảng và nhà nước tha hồ bôi đen/nhận chìm những “kẻ sĩ”. Thói quen thần tượng còn khiến cho người ta đặt ra khá nhiều tiêu chuẩn cho những “minh chủ” tương lai. Phần lớn đều không giống như tiêu chuẩn về khả năng như các thanh niên Hongkong đã liệt kê ở bài dẫn trước. Người ta chờ đợi nhiều hơn thế, và thấp thoáng đâu đó cái tiêu chuẩn rất riêng, là phải đúng ý mình. Thiếu minh chủ đã khó làm. Thiếu minh chủ hợp ý lại càng khó làm gấp bội? Phải chăng, cái gút tháo gỡ ở đây, về phía người dân, bao gồm mọi thành phần/mọi lứa tuổi, chính là một ý thức công dân, một trách nhiệm công dân, trước một xã hội cần được thay đổi cho tốt hơn, trước khi nó rơi tận đáy diệt vong?   4. Vốn dân chủ – Có lẽ đây mới là yếu tố cần thiết nhất mà VN ta chưa đạt được. Bề dày sinh hoạt dân chủ của Hongkong có từ khá lâu. Trong lần sinh viên Bắc Kinh biểu tình đầy ắp Quảng trường Thiên An Môn, Hongkong đã hình thành Liên Minh Hỗ Trợ những Phong Trào Yêu Nước tại Trung Hoa, vào ngày 21/5/1989, tức là 2 tuần trước biến cố Tứ Lục, và 8 năm trước khi Hongkong đến hạn giao lại cho Trung cộng. Liên Minh này đã đưa thành viên vào đại lục để hỗ trợ sinh viên Bắc Kinh, trong biểu tình và sau biểu tình. Họ đón nhận sinh viên Bắc Kinh chạy về Hongkong sau trận đàn áp đẫm máu phi nhân ngày 4/6/1989, vận động cho một số tỵ nạn ở nước thứ ba, và một số lớn tỵ nạn chính trị ngay tại Hongkong. Đến năm 2002, cùng với một số tổ chức khác, Liên Minh này đã thành lập Mặt trận Dân quyền và Nhân quyền. với 2 đích nhắm: Bên trong là thống nhất tiếng nói và sức mạnh của 48 tổ chức xã hội; Bên ngoài là bảo vệ nền dân chủ của Hongkong trong hệ thống “Một Quốc Gia Hai Thể Chế” Ngay trong 2 năm đầu thành lập, Mặt trận Dân quyền và Nhân quyền đã huy động nửa triệu người tham gia biểu tình đòi huỷ bỏ đạo luật số 23 “triệt phản động vì an ninh quốc gia”, và đã góp phần buộc Đặc khu trưởng Đổng Kiến Hoa bấy giờ phải từ chức (2005). Hàng năm, Mặt trận Dân quyền và Nhân quyền vẫn tổ chức những cuộc xuống đường vào ngày 1 tháng 7: Có khoảng 400.000 người tham gia vào năm 2012, và 430.000 người vào năm 2013. Trong cuộc Cách mạng Dù 2014, những thành phần mặt nổi được công khai cho đến nay bao gồm: - Occupy Central with Love and Peace: thành phần trí thức, tôn giáo. Đứng đầu là GS Benny Tai Yui-ting, PGS Chan Kin-man và Mục sư Chu Yiu-ming. - Scholarism: học sinh trung học, với số thành viên chủ lực gồm 300 người. Đứng đầu là Joshua Wong. - Liên hội Sinh viên Hongkong: một mạng lưới rộng khắp 7 trường đại học lớn với thành phần sinh viên. (Đánh số 18 trong 48 tổ chức xã hội dân sự của Mặt trận Dân quyền và Nhân quyền). Người đứng đầu hiện nay là Alex Chao. Như thế, thành phần tiềm ẩn hỗ trợ bên trong có đến những 45 đoàn thể. Mỗi đoàn thể có một mạng lưới nhân sự riêng biệt không nhỏ. Tuy nhiên, không một tổ chức nào tranh giành ảnh hưởng chi phối hai nhóm sinh viên học sinh. Ngay cả ông Benny Tai Yiu-ting, trả lời phỏng vấn của tờ Spiegel, cũng đã cho biết là ảnh hưởng của ông rất hạn chế, đối với các sinh viên học sinh, và đối với kết cục của cuộc biểu tình. Họ tôn trọng tuổi trẻ. Tuổi trẻ ấy xứng đáng được tôn trọng, với một bản lãnh ứng xử tuyệt vời:     “Hong Kong là một xứ của tự do ngôn luận. Chính quyền không cần phải cung cấp một giải pháp tức thời – Nó có thể là đề nghị từng bước để giải quyết vấn đề. Chính quyền HKSAR cần phải duyệt xét tình hình từ quan điểm của người dân và sau đó tiếp cận Bắc Kinh” – Alex Chow, Tổng thư ký Hội Sinh Viên Hongkong. Với bề dày dân chủ vừa nói, và với sự hỗ trợ tích cực của ngần đó tổ chức hợp nhất được tiếng nói và sức mạnh, thanh thiếu niên Hongkong có đủ điều kiện để huy động số đông xuống đường “làm lịch sử”. VN ta chưa hội đủ những điều kiện như trên, song cũng đang trên một tiến trình khá thuận lợi: Khởi đầu là sự xuất hiện của Khối 8406. Tiếp theo là rất nhiều đoàn thể/đảng phái/tổ chức xã hội dân sự hoạt động minh danh mà không cần sự đồng ý hay không của Mặt Trận Tổ Quốc. Có lẽ mỗi người quan tâm đến tình hình Hongkong đều tự ghi nhận được một số điểm để áp dụng bây giờ và sau này. Tất nhiên không thể thiếu bài học liên hợp tiếng nói/sở trường thành sức mạnh chung, và cùng đề ra một mục tiêu dễ được nhiều tổ chức đồng thuận, cùng những công tác chẻ nhỏ, dễ làm cho quần chúng, cả ngắn ngày lẫn dài ngày.   13/10/2014 – Mừng sinh nhật Nguyễn Phương Uyên & Joshua Wong. Blogger Đinh Tấn Lực Nguồn: dinhtanluc.wordpress.com
......

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI HIỂU BIẾT

“Trí thức và vai trò của trí thức” hay “câu chuyện về trí thức” là một đề tài không mới, nhưng chưa bao giờ cũ. Đây cũng là một đề tài rất phức tạp và dễ gây tranh cãi, nhưng là một đề tài đầy ý nghĩa đối với bất cứ xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào. Có rất nhiều góc nhìn khác nhau về trí thức, mỗi góc nhìn lại cho ta một cách hiểu về trí thức và vai trò của trí thức. Nếu ta có được nhiều góc nhìn về một vấn đề thì ta sẽ có cơ hội hiểu vấn đề đó một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, vì khi đó không chỉ thấy “cây”, mà còn thấy “rừng”. Trong phạm vi bài viết này, từ một góc nhìn, tôi cho rằng, trí thức là người có trí và luôn dùng cái trí của mình để góp phần thức tỉnh xã hội nhằm hướng mọi người đến cái đúng và cái đẹp.   Nếu ai đó “có trí” (sự hiểu biết) nhưng lại “không thức” (không thức tỉnh xã hội) mà để cho xã hội “ngủ” thì bị gọi là “trí ngủ”, chứ không phải là “trí thức”. Nếu ai đó thích làm cái việc của trí thức là “đánh thức xã hội” nhưng lại “thiểu trí”, “lệch trí” hay “vô trí” thì gọi là “trí dỏm” (cũng có học hàm, học vị nhưng đầu óc lại trống rỗng, hoặc cũng có chút hiểu biết nhưng hiểu biết đó lại thể hiện sự lệch lạc và ẫu trĩ). Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2 loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là “trí thức vô trách nhiệm”. Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người “trí thức”, đó là: (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) “thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến cái chân-thiện-mỹ). Nếu không hội đủ cả 3 điều kiện này (mà chỉ có 1 hay 2 trong 3 điều kiện) thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí gian”, chứ không phải là “trí thức”. Hay nói một cách nôm na, trí thức là người “có Trí”, “có Thức” và “có Tâm” (có 3T). Từ cách hiểu này, chúng ta có thể thấy rằng, bàn về trí thức hay bàn về vai trò của trí thức thực chất cũng chính là bàn về trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết. Tôi rất thích một câu nói của Einstein “Thế giới này là một nơi nguy hiểm, không phải vì những kẻ xấu xa mà vì những người chỉ biết đứng nhìn và không làm gì cả”. Câu nói này nói về trách nhiệm xã hội (trách nhiệm “làm người”) của một người bình thường đối với cái xã hội hay cái cộng đồng mà mình đang sống. Một người bình thường vô cảm thì đáng phê phán, còn một người có hiểu biết sâu sắc và được lắng nghe mà yên lặng thì còn đáng phê phán hơn. Một người bình thường còn có trách nhiệm xã hội như vậy, đối với những người có hiểu biết thì trách nhiệm xã hội này còn lớn hơn. Nói cách khác, vai trò của những người có hiểu biết là: dùng sự hiểu biết (và cả uy tín) của mình để góp phần giúp cộng đồng phân định rõ hơn sự đúng-sai, phải trái, chân-giả, thiện-ác, hay-dở, tốt-xấu, nên-không nên… trước những vấn đề chung mà xã hội đã, đang và sẽ gặp phải hay trải qua; dùng sự hiểu biết của mình để truyền bá tinh thần, tư tưởng, quan điểm mà mình tin là cần thiết để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần xác lập những chuẩn mực xã hội, những thang giá trị xã hội và đồng thời ra sức bảo vệ những chuẩn mực và giá trị đó; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần định hướng, định hình xã hội… Tất nhiên sự phân định, sự truyền bá, sự xác lập hay sự định hướng, định hình này cũng cần phải dựa trên cái nền là những giá trị vượt không gian và vượt thời gian, những giá trị có tính phổ quát của thế giới đương đại hay thế giới tương lai. Và tất nhiên, để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thì người hiểu biết có thể nói, có thể viết, hay có thể làm gì đó (bởi lẽ không phải tất cả những người hiểu biết đều giỏi nói hay giỏi viết). Vì làm một điều tốt cũng là cách gián tiếp góp phần đấu tranh tiêu diệt cái xấu; làm một điều đúng, cũng là cách gián tiếp góp phần chỉ cho người khác thấy những cái sai… Thêm nữa, khi nói đến trí thức là nói đến vấn đề “chân lý”. Không ai được phép độc quyền chân lý, nhưng ai cũng được quyền góp phần xác lập chân lý. Giới trí thức thường tự phân biệt giới mình với những giới khác ở chỗ luôn nỗ lực khám phá chân lý, xác lập chân lý và bảo vệ chân lý. Đó cũng là lý do vì sao mà người ta thường nói, chân lý thường không thuộc về số đông hay “kẻ mạnh”, mà thường thuộc về những người có hiểu biết (hay còn gọi là giới trí thức, giới tinh hoa). Nếu chân lý có thuộc về “kẻ mạnh” (nhưng thiếu hiểu biết) thì điều đó chắc chắn cũng chỉ là tạm thời mà thôi. Khi bàn về trí thức thì người ta thường bàn về vai trò, trách nhiệm, công việc, sứ mệnh, thiên chức của trí thức. Tuy nhiên, cũng cần phải bàn về “điểm mù” của trí thức, dù trí thức có cái trí hơn người. Bởi lẽ, trí thức cũng là con người, mà đã là con người thì cũng sẽ có cái nhầm, có lúc sai mà mình không hề biết; Bởi lẽ, trí thức cho dù có trí thế nào đi nữa thì sự hiểu biết vẫn chỉ là hữu hạn. Điểm mù ở đây được hiểu là “mình không biết cái mà mình không biết” hay “mình cứ tưởng mình hiểu rất rõ một thứ nhưng thực ra mình chẳng hiểu gì cả hay hiểu một cách lệch lạc”. Khi chia sẻ, tranh luận hay góp ý sẽ giúp mỗi người nhìn thấy điểm mù của người và của mình. Khi nhận ra điểm mù của mình cũng là lúc “mình biết rõ cái mà mình không biết”; và khi nhận ra những “cái mà mình không biết” cũng là lúc cảm thấy mình thực sự hiểu biết. Đó cũng là điều kiện để mình có thể hiểu biết thực sự và là cơ hội để đẩy nhận thức và hiểu biết của mình đi xa hơn. Do vậy, cùng với trách nhiệm “thức tỉnh xã hội” thì trí thức cũng có một trách nhiệm với bản thân là liên tục “phản tỉnh chính mình”, phản tỉnh với những điểm mù (nếu có) của mình. Nếu không liên tục “phản tỉnh chính mình” hay thậm chí là “phản tư chính mình” thì người hiểu biết sẽ dễ trở thành người ít hiểu biết hay người ấu trĩ trong một số vấn đề (kể cả những vấn đề thuộc chuyên môn hay sở trường của mình), và khi đó sẽ không chỉ khó thực hiện được tốt cái vai trò “thức tỉnh xã hội” vốn có của mình, mà còn có thể gây nguy hại cho xã hội. Ở bất cứ xã hội nào thì sứ mệnh của trí thức vẫn thế. Và đối với những xã hội mà trong đó còn đầy rẫy sự bất thường thì một trong những sứ mệnh lớn nhất của trí thức chắc hẳn là góp phần đưa sự bất thường đó trở về sự bình thường. Nói cách khác, trong những xã hội mà sự bất thường của sự việc, sự vô minh của cái đầu, vô cảm của trái tim đang bao trùm thì trách nhiệm của người trí thức, của những người có hiểu biết còn nặng nề hơn (vì có quá nhiều cái cần phải khai sáng, cần phải thức tỉnh) và nguy hiểm hơn (vì không dễ dàng gì để làm cái chuyện khai sáng hay thức tỉnh trong những xã hội này). Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…   Nguyễn An Dân Nguồn: bongbvt.blogspot.com
......

TỐI NAY TÔI SẼ ĐỨNG BÊN CÁC BẠN

Thư của một bạn trẻ đại lục (ẩn danh) gửi các sinh viên Hồng Kông: TỐI NAY TÔI SẼ ĐỨNG BÊN CÁC BẠN Là một người đại lục ở Hồng Kông, tôi luôn cảm nhận được những thành kiến và suy nghĩ không hay về mình, nhưng tôi cũng hiểu được sự bất lực của mình khiến làm nên những suy nghĩ này. Bao năm rồi, tôi đã sống với sự lúng túng của việc mắc kẹt giữa hai thế giới ; nhưng tối nay tôi đã chọn được vị trí cho mình. Tối nay tôi đứng về phía các bạn, vì bạn đang làm được những gì tôi chưa bao giờ dám mơ ước.   Khi mới đến đây, tôi rất ấn tượng với ý thức và sự tham dự vào chính trị của sinh viên Hồng Kông. Các bài viết vể dân chủ trên FB và các cuộc thảo luận thường xuyên về chính trị cùng các bài giảng tại trường đại học đã vạch ra vai trò quan trọng của sinh viên trong việc lãnh đạo xã hội phát triển. Tôi thường được hỏi về tình hình chính trị trong đại lục, thậm chí cả về quan điểm của riêng mình. Tôi thấy rất khó trả lời, không phải chỉ vì tình hình quá phức tạp để có thể giải thích trong một vài lời, mà còn vì sự thiếu hiểu biết của mình về các vấn đề như thế. Tuy nhiên, tôi đánh giá cao sự quan tâm và lòng chân thành của các bạn khi đã hỏi. Nhìn lại mình trong đại lục, không những ít quan tâm đến Hồng Kông, chúng tôi còn hầu như chẳng biết gì về chính mình. Ước tính chung, có đến chưa đầy một phần mười sinh viên đại học trong đại lục hiểu được thủ tục bầu cử các nhà lãnh đạo của mình. Ngay cả trong suy nghĩ, chúng tôi cũng không hề nhận xét được về sự hợp pháp và tính đúng đắn của quá trình đó. Chúng tôi không biết rằng mình có thể hỏi "Ta muốn gì?" Thế mà, chúng tôi gọi tên nỗi câm lặng của mình là "sự trưởng thành".   Tối nay, các bạn đã cho tôi nhìn thấy được nhiều hơn cả niềm đam mê và sự tham dự. Tôi nhìn thấy một quyết tâm và tinh thần đoàn kết mà mình chưa từng bao giờ được chứng nghiệm và đã không hề được nhìn thấy ở Trung Quốc trong một thời gian dài. Khi cuộc bãi khoá và chiến dịch Occupy bắt đầu, tôi đã không nghĩ nó có thể kéo dài, chứ chưa nói đến việc phong trào sẽ phát triển đến một mức độ như thế này. Rồi tôi được nhìn thấy những dải ruy băng màu vàng lan rộng qua các trường đại học trên khắp Hồng Kông, không chỉ trong giới sinh viên mà còn cả với các giáo sư, những người vừa nghỉ việc từ công sở và cả các lão niên già yếu run rẩy. Tôi đã thấy những đám đông không chịu thối lui vì hơi cay và chứng kiến họ tạo nên biểu tượng sâu sắc của một chiếc ô dùng hàng ngày. Tôi thấy các bạn chạy quanh, phân phối thực phẩm và nước uống đến những người thậm chí mình không quen biết. Tối nay, tôi đã thấy bạn trở thành những người anh chị em thân thích. Tôi tự hỏi, đến khi nào mình mới được nhìn thấy một cảnh tượng như vậy ở trong đại lục ? Khi nào chúng tôi có thể làm việc cạnh nhau cho cùng một mục đích khác hơn là kỳ thi tuyển sinh đại học của mình ? Đáng buồn thay, chúng tôi chưa có được một lần như thế trong đời. Đối với lòng can đảm ấy, phải chăng tôi đáng trách vì sự ngu dại và ngây thơ của mình? Một số người cho rằng đấy không phải là cách để đối phó với sự việc, nhưng nghiêm túc mà nói, chúng tôi có từng đối phó với bất cứ điều gì đâu ? Tôi không thể che giấu sự ghen tỵ của mình vì các bạn đã có được một cơ hội để tranh đấu. Trong tuổi đôi mươi của mình, tôi là điển hình của rất nhiều người sẽ trở thành trụ cột của xã hội chúng ta tuy nhiên, một lần nữa, chúng tôi không bao giờ biết rằng mình có thể có được một lựa chọn. Tôi cũng hết sức ấn tượng về việc các bạn đã bình tĩnh và kỷ luật như thế nào trong cuộc cách mạng này. Trong khu vực chiếm đóng, tôi thấy các sinh viên vẫn học bằng ánh sáng từ điện thoại di động, nhặt rác và phân loại các vật liệu tái chế. Trong hướng dẫn cách hành động của bạn tôi đọc được rằng "Không chỉ tránh đối đầu bằng thể chất, mà còn tránh cả việc phát triển sự hận thù trong lòng mình" và tôi thấy những biểu ngữ tuyên bố "bình đẳng, khoan dung, yêu thương và chăm sóc." Đặc biệt đối với tuổi trẻ trong cơn giận, có lẽ giữ được lý trí và sự bình tĩnh là hành động khó khăn nhất. Nhưng các bạn đã học được từ kinh nghiệm trước đây để biết đó là vũ khí sắc bén nhất. Tối nay, các bạn đã dạy cho tôi ý nghĩa thực sự của sự trưởng thành. Bạn tôi, một nhà hoạt động, nói với tôi rằng cô ấy không thực sự nghĩ rằng Phong trào Bất bạo động Occupy Central sẽ mang đến được những kết quả tất cả mà chúng tôi hy vọng; tuy nhiên những gì cô muốn làm chỉ đơn giản là muốn tiếng nói của mình được nghe đến và đưa ra được sự hiểu biết, ý thức về vấn đề này, để một ngày nào đó nó sẽ thành công. Tôi không tưởng tượng nổi bao nhiêu nghị lực phải phấn đấu để hy vọng và chỉ hy vọng. Nhưng tôi biết đây là cách thức đã giúp các bạn đi được đến mức này. Còn chúng tôi đang trên đường đi của mình.   Tôi hiểu nỗi sợ hãi đằng sau lòng can đảm của các bạn. Vì nếu hôm nay không làm gì, thì sẽ đến một ngày các bạn sẽ y hệt tôi. Thành thật mà nói, đây cũng là nỗi sợ hãi của tôi. Trong một thành phố bận rộn và đông đúc, bạn không buông bỏ gánh nặng mà vẫn giữ niềm tin vào dân chủ và tự do, vào sức mạnh của đám đông. Với tôi, đây là sự quyến rũ của Hồng Kông. Tôi không dám nghĩ đến việc thành phố này sẽ ra sao nếu không có những tiếng la khản giọng và các nắm tay dương cao của các bạn. Ngồi bên cạnh các bạn, lúc này tôi hiểu những đau đớn và nỗi tức giận của tôi còn ngàn lần ít hơn những gì bạn đang cảm thấy. Chúng ta không thể biết là tình hình sẽ trở nên tốt hơn, hay tương lai có trở nên tươi sáng hơn hay không. Tuy nhiên, tôi phải nói với bạn rằng những gì bạn đang có bây giờ - sự can đảm và hy vọng, tình đoàn kết và tính kỷ luật - là hết sức quý giá. Các bạn có biết được rằng nhiều người đang phải sống trong những góc tối tăm của đời sống, bao gồm cả tôi, đang thèm muốn những điều ấy đến đâu. Đó là một vinh dự và một điều diễm phúc. Hãy giữ lấy nó, cho hy vọng của riêng các bạn, và cho cả chúng tôi nữa. Tối nay, tôi sẽ đứng về phía các bạn cho đến buổi bình minh của nền dân chủ. Theo FB Lê Quốc Tuấn
......

Phủi tay, lẩn trốn và bao biện

Tham nhũng ở Việt Nam đã trở thành đại dịch không thuốc chữa. Lấy tiền ngân sách tức là tiền thuế của dân, vay vốn nước ngoài để đầu tư xây dựng và phát triển đất nước, vừa được tiếng thơm là làm đất nước thay đổi, nhưng cũng là cơ hội bằng vàng để các quan chức rút ruột công trình bỏ túi riêng. Nhưng ăn mà biết nhìn trước nhìn sau đã đành, đằng này đã ăn bẩn nhưng khi sản phẩm tạo ra có vấn đề thì "sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi". Vụ đứt cầu treo ở Lai Châu gây thiệt mạng 9 người và hàng chục nguời bị thương là một tai nạn nghiêm trọng. Thoạt đầu người ta đổ lỗi cho đoàn người đưa tang đông, đi không đều bước để xảy ra cộng hưởng tải trọng lên cầu. Nhưng cuối cùng, sau khi điều tra Bộ Giao thông Vận tải đã khẳng định, "việc chế tạo ắc neo tăng đơ có hai sai sót lớn là không đúng thiết kế và không tuân thủ quy trình kỹ thuật. Cụ thể, tiết diện ắc neo thực tế tại vị trí nhỏ nhất khoảng 25 cm2 chỉ bằng khoảng 50 % tiết diện chịu lực thiết kế; bề mặt lỗ ắc neo tăng đơ lồi lõm, biểu hiện không được gia công chế tạo đúng yêu cầu kỹ thuật, có khả năng khi chế tạo đã sử dụng biện pháp gia nhiệt thổi thủng chiều dày. Điều này sai với chỉ dẫn kỹ thuật trong hồ sơ thuyết minh thiết kế do Tư vấn thiết kế là Công ty tư vấn công nghiệp Lào Cai lập". Biết rõ vậy mà sự việc cũng nhanh chóng chìm vào im lặng. Không thấy một ai chịu trách nhiệm, kỷ luật. Một sự vụ đáng ra phải được lập hồ sơ truy tố những người thiết kế, thi công. Nhưng rồi dân chúng chỉ kêu ca và tuyệt vọng, bởi vì quyền làm cho ra nhẽ không nằm trong tay họ. Vào mùa mưa năm 2013, các nhà máy thủy điện miền Trung đã xả lũ, dân bị chết trôi hàng chục người. Đây là một tội ác. Nó không chỉ diễn ra vào năm nay mà trong những năm trước đều có tình trạng xả lũ bừa bãi để bảo vệ đập nước, làm chết người, phá huỷ hoa màu. Xả lũ đương nhiên phải có người thực hiện, theo lệnh của ai, vào thời điểm nào. Nếu điều tra đến nơi đến chốn sẽ không khó tìm ra thủ phạm. Một bài viết trên "Baodatviet.vn" đã lên tiếng: “Bộ Công thương thay vì nhận lỗi lại loanh quanh phủ nhận, bênh vực thủy điện, Bộ Công thương phải chịu trách nhiệm, không thể đẩy trách nhiệm cho người dân”. Và rốt cuộc người ta kết luận rằng, việc xả lũ đã làm đúng quy trình! Đúng với cái quy trình gây ra cái chết cho hơn năm chục người, chưa kể các tổn thất vật chất khác! Mạng người dân lao động rẻ rúng như con vật. Trên thế giới có nhiều công trình thuỷ điện, nhưng không thấy đâu có nhiều vấn đề như ở Việt Nam, đặc biệt nhà máy thuỷ điện nào cũng tồn tại nguy cơ vỡ đập vào mùa mưa. Người ta đã làm gì với toàn bộ thiết kế, thi công? Hay cũng làm đúng "quy trình"?   Khắp nước Việt Nam, nhiều con đường cao tốc được xây dựng làm thay đổi bộ mặt đất nước, nhưng ngặt một nỗi giá thành thì cao ngất nhưng đưa vào sử dụng thì chỉ một thời gian ngắn đều bị lún, nứt thảm hại. Con đường cao tốc dài nhất Việt Nam, Nội Bài-Lào Cai, khánh thành chỉ sau hai ngày đã có đoạn nứt toác dài tới 70 mét. Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ Nguyễn Văn Nên nói rằng vết nứt đó “không là một vấn đề lạ”! Mỉa mai quá, không có gì lạ thật! Bộ Giao Thông Vận tải sau khi kiểm tra thì cho hay rằng, các khâu thiết kế, thi công đều thực hiện đúng quy trình! Đã đúng quy trình thì cho dù nứt, lún cũng chẳng có ai chịu trách nhiệm!   Lại còn vứt tiền vô tội vạ! Dự án Làng Văn hoá - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Hà Nội) đầu tư hơn 3.200 tỷ, với hai đường lớn 6 làn ô tô, trải nhựa rộng thênh thang, nhưng hiện không một bóng người qua lại, nhà chờ xe, lan can ven đường hoen gỉ, xiêu vẹo, như một khu bỏ hoang. Thành phố Hà Nội từng tuyên truyền là "nơi tái hiện những giá trị văn hoá đặc sắc của 54 dân tộc Việt Nam để giới thiệu với nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế, là điểm tham quan lý tưởng cho nhân dân trong nước cũng như khách du lịch quốc tế và là biểu tượng sinh động để các nước trên thế giới hiểu được chính sách dân tộc của Việt Nam"!   Trên Facebook, nhà văn Nguyễn Đình Bổn viết: "Bất kỳ ai, nhìn thấy bức ảnh được chia sẻ trên facebook này đều cảm thấy phẫn nộ và bất lực. Người mẹ trẻ đi xe máy chở con, có vẻ như học mẫu giáo trở về nhà, trên con đường của một thành phố lớn nhất nước, thành phố được ngợi ca "văn minh hiện đại" đã gần như chìm trong dòng nước lũ. Một chiếc xe hơi trờ tới, dù bị ngã, hình như đang kẹt chân, nhưng người mẹ trẻ vẫn dùng một bàn tay để chặn đầu chiếc xe hơi, cố bảo vệ con mình, trong khi đó bàn tay bé bỏng của em bé, thảng thốt níu lưng áo mẹ khi cơ thể em gần như chìm sâu trong nước, trong sự tuyệt vọng! Ai chịu trách nhiệm về vấn đề này? Báo chí từng đăng tải những ông quan đầu ngành ngành thoát nước đô thị nhận lương trên cả tỷ đồng/năm. Họ ngồi đó để làm gì và khi thành phố chìm sâu trong nước thì đổ thừa do mưa lớn hay triều cường? Ai là người chịu trách nhiệm khi chấp nhận xây dựng khu đô thị Phú Mỹ Hưng mà có nhiều kỹ sư và nhà khoa học từng phản biện, chỉ ra rằng làm như vậy chính là xây một con đê vĩ đại ngăn sự thoát nước về phía trũng của Sài Gòn? Và điều này đã trở thành nhãn tiền khi Sài Gòn mưa là ngập, mưa lớn là có "sóng bạc đầu" trên đường phố?" Gần đây nhất, hôm 8 tháng 10, 2014,  đập chứa bùn đỏ của dự án bauxite Tân Rai bị vỡ, lượng bùn bị tràn ra ngoài và đổ xuống cuối hồ Cai Bảng ước khoảng 5.000 m3. Ông Nguyễn Văn Ngữ, Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Lâm Đồng, cho biết, không gây thiệt hại về người và thiết bị và mẫu nước tại hồ thải quặng bị vỡ với độ PH trung tính (6-7), không có hóa chất, không độc hại, không gây ảnh hưởng sinh thái trong lòng hồ và không gây thiệt hại đến vườn tược, hoa màu của người dân. "Đây là bùn đất đỏ đã qua lắng rửa nên hoàn toàn không độc hại, không phải bùn đỏ đang trong quá trình khai thác", ông Ngữ nói. Thế nhưng, ông Nguyễn Thành Sơn, người có nhiều gắn bó với dự án Bauxite Tây Nguyên, hiện là giám đốc quản lý dự án Than đồng bằng sông Hồng, lại nói khác:   "Ở dự án Tân Rai và Nhân Cơ đều có hai loại chất thải: chất thải của nhà máy alumina là bùn đỏ độc hại và nguy hiểm, chất thải của nhà máy tuyển quặng bauxite là “quặng đuôi” cũng độc hại, nhưng ít nguy hiểm hơn. Nếu ai đó khẳng định hồ thải quặng đuôi không nguy hại là không đúng. Bất cứ hồ (bãi) thải quặng đuôi nào cũng nguy hại, do có chứa rất nhiều khoáng vật của kim loại nặng và hợp chất hóa học khác nhau chưa được xử lý, về mặt lý thuyết, hồ thải quặng đuôi chỉ ít nguy hại hơn hồ thải bùn đỏ". "Người dân “hoang mang” không đáng lo ngại bằng việc cách đây chưa đến một tháng, hội Khoa học công nghệ Mỏ của Tập đoàn Than (TKV) còn có văn bản báo cáo với Đảng, Chính phủ, và Quốc hội rằng: hồ bùn đỏ ở Tân Rai đều “trong tầm kiểm soát”. "Đơn giản như hồ thải quặng đuôi mà còn bị vỡ, không kiểm soát được, thì ai dám tin rằng hồ bùn đỏ “trong tầm kiểm soát”! Chủ quan, và ấu trĩ của Tập đoàn Than là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “đi vướng núi, về mắc sông” của cả hai dự án bauxite hiện nay", ông Sơn nói. Dự án Khai thác bauxite Tây Nguyên đã gây ra nhiều ý kiến tranh cãi không những về việc sử dụng công nghệ Trung Quốc lạc hậu, mà còn vấn đề an ninh, quốc phòng, hiệu quả kinh tế, hậu quả xã hội và tác động đối với môi trường sinh thái. Theo ước tính của một số chuyên gia, giá bán alumin FOB (tại cổng nhà máy) khoảng 340 USD/tấn trong khi giá thành sản xuất là 375 USD/tấn. Giá xuất khẩu alumin của Vinacomin tình từ bờ biển tối đa khoảng 345 USD/tấn. Nếu tính chi phí tiêu thụ (vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt) khoảng 25 USD/tấn và thuế xuất khẩu 20%, mỗi tấn alumin sẽ lỗ khoảng 124 USD. Nếu được miễn cả thuế xuất khẩu thì mỗi tấn alumin sẽ lỗ ít nhất 55 USD, tức lỗ ít nhất 33 triệu USD mỗi năm. Chỉ mỗi việc đào tài nguyên lên bán mà phải chịu lỗ lại gánh theo hậu quả môi trường do làm ăn tắc trách. Khi có lũ quét chưa biết sẽ ra sao. Nhưng "chủ trương lớn của Đảng" thì cứ làm, bởi vì có làm thì mới có "ăn'!   Khi đồng tiền chia chác đã nằm yên trong két hay ở các tài khoản nuớc ngoài, phủi tay, chạy trốn trách nhiệm và bao biện là nghề chuyên nghiệp của quan chức cộng sản Việt Nam. Một vài con thiêu thân hạng quèn như trong vụ PMU 18 hay Vinashine, Vinalines... mang ra xử chỉ là trò trình diễn mị dân, giả dối. Nguồn: rfavietnam.com
......

Pages