Đại Vệ Chí Dị - Tái Ngộ Quỷ Môn Quan

Nước Vệ triều nhà Sản, năm thứ 70 Vệ Kính Vương năm thứ tư. Trăm Xanh tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên con đò, người lái đò mặt xanh như tàu lá, khuôn mặt dường như làm bằng đá, không có một nét cử động nào. Đôi cánh tay chèo mái đò lướt êm trên dòng sông đen thẫm nước chảy cuồn cuộn. Xung quanh là một khoảng âm u, nhờ ánh sáng của những con đom đóm bay quanh đò mà Trăm Xanh nhận ra mình đang ở một chỗ mà ông chưa đến bao giờ. Trấn tĩnh một lúc, ông nghe thấy văng vẳng bờ bên kia tiếng khóc của vợ con mình, nghe kỹ một lúc thấy lời ai oán về cuộc đời nghiệt ngã đã khiến số phận ông kết cục bi thảm. Tiếng khóc của vợ con xa dần, lúc được, lúc mất rồi mất hẳn. Trăm Xanh ngồi dậy, hỏi người lái đò. - Đây là đâu rồi.? Người lái đò không mở miệng, nhưng rõ ràng âm thanh từ phía người đó thoát ra gằn tiếng khô lạnh. - sông Mê. Trăm Xanh giật mình, lâu lắm rồi không ai nói với ông bằng giọng coi thường như vậy, có lẽ phải đến vài chục năm, khi ông mới bắt đầu gia nhập Sản Hội. Buổi kết nạp, tên bí thư chi bộ Sản cũng gằn giọng nhắc nhở ông phải tuyệt đối trung thành với Sản Hội, âm tiết câu nói của hắn cũng y như tên lái đò này. Mỗi điều hắn giỏi hơn tên lái đò là hắn nói tràng giang đại hải mà âm điệu cũng khô lạnh như tiếng đục đá, kém chăng là bọt mép hắn sùi ra, mắt long sòng sọc, chẳng giữ vẻ lanh lùng bất động như gã lái đò. Vỗ trán nghĩ một lúc, Trăm Xanh biết mình đã rời khỏi cõi trần, trên đường đến cõi âm ty, đang bắt đầu đi qua con sông Mê. Qua con sông này là hồn không nhớ đường về nhập xác. Vậy là chết. Ông tự hỏi mình chết rồi mà vẫn ngủ mơ sao.? Mấy chục năm theo nhà Sản, thuyết học tân tiến từ những nhà lý luận cao siêu về chủ nghĩa duy vật, hiện thực. Làm gì có chuyện âm ty, địa ngục nào. Đò kịch một tiếng làm ông thoát khỏi mớ hoài nghi chủ thuyết Sản để về thực tại, người lái đò vẫn giọng lạnh lùng. - Trả tiền đò. Trăm Xanh loay hoay sờ bên mình, từ khi làm quan trấn thủ đất Quảng đến này, rồi theo lệnh Vua ra kinh thành làm đại tướng quân Nội Chính, có bao giờ ông phải dùng đến tiền đâu. Ông đi đâu cũng có tuỳ tùng, trợ lý, ông cần gì tự chúng mang đến cho ông. Tiền nước Vệ thậm chí nhiều năm ông còn chả nhìn thấy. Ông định tháo cái đồng hồ Omega vỏ vàng khối đưa tên lái đò, đang loay hoay tháo thì tên lái đò gắt. - Tiền đò người nhà nhét trong miệng chứ có ở tay đâu mà tìm đó. Trăm Xanh thò tay vào miệng, không thấy đồng nào. Thì ra lúc khâm liệm, tay Đại Thần Nghị Chính Tổng Nhân Sự Tôn Dưa đã chỉ đạo không nhét tiền đò vào miệng ông. Hắn bảo làm thế là mê tín, không đúng tinh thần cách mạng khoa học hiện đại của nhà Sản. Cay đắng, Trăm Xanh đành tháo chiếc đồng hồ quý giá gắn bó nhiều năm đưa cho tên lái đò. Gã lái đò nhìn Trăm Xanh luyến tiếc chiếc đồng hồ, bèn nói. - Không có tiền thì thôi, ta chỉ hỏi vậy, năm ngoái có người qua đây, đã trả luôn cho người rồi.  Người lên bờ, cứ theo hướng đom đóm bay mà đi là đến chỗ của người. Trăm Xanh cúi đầu cảm ơn, lên bờ lững lờ bước như chân dẫm vào mây, theo ánh đom đóm đến một cổng thành có đề ba chữ. Quỷ Môn Quan. Xanh dợm bước, tưởng mình nhầm chỗ, định lùi lại. Lính gác trông thấy chạy tới xốc nách nói. - Đã đến đây rồi thì còn đường nào khác nữa mà đi. Xanh giơ tay khua khua phân trần. - Tôi là mệnh quan triều đình, lẽ nào vào nơi cửa quỷ sống. Lính gác cười nhạt nói. - Quan lại triều đình nhà Sản, chỉ có vài cửa này thôi. Không tin vào trạm tra sổ là biết. Đến trạm gác, lính giở sổ, soi đuốc cho Xanh đọc. Sổ ghi rằng Nguyễn Trăm Xanh, người đất Quảng,  năm 27 tuổi nhập Sản Hội, được làm quan 35 năm. Hơn 30 năm làm quan xứ Quảng, tính tình hà khắc , độc đoán phá mồ mả, làm hại chết giáo dân xứ Gò Dâu. Đính kèm đơn tố cáo của người bị hại. Gia sản do tham nhũng giàu nhất nhì miền Trung. Về công lao có được ghi nhận cải cách chính sách, tiện lợi cho dân, gần gũi bá tính, có nhiều công trạng mở mang đường sá, công trình công cộng, giáo dục, y tế có lợi cho dân. Công tội chưa định nặng nhẹ. Đưa vào phòng đợi, chờ ngày phán xét. Khi chưa đến ngày đó, miễn cho phải đeo gông, đóng cùm. Lính gác mở cổng thành, dẫn Xanh đi xuống những bậc thang ướt đẫm rêu. Đến một khoảng trống thấy bao nhiêu tù nhân đang đeo gông, chân bị xiềng, trên đầu tù nhân nào cũng đội một hòn đá, to nhỏ tuỳ người. Lính gác bảo Xanh cứ đợi đây để tìm quản phòng đợi lấy chìa khoá. Xanh mỏi mệt, thấy đống đá to chất đó, hòn nào cũng ghi tên người, lựa được hòn to nhất không có tên ai mới đặt mình ngồi nghỉ. Xanh xem đồng hồ, tính theo dương gian bấy giờ mới vừa hết Ngọ, đám tù được nghỉ, ngồi quanh sân. Xanh nhác thấy một kẻ quen quen, bèn lại gần chào. Kẻ ấy ngước đầu nhìn lên, Xanh nhận ra đó là Báu Mã. Xanh cứng lưỡi không biết nói gì ú ớ, Báu Mã thở dài. - Rút cục thì cũng gặp ông ở đây, ông chậm mất mấy tháng . Xanh thấy Mã nói giọng lành, nên cũng hết lo, mới cất lời. - Sao ông biết tôi sẽ xuống đây chậm ? Mã cười đau đớn. - Tôi còn biết ông không có tiền đò nữa cơ. Xanh điếng người giây lát, rồi vòng tay tạ Báu Mã. - Tôi vì mệnh Vua, khiến ông thế này, thực là áy náy. Báu Mã đỡ Xanh dậy an ủi. - Tôi cũng vì phò Chúa mà ra nông nỗi này, đâu phải nguyên cớ chỉ do ông cả. Xanh đưa tay sờ cái gông gỗ nghiến nặng trịch trên cổ Báu Mã hỏi. - Sao ông đeo gông nặng thế này. Báu Mã não nề. - Tôi làm quan bộ Hình,  tính chất công việc chỉ làm điều ác , đâu có cơ hội ra những quyết sách làm điều tốt cho dân, ông cứ nhìn đống đá quanh đây mà xem, toàn cho quan bộ Hình nhà Sản hết cả đấy. Hòn đá tôi đội ban nãy mới là tính cái vụ đàn áp nông dân phủ Thiên Trường, cái gông này là tội lừa người lấy gan....còn các tội khác Diêm Vương chưa xét đến, cũng chỉ nay mai là thêm hình phạt nữa thôi. Xanh ngẩn người thốt. - Tội hại đồng môn, giết giáo dân là theo luật lệ nhà Sản, có vua ban. Lẽ nào cũng phải chịu phạt. Báu Mã cười nhếch mép. - Tôi cũng theo chỉ dụ Chúa ban, nào có tự nghĩ ra đâu. Xanh hoài nghi. - Vua, Chúa là thiên mệnh trời ban, lẽ nào xuống chỉ , chúng ta phận quan lại làm theo, lại bị phạt. Mã nghe tiếng kẻng báo, đứng dậy vòng tay cáo từ, lúc nhờ Xanh đặt hộ hòn đá lên đầu, Mã chỉ đống đá nói. - Vua, Chúa tiếm ngôi, bất nhân, bất nghĩa. Trời nào cho thiên mệnh, cái hòn đá to ông ngồi là để Vua và Chúa ai xuống trước thì đội đấy. Trăm Xanh chợt ngộ, hối hận khóc oà, ôm lấy Báu Mã nói. - Chúng ta cả đời lầm lạc, theo phường bá đạo, để đến lúc này không biết kêu ai. Xin ông bỏ qua chuyện ngày xưa. Mã nặng nhọc vì gông, xiềng, đá hổn hển trả lời. - Tôi đã trả tiền đò cho ông rồi đấy thôi. Theo FB Người Buôn Gió
......

Nghệ sĩ Kim Chi đề nghị mặc niệm toàn quốc ngày 14/3

......

ĐẦU NĂM DÊ NÓI CHUYỆN CƯỚP

“Dân cướp lộc – đảng cướp tất” – ĐTL Cướp lộc Hình ảnh lên ngôi đẫm máu đầu năm là lễ hội Chém Lợn ở làng Ném Thượng, Bắc Ninh. Cao hơn một bậc, ở mức tàn bạo giữa con người với con người chứ không chỉ với con lợn, hẳn phải là hình ảnh nổi loạn và nổi bật đầy màu đỏ quang vinh tụ cả vào lễ hội Đền Gióng ở Sóc Sơn, thuộc Thủ Đô Vì Hoà Bình. Khách du xuân ngoạn đền đã xung phong hỗn chiến đánh cướp những chùm “hoa tre” kết vào thân chuối (giả làm gậy tre như truyền thuyết cậu Gióng nhổ tre làm gậy đánh giặc). Và gọi đó là truyền thống cướp lộc. Hoá ra, cướp lộc là phóng tay thu hoạch bất cứ cái gì của công làm của riêng? Cướp hoa Không cần lễ hội gì, khách đón xuân vẫn từng anh dũng cướp hoa giữa chợ những dịp đón Tết. Mấy năm trước, nhiều chợ hoa đã thành chợ rác ngay sau dịp đưa Táo về trời. Còn những đường hoa thì biến thành những đường mòn Trường Sơn giữa phố. Cướp bia Nhiều người vẫn chưa quên chuyện xe chở bia bị lật, biến bia chai thành bia lộc. Cướp giật Là một trong những quốc nạn, với lượng tin ngày càng khó đếm xuể, và là một trong những trọng tâm đưa tin “chủ đề” của dàn báo chính quy. Đến mức cơ quan “hữu trách” bật ra công văn chính thức kêu gọi du khách phải tự bảo vệ tài sản của họ khi ngoạn cảnh phố phường. Cướp đường Thủ Đô Vì Hoà Bình còn vang danh thế giới về những sư đoàn xe máy cướp đường cắt ngang rẽ tắt, bất kể xuôi chiều hay ngược chiều, bất kể đèn xanh hay đèn đỏ. Lộc đường ở đây biến thành bánh mì và nước lọc cho một lực lượng hùng hậu nhất thành phố. Tất nhiên là bọn cướp đường phải thua bọn cướp cạn và ông thần cướp mạng. Cướp ấn Đây cũng là một thứ lễ hội nức tiếng đông tây kim cổ, với nhiều vạn quan/dân, có năm lên đến hơn 6 vạn người, dẫm đạp tranh nhau cướp ấn, cũng được coi là lộc vinh thân. Lộc được cướp từ đền, và từ những kẻ vừa mới cướp xong. Thu hoạch nhiều lộc ăn theo nhất trong lễ hội này là bọn móc túi, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Cướp thơ Đừng ai vội nghĩ tới Ngục Trung Nhật Ký xa xưa. Thời nay, ngay cả hạng GS trăm tuổi vẫn cướp thơ của các thi bá làm của mình. Không phải một lần. Cũng không chỉ để mua danh hay mua vui, mà có khi còn là mua dương tuổi gậy nữa. Lộc già năm dê là đây chăng? Cướp cò Sản phẩm đại trà này là độc quyền sản xuất của lực lượng “hữu trách”. Hầu hết các án mạng có tiếng nổ từ súng công an tất nhiên đều là do cướp cò. May là lãnh đạo ngành này chuyên tâm lo xây biệt thự lưng đèo thay vì mua súng mới cho thuộc cấp. Cướp lý Cẩm nang căn bản của bọn cướp này là quyển “Luật Là Tao!”. Được quán triệt và tận tình áp dụng từ cấp tổng bí thư xuống tới CA phường. Còn trên hiến pháp thì được đánh số 4 cho cả nước xanh mặt. Cướp hàng rong Đây là công tác tận thu của cải của người nghèo. Từ bàn ghế, thúng mủng, quang gánh… cho tới cái cân, nải chuối… Và được coi là Lộc vỉa hè. Cướp lễ đài Vào những ngày tưởng niệm chiến sĩ bảo vệ Hoàng Sa/Biên Giới/Trường Sa, thường được nhân dân tự nguyện kính viếng trước tượng đài Lý Thái Tổ vào mỗi đầu năm, cũng thường được nhà nước huy động côn đồ (CA/dân phòng/lưu manh) đến giật hoa phá bĩnh. Có khi là lấy đá ra cưa gây bụi mù, hoặc tổ chức nhảy đầm lộ thiên và lộ nhiều thứ khác, để ngăn chận lòng thành của nhân dân. Có điều chắn chắn không phải động cơ cướp lễ đài gần Bờ Hồ là để được Lộc vừng! Cướp băng tang Một sản phẩm đại trà và độc quyền khác của bộ côn đồ CHXHCNVN là cướp băng tang trên các vòng hoa phúng. Nhiều phần đây là nhằm mục tiệu Lộc xộc. Cướp đất CHXHCNVN là quốc gia duy nhất trên thế giới có giai cấp Dân Oan, những người bị cướp đất, chiếm một phần trăm không nhỏ của dân số nông nghiệp xứ ta. Những địa danh nổi tiếng ra thế giới về “nhiều trận đánh đẹp” là Cống Rộc, Văn Giang, Dương Nội, Mỹ Đức, Ứng Hoà, Thái Bình… Bà Lê Hiền Đức nhận xét về cảnh cưỡng chế Văn Giang: “Chỉ có súc vật mới không thấy động lòng”. Trong lúc nông dân cắt máu ăn thề quyết tâm giữ đất. Cướp công Đảng không chỉ đẻ ra bộ ăn cướp tên là CA. Chính nó cũng đã từng cướp công của nhân dân và của cả thuộc hạ. “Khoán Hộ” trở thành “đổi mới” chỉ là một điển hình. Xương máu nhân dân, với hàng triệu bia mộ dọc Trường Sơn và trên khắp nước là một bằng chứng khác, to hơn. Cướp chính quyền Đầu têu của mọi thứ bi kịch cướp bóc kể trên là từ đâu? Người ta chỉ có thể quay về cốt lõi của CNXH: đấu tranh giai cấp – cướp chính quyền. Điều này đã được long trọng chứng nhận trong hằng hà văn kiện đảng. Đợt đầu ăn Lộc Liên Xô. Đợt giữa vét Lộc Đất Nước. Đợt cuối là đám nhá Lộc Trung Quốc đây chăng? Cướp lạ Chỉ độc một thứ CƯỚP mà không một lãnh đạo nào dám chạm tới, thậm chí không dám nêu tên, là khi giặc Cướp biển/Cướp đảo/Cướp tàu/Cướp lưới/Cướp cá của ngư dân ta, từ bao năm nay cho tới ngày cận Tết vừa qua (hình 2). Hay đó cũng là thứ chủ trương truyền thống đốn chuối làm gậy tre Thánh Gióng, như trong đời thường lấy tre làm cốt bê tông? Chiến lược quốc phòng là ở chỗ này chăng? 27/02/2015 – Chào mừng ngày thầy thuốc. Ngóng đợi những thầy thuốc chính trị-xã hội cùng ra tay trị bệnh Cướp VN. Blogger Đinh Tấn Lực Nguồn: https://dinhtanluc.wordpress.com/dau-nam-de-noi-chuyen-cuop/
......

Đảng mất mình đi đâu?

Không phải chỉ trong hàng ngũ công an mới có người đang đặt câu hỏi trên. Tất cả những kẻ đang nắm quyền hành và hưởng lợi lộc nhờ chế độ Cộng Sản cũng ôm nỗi băn khoăn này. Đảng mất mình đi đâu? Có người đã chọn rồi: Đi Mỹ! Trên mạng Internet đã thấy hình ngôi nhà một ông phó thủ tướng đương quyền mua ở Anaheim, California, USA. Cả hình bằng lái xe ở California của con trai ông ta. Trong đảng họ phá lẫn nhau cho nên mới tiết lộ cho bà con biết, còn hàng ngàn căn nhà khác vẫn được giữ kín “bảo vệ đảng.” Chắc chắn nhiều cán bộ cao cấp cũng tìm đường chạy từ lâu rồi. Và họ cũng biết một quy tắc của nghề đầu tư là “Không để trứng tất cả vào chung một cái giỏ.” Nếu rớt, trứng bể hết. Cho nên, những kẻ quyền cao nhất, thế mạnh nhất, “đông tiền” nhất, họ đều biết phải “phân tản” (diversify) các món đầu tư cho tương lai. Một căn nhà ở Mỹ, một cái khác ở Đức, vài ba địa chỉ ở Úc, gửi tiền của đi chỗ nào xa xa nước Việt Nam đều tốt cả. Mà phải chọn những nơi an toàn. An toàn nhất là những nước dân chủ tự do. Chọn nơi nào có hệ thống tư pháp công bằng, trong sạch, tài sản của mình được luật pháp bảo vệ, không sợ có đứa nó ỷ quyền chiếm mất - như ở nước Việt Nam. Đem tiền sang các nước đó không những khỏi lo bị cướp mà dùng làm vốn sẽ sinh lợi cao hơn. Những nước có truyền thống dân chủ lâu đời cũng là những nước kinh tế lên cao nhất, nhờ tinh thần trọng pháp và luật lệ bảo vệ quyền tư hữu. Cho nên, các đồng chí chưa chắc đã mua nhà ở Quảng Châu, Côn Minh, Bắc Kinh, mà còn đem tiền sang các nước tư bản chính hiệu. Đó là tín hiệu con tàu sắp chìm, đàn chuột bỏ chạy trước. Đảng mất mình đi đâu? Không phải ai cũng có tiền và có địa vị để chuẩn bị đường rút lai sang Tàu, sang Úc, Canada, Pháp, Đức, hay sang Mỹ. Cho nên, đang lo lắng nhất bây giờ chắc là những người công an. Khẩu hiệu “Đảng còn thì mình còn” đã được nêu lên từ thời Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ. Công an tự nhận họ đóng vai “chó săn;” nhưng hãnh diện rằng họ “làm chó săn cho cách mạng!” Bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng Sản tài tình đã dựng hai chữ “cách mạng” như một vị thần hoàng để họ chui vào cung đình chia nhau ăn thủ lợn. Cái gì phục vụ“cách mạng” thì tốt, thì cao quý. Gán cho ai nhãn hiệu “phản cách mạng” thì xúi giục đám “quần chúng” côn đồ chửi bới, chém giết (Cải Cách Ruộng Đất), ám sát (Coi gương Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) ném phân vô cửa nhà người ta (Coi Hoàng Minh Chính, Trần Khải Thanh Thủy), hoặc đem vùi xuống đất đen (Coi Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần). Núp dưới bóng thần “cách mạng” đó, công an “phục vụ cách mạng” là công an an tốt, đáng tự hào. Họ có thể hãnh diện nhìn nhận công an an gắn bó keo sơn với đảng; họ hô to khẩu hiệu “Đảng còn thì mình còn” mà không thấy xấu hổ về cái vai trò ăn bám như loài ký sinh trùng. Nhưng bây giờ, bức mặt nạ “cách mạng” đã rớt xuống. Đảng lệ thuộc ngoại bang đến mức không dám gọi tên những con tàu ăn cướp dân mình là Tàu Trung Quốc mà bắt các báo đài phải gọi là “tàu lạ.” Dân bèn chế nhạo: Coi chừng Người Lạ, Hàng Lạ! Chế độ gọi là “cách mạng” đã từng “học tập Mao Chủ Tịch” chia rẽ dân tộc, gây đấu tranh giai cấp, gây chiến tranh Nam Bắc, người Việt giết người Việt cho Trung Cộng thừa cơ chiếm quần đảo Hoàng Sa. Những công an dẫn đám côn đồ đàn áp các cuộc biểu tình đòi Hoàng Sa, Trường Sa của dân Sài Gòn, dân Hà Nội, phải tự nhìn thấy họ đang bị Đảng Cộng Sản xua đi phục vụ đế quốc đỏ Trung Hoa. “Mình còn” nhưng “Nước mất” thì ai sẽ trả lời cho con cháu đây? Chính công an cũng thấy rõ chế độ bây giờ chỉ còn là một bộ máy cường quyền liên kết với tư bản đỏ tham nhũng, trục lợi. Đó là hậu quả không thể tránh được ở bất cứ nước nào do một chế độ độc tài đảng trị cầm quyền. Đảng còn ăn cướp được thì mình còn được ăn cướp. Nhưng họ cũng thấy hình ảnh những ngôi biệt thự xa hoa của những bí thư tỉnh ủy to lớn sang trọng hơn nhà mình trăm lần, ngàn lần. Họ đã thấy hình phòng khách trong nhà cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu toàn bảo vật quốc gia. Gần đây là hình trong nhà Nông Đức Mạnh, tường cũng dát vàng với hai cái ngai vàng chạm hình rồng, bắt chước vua chúa đời xưa. Người có học nhìn cảnh đó phải cảm thấy thương hại đám cựu tổng bí thư đua đòi “trưởng giả học làm sang” bày trò khoe khoang nhơ nhuốc! Ngoài những “của nổi” này, các vua chúa đỏ còn bao nhiêu “của chìm” cất giấu trong các ngân hàng, trong thị trường chứng khoán và bao nhiêu ngôi biệt thự đã mua ở ngoại quốc? Công an vẫn phải đóng vai “chó săn,” nhưng bây giờ họ đang làm chó săn cho loài vua chúa nhố nhăng đó chứ chẳng có thứ cách mạng nào cả. “Đảng còn thì mình còn nhưng đảng mất mình đi đâu?” Đó là câu hỏi đang ám ảnh những người công an biết suy nghĩ. Ở Việt Nam, Bắc Hàn và Trung Quốc. Một mối lo ám ảnh nặng nề nhất là “ngàn năm bia miệng.” Nhà văn Bùi Ngọc Tấn không phải là người nhỏ mọn. Nhưng trước khi qua đời ông không thể không nhắc đến tên một tay chỉ huy công an ở Hải Phòng, mà nhờ cuốn sách “Hậu Chuyện Kể Năm Hai Ngàn” của ông bây giờ cả nước biết họ biết tên. Họ và tên ông này là Trần Đông, thường vụ thành ủy, giám đốc sở công an Hải Phòng. Trần Đông đã vu cáo, đầy đọa nhiều nhà văn, chỉ để chứng tỏ mình tích cực tham dự chiến dịch vu cáo “nhóm xét lại chống đảng.” Bỏ tù mấy nhà văn làm lễ dâng công với Lê Đức Thọ, nhờ thế Trần Đông được thăng quan, lên làm tới chức thứ trưởng. Con cháu ông Trần Đông có cảm thấy nhục nhã khi biết cha, ông mình đã làm những việc thất đức đó hay không? Trần Đông (X),Thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Giám đốc Sở Công an Hải Phòng từ 1963 đến 1976 Bùi Ngọc Tấn không muốn thanh toán mối thù riêng. Ông phải viết ra vì món nợ chung với bao nhiêu bạn tù bị guồng máy độc tài hãm hại. Không kể hết thì những mối oan khiên không bao giờ được cởi. Nhà thơ Hoàng Hưng viết lá thư mở đầu cuốn sách đã thông cảm nỗi lòng Bùi Ngọc Tấn. Cho nên ông đã viết những lời hứa, những lời nguyền: “Còn một ngày cũng sống sao cho ra sống! Vì thế chúng ta phải viết! Họ không muốn ta viết, ta phải viết! Họ sợ ta viết, ta phải viết ! Họ cấm ta viết, ta phải viết !...” Những người không viết, họ có thể quay phim, có thể chụp hình. Vì vậy những bức ảnh ngai vàng trong nhà Nông Đức Mạnh mới được đưa lên mạng. Người phóng viên cầm máy ảnh trong tay chứng kiến cảnh vàng son lố bịch đó tự cảm thấy mình phải giúp tất cả đồng bào trông thấy cuộc sống xa hoa nhố nhăng của các vua chúa đỏ! Người biên tập trong tòa báo cũng đồng ý. Dòng họ Nông sẽ đi vào lịch sử không phải vì ông Nông Đức Mạnh làm lãnh tụ Đảng Cộng Sản một thời. Cả cuộc đời làm tổng bí thư của ông ta không ai nhớ Nông Đức Mạnh đã làm gì, đã nói được câu nào cho ra hồn. Nhưng từ nay ai cũng nhớ hình ảnh hai cái ngai vàng chạm đầu rồng trong nhà Nông Đức Mạnh! “Đảng còn thì mình còn nhưng đảng mất mình biết trốn đi đâu?” Không ai trốn được ngàn năm bia miệng! Những người công an bây giờ biết nhiều hơn, nhìn lại các thủ lãnh đời trước cũng phải thấy nhục, phải xấu hổ: Cả ngành công an đã thối nát ngay từ thủa ban đầu, không phải chỉ vì những tên như Trần Đông. Trần Quốc Hoàn, trùm công an toàn quốc cũng “phục vụ cách mạng” bằng việc “dẫn gái” và giết người bịt miệng. Hoàn đã đưa cô gái từ miền thượng du về cho Hồ Chí Minh, hai bác cháu dùng xong rồi đem thủ tiêu người phụ nữ xấu số bằng tai nạn ô tô. Vũ Thư Hiên đã kể rõ chuyện trong Đêm Giữa Ban Ngày. Ngàn năm bia miệng, biết trốn đi đâu? Tất cả các chế độ độc tài thối nát đều sẽ tan rã. Những người công an phải đọc được các tín hiệu báo trước chế độ đang tan rã. Một gia đình nông dân ở huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An đứng giữa chợ đả đảo chế độ Cộng Sản. Cậu con trai đã không ngần ngại hô khẩu hiệu “Tiêu diệt Đảng Cộng Sản!” “Tiêu diệt! Tiêu diệt!” Người mẹ còn hô to: “Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!” Mà họ không chỉ hô một, hai lần! Lòng người dân phải chứa chất nỗi phẫn uất đến mức nào họ mới dám liều mạng hô to những tiếng “chết người” như vậy! https://www.facebook.com/video.php?v=646709672108109 Chế độ độc tài chuyên chế nào cũng phải tan rã. Dân Việt Nam không ngu, không hèn hơn dân các nước Đông Âu. Công an mật vụ ở các nước này đã ngửi thấy mùi chế độ tan rã trước tháng 11 năm 1989. Cho nên khi chứng kiến cơn thủy triều dân chủ tự do dâng lên chính họ bỏ rơi Đảng Cộng Sản. Cuộc cách mạng ở Đông Đức không thể thành công nếu các công an Stassi đang gườm súng quyết định bắn vào đám biểu tình ngay trong ngày đầu ở thành phố Dresden. Dân thủ đô Praha nước Tiệp không thể tiến chiếm “Lâu Đài” nếu chính các công an không buông súng để ủng hộ. Đảng Cộng Sản Liên Xô tan hàng khi chính các sĩ quan KGB ngoảnh mặt đi, không cứu, dù chỉ bắn một phát súng. Trong cả ba nước đó, không một ai cất một ngón tay lên cứu Đảng Cộng Sản! Không một người nào nhỏ một giọt nước mắt tiếc thương! Tất cả cũng từng thuộc lòng câu: “Đảng còn thì mình còn!” Nhưng chính họ cũng nhiều đêm nằm vắt tay lên trán tự hỏi: “Đảng mất mình biết trốn đi đâu?” Và họ đã lựa chọn: Mình đứng về phía những người dân oan ức! Dân còn thì mình còn! Ngô Dân Dụng http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?art...
......

Quốc Phụ & Quốc Sư

Tuy thất vọng trước chương trình Táo quân Giao thừa 2015, nhưng ngay sáng mùng Một Tết, công chúng đã được đền bù khi nhìn thấy những tấm hình chụp "thâm cung" nhà Cựu TBT Nông Đức Mạnh. Trận cười chưa dứt thì hôm qua, mùng 6 Tết, dân chúng lại mục kích loạt ảnh GS Vũ Khiêu hôn má và cho chữ hoa hậu Kỳ Duyên. Nhưng đừng tưởng truyền thông nhà nước chỉ đóng vai trò mua vui. Các nhà báo lề phải thâm thúy hơn những gì vài facebookers đang chế nhạo. Lâu nay, giới học thật - căn cứ vào những "tác phẩm" từng xuất bản khi ông còn trẻ - không lạ gì vốn chữ nghĩa của học giả Vũ Khiêu. Nhưng với công chúng số đông, nếu truyền thông nhà nước không cho chúng ta đọc câu đối mà Vũ Khiêu tặng Kỳ Duyên - “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc - Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” - làm sao biết, GS Vũ Khiêu không những không biết "niêm luật" tối thiểu khi viết câu đối mà còn, phần văn vẻ nhất, lại đạo thơ Lý Bạch (chưa kể về ý, vế đầu tự viết thì tối nghĩa, vế sau của Lý Bạch thì dung tục khi dùng cho tình huống một ông già trăm tuổi tặng cô gái 19 tuổi - Vũ Khiêu cũng đã từng đạo lời Quản Trọng nói về Thúc Nha, thời Đông Chu, khi "khóc" Tướng Giáp). Nhiều người sững sờ khi nhìn thấy Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế tay rồng, trước một hương án "thếp vàng". Không nói về sự xa hoa. Dân chúng không còn kỳ vọng vào sự thanh liêm của những người như ông. Nhưng dân chúng, theo lẽ tư duy thông thường, nghĩ, một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất. Ngoài khía cạnh văn hóa, việc tổng bí thư của một đảng cộng sản khi về hưu tự thửa cho mình một chiếc ghế mô phỏng ngai vàng còn cho thấy, tuy kêu gọi dân chúng làm cách mạng, quét sạch tàn dư phong kiến nhưng trong thẳm sâu, không ai thèm khát tàn dư phong kiến bằng họ - những nông dân có quyền vua chúa. Có lẽ những chức tước đã kinh qua và những danh hiệu "cao quý nhất" mà Chế độ đã gắn cho GS Vũ Khiêu không những làm công chúng mà chính ông cũng choáng ngợp và tưởng thật. Khi ngồi trên cái ngai vàng hàng nhái đó để tiếp khách chính thức, có chụp ảnh (có thể còn quay phim), chắc chắn ông Mạnh không nhận ra thân phận của một "hoàng đế cởi truồng". Nhưng vàng, thau thì không bao giờ lẫn lộn. Khi xuất hiện trước công chúng, những công dân trưởng thành đã chỉ ra sự tồng ngồng của họ. Sau thất bại của "Táo quân" tưởng không có gì vui. Sau những cuộc cười đau bụng tưởng đã có gì vui. Nhưng đời chẳng có gì vui. Văn chương như Vũ Khiêu mà biết bao năm qua vẫn được không ít người tôn là "quốc sư", vẫn được không ít người trông coi đình đền miếu mão mời viết văn bia; Văn hóa như Nông Đức Mạnh mà vẫn có thể làm Chủ tịch Quốc hội tới 9 năm, vẫn làm Tổng bí thư tới 10 năm... thì, đất nước không như thế này mới lạ. Nguồn: https://www.facebook.com/Osinhuyduc?fref=ts
......

Nguyễn Bá Thanh- "Bào thai chết lưu” trong “bầu nước ối” chính trị tráo trở

* Chết vinh khi được người dân “dán nhãn chất lượng” Trong những ngày này, rất nhiều người dân Đà Nẵng và VN chân thành khóc Nguyễn Bá Thanh (NBT). Thông tin trên mạng Internet về việc ông chết tức tưởi do bị đầu độc bởi một số “đồng chí tham nhũng kếch xù giết ông để “diệt khẩu” càng làm cho người VN bất bình thay cho ông và thêm tiếc thương. Hàng ngàn thường dân bỏ việc, xếp hàng chầu chực đợi đến lượt và nức nở khóc khi viếng ông. Những bài hát ngợi ca NBT được người Đà Nẵng sáng tác và ghi âm tung ra kịp khi ông được đưa từ Mỹ về và ngay trước khi ông mất. Nhiều người viết hoa từ Bác, Anh, Ông khi gọi NBT. Điều đó chỉ từng xẩy ra với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh được đưa lên làm thần tượng của người VN trước đây, được gọi là Bác viết hoa là vì ông đã rất giỏi tự tô vẽ, được tô vẽ, thần thánh hóa bởi bộ máy tuyên truyền và quyền lực bất chấp sự thật với nguồn kinh phí khổng lồ, nhai đi nhai lại về công lao và đạo đức của ông trong gần một thế kỷ thì mới đạt đến độ ấy. Trong khi NBT vốn chỉ đứng đầu một thành phố cỡ nhỏ và chức vụ cuối đời cũng chỉ làm đến Trưởng Ban Nội chính trung ương, đặc trách phòng chống tham nhũng, còn chưa vào được Bộ Chính trị. Thông tin về ông rất nhiều khi bị bưng bít bởi lòng ghen tỵ về uy tín. Ông chỉ là con đại bàng Đà Nẵng bị bẻ cánh và trúng đạn khi bay ra Hà Nội. Với một người chết mà lại cho rằng chết vì bị đầu độc bởi những thủ phạm kếch xù – nếu như thông tin của trang Chân dung quyền lực là đúng, thì ngay cả việc bày tỏ lòng hâm mộ và thương tiếc ông, cũng là điều bất lợi cho chính người bày tỏ. Sự sùng tín Nguyễn Bá Thanh của đông đảo người dân hoàn toàn nằm ngoài “quy hoạch” của hệ thống tuyên truyền và “báo chí lề Đảng”. Theo “Thay đổi ngày tổ chức Lễ tang ông Nguyễn Bá Thanh”- Thứ bảy, 14/02/2015, 09:20 (GMT+7). Nguyentandung.org thì thấy Lễ truy điệu và đưa tang ông bất ngờ thay đổi, được tổ chức sớm hơn hai ngày so với dự định trước đó của Bí thư Thành ủy Đà nẵng. Hẳn rằng phải có lý do đáng ngờ bên trong. Phải chăng có người không muốn nhìn tiếp cảnh hàng ngàn thường dân gập người đau lòng khóc thương NBT thêm hai ngày nữa? Mặc dù vậy, ngay sau lễ truy điệu, hàng ngàn người dân vẫn tiếp tục đổ đến viếng NBT. …“Dù Anh không còn trên đời này, nhưng mỗi người dân VN luôn nhớ đến và mãi mãi ghi công. Người dân sẽ biến đau thương thành hành động quyết tâm đi theo tư tưởng cao đẹp vì nước vì dân của Anh... Nhân dân sẽ đoàn kết lại, tạo nên sức mạnh to lớn đánh bại bọn chủ nghĩa cá nhân, tham ô tham nhũng”.( comment của Nguyễn Hồng Sơn, Vietnamnet.vn). Điều gì khiến cho NBT được tiếc thương như vậy, mặc dù trong quá trình làm việc của ông cũng để lại một số tai tiếng. Không ít người hận ông vì ông cũng đã có lúc “độc tài”, chưa thấu tình đạt lý, thậm chí tỏ ra tàn nhẫn, như trong vụ Giáo dân Cồn Dầu đã tố cáo. Nhưng người yêu thương và cảm phục, biết ơn ông thì nhiều hơn, bởi ông quan tâm đến dân nghèo bằng hành động. Ông đã dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, đối lập với cách hành xử đạo đức giả và tham lam, vô trách nhiệm, đồi bại của quan chức VN. Ông được mệnh danh là Lý Quang Diệu của Đà Nẵng khi đã xây dựng được Đà Nẵng trở thành một “ốc đảo” đặc biệt phát triển và văn minh trong cả nước. Hành động của ông còn bao hàm cả cải cách chính trị và đem lại hiệu quả thực sự. “Dán nhãn chất lượng” cho NBT là những người trí thức nhận ra tính cải cách trong suy nghĩ và hành động của ông, là những nhà báo không thể không viết về ông bởi hứng khởi mà ông tạo ra đã làm nên hy vọng cho họ về một sự đổi mới hệ thống quan chức VN nếu làm theo NBT. Ông cũng được thừa nhận bởi người dân Đà Nẵng đã được thụ hưởng kết quả của sự thay đổi tốt hơn của thành phố này, khi ngay cả những người xe ôm, bán vé số, những bệnh nhân ung thư nghèo được an ủi và chữa trị … • Người lãnh đạo duy nhất mà dân còn có thể thương khóc Người dân VN khao khát điều gì? Họ đã thất vọng quá nhiều về phẩm chất cũng như hành vi của đám quan chức tham nhũng, gỉa dối và được cho là bán nước hại dân. Họ khao khát có được ai đó, dù không hoàn thiện, nhưng khả dĩ còn có đôi chút danh dự để họ có thể ngưỡng mộ và thương khóc để mượn cớ phỉ nhổ đám quan chức bỉ ổi, cũng là để thương khóc cho chính họ. Đó là NBT. Trong một thể chế minh bạch, có cạnh tranh và đa nguyên thì những việc NBT làm là bình thường, đương nhiên, nằm trong trách nhiệm của một lãnh đạo. Bất kỳ ai không đảm trách tốt công việc của mình thì phải bị loại bỏ khỏi hệ thống. Nhưng ở chế độ cộng sản VN thì hoàn toàn ngược lại. Cung cách của NBT không phải là của một người cộng sản. Vì thế ông lạc lõng trong đàn sâu mọt khổng lồ. Nếu quả thực ông bị đầu độc, thì ông đã bị giết chết bởi sự quyết liệt chống tham nhũng và quá nổi bật về uy tín có được trong dân chúng. Chính điều này tạo sự so sánh bất lợi cho những kẻ bất tài, tham lam, đồi bại và đạo đức giả, bị người dân khinh miệt trong hệ thống quan chức. Cách người ta khóc NBT khác khóc Võ Nguyên Giáp. Với Võ Nguyên Giáp, người ta khóc cho một “khai quốc công thần” đã tạo nên những chiến công lớn cho quân đội VN cũng như ông đã không tham gia vào “bầy sâu” tham nhũng và đồi bại. Người ta khóc thương ông như một người tài bị vô hiệu hóa, bị đối xử bất công. Nhưng Võ Nguyên Giáp khác NBT ở chỗ vị Đại tướng này dù có quyền lực lớn nhưng đã bó tay chịu trận, yếm thế, nô lệ cho hoàn cảnh và vẫn trung thành với thứ chủ nghĩa và thể chế xã hội chủ nghĩa lạc hậu mà ngay cả các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã vứt vào sọt rác. Ngay cả thông tin mà ông có để minh oan cho ông, cho những đồng chí đã hộ vệ ông mà bị oan khuất, ông cũng không tung ra dù dưới thời Internet, chỉ sau một cú click chuột là có thể bay khắp thế giới. Người ta cho rằng ông không tham nhũng nhưng lại quá tham sự an toàn và chấp nhận chôn giấu mình ngay khi đang sống. Còn NBT là con người hành động. Ông trở nên khác biệt vì ông không nô lệ cho hoàn cảnh. Ông thẳng thừng tuyên chiến với tham nhũng. Ông chỉ mượn thể chế cộng sản và quyền lực không đáng kể mà ông có để thực hiện mong muốn của mình về một thành phố đáng sống, cho người dân được hưởng lợi và mang tới sự trong sạch cho bộ máy. Dù ông có là công cụ “chiến đấu” nội bộ trong tay ai, thì ông vấn có thể lựa chọn cách giảo hoạt như những đồng chí của ông vẫn làm là không chống gì cả, tận dụng vị trí đó để làm lợi thế buộc những kẻ khác phải cống nạp cho ông. Nhưng Nguyễn Bá Thanh mang tính cách bộc trực miền Trung và ông lao vào chống tham nhũng thực sự. Tên của NBT đã được nhiều người dân tự động viết hoa, gọi là Ông, là Bác, là Anh.      “Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) mới đăng một bài viết gọi ông Nguyễn Bá Thanh là một chính trị gia Việt Nam "nổi bật" và "hết sức được lòng dân". Tổ chức nghiên cứu nằm ở thủ đô Washington của Hoa Kỳ viết rằng việc ông Thanh qua đời là một "tổn thất" cho Việt Nam.(Theo voa.15/2/2015). Mặc dù có một số người hận ông, nhưng đông đảo người VN tiếc thương ông, nhất là người Đà Nẵng, nhiều người coi ông như thánh sống. Cứ xem cung cách người ta chầu chực trước cổng bệnh viện để chờ tin ông, đón ông về từ Mỹ và số lượng những người tự nguyện hiến tủy để cứu ông thì biết. Điều đó là tấm lòng thành. Dẫu có tiền ngàn bạc vạn hay quyền lực nghiêng thiên hạ, dẫu có dọa dẫm và ép buộc hay dàn dựng thì những vị cầm quyền cao nhất dưới chính thể cộng sản hiện nay cũng không thể mua được. Bình luận về sự ra đi của ông Nguyễn Bá Thanh, Giáo sư Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc nhận xét với BBC tiếng Việt vào tối 13/02 giờ Úc: “Mặc dù cá nhân tôi chưa gặp ông Nguyễn Bá Thanh nhưng tôi đã đọc một công trình nghiên cứu không được công bố về dân chủ cơ sở của tác giả là người Việt có nhận xét và bình luận tốt về ông trong sáng kiến cho bầu cử trực tiếp giới chức cấp địa phương với Đà Nẵng là hình mẫu để áp dụng ra toàn quốc. Ông Bá Thanh được người dân ở địa phương quí mến và việc làm trong nỗ lực cải cách chính trị của ông thu hút sự chú ý trên toàn quốc”. • Chết tức tưởi ngay trong “cú đấm” đại án tham nhũng mở màn Người ta có thể không tin NBT về một vài vấn đề, nhưng không thể nghĩ rằng ông đã không thành thật trong ý định và việc làm chống tham nhũng, cho dù việc chống tham nhũng đó bởi ông đang là con tốt, con mã dưới bàn tay của một ai. Mỗi một con sâu tham nhũng được diệt trừ, dẫu thuộc phe nào, người dân và đất nước đều có lợi. "Trong luật Phòng chống tham nhũng đã nghiêm cấm bao che cho đối tượng tham nhũng rồi. Vấn đề là chúng ta phải vừa chống, nhưng cũng phải vừa phòng", ông Thanh trao đổi. (Theo Vietnamnet-2/13/2013) Trả lời cử tri sau kỳ họp QH ở Đà Nẵng, Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh, người từng tuyên bố từ tháng 1/2013 là sẽ "hốt hết, hốt liền" những con sâu tham nhũng, khẳng định các vụ đại án xét xử công khai Dương Chí Dũng, bầu Kiên sẽ là “cú đấm” mở màn cho cuộc chiến chống tham nhũng mà Đảng đã khởi xướng. "Chúng ta sẽ không để tham nhũng hoành hành" - ông Bá Thanh quả quyết. (Theo Vietnamnet 8/1/2014) Người ta vẫn truyền tụng những câu nói nổi tiếng của ông, không phải vì ông quá xuất sắc, mà vì cách nói trực diện của ông khác hẳng cái dàn đồng ca lựa chiều và mị dân của hầu hết cán bộ công chức và quan chức hiện nay. - Tham nhũng xử hết, xử từ lớn đến nhỏ; Đà Nẵng phải đáng sống chứ không phải chán sống. Quân tử nói là phải làm; Thắng lợi thì vỗ tay, sai không ai chịu trách nhiệm; Ăn chặn của người nghèo, phải xử lý nghiêm minh, kỷ luật nặng; Họp nhiều nó mụ mị đi; Nếu làm sai, về hưu, tôi cũng chống gậy đến gây sự!; Không bảo vệ được cuộc sống của người dân là quá kém! Tôi nói là làm, không chạy làng… (Phát biểu về tham nhũng trong đầu tư xây dựng tại trụ sở UBND TP Đà Nẵng ngày 10/1/2013, ông nói: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”, “không ít cán bộ vừa ăn vừa phá, phá tàn canh nền kinh tế” – NBT đã trở thành một người hùng Đà Nẵng, biến đổi hoàn toàn diện mạo của thành phố này, từ hình thức đến nội dung, trở nên hiện đại, minh bạch hơn và văn minh hơn. Và từ đó, ông cũng trở thành một người hùng trong thời bình ở VN. Đã có đôi lần, người dân trong nước hồi hộp, hy vọng ông lên Thủ tướng. Người ta hy vọng rằng một người đã có thể thay đổi được diện mạo Đà Nẵng vậy mà lên làm nguyên thủ quốc gia sẽ thay đổi được diện mạo VN. Nếu ở Đà Nẵng, NBT là “chúa sơn lâm”. Mỗi bước đi, mỗi tiếng gầm của ông đều có hiệu ứng, có những người hiểu được ông và làm theo ông, thì việc ông rời khỏi mảnh đất ấy, rơi vào móng vuốt của những kẻ chỉ dùng ông như một con tốt cho những mục đích và quyền lợi sâu xa của họ chứ không thực lòng chống tham nhũng, ông rơi vào bẫy “hùm thiêng sa cơ”. Nếu ông không chết vì bị đầu độc như thông tin mà “Chân dung quyền lực” đã công bố, thì ông cũng đã bị vô hiệu hóa, bị giết chết về quyền lực, khi ông đã không vào được Bộ chính trị mà lại nhận nhiệm vụ lớn đến mức tất cả những lãnh đạo trong “tứ trụ” trên ông đều tuyên bố hùng hồn, đều nhận trách nhiệm làm mà không thực lòng hành động. • Trở thành “cái thai chết lưu” trong “bầu nước ối chính trị” tráo trở NBT không biết rằng không khí chính trị Hà Nội không là Đà Nẵng. Ngay cả Sài Gòn cũng chẳng giống Hà Nội, dẫu thành phố Sài Gòn đã đổi sang một cái tên dài dặc sặc mùi lập trường là Thành phố Hồ Chí Minh. Chất “nước ối” bao quanh không khí chính trị Hà Nội là gì? Thật khó tả, Có vị lờ lợ tráo trở. Mùi tanh của nước mài búa liềm rỉ. Nước sốt đặc sệt của “nói z…zậy mà không phải zậy” như cách người miền Nam vẫn nói về người miền Bắc… Và đặc biệt, tất nhiên, sặc vị màu chao đen Trung Nam Hải. Cần dừng lại hơn một phút để chú giải vị này. Vị này được chế biến bởi dư vị máu của một nền chính trị cộng sản nước lớn mà đặc sản là luôn tạo ra những phong trào đồng bào đồng chí giết hại lẫn nhau, chỉ riêng dưới thời Mao Trạch Đông cũng đã gần 70 triệu người(theo “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội”), chưa kể vụ Thiên An môn năm 1989 với hàng ngàn sinh viên biểu tình ôn hòa đòi dân chủ đã bị chính quyền cho xe tăng nghiến nát xác chưa kể đến nhũng chiến dịch sau này và Trung Nam Hải đã rất tài tình xuất khẩu, di dời phong cách đó sang Campuchia và Hà Nội. NBT có thể đã ngây thơ, hoặc cố tình không biết thái độ ngầm dung dưỡng cho tham nhũng của những vị lãnh đạo cao nhất và toàn bộ máy? Dưới chính thể cộng sản độc tài VN, chẳng ai thực lòng cải cách chính trị và chống tham nhũng. Bởi vì nếu thực lòng, thì riêng mỗi một cá nhân trong “bộ tứ” đầy quyền lực cũng đã có thể tiêu diệt được tham nhũng và tiến hành cải cách thể chế. “…Cũng trả lời cử tri sau kỳ họp QH nhưng ở Đà Nẵng, Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh, người từng tuyên bố từ tháng 1/2013 là sẽ "hốt hết, hốt liền" những con sâu tham nhũng, khẳng định các vụ đại án xét xử công khai Dương Chí Dũng, bầu Kiên sẽ là “cú đấm” mở màn cho cuộc chiến chống tham nhũng mà Đảng đã khởi xướng. "Chúng ta sẽ không để tham nhũng hoành hành" - ông Bá Thanh quả quyết. (Theo Vietnamnet 8/1/2014) Sao NBT không nhận ra, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Trước đó, vào Thứ Bảy, 07/12/2013 | 20:54 GMT+7 đã bộc lộ: “Đề cập vấn nạn tham nhũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ, bước chân sang nước Phật đã phải hối lộ nên chúng ta phải xem xét, tỉnh táo, sáng suốt..."(theo vtc.vn). Một năm sau, ông lại tuyên bố "Phải bình tĩnh tĩnh táo, rất khôn ngoan, có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được cái ổn định". (theo Vietnamnet 6/10/2014) . ..Bằng cung cách đó, ông đã gián tiếp “giết” những người thật lòng nghe lời Đảng mà chống tham nhũng. Lời than vãn về “bầy sâu” của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chỉ là để thể hiện sự bất lực và nói để “cho vui”. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi nhậm chức Thủ tướng Chính phủ Việt Nam vào ngày 27 tháng 6 năm 2006 tuyên bố làm dân cảm động phát khóc: “Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay.”, nhưng tham nhũng tăng khủng khiếp với quy mô ngày càng lớn sau những năm điều hành của ông. Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thì chối từ trách nhiệm với một câu nói quá nổi tiếng tại kỳ họp Quốc hội hồi tháng 4: "QH tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai?"( Vietnamnet.vn, 11/4/2014) !.. Vậy “hùm thiêng” Nguyễn Bá Thanh ra Hà Nội đã biến ngay thành một kẻ sa cơ vì ông không tiêm vào máu ông cái chất lờ lợ tráo trở của bầu nước ối để thủ lợi cá nhân bằng cách dung dưỡng cho tham nhũng. Ông thành một “cái thai chết lưu” trong “bầu nước ối chính trị” Hà Nội. Danlambao blogspost.vn, bài “Từ cái chết của Phạm Quý Ngọ đến cái sắp chết của Nguyễn Bá Thanh” có đoạn phân tích: “Nghi vấn đặt ra rằng liệu vào ngày 16.12.2013 bên cạnh bản án tử hình dành cho Dương Chí Dũng còn có một bản án tử hình kiểu khác dành cho Nguyễn Bá Thanh ở Bắc Kinh mà Bá Thanh không biết? Để có thể chiếu phần nào ánh sáng vào bức tranh âm u có nhiều tử khí này, chúng ta thử nhìn lại những gì đã xảy ra sau chuyến đi Bắc Kinh đột ngột của Nguyễn Bá Thanh vào 16.12.2013? Tại phiên tòa ngày 7.1.2014, Dương Chí Dũng đã khai người báo tin cho mình đi trốn là thượng tướng Phạm Quý Ngọ và đã hối lộ ông Ngọ hơn 500 ngàn USD. Hơn một tháng sau đó, khi cuộc điều tra đối với những nhân sự liên quan đang tiến hành thì Phạm Quý Ngọ đột tử vì "ung thư" vào ngày 18.2.2014. Nhiều đầu mối lãnh đạo đảng liên quan khác, trong đó nhân vật chính là bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, đã theo ông Ngọ chôn sâu vào lòng đất với quyết định đình chỉ vụ án "Làm lộ bí mật Nhà nước" vì Quý Ngọ đã không còn. Phạm Quý Ngọ chết 2 tháng sau khi Nguyễn Bá Thanh có mặt ở Bắc Kinh. 3 tháng sau khi Ngọ chết vì "ung thư gan", vào tháng 5 năm 2014 Nguyễn Bá Thanh đối diện với tử thần với cái gọi là bệnh rối loạn sinh tủy theo lời của Trưởng Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Trung ương là Nguyễn Quốc Triệu. Cũng vào tháng 5, 2014 này, vào ngày 7.5.2014 tòa phúc thẩm y án tử hình Dương Chí Dũng. Tuy nhiên, điều lạ là đối diện với bản án này người ta chỉ thấy Dương Chí Dũng cười rất tươi và dặn dò người thân rằng: “Cứ bình tĩnh, yên tâm. Giữ gìn sức khỏe!”. Tình trạng của Nguyễn Bá Thanh không khác gì lắm so với Phạm Quý Ngọ trước khi chết. Sau khi Phạm Quý Ngọ chết người ta mới biết là ông ta được đưa vào Bệnh viện Quân đội 108 để điều trị. Tương tự như vậy, Nguyễn Bá Thanh cũng được điều trị tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108. Sau đó sang Singapore điều trị vào tháng 6 và tháng 7, cuối cùng là sang Hoa Kỳ vào trung tuần tháng 8/2014. Những tin tức về tình trạng sức khỏe của Bá Thanh đều bị dấu nhẹm hay được xào nấu, giàn dựng và chỉ thông báo nửa vời sau khi đã tràn ngập những thông tin không chính thức trên mạng xã hội. Tất cả "hình như" nằm trong cuốn phim diệt chuột giữ bình mà trong đó những "siêu sao" coi bộ dễ mắc bệnh ung thư vào giai đoạn cuối…”. Phân tích của Dân làm báo dù chưa được minh định nhưng được sự chú ý và đồng tình của nhiều người. * Một linh hồn gia nhập hàng dân oan Bây giờ thì cái chết của NBT đã chấm dứt những tháng ngày đau khổ, phải vật lộn với những đau đớn thân xác và đặc biệt là những đớn đau tinh thần. Một điều đáng mừng là do bản tính của ông, ông chưa kịp gia nhập vào cái “làng” mà nhiều người càng có quyền cao chức trọng càng tham nhũng, gỉa dối và đồi bại và dân càng khinh miệt. Ông chưa đứng vào hàng phản dân hại nước để mãi bị người đời nguyền rủa về sau. Cho đến những ngày cuối đời, NBT vẫn bị bao vây giữa tầng tầng lớp lớp những cái gọi là “bí mật nội bộ” về tình hình sức khỏe của ông và thiên hạ không thể nào biết được đâu là thật đâu là giả, bởi những lời nói từ miệng người có trách nhiệm về tình hình sức khỏe của ông rất nhiều khi lại là lời dối trá. Mãi đến khi “Chân dung quyền lực” tung ra chuyện “Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc” như một quả bom, thì người dân mới được biết chút ít về thân phận NBT. Bao lời đồn đoán tung ra. Và có thể tưởng tưởng tượng được nỗi khốn khổ nhường nào trong bao nhiêu ngày tháng ông bị cách ly với bạn bè, người thân và sự bao vây, ngăn cản trong “bức màn sắt” ấy không phải vì sức khỏe của ông, mà có thể chỉ vì mục đích của một số người nào đó muốn vĩnh viễn chôn chặt những thông tin ông biết, những việc ông đang làm dở dang và nỗi hàm oan của ông dưới ba thước đất! Lâu nay rồi, có những kẻ đã lăm lăm cuốc xẻng chỉ chực để chôn ông trong khi ông đang thở, đang sống trên giường bệnh và có thể đang ngước đôi mắt vô vọng tìm kiếm một bàn tay thành thật, mong ước không có một bàn tay hiểm độc có thể chẹn cổ ông bất cứ lúc nào ông định trăng trối một điều gì đó. Ngay cả tính mạng của những người thân ông cũng có thể bị đe dọa bởi quyền lực của “bức màn sắt” do những bí mật này. Cứ theo những thông tin rất khó bác bỏ thì NBT là một nhân chứng của thực trạng những người có tài, có tâm huyết và chính trực ở VN đã bị triệt hạ. Ông là một thí dụ, sừng sững mà còn rất lâu người ta mới có thể quên về việc chống tham nhũng thì bị trả thù đến mức nào. Ông là danh sách nối dài của những nạn nhân của nền chính trị xã hội chủ nghĩa – cái vỏ bọc hữu hiệu cho một bè lũ đã cát cứ và tạo nên một nền kinh tế tư bản thân hữu man rợ. NBT không nằm ngoài danh sách Dân oan. Cuộc chiến giữa các nhóm quyền lực cộng sản VN đã đi đến hồi quyết liệt và sẵn sàng đòi máu đối phương nếu không chịu thỏa hiệp. Cái chết của NBT là một sự đe dọa hiệu quả cho những ai còn chưa chịu câm lặng trước quyền lực đồi bại. Ai sẽ còn dám chống tham nhũng nữa nếu người ta trông vào thân phận Nguyễn Bá Thanh?! Cái cỗ xe chở đầy vàng, máu và ung thư của nền chính trị VN sẽ cứ thế lao nhanh theo con đường tự hoại, tự diệt vong vì không ai có thể ngăn đà lao của nó. Cái chết của NBT đã đem đến sự đắc thắng tạm thời cho những tập đoàn tham nhũng và tư bản thân hữu man rợ. Cái chết của ông là sự thức tỉnh cho những người hy vọng cải cách chính trị nửa vời ở VN trong tình thế cộng sản độc tài toàn trị. /. VTH Nguồn: rfavietnam.com
......

Putin: From Russia With …Fear!

Đây không phải là phim trinh thám giải trí James Bond, mà là sự thật đáng sợ đang diễn ra ở Nga. Với tình hình cực kỳ căng thẳng ở Ukraine, với nguy cơ dẫn đến chiến tranh giữa các nước có vũ khí nguyên tử, mà chính phủ của nhà độc tài Nga Vladimir Putin đang bị thế giới coi là nguyên do và thủ phạm, người ta tự hỏi ông Putin đang muốn gì và người dân Nga có thể làm được gì. Những gì đang diễn ra ở Ukraine và Nga hiện đang được các nhà quan sát thời cuộc ví như một trò chơi, mà ông Putin đang bày ra với Tây Phương, có tên là "Game of the chicken" (dịch bóng là "Ai là kẻ chết nhát") hay "Hawk-Dove Game" ("Diều Hâu và Bồ Câu"), một trò chơi mà cả hai phiá đều không muốn bỏ cuộc; mà nếu không ai bỏ cuộc thì cả hai cùng chết; và nếu bên nào bỏ cuộc thì sẽ bị gọi là … "chết nhát"! Nhưng vì lý do gì mà ông Putin lại bày ra trò thách đố nguy hiểm này? Phải chăng là vì ông Putin đã quá tuyệt vọng trong ý muốn giải quyết cuộc khủng hoảng lớn của nước Nga do chính ông ta tạo ra? Trong thập niên 2000, nhờ vào sự kiện giá dầu thô và khí đốt tăng mạnh, mà nước Nga là quốc gia sản xuất dầu và khí đốt được hưởng nhiều lợi lộc, đời sống của người dân Nga lên cao và tạo ra một không khí tương đối thoải mái và phồn thịnh. Nhưng, một hậu quả tai hại mà tình trạng phồn thịnh này - một phần giả tạo - gây ra là tình trạng đồng loã mặc nhiên giữa người dân Nga - đang cảm thấy hạnh phúc - và giới lãnh đạo tham nhũng lợi dụng thời cơ để vơ vét, làm giàu. Người dân Nga bất cần và chấp nhận tình trạng đó, ai ăn cắp mặc ai, miễn họ đủ ăn đủ mặc và hạnh phúc là được. Khổ nỗi, với tình trạng giá dầu hạ giảm khủng khiếp hiện nay (mất một nửa giá trị trong vòng 6 tháng), và nước Nga không có nguồn lợi tức đáng kể nào khác để thay thế nguồn lợi đến từ dầu hoả và khí đốt, những biện pháp trừng phạt kinh tế của Tây Phương áp đặt lên nước Nga càng trở nên hiệu quả hơn và làm cho nước Nga khốn đốn hơn. Nỗi lo lắng được biểu hiện rõ rệt qua phát biểu của 3 nhân vật lãnh đạo. Thủ Tướng Nga Dmitry Medvedev nói là nếu Tây Phương trừng phạt Nga bằng cách cắt Nga đứt khỏi hệ thống chi trả quốc tế Swift thì sự đáp trả của Nga sẽ "không có giới hạn". Ông Andrei Kostin, Chủ Tịch của ngân hàng lớn thứ nhì của Nga là VTB nói rằng loại Nga ra khỏi Swift là "chiến tranh". Cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga Igor Ivanov nói là cuộc đối đầu có thể dẫn đến chiến tranh nguyên tử. Tuy giới quan sát quốc tế xem đó là những câu nói khoác nhưng chúng vẫn phản ảnh sự lo lắng và bực tức lớn của giới lãnh đạo Nga. Nhiều chế độ tại Nga đã đổ vì dân thiếu "bánh mì". Thống kê cho thấy là hiện nay ở Nga, với dân số 43 triệu, chỉ riêng 110 người, bao gồm ông Putin và những người thân thiết, đã nắm 35% tài sản của quốc gia; và có tới 50% dân chúng mà tài sản không hơn $871 đô la. Trong năm 2014, giá thực phẩm tăng 15,4%, và một việc làm biểu tỏ sự lo lắng và bối rối của nhà nước Nga là đã hạ giá rượu Vodka bất chấp nhu cầu tài chánh của công quỹ, một việc làm bị nhạo báng là nhà nước Nga dùng rượu để gây mê người dân. Nếu tình trạng này tiếp tục thì có thể khiến nhiều người dân Nga nhìn về cuộc Cách Mạng Cam năm 2005 tại nước Ukraine và cho rằng một cuộc nổi dậy bất bạo động để thay đổi nhà nước tham nhũng hiện nay có thể là giải pháp thích hợp. Và nỗi lo sợ này chính là lý do khiến ông Putin gây nên cuộc chiến ở Ukraine. Ngay lúc này, cuộc chiến tại miền Đông nước Ukraine, giữa lực lượng nổi loạn với sự hỗ trợ và thúc đẩy của quân đội Nga (mà ông Putin vẫn tiếp tục chối không liên can) với số lượng lên đến 52 ngàn binh sĩ đóng ở biên giới, và ngay cả trong địa phận Ukraine, đang gây nên những thiệt hại to lớn về cả vật chất và nhân mạng mà cho dù nhà nước Nga cố chối cãi và che đậy cũng không còn có thể tiếp tục che đậy mãi được nữa. Làm sao có thể tiếp tục giấu tin các binh sĩ Nga bị thương tích hay thiệt mạng cũng như họ bị thương hay thiệt mạng ở đâu và với lý do gì đối với thân nhân của họ khi số lượng này ngày một tăng dần? Đường dây điện thoại nóng của Hội Các Bà Mẹ Binh Sĩ tại thành phố St Petersburg ở Nga đã nhận được vô số những báo cáo đến từ nhiều nơi là con cái của họ đã bị buộc phải ký những giao kèo cho phép nhà nước gửi họ tới Ukraine. Ông Lev Shlosberg, chủ tịch của chi nhánh địa phương của đảng Yabloko tại Pskov, cho biết là tinh thần của binh sĩ đang thay đổi đáng kể do những tổn thất đang diễn ra ở Ukraine, và rất nhiều binh sĩ đã hủy các giao kèo, thậm chí chấm dứt luôn binh nghiệp của họ, vì không muốn bị đưa đi chiến đấu ở Ukraine. Dù quân đội Nga đã làm đủ cách để che giấu việc điều động quân đội, như sử dụng những phi trường ít bị chú ý hơn, và tổ chức những đám tang cho binh sĩ tại những địa điểm hẻo lánh, cá nhân ông Shlosberg và giới truyền thông cũng bắt được tin về sự tổn thất nhân mạng phiá Nga tại Ukraine khi tham dự những đám tang các binh sĩ của Sư Đoàn Không Quân 76 đóng tại Pskov. Và những thông tin loại này đang ngày một lan rộng. Cuộc chiến tại Ukraine đang được coi là một cuộc chiến tiêu hao và có thể kéo dài.  Tuy nhiên, với tình hình kinh tế dường như ngày một vượt quá sức chịu đựng, liệu ông Putin sẽ có khả năng kéo dài tình trạng hiện nay, hay là sẽ lấy quyết định liều lĩnh là đánh bài mở, chấp nhận sự thật, công khai cuộc chiến, và, với số lượng 52 ngàn binh sĩ đang đóng ở biên giới, tiến hành một cuộc tấn công toàn diện và vũ bão sang Ukraine để dứt điểm cuộc chiến này, và dĩ nhiên chịu tất cả những hậu quả to lớn mà chiến thắng đó sẽ đem lại? Phải chăng sau 70 năm dưới chế độ cộng sản người dân Nga chưa thoát được tâm thức mà 7 thập niên Xã Hội Chủ Nghiã để lại? Đó là để mặc cho một nhóm nhỏ tha hồ nạo khoét tài nguyên và làm tàn hại đất nước miễn là mình hưởng được chút "vụn bánh mì" vương vãi qua các cuốn sổ hưu, và "mọi chuyện đã có Đảng lo"./. Theo diendanctm.blogspot.de/
......

Những ông vua cộng sản

Ngày 19 tháng 2, tờ Tiền Phong, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đăng bản tin về Bí thư thứ nhất Trung Ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh dẫn đầu đoàn của Ban Bí thư tới thăm, chúc Tết các cựu lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Trong bản tin có tấm hình chụp cựu Tổng bí thứ Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp khách. Hai người ngồi trên những chiếc ghế chạm trổ đầu rồng công phu theo kiểu cổ thời phong kiến. Cùng với hai chiếc ghế là một chiếc bàn mặt đá, cũng được chạm trổ tương tự. Sau bộ bàn ghế là tượng Hồ Chí Minh mạ vàng nổi bật trên nền cũng màu vàng mặt trống đồng Đông Sơn và hoa tươi. Một không gian sang trọng, uy nghi, là nơi chủ nhà ngự toạ và tiếp khách, giống hệt phòng khánh tiết của một vương hầu công tước hay vua chúa nào đó, hơn là phòng khách trong một tư gia. Không ai nghi ngờ gì sau hai nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (2001-2011) và trước đó hơn 8 năm giữ chức Chủ tịch quôc hội (1992-2001), người đầy tớ của nhân dân, "công bộc" trung thành của giai cấp vô sản đã tích luỹ được một khối tài sản lớn, một dinh cơ hoành tráng như thế. Ông Mạnh đã về hưu từ năm 2011. Cách bài trí nột thất phòng khách cho thấy ông ta là một người có khát vọng và say mê quyền lực. Có lẽ, khi ngồi vào chiếc ghế chạm đầu rồng, ông ta có cảm tưởng ngất ngây với vị thế của một ông vua. Chẳng cần đi đâu xa, buớc ra khỏi nhà ông Nông Đức Mạnh, đi khoảng 10-15 phút xe, trên vườn hoa Lý Tử Trọng nằm trên đường Thanh Niên, có thể thấy những mái lều lụp xụp, rách nát mà trong đó dân oan từ các tỉnh thành trên cả nước túm tụm sinh nhai chờ khiếu nại về nhà cửa đất đai bị thu hồi, tước đoạt bất công. Họ phải chịu thiếu thốn đủ thứ và khốn khổ trong những ngày mùa đông giá lạnh. Nông dân, những người chịu thiệt thòi, mất mát hi sinh nhiều nhất trong hai cuộc kháng chiến, đã bị những người "đầy tớ" dửng dưng hất ra ngoài lề xã hội. Cách sống sa hoa, vương giả của cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và cảnh khốn cùng của những người dân oan toát lên một nghịch lý không thể nào chấp nhận trước sự tuyên truyền dối trá của chế độ, trước những câu khẩu hiệu mị dân và sự rao giảng đạo đức lố bịch của lãnh đạo ĐCSVN. Tôi tò mò đi tìm xem ở những quốc gia khác trên thế giới, những người có quyền lực họ sống ra sao. Thống chế Josef Pilsudski, người đã lãnh đạo quân đội Ba Lan đánh tan cuộc xâm lăng của Hồng quân Liên Xô trong tháng 8 năm 1920, làm nên điều kỳ diệu trên dòng sông Vituyn, có một cuộc sống bình dị. Bộ bàn ghế tiếp khách được làm đơn giản theo mẫu của vua Louis XVI. Phòng Bầu Dục của White House, nơi Tổng thống Mỹ tiếp các vị nguyên thủ quốc gia, trong đó được đặt hai chiếc ghế trước lò sưởi, đơn sơ, mộc mạc. Nơi tiếp khách của Thủ tướng Anh quốc tại trụ sở làm việc trên 10 Downing Street, London, cũng mang nét tương tự. Người đàn bà quyền lực nhất thế giới, bà Angiel Merkel, Thủ tướng nước Đức, sống với chồng trong một căn hộ khiêm nhường ở Berlin. Có vẻ như các nhà độc tài mới có những ý tưởng ăn xài phù phiếm, hợm hĩnh, mà tiêu biểu phải kể đến Nicolai Ceausescu (Romania), Saddam Hussein (Iraq), Muammar Gaddafi (Libya) hay Kim Jong Il (Bắc Triều Tiên)...  Tấm hình chụp phòng tiếp khách của cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã làm sôi động dư luận trên mạng xã hội Facebook. Đủ các lời bình cùng với sự ấm ức, bất bình, thậm chí cả sự nguyền rủa. Có lẽ vì thế mà chỉ ít lâu sau báo Tiền Phong đã lấy xuống và thế bằng một tấm hình khác với các em nhỏ quàng khăn đỏ đứng chung với ông Mạnh, bà vợ mới của ông, che hết bộ ghế và bàn thờ Hồ Chí Minh. "Vô tình" đưa tấm hình lên mặt báo Tiền Phong, tác giả đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của ông Nông Đức Mạnh nói riêng và tập thể vua nói chung của nước CHXHCN Việt Nam. Những công trình đồ sộ, hoành tráng của các quan chức khác của chế độ cộng sản Việt Nam chúng ta cũng có thể kể ra dễ dàng. Ăn cắp, rút ruột công trình từ các dự án, nhận hối lộ, đầu cơ đất đai, v.v... được gộp chung vào mỹ từ "tham nhũng" tại Việt Nam mà mức độ của nó đứng thứ nhì thế giới theo nghiên cứu mới đây của World Bank. Những ông vua của hệ thống chính trị thối nát đang sống phè phỡn, quyền quý trên sự đói nghèo, của người lao động. Một tấm hình bằng muôn ngàn lời nói! Có trơ trẽn gỡ xuống thì cũng đã quá muộn! Nhà văn Thái Bá Tân đã viết trên facebook: "Một, ông Nông Đức Mạnh Vì sao trở thành giàu? Lương bao nhiêu dân biết. Vậy đất, nhà do đâu? Đó mới chỉ phần nổi. Còn phần chìm thế nào? Còn các lãnh đạo khác Đang tại nhiệm thì sao? Hai, về gương cần kiệm Và liêm chính đảng viên. Vì nhân dân phục vụ, Hay phục vụ vì tiền? © Lê Diễn Đức - RFAledienduc's blog
......

Việt Nam và khối lượng tài sản phi pháp

  http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2015/02/20150222-ctm-... Gần đây trên mạng internet toàn cầu đã xuất hiện một số tin tức liên quan đến khối lượng tài sản khổng lồ của một số giới chức lãnh đạo đảng CSVN. Số tài sản này bao gồm các bất động sản và tiền mặt mà họ chuyển ra nước ngoài. Chúng ta có thể gọi chung là Tài sản phi pháp. Để tìm hiểu vấn đề, chúng tôi có liên lạc với Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bảo từ Paris. Ông Nguyễn ngọc Bảo Tốt nghiệp Kỹ Sư Cao Đẳng Công Chánh Paris. Ủy Viên Trung Ương Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng . Đang trách nhiệm về lãnh vực an ninh thông tin, tại một hãng lớn tại Pháp về quốc phòng. Ông nguyên là chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris. Và trách nhiệm biên tập của tờ Viet Nam Resistance, Vietnam Democratie. Hội viên của Hội Chuyên Gia Việt Nam *** CTM : Trong vài năm gần đây, mức thâm thủng của cán cân thanh toán (Balance of Payment) của Việt Nam đã lên đến mức kỷ lục, xin ông cho biết mức thâm thủng này có liên hệ nào đến khối lượng tài sản phi pháp (TSPP) và ngoại tệ khổng lồ của lãnh đạo CSVN đang tuôn ra hải ngoại hay không? NNB : Cán cân thanh toán (Balance of payment) là khối lượng giao dịch tài chánh, buôn bán xuất nhập khẩu hàng hóa, được chuyển ra dưới dạng tiền tệ ra-vào một quốc gia. Tại các quốc gia dân chủ pháp trị, cán cân thanh toán tương đối chính xác với một sai biệt khoảng dưới 1-2%, đến từ các hoạt động bất hợp pháp, chuyển ngân lậu rửa tiền, riêng tại các quốc độc tài như Nga, Trung Quốc, Việt Nam, con số sai biệt rất lớn hơn tới 20-30%, ngay cả 100%  và hoàn toàn không phản ảnh thực tế. Thứ nhất chính những con số cung cấp bởi các nhà cầm quyền độc tài không đúng, hoặc thổi phồng, hoặc hạ xuống quá đáng, tuỳ theo nhu cầu,  vì họ không có những cơ cấu kiểm toán độc lập. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, cán cân thanh toán của VN sau khi trừ 4,28 tỷ MK vào 2010, đã trở thành +9 tỷ MK vào năm 2012, theo Ngân Hàng Thế Giới -3,7 tỷ MK vào 2010, trở thành +5,8 tỷ MK vào 2012. Trường hợp rõ nét nhất là những thống kê về kinh tế Liên Xô được IMF, World Bank lấy lại, trước khi sụp đổ vào năm 1991; hồi đó dồng rúp được quy định bằng 0,6 MK trong khi đồng rúp hoàn toàn không có một giá trị hối đoái nào trên thị trường, một số chuyên viên kinh tế còn tiên đoán là với đà tăng trưởng thời đó của Liên Xô sẽ vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2000. Sau khi Liên Xô tan rã, người ta mới khám phá là nền kinh tế Liên Xô hoàn toàn giả tạo, chỉ mới bằng 1/10 Hoa Kỳ và còn thua cả Ý. Thứ hai là do các hoạt động bất hợp pháp có hệ thống trên cả nước, từ bè đảng, thân thuộc của giới lãnh đạo cao cấp CSVN, 1)    chuyển tiền công khai lậu qua biên giới, qua môi giới đến các công ty bình phong tại các thiên đường về thuế (tax heavens) 2)    công khai bòn rút tiền đầu tư, tiền viện trợ để bỏ túi riêng, 3)    trưng thu trái phép và bồi thường với giá rẻ mạt đất đai của người dân và bán lại với giá 100 lần hơn cho các công trình joint-venture hùn vốn với các công ty ngoại quốc, 4)    lợi dụng quyền chức để ra lệnh các ngân hàng cho các tổng công ty quốc doanh vay mượn các số tiền khổng lồ, để bòn rút làm của riêng. Mặc cho các công ty này bị phá sản Do đó, cán cân thanh toán tại các quốc gia độc tài, trong đó có Việt Nam không thể chính xác. Trong vụ tiết lộ các rửa tiền tại Trung Quốc gọi là ChinaLeaks vào đầu năm 2014, các nhà báo trong tổ điều tra ICIJ (International Consortium of Investigative Journalists) ước lượng khối tiền TSPP chuyển ra nước ngoài từ Trung Quốc này lên đến hơn 3000 tỷ MK trong vòng 20 năm qua. Nếu phóng chiếu xuống ở tầm vóc Việt Nam về mặt kinh tế, thì con số thất thoát tương đương sẽ ở mức 50 tỷ MK. Tóm lại, mức thâm thủng hiện nay của cán cân thanh toán đều không chính xác và  ít phản ảnh đến khối TSPP thất thoát vì khối lượng đã được bòn rút, lấy ra trước và ngoài khuôn khổ sổ sách tài chánh cuả quốc gia. Khối lượng TSPP thất thoát chắc chắn lên đến ít nhất hàng chục tỷ MK. CTM : Hiện nay, có một số dữ kiện về TSPP đã được tiết lộ ít nhiều trên một số trang mạng như Quan Làm Báo, Chân Dung Quyền Lực, xin ông cho biết thêm chi tiết về vấn đề này NNB : Việc này trước tiên thể hiện tình trạng đấu đá ngày càng công khai giữa lãnh đạo dảng CSVN giữa các phe Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, nhằm chuẩn bị cho Đại Hội 12 vào năm 2016. Chắc chắn những loại tin mật như vậy phải đi ra từ trong cung đình của chế độ, dù có thể có một phần không nhỏ được thổi lên, ngụy tạo.  Trước đây những đấu đá trên báo đài của đảng CSVN giới hạn trong nước, ngày nay tin tức về TSPP, tham nhũng, hành vi phi pháp được công bố trên các trang web, với tầm phổ biến rộng hơn. Từ sự kiện đó, một hậu quả là các cuộc tấn công bằng DOS (Từ Chối Dịch Vụ) gia tăng cũng như một số cuộc tấn công quy mô nhằm chiếm các máy chủ để lấy tài liệu, làm tê liệt hàng trăm máy chủ, điển hình như cuộc tấn công vào công ty của phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng, VCCorp vào giữa tháng 10/2014. Những tiết lộ về TSPP của các lãnh đạo CSVN và phe nhóm họ trên các trang mạng sẽ là những chỉ dấu (indicator) để cho các cuộc điều tra các cơ quan công lực có thẩm quyền rất rộng lớn như TRACFIN (Hoa Kỳ), AGRASC (Cơ quan Quản Trị và Thu Hồi các TS bị Tịch Thu) của Pháp, SOCA (Anh) với khả năng chặn bắt và  kiểm thính mọi liên lạc, thông tin chuyển ngân qua hệ thống điện tử. Hầu như chắc chắn là một phần rất lớn khối TSPP đã được chuyển vào các quốc gia Tây Phương pháp trị, và chỉ có những cơ quan công lực với trát tòa mới có thể tiến hành các cuộc điều tra tinh vi liên hệ đến các vụ chuyển ngân lậu, rửa tiền tại Tây Phương, nhằm truy tìm những đường dây chuyển tiền, đầu tư, qua công ty bình phong phức tạp, cấu trúc nhiều tầng về tài chánh của các thành phần tội ác, thuộc hạ hay làm ăn với các lãnh đạo độc tài và gia đình của họ, để che giấu nguồn gốc phi pháp của họ. Những cơ quan chuyên biệt này có khả năng đòi các ngân hàng (ngay cả bên Thụy Sĩ, phải cung cấp các chi tiết về các trương mục số không có tên tuổi cho các cuộc điều tra), cũng như các dấu vết  (trace) chuyển ngân từ các thiên đường thuế khóa như British Virgin Island, Jersey, Cook Island, Marshall Island,  qua hệ thống viễn thông Swift. Những chỉ dấu này, cộng với các dữ kiện về hệ thống chính trị, kinh tế song trùng dưới quyền của Nguyễn Tấn Dũng, sự lệ thuộc của tư pháp, hành pháp vào guồng máy đảng, sự kiện nhiều tổng công ty do thuộc hạ các thành phần lãnh đạo làm tổng giám đốc, thua lỗ hàng trăm triệu MK cho thấy rõ sự cấu kết phi pháp, lợi dụng quyền thế để bòn rút của công, trục lợi. Do đó những dữ kiện trên Quan Làm Báo, Chân Dung Quyền Lực, các dữ kiện của Tổ Hợp ICIJ đến từ  các thiên đường thuế khóa (khoảng 100 người Việt Nam, trung gian cho các thành phần lãnh đạo CSVN), và các dữ kiện đến từ các nguồn khác… sẽ được tổng hợp, duyệt lại, bổ túc, đúc kết thành những hồ sơ bằng chứng vừa phải để có thể mở ra những cuộc điều tra xuyên quốc gia về TSPP của lãnh đạo CSVN. CTM : Theo ông, đã có những điều kiện thuận lợi nào hơn so với trước đây để có thể truy tìm và thu hồi phần TSPP này trong tương lai NNB : Các vụ thu hồi TSPP đã và đang có những thuận lợi vượt bực so với 30 năm trước đây, nhờ vào một số yếu tố thuận lợi. Xin được liệt như sau : 1) Đến từ ý thức ngày càng phổ quát và sâu rộng về những bất công, phi lý quá mức tưởng tượng, tại các quốc gia đang phát triển, trong mọi thành phần quần chúng nhờ vào mạng xã hội Internet, 2) Sau công ước MERINDA 2003 về chống tham nhũng (Việt Nam đã ký vào công ước này), khuôn khổ pháp luật Liên Hiệp Quốc và các quốc gia ngày càng thích hợp để thụ lý về các hồ sơ TSPP với nguyên tắc CSC (Confiscation sans Condamnation) hay NCB (Non Conviction Based) : có nghĩa là các quan tòa áp dụng nguyên tắc tịch thu trước rồi sẽ trả lại nếu chứng minh được đó không phải là TSPP. Còn không sẽ bị tịch thu. Vì nguyên tắc CSC (NCB) nhằm vào một tài sản (tiền mặt, trương mục ngân hàng, bất động sản, xe hơi, du thuyền, phi cơ,…) chứ không phải là một vấn đề hình sự nhằm vào một cá nhân con người. Nguyên tắc này nhằm đánh vào vào quyền lợi cốt lõi của thành phần phạm pháp, khi họ không ngại bị xử phạt tù hình sự nhưng lo hơn về phần bị mất TSPP. Hiện đang có hơn 20 vụ kiện các thành phần cựu lãnh đạo độc tài tại Trung Phi, Bắc Phi, tại Trung Á, 3) Việc thu hồi TSPP vẫn tiếp tục dù đương sự liên hệ đã mất, đang lẩn trốn (tại đào) trường hợp Sani Abacha mất năm 1998, 16 năm sau, Hoa Kỳ vẫn ra lệnh tịch thu số tiền 498 triệu MK của nhà độc tài để trả về cho Niger, hay TSPP đã được sang, chuyển nhượng qua một đệ tam nhân (gia đình, thân bằng quyến thuộc, thuộc hạ). Không có thời hạn để miễn tố hay hồi tố. Hiện nay việc thu hồi TSPP của gia đình Ben Ali, Gadhafi vẫn đang được tiến hành. 4) Có những cơ quan công lực chuyên biệt được thành lập để truy tìm và tịch thu trước những TSPP trước khi có phiên tòa xảy ra (như SOCA Serious Organized Crime Agency của Anh; AGRASC Agence de Gestion et de Recouvrement des Avoirs Confisqués của Pháp, những cơ quan tương đương như TRACFIN (Cơ quan xử lý các tin tức và hành động chống lại các hoạt  động tài chánh bí mật – Traitement du Renseignement et Action contre les Circuits Financiers clandestins) tại Hoa Kỳ, Úc, Liên Âu…..), 5) Có những vị luật sư, các quan toà, các tổ chức NGO, các chứng nhân đã can đảm vượt qua những áp lực rất lớn để thi hành công lý, như trong vụ kiện Obiang và một số cựu tướng lãnh Phi Châu. Trên thế giới, ngay từ thập niên 80 đã diễn ra một số vụ thu hồi TSPP các thành phần lãnh đạo độc tài bị hạ bệ như Suharto (Nam Dương), Marcos (Phi Luật Tân). Về trường hợp nhà độc tài Phi Luật Tân Ferdinand Marcos bị dân chúng hạ bệ vào năm 1986 và mất năm 1989, một uỷ ban đặc nhiệm do Tổng Thống Phi bổ nhiệm nhằm thu hồi TSPP của ông Marcos đã được thành lập vào năm 1986 và mới chấm dứt nhiệm vụ vào đầu năm 2013, sau 27 năm hoạt động. Với kết quả thu hồi được một số tài sản trị giá khoảng 4 tỷ MK, trên một tổng số ước lượng khoảng 10 Tỷ Mỹ Kim, đa số từ Hoa Kỳ, Thụy Sĩ . Cách đây 4 năm, trong các cuộc cách mạng “Mùa Xuân Ả Rập” tại Bắc Phi, Tunisia, Libya,Ai Cập, vào đầu năm 2011, ngay cả trước khi Gadhafi bị lật đổ, các quốc gia Pháp, Anh, Ý, Thụy Sĩ đã phong toả các TSPP của gia đình Gadhafi và hoàn trả lại cho Hội Đồng Chuyển Tiếp Libya CNT tại Benghazi một số ngân khoản non 1 tỷ Mỹ Kim tài sản phi pháp của gia đình Gadhafi. Riêng đối với Thụy Sĩ, người ta thường nghĩ nước này chuyên bảo vệ bí mật ngân hàng với các trương mục bằng số, nhưng sự thật lại rất khác xa. Ngay sau khi các cuộc cách mạng Bắc Phi bùng nổ, chính quyền Liên Bang Thuỵ Sĩ đã đồng ý hoàn trả lại cho các quốc gia này 60 triệu quan Thụy Sĩ cho Tunisia, 410 triệu cho Ai Cập và 650 triệu cho Libya. Đây là một phần số TSPP của gia đình Ben Ali, Moubarak, Gadhafi đã bị phong toả tại Thụy Sĩ. Đó là những thuận lợi về việc thu hồi TSPP và một số trường hợp cụ thể. CTM : Cụ thể hơn, phong trào dân chủ cần làm gì hiện nay và trong tương lai để có thể truy lùng hữu hiệu khối lượng TSPP và thu hồi lại cho dân tộc Việt Nam NNB : Công trình truy tìm và thu hồi TSPP, dù đã trở nên thuận lợi hơn rất nhiều,  tuy nhiên vẫn cần nhiều chuẩn bị ngay từ bây giờ, để (sau này) rút ngắn thời hạn thu hồi. Nhằm truy tìm TSPP tại ngoại quốc, trương mục ngân hàng, bất động sản, vốn đầu tư. Ngược lại, ở trong nước thì những TSPP như các biệt thự nguy nga, tráng lệ các thành phần lãnh đạo CSVN luôn còn đó, việc thu hồi sẽ dễ dàng hơn nhiều. Dưới đây là một số việc làm cần thiết mà phong trào dân chủ cần tiến hành với sự hỗ trợ của mọi người dân VN yêu nước trong và ngoài nước. a/ Thu thập càng nhiều dữ kiện càng tốt, đến từ mọi nguồn. b/ Sau đó lọc lại, bổ túc để trở thành một hồ sơ pháp lý. c/ Liên lạc với các giới chức liên hệ : các NGO về Trong Sáng và Chống Tham Nhũng, Rửa Tiền, các thành phần luật sư hoạt động trên lãnh vực rất chuyên biệt này; nghiên cứu, theo dõi thường xuyên những dữ kiện mới, những luật lệ mới về thu hồi TSPP d/ Kêu gọi những nạn nhân, nhân chứng người Việt để cùng đứng đơn kiện e/ Tìm kiếm những luật sư gốc Việt Nam để đưa hồ sơ ra trước một toà án địa phương hay trước một tòa án quốc tế. Mục tiêu của công trình truy tìm và thu hồi TSPP là nhằm tìm lại Công Lý Cho Dân Tộc và thu hồi một số TSPP và tài chánh rất cần thiết cho giai đoạn đầu của công cuộc Canh Tân đất nước hậu cộng sản. Thu hồi TSPP để bồi thường phần nào cho các nạn nhân, trưng dụng các bất động sản và biến thành các tiện ích xã hội, như thư viện, nhà dưỡng nhi, trường học, … Khi chuẩn bị trước và khai dụng được bối cảnh thuận lợi, chúng ta sẽ rút ngắn rất nhiều thời gian thu hồi và mang lại công lý cho dân tộc. Theo http://radiochantroimoi.com/
......

Ngai vàng

Chưa năm nào mà thời sự lại nóng bỏng kéo dài từ năm cũ bước sang năm mới như năm nay. Trước Tết, bắt đầu từ miền Nam, người dân bừng lên ngọn lửa giận dữ khi câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát bay vo ve tại Tiền Giang khiến cho anh Võ Văn Minh ngồi tù, mất ăn tết vì dám lấy trứng chọi đá, tảng đá Tân Hiệp Phát được chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh bóng bằng chuyến thăm nhà máy nước ngọt Number One tại Hà Nam trước khi con ruồi bay lạng quạng vô chai năm tháng sau đó. Cận Tết người dân miền Trung Đà Nẵng có dịp khóc lóc người hùng Nguyễn Bá Thanh của thành phố sau nhiều tháng bị chất độc phóng xạ hành hạ (nói theo Chân dung quyền lực). Khóc theo đám tang của ông và khóc theo bài thơ của con gái cùng điếu văn của con trai ông cựu Trưởng ban Nội chính Trung ương mà trong đó sự trách cứ lẫn căm hờn không cần che giấu. Ngày mùng Một năm Ất mùi, trong khi mọi người lo mừng tuổi ông bà cha mẹ thì tại miền Bắc, Bí thư trung ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh dẫn đầu một phái đoàn gồm đoàn viên cốt cán cùng các em thiếu nhi tiền phong được tuyển chọn đến mừng tuổi một trong những vị vua của chế độ, niềm tự hào vô hạn của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Báo Tiền Phong cử phóng viên theo làm phóng sự và tấm hình mà anh nhà báo đưa lên trang nhất có thể nhận giải báo chí của năm 2015. Tấm hình vua Nông ngồi tiếp khách trên chiếc ghế lộng lẫy có chạm trổ đầu rồng và mang dạng vẻ của chiếc ngai vàng không hơn không kém. Chiếc ngai và bức tượng của tiên đế được mạ vàng trong dinh vua không hiểu sao lại bị cư dân mạng phỉ nhổ một cách không thương tiếc, bất kể ngày đầu năm người Việt kiêng cữ chửi mắng nhau dù đó là kẻ thù của mình. Ông Mạnh không phải là kẻ thù của nhân dân, nhưng cái ngai vàng ông ngồi mới là kẻ thù của họ. Còn nhớ, trong giai đoạn đầu kháng chiến khẩu hiệu “đả thực bài phong”  được ghi rõ trong lịch sử đảng. “Đả thực bài phong” nghĩa là đánh đuổi thực dân, diệt trừ phong kiến. Thực dân là Pháp thì ai cũng thấy nhưng phong kiến thì người dân vẫn tù mù không biết vua chúa sao lại bị căm thù dữ vậy? Cách mạng đã có công mở mắt cho người nông dân khắp nơi về tính tàn ác, độc tài của vua chúa các thời đại phong kiến. Từ Tàu tới Việt, hình như trong suốt hàng ngàn năm nước Việt có rất ít minh quân, đa số là hôn quân vô đạo và triều Nguyễn được xem là điển hình của phong kiến cần phải bài trừ. Phong kiến từ những năm 30 trở về sau được người dân sáng ra. À, phong kiến là bóc lột, là gom góp của dân về làm của riêng cho dòng họ. Vua chúa trở thành một biểu tượng cần tiêu diệt tận trong tâm thức của người dân. Vua chúa là hình ảnh phản cảm, luôn được sân khấu mang lên như một nhân vật phản diện vì lắm thói hư tật xấu. “Đả thực bài phong” là câu thần chú tỏ ra hiệu nghiệm vô cùng của Đảng cộng sản từ khi thành lập. Dân chúng cảm thấy được an ủi vì bao năm lầm than nay đã có ngọn cờ đỏ hướng dẫn chống lại cái ác của một bọn người có túi tham vô tận. Tượng trưng cho đỉnh cao quyền lực của vua là chiếc ngai vàng. Vì vậy chiếc ngai tuy là một vật vô tri nhưng cũng họa lây. Ngai vàng dưới mắt nhiều người, được xây dựng trên mồ hôi nước mắt lẫn máu xương của dân chúng nên nó không khác gì con dao đồ tể. Dao vấy máu và người cầm dao không thể hiền nhân. Ngai vàng xây bằng máu xương nên người ngồi trên nó chỉ có thể là quân cướp của giết người. Trong suốt 85 năm dẫn dắt, đảng đã khéo léo bằng mọi cách giấu biệt cái ngai vàng mà các ông vua tập thể ngự trị. Đương chức, họ tập trung của cải, phe cánh. Về hưu, đóng cửa lập cung điện nguy nga trong nội thất. Vì quá nhiều vua nên họ chia nhau mỗi người một cõi, mỗi người một phong cách không ai giống ai. Cái giống duy nhất là tiền dân được họ vung tay không thương tiếc. Có người cho rằng không phải ai cũng như ông Mạnh. Ông đương kim hoàng đế Nguyễn Phú Trọng đấy, lúc nào cũng một lòng một dạ kêu gọi khan cả tiếng để thực hành nghị quyết xây dựng đảng có thấy ai nói ông ấy tích cóp của cải về hưu đâu? Nhưng lại có kẻ ác mồm cho rằng các ông vua tập thể mỗi người một vai. Vua Linh đóng vai “những việc cần làm ngay”, Vua Mạnh đóng vai “cây gì, con gì” thì Vua Trọng cũng phải có vai chứ không lẽ im ru cho đời nó cười cho? Vai kịch chống tham ô của ông Trọng đã diễn từ 85 năm nay nhưng khi diễn lại vẫn được dân vỗ tay vì tin rằng lần này sẽ khác lần trước. Dân chúng luôn cả tin và đảng chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội. Chiếc ngai ông Mạnh ngồi tuy nằm kín bưng trong nhà riêng nhưng gây sóng gió không phải vì nó có giá trị quá to về mặt tiền bạc. Nó bị phản ứng vể mặt lòng tin của người dân. Vốn mù mờ và nghi ngờ từ lâu tính cách hai mặt của đảng nhưng cho tới ngày mùng một Tết năm Ất Mùi 2015 dân chúng mới thực sự được giải thiêng. Sự thiêng liêng hy sinh vì dân tộc mà đảng đeo lên ngực nay đã lộ ra sau chiếc ngai vàng ấy. Người nông dân thấy mỗi hạt gạo mình làm ra đã bị đảng cắn đi phân nửa. Công nhân tin rằng đồng lương của họ bị trích ra giao cho đảng giữ một phần. Trí thức vốn không làm ra của cải nhưng cháy lòng vì đã cả tin. Nay ngai vàng lộ ra, trí thức có lẽ là khối người ngột ngạt nhất, họ khó cam lòng thêm nữa nếu tiếp tục cắm cúi lượm từng đồng bạc lẻ được bố thí từ các ông vua cộng sản ăn cướp của dân rồi tự tiện phân phối lại cho xã hội với phần trăm của một học sinh dốt toán. Chỉ duy nhất một lớp người hí hửng khi phát hiện ra ngay tại thời điểm này phong kiến vẫn còn ngự trị trên phần đất Việt Nam, đó là hậu duệ của đảng, là mầm non đang noi gương đảng từng chút một trên con đường tiến tới ngai vàng mà hôm nay họ chứng kiến. Tờ Tiền Phong phải công nhận có một Tổng biên tập thông minh và quyền biến. Ngay khi tấm ảnh vua Nông bị phê phán, như thường lệ, tờ báo được lệnh phải gỡ tấm ảnh xuống, thay vào đó là tấm ảnh của các em thiếu nhi tiền phong với khăn quàng đỏ thắm đứng chụp hình chung với vua trong một căn phòng khác. Trên những khuôn mặt non nớt ấy không khó nhận ra sự hãnh diện nao lòng. Mỗi em đã định hình được con đường phải đi trong tương lai, bằng mọi cách phải theo bác Nông sau khi theo bác Hồ từ trước tới nay. Ôi, ai bảo nghề báo không lắm công phu? Và ai bảo ngồi trên ngai là sướng? Theo rfavietnam.com
......

Báo lá cải tại Việt Nam

Cách đây mấy năm, ở Việt Nam rộ lên một cuộc thảo luận khá ồn ào về hiện tượng báo lá cải. Đại khái, có hai luồng ý kiến chính: Một, cho ở Việt Nam có một số tờ báo lá cải chạy theo những thị hiếu tầm thường của quần chúng, đăng những tin tức bá vơ, rẻ tiền; hai, cho ở Việt Nam không hề có báo lá cải vì tất cả các tờ báo ấy đều do nhà nước quản lý, chỉ nhằm thông tin và tuyên truyền chứ không phải nhằm mục đích kiếm lợi nhuận. Ý kiến thứ hai được xem là một phán quyết cuối cùng, do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son tuyên bố vào tháng 6 năm 2012. Tuy nhiên, khi khẳng định như vậy, ông Nguyễn Bắc Son cũng nói thêm: Có một số báo, thỉnh thoảng, đi lệch sang khuynh hướng lá cải, cần phải phê phán và chỉnh sửa. Chỉ hơi nghiêng, lệch thôi, chứ chưa hẳn đã là lá cải thật. Theo tôi, ngược lại, phần lớn các tờ nhật báo ở Việt Nam hiện nay đều là báo lá cải. Nhưng trước hết, xin xác minh khái niệm báo lá cải để bảo đảm là chúng ta cùng hiểu và cùng nhìn vấn đề từ một góc cạnh giống nhau. Chữ báo lá cải có lẽ được dịch từ tiếng Pháp, feuille de chou, chỉ loại báo rẻ tiền. Trong tiếng Anh, người ta dùng từ tabloid (hoặc gutter press, hoặc có khi, rag, như một tiếng lóng), với một số đặc điểm chính: Một, về khổ báo (size): thường nhỏ, cầm gọn trên tay, có thể dễ dàng đọc ở những nơi đông người và chật chội (như trên xe lửa hoặc phòng đợi, đâu đó). Hai, về mục tiêu, chỉ nhắm đến việc giải trí, đọc xong rồi thì có thể vất đi. Ba, về tính chất, hoàn toàn thương mại, miễn sao bán cho thật chạy. Cuối cùng, về nội dung, phần lớn chỉ tập trung vào những tin tức giật gân, như các tội phạm, các giai thoại hoặc các tin đồn liên quan đến đời sống riêng tư của các sao điện ảnh, ca nhạc hay thể thao, từ chuyện ghiền ma túy đến chuyện tình ái, ly dị, đánh ghen, ăn chơi trác táng, v.v... Trong các đặc điểm trên, yếu tố hình thức (khổ báo) ít quan trọng nhất vì trên thế giới có khá nhiều tờ báo bị xem là lá cải nhưng có khổ báo hoặc lớn hoặc nhỏ hơn cái khổ bình thường; trong khi đó, yếu tố nổi bật và thiết yếu nhất là về nội dung và mục tiêu: giải trí bằng cách thỏa mãn những thị hiếu khá tầm thường của độc giả. Nhìn trên bề mặt, qua các đặc điểm nêu trên, quả thực phần lớn báo chí tại Việt Nam không nằm khớp hẳn vào cái gọi là lá cải. Tất cả, nói theo Nguyễn Bắc Son, đều do nhà nước tài trợ và quản lý và nhắm đến mục tiêu chính là thông tin và tuyên truyền. Tuy nhiên, ngay ở đây cũng có nhiều vấn đề. Đồng ý báo chí ở Việt Nam đều thuộc về nhà nước, nhưng rõ ràng là tất cả các tờ báo, trừ tờ Nhân Dân, đều tham gia vào cuộc chạy đua quyết liệt trong việc câu khách. Lý do, những tờ báo ấy, nếu lỗ, nhà nước sẽ đền bù; nhưng nếu lời, người ta có thể chia nhau qua các hình thức khen thưởng hay nâng mức nhuận bút. Thành ra, ở Việt Nam vẫn có báo giàu và báo nghèo; và cùng với nó, những nhà báo giàu và những nhà báo nghèo. Đó là xét trên bề mặt, nhìn sâu vào bên trong, ở bản chất, đặc biệt, nội dung và mục tiêu thì dường như hầu hết các tờ báo ở Việt Nam đều có tính chất lá cải. Cứ nhìn qua các tờ báo mạng ở Việt Nam thì thấy rõ. Nội dung quan trọng nhất là các vấn đề xã hội; trong các vấn đề ấy, điều khiến người ta tập trung khai thác nhất là các hiện tượng tiêu cực. Thì cũng đúng. Cái gọi là tin tức trên mọi tờ báo, ở Việt Nam cũng như ở khắp thế giới, bao giờ cũng có chút bất bình thường. Một quán cà phê chỉ bán cà phê: Không phải là tin tức. Một quán cà phê kiêm nhiệm việc chứa gái mại dâm mới là… tin tức. Một người làm giàu một cách lương thiện và tiệm tiến: Không phải là tin tức. Một người làm giàu một cách nhanh chóng hay đang giàu có bị phá sản một cách nhanh chóng mới là tin tức. Một nghiên cứu sinh viết luận án đàng hoàng nghiêm túc và được phát bằng tiến sĩ: Không phải là tin tức. Nhưng một giáo sư hay một tiến sĩ nổi tiếng bị phát hiện đạo văn hay sử dụng bằng cấp giả mới là… tin tức. Như vậy, đề tài tiêu cực, tự nó, không quyết định tính chất lá cải hay không. Vấn đề, quan trọng hơn, là cách khai thác các đề tài ấy. Ví dụ, viết về các động mại dâm trá hình dưới các quán ăn hay quán cà phê dọc đường, một đề tài được rất nhiều người khai thác trên các tờ báo khác nhau, các ký giả thường mô tả những chi tiết rất ly kỳ hấp dẫn khi họ đóng vai khách hàng vào thăm. Đọc, chúng ta dễ có cảm tưởng họ đang quảng cáo giùm cho các ổ mại dâm trá hình ấy hơn là phê phán chúng. Một ví dụ khác, cũng liên quan đến loại đề tài phổ biến tại Việt Nam: đời sống của các đại gia, tức những người thuộc loại “siêu giàu”. Ở Tây phương, người ta cũng hay tò mò về cuộc sống và lối sống của những người ấy. Tuy nhiên, ở Việt Nam, người ta hiếm khi đề cập đến tài năng lãnh đạo, sáng kiến và chí tiến thủ của những người ấy. Nhiều nhất, họ tập trung vào những chiếc xe khủng, những người tình “chân dài”, số lần ly dị cũng như số lần cưới vợ của họ. Thậm chí, nhiều tờ báo đăng đi đăng lại những bài phỏng vấn một đại gia đã cao tuổi, có nhiều đời vợ, với lời tuyên bố: Chỉ thích lấy những cô “chân dài” còn trinh, thua mình cả ba, bốn chục tuổi! Nhưng dễ thấy nhất là những bài viết về đề tài chính trị. Phải nói ngay, phần nhàm chán nhất là những tin tức liên quan đến chính trị đối nội: Tất cả đều viết giống nhau dựa trên những thông tin được cấp trên đưa xuống. Chúng chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, được viết bằng một giọng văn khô cứng và lạt lẽo. Phần hấp dẫn hơn là phần chính trị quốc tế. Ở lãnh vực này, việc kiểm duyệt tương đối lỏng lẻo hơn. Tuy nhiên, hầu hết các tờ báo tại Việt Nam đều giống nhau ở hai điểm: Một, ít, cực kỳ ít, phân tích các vấn đề liên quan đến chính sách; và hai, hầu hết đều tập trung vào các giai thoại, những chuyện ở bên lề các cuộc gặp gỡ của các nhà lãnh đạo thế giới. Ví dụ, viết về chuyến đi của Tổng thống Mỹ Barack Obama tại một quốc gia nào đó, hiếm khi tôi thấy có bài nào viết về các vấn đề chiến lược được bàn luận trong chuyến đi cũng như về các ảnh hưởng chính trị của chuyến đi trên bình diện toàn cầu. Ngược lại, người ta chỉ chú ý đến những chi tiết lắt nhắt như vợ chồng tổng thống Mỹ mặc quần áo gì, ăn gì, tóc tai như thế nào, v.v… Ở Mỹ, bà Hillary Clinton có lần nói đùa: Chỉ cần bà thay đổi kiểu tóc là có thể nhảy lên trang đầu của các tờ nhật báo. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng chỉ đúng với những tờ báo lá cải. Ở Việt Nam, ngược lại, những kiểu tin tức như vậy thường chiếm trang đầu của bất cứ tờ báo nào, có lẽ, trừ tờ Nhân Dân, một tờ báo hầu như không ai đọc. Bởi vậy, tuy viết về các đề tài có vẻ nghiêm túc, nhưng cách khai thác các đề tài ấy, trên báo chí Việt Nam, thường thiên về các khía cạnh nhí nhách, lặt vặt, có khi nhảm nhí. Đọc, người ta thấy vui vui; nhưng đọc xong, người ta chẳng học hỏi thêm bất cứ điều gì cả. Loại báo như thế nếu không gọi là báo lá cải thì gọi nó bằng gì? Theo voatiengviet.com
......

Liêu Ninh tàu sân bay hay sòng bài Casino

Nhờ những pha đấu đá kịch liệt giữa phe Tập Cận Bình và phe Giang Trạch Dân hiện nay mà người ta được biết thêm một số dữ kiện về tàu sân bay Liêu Ninh - biểu hiện của sức mạnh Trung Quốc dưới bóng đèn pha liên tục của Ban Tuyên giáo. Varyag là tên nguyên thủy của chiếc tàu do Ukraina đóng. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, Ukraina còn là một tiểu quốc trong Liên Bang Xô Viết (Liên Xô) và được lệnh đóng tàu này với giá ước tính khoảng 4 tỷ mỹ kim.  Nhưng tàu đóng chưa xong thì toàn bộ chế độ Cộng sản Liên Xô chìm lỉm. Thế là tàu sân bay Varyag phải tạm ngưng vì người mua không còn nữa. Theo tin tức chính thức trên báo đài trong những năm trước đây, người ta chỉ được cho biết vào khoảng năm 1998, Trung quốc dưới thời ông Giang Trạch Dân đã tìm cách mua chiếc tàu Varyag về với ý định hoàn thiện lại cho mục tiêu nghiên cứu và huấn luyện chứ không phải để làm tàu chiến. Sau khi được về đến cảng Đại Liên, vì mục tiêu khiêm nhường đó, Bắc Kinh chỉ đặt lại tên con tàu là Liêu Ninh, tức dùng tên tỉnh Liêu Ninh nơi cảng Đại Liên trực thuộc chứ không dùng tên thủ đô hay tên các tỉnh lớn. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 5 năm 2012, khi tàu Liêu Ninh chạy thử và trở về cảng Đại Liên an toàn, Bắc Kinh lại quyết định tận dụng chiếc tàu này làm biểu hiện tuyên truyền nhắm vào dân chúng Trung Quốc. Từ ngày đó trở đi, báo đài ở Hoa lục được lệnh đồng loạt gọi Liêu Ninh là "tàu sân bay đầu tiên" của Trung quốc và ca ngợi sức mạnh hải quân của một Trung quốc cường thịnh. Tuy giới quân sự quốc tế biết khá rõ khả năng thật của Liêu Ninh nhưng hầu hết đều giữ yên lặng. Trong khi đó một số cơ quan truyền thông quốc tế chuyển tiếp các hình ảnh do Bắc Kinh tung ra và vô tình làm công luận có ấn tượng rất sai về con tàu này. Tình trạng lờ mờ về tàu Liêu Ninh kéo dài tới khoảng cuối năm 2014, khi mà cuộc chiến giữa đương kim chủ tịch Tập Cận Bình và phe cựu chủ tịch Giang Trạch Dân trở nên rất kịch liệt, người ta mới thấy một số chuyện được bật mí trên tờ báo South China Morning Post (SCMP) phát hành ở Hồng Kông. Nhân vật chính trong nỗ lực mua tàu Varyag là ông Từ Tăng Bình (Zu Zeng Ping). Nhiều người tin rằng ông là một điệp viên cấp cao của đảng CSTQ. Ông Từ Tăng Bình từng là một sĩ quan cao cấp thuộc Quân Giải Phóng Trung quốc. Ông xin giải ngũ ở tuổi 45 để sang Hồng Kông làm ăn vào năm 1988 trong lãnh vực mua bán bất động sản. Vẫn theo tờ SCMP, chính chủ tịch Giang Trạch Dân đã cử ông Từ Tăng Bình, trong vai một thương gia Hồng Kông, tìm cách giao thiệp với Ukraina để ngỏ ý mua lại tàu Varyag. Sau khi nhận lệnh, ông Từ Tăng Bình thành lập một hãng mậu dịch ở Ukraina vào năm 1996 với 12 nhân viên thường trú. Buôn bán chỉ là vỏ bọc, công việc chính của hãng là thu thập thông tin về con tàu Varyag đang nằm ụ trong xưởng tàu và tìm cơ hội cũng như nhân sự có thể đại diện chính phủ Ukraina để bán con tàu với giá rẻ nhất có thể được. Sau gần 2 năm chờ cơ hội và tạo quan hệ, ông Từ Tăng Bình mới chính thức đưa ra đề nghị mua tàu. Theo lời ông Từ Tăng Bình trên tờ South China Morning Post, để có thể mua với giá rẻ mạt và để tránh các rắc rối quốc tế, ông nói với các đối tác Ukraina chỉ mua con tàu về để cải trang làm sòng bài Casino và khách sạn nổi. Nhìn vào tình trạng đang đóng dở dang còn sơ sài của con tàu, giới chức Ukraina tin lời ông Từ là thật. Thế là: "Từ giá trị dự tính 4 tỷ mỹ kim, tôi đã trả xuống chỉ còn 20 triệu mỹ kim, cái giá này coi như cho không". Ông Từ còn cho biết đương nhiên ngoài cái giá chính thức trên giấy tờ, còn phải có thêm các khoản quà cáp khá lớn cho nhiều quan chức Ukraina nữa. Nhưng sau cùng số tiền bôi trơn đó đã đủ để tàu Varyag rời Ukraina. Khâu khó khăn kế tiếp, theo lời ông Từ Tăng Bình, là làm sao kéo khối sắt khổng lồ đó từ Hắc hải qua eo biển Bosphorus do Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát. Ông cho biết: "Xin phép chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ để kéo con tàu Varyag qua eo biển Bosphorus không phải dễ và ngoài khả năng của tôi. Chủ tịch Giang Trạch Dân đã cử ít nhất là ba bộ trưởng sang Thổ Nhĩ Kỳ xin giấy phép nhưng đều bị từ chối khiến cho con tàu Varyag phải lòng vòng ở Hắc Hải khoảng 16 tháng trời. Cuối cùng vào năm 2000, đích thân Chủ tịch Giang Trạch Dân phải sang Thổ Nhĩ Kỳ thăm viếng và dùng những lời hứa hẹn viện trợ cũng như hứa hẹn tăng số khách du lịch Trung quốc sang Thổ Nhĩ Kỳ để đổi lấy giấy phép cho kéo tàu về." Các bình luận gia Hồng Kông bàn tán xôn xao và đưa ra nhiều giả thuyết về lý do ông Từ Tăng Bình cùng các dữ kiện mua tàu Liêu Ninh xuất hiện vào thời điểm này trên tờ báo bán chính thức của đảng CSTQ. Có người tin lý do khá đơn giản chỉ vì Bắc Kinh còn thiếu tiền ông Từ như ông nói trên tờ SCMP: "Tổng cộng tiền mua con tàu Varyag, quà cáp, tiền điếu đóm, tiền kéo tàu về lên đến 120 triệu mỹ kim mà đến nay nhà nước Bắc Kinh chưa trả lại cho tôi một cắc nào cả". Nhưng nhiều người không tin câu nói đó vì quá mâu thuẫn với các dữ kiện rằng ông Từ đi Ukraina theo lệnh của Chủ tịch Giang Trạch Dân; và con tàu thuộc về quân đội Trung Quốc ngay từ khi kéo về Trung Quốc. Ngay cả nếu nhà nước Trung Quốc còn thiếu tiền ông Từ thì tại sao ông không đòi khi ông Giang Trạch Dân còn làm chủ tịch, hay đòi vào thời Hồ Cẩm Đào mà chờ đến tận ngày nay mới lên tiếng than vãn? Theo các nhà phân tích này thì có xác suất cao ông Từ Tăng Bình đang nằm trong tầm nhắm của ông Tập Cận Bình và sắp bị tấn công về tội tham nhũng như nhiều đàn em khác của Giang Trạch Dân. Đó là lý do ông Từ lên tiếng trước và kể công trạng của mình đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, giả thuyết có vẻ được nhiều người đồng ý hơn cả lại xem đây là đòn phép của chính ông Giang Trạch Dân và các cố vấn thân cận. Họ Giang đang cố tình vạch trần sự bịp bợm của Tập Cận Bình với cái gọi là biểu hiện sức mạnh của hải quân Trung Quốc. Liêu Ninh thực chất chỉ là cái vỏ rỗng được sơn phết bên ngoài, còn bên trong chỉ đủ để làm sòng bài casino, không khác gì món hàng "Trung Quốc Mộng" mà ông Tập Cận Bình đang bày bán cho người dân Hoa lục./.
......

Bao giờ Nhật đi tuần biển Đông?

Những cuộc hội đàm trước đây của ông Nguyễn Tấn Dũng hay ông Phùng Trước với giới lãnh đạo Nhật về tình hình biển Đông, hầu như biến mất rất nhanh trên báo đài Nhật. Những cuộc hội họp đó chẳng dẫn đến ký kết cụ thể nào giữa hai bên. Theo nhận xét của truyền thông Nhật, phía Việt Nam chỉ nói chung chung về "quyết tâm bảo vệ biển đảo", nhưng vẫn không liên kết với bất cứ một quốc gia nào trong việc phòng vệ biển Đông cũng như giải quyết vấn đề chủ quyền tại hai lãnh đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có nhà bình luận còn tỏ ra bực mình vì chính phủ Nhật bị nhà cầm quyền Việt Nam sử dụng cho mục tiêu tuyên truyền với dân Việt Nam và chỉ cho mục tiêu đó mà thôi. Ngược lại, cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng Philippines và Nhật Bản vào ngày 30/01/2015 đã được truyền thông Nhật đánh giá cao. Hai bên đã trao đổi thẳng thắng vấn nạn chung tại biển Đông và biển Hoa đông trước sự bành trướng vũ lực quân sự của Trung quốc. Hai bên đã ký những thỏa thuận về hiệp tác quốc phòng để bảo an hải dương và công tác cứu nạn trên biển. Truyền thông Nhật phản ảnh khá rõ thái độ lo ngại ngày càng tăng của dân Nhật về ý định của Trung quốc muốn kiểm soát toàn bộ biển Đông và thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở vùng biển này. Theo báo đài Nhật, khu vực biển Đông là một ngư trường lớn. Mỗi năm luợng cá đánh bắt được ở đây chiếm 10% tổng số cá của thế giới. Đó là chưa kể đến các dạng tài nguyên thiên nhiên dưới lòng biển. Mỗi năm số lượng hàng hóa trị giá hàng trăm tỷ mỹ kim được chuyển vận qua lại trên vùng biển Đông. Con đường vận chuyển này đóng vai trò vô cùng quan trọng cho nền kinh tế Nhật và các nước trong vùng. Vài ngày trước khi khi Bộ trưởng Quốc phòng Philippines lên đường sang Nhật, Phó Đô Đốc Robert Thomas, Chỉ huy trưởng hạm đội 7 của Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn với hãng thông tấn Reuter, đã nói rằng: "Chúng tôi hy vọng Nhật Bản có thể mở rộng các phi vụ tuần tra về phía Biển Đông". Và sau cuộc hội đàm giữa 2 vị bộ trưởng, vào ngày 03/02/2015, tại phiên họp Ủy ban Ngân sách Hạ viện Quốc hội Nhật, khi được hỏi về lời phát biểu của Phó Đô đốc Thomas, Thủ tướng Abe trả lời rằng: "Trong tinh thần tích cực bảo vệ hòa bình, chính phủ Nhật muốn góp phần duy trì sự ổn định khu vực Á châu". Phát biểu đó được ông Nakatani, Bộ trưởng Phòng vệ Nhật, khai triển như sau: "Tại thời điểm này chính phủ Nhật chưa lên kế hoạch, nhưng tình hình biển Đông ảnh hưởng lớn đến an ninh của Nhật Bản. Phải đối ứng ra sao mỗi khi hữu sự là vấn đề mà chính phủ Nhật đang bàn thảo". Hãng thông tấn Kyodo của Nhật còn cho biết Bộ trưởng Nakatani cũng xác nhận Tokyo đang theo dõi sát sao các diễn biến chính trị và quân sự ở Biển Đông, nơi Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền biển đảo với các láng giềng, từ Philippines, đến Malaysia, Brunei. Ông Nakatani tuyên bố nếu cần thiết, Hải quân Nhật sẽ được triển khai để tuần tra khu vực mặc dù Nhật không có tranh chấp chủ quyền ở khu vực Biển Đông. Khu vực tuần tra trên không và trên biển của Nhật Bản không nên chỉ giới hạn trong phạm vi biển Hoa Đông, nơi quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Tokyo quản lý đang bị Bắc Kinh gây sự. Nếu tuyên bố trên trở thành hiện thực, việc tuần tra ở biển Đông sẽ được Phi đoàn Không quân thứ Năm của Lực lượng Phòng vệ trên biển trực thuộc Hải quân Nhật, đặt căn cứ tại Okinawa, thực hiện với khoảng 20 máy bay trinh sát P-3C. Ngoài khả năng bay xa, bay lâu để truy tìm và nhận dạng các tàu nổi, tàu chìm, loại máy bay này cũng có khả năng mang theo ngư lôi và thủy lôi chìm cho các sứ mạng tấn công. Hiện nay chính phủ Nhật bản còn bị ràng buộc bởi điều 9 Hiến pháp của họ không cho phép đưa quân ra ngoài nước Nhật. Đây là bản Hiến pháp được soạn thảo sau Thế chiến II dưới nhiều áp suất từ Hoa Kỳ. Nay chính Hoa Kỳ cũng ủng hộ việc Nhật tu chính điều khoản nêu trên vì không còn thích hợp với tình trạng thế giới nói chung - với những vụ con tin Nhật bị các nhóm Hồi Giáo bắt cóc - và tình trạng biển Nhật Bản và biển Đông nói riêng. Hiển nhiên, lãnh đạo Trung Quốc không hài lòng với các diễn tiến này. Bắc Kinh còn tố cáo Thủ tướng Abe chỉ "lợi dụng việc hai công dân Nhật bị IS sát hại" để kích động dân Nhật và để hủy bỏ điều 9 Hiến Pháp. Họ đổ lỗi việc 2 công dân Nhật bị sát hại là do các phát biểu và hành động "vô trách nhiệm" của ông Abe tại Trung Đông trước đó. Nhưng các phê phán trên báo đài Trung Quốc và đặc biệt qua miệng của bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, chỉ khiến công luận Nhật thêm bực tức và chính phủ Nhật tiến nhanh hơn với các nỗ lực liên minh phòng thủ tại biển Đông. Rõ ràng, thái độ lừng khừng không dám quyết định của giới lãnh đạo Việt Nam đã dẫn đến sự chán nản và bỏ lại phía sau của các chính phủ trong vùng. Trong khi đó, Bắc Kinh vẫn tiếp tục chính sách "mềm nắn, rắn buông" như đã thấy trong suốt nhiều năm qua. Và vì vậy, một khi thấy liên minh phòng thủ của các quốc gia khác quá cứng, Bắc Kinh sẽ quay sang áp lực Việt Nam nặng nề hơn nữa, nơi mà họ đang nắm ngày càng chặt từ biển khơi vào đất liền. Xem ra loại tai họa như 64 chiến sĩ Việt bị tàn sát tại Trường Sa năm 1988 vì Bộ Chính trị đảng CSVN không dám tiến hay lùi, đang lập lại ở cấp độ hàng ngàn lần lớn hơn trên cả nước Việt Nam.
......

40 năm và ước nguyện mùa Xuân

Và mùa xuân không còn Những nỗi đau thầm nữa… (Mùa Xuân – Tagore) Bước vào những ngày đầu năm 2015, chuyện những kẻ khủng bố bịt mặt xả súng bắn vào toà soạn Charlie Hebdo gây nên cái chết cho 12 người bao gồm hai cảnh sát và mười nhà báo, trong đó có những hoạ sĩ biếm hoạ tài danh đã làm rúng động cả nước Pháp. Tuy rằng không phải ai cũng tán thành tính khiêu khích của tạp chí châm biếm Charlie Hebdo; nhưng từ vụ thảm sát này, thái độ của người dân Pháp và cách hành xử của các vị lãnh đạo thế giới đối với quyền tự do ngôn luận đã tạo nên niềm tin và một hình ảnh đẹp đẽ nhất của những ngày đầu năm. Ngày 11/01/15 tức là bốn ngày sau vụ thảm sát, gần 4 triệu người dân Pháp đã tham gia cuộc tuần hành được coi là quy mô chưa từng có trong lịch sử nước Pháp. Cuộc tuần hành còn lớn hơn cả lễ mừng giải phóng Pháp khỏi tay Hitler năm 1944. Rõ ràng trong cái thế giới có vẻ như rời rạc ngày nay, bật lên một sự thật là tất cả chúng ta đều có mối liên hệ rất mật thiết với nhau từ niềm mơ ước riêng tư cho đến nỗi khát khao về cái đẹp, về tự do, nhân bản, về điều đúng, điều thiện… Khắp nơi trên thế giới, người ta đã tụ họp nhau lại để tưởng niệm những người đã nằm xuống, để lên án những hành động khủng bố và bày tỏ sự ủng hộ đối với nước Pháp. Nhiều biểu ngữ, băng rôn đã ghi câu: Je suis Charlie (Tôi là Charlie). Một bé gái đi trong đoàn tuần hành còn giương cao tấm biển với hàng chữ "Khi lớn lên con sẽ trở thành nhà báo". Đám đông khổng lồ đó đã được dẫn đầu bởi hơn 40 vị lãnh đạo thế giới. Hình ảnh họ khoác tay nhau tuần hành cho Charlie hẳn đã làm nhiều người Việt Nam xúc động khi nghĩ đến hoàn cảnh đất nước mình. Dù ở những địa vị lãnh đạo đầy quyền lực như Tổng thống Pháp Francois Hollande, Thủ tướng Đức Angela Merkel, Thủ tướng Anh David Cameron, Thủ tướng Ý Matteo Renzi… thái độ của họ thể hiện sự yếu đuối, nhỏ bé, cùng sự cần thiết có nhau của con người trước bạo lực! Nhưng mặt khác, họ cũng nói lên sự mạnh mẽ phi thường của ý chí con người trước họng súng. Họ không đến đó, đứng đó cho dân họ. Họ đứng cho những con người yếu đuối, sợ hãi, cô thế trên những phần đất tăm tối của quả đất; nơi con người còn bị ngự trị bởi khủng bố, bởi các chế độ độc tài. Cách đây ít năm, Ls Lê Quốc Quân, Bs Phạm Hồng Sơn và một vài người bạn của các anh cũng đứng khoác tay nhau như thế ở ngã ba Triệu Quốc Đạt - Hai Bà Trưng, trên con đường dẫn tới phiên toà xử Ts Cù Huy Hà Vũ. Trước mặt họ là hàng trăm công an mặc sắc phục và thường phục, phía sau họ, khi ấy không có đám đông nào hết, không một ai… nhưng họ vẫn đứng, khoá chặt tay vào với nhau. Dũng cảm và đơn độc! Ngày hôm nay, sau lưng Lê Quốc Quân, Nguyễn Ngọc Già, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Quang Lập… cái khoảng trống ấy đang dần dần được lấp đầy. Những đốm lửa đã nhen nhúm gọi nhau thành ngọn lửa. Tôi cảm nhận tận đáy lòng điều Lê Quốc Quân nhắn với bạn hữu anh từ trại giam An Điềm: “ngồi trong này nhận được thiệp hoặc thư của ai thì đọc mà nhớ luôn cả mặt chữ”. Đôi lúc hoạn nạn, đơn độc, hạnh phúc không hẳn là những điều gì to lớn, mà chỉ cần có nhau. Chỉ cần biết rằng ở ngoài kia mình có bạn bè, đồng đội; những việc mình làm, sự hiện hữu của mình có ý nghĩa. Và rõ ràng dù con đường trước mặt còn chìm trong bóng đêm, nhưng đồng đội của các anh đang sẵn sàng cùng nhịp bước trong màn đêm đó. Đây là những món quà vô giá cho người tù: sau lưng Nguyễn Quang Lập, hàng loạt những blogger cùng lên tiếng sẵn sàng bị bắt theo điều 88; sau khi Nguyễn Hữu Vinh bị bắt, Blog Anh Ba Sàm vẫn tiếp tục hoạt động, … Và đặc biệt đối diện với những trấn áp từ việc dồn dập bắt giam các anh, phong trào "Tôi không thích ĐCSVN" đã thành hình. Từng khuôn mặt blogger xuất hiện mỗi ngày trên các trang mạng xã hội, mạnh mẽ, công khai, bất chấp các hù dọa của điều 88. Các nhà hoạt động ngày nay đã không cô đơn, không bị bỏ rơi như thời Nhân Văn Giai Phẩm, thời Xét Lại Chống Đảng… Ngược lại, bản thân và gia đình họ được chăm sóc, được bảo bọc yêu thương. Trong một bức thư gửi cho em trai là tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu, anh Đặng Xuân Hà viết : "Em ạ, kể từ tháng 10 đến nay mọi người ở khắp nơi đều rất quan tâm tới em và Mẹ. Điều đó làm Mẹ và mọi người trong nhà rất vui, khiến mẹ đỡ yếu nhiều". Nếu thế giới sẽ nhớ mãi về Charlie và biến cố những ngày đầu năm 2015 thì người dân Việt Nam cũng sẽ nhớ mãi mốc điểm thời gian này. Ai cũng khao khát được sống, nhưng trước khủng bố và sự huỷ diệt, con người đã làm điều tốt nhất để sự sống được thăng hoa, để cuộc sống đáng sống! Những nhà văn, những hoạ sĩ biếm hoạ đã biến mình thành nhân vật trong một bức tranh đẹp đẽ, nhân bản của nhân loại. Cũng cùng lúc đó, trong bóng tối của bạo lực, những người dân Việt Nam nhỏ bé, cô thế, sợ hãi cũng đang nương nhau đứng dậy. Mặc dù chưa có được đám đông đáng kể, nhưng những con người “tay không” này đã chứng tỏ được sức mạnh của mình. Họ thực sự đang làm chế độ lo sợ. Ông Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã phải thừa nhận: “Một chế độ muốn tồn tại thì phải được sự ủng hộ của người dân. Hiện nay các thế lực chống đối đã tuyên truyền và chiếm được trái tim khối óc của hàng triệu người, thì nguy cơ đối với chế độ là có thật”. Dù vậy, chúng ta có thay đổi được hiện trạng của đất nước mình hay không còn tuỳ thuộc vào sự sáng suốt và chấp nhận hy sinh của mỗi người. Chỉ một hành động man rợ của kẻ khủng bố đã làm thế giới phải sát vai đứng cùng nhau; trong khi phải đối đầu với một chế độ bạo lực, nham hiểm, đâu đó trong hàng ngũ những người đấu tranh hôm nay vẫn còn thấy những ngại ngùng, chia cách. Bốn mươi năm - con số thời gian kể từ ngày cả nước phải sống dưới bóng độc tài - như vô tình chợt làm chúng ta thấm thía nỗi đau. Bốn mươi năm! liệu đất nước và những thảm hoạ trước mắt có đủ vực dậy mỗi con dân Việt? Có xoá tan được cách ngăn và có đủ làm nên chất keo đoàn kết cần thiết không? Giờ này, những người bạn của chúng ta, những tù nhân lương tâm đang nghĩ gì trong những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm sắp đến? Chắc hẳn bên cạnh nỗi nhớ nhung gia đình, nỗi thương nhớ vợ con là những thời khắc đối diện với chính mình, với hương hồn cha ông, với tổ tiên đất nước. Sẽ không có nén nhang nào được họ thắp lên giữa đêm giao thừa năm nay trong chốn lao tù, nhưng hương khói từ những nén nhang tâm thành giữa lòng họ có kết nối được những tấm lòng Việt Nam. Không một ai muốn phải mất mát hay hy sinh, nhưng dường như tất cả nhân loại đều nhận thức ra rằng: Chỉ trong những giai đoạn đen tối và khi cùng gánh vác trách nhiệm với nhau, người ta mới thấy tỏa sáng những phẩm chất cao quí của chính mình và những người bạn đồng hành. Đầu năm là thời điểm linh thiêng để mỗi chúng ta cùng nhìn lại một đất nước gấm vóc, một dân tộc oai hùng qua bao thời đại; để cùng nhau vực lại niềm tin và nhất định sống đúng với lương tâm và ước nguyện. Xin hãy hoà cái Tôi vào cái Chúng Ta. Xin chúc từng người Việt Nam chọn được bước đi cho mình trong năm mới, trong dòng người khao khát tạo đổi thay, để quê hương chung của chúng ta sớm trở thành một nơi chốn thực sự đáng sống Theo viettan.org
......

Ông Nguyễn Bá Thanh và cái chết tức tưởi

Ngày Mười Ba Thứ Sáu, ông Nguyễn Bá Thanh nhắm mắt từ trần, rời bỏ giấc mộng Thị Trưởng Đà nẵng một thuở, và giấc mộng kinh ban tế thế trên đất Hà Nội cũng tan theo mây khói. Cái chết của ông, sự ra đi của ông để lại sự thương tiếc không ít trong lòng nhiều người dân Đà Nẵng, Quảng Nam và cả nước. Đương nhiên có không ít người oán hận ông. Nhưng hầu như họ ít lên tiếng và có vẻ như họ không nói gì về ông nữa kể từ khi ông lâm bệnh nặng. Cái chết của ông đã hóa giải nhiều mối cừu thù với ông mà trong đó, nguyên nhân có một phần không nhỏ do ông gây ra. Có thể nói, một cái chết đắt địa nhất trong vấn đề khai sáng cho người Việt vào thời điểm này. Ông đã chết không uổng phí cho dù có bị đầu độc hay bị gì đi nữa. Cái chết đầy ẩn số của ông đã giúp cho người nông dân, kẻ có học, anh phu xe và nhiều thành phần vốn dĩ ngủ quên trong đau khổ, cam chịu, toan tính cơm áo gạo tiền bỗng giật mình đặt câu hỏi: Vì sao ông chết? Có phải là ông bị đầu độc? Nếu còn sống, ông sẽ thăng tiến đến đâu? Chúng ta đang sống trong chế độ nào? Thứ Sáu ngày 13 – giấc mộng Thị trưởng tan theo mây khói Lúc còn làm Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nhiều lần ông Thanh bày tỏ nguyện vọng thay đổi chức danh Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố thành chức Thị Trưởng nhưng cấp trên không chấp nhận. Và lúc ông Thanh đương chức ở Đà Nẵng, hai con đường Trường Sa, Hoàng Sa được ông cho người Trung Quốc thuê để xây dựng các biệt thự, khu nghỉ mát, sòng bạc hàng loạt. Khách Trung Quốc sang thăm, ông cũng dắt họ về khách sạn trên đường Hoàng Sa, Trường Sa để nghỉ lại… Ông cũng từng tuyên bố đã cải trang hàng trăm tàu quân sự thành tàu đánh cá ra biển Đông xua Trung Quốc chạy mất dép. Nhiều trí thức Đà Nẵng cho rằng đó là hành động yêu nước của ông (?!). Có lẽ bây giờ, câu hỏi ông có bị đầu độc hay không và ai đã đầu độc ông vẫn chưa cũ. Bởi nó là nguyên nhân, đầu mối của mọi vấn đề, bởi nó đã đóng chặt một giấc mơ chính trị, một số phận cũng như khép lại hàng loạt cừu thù đáng tiếc của một đảng viên Cộng sản thuộc hàng cao cấp ở Đà Nẵng và cũng là người có nhiều công trình còn dở dang… Cũng như nó lại giải mã cho câu trăn trối (qua miệng giáo sư Phạm Gia Khải) rằng “gia đình tôi sẽ tự lo mọi chi phí bệnh viện”. Tại sao một người nằm viện suốt hơn nửa năm trời, một người luôn chịu đựng mọi cơn đau, cố gắng vượt qua cái chết để tiếp tục thực hiện công nghiệp còn dang dở của mình lại chỉ trăn trối một vấn đề hết sức nhỏ, không đáng quan tâm như vậy? Mặc dù khi truyền đạt lại câu nói này, giáo sư Phạm Gia Khải nói với lòng ngưỡng mộ và yêu quí ông Thanh nhưng dường như trong sự ngưỡng mộ, yêu quí ấy có chút gì đó không bình thường! Nó không bình thường bởi điều mà ông truyền đạt không nhất thiết, không đáng phải công khai trên báo giới, thông tin của nó không có sức nặng cần thiết cho lúc này. Nhưng tại sao ông Phạm Gia Khải lại đưa ra thông tin này? Có một ẩn số và hai khả năng: Ẩn số về viện phí, nói là nhà nước lo một phần, trung ương đảng lo một phần và gia đình lo một phần viện phí nhưng không nói cái “một phần “ ấy thuộc gói nào, là gói ở bệnh viện đa khoa Đà Nẵng hay là gồm cả gói chữa bệnh ở Mỹ, Singapore. Thông tin về vấn đề này chưa được tường minh. Và hai khả năng là: Lời công bố vô tình của một người có nếp nghĩ không thấu đáo, chỉ trả lời để mà trả lời (khả năng này khó xuất hiện ở giáo sư Khải). Khả năng thứ hai nhằm đấu tố, một bước nối của Chân Dung Quyền Lực. Vì đến thời điểm hiện tại, chức năng và sứ mệnh đấu tố của Chân Dung Quyền Lực đã hết, nó có tồn tại hay không tồn tại cũng không thể đưa ra ác chủ bài cần thiết mà người ta đặt định. Nhưng cuộc đấu tố quyền lực thì chưa bao giờ chấm dứt. Người ta vẫn chưa buông tha cho ông Nguyễn Bá Thanh. Nên nhớ Chân Dung Quyền Lực là một trang blog phanh phui tham nhũng. Câu nói của giáo sư Phạm Gia Khải là câu nói của một người mến mộ ông Thanh, xét về nội dung, hình thức thì khác nhau, thậm chí khác nhau về bản chất. Nhưng mục tiêu của nó thì phải xem lại! Bởi lẽ, với mức chi phí mỗi ngày điều trị lên đến hàng chục ngàn đô la, thậm chí có ngày lên đến vài chục ngàn đô la tại bệnh viện Mỹ và bệnh viện Singapore, sau đó về Đà Nẵng, chi phí bệnh viện cũng lên đến hàng chục triệu đồng mỗi ngày. Nếu cộng tổng số tiền điều trị bệnh cho ông Thanh, có thể là vài chục tỉ đồng, thậm chí hàng trăm tỉ đồng gồm chi phí điều trị bệnh, người chăm sóc ăn ở và đi theo qua Singapore, qua Mỹ, rồi chi phí máy bay chuyên dụng để đưa ông về… Chắc chắc con số có thể lên đến hàng trăm tỉ đồng. Nếu là một cán bộ thanh liêm, thì cả một đời làm việc, ăn lương của ông Nguyễn Bá Thanh không bao giờ chi trả đủ 30% số tiền viện phí. Trong khi đó, nhà cửa của ông Thanh vẫn chưa phải thế chấp hay bán đi để chữa bệnh, xe cộ của ông và con ông vẫn còn nguyên mà lúc sắp ra đi ông lại mạnh miệng tuyên bố gia đình sẽ lo toàn bộ viện phí. Như vậy, bản thân câu nói này đã tự đấu tố Nguyễn Bá Thanh là một quan tham cộm cán! Liệu có thật sự ông Thanh đã nói câu này? Hay là một trò đấu tố khác đang diễn ra? Và tại sao với một cán bộ cao cấp như Nguyễn Bá Thanh, khi nằm viện lại không có bảo hiểm y tế? Lại phải nhờ đến tổ chức, nhà nước và gia đình? Rõ ràng, câu nói cuối cùng của Nguyễn Bá Thanh rất có vấn đề dù ông có thật sự nói hay là ông Phạm Gia Khải đã nhét vào miệng ông! Ai đã đầu độc ông Thanh? Và đến đây, dường như bệnh tật và cái chết của ông Thanh không bình thường nữa. Bởi nó được đưa tin một cách không bình thường; Điều trị một cách bí mật, không bình thường và khi chết, lời trăn trối cũng không bình thường. Một cái chết bất thường trong lòng một chế độ không bình thường. Vậy ai đã đầu độc ông Thanh? Có hai luồng dư luận, đương nhiên là luồng dư luận do Chân Dung Quyền Lực đưa ra, nói rằng Nguyễn Xuân Phúc đầu độc Nguyễn Bá Thanh đã bị loại bỏ, nó hoàn toàn thiếu căn cứ, thậm chí hồ đồ. Bởi lẽ, Nguyễn Xuân Phúc từ đầu lấy yếu tố vùng miền để đấu đá và thăng tiến. Có thêm một nhân vật miền Trung chống lưng, dù sao cũng vững hơn phải đấu đá lẻ loi với hàng chục đối thủ nói giọng Nam giọng Bắc và luôn chờ thọc hông giữa đất Hà Nội. Hiện tại, một luồng dư luận cho rằng phe Nguyễn Tấn Dũng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh, luồng khác lại cho rằng chính tay chân bộ hạ của Nguyễn Phú Trọng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vậy đúng sai ra sao? Ở luồng dư luận thứ nhất, có thể nói rằng nếu Chân Dung Quyền Lực là của phe Nguyễn Tấn Dũng thật sự thì Nguyễn Tấn Dũng khó có thể là kẻ đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì lẽ, mục tiêu cuối cùng để Chân Dung Quyền Lực đánh là Nguyễn Bá Thanh, đánh một quan chống tham nhũng đang truy kích đàn em của mình, lật tẩy ông ta trước thiên hạ là xem như đắc lợi, chẳng cần nói thêm chuyện gì cho nhiều. Nhưng nếu biết trước Nguyễn Bá Thanh sẽ chết và sẽ không còn cơ hội điều tra đến tài sản gia đình mình, Nguyễn Tấn Dũng chẳng thừa hơi để lập trang Chân Dung Quyền Lực để phanh phui, đấu tố mà kết quả của nó là 50/50. Thành công cũng đó mà nguy hiểm, thân bại danh liệt cũng chính nó nếu như phe đối phương thiết lập một blog khác theo kiểu Gương Mặt Quyền Thế để đấu tố lại chẳng hạn! Nhưng ở khía cạnh khác, thâm độc hơn, hiểm hóc hơn (mà Nguyễn Tấn Dũng từng làm là mượn tay Nguyễn Phú Trọng để loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7 – 2012), ông Dũng lại một lần nữa mượn tay Nguyễn Phú Trọng để đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì làm như thế ông được lợi cả hai mặt, vừa không trực tiếp vấy máu lại vừa tung ra cú đòn Chân Dung Quyền Lực để giằng mặt đối thủ và củng cố uy lực. Vậy nếu là phe Nguyễn Phú Trọng đầu độc Nguyễn Bá Thanh thì vì sao lại đầu độc và đầu độc Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Phú Trọng được gì? Có lẽ phải nhắc lại mối quan Hệ Việt – Trung cũng như thế chân vạt Mỹ – Trung – Việt giữa ba con người gồm Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn Bá Thanh. Xét trên góc độ thân Trung Cộng, tương quan của ba nhân vật này ngang nhau. Nếu nhìn bên ngoài, Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc hơn Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Tấn Dũng có công cho Trung Quốc thuê rừng, đất Tây Nguyên, thuê cảng Vũng Áng lâu dài… so với Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Tấn Dũng là bậc thầy thân Trung, hơn nữa, Trọng và Dũng chức quyền cũng hơn Thanh. Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn khác. Phải nhớ là sau khi Nguyễn Bá Thanh tuyên bố từng cho cả hàng trăm tàu đánh cá do quân đội cải trang ra xua tàu Trung Quốc chạy tán loạn thì sau đó không bao lâu, hàng loạt vụ gây hấn trên biển Đông, rơi vào tọa độ Đà Nẵng đã diễn ra rất nặng nề. Và ở trên đất Đà Nẵng, người Trung Quốc được biệt đãi, họ không xây dựng những khu công nghiệp như Vũng Áng, Hà Tĩnh nhưng họ lại xây biệt thự, xây nhà vip, khu nghỉ mát và sòng bài. Tất cả bờ biển Đà Nẳng hầu như dành cho người Trung Quốc ở và sinh hoạt. Nơi họ ở là một biệt khu, ngoại trừ Nguyễn Bá Thanh, ít có quan chức nào được bước vào bên trong. Và cái mộng biến Đà Nẵng thành một đặc khu kinh tế không dừng ở đó, ông Thanh cũng không mộng ở cái chức Thị Trưởng. Bởi một khi Đà Nẵng thành đặc khu kinh tế với Thị trưởng Nguyễn Bá Thanh hoặc một Thị Trưởng đàn em của ông, mối quan hệ chính trị dây mơ rễ má với các quan chức cấp cao Trung Quốc mà Nguyễn Bá Thanh đã ngầm thiết lập sẽ giúp ông được rất nhiều. Hơn nữa, với tài năng, cá tính cũng như uy tín được xây dựng từ trước, tiếng nói Nguyễn Bá Thanh tại miền Trung có thể làm ảnh hưởng đến cục diện chính trị cả nước, có thể làm đảo lộn mọi thứ vốn ổn định của Bộ Chính Trị. Chính vì nhìn ra được điều này mà Nguyễn Phú Trong mặc dù rất tin tưởng vào tài năng Nguyễn Bá Thanh nhưng lại là người loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7. Và trước Hội nghị trung ương 10, Nguyễn Phú Trọng đã sử dụng ác chủ bài, đã cử Nguyễn Bá Thanh sang Trung Quốc công tác. Thực ra là ông thừa biết cử Nguyễn Bá Thanh sang Tàu, cũng đồng nghĩa với chuyện thả cọp về rừng. Ông ta cũng thừa biết trong con mắt lãnh đạo cấp cao Trung Cộng, chỉ có Nguyễn Bá Thanh mới xứng tầm thái thú cho họ trong bối cảnh hiện tại. Tiếng nói của Nguyễn Phú Trọng, nếu bỏ cái chức Tổng Bí Thư ra, ông ta chỉ là miếng giấy lộn. Trong khi đó, nếu dán cái chức Tổng Bí Thư lên Nguyễn Bá Thanh, có thể làm đảo lộn thời cuộc bởi tiếng nói, sự chi phối của ông đối với nhân dân còn cao hơn rất nhiều so với Nguyễn Tấn Dũng. Trong khi đó, chuyến đi Trung Quốc của Thanh là chuyến đi ủy nhiệm nhằm tìm một sự chỉ đạo, sắp xếp nào đó có lợi cho phe Trọng và có hại cho phe Dũng từ các quan thầy Trung Cộng. Và chuyến đi có thể nói là rất thành công, Nguyễn Bá Thanh tìm được tiếng nói chung với các quan thầy Trung Cộng. Bởi các lãnh đạo cấp cao Trung Cộng ngay từ đầu cũng nhận thấy miền Trung là yết hầu của Việt Nam về mặt quân sự, nếu thao túng miền Trung thì xem như lấy được Việt Nam, vấn đề là lấy làm sao thật êm mà người ta phải cám ơn sự xâm lược của mình. Nguyễn Bá Thanh nghiễm nhiên trở thành ứng cử viên nặng ký trong chức năng thái thú Trung Cộng tương lai. Và đây là điều Nguyễn Phú Trọng hoài nghi, lo sợ ngay từ đầu. Nó đã thành hiện thực. Phe Nguyễn Tấn Dũng nhìn thấy sự việc nên đã bài binh bố trận từ Chân Dung Quyền Lực cho đến nhiều việc khác, kể cả phát biểu của Phạm Gia Khải sau này. Và đòn đầu tiên mà Dũng đánh vào Nguyễn Phú Trọng chính là phát biểu có tính chống Trung Cộng của ông. Điều này làm vỡ trận, quan thầy Trung Cộng bẽ bàng nhận ra Nguyễn Phú Trọng không có khả năng quán xuyến Bộ Chính Trị Cộng sản Việt Nam, ông đã không điều khiển được đảng viên đàn em để tạo mối quan hệ thuận lợi cho công cuộc Hậu Thành Đô. Và Nguyễn Phú Trọng cũng ngỡ ngàng nhận ra mình đã nuôi ong tay áo bấy lâu nay, nuôi một người từng chơi thế chân vạc, vừa đi với Trung Cộng lại vừa mở cửa, mời tàu hải quân Mỹ vào Đà Nẵng và có thể trở thành một lãnh chúa vùng miền, một lãnh đạo quốc gia nếu Trung Quốc chịu chống lưng và cất nhắc. Bây giờ, thay vì phải đánh nhau với Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng lại phải đánh nhau với Nguyễn Bá Thanh. Chuyến đi Trung Quốc của Nguyễn Bá Thanh là một thất bại, mất điểm của Nguyễn Phú Trọng. Và chuyện gì đến cũng đã đến, Trọng Lú quyết bước ra khỏi vùng lú, phải diệt cho được con ong trong tay áo, diệt ứng cử viên miền Trung – kẻ đã từng nhiều lần biến Đà Nẵng thành đặc khu nhưng chưa được. Bây giờ Trọng mới thấy tham vọng của Thanh, Trọng không còn lú nữa, phải cho Thanh chết! Và khi Thanh chết đi, uy tín của Trọng với đám quan thầy Trung Cộng sẽ lấy lại được. Bởi với họ, nội bộ Cộng sản Việt Nam cứ thoải mái đấu đá, giết nhau, càng giết, càng đấu đá thì càng phải dựa vào đàn anh, họ càng dễ xoa đầu và chỉ định, chỉ đạo. Nhưng Nguyễn Phú Trọng quên mất một điều, Nguyễn tấn Dũng có một cái chân vạc còn ghê gớm hơn và hình như là mọi sự nóng giận hay thủ đoạn của Trọng đều không qua mặt được Dũng. Cuối cùng, Dũng đã nhổ được cái gai trong mắt mà không tốn viên đạn nào. Trọng càng lúc càng lụn bại. Đương nhiên đây chỉ là những luồng dư luận được đặt thành giả thiết. Và vấn đề buồn nhất vẫn là cái chết thảm thương và tức tưởi của ông Thanh, đất nước mất một lãnh đạo có tâm. Nhưng cái chết của ông cũng rất đúng lúc, nó làm rõ hơn một thứ chân dung quyền lực khác – những chân dung quyền lực chân vạc, vừa dựa Mỹ nhưng lại trông đợi vào sự cất nhắc của quan thầy Trung Cộng để tiến thân. Và hình như Nguyễn Bá Thanh đã cay đắng và hốt hoảng nhận ra mình đã nhầm đường cho đến phút lâm trọng bệnh, ông đã chọn đất Mỹ để chữa bệnh. Điều này, nếu bàn luận ra thêm, có khi phải ứa nước mắt cho thân phận chính trị Việt Nam bởi phần lớn nhân dân mãi là đám đông kêu gào, khóc lóc, đại bộ phận quan chức thăng tiến chỉ biết dựa vào sự chống lưng của Trung Cộng.
......

“Người Ta” Là Ai, Ở Đâu, Tên Gì, Mấy Đứa?

Cuối năm, có kẻ phát hiện ra nồi bánh chưng ngon nhất VN được chụm bằng củi chẻ từ kèo/cột/rui/mè… của hội trường Ba Đình. Chưa biết đúng sai. Chỉ có thể nói leo: Và trong lúc trông bánh, những câu chuyện rôm rả nhất, hẳn phải là chuyện “người ta”? Hãy bắt đầu bằng hai câu danh ngôn của cố chủ tịch và đương kim phó chủ tịch nước, nói về “người ta”: ·                     “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” – Hồ Chí Minh (Di chúc, tháng 5, 1965). ·                     “Người ta ăn của dân không từ một cái gì” – Nguyễn Thị Doan (Giám sát thực hiện chính sách, 11/9/2013). * Khoan bàn về chuyện “mực thước” là “ăn của dân không từ một cái gì”, trong suốt nửa thế kỷ 1965-2015. Hãy coi thử khúc giữa của nó còn những thứ “người ta” nào khác? ·                     “Nhiều lần tôi nói rồi, người ta nghĩ thế này nhưng người ta nói thế khác…” – Nguyễn Phú Trọng (Mỗi người một hướng, làm sao con đò sang sông, 10/01/2013) ·                     “Minh bạch, rõ ràng, muốn thế phải bằng quy chế, luật pháp, quy định, trước hết là con người ta trong sáng, công tâm. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, nói thật” – Nguyễn Phú Trọng (Cần làm rõ có hay không việc chạy chức, chạy quyền, 29/01/2015). ·                     “Chúng ta không ngăn và cũng không cấm được đâu các đồng chí, quan trọng nhất là đưa thông tin đúng, chính xác kịp thời để người ta có lòng tin đúng, ai nói thì nói trên mạng nhưng đây là thông tin chính thống của Chính phủ” – Nguyễn Tấn Dũng (Không thể ngăn cấm thông tin trên mạng, 15/01/2015). ·                     “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không lẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được” – Trương Tấn Sang (Tiếp xúc cử tri Sài Gòn, tháng 5-2011). ·                     “Bởi vì trong thực tế có những vụ việc người ta ‘chạy’ dữ lắm, người ta ỷ thế, ỷ quyền, ỷ tiền, ỷ bạc mà ‘chạy’ để thoát tội và gây ra tội lỗi mới” – Trương Tấn Sang (Trả lời phỏng vấn của TTXVN về nạn tham nhũng, 03/02/2015). ·                     “Người ta có thể trù úm một người, một nhóm người nhưng không thể trù úm cả dân tộc này” – Trương Tấn Sang (Sợ trù úm khi tố cáo tham nhũng thì đất nước này ra sao? 17/10/2012). ·                     “Xin nói thật là làm thủ trưởng thì nó khác, cho ai nói thì nói, không cho nói thì thôi, người ta nói mình nghe thì nghe mà không nghe thì quên” – Nguyễn Sinh Hùng (Tôi không ngồi nhầm vai – 07/8/2011). ·                     “Người ta có thẻ nhà báo rồi tại sao lại cần phải giấy giới thiệu?” – Nguyễn Sinh Hùng (Lề luật vào dự các phiên toà, 22/12/2014). ·                     “Nếu người ta căn cứ 312 văn bản này để mà tổ chức thực hiện thì gay go rồi. Mà nếu không tổ chức thi hành thì lại là vi phạm pháp luật” – Nguyễn Sinh Hùng (Hậu quả 312 văn bản sai luật, 11/6/2014). ·                     “Nhiều khi đang biểu quyết cùng một dự án luật, nhưng số lượng đại biểu tham gia biểu quyết thay đổi liên tục: lúc thì 480, lúc bốn trăm bảy mấy, lúc cao hơn năm người, lúc tụt xuống ba người… Có nghĩa là người ta biểu quyết hộ người khác nên lúc bấm nút, lúc thì quên” – Nguyễn Thị Kim Ngân (Nhiều đại biểu vào QH để hỏi mồi và vỗ tay, 25/7/2015). ·                     “Trong hoàn cảnh hiện nay, muốn đồng thuận, nhất trí, không phải ‘ép người ta mà được’, không phải chúng ta cứ ‘khư khư áp đặt’mà được” – Đinh Thế Huynh (Hội Nghị báo cáo viên miền Bắc, các cơ quan đảng uỷ trực thuộc TW, 16/8/2012). ·                     “Việc luân chuyển theo yêu cầu của hội nghị TƯ 4 đã được làm bài bản, không phải theo cách cũ làm ào ạt khiến người ta nghĩ là chạy được” – Tô Huy Rứa (Tôi cũng trăn trở, 29/01/2015). ·                     “Còn nếu không chuẩn bị, cứ để anh trẻ này làm phó phòng, ra bỏ phiếu chung với ông giám đốc thì ai người ta bỏ phiếu cho anh phó phòng” – Tô Huy Rứa (Bố trí các chức danh lãnh đạo, 21/8/2014). ·                     “Nhà người ta trị giá 10 tỉ mà ông nhân viên tín dụng định giá lên đến 50-70 tỉ, rồi lãnh đạo ngồi ở nhà không nắm được giá trị thật cứ gật gù ký…” – Nguyễn Bá Thanh (Báo cáo láo quen rồi, 20/3/2013). ·                     “Muốn phát triển mạnh để đuổi kịp và vượt người ta thì chủ tịch xã phải có tầm chủ tịch huyện, chủ tịch huyện phải có tầm chủ tịch tỉnh” – Vũ Đức Đam (Chuyện chưa biết về PTT trẻ nhất, 13/11/2013). ·                     “Mỗi khi có tệ nạn mới phát sinh, người ta lại đổ tội cho giáo dục” – Phạm Vũ Luận (Làm bộ trưởng giáo dục khó hay dễ, 01/12/2014). ·                     “Chúng ta không thể vì một hiện tượng cá lẻ mà suy rộng ra một nền khoa học vô dụng…Công bằng mà nói chúng ta cũng đã có rất nhiều sáng tạo, nghiên cứu khoa học được ứng dụng thành công. Đơn cử như Việt Nam là 1 trong 4 nước trên thế giới làm được vắc-xin Rota. Điều này không phải nước nào cũng làm được. Đây là những nghiên cứu khoa học được đánh giá cao nhưng lại không được nhắc tới nhiều bởi lẽ người ta cho rằng đó thuộc trách nhiệm của nhà khoa học. Trong khi đó những sáng chế của người dân bình thường lại được được nhiều người đánh giá cao cũng là chuyện dễ hiểu” – Nguyễn Quân (Bộ trưởng KH-CN nói về Hai Lúa chế tạo xe bọc thép, 10/12/2014). ·                     “Cách đặt câu hỏi, nội dung thăm dò chung quá, đại khái quá, chỉ cho người ta hài lòng, không hài lòng hoặc rất hài lòng” – Vũ Mão (Vì sao người dân chưa hài lòng, 24/8/2014) ·                     “Người ta đang ốm đau không nên nói nọ nói kia” – Phạm Thế Duyệt (Người ta đang ốm, 09/01/2015). ·                     “Đó là chuyện của người ta. Không có chuyện giải trình gì cả. Mình là dân biểu, họ cứ nhầm lẫn…” – Đỗ Văn Đương (trả lời phỏng vấn của TNO về việc Liên đoàn Luật sư phản đối nhận định của đương sự là luật sư chỉ bào chữa cho người có tiền, 01/11/2014). ·                     “Tôi cho rằng người ta vẫn cứ im lặng để người ta hiểu như rằng đây cũng coi nó như một bức thư nặc danh vậy” – Phạm Quý Thọ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trả lời phỏng vấn của BBC Việt ngữ về trang CDQL) * Với ngần ấy những danh ngôn nội bộ vừa tạm liệt kê, người nghe sẽ tức khắc nhận ra ngay cái thứ “người ta” đó là ai. Không chỉ trong đảng, mà cả người ngoài đảng; không chỉ người trong nước mà cả người ngoài nước; không chỉ người VN, mà cả người nước ngoài (như Carl Thayer)… cũng đều thấy cái thứ “người ta” đó là ai: ·                     “Với tiêu chí hạn chế tuổi lãnh đạo ở ngưỡng 65 tuổi, thì người ta luôn mở ra đặc lệ với ghế Tổng Bí thư Đảng. Có nguồn nói thậm chí người ta sẽ mở ngoại lệ ra cho hai cá nhân đợt này” – Carl Thayer (Trả lời phỏng vấn của BBC về Hội Nghị TW 10, 05/01/2015). Không phải đảng viên CSVN, không phải đảng viên cao cấp của CSVN, thì cách nào mà “người ta” có thể mở ra đặc lệ hay ngoại lệ cho dăm ba chóp bu giữ ghế? Thế, vì sao đảng viên nói về đảng viên mà phải xa gần bóng gió? Có phải vì tất cả đều cần tránh va chạm thẳng mặt, giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân với nhóm lợi ích; hay giữa nhóm lợi ích với nhóm lợi ích? Hoặc giả, đơn giản chỉ vì nỗi ám ảnh rằng tai hoạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, có khi không chỉ 1 lần/1 người, như kinh nghiệm năm con ngựa này có 2 đám ma to đùng làm gương rèn cán: Phạm Quý Ngọ (18/02/2014) & Nguyễn Bá Thanh (13/2/2015)? Không xa gần bóng gió để mà được thử các loại độc dược tân kỳ à? * Mà không chỉ một dạng “người ta” hiền lành nhưng dễ chết đó. Phiên bản của những xa xôi bóng gió ấy còn là những “họ”, những “một số người”, những “một số hiện tượng”, những “bộ phận không nhỏ”… ·                     “Tôi nghĩ rằng đa số anh em là như vậy nhưng có một bộ phận mà đảng nói là không nhỏ…, bây giờ không biết nằm ở đâu. Dân hỏi mãi, đảng hỏi mãi nhưng không trả lời được. Từ Trung ương đến cơ sở đều lúng túng chỗ này” – Trương Tấn Sang (Một bộ phận không nhỏ không biết nằm đâu, 15/10/2014). Thế, cái tập thể có nhiều bộ phận không nhỏ mà không ưa nhau đó làm gì? Cái gì? Làm giàu à? Thiệt sao? Cách nào? ·                     “Chúng tôi theo dõi mới biết là tham nhũng ngày càng tinh vi. Tham nhũng không phải đứng một người riêng lẻ mà nó dây mơ rễ má, hình thành những nhóm nữa, xâu chuỗi bao che, bảo vệ nhau” – Trương Tấn Sang (Đề phòng người chống tham nhũng bị tấn công ngược, 03/12/2014). Có trễ quá không, cái chuyện đề phòng người tố tham nhũng (hay tiến hành điều tra chống tham nhũng) bị tấn công ngược, bằng cả chất độc phóng xạ ARS? Mục tiêu là những đồng chí vô hình (hoặc không cần mô tả), và vô danh (không cần nêu tên, hoặc chỉ cần một ẩn số X thay cho cái ẩn danh mà ai cũng hiểu). Động cơ là chiếc ghế. Phương thức là trồi đạp chiếm chỗ. Phương tiện xưa là tuyên giáo, nay là FB. Công việc chính thức và công khai là lên án mông lung, kiểu ném đá qua tường, trúng ai nấy chịu (bởi, đứa nào tay chẳng nhúng chàm), mà không cần hay chẳng dám gom trách nhiệm làm rõ từng vụ việc. Khi ném ra cái từ “người ta”, là tác giả đã ném cả cái trách nhiệm bôi nhọ/ngáng chân/giật chỏ kia lên bàn kẻ khác, tất yếu không phải là “ta” hay “chúng ta”. Cái từ “người ta” màu nhiệm này còn có thêm một đặc tính quý phái khác là can đảm/dũng cảm/không né tránh/dám nhìn thẳng nói thật …tới một sự cố nào đó, được lên báo, mà lại đủ “khôn ngoan” để có chỗ đứng bên này lằn mức an toàn, là không một ai cần làm gì cả. Như vậy, có cần lắm không cái chuyện đề phòng bị tấn công ngược vừa nói đó, một khi đảng viên xách mé những đồng chí đối thủ bằng cái từ “người ta” vô hình/vô danh/vô can/vô trách nhiệm và vô hình chung trở thành vô dụng kia? Khó quá. Làm sao Phạm Quý Ngọ và Nguyễn Bá Thanh có thể trả lời hay giải thích thêm cái từ “người ta” hiền lành mà đầy hiểm nghèo/trắc trở… này cho rốt ráo? * Ở tầm quốc gia, cái từ “người ta” trớ trêu/trí trá ấy còn là cái hiểm hoạ gây tác hại kinh hoàng hơn nữa… Sau hơn nửa thế kỷ người dân bị tước đoạt mọi thứ quyền làm người, quyền công dân, quyền có quan điểm cá nhân… để rộng chỗ cho cái tâm lý vô can và vô dụng “người ta” đó ăn sâu vào đầu óc mọi người. Như thể không có lũ “người ta” ấy là không thể có đất nước này. Từ ấy, đất nước đã trở thành đất nước của bọn “người ta” kể trên. Từ ấy, chuyện đất nước là chuyện của “người ta” tuỳ nghi định đoạt. Từ ấy, đất nước được rao bán/đổi chác tuỳ ý “người ta” định giá. Từ ấy, bất kỳ ai có nhã ý góp sức giải quyết vấn nạn của đất nước thì lập tức sẽ bị bè lũ “người ta” trả thù đến nơi đến chốn, kể cả tra tấn đến chết, bỏ tù rục xương, gia đình bị cô lập kinh tế lẫn giao tiếp xã hội… Từ ấy, với quyền trả thù và phương tiện trả thù trong tay, dần dà cái đất nước của lũ “người ta” kia thu gọn vào bộ phận lãnh đạo, cả bên hành chính lẫn bên đảng đều gọi là trung ương. Rồi đất nước của cái lãnh đạo trung ương “người ta” kia thu hẹp thêm một cấp nữa, vào tay bộ chính trị. Ở giữa cái lõi bộ chính trị “người ta” đó, đất nước bị treo căng xác giữa bốn cái cọc đầu têu có tên là tứ trụ. Bấy giờ, ở đỉnh điểm tối cao đó, chuyện giải quyết vấn nạn của đất nước là hoàn toàn thuộc về …thế hệ kế tiếp. ·                     “Mai sau thế hệ con cháu tài giỏi hơn chúng ta sẽ làm thay” – Trần Đình Long (Phó chủ nhiệm UBLP/QH, Bấm nút thông qua, 21/05/2010). ·                     “Tần Thủy Hoàng xưa nếu không quyết liệt thì làm sao để lại Vạn lý Trường Thành?” – Trần Bá Thiều (GĐ CA Hải Phòng, Bấm nút thông qua, 21/05/2010). Kể cả chuyện Hoàng Sa-Trường Sa, mỏ khoáng và ngư trường của ta trên Biển Đông. Kể cả chuyện biên giới, thác Bản Giốc, rừng đầu nguồn, Bôxít Tây Nguyên, resort trên đỉnh đèo Hải Vân… Kể cả chuyện nợ công gần ngang bằng tổng sản lượng quốc gia. Kể cả chuyện các sư đoàn công nhân TQ trên đất Việt. Kể cả chuyện dự phóng về một VN phủ tràn phóng xạ hạch nhân… Mà không, bấy giờ nào còn đất Việt, nào còn VN! Hoá ra, cái “mực thước cho người ta bắt chước” trong tờ di chúc nguệch ngoạc chết tiệt kia đã đưa cả dân tộc đến bờ diệt vong. Bởi, ngay cả cái “người ta” nọ cũng đã mang một nghĩa bành trướng thành “NGƯỜI TA” khác. ·                     “Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này không còn VN?” – Việt Khang (Anh là ai?) Hoạ chăng, bấy giờ, cái còn lại chỉ là một Khu vực Hành chính An Nam của “NGƯỜI TA” ? 16/02/2015 – Kỷ niệm 226 năm vua Quang Trung cùng quân sĩ ăn Tết Kỷ Dậu trước khi tiến quân vào Thăng Long.Blogger Đinh Tấn Lực
......

Về cái chết của ông Nguyễn Bá Thanh

Vấn đề đầu độc bằng phóng xạ và cái chết của ông Nguyễn Bá Thanh (1953-2015) Hình được cho là của ông Nguyễn Bá Thanh khi đang điều trị tại Hoa Kỳ. Theo những mô tả được phổ biến trên các phương tiện truyền thông, thì bệnh mà ông Nguyễn Bá Thanh mắc phải là bệnh rối loạn sinh tủy (pancytopenia) khi hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu và bạch cầu bị suy giảm trầm trọng. Bệnh này là một bệnh hiếm hoi, không phải là bác sĩ nào cũng gặp trong suốt cuộc đời hành nghề. Theo những thống kê thì tỷ lệ mắc bệnh chỉ là 1-2 phần triệu, nghĩa là trong 1 triệu dân cư chỉ có 1-2 người mắc bệnh. Trong những tháng qua, bệnh của ông được dư luận quan tâm đặc biệt, không hẳn là vì chứng bệnh hiểm nghèo hiếm hoi mà ông mắc phải, mà vì nguyên do gây ra bệnh của ông. Đã có giả thuyết là ông bị đầu độc bằng phóng xạ. Ngày 13.2.2015 ông đã từ trần vì bệnh rối loạn sinh tủy này cùng với suy gan nặng và nhiễm nấm. Quan điểm của nhà nước về nguyên nhân gây bệnh, vai trò của phóng xạ: Trong cuộc gặp gỡ với báo chí ngày 7 tháng 1 vừa qua, ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã thông tin cho báo chí về tình hình sức khỏe của ông Thanh. Ông Quốc Khánh, phó giám đốc viện Huyết học nói rằng, hội chứng rối loạn sinh tủy này trên thế giới chưa ai tìm được nguyên nhân. Nếu tìm được thì đã phòng, chữa được. Phát biểu của ông Khánh là đúng, song không hoàn toàn chính xác. Theo những thống kê quốc tế, thì có đến 70-80% trường hợp bệnh không tìm ra nguyên nhân. Song trong số 20-30% còn lại, người ta biết rằng chứng rối loạn sinh tủy là phản ứng phụ hiếm hoi của việc sử dung một số thuốc thuốc thông dụng như thuốc chống tê thấp như Indomethacin, Phenylbutazone, Diclofenac, thuốc cường giáp như Carbimazol, Thiouracil, tiểu đường như Tolbutamid, thuốc sốt rét Chloroquin, kháng sinh như Sulfonamide, Cotrimoxazol, Chloramphenicol… Bệnh viêm gan của ông Thanh cũng nằm trong danh sách gây bệnh rối loạn sinh tủy. Có nguyên nhân do di truyền (late onset hereditary bone marrow failure syndromes). Được lưu tâm hơn cả là nguyên nhân do nhiễm phóng xạ. Trong buổi gặp báo chí nói trên, khi phóng viên báo Tuổi Trẻ đặt câu hỏi: Căn cứ nào để ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương khẳng định ông Bá Thanh không bị đầu độc, thì bị ông Nguyễn Thế Kỷ, phó ban Tuyên giáo Trung Ương vặn ngược lại với cung cách kẻ cả: Vậy căn cứ nào nói bị đầu độc?. Ông Phạm Gia Khải, phó trưởng ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương trả lời câu hỏi này nghiêm chỉnh hơn: Chuyện có đầu độc hay không: làm khoa học phải có chứng cứ.... Chúng tôi chỉ chấp nhận những giả thuyết có bằng chứng cụ thể.... Đến nay chưa có triệu chứng nhiễm độc ở bất cứ nơi nào trong cơ thể. Đầu độc bằng phóng xạ: một phương pháp tối ưu của tội ác: Nếu cho rằng ông Thanh bị đầu độc bằng phóng xạ thì trường hợp của ông không phải là đầu tiên và duy nhất trên thế giới. Đầu tháng 11 năm 2006 Alexander Liwinenko, một điệp viên nhị trùng làm việc cho phản gián Nga KGB và dồng thời cho phản gián Anh, xin tỵ nạn chính trị ở Anh, bị giết chết ở London bởi chất phóng xạ Polonium 210, chỉ 3 tuần sau khi ông uống 1 ly trà có hòa tan chất phóng xạ này. Người ta cho rằng Putin đã ra lệnh giết Liwinenko vì những cáo buộc của ông ta về những tội ác của chế độ Putin. Ngày 28 tháng 10 năm 2004 ông Jassir Arafat, thủ lãnh của Palestine đột nhiên lâm bệnh nặng, sau 1 tuần ông không ăn uống được vì viêm đường ruột. Ông được đưa ngay sang Paris, điều trị ở bệnh viện quân đội Percy. Vài ngày sau đó ông bị hôn mê, thận và gan không còn hoat động, cuối cùng là chảy máu óc. Ngày 11 tháng 11 năm 2004 ông chết, chỉ quãng 2-3 tuần sau khi có những triệu chứng bệnh tật đầu tiên. Các bác sĩ điều trị không kết luận được về nguyên nhân cái chết của ông. Việc mổ tử thi để giảo nghiệm không được gia đình ông cho phép. Đầu năm 2012 người ta tìm thấy dấu vết của Polonium 210 trong những vật dụng cá nhân của ông còn giữ lại. Từ đó dẫn đến nghi ngờ là ông đã chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ . Tháng 10 năm 2013 mộ của ông được cải táng và di cốt của ông được 3 nhóm chuyên gia Pháp, Thụy Sĩ và Nga khảo nghiệm. Kết quả phân chất (8 năm sau khi ông chết) không đồng nhất: Trong khi Thụy Sĩ cho rằng ông Arafat có khả năng (moderately support) nhiễm độc Polonium 210, thì Pháp và Nga không tìm thấy bằng chứng cụ thể. Cuối cùng, tới nay vai trò của Polonium trong cái chết của Arafat vẫn còn là một hoài nghi. Mặt khác, điều này cũng cho thấy là việc điều tra chứng minh tác động của chất độc phóng xạ không hề đơn giản. Trong trường hợp cái chết của Litwinenko các bác sĩ và những điều tra viên trong những ngày đầu tiên đã phải xếp vào loại chết không rõ nguyên nhân. Chỉ sau một thời gian dài mò mẫm người ta mới xác định được nguyên nhân ngộ độc phóng xạ. Điều này khẳng định thêm một lần nữa tính "ưu việt" của chất độc Polonium 210 là giết người không để dấu vết hay rất khó khăn để tìm ra dấu vết. Polonium 210 Chất độc phóng xạ Polonium 210 phát ra tia alpha, không mầu sắc, không mùi vị, chỉ cần 1 lượng rất nhỏ (quãng 1-2µg, nghĩa là 1-2 phần triệu gram) tương ứng với 1 năng lượng quãng 10 Gray là đủ để giết một mạng người. Polonium 210 không cần chuyên chở trong những hộp chì dầy cộm nặng nề lộ liễu dễ gây nghi ngờ như những chất phóng xạ tia gamma binh thường. Cách sử dung lại rất dễ dàng. Khi sử dụng không gây nguy hiểm gì cho kẻ chủ mưu, bởi vì tia phóng xạ alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 5 cm ở ngoài không khí, có thể được chặn đứng bằng 1 tờ giấy. Hiệu năng phá hoại của nó chỉ được phát huy khi chất độc này lọt vào trong cơ thể qua đường tiêu hóa/hô hấp hay trực tiếp vào mạch máu. Ở trong cơ thể, tia alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 0,04-0,1mm, song đủ để phá nát các tế bào trên đường đi của nó. Khi Polonium 210 còn nằm trong dạ dày nó làm các tế bào niêm mạc (mucosa) bị phá hoại, nạn nhân cảm thấy khó chịu, buồn nôn sau chừng 6-7 tiếng đồng hồ. Khi chất phóng xạ theo đường máu tỏa ra khắp các mô trong cơ thể thì phá hủy các tế bào, nhanh nhất là những tế bào có khả năng phân chia nhanh, ở trong các tủy xương. Từ đó gây ra chứng rối loạn sinh tủy là một biến chứng nguy hiểm sớm đầu tiên. Tủy xương không thể sinh sản được đầy đủ các tế bào máu. Khi làm khám nghiệm sinh học sẽ thấy chỉ số bạch cầu xuống thấp (leucopenie) rất sớm, trong vòng 4-5 ngày, tiểu cầu xuống thấp (thrombopenie) sau chừng 9 ngày. Một khi đã lọt vào trong cơ thể, thì không còn phương pháp nào để trục xuất chất độc này ra khỏi cơ thể, ngoại trừ một phần theo đường bài tiết tự nhiên (phân, nước tiểu) được đưa ra ngoài. Khi đã có rối loạn sinh tủy , tối thiểu là lượng phóng xạ đã phải là 3-5 Gray, thì tiên lương (prognosis) là LD50 (lethal dosis 50), có nghĩa là 50% nạn nhân sẽ phải chết. Nếu bị đầu độc với lượng cao hơn, quãng 10 Gray sẽ có ngay rối loạn đường tiêu hóa và hệ thần kinh, thì tiên lương là LD100, nạn nhân không có hy vọng sống sót. Giả thuyết về việc ông Bá Thanh chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ Trang mạng Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đã quả quyết rằng một phó thủ tướng đương nhiệm đã chủ mưu việc đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ. Việc đầu độc được cho là vào thời điểm cuối năm 2013, khi ông Thanh đi công tác ở Trung Quốc, rồi được "bạn“ chiêu đãi, đưa đi đây đi đó ăn uống và mua sắm. Ở một thời điểm thích hợp ông đã bị đánh thuốc độc phóng xạ. Từ khi đó sức khỏe ông xuống dốc. Trong khi công tác ở Thụy Điển, ông đã vài lần ngất xỉu.Vào đầu tháng 5-2014 đã được điều trị tại bệnh viện 108 với chuẩn đoán "rối loạn sinh tủy“. Tháng 6 và tháng 7 điều trị tại Singapore và từ tháng 8 tới tháng 1-2015 điều trị tại Mỹ. Ngày 9 tháng 1 năm nay ông được đưa trở lại Việt Nam. Ông đã mất hơn 1 tháng sau đó, vào ngày 13.2.2015 tại Đà Nẵng. Trang mạng CDQL quyết đoán là các bác sĩ Mỹ đã định bệnh "Ngộ độc phóng xạ ARS“ và đã thực hiện phẫu thuật ghép tủy. Nay ông Thanh đã mất, vấn đề trách nhiệm về cái chết này lại càng trở nên sôi bỏng. Thông tin của CDQL có khả tín hay không là vấn đề được mổ xẻ ở đây. Chỉ có 2 tình huống có thể đã xẩy ra: Tình huống thứ nhất: Có âm mưu thực sự muốn giết ông Thanh bằng phóng xạ: Một chi tiết biện minh cho giả thuyết này là yếu tố Trung Quốc. Polonium 210 chỉ sản xuất được ở một số lò nguyên tử trên thế giới, trong đó có lò ở Trung Quốc. Sản xuất ở Nga chiếm tới 95% tổng số sản lượng thế giới. Việc cho rằng người chủ mưu phải nhờ tới nước ngoài để có được Polonium như vậy cũng hợp lý. Song tất cả diễn biến của bệnh ông Thanh lại không "điển hình“, như tiên liệu của 1 cuộc đầu độc kinh điển bằng phóng xạ: Vài tiếng đồng hồ sau khi ăn uống phải chất phóng xạ ở Trung Quốc là ông Thanh đã phải khó chịu nôn mửa. Sau 2-3 tuần là lẽ ra tủy xương đã bị tiêu hủy dẫn tới chứng suy/rối loạn sinh tủy. Chậm lắm là 1-2 tháng sau là nạn nhân chết. Ở trường hợp ngộ độc phóng xạ điển hình như trường hợp điệp viên Litwinenko cái chết tới chỉ trong vòng 3 tuần. Ở trường hơp ông Bá Thanh thì không như vậy. Chứng rối loạn sinh tủy phát sinh 5-6 tháng sau khi ông từ Trung Quốc trở về, và tới nay, hơn 1 năm sau ngày bị "đầu độc“ ông mới mất. Nếu đặt tiền đề rằng chứng "rối loạn sinh tủy“ của ông Thanh phải là do phóng xạ gây ra bởi vì ai đó đã có chứng cớ gì mà hiện nay chưa công bố, thì năng lượng nguyên tử đã dùng chỉ tới mức 3-5 Gray vì "chỉ có“ tủy xương bị tàn phá: Để cố ý giết người thì năng lượng này tương đối thấp. Năng lượng thấp này thường là do tai nạn nguyên tử gây ra. Một khả năng khác là cũng có thể là nguyên nhân cố ý giết người, song lại dùng liều lượng thấp hay dùng chất phóng xạ khác, ít nguy hiểm hơn (như Yttrium90, cũng phát tán tia alpha, vốn được dùng trong Y khoa hạt nhân để chữa phong thấp, dễ mua và rẻ hơn là Polonium 210). Dù sao chăng nữa, với một năng lượng nguyên tử 3-5 Gray thì tiên lương bệnh của ông cũng là nghiêm trọng: LD50 (lethal dosis 50). Cái chết hay lẽ sống tương đương ngang ngửa 50% với nhau. Nay cái chết đã thắng thế trên thân xác ông. Tình huống thứ hai: Bệnh của ông Thanh không liên quan gì tới phóng xạ: Trong thời gian qua trang mạng CDQL đã tung ra công luận một số thông tin vô cùng phong phú với những chứng cớ, hình ảnh, giấy tờ khó lòng chối bỏ về tài sản bất chính của một số quan chức cao cấp nhất nước. Những người bị nêu tên đích danh không thốt nổi nửa lời để chống cự lại những cáo buộc trên. Song, trong trường hợp của ông Thanh thì lại khác. CDQL chỉ khẳng định,mà không nêu lên bất cứ bằng chứng, tư liệu nào chứng minh cho cáo buộc là ông Thanh bị đánh thuốc độc phóng xạ. Nếu hình ảnh chụp ông Thanh gầy gò, rụng hết tóc được chụp vài tuần sau khi ông từ Trung Quốc trở về vào cuối năm 2013 thì hình này minh chứng được cho tác động phóng xạ làm ông rụng hết tóc, làm thân xác ông tiều tụy. Song hình ảnh này lại được chụp ở Mỹ, sau 2-3 lần hóa trị, thì đó chỉ là phản ứng rất bình thường của hóa trị. Người dân chờ đợi CDQL tung ra hình ảnh chụp ông Thanh trước khi ông được chữa trị, trưng ra bản copie các kết quả thử nghiệm và kết luận sau cùng của các bác sĩ Mỹ, ví dụ như nồng độ Polonium210 hay chất phóng xạ khác trong nước tiểu, tủy xương của ông Thanh, ví dụ như báo cáo cytology về những biến dạng hay hư hoại của các tế bào máu trong tủy xương hay kết quả khảo nghiệm chromosome ở các bạch cầu trong máu của ông. Kết quả thử nghiệm máu vào tháng 5-2014 mà ông Phạm Gia Khải cho báo chí biết (hồng cầu giảm, tiểu cầu giảm, bạch cầu không rõ ràng) không đưa ra được kết luận cụ thể. Kết quả này cũng không điển hình với biến đổi do phóng xạ gây ra, bởi vì thông thường thì bạch cầu rất nhạy cảm với phóng xạ, sẽ bị phá hủy nhanh chóng và rõ ràng nhất. Lời kết Cho tới ngày ông Thanh mất vẫn chưa có thêm thông tin hay bằng cớ gì mới cho biết là ông Thanh có hay không bị đầu độc bằng phóng xạ. Tất cả cáo buộc từ phía CDQL hay phủ nhận từ phía nhà nước cho tới nay chỉ là những khẳng định chung chung, không bằng chứng. Ông Nguyễn Bá Thanh đã được khám bệnh, trị bệnh nhiều tháng trời ở những bệnh viện hàng đầu ở 3 quốc gia: Việt Nam, Singapore và Mỹ. Tất nhiên là những dữ kiện về bệnh tình của ông không thể thiếu. Kết luận cụ thể về nguyên nhân bệnh của ông từ những bác sĩ chuyên môn hàng đầu thế giới chắc chắn đã có, song tới nay vẫn được giữ kín như một bí mật quốc gia. Ngày 7 tháng 1 vừa qua ông Nguyễn Quốc Triệu, trưởng ban bảo vệ săn sóc sức khỏe trung ương, cho rằng việc không cung cấp thông tin bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là do: Trong luật khám chữa bệnh, bệnh nhân có quyền bí mật về bệnh, việc cung cấp thông tin bệnh tật của cán bộ cao cấp phải xin ý kiến của cấp trên. Chính sách giấu kín thông tin trong lãnh vưc sức khỏe của từng cá nhân là phổ thông và đúng ở khắp nơi. Ở phương Tây cũng thế. Song có một điểm khác biệt quan trọng là ở nơi có chế độ dân chủ, người bệnh nhân có quyền cho phép tiết lộ thông tin sức khỏe của mình cho một người thứ ba mà không cần phải xin ý kiến của cấp trên nào. Ở trường hợp có người tố cáo là có kẻ gian đầu độc người khác, như chuyện Bá Thanh, thì không những là có vấn đề sức khỏe của người bệnh mà còn có vấn đề hình sự đối với kẻ gian, còn vấn đề sử dụng pháp luật để ngăn đe trừng trị. Như vậy không thể có chuyện mượn cớ bí mật sức khỏe để bỏ qua việc điều tra được. Trong trường hợp không có yếu tố phóng xạ, thì công luận và cá nhân Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc phải được thông tin giải oan, và là cơ hội để ông Phó Thủ Tướng truy tố kẻ vu khống và đòi bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp có yếu tố phóng xạ, thì đây là là một tội ác không thể khoan nhượng vì đã có người chết. Gia đình ông Thanh phải khởi tố. Nhà nước phải vào cuộc, điều tra kỹ lưỡng để tìm ra chính xác thủ phạm của vụ đầu độc này. Thủ phạm có phải là ông Nguyễn Xuân Phúc hay không, cũng là nhiệm vụ mà nhà nước phải làm rõ. Ngành công an Việt Nam, với số lượng nhân sự và phương tiện khổng lồ, vốn nổi tiếng về những vụ giết người, đánh người trong đồn công an hay đàn áp người dân bất đồng chính kiến, không thể bỏ qua cơ hội để phát huy đúng mức chức năng của mình khi làm sáng tỏ vụ án này. TKT Theo danluan.org
......

Bàn chuyện rời bỏ đảng

Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những đảng viên Cộng Sản còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào? Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên... những kẻ chỉ biết cúc cung phục vụ cái ác vì chút bổng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho. Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây: Điều thứ nhất Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi sinh mạng con người hết sức rẻ rúng. Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở trong Đảng Cộng Sản hay những người đã từng bị Đảng Cộng Sản đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì thấy rằng, quả là ĐCSVN “giết người như ngóe.” Ai chống đảng - đảng diệt! Ai chưa chống đảng, mà đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống đảng - đảng cũng diệt! Những người có quan điểm khác với đảng - nhất là người thuộc các đảng yêu nước không Cộng Sản - thì đảng cho “đi mò tôm,” tức là bỏ rọ trôi sông. Ai bị đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của đảng - chẳng cần chứng cớ gì hết, chẳng cần điều tra gì hết - đảng “thịt.” Người nơi khác lơ ngơ đi lạc vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của đảng - đảng “thịt” ngay, để giữ bí mật của đảng. Người cảm tình với đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của đảng mà không có ai trong ATK chứng nhận - đảng cũng “thịt.” Thậm chí, trong kháng chiến, người dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh, trắng, đỏ, đảng nghi là gián điệp - đảng “thủ tiêu.” Đã có biết bao nhiêu mạng người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên... của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả - thế là một, hai hay nhiều mạng người “đi toong”! Chính cái đầu óc “coi mạng người như ngóe” đó, mà đảng nhất quyết bác bỏ “nhân tính,” chỉ thừa nhận “giai cấp tính,” mà nghĩ cho cùng có khi đó lại là “thú tính.” Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là “địa chủ” trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm... đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế gọi là gì? “Giai cấp tính” ư? Rõ ràng là “thú tính”! Và cái lối tàn sát dân lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn Phát-Xít? Và như vậy, ĐCSVN có khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay? Thế nhưng, hễ ai - các nhà trí thức, các đảng viên của đảng - dám đề cao “nhân tính” thì đảng liền phê cho là “mất lập trường,” là tư tưởng xét lại, là quan điểm tư sản, phản động, là không có “đảng tính.” Chính vì thế mới xảy biết bao nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không Cộng Sản, như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v... những năm sau khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, để không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với đảng nữa. Ngay cả đối với những người yêu nước cùng ý hệ với đảng, nhưng khác về đường lối, như những người trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người Cộng Sản ở miền Nam, ĐCSVN cũng không tha - phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người trotskistes là “một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát-Xít Nhật và chủ nghĩa Phát-Xít quốc tế,” “đàn chó trotskistes,” “những kẻ đầu trâu mặt ngựa,” “những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác,” “kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ,” “bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất,” v.v... Những câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho trung ương (TƯ) đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn Hương, v.v... (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang (hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ, dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam (do Lý Ban “chỉ điểm”) và vụ giết oan mấy chục đảng viên Cộng Sản người Việt (trong vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp (có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh trương, trùm đạo, các nhà sư Phật Giáo...) sau khi Đảng Cộng Sản tiếp nhận miền Bắc (theo nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Nước VNDCCH do Chủ Tịch Trường Chinh ký ngày 20 tháng 6, 1961), còn sau 30 tháng 4 năm 1975 là vụ đánh lừa gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do lệnh gọi đi học của Uy Ban Quân Quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu Phát-Xít, mệnh danh là “trại cải tạo.” Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam-Đà Nẵng hồi 1975... Chính vì phủ nhận “nhân tính,” nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết hại thường dân “vùng địch.” Đặc biệt cần nói đến vụ Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm 1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho đảng, đã từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của đảng từng chiến đấu cho đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản đã phải thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một tội ác tày trời đối với dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó, vẫn ngụy biện tuyên bố “dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản.” Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng, về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí Thư (TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói, “Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.” Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam! Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu Đảng Cộng Sản thân Mao hồi đó coi thường sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ - mấy ủy viên TƯ đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội, gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu Cộng Sản, thì họ bị quy là “phần tử xét lại chống đảng,” bị vu khống “làm gián điệp cho nước ngoài” và bị đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong tù. Chính việc ĐCSVN phủ nhận “nhân tính” đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi đảng cũng coi thường tính mạng con người: Cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước đã phải kêu lên, “Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay.” Điều thứ hai Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt, chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của đảng. Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với “bạn đồng minh gần gũi, thân cận nhất” của đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu “người cày có ruộng.” Khi cần lôi kéo nông dân theo đảng làm cách mạng, Đảng Cộng Sản tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, Đảng Cộng Sản vẫn còn hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng gì trên mảnh đất mới được chia, thì Đảng Cộng Sản đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản trị, thực tế là Đảng Cộng Sản, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người “làm công ăn điểm” để rồi “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân,” v.v... Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi Đảng Cộng Sản đã nắm quyền trên cả nước, đảng liền thảo hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Tuyên bổ đất đai là “sở hữu toàn dân,” có nghĩa là Đảng Cộng Sản đã “quốc hữu hóa” đất đai, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của Đảng Cộng Sản là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, Đảng Cộng Sản thực tế đã tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt lại! Và cái lối “quốc hữu hóa,” nói đúng hơn là “đảng hữu hóa” này chỉ có lợi cho đám quan lại Cộng Sản cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu “dân oan” khốn khổ, hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi, khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi. Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam,” để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như Tổng Thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ Ngô Đình Nhu, v.v. và v.v... Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được sự thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng! Còn biết bao chuyện lừa dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là “nhà nước công nông,” “nông” thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn “công” thì đồng lương mà “nhà nước công nông” trả cho công nhân, viên chức là “đồng lương bóc lột,” “đồng lương chết đói,” thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là “chuyên chính vô sản,” thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái “chuyên chính” đó, chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố... khoác cái áo “vô sản lưu manh” (từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính Trị (BCT), làm TBT ĐCSVN, làm chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt “chuyên chính” mà đè đầu cưỡi cổ “thằng dân.” Nào là “dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân” - điều này chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa hẹn huy hoàng trong “Chương Trình Việt Minh”: xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,... nhưng khi Đảng Cộng Sản nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà báo Trần Đĩnh kể về “nghệ thuật” lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp nhiều vàng và nhà cửa cho Đẳng Cộng Sản. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban Tuyên Huấn TƯ muốn mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét rất hay: “Tố Hữu, nguyên trưởng Ban Tuyên Huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên mây.” Việc ĐCSVN cho công an lập ra những tổ chức “kháng chiến” cuội, “phục quốc” cuội để đánh lừa thanh niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù. Đó cũng là một tội ác kinh tởm. Trên đây là những chuyện đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào, nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: Ông có phải là Cộng Sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: không. Trả lời câu hỏi của báo Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: “Các bạn của chúng tôi không nên lo chủ nghĩa Mác-Xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi.” Trên báo Le pays ông cũng đã nói: “Những lý thuyết Mác-Xít không thể áp dụng ở nước chúng tôi được.” Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25 tháng 6, 1946, trả lời đảng viên xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, ông Hồ đã nói như sau: “Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés,” tạm dịch: “(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt.” Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu, và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm 1937-38 chửi bới thâm tệ những người trotskistes. Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp Định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm hiệp định ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các công ước quốc tế về nhân quyền, về chống tra tấn, v.v. và v.v... càng nổi bật sự gian trá quen thuộc của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được? Điều thứ ba ĐCSVN thực tế là một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền, để củng cố quyền lực độc tài toàn trị đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với Đảng Cộng Sản hoặc đánh quỵ mọi thành phần có tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi trong là tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô sản, thực ra là của Đảng Cộng Sản (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ quan nhà nước - lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, v.v..., trong tất cả các đoàn thể xã hội, trong tất cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của đảng... đều phải do các đảng viên Cộng Sản nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, v.v... nhưng đảng viên Cộng Sản hay đảng đoàn Cộng Sản những nơi đó vẫn là người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ “làm vì.” Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống đối đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì Đảng Cộng Sản chủ trương phải “cải tạo” họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ rồi, nên đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức bằng cách “chỉnh huấn,” rập khuôn theo bài bản “chỉnh phong” của Mao Trạch Đông. Trong “chỉnh huấn,” buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là “đối tượng của cách mạng” như địa chủ, tư sản... thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình. Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản, tức là Đảng Cộng Sản, và anh ta sẽ được đảng sử dụng. Tuy vậy, đảng vẫn không hoàn toàn tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với đảng thì đảng ghi vào hồ sơ lý lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được đảng sử dụng, nhưng bao giờ đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là “chủ nghĩa thành phần.” Cái “chủ nghĩa” quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ vào đại học hay đi nước ngoài. Cái “chủ nghĩa” này đã hủy diệt biết bao tài năng của tuổi trẻ! Giáo Sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái “chủ nghĩa” này. Còn nếu người trí thức có thái độ ngang bướng, không phục tùng đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý lãnh đạo thì đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm” hồi giữa những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh “Nhân Văn-Giai Phẩm” là cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó, què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của dân tộc. Còn việc cải tạo công thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất, cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa Đảng Cộng Sản đã giáng xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của đất nước làm cho nó càng thêm suy bại. Mặc dù Đảng Cộng Sản đã độc quyền thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội, đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLiên Xô dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev đã đưa điều 6 vào HP Liên Xô 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980. Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ đảng, nhằm chặn đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa. Cũng nên thấy rằng một khi Đảng Cộng Sản cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị Cộng Sản đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị Cộng Sản. Trước đây, khi mới cầm quyền, dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào Đảng Cộng Sản, họ không cần đưa điều đó vào HP mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên BCT khác đều nói: “Bỏ điều 4 HP là tự sát!” Nhưng đó cũng chính là tiên triệu báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLiên Xô đưa điều 6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLiên Xô tan tành! Vì thế, ngày nay, các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ Cộng Sản họ Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân Dân ngày 29 tháng 1, 2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ Chức TƯ triệu tập ngày 27 tháng 1, 2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ Chức TƯ đã cho biết cuộc họp Ban Chấp Hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại Hội XII, và danh sách 22 ủy viên BCT và ủy viên Ban Bí Thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một “sáng kiến tân kỳ,” chưa từng thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều Lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp tới đã được hội nghị TƯ đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại Hội Toàn Quốc lần thứ XII cả trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban Chấp Hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi, quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ. Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi. Điều thứ tư Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân, cho nước. ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái “công” đó chưa hẳn là công thật. Đảng thường tự hào là đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách Mạng tháng 8. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức là Đảng Cộng Sản) đã cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, họ không phải là “chính phủ bù nhìn” cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của Đảng Cộng Sản đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3, 1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều kiện phức tạp hồi bấy giờ, chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: Đã cố thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh niên, sinh viên (tổ chức Thanh Niên Tiền Tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt chính trị, xã hội... Đại diện của chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại diện của Việt Minh (Đảng Cộng Sản) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của Đảng Cộng Sản là: Đảng Cộng Sản phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền. Đảng Cộng Sản thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu Đảng Cộng Sản có chính sách mềm dẻo hơn thì chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ tiếp tục đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp (theo Hiệp Định Sơ Bộ – 6 tháng 3, 1946) mà đấu tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái “công” đó cũng chưa hẳn là công thật. Đảng Cộng Sản còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... đã phát động, do sự xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về cái tội đã phát động cuộc nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái “công” này không phải là công mà chính là tội, tội ác. Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn “Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La,” chửi Liên Xô là “xét lại hiện đại,” rồi lại kình địch với Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng Campuchia; Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo Liên Xô, tuyên bố coi Liên Xô là tổ quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi Liên Xô là “xét lại hiện đại”) cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương Trợ với Liên Xô. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt đường biên giới phía Bắc, Đảng Cộng Sản lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô, Trung Quốc (3-4 tháng 9, 1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu “vòng kim cô” “mười hai chữ vàng” của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên “thái thú” nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc; mặc cho Trung Cộng làm mưa làm gió trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo... Còn trên đất liền thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của tổ quốc, trên diện tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc đang “chiếm cứ” ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm. Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại đại học Việt Nam. Một điều đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của đảng đã đưa sang đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam. Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cấm quyền ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt. Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc-Nam chấm dứt, một thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, đất nước đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời “đổi mới” có dễ chịu hơn một chút, kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà đảng lại cứ kiên trì cái phương châm trái khoáy: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,” cho nên dù có những tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sụ tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia, Malaysia, v.v... ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn. Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét chống tham nhũng, dọa sẽ “hốt, hốt hết,” nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị, không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu vụ bị tố cáo đều đã “chìm xuồng,” mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm tố cáo thì lại vô tù. Dưới chế độ toàn trị của Đảng Cộng Sản, quyền công dân cũng như quyền con người không hề được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong lúc đó Đảng Cộng Sản lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu, hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: “Hãy nhìn vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm... lại được tôn vinh trước thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối, người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?” Đấy, kết quả nhãn tiền của “đạo đức Cộng Sản” và việc “xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa” của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó. Điều thứ năm ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế giới, nhìn đất nước và dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch lạc. Chủ Nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế mà cho đến ngày nay, từ đại hội đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi “phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin.” Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu lên “mãi mãi cái loa rè,” “già rồi đâm lú.” Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại “hai phe, bốn mâu thuẫn,” cái công thức từ đời xửa đời xưa Cộng Sản dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo. Cái thói quen của họ là bắt chước “hai ông anh,” cứ Liên Xô, Trung Quốc làm gì thì rập khuôn làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên Đảng Cộng Sản mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh vang tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người.” Nhìn vào thực tế thì thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên “đổi mới, nhưng không được đổi màu.” Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham nhũng! Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì tổ quốc và dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài... Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: Có nên tiếp tục ở trong cái Đảng Cộng Sản này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với dân tộc. Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị dân tộc và đất nước. Cái đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà. Ngày nay, ĐCSVN đang là khối u ác tính bám vào cơ thể dân tộc, cơ thể đất nước. Nếu không dũng cảm làm một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì dân tộc và đất nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng Đảng Cộng Sản từng rêu rao và hứa hẹn? Chính lúc này là lúc phải quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội đảng kỳ tới sẽ có thay đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: “Vô ra vẫn thằng cha lúc nãy!” Đại hội đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, “vô ra vẫn thằng cha lúc nãy” thôi. Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. “Vòng kim cô” trên đầu bạn sẽ biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho tổ quốc và dân tộc. Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng và nhiều người khác... đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái, vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do. Theo nguoi-viet.com
......

Sự suy thoái của Đảng CSVN nhìn từ vụ Báo Người Cao Tuổi

Sự “tố cáo” những sai phạm lẫn nhau giữa Bộ Truyền thông & Thông tin (Bộ 4T) và Hội Người cao tuổi liên quan đến vụ thanh tra “đột xuất’ của Bộ về các bài báo loan tải trên báo Người cao tuổi trong mấy ngày vừa qua, cho thấy là có điều gì không ổn, không chỉ trong việc quản lý ngành thông tin hiện nay, mà còn biểu hiện sự suy thoái, bệ rạc trong bộ máy thống trị của Hà Nội sau 70 năm cầm quyền. Trong các chế độ độc tài, truyền thông là một vũ khí quan trọng không thua gì bạo lực công an. Nó không chỉ trấn áp đối phương mà còn có khả năng kết tội và làm “bầm dập” cuộc đời của nhiều nạn nhân, trước khi an ninh nhập cuộc. Hình ảnh 800 tờ báo, cơ quan truyền thanh nằm dưới sự chi phối của một tổng biên tập đã nói lên sức mạnh tuyệt đối của Bộ 4T và Ban Tuyên giáo trung ương. Nhưng các biện pháp nửa vời của Bộ 4T đối với báo Người cao tuổi như rút thẻ báo chí của Tổng biên tập Kim Quốc Hoa, thu hồi tên miền nguoicao tuoi.org.vn; nhưng lại vẫn cho duy trì báo in cho thấy Bộ 4T chưa “dám đụng” đến Hội Người cao tuổi. Thanh Tra “Đột Xuất” Trong cuộc họp báo ngày 9/2, ông Trương Minh Tuấn, Thứ trưởng Bộ 4T cho biết vụ thanh tra khởi đầu từ việc Hội Người cao tuổi đề nghị khen thưởng ông Kim Quốc Hoa là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, và Ban Thi đua khen thưởng Trung ương vào đầu tháng 11/2014 đã có công văn gửi Bộ 4T, thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, đề nghị chấp thuận khen thưởng. Tuy nhiên, theo ông Trương Minh Tuấn thì vì có quá nhiều sai phạm nên Bộ 4T không chấp nhận việc khen thưởng. Sự kiện này đã khiến cho bà đại biểu quốc hội Cù Thị Hậu, chủ tịch Hội người cao tuổi lên tiếng bất bình và yêu cầu Bộ 4T phải chỉ rõ sai phạm. Chính sự đòi hỏi của Cù Thị Hậu, Bộ 4T đã ra quyết định thành lập Đoàn thanh tra “đột xuất” bắt đầu ngày 7/11/2014 đến ngày 7/2/2015, kéo dài 64 ngày. Theo Đoàn thanh tra Bộ 4T cho biết là trong thời gian 2 năm 2013 – 2014, Bộ đã nhận rất nhiều thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến nội dung thông tin trên báo in và trang thông tin điện tử của báo Người cao tuổi. Nội dung trong các thư khiếu nại cho rằng báo Người cao tuổi đã thông tin sai sự thật, làm lộ bí mật nhà nước, gây hoang mang dư luận. Thời gian mà Bộ 4T nói rằng họ nhận nhiều thư khiếu nại, tố cáo chính là lúc mà báo Người cao tuổi bắt đầu phanh phui “biệt thự khủng” của nguyên thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền tại Bến Tre vào cuối năm 2013. Liên tục trong nhiều số báo năm 2014, báo Người cao tuổi đã tiếp tục phanh phui tài sản của gia đình ông Trần Văn Truyền gồm những căn biệt thự và nhà đất ở Bến Tre và thành phố Sài Gòn. Ngoài ra, tờ báo còn kê khai rằng trước khi về hưu, chỉ trong vòng 5 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2011, Trần Văn Truyền đã bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp vụ và tương đương. Đương nhiên khi tin tức này được công bố, ông Truyền đã chối bỏ và lãnh đạo CSVN im lặng. Trong kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa 13 vào ngày 12/6/2014, một số đại biểu đã chất vấn ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng thanh tra chính phủ hiện nay, về vụ việc ông Trần Văn Truyền, người tiền nhiệm của ông Phong, thì ông Tranh nói rằng: “khi còn đương nhiệm, ông Trần Văn Truyền đã kê khai tài sản đầy đủ và không có dấu hiệu thiếu trung thực”. Phát biểu của ông Huỳnh Phong Tranh đã như đổ dầu thêm vào lửa, khiến cho dư luận càng chú ý đến vụ tham ô của Trần Văn Truyền. Do đó mà ngày 24/7/2014, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã điều động cán bộ đến kiểm tra và xác minh tài sản của ông Trần Văn Truyền. Đoàn thanh tra làm việc kéo dài đến 3 tháng. Đến ngày 20/11/2014, Đoàn kiểm tra đưa ra kết luận thu hồi 6 căn nhà và đất tại Bến Tre và Sài Gòn mà ông Trần Văn Truyền đã chiếm; trong số nhà tịch thu này, không có “căn biệt thự khủng” mà báo Người cao tuổi phanh phui đầu tiên vì Ủy ban kiểm tra cho là của người con trai ông Truyền. Ngày 6/12/2014, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trì cuộc họp kiểm điểm ông Trần Văn Truyền. Đa số thành viên của Tỉnh ủy đều cho là "sai phạm của ông Truyền đã đến mức phải xử lý kỷ luật và báo cáo về Ủy ban kiểm tra trung ương". Ngày 30/12/2014, Ban bí thư đã ra thông báo về quyết định kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo ông Trần Văn Truyền. Vụ án “biệt thự khủng” của ông Trần Văn Truyền tưởng như đóng lại từ cuối năm 2014 sau khi Ban bí thư đưa ra kết luận; nhưng thực tế vẫn còn ầm ĩ . Thứ nhất, những người đứng sau báo Người cao tuổi không hài lòng quyết định kỷ luật “cảnh cáo” của Ban bí thư đối với ông Trần Văn Truyền. Đây là quyết định bao che theo kiểu ‘đánh chuột sợ vỡ bình” của Nguyễn Phú Trọng và coi thường công luận khi đảng giương cao ngọn cờ chống tham nhũng hiện nay. Thứ hai, những người đang nắm bộ máy đảng thấy khó chịu khi những cán bộ về hưu trong Hội Người cao tuổi đã dùng áp lực của dư luận - qua việc phanh phui các vụ án tham nhũng trên mạng internet - gây thanh thế và làm suy giảm tư thế lãnh đạo thượng tầng. Chính trong thế trận ầm ĩ đó, Ban bí thư đã phải dùng Bộ 4T để tìm cách đánh sập những người đứng đằng sau báo Người cao tuổi. Ai Đứng Sau Báo Người Cao Tuổi Báo Người cao tuổi là cơ quan thông tin của Hội người cao tuổi. Vì thế những thông tin, bài vở trên báo Người cao tuổi nằm trong sự chủ quản của Hội người cao tuổi. Đây không phải là một đoàn thể quần chúng bình thường. Nó là một đoàn thể ngoại vi của đảng CSVN nằm trong Mặt trận tổ quốc và có nhiệm vụ đoàn ngũ hóa những người lớn tuổi. Vì thế mà Hội có trụ sở riêng, có ngân sách riêng và nhất là có đảng ủy riêng để lèo lái các hoạt động của Hội. Hội người cao tuổi hiện được lãnh đạo bởi chủ tịch là bà Cù Thị Hậu, đại biểu quốc hội, anh hùng lao động và 3 phó chủ tịch là ông Đàm Hữu Đắc, Phạm Thị Sơn, Nguyễn Trọng Vinh cùng với một ban thường vụ gồm có 15 người. Điểm đặc biệt của Hội người cao tuổi là có một ban chấp hành trung ương rất hùng hậu. Ngoài danh sách các Chủ tịch Hội tại các Tỉnh, Thành trên cả nước, còn có sự tham dự của đại diện của một số đoàn thể lớn nằm trong Mặt trận tổ quốc như Trung tướng Nguyễn Song Phi, Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam; Võ Văn Cận, Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam; Lưu Duy Dần, Hiệp Hội Làng nghề Việt Nam; Nguyễn Văn Đắc, Câu lạc bộ hưu trí Bộ Ngoại giao; Vũ Hoan, Hiệp Hội Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam; Linh mục Phan Khắc Từ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam; Võ Văn Trác, Hội Làm vườn Việt Nam; Trần Hữu Thăng (Hội Y học Việt Nam); Lê Thắng (Câu lạc bộ Sĩ quan Bộ Công an) vân, vân…. Ngoài ra Hội người cao tuổi còn là nơi quy tụ những thành phần cựu cán bộ cao cấp từng ở trong đảng, nhà nước, chính phủ tham gia sau khi về hưu. Thành phần “lão thành cách mạng” này không chỉ là những nhân tố giúp cho Hội người cao tuổi có tiếng nói và tư thế lớn đối với các đoàn thể khác, mà còn là nơi “lưu giữ” những thông tin nhạy cảm của các cán bộ cao cấp đã về hưu hay còn tại chức. Chính nhờ luồng thông tin nhạy cảm và chỗ dựa vững chắc này mà trong 5 năm qua, báo Người cao tuổi đã phanh phui hơn 1500 hồ sơ tham nhũng từ cấp địa phương lên đến cấp trung ương. Nhờ đặc điểm này mà báo Người cao tuổi đã qua mặt nhiều báo khác và có một vị trí đặc biệt trong làng báo Việt Nam hiện nay. Dùng Áp Lực Bên Ngoài Những diễn biến nói trên cho thấy là hệ thống quyền lực của đảng CSVN đang có vấn đề rất lớn. Thay vì dùng quyền lực đảng để giải quyết, mỗi bên lại viện dẫn luật pháp để đổ tội sai phạm cho nhau và dùng dư luận bên ngoài để tạo áp lực bên trong. Bộ 4T đã dùng một số báo chí thân cận loan tải những nội dung bênh vực các lập luận của họ. Ngược lại bà Cù Thị Hậu, ông Kim Quốc Hoa tán phát ba bài chỉ trích những sai phạm của Bộ 4T lên mạng xã hội và kể cả báo in qua hệ thống của Hội ở các Tỉnh, Thành. Bà Cù Thị Hậu còn nhanh chóng lên tiếng phản bác những kết luận sai trái của Bộ 4T, cho rằng đoàn thanh tra có dấu hiệu quy chụp, thiếu dân chủ. Mấu chốt của những tố cáo “sai phạm” giữa Bộ 4T và báo Người cao tuổi hiện nay chính là vấn đề “xử lý” nạn tham nhũng. Trận chiến này đã được ông Nguyễn Phú Trọng tung ra từ cuối năm 2011 nhằm tấn công phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng, nhưng nay đã trở thành vấn nạn cho chính đảng CSVN, vì phe nào cũng nhân danh “chống” và “xử lý” tham nhũng để bôi nhau. Muốn bôi nhau hiệu quả hầu khuynh loát được quyền lực, các phe đã dùng “dự luận bên ngoài” để “gây áp lực bên trong” vì quá khứ cho thấy là những vụ điều tra, truy tố không mấy hiệu quả do hiện tượng bao che lẫn nhau. Sự ra đời của những trang Blog Quan Làm Báo và Tư Sang Nham Hiểm vào năm 2012 là đợt mở đầu “dùng dư luận bên ngoài” tấn công bên trong bằng cách tiết lộ một số thông tin nhạy cảm của Nguyễn Tấn Dũng hay Trương Tấn Sang. Gần đây là sự xuất hiện của Blog Chân Dung Quyền Lực ngay vào lúc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội đảng 12 vào cuối năm 2014, phanh phui những tin tức nhạy cảm của gia đình Nguyễn Xuân Phúc, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Bá Thanh hay tấn công uy tín của Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang để khuấy động dư luận hầu tạo áp lực bên trong. Đây không phải là sáng kiến mới lạ mà hầu hết các phe nhóm trong những chế độ độc tài cộng sản đã xử dụng để tấn công lẫn nhau và nhất là để dồn trách nhiệm, trước khi hạ gục một đối thủ nào đó. Hai năm trước khi sụp đổ vào các năm 1986 và 1987, các phe nhóm trong những chế độ cộng sản tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức cũng đã tung ra những tin tức tham nhũng, cuộc sống giàu sang, hưởng thụ của một số ủy viên Bộ chính trị qua truyền đơn, bài viết nặc danh để đòi hỏi đảng phải điều tra. Đương nhiên cấp lãnh đạo thì kết án những loại tin này là độc hại, ra lệnh ngăn chận, tẩy chay; nhưng điều tác hại khó lường của các diễn biến nói trên là nội bộ đảng không còn tin tuyệt đối vào cấp lãnh đạo và bắt đầu đòi hỏi mọi quyết định phải mang ra thảo luận và biểu quyết ở trung ương. Khi quyền lực tuyệt đối không còn nằm trong tay Tổng bí thư hay Bộ chính trị mà phải chuyển dần sang cho Trung ương đảng với nhiều phe nhóm chi phối, kể cả những thành phần lãnh đạo đã về hưu nhảy vào khuynh loát, sự lãnh đạo và các quyết định của đảng sẽ liên tục bị thay đổi và rơi vào thế lúng túng trước những áp lực đòi chấn chỉnh của người dân, trước khi sụp đổ. Tại hội nghị 10 của Trung ương đảng vào đầu tháng 1/2015, đảng CSVN đang rơi vào vết mòn của Đông Âu cách nay 28 năm. Đó là lần đầu tiên, Trung ương đảng CSVN bỏ phiếu đề cử 22 thành viên Bộ chính trị và Ban bí thư, cũng như 229 thành viên Trung ương đảng cho nhiệm kỳ 2016-2021 mà không chờ đến đại hội đảng 12 vào tháng 1/2016. Trước đây trách nhiệm tuyển chọn nhân sự thường nằm trong tay Tổng bí thư đảng và Bộ chính trị. Nay trách nhiệm này rơi vào tay Trung ương đảng cho thấy là hệ thống quyền lực của đảng CSVN thật sự đang rơi vào sự chi phối của nhiều nhóm ảnh hưởng, chứ không còn tập trung trong tay vài thành viên Bộ chính trị. Chính sự chuyển hóa quyền lực này đã và đang manh nha xuất hiện qua sự đối đầu giữa Bộ 4T và báo Người cao tuổi mà trước đây chưa hề xảy ra. Đây không đơn thuần là sự bất bình về cách làm việc giữa hai cơ quan, mà là sự đối đầu của hai nhóm người quyền lực muốn gia tăng ảnh hưởng bằng cách dùng áp lực bên ngoài để tranh giành thế chủ đạo của mình. * Cuối cùng có thể ông Kim Quốc Hoa sẽ phải rời trách nhiệm Tổng biên tập báo Người cao tuổi để tránh những tổn thương quyền lực của Bộ 4T, nơi mà CSVN đang cố giữ chặt để khống chế dư luận. Nhưng ông Kim Quốc Hoa và khối nhân sự từng nắm những thông tin nhạy cảm trong Hội người cao tuổi sẽ không chịu thua. Đây là lúc nhiều trang Blog phanh phui tham nhũng sẽ xuất hiện để dùng những áp lực bên ngoài thu hẹp dần khả năng kiểm soát của chế độ lên xã hội. Lý Thái Hùng Ngày 15/2/2015 Theo viettan.org
......

Việt Nam chỉ giả vờ thông qua những biện pháp bảo vệ Nhân quyền của LHQ

Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn, việc này được ca ngợi bởi Văn phòng Cao ủy LHQ về Nhân quyền tại Bangkok là "một bước đi quan trọng nhằm bảo đảm việc phòng ngừa và ngăn cấm việc tra tấn." Nhưng bất chấp bao nhiêu điều ước quốc tế chế độ này đã ký kết, điều kiện nhân quyền trong nước vẫn không thay đổi và trong thực tế, việc phê chuẩn này chỉ được sử dụng như nước cờ tuyên truyền. Việt Nam đã ký kết gần như tất cả các công ước bảo vệ nhân quyền mà thế giới đã từng ban hành. Trong thực tế, việc hăng hái phê chuẩn các công ước của Liên Hợp Quốc không phải là điều gì mới. Khoảng năm 1982, Việt Nam trở thành thành viên của Công ước LHQ về các quyền Dân sự và Chính trị. Điều đó đã không thể dừng việc chà đạp nhân quyền của chính quyền này. Theo Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế, Việt Nam có số lượng tù nhân chính trị cao nhất - 212 - ở khu vực Đông Nam Á. Báo cáo Nhân quyền gần đây nhất của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu ra thực trạng đáng quan ngại, rằng "những vi phạm nhân quyền cụ thể bao gồm sự ngược đãi liên tục của công an đối với nghi phạm trong thời gian bắt giữ bao gồm cả việc sử dụng vũ lực gây chết người cũng như điều kiện nhà tù khắc khổ; bắt bớ và giam giữ tùy tiện vì các hoạt động chính trị; và từ chối quyền được xét xử công bằng và nhanh chóng. Bản chất chính trị, nạn tham nhũng trầm kha, và sự quản lý kém hiệu quả tiếp tục bóp méo đáng kể hệ thống tư pháp. "Chính quyền này giới hạn tự do ngôn luận và báo chí và đàn áp các nhà bất đồng chính kiến; ngày càng hạn chế tự do internet; tiếp tục dính líu vào các cuộc tấn công các website chỉ trích theo như các báo cáo; duy trì giám sát các nhà bất đồng chính kiến; và tiếp tục hạn chế các quyền riêng tư và các quyền tự do hội họp, lập hội và đi lại". Từ năm 1982 đến nay, không có con số chính thức những người tìm cách chạy trốn khỏi đất nước nhưng bị bắt, bị đánh đập, bỏ tù và thậm chí bị giết. Không có con số chính thức và chính xác của các nạn nhân đã bị bức hại vì đã bày tỏ sự bất mãn với chính quyền. Chúng tôi càng mù tịt về những vụ việc chính quyền và công an tra tấn người dân thường. Chỉ biết rằng một bầu không khí vô cùng ngột ngạt đối với đa số người dân Việt Nam vẫn còn tồn tại ngay cả sau khi Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị đã có hiệu lực. Không phải hoàn cảnh khốn cùng đẩy hàng trăm ngàn người dân vượt biển mà chính là chế độ áp bức và chà đạp Nhân quyền trắng trợn của những kẻ say men chiến thắng sau mùa xuân năm 1975. Không ngạc nhiên khi tổ chức Phóng viên Không Biên giới xếp Việt Nam là kẻ thù của Internet. Gần đây, Freedom House, một tổ chức nhân quyền có trụ sở tại Hoa Kỳ, công bố bản Báo cáo "Tự do trên thế giới 2015", trong đó Việt Nam vẫn được xếp hạng là một đất nước không có tự do, điều này hiển nhiên đặt ra sự nghi ngờ là Việt Nam ký các công ước bảo vệ nhân quyền để làm gì. Mặc dù chính quyền tiếp tục vi phạm các công ước mà họ đã ký kết, Liên Hợp Quốc và các định chế nhân quyền của nó không có biện pháp thích hợp để đối phó, cho phép Việt Nam tiếp tục ký kết và vi phạm chúng. Không ai có lợi, ngoại trừ chế độ độc tài. Bằng chứng là, từ cuối năm 2013, khi Việt Nam đã trở thành một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, cho đến nay những người lên tiếng phản đối đã bị bắt và bị kết án, Facebook bị chặn, các trang web truyền thông tự do bị đặt tường lửa, các địa chỉ email bị hack và các blogger nổi tiếng từng người một bị bắt giữ. Rõ ràng, Cao ủy Nhân quyền LHQ đóng một vai trò rất khiêm tốn trong việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam. Ngày 23 tháng 10 năm 2014 khi ông Trương Tấn Sang gửi Công ước chống Tra tấn để Quốc hội phê chuẩn, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang nhấn mạnh rằng: "Chúng tôi không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước chống tra tấn tại Việt Nam." Và Quốc hội bù nhìn đã không có việc gì để làm ngoài việc ủng hộ chính phủ, đó là truyền thống lâu đời của cái định chế lập pháp này. Như vậy, sau lưng của Liên Hợp Quốc, chính quyền Việt Nam đã tìm cách để vô hiệu hóa Công ước. Việc thực hiện Công ước một cách đầy đủ đòi hỏi sự hiện diện và sự kết hợp hoạt động của nhiều định chế: Công an, viên kiểm sát, tòa án, truyền thông tự do và xã hội dân sự. Dưới hệ thống độc đảng hiện nay, các định chế này được quản lý bởi Đảng Cộng sản. Công an phạm tội mà không bị trừng phạt. Đối với những người bất đồng chính kiến, công an luôn được lệnh phải theo dõi, bắt giữ, đánh đập và khủng bố tinh thần. Viện kiểm sát và tòa án chỉ là hai bông hoa giả để trang trí cho chế độ. Nếu không có một nền pháp trị và các cơ chế để ngăn chặn và trừng phạt những kẻ tra tấn không tồn tại, thử hỏi, lấy nền tảng nào để thực hiện Công ước chống Tra tấn. Đất nước này có tất cả các định chế mà một xã hội dân chủ có thể có, đặc biệt là xã hội dân sự. Nhưng tất cả đều là giả tạo, điều này gây khó khăn cho người dân để nhận thấy được sự cần thiết phải xây dựng những định chế thực sự. Nhà cầm quyền sử dụng những định chế giả để chuyển hướng sự chú ý quốc tế và tước đoạt của người dân sự tài trợ từ quốc tế. Theo nguyên tắc, khi tham gia vào sân chơi quốc tế, chấp nhận sự ràng buộc của các Công ước quốc tế, nước kí kết phải có những biện pháp minh bạch, công khai và có thể kiểm chứng được để tạo ra các định chế mới nhằm nâng đỡ cho việc thực hiện bản Công ước, đồng thời sửa đổi các văn bản luật pháp quốc gia sao cho phù hợp với nguyên tắc và quy chuẩn luật pháp quốc tế. Quyết định của chính phủ “không áp dụng trực tiếp quy định của Công ước chống tra tấn tại Việt Nam” không là gì khác ngoài một luận điệu mập mờ, nước đôi nhằm mở ra con đường khác tạo điều kiện cho họ tiếp tục sử dụng tra tấn như một công cụ đàn áp đối lập và ngăn chặn phong trào đòi dân chủ tự do tại Việt Nam. Ở Việt Nam, Hiến pháp không bằng các bộ luật, các bộ luật không bằng các sắc lệnh dưới luật… Một luật gia Việt Nam từng tuyên bố rằng: “Ở Việt Nam có cả một rừng luật nhưng chỉ sử dụng luật rừng” xuất phát từ bối cảnh đó. Ấy vậy thì một Công ước như Công ước chống Tra tấn liệu có nghĩa lý gì?! Không lẽ Liên hiệp quốc đổ tiền của, nhân lực và thời gian ra để soạn thảo một văn bản luật quốc tế công phu như vậy chỉ để làm vật trang trí cho các chế độ độc tài như Việt Nam ?! Việt Nam là quê hương của hơn 90 triệu con người. Chúng tôi, những người hoạt động nhân quyền vẫn sẽ tiếp tục dấn thân tranh đấu cho Nhân quyền , Nhân phẩm và Tự do cho người dân chúng tôi bất chấp có các công ước bảo vệ nhân quyền hay không, bất chấp có nhân được sự quan tâm của Liên hiệp quốc và các định chế nhân quyền của nó hay không. Thế nhưng, tại sao Liên Hiệp Quốc lại chỉ đóng một vai trò mờ nhạt như thế trong lịch sử nhân loại? Phải chăng, nó không là gì hơn ngoài việc là một định chế bảo tồn cái nguyên trạng thế giới hậu đệ nhị thế chiến? Huỳnh Thục Vy Buôn Hô, tháng 2 năm 2015 Thục Vy xin chia sẻ với niềm vui nho nhỏ của mình nhân ngày cuối năm. Bài viết của Thục Vy về việc Việt Nam tuyên bố không áp dụng trực tiếp Công ước chống Tra Tấn của Liên hiệp quốc đã đăng trên trang tiếng Anh Asia Sentinel. http://www.asiasentinel.com/…/vietnam-passes-sham-un-right…/ Theo FB Viettan  
......

Dân oan 15 tuổi bị côn an siết cổ bất tỉnh

Chiều 10 tháng 2 năm 2015, tại chợ huyện Thạnh Hoá, tỉnh Long An, côn an đã dùng dây siết cổ bé trai 15 tuổi Nguyễn Mai Trung Tuấn tới bất tỉnh. Em là con của dân oan Mai Thị Kim Hương. Sau nhiều năm làm dân oan từ năm 2009, phương tiện sinh sống hiện nay của gia đình 4 người là một chiếc xe đẩy bán nước mía, trên một nơi chỉ rộng  10 mét vuông trong khu chợ. Nguồn thu nhập duy nhất của gia đình Tuấn mỗi ngày là khoảng 15 ly nước mía được bán với giá 5,000đ một ly (25 cent). Côn an đến giăng dây cô lập khu vực 10 mét vuông  đó để cấm gia đình buôn bán. Em Nguyễn Mai Trung Tuấn đã bảo vệ mẹ và chỗ bán. Em cầm sợi dây và tròng vào cổ, nói với lực lượng côn an rằng, muốn giết thì cứ giết em, đừng hủy hoại nguồn sống duy nhất của gia đình em. Tên côn an giật sợi dây trên tay em và siết cổ em đến ngất lịm. Hiện em đang được điều trị tại nhà bởi không có phương tiện đi bệnh viện. Ở khắp mọi nơi trên đất nước hiện nay, chỗ nào có cái gọi là trụ sở tiếp công dân đều thấy tụ tập hàng chục, hàng trăm dân oan. Họ ăn chực nằm chờ, năm này qua tháng kia, họ căng lều, căn bạt, người màn trời chiếu đất để nhất quyết đòi chính quyền giải quyết những nỗi oan khiên của họ.  Thật là tội nghiệp cho người dân thấp cổ bé miệng, bất lực trước cường quyền. Đi đòi công lý ở nơi không hề có công lý thì bao giờ đòi cho được!   https://www.facebook.com/video.php?v=646709672108109
......

Người Công giáo tốt là người biết tham gia chính trị

Trang nhà xin được gửi đến các quý vị bài viết của anh Gioan Lê Quang Vinh đăng trên Website  Dòng Chúa Cứu Thế để hiểu rõ thêm về giáo huấn của giáo hội CG mà nhiều người đã hiểu sai lạc, nhất là một số bạn trẻ CG. =========  KHÁI NIỆM Chính trị, hiểu đơn giản nhất là việc trị nước hay lo việc chung cho toàn xã hội. Làm chính trị là thuật ngữ để chỉ tất cả những hoạt động có liên quan đến việc trị nước giúp đời, xưa gọi là kinh bang tế thế. Theo nghĩa hẹp, làm chính trị là tham gia vào các thể chế phục vụ đất nước trong hệ thống chính quyền. Ở những xã hội mà nhà cầm quyền không muốn người dân quan tâm đến việc trị nước của họ, do bản chất độc tài toàn trị hay do yếu kém về nội lực, thì chính trị được hiểu như là việc thay đổi hệ thống cai trị. Và do đó, những hành động đóng góp xây dựng công ích đều bị gán cho từ “chính trị”, coi như hành động đen tối và đáng lên án. Trong bối cảnh đó, các khái niệm bị đánh tráo, và người dân chỉ muốn an thân làm ăn (dù làm không an và thân không có ăn). Nghe những từ “chính trị”, “làm chính trị”, thì người dân sợ hãi. Họ quên mất rằng mỗi người công dân có bổn phận xây dựng quê hương, góp phần đem lại công lý hòa bình thật sự cho xã hội. Hài hước nhất và cũng bi đát nhất là việc những người dám lên tiếng thực hành điều Giáo huấn Xã hội Công giáo dạy là “lên tiếng tố cáo bất công” liền bị gán cho từ “phản động”. Từ này nghĩa gốc là chống lại sự tiến bộ. Nhưng trong xã hội độc tài toàn trị, nó được gán cho những người yêu quê hương đất nước, muốn thúc đẩy xã hội tiến bộ. Có những người tự nhận mình là trí thức, nhưng khi thấy ai có tâm huyết lo việc xã hội thì cũng gọi người ta là phản động. Trên các mạng xã hội, người ta đọc thấy những comment chê trách các linh mục rằng “tu hành thì lo việc nhà thờ, đừng dây vào chính trị”, khi các linh mục này lên tiếng cho công lý hòa bình. Sự ngu dốt và hèn hạ ấy làm cho đất nước thiệt thòi rất nhiều, đồng thời làm bàn đạp cho sự tàn ác nẩy mầm và vươn cao. Một trong những khí cụ mà xã hội này dùng để kết án con người là cắt xén. Vầng trăng có thể xẻ làm đôi, nhưng một câu nói hay một đoạn văn, nhất là một định nghĩa thì không thể cắt xén được. Mọi cắt xén để phục vụ cho những ý đồ sai trái là tội ác, hay ít ra là trái ngược với liêm sỉ trí thức. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã “bị cắt xén” một cách thô bạo và bây giờ toàn thể lương tri nhân loại đã nhìn thấy sự thật. Đức Thánh Cha Benedictô XVI bị cắt rời câu nói “một người Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt” không theo kiểu người ta cắt xén Đức Tổng Giuse, nhưng bị cắt theo kiểu định nghĩa sai lạc. Gần đây nhất, trong vụ việc tại Mỹ Luông, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp và các vị chủ chăn của giáo phận Vinh cũng bị cắt xén cách này cách khác. Vậy thế nào là một người Công giáo tốt theo đúng ý nghĩa mà Chúa Giêsu là Hiền Thê của Người là Hội Thánh giảng dạy? Và bổn phận người Công giáo đối với “chính sự” ra sao? Nhân đây xin chú ý một nguyên tắc: người ngoài một tổ chức không có tư cách để quy định bất cứ điều gì về thành viên của tổ chức đó, dù họ có thể nhận xét hay phê bình. Chẳng hạn một người đi đường không thể vào một trường học để quy định: giáo viên tốt của trường phải là một giáo viên biết nhảy đầm (!). Cũng tương tự như thế, không có một con người hay tổ chức nào của thế gian u tối có quyền quy định tư cách “công dân Nước Trời”. Anh không thể là một người vừa chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội, vừa lên mặt định nghĩa “người Công giáo tốt”. Vậy chúng ta phải hiểu “Người Công giáo tốt là một người công dân tốt” như thế nào? Người Công giáo tốt là người công dân tốt Người Công Giáo tốt trước hết là người yêu mến Chúa và luôn tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật yêu thương. Lý tưởng của người Công giáo là nên thánh, nên trọn hảo như Chúa Giêsu truyền dạy (cf. Mt. 5,48). Và khi chu toàn luật mến Chúa yêu người, người Công giáo tái hiện cuộc sống và Lời giảng dạy của Chúa Giêsu để làm chứng cho Người giữa thế gian. Chính việc làm chứng tá theo lệnh truyền của Thầy mình, người Công giáo thể hiện mối tương quan của mình đối với xã hội trần thế. Nói khác đi, một người Công giáo tốt là người thực hiện trọn vẹn bổn phận của mình xét như thành phần của xã hội. Ngày 27/6/2009, khi tiếp kiến các Giám Mục Việt Nam, Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong diễn từ của mình đã khích lệ người Công Giáo Việt Nam hãy thể hiện qua cuộc sống hàng ngày tình bác ái, sự chân thật và tình yêu mãnh liệt của họ cho thiện ích chung của xã hội để mọi người nhận ra chân lý rằng “Người Công Giáo tốt là người công dân tốt”. Ở đây cần phải nói rằng cái khẩu hiệu “tốt Đạo đẹp đời” được giăng mắc ở một số nơi trên đất nước này, nhất là cái trong thời thông tin bị chặn nhiều năm trước là khẩu hiệu rỗng tuếch và mị dân, được phổ biến do cái tờ báo rau xanh có cái tên rất kêu “Công giáo và Dân tộc” cùng với ông tổ của nó là “nhóm đàn két” đặt ra. Cái loại đẹp đời theo kiểu hùa theo và hưởng thụ ấy không khác là bao so với kiểu bà Eva một đàng muốn sống tốt như một sinh linh được Thiên Chúa tạo thành, đàng khác lại muốn “đẹp cuộc đời” con rắn. Bao nhiêu bi luỵ và khốn khổ cũng từ việc đẹp mặt thế gian ấy mà ra. Phải hiểu rằng “đẹp đời” trong cái khẩu hiệu đó không phải là làm đẹp cho cuộc sống mà là đẹp lòng đời, đẹp lòng thế gian. Trong cái não trạng ấy thì câu nói của Đức Thánh Cha Benedicto XVI được đón nhận và giải thích một cách rất trần tục, thiếu sót và thậm chí sai lạc nữa. Người ta cố tình giải thích rằng người công dân tốt là người sẵn sàng chấp nhận mọi mệnh lệnh và luật lệ trần thế, bất kể mệnh lệnh luật lệ ấy có trái ngược luật Chúa hay không. Một người mẹ sắp sinh đứa con thứ ba sẵn sàng giết chết đứa con trong bụng mình là một người “công dân tốt” của nước xã hội chủ nghĩa vì thực hành luật về kế hoạch hoá gia đình! Một thanh niên cúi mặt khoanh tay khi đồng loại của mình bị áp bức là người “công dân tốt” vì biết “giữ gìn an ninh trật tự” theo định hướng này định hướng kia! Một linh mục hay tu sĩ không lên tiếng cho công lý là người “công dân tốt” vì biết an phận, lo cho phần rỗi chính mình là đủ mà không cần biết rằng Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo dạy phải chăm lo cho cả phần xác của đàn chiên! Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa và trong lòng Hội Thánh, những con người sống như thế lại không phải là người Công giáo tốt, trước hết vì họ không sống cho tình yêu, hoặc ghê gớm hơn nữa, họ là kẻ giết người hay đồng loã với những kẻ đàn áp con người. Mà có tôn giáo nào coi kẻ sát sinh là tín đồ tốt đâu. Trong những xã hội coi trọng văn minh sự sống thì những con người ấy vẫn không thể là công dân tốt. Dù là thầy tư tế hay người tự nhận là ngoan đạo thì vẫn bị lên án nếu họ đi ngang qua một người bị lâm nạn mà lại rẽ đường khác, không sẵn sàng cứu giúp nạn nhân như người Samaritanô nhân hậu. Người Công giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị Ngay từ thời Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn được Người khuyến khích xây dựng trần thế theo những cách thức phù hợp. Các ông cùng với Người chăm sóc cho người đau yếu, bệnh tật và nghèo túng. Các ông cũng quan tâm đến các vấn đề xã hội như việc đóng thuế chẳng hạn. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng sau khi Chúa Giêsu về Trời, các Tông đồ bị lãnh đạo thời bấy giờ cấm rao giảng Tin Mừng và bị họ hành xích, bách hại. Thánh Tông đồ Phêrô đã cương quyết trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. Khi Đức Thánh Cha nói “một người Công giáo tốt là một người công dân tốt” là ngài muốn nói đến ý nghĩa khách quan và phổ quát của từ ngữ người “công dân tốt”, ấy là người biết góp phần xây dựng xã hội trên nguyên tắc công bằng, yêu thương và tôn trọng nhân phẩm. Điều này lại ngược với tiêu chí “công dân tốt” theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa. Người ta cố ý cắt xén và hiểu sai lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa, và do vậy một số người, kể cả người Công giáo, tưởng rằng là người Công giáo tốt là người thụ động, cam chịu bất công và tuân theo luật đời bất chấp luân thường đạo lý. Mà khi sống đúng tinh thần Kytô giáo, theo đúng giáo lý, lề luật, Kinh Thánh và Giáo huấn xã hội Công giáo, thì người môn đệ Chúa Giêsu góp phần làm thăng tiến xã hội trần thế. Khi đóng góp cho xã hội trần thế như vậy, thì người Công giáo làm chính trị. Làm chính trị theo nghĩa rộng là quan tâm đến các vấn đề xã hội, tìm cách loại bỏ những gian tà và ác độc để hướng xã hội đi lên theo con đường yêu thương, con đường tự do, con đường tôn trọng và bảo vệ công lý và sự thật. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy cảm hứng từ thư của Thánh Phaolô gửi Timôthê để nói về trách nhiệm của nhà cầm quyền lãnh đạo và lời mời gọi tín hữu cầu nguyện cho họ. Ngài nói như sau: “Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị”, tham gia và đóng góp nhiều điều tốt nhất có thể như: “ý tưởng, kiến nghị, nhưng trên hết là lời cầu nguyện” cho những viên chức chính quyền, để họ biết yêu thương người dân, khiêm nhường, lắng nghe những ý kiến khác nhau của người dân để chọn ra phương cách tốt nhất. Đài phát thanh Vatican dẫn lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Những nhà cầm quyền “phải yêu thương người dân của họ” bởi vì “một lãnh đạo mà không yêu thương dân thì chẳng thể nào cầm quyền được. Họ có thể cầm trong tay kỷ luật, họ có thể chi phối an ninh trật tự, nhưng họ không thể quản trị.” Ví dụ như vua David, “ông rất yêu thương dân của mình”, mặc dù ông lỗi phạm rất nhiều nhưng ông vẫn cầu xin Chúa đừng trừng phạt người dân mà hãy trừng phạt ông. Vì thế, hai nhân đức của một nhà lãnh đạo là biết yêu thương người dân và có sự khiêm nhường.” Trong bài giảng lễ ngày 16 tháng 9, 2013 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Giáo hoàng Phanxicô bác bỏ ý kiến cho rằng “một người Công giáo tốt không can thiệp vào các vấn về chính trị”. Ngài nói Người Công Giáo không nên thờ ơ với chính trị, nhưng cần đưa ra các đề nghị, cũng như cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo biết phục vụ lợi ích chung trong khiêm nhường và lòng mến. Ngay cả hàng giáo sĩ trong Giáo Hội dù không được làm chính trị theo nghĩa hẹp là tham gia vào công việc chính quyền, nhưng các ngài vẫn phải lên tiếng cho người nghèo, cho những người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội và cho tất cả mọi con người đau khổ. Mới đây tại Ukraina, Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo đã trả lời với nhà cầm quyền trong vụ việc các linh mục dâng lễ nơi có biến loạn như sau: “Mặc dù Giáo Hội không làm chính trị, nhưng Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nhìn khi các tín hữu yêu cầu được chăm sóc tinh thần. Giáo Hội của chúng tôi luôn luôn đứng về phía sự thật bất chấp tất cả các mối đe dọa và sẽ làm như vậy vì đó là sứ mệnh đã được Chúa Cứu Thế trao phó. Chúng tôi nghĩ rằng thời áp bức đã trôi qua, nhưng lá thư này khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi không xấu hổ về sự hiện diện của chúng tôi tại quảng trường Maidan và sẽ tiếp tục ở lại đó”. GIÁO HUẤN HỘI THÁNH VỀ CHÍNH TRỊ Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước hết họ là công dân của Nước Trời. Được sinh ra và định cư trong một vùng đất nhất định của trần thế này, họ cũng là công dân của một đất nước trên thế giới. Nhưng cuộc sống của người Công giáo được điều khiển và chi phối bởi lề luật của Vương quốc Thiên Chúa. Và họ hiểu rằng lề luật ấy là tuyệt đối và bất biến. Trong cuộc lữ hành giữa trần gian, người Công giáo với tư cách là công dân một đất nước, cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó. Nhưng có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: ấy là khi luật lệ trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Hội Thánh, thì người Công giáo trung thành với lề luật mà Thiên Chúa thiết định. Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Luật Chúa dạy là không được giết người. Các nước xã hội chủ nghĩa quy định gia đình tốt chỉ có từ một đến hai con, ai có thai đứa con thứ ba thì phải giết từ trong bụng mẹ, hay là phá thai, dùng từ hoa mỹ thì gọi là thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Và như vậy một người Công giáo tốt không thể là công dân tốt trong trường hợp linh tinh này, như chúng ta phân tích ở đoạn trên. Cũng tương tự như thế, một số nhà nước độc tài không muốn công dân của mình tham gia vào các hoạt động chính trị theo nghĩa dám nói lên sự thật và tình thương. Những nhà nước đó chỉ muốn người dân làm chính trị theo nghĩa cộng tác vào những đoàn hội do họ lập ra, nói tiếng nói mà họ viết sẵn lời, tham gia những trò mà họ điều khiển. Nhưng Hội Thánh là Mẹ hiền của chúng ta luôn có cái nhìn xa rộng và nhân ái. Hội Thánh muốn con cái mình làm chứng cho Tin Mừng bằng việc thực thi huấn lệnh của Đức Kytô là Thầy và là Chúa. Trong thời cận đại, Đức Giáo Hoàng Leo XIII, một nhà thông thái, một chính trị gia lỗi lạc và là một chủ chăn thánh thiện, trong triều đại của mình đã hết lòng vì một xã hội trần thế hoà bình và công bằng. Ngài dạy rằng mọi cơ chế triều đại của thế gian cần phải được thay đổi để nên tốt hơn. Ngài viết: “Chỉ có Giáo hội Kitô đã và sẽ đang bảo tồn chắc chắn hình thái cai trị của mình. Vì được thiết lập trên nền tảng là Đấng đã có, đang có và vẫn có đời đời, Giáo hội ngay từ đầu đã nhận được những gì cần thiết để theo đuổi sứ mạng thần linh ngay giữa dòng lưu chuyển của vạn vật nhân trần. Còn đối với các xã hội thuần túy nhân loại, thì thời gian là yếu tố biến đổi vĩ đại cho mọi sự trần gian, như một sự kiện đã ghi khắc cả trăm lần trong lịch sử, tạo nên những thay đổi sâu xa về cơ chế chính trị…” (Thông điệp “Giữa Muôn Điều Lo Ngại”, 1892). Nhưng nổi bật hơn cả, thông điệp “Rerum Novarum’ (Tân Sự) năm 1891 của ngài đã thúc giục con cái của Hội Thánh lên tiếng về mọi vấn đề trong xã hội. Thông điệp lừng danh này đã đặt nền móng cho Giáo huấn Xã hội Công giáo mà sau này Đức Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã có công tóm lược thành hệ thống. Sau này Thánh Công Đồng Vatican II và các vị Giáo hoàng sau đó cũng lên tiếng về các vấn đề chính trị xã hội một cách rõ ràng và dứt khoát. Chẳng hạn Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes của Thánh Công Đồng giới thiệu khuôn mặt của một Giáo Hội “thấy mình thật sự liên đới sâu xa với loài người và lịch sử nhân loại”. Xin trích lại số 96 của bản Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo: “Gaudium et Spes trình bày một cách hệ thống các chủ đề về văn hoá, về đời sống kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hoà bình và cộng đồng các dân tộc, dựa trên quan điểm nhân học Kitô giáo và sứ mạng Giáo Hội. Mọi sự đều được xem xét bắt đầu từ con người và hướng tới con người, “thụ tạo duy nhất mà Thiên Chúa muốn vì chính nó”. Xã hội, cơ cấu và sự phát triển xã hội phải được hướng tới chỗ giúp “con người tiến bộ”. Lần đầu tiên, Huấn Quyền Giáo Hội, ở cấp cao nhất, nói nhiều về các khía cạnh thế trần khác nhau của đời sống Kitô hữu: “Phải công nhận rằng sự quan tâm của Hiến chế đối với những sự thay đổi về xã hội, tâm lý, chính trị, kinh tế, luân lý và tôn giáo càng ngày càng thúc đẩy… mối  quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với các vấn đề của con người và việc đối thoại với thế giới”. (HTXHCG, 96) Ngày hôm nay Giáo Hội vẫn lên tiếng trước các vấn nạn của con người: việc đàn áp, hạn chế tự do, phá thai, sông vô luân, tệ nạn xã hội, tham nhũng, các vấn đề hôn nhân v.v… Giáo Hội không làm chính trị và Giáo Hội cũng cấm hàng giáo sĩ làm chính trị nghĩa hẹp là tranh giành quyền lực, tham gia các chính đảng hay tham gia công quyền. Nhưng nếu xét chính trị theo nghĩa thăng tiến phẩm giá con người và trả lại cho con người quyền tự do mà Thiên Chúa phú ban như bản chất của con người, thì Giáo Hội đang thực hiện một cách hoàn hảo. Ở đây cũng cần mở ngoặc để giải thích thêm rằng những linh mục tham gia vào các tổ chức chính trị như ủy ban đoàn kết mà người dân hay gọi là đàn két, là làm sai luật Giáo Hội. Cũng có linh mục nói: “Tôi vào cho có chứ tôi làm gì đâu ngoài chuyện đi họp”. Ông linh mục ấy nói thế còn thiếu một điều quan trọng: nói không làm gì là sai, vì có làm gương xấu! Việc tham gia vào các thể chế trần thế trong lãnh vực của mình là bổn phận của người tín hữu giáo dân. Cần phải lưu ý ngay là Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhắc nhở: “Đức Giêsu – vị Mêsia được hứa trước – đã phản đối và đã vượt thắng sự cám dỗ của chủ nghĩa cứu thế bằng chính trị, mà điển hình là bắt các dân tộc chịu khuất phục mình (x. Mt 4,8-11; Lc 4,5-8). Người là Con Người xuất hiện “để phục vụ và để hy sinh tính mạng mình” Điều này có thể làm cho một số người lầm tưởng rằng phải yêu thương kẻ thù, nghĩa là chấp nhận mọi thua thiệt để cứu rỗi họ. Nhưng vấn đề là yêu thương và đồng lõa là hai khái niệm khác biệt. Không bắt người khác khuất phục mình, không có nghĩa là mình phải chịu khuất phục để làm theo những điều sai lạc. Tham gia chính trị trước hết là “Xem con người là nền tảng và mục tiêu của cộng đồng chính trị”. Điều này có nghĩa là trước hết phải nỗ lực làm cho phẩm giá con người được nhìn nhận và tôn trọng, bằng cách bênh vực và phát huy các quyền căn bản và không thể tước đoạt của con người. (HTXHCG 388). Từ việc nhìn nhận nhân phầm con người và tôn trọng con người, việc tham gia chính trị sẽ thúc đẩy phát triển xã hội và làm cho xã hội thành cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa mong muốn. Việc tham gia chính trị còn là “Không được cộng tác, dù chỉ là hình thức, vào những việc ngược với luật Chúa, dù đã được luật pháp dân sự cho phép, đó là một nghĩa vụ quan trọng của lương tâm”. Không những người Công giáo phải tố cáo và lên án điều trái với lương tâm, với luật Chúa, mà còn phải phản kháng khi có thể. Có người cho rằng phải phản kháng ôn hòa trong mọi trường hợp. Thưa không. Giáo Hội dạy: “Phản kháng bằng vũ khí trước sự đàn áp của chính quyền là điều không chính đáng, trừ khi thoả mãn được các điều kiện sau đây: 1/ có sự xâm phạm các quyền căn bản của con người cách chắc chắn, nghiêm trọng và kéo dài; 2/ đã sử dụng hết mọi phương thế khác để sửa đổi mà không kết quả; 3/ phản kháng như thế sẽ không gây ra những bất ổn tệ hại hơn; 4/ có hy vọng thành công với những lý do vững chắc; 5/ theo lý trí, không thể dự kiến một giải pháp nào hay hơn”(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 2243). Ngoài ra, “sử dụng vũ khí được coi như giải pháp sau cùng để chấm dứt “một chế độ độc tài công khai và kéo dài, gây thiệt hại lớn cho các quyền căn bản của con người và làm tổn thất nghiêm trọng cho lợi ích chung của đất nước”(Thông điệp Populorum Progressio, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI). Tạm kết luận Chúng ta vừa đi lướt qua những nét chính trong Giáo Huấn của Hội Thánh về một lãnh vực rất quan trọng và cũng thật tế nhị. Như chúng ta vừa điểm lại, rõ ràng những cách nói “yêu thương” bâng quơ, Giáo Hội phải đứng bên lề chính trị, người Công Giáo không được dùng vũ lực trong bất cứ trường hợp nào… tất cả đều trái ngược Giáo Lý Công Giáo và trái với quan điểm của Giáo Hội. Thật ra tất cả những kiểu nói đó thường là do tâm lý cầu an, muốn “bảo vệ vị thế của mình hơn là muốn thế mình để bảo vệ nhân vị”. Không những Giáo Hội khuyến khích con cái mình tham gia vào chính trị để làm cho cuộc sống thêm đẹp hơn, mà Giáo Hội còn xem chính trị là việc thực hành đức ái. Chính trị là một hình thức “tận tụy vì thiện ích chung” và như thế, là “một sự biểu hiện của bác ái” Đó là những lời tuyên bố của Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Tổng Gám Mục giáo phận Gênôva. Trong Tông Huấn “Niềm Vui Của Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Nếu quả thực “việc điều hoà trật tự công bằng của xã hội và nhà nước là một trách nhiệm chính trị”, thi Hội Thánh “không thể đứng bên lề cuộc đấu tranh cho công lý”. Mọi Kitô hữu, bao gồm cả các mục tử của họ, được kêu gọi bày tỏ quan tâm đối với việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đây là điều cơ bản, vì tư tưởng xã hội của Hội Thánh chủ yếu là tích cực: Hội Thánh cống hiến các đề nghị, Hội Thánh hoạt động cho sự thay đổi và theo nghĩa này Hội Thánh vạch ra niềm hi vọng phát sinh từ trái tim yêu thương của Đức Giêsu Kitô. Đồng thời, Hội Thánh nối kết “sự dấn thân của chính mình với sự dấn thân trong lãnh vực xã hội của các Hội Thánh và các Cộng Đồng Hội Thánh khác, dù trên bình diện suy tư về học thuyết hay bình diện thực hành”. (số 182) Trong số 205, Đức Thánh Cha viết: “Chính trị, dù thường bị chê bai, vẫn là một ơn gọi cao cả và một trong những hình thức cao quí nhất của bác ái, khi nó tìm kiếm lợi ích chung”. Vâng, khi dân Chúa, nhất là mục tử, dấn thân cho công lý, cho người nghèo, thì vẫn “thường bị chê bai”, nhưng con cái Chúa phải dấn thân, vì đó là “ơn gọi cao cả” và “một trong những hình thức cao quý nhất của bác ái”, Đức Thánh Cha của chúng ta đã khẳng định điều ấy. Gioan Lê Quang Vinh, VRNs Theo chuacuuthe.com
......

Duyệt lại sự thật lịch sử

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống - Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đã về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9. 1969. Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3. 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động võ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đã đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho mình tư cách độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau. Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lý để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản. Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động võ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên bình diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương: - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954) - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đấu tranh bạo động võ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đã đấu tranh ôn hòa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ đã tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn còn từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay vì 40 năm như trường hợp Việt Nam. Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đã trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á. Năm 1941, khi Thế Chiến II còn đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Hòa Lan đã hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc. Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xã, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu: Độc lập năm 1946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp. Độc lập năm 1947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh. Độc lập năm 1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh. Độc lập năm 1949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan. Như vậy lịch sử đã chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh võ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. Vì đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn đã hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền. CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập vì quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến  lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Tại Pháp, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lãnh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ). Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332). Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 ký kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại. Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và hòa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng ký. Riêng Hiệp Định Élysée đã được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay ký, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ. Cũng trong năm 1949 Trung Cộng đã dùng võ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Trìêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản. Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ. Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu võ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu võ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia. Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đã trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đã trình bầy, Pháp đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đã chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam. CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC Năm 1975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đã được độc lập và thống nhất từ năm 1949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949. Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-1949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống). Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Vì Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn tính Miền Nam năm l975. Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đã thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ. Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, vì yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lãnh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh võ trang, Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước! Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào. CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU Muốn có cái nhìn khách quan và trung thực, chúng ta hãy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu. Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đã đấu tranh võ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu. 1946: Phi Luật Tân độc lập Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm tình với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi. Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lãnh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm vì lý do chiến cuộc). Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái Bình Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động tình báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation). 1946: Syrie và Liban độc lập. Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người. Tại Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đã từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy trì thuộc địa còn có Đảng Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa. Năm 1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xã Hội Léon Blum ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline). 1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập. Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đã thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tại Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đã từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì thuộc địa, còn có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xã Hội Pháp. Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ. Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xã hội chậm tiến, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Ấn Độ đã giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đã phải hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm. 1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập. Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lãnh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật... Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập. Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh. 1949: Nam Dương độc lập. Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Hòa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động võ trang thì Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đã từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học. Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan. Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu võ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn Tròn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2) STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu. Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương. Cũng vì vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đã mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương nghị. Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ ký một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc này Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp. Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đã tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là vì "hết xăng". Đây là một nguyên nhân hy hữu vì không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng nhớt. Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. Vì nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam thì chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không còn được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng còn ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên). Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đã thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle đã có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng vì vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm bình phong thương nghị với Pháp. Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đã thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm. Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đã đến nhà riêng của Moutet để xin ký Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp). Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã từ nhiệm, các nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương. Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh võ trang ngày 19-12-1946. Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đã vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet. Do đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất. Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập. Như vậy từ năm 1947 Pháp đã quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết.) Năm 1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, thì ông ta đã phải ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia. Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947. Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 ký kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết. Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện. Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. Vì các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v.v... cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh. Về mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương. Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ngòi, hải cảng, cồn đảo... Ngoài ra họ còn có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị. Về mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm, khoáng sản... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đã đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989). Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc. Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH HÒA BÌNH PARIS. Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement). Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đình chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh. Vì là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ ký của 2 tướng lãnh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đã ký cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện. Vì không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không ký vào Hiệp Định Genève. Quốc gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng. Vì Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuý quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ. Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. Vì đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý Định (declaration d’intention) không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lý (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945). Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đã ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ Hiệp Định Đình Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuý quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956. Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ ký của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước: Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí] Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ ký của họ còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh võ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đã bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp hòa bình đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ. Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Hòa Bình Paris. Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi luật rừng xanh. KẾT LUẬN Nói tóm lại: 1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm chiến lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ròng rã 40 năm. 2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 vì Việt Nam đã được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée. 3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 vì Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất. 4) Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa. 5) Vì vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực thi.
......

Tình trạng phức tạp về dầu mỏ Việt Nam

1* Mở bài Tình trạng xăng dầu Việt Nam hiện nay rất phức tạp. Việt Nam xuất khẩu dầu thô, nhưng lại nhập khẩu dầu thô cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Dự án xây nhà máy lọc dầu Dung Quất gây nhiều tranh cãi về vị trí xây cất vì không phù hợp với nguyên tắc kinh doanh quốc tế. Dự án kéo dài 9 năm mới hoàn thành. Các quan tham nhũng. Công nhân ăn cắp vật liệu, người dân địa phương chôm chỉa, cuối cùng vốn đầu tư 1 tỷ rưởi USD tăng lên thành 3.5 tỷ USD. Sau 2 năm hoạt động của một nhà máy hiện đại, “niềm tự hào của thế kỷ 21”, Dung Quất được rao bán phân nửa phần hùng để sửa chữa và nâng cấp nhưng không ai mua. Việt Nam nhập cảng 96% xăng dầu cho thị trường tiêu thụ toàn quốc, giá xăng dầu tăng lên ngày một. Giá xăng dầu của Dung Quất lại cao hơn xăng nhập cảng. Trữ lượng các mỏ dầu VN bắt đầu giảm, các nhà đầu tư ngoại quốc bỏ chạy. Vùng biển thuộc chủ quyền VN có tiềm năng dầu khí mà không được thăm dò tìm kiếm, vì Trung Cộng ngăn chặn. Có dầu mà phải vác tiền đi mua dầu, thật đúng là nổi đau bị mất dầu. Mỏ dầu sắp cạn, đầu tư ngoại quốc bỏ chạy, việc sản xuất dầu trong nước, làm ăn ạch đuội bữa đực bữa cái do có quá nhiều “sự cố” và kiến thức quản lý, vận hành và sản xuất ở tầm thấp của thời đại, là nội dung của bài viết nầy. 2* Những cuộc tháo chạy vì cạn dầu 2.1. ConocoPhillips tháo chạy Ngày 19-5-2011, một sự kiện gây nhiều chú ý là tập đoàn dầu khí lớn thứ ba Hoa Kỳ là ConocoPhillips rao bán tổng số tài sản ở Việt Nam là 1.5 tỷ USD. Chiều ngày 5-7-2011, tại cuộc họp báo, ông Phùng Đình Trực, Tổng Giám Đốc Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (Petro Vietnam-PVN) cho biết, ConocoPhillips đã lên kế hoạch bán cổ phần của họ. Theo hãng tin Bloomberg (Mỹ) thì tập đoàn Mỹ đã chiếm một nhóm gồm 5 mỏ đang khai thác ở VN. Nguyên nhân đưa đến quyết định bán tài sản là hoạt động của ConocoPhillips ở VN khá hạn chế, họ muốn đầu tư vào những dự án lớn hơn, nói rõ ra là dầu ở VN không đủ số lượng mà họ mong muốn, tức là quá ít vì đã cạn dần. Bản chất của ngành dầu khí là nguyên tắc bù trừ. Ví dụ như khi khai thác 100 thùng dầu thô, thì công ty đó phải tìm và nắm được một số lượng tương đương, bảo đảm cho việc làm ăn được tiếp tục lâu dài, có nghĩa là phải biết trữ lượng những mỏ đang khai thác còn nhiều, hoặc đã tìm được những mỏ mới có đủ dầu để khai thác thương mại. Nếu không nắm được con số ước tính đó, thì tương lai mù mịt, không biết đóng cửa ngày nào, vì hết dầu. Một nhà phân tích dầu khí nêu nhận xét, số lượng dầu thô của VN không còn tương xứng với số lượng mà Conoco mong muốn, cho nên nếu đổ thêm tiền vào, thì tỷ lệ rủi ro về lợi nhuận rất cao, lỗ vốn là cái chắc. Tóm lại, dầu mỏ ở VN sắp cạn kiệt hay còn quá ít. Quyết định của Conoco cho thấy trữ lượng dầu của VN không phải là dồi dào. Mục tiêu khai thác của Petro Vietnam (PVN) trong 4 tháng đầu năm 2011 là 15 triệu tấn dầu thô, nhưng chỉ đạt được có 7.97 triệu tấn. Trong khi đó, việc phát hiện những mỏ dầu mới có khả năng khai thác thương mại thì không có, và trữ lượng các mỏ đang khai thác cũng giảm dần. Petro Vietnam đã có những dự án mua các mỏ dầu ở các nước ngoài, nhưng chưa mua được mỏ nào cả. Một nguồn tin giấu tên cho biết, Trung Cộng muốn mua lại tài sản của ConocoPhillips, nhưng phải chờ sự đồng ý của chính quyền VN. Nguồn tin trên tiết lộ, trữ lượng mà Conoco đang khai thác đã đạt tới điểm đỉnh, và sẽ tuột xuống trong một tương lai không xa. Bên cạnh đó, nếu muốn tìm mỏ mới thì phải khoan thăm dò ở ngoài khơi xa hơn, đó là khu vực hình lưỡi bò đang tranh chấp với Trung Cộng. ConocoPhillips tháo chạy vì cạn dầu và không thể thăm dò ở vùng biển hình Lưỡi Bờ, thế nhưng Trung Cộng muốn nhảy vào, vì cho rằng sẽ không có gì trở ngại trong việc dò tìm và khai thác ở vùng đang tranh chấp nầy. Thực hiện hợp tác khai thác chung tài nguyên của VN là chủ trương của Trung Cộng. Nếu CSVN đồng ý cho Trung Cộng mua tài sản của công ty Mỹ, tức là đồng ý giao các mỏ dầu của VN ở Biển Đông cho bọn Tàu khựa. Lúc đó Bắc Kinh sẽ dùng trăm mưu ngàn kế ma giáo để công khai và hợp pháp chiếm tài nguyên của VN, mà VN không có khả năng kiểm soát hoặc không dám kiểm soát. 2.2. British Petroleum tháo chạy British Petroleum (BP) đã rút ra khỏi VN vì một số lý do. BP có 3 mảng hoạt động tại VN:     Downsdtream (Hạ nguồn), gồm: lọc dầu, cung cấp, mua bán, vận chuyển, sản xuất, tiếp thị.     Midsdtream (Trung nguồn), gồm: các đường ống dẫn khí đốt từ nam Côn Sơn.     Upstream (Thượng nguồn), gồm: tìm kiếm, thu hồi dầu và khí thiên nhiên. Tháng 10 năm 2010, BP đã rao bán cổ phần đường ống Côn Sơn, Petro VN muốn mua lại, nhưng không thành công. Tổng sản lượng BP ở VN là 15,000 thùng dầu mỗi ngày. 1 thùng (Barrel) = 158.987 lít 7 thùng dầu thô = 1 tấn=1,113 lít BP đã rút lui khỏi VN sau khi đã bán tài sản cho một công ty Petróleos de Venezuela SA của Venezuela với số tiền 1.8 tỷ USD. 2.3. Công ty Shell cuốn gói Tập đoàn dầu khí nước ngoài đầu tiên ở VN là công ty Shell của Hoà Lan. Sau khi CSVN ban hành luật đầu tư nước ngoài, Shell đăng ký thăm dò tìm mỏ dầu ở ngoài khơi Đà Nẳng và Vủng Tàu. Dù đã bỏ ra 150 triệu USD, nhưng Shell không tìm được mỏ dầu nào có khả năng khai thác thương mại, nên đã cuốn gói ra đi, kể như mất toi 150 triệu USD. Hiện tại, chỉ còn ExxonMobil (Mỹ), Chevron (Mỹ) và một số tập đoàn khác như Talisman (Canada) có đầu tư nhưng không lớn. 3* Dầu khí Việt Nam sắp cạn 3.1. Sản lượng bắt đầu giảm Trên thực tế, sản lượng dầu thô VN đã bắt đầu giảm. Năm 2004: 430,000 thùng/ngày Năm 2005: 370,000 thùng/ngày. 3.2. Giảm dầu tại mỏ Bạch Hổ 3.2.1. Tổng quát về mỏ Bạch Hổ Bạch Hổ là tên mỏ dầu lớn nhất, là nguồn cung cấp dầu chủ yếu cho VN hiện nay, nằm phía đông nam, cách bờ biển Vủng Tàu 145Km. Dầu thô Bạch Hổ thuộc loại phẩm chất tốt, dễ lọc, gọi là “dầu ngọt”, vì nó chứa ít chất lưu huỳnh, tác hại mài mòn dụng cụ rất thấp, giá bán rất cao trên thị trường quốc tế. 3.2.2. Trữ lượng dầu mỏ Bạch Hổ sắp cạn. Theo thống kê, trữ lượng dầu của mỏ Bạch Hổ là 300 triệu tấn, sau 25 năm khai thác, sản lượng dầu thô Bạch Hổ đang giảm mạnh. Năm 2009: 5.4 triệu tấn/năm* – 2010: 4.82 triệu tấn* – 2011: 4.26 triệu tấn * – 2012: 3.81 triệu tấn - 2013: 3.43 triệu tấn * – 2014: 3.11 triệu tấn * – 2015: 2.78 triệu tấn/năm. Theo thống kê, sản lượng khai thác của Việt Nam hiện đang giảm mạnh, nhất là các loại dầu thô đã khai thác từ trước như Bạch Hổ, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng… (Nguồn: Factbook, 2007)                     2009  2010 2011 2012 2013 2014 2015 Bạch Hổ        5.45  4.82  4.26  3.81  3.43  3.11  2.78 Rồng             0.84  1.21  1.03  0.87  0.74  0.63  0.54 Sư Tử Đen    1.49  1.12  0.84  0.63  0.47  0.35  0.27 Sư tử Vàng   3.29  2.80  2.24  1.79  1.43  1.15  0.92 Cá ngừ vàng  0.57  0.34  0.21  0.12  0.07  0.04  0.03 Rạng Đông    1.17  0.88  0.66  0.5    0.37  0.28  0.21 Bảng: Danh sách sản lượng các loại dầu thô Việt Nam (Đơn vị: triệu tấn/năm) Giàn khoan mỏ Bạch Hổ Giàn khoan mỏ Sư Tử Vàng Giàn khoan mỏ Sư Tử Đen 3.2.3. Nhà máy Dung Quất nhập cảng dầu thô Ngày 11-8-2010, nhà máy Dung Quất đã tiếp nhận lô dầu thô đầu tiên do công ty dầu khí Socar (Azerbaijian) cung cấp, với số lượng 400,000 thùng (Tương đương với 65,000 m3. Socar sẽ tiếp tục cung cấp 65,000 m3 vào cuối năm 2010. 3.2.4. Việt Nam sẽ mua mỏ dầu ngoại quốc Lãnh đạo Petro Vietnam (PVN) cho biết, PVN đang làm thủ tục để mua các mỏ dầu tại Azerbaijian, Algeria và nhiều khu vực khác. PVN tuyên bố, họ sẽ mua những mỏ dầu đã được thăm dò, để có thể đưa vào nhà máy lọc ngay, vì thời gian thăm dò có thể kéo dài từ 5 đến 8 năm. Đó mới chỉ là dự tính. Nếu giai doạn đàm phán thuận lợi, thì VN sẽ liên doanh với các nước nầy để mua dầu thô về lọc, cung ứng cho thị trường VN. Hiện tại, VN phải nhập cảng 96% xăng dầu. Chính phủ cho phép 10 doanh nghiệp được nhập cảng xăng dầu để đáp ứng nhu cầu cho cả nước là 15 triệu tấn mỗi năm. Như vậy, xăng dầu trong nước chỉ chiếm 4%. 3.2.5. Một thử thách đối với Việt Nam Ngày 25-10-2011, tờ Wall Street Journal loan tin Tập Đoàn ExxonMobil đã tìm được dầu khí ở lô 119 ngoài khơi Đà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam. Thông tin nầy mang tầm quan trọng đặc biệt, không những trong lãnh vực kinh tế, mà còn trong việc khẳng định chủ quyền của VN, vì lô 119 nằm ngoài thềm lục địa của VN, (Thềm lục địa cách bờ biển 350 hải lý.) đồng thời, nó nằm sát đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) của Trung Cộng. Sự việc cho thấy thái độ mạnh dạn của công ty HK trong việc làm ăn với VN. Trước kia, Tập đoàn ExxonMobil đã bị Trung Cộng gây áp lực, đã im hơi lặng tiếng, nay nhờ chính phủ HK ủng hộ, nên tiếp tục thăm dò. Hiện chưa biết trữ lượng dầu là bao nhiêu. VN đang đứng trức thách thức, là liệu CSVN có can đảm hợp tác với ExxonMobil hay không? 4* Nhà máy lọc dầu Dung Quất Một góc của nhà máy lọc dầu Dung Quất Nhà máy lọc dầu Dung Quất Việt Nam, được coi là một dự án kinh tế lớn, trọng điểm của quốc gia trong giai đoạn đầu thế kỷ 21, đã hoàn tất sau 13 năm xây dựng mà nay được cho là bị lỗ 120 triệu mỗi năm. Dự án Dung Quất bị các nhà đầu tư ngoại quốc xa lánh, bỏ chạy bởi vì nó ở một vùng cô lập, xa các nguồn dự trữ là các mỏ đầu ở miền Nam nên không có hiệu quả kinh tế. Số vốn ban đầu là 1.5 tỷ USD, nhưng qua một thời gian gập ghềnh ạch đuội, tổng chi phí lên tới 3.5 tỷ USD. Giá thành sản phẩm của Dung Quất (DQ) hiện tại cao hơn giá xăng dầu nhập cảng. Lỗ to, đã rao bán suốt một năm mà chẳng có ai mua. 4.1. Nhà máy Nhà máy lọc dầu (NMLD) Dung Quất (DQ) được xây dựng ở xã Bình Trị, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, chiếm diện tích 345 hecta mặt đất, và 471 hecta mặt biển. (1 hecta=10,000m2). Công suất tối đa là lọc 6.5 triệu tấn dầu thô mỗi năm, tương đương với 148,000 thùng mỗi ngày. (1 thùng (barrel) = 158.9873 lít) Nhà máy lọc dầu của mỏ Bạch Hổ, sản xuất xăng A92, A95, dầu hỏa, nhiên liệu phản lực, dầu diesel và những sản phẩm phụ. Có 14 phân xưởng chế biến công nghệ. Tổng số vốn đầu tư là 3.5 tỷ USD. Chủ đầu tư là Tập Đoàn Dầu Khí VN (Petro Vietnam-PVN). Hợp đồng xây dựng nhà máy là Technip (Pháp), Technip Malaysia, JGC (Nhật) và Technicas Reunidas (Tây Ban Nha). Lễ động thổ: 8-1-1998 Lễ khánh thành: 6-1-2011 4.2. Công nghệ lọc dầu Công nghệ lọc dầu là một quá trình chưng cất dầu thô. Chưng cất là tách rời một dung dịch bằng cách đun sôi nó lên, rồi cho ngưng tụ hơi bay ra để được 2 thành phần, một phần nhẹ là Distillat, có nhiệt độ sôi thấp, chứa chất dễ sôi, phần nặng còn lại là cặn chưng cất. Nhà máy lọc dầu Dung Quất dùng điện để đun sôi dầu thô. 5* Con đường gập ghềnh của Dung Quất Ngày 25-8-1998. Việt Nam và Nga thống nhất hợp tác liên doanh, Petro Vietnam và Zarubezhneft cùng làm chủ đầu tư với cổ phần 50/50. Ngày 28-12-1998. Ủy Ban Vietross được thành lập để trực tiếp quản lý, xây dựng nhà máy và điều hành NMLD/DQ trong 25 năm. Mức đầu tư dự án là 1.297 tỷ USD.(50/50) Năm 1998 Hợp đồng Việt Nga tan vở. Nga rút lui vì bất đồng ý kiến về địa điểm xây nhà máy. Thế là VN gánh trọn gói, tự đầu tư. Đây là nguyên nhân tạo ra những khó khăn, phí tổn vô ích, kéo dài con đường gập ghềnh và cuối cùng đưa đến dự án không có hiệu quả kinh tế, tức là làm ăn lỗ lã. Sau vụ tan rả, VN tập trung vào việc giải quyết các vấn đề pháp lý của các hợp đồng, có liên quan đến tiền bạc, kỹ thuật, thông qua những đàm phán, nhất là về luật đầu tư quốc tế của ngành dầu khí, mà VN không có kiến thức và kinh nghiệm. Một VN chưa có kinh nghiệm mà phải gánh một dự án quá lớn, cho nên không tránh được những lượm thượm phát sinh do những sai lầm. Tiền bạc thất thoát do chi phí vô ích, do tham ô, do vật liệu bị đánh cắp, nên cuối cùng dự án tăng lên tới 3.5 tỷ USD, đưa đến kinh doanh không có hiệu quả kinh tế. Tháng 11 năm 1996, chính phủ phê chuẩn dự án. Năm 1997 thủ tướng Võ Văn Kiệt ra Quyết Định 514/QĐ/TTg ngày 10-7-1997 chính thức đưa dự án ra thực hiện. Năm 2003, Ban Quản Lý Dự Án (QLDA) Nhà Máy Lọc Dầu (NMLD) Dung Quất được thành lập để tiến hành dự án. Ngày 22-9-2009, NMLD/DQ cho ra sản phẩm đầu tiên. Ngày 30-5-2010, nhà máy được nhà thầu xây dựng chính thức bàn giao lại cho Petro Vietnam. 6* Những chỉ trích về dự án xây nhà máy Dung Quất Năm 1992, chính phủ Võ Văn Kiệt mời các đối tác nước ngoài làm liên doanh đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, gồm có: Tập đoàn Total SA (Pháp) và 2 công ty Đài Loan là CPC (Chinese Petroleum Corp) và CIDC (Chinese Investment Development). Trong quá trình thiết lập dự án, Total SA (Pháp) đề nghị xây NMLD tại Long Sơn thuộc Bà Rịa-Vủng Tàu. Ngày 19-9-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra QĐ chọn Dung Quất làm địa điểm xây NMLD, nên Pháp rút lui. Dự án NMLD/DQ bị quốc tế chỉ trích, chủ yếu là về địa đểm xây cất mang tính cách chính trị trong chiến lược phát triển kinh tế của CSVN, nên không có hiệu quả kinh tế, mà VN gọi tắt là “không kinh tế”. Tháng 9 năm 1995. Tập Đoàn Total chấm dứt thương lượng đầu tư, cho rằng nhà máy đặt ở miền Trung, cách xa các mỏ dầu ở miền Nam, phí tổn vận chuyển cao, nên không có hiệu quả kinh tế. Năm 1997. Ngân Hàng Thế Giới (World Bank-WB) cho biết, dự án “không có hiệu quả kinh tế”. Năm 1998. Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) cho biết, giá trị dự án “đáng nghi ngờ”. Hai cơ quan tài chánh quốc tế nầy giữ vai trò cho vay tiền để thực hiện dự án. Năm 1998. Mặc dù đã ký hợp đồng, nhưng tập đoàn Zarubezhnift (Nga) cho rằng “Dung Quất là một địa điểm xấu” và bỏ dự án vào năm 2002. Năm 2003. Liên Hiệp Quốc nhắc nhở VN, cho rằng “nên tránh những đầu tư thu nhập thấp”. - 7,000 hộ gia đình bị đuổi ra khỏi DQ lo ngại về đời sống khó khăn ở những nơi mới đến. - Ngư dân Quảng Ngãi lo ngại, vì tiếng ồn của nhà máy làm cho cá tránh đi nơi khác hoặc ra xa ngoài biển. 7* Những sai lầm của dự án Dung Quất Hầu hết những chỉ trích quốc tế cho rằng dự án Dung Quất là một sai lầm, chỉ có đảng CSVN khẳng định nó là một dự án ưu việt mang tính trí tuệ của thế kỷ 21. Sai lầm lớn nhất là địa điểm xây nhà máy. Quyết định độc đoán và sai lầm của đảng CSVN phát sinh những sai lầm và những khó khăn đưa nhà máy lọc dầu DQ đến việc làm ăn lỗ lã, “không kinh tế”. Thi công nền móng Nhà máy lọc dầu Dung Quất 7.1. Sai lầm về địa điểm xây nhà máy Dầu thô từ các mỏ ở miền Nam được chuyên chở khoảng 1,000km ra NMLD/DQ, rồi lại chở chuyên 1,000km từ DQ về Sài Gòn hoặc ra Hà Nội để phân phối ra thị trường. Bao nhiêu tàu bè, xe bồn chạy tới, chạy lui, nhân công, nhất là hao tốn tiền xăng dầu trước khi thu được tiền sản xuất ra xăng dầu. Công ty Total cho rằng lý do địa lý sẽ làm tăng giá thành sản phẩm lên tới 500 triệu USD mỗi năm. 7.2. Sai lầm về kỹ thuật Nhà máy Dung Quất được thiết kế để chế biến 100% dầu ngọt của mỏ dầu Bạch Hổ. Dầu ngọt phẩm chất cao, dễ lọc vì chứa ít chất lưu huỳnh nên tác động mài mòn dụng cụ kém hơn dầu chua, là dầu chứa nhiều lưu huỳnh, sinh ra acid làm hư hao máy móc nhiều hơn dầu ngọt. Thế nhưng, mỏ Bạch Hổ hiện nay đang cạn kiệt, không cung cấp đủ dầu ngọt để cho nhà máy lọc chạy hết công suất, cho nên VN phải nhập dầu chua pha trộn với dầu ngọt ở Dung Quất. Dầu chua mài mòn thiết bị bên trong, đó là lý do khiến cho nhà máy mới chạy chỉ có hai năm mà phải đóng cửa 2 tháng để sửa chữa và thay thế phụ tùng là những cái van (valve), máy bơm, bù lon bên trong đã bị phá hủy. Những bộ phận đó không phải là loại thông thường, mà là những phụ tùng rất quan trọng, như van PV-1501, bù lon B-6 có sức chịu đựng nhiệt độ cao ở 650 độ C, do Ý sản xuất và chỉ có thể mua ở Singapore, chớ ở VN không có. 7.3. Dung Quất ngừng hoạt động để sửa chữa Nhà thầu xây dựng là Technip. Nhà thầu giám sát của Nhật đã phát hiện 173,635 điểm sai sót kỹ thuật, dụng cụ hư hỏng do bị mài mòn. Technip đã sửa chữa 164,442 điểm hư hại, còn lại 9,193 điểm hư hại nặng, như van PV-1501 và bù lon B-6 bị mài mòn ở phân xưởng chính yếu tên là Cracking. Nhà máy ngưng hoạt động 2 tháng. 60 chuyên viên Pháp, Hàn Quốc và hơn 1,000 kỹ sư và nhân viên VN phải tăng ca làm việc, tham gia sửa chữa lớn. 8* Những thiệt hại do Việt Nam làm chủ đầu tư 100% Hiện nay, Petro Vietnam làm chủ 100% nhà máy lọc dầu DQ, đã gây ra những thiệt hại, mà có thể tránh được, nếu có sự tham gia của chủ đầu tư ngoại quốc, như Total của Pháp chẳng hạn. 8.1. Việt Nam không có phụ tùng cho việc xây dựng và bảo trì nhà máy. Từ con bù lon, ốc vít cho đến tất cả mọi thứ đều phải nhập cảng 100%. Tạo ra thêm nhiều thủ tục hành chánh, gọi thầu cung cấp, tài chánh, tốn kém tiền bạc và mất nhiều thì giờ. Nếu như Total của Pháp có cổ phần lớn, thì những khoản nói trên không cần thiết phải đặt ra và không bị mất tiền vô ích. 8.2. Trình độ khoa học kỹ thuật về dầu khí kém Trường hợp nếu có các công ty dầu khí nước ngoài tham gia đầu tư, thì họ đã có sẵn một đội ngũ chuyên viên rành nghề, có nhiều kinh nghiệm, điều động nhanh chóng. Trái lại, VN phải thuê nhiều chuyên viên ngoại quốc vào dạy cho kỹ sư và công nhân kỹ thuật. Năm 2006, 180 kỹ sư được huấn luyện cấp tốc ở Vủng Tàu, gồm các môn căn bản, trước hết là học Anh văn, kiến thức về công dụng và xử dụng các trang thiết bị, quy trình lọc dầu…đồng thời, 450 lao động cũng được huấn luyện cấp tốc về kỹ thuật của ngành dầu khí. Tóm lại, họ chưa có khả năng và kinh nghiêm thực tế trong công việc, vì chỉ học lý thuyết trong khi chưa có nhà máy để nhìn tận mắt… Trên công trường hiện nay, có 3,500 kỹ sư, cán bộ và công nhân kỹ thuật, đến năm cuối 2007 có 15,000 người. Số chuyên viên nước ngoài là 141 người. 8.3. Tham nhũng và những chi phí vô ích Một nhân viên trong dự án cho biết, việc tham nhũng rất kinh hoàng. Các chuyên viên ngoại quốc làm việc ở công trường phải ở nhà của cán bộ cho thuê, hoặc cán bộ làm trung gian môi giới ăn huê hồng. Số tiền thuê nhà cao của họ đưa đến việc tiền lương phải tăng và các khoản chi tiêu tầm bậy khác được cộng vào chi phí của dự án, biến 1.5 tỷ USD thành 3.5 tỷ. Xuyên qua thời gian trên 10 năm chấm mút, ăn theo đã lên tới 2 tỷ. Số tiền 2 tỷ USD nầy được gọi là tiền đầu tư ảo, do vật liệu bị mất cắp, tiền chạy vào túi riêng và những khoản chi tiêu vô bổ. Để trả lời những câu hỏi về tham nhũng trong dự án, ông Đinh La Thăng, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Petro VN cho biết: “Lẻ ra nhà nước phải kiểm toán ngay từ năm 2010, nhưng lúc đó, chính phủ “chưa bố trí kế hoạch”, nên mãi tới tháng 3 năm 2011, việc kiểm toán chi tiêu mới bắt đầu, và hiện đang làm việc nên chưa có kết quả. Những nơi bị kiểm tra là Tập đoàn Vietsovpetro và Petro Vietnam. 8.4. Sản phẩm Dung Quất không tiêu thụ được Theo Petro VN, cuối năm 2009, nhà máy trục trặc, vận hành gián đọan, bữa đực bữa cái, cho nên các công ty nhập khẩu xăng dầu đã ký những hợp đồng với nước ngoài, nhập khẩu xăng dầu cung ứng kịp thời cho nhu cầu cấp bách trong nước. Vì thế, xăng dầu của Dung Quất không có nơi tiêu thụ, mà kho của nhà máy chỉ chứa được số lượng sản xuất trong 18 ngày (20,000m3). Nếu không giải tỏa thì không có chỗ chứa, nhà máy phải ngừng hoạt động. Xăng dầu do DQ sản xuất giá còn cao hơn giá xăng dầu nhập cảng, và phẩm chất không tốt, nên Hàng không VN không xử dụng xăng của DQ, mà vẫn mua xăng của Singapore. 9.Nạn ăn cắp vật liệu 9.1. Thưởng 5 triệu đồng cho người tố cáo Công trường xây nhà máy DQ khổ sở vì nạn ăn cắp vật liệu. Việc thi công bữa đực bữa cái, chập chờn khi nắng khi mưa, vật liệu tràn lan nằm ngổn ngang ngoài trời nhiều tháng đến rỉ sét là mồi ngon cho bọn ăn cắp để bán rẻ như phế liệu. Ăn cắp, đủ mọi thành phần, từ công nhân của công trường, bảo vệ công trường đến người dân địa phương. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ra chỉ thị: “Các nhà thầu phải cam kết, công nhân nào phát hiện và tố cáo người ăn cắp, thì được thưởng 5 triệu đồng. Số tiền thưởng nầy do công ty chủ của công nhân ăn cắp phải trả”. 9.2. Khối lượng vật liệu xây dựng nhà máy Dung Quất     Tổng số tài liệu, giấy tờ chất đầy 100 xe tải.     150,000 tấn vật liệu     Trên 5 triệu mét dây dẫn điện     17,000 tấn thép đủ loại. (Đủ xây 2 cái tháp Eiffel của Pháp)     Một nhà máy điện 100 Megawatts. (Đủ dùng cho cả thành phố Quảng Ngãi).     1,046 kỹ sư và nhân viên Dây tiếp địa tại nhà máy bị cắt 9.3. Những biện pháp chống ăn cắp Theo Ban Quản Lý Dự Án (QLDA) thì tình trạng ăn cắp xảy ra rất phức tạp, đặc biệt là ăn cắp sắt thép, dây dẫn điện và phụ tùng, để bán phế liệu. Trong 2 tháng, đã phát hiện hơn 30 vụ ăn cắp. Các nhà đầu tư đã thuê 500 vệ sĩ từ các công ty vệ sĩ, nhưng nhiều khi vệ sĩ bó tay nên phải nhờ đến công an địa phương trợ giúp. Công an địa phương được chỉ thị là phải kiểm tra các cửa hàng thu mua phế liệu, những thứ nào không chứng minh được nguồn gốc thì tịch thu. Phải đưa hệ thống Camera vào nhà máy để kiểm soát. Công khai công bố tên tuổi của người ăn cắp và xử lý cấp thời. Lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị chính phủ tăng cường lực lượng công an đến bảo vệ công trường. Đồng thời, đưa công trường Dung Quất vào danh sách an ninh quốc gia, để mạnh tay xử lý trộm cắp, phá hoại tài sản vào tội xâm phạm an ninh quốc gia. 9.4. Trộm cắp lộng hành   Những cuộn dây điện bị đánh cắp Bộ phận an ninh trật tự trên “đại công trình” chịu bó tay trước nạn ăn cắp vật liệu. Chính nhân viên của công ty Bảo Vệ Thiên Long, thay vì bảo vệ tài sản nhưng lại thông đồng để cho kẻ cắp công khai đem xe cần cẩu đưa những cuộn dây điện chở ra Đà Nẵng tiêu thụ. Một vụ trộm cắp lớn gây thiệt hại nghiêm trọng trị giá 70,000USD. Đồng thời làm cho các chuyên gia và công  nhân phải đình trệ công tác nhiều ngày. Ngày 3-8-2007, 5 tấn vật liệu gồm sắt thép còn nguyên, phụ tùng chưa xử dụng, bị khám phá ở một nhà mua phế liệu của ông Nguyễn Thiện. Công an đang điều tra. Ngày 16-4-2008, hai đối tượng tên Tâm và Công dùng thuyền thúng chở 608 kg sắt trộm ở công trường Dung Quất. Ngày 19-4-2008, công an bắt 5 bảo vệ về hành vi tổ chức trộm thiết bị tại kho của nhà thầu Technip. Lúc 1 giờ sáng, những tên trộm dùng xe gắn máy kéo 16 ống tuýp đặc chủng, đường kính 0.6m dài 6 m. Người giữ kho tên Văn đã mở cửa kho để cả bọn và khiêng ra ngoài. Ngày 22-4-2008, 2 nhân viên bảo vệ bị một nhóm 10 người, đi xe gắn máy, mang mã tấu, gậy gộc xông vào tấn công. Hai bảo vệ bị trọng thương, một người bị đâm một dao vào xương sườn, người kia bị chấn thương sọ não. Đó là nhóm côn đồ được thuê đánh bảo vệ để trả thù vụ bắt trộm trước đó. Ngày 1-5-2008, một nhóm 20 tên, đội mủ an toàn, một số bịt mặt, mang gươm, mã tấu xông vào tấn một nhân viên công trường DQ, để trả thù vụ tố cáo ăn cắp vừa qua. Ngày 18-3-2011, công nhân Đỗ Tấn, người được tin cậy cho vào làm khu bảo dưỡng của bộ phận quan trọng, đã trèo tường đến lầu ba, dùng kềm bấm cắt dây điện, ruột bằng đồng, dùng làm dây trung tính nối xuống đất (grounded wire) cở 35mm2 ruột 18 sợi dây đồng, làm lệch pha dòng điện khiến cho 23 máy vi tính, hàng chục máy lạnh, máy in, máy fax, máy photocopy…thiệt hại 60,000 USD. Dây nối đất rất quan trọng, để bảo vệ con người không bị điện giật khi dòng điện bị chập. Tấn bị ghép tội phá hủy công trình quan trọng, về an ninh quốc gia. Ngày 18-9-2007, 30 công nhân, xử dụng dao, ống sắt, gậy gộc vây đánh lực lượng bảo vệ. Họ đập phá tủ đựng tài liệu, điện thoại bàn, đập bể kiếng xe ôtô. 8 công nhân bị bắt giữ. Nguyên do. Vì bảo vệ làm việc chặt chẽ, các công nhân không đánh cắp được nên gây sự đánh nhau. 10. Kết luận Theo dự đoán thì dầu mỏ ở khu vực quần đảo Trường Sa là 105 tỷ thùng (1 thùng=158.987 lít), nếu khai thác 18.5 triệu tấn mỗi năm, thì có thể kéo dài từ 15 đến 20 năm. Theo Công Ước QT về Luật Biển, thì tài nguyên trong Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone-EEZ) 200 hải lý (1 hải lý=1km 852) thuộc quyền khai thác của VN. Tuy chưa xác định được trữ lượng là bao nhiêu, nhưng hứa hẹn là có nhiều. Trong tình trạng dầu mỏ của VN cạn dần, các nhà đầu tư ngoại quốc cuốn gói rút lui, nhà nước VN đang tìm mua mỏ dầu nước ngoài, nhập cảng dầu thô để lọc, VN có tiềm năng dầu to lớn ở Biển Đông mà không được quyền khai thác, phải vác tiền đi mua, thì quả thật là một cảnh đau lòng của dân tộc. Càng nhức nhối hơn nữa, kẻ cướp chính là hảo bằng hữu, là người đồng chí tốt của đảng CSVN. Trúc Giang Minnesota ngày 6-2-2015
......

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài. Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism). Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm. Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp. Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước. Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới. Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay. Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có. Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ. Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền. Theo voatiengviet.com
......

24 Tổ chức XHDS trong ngoài nước Báo cáo vi phạm nhân quyền 2014

Việt Nam, ngày 30 tháng 1 năm 2015 Kính gửi: -       Hội Đồng Nhân quyền LHQ -       Ông David Kaye, Báo cáo viên LHQ về Tự do Ý kiến và Ngôn luận -       Ông Heiner Bielefeldt – Báo cáo viên LHQ về Tự do Tôn giáo -       Ông Michel Forst – Báo cáo viên LHQ về Người bảo vệ Nhân quyền, -       Ông Juan Ernesto Mendez – Báo cáo viên LHQ về Tra tấn Nhục hình, -       Ông Maina Kiai – Báo cáo viên LHQ về Tự do Hội họp và Lập hội -       Ông Mads Andenas – Nhóm đặc trách Bắt giữ tùy tiện -       Ông Pierre Vimont – Tổng thư ký Ủy ban Đối ngoại EU. -       Ông Scott Kofmehl, Ông Ryan Fioresi – Chuyên viên đặc trách VN của BNG Hoa Kỳ -    Đại sứ quán các nước tại Hà Nội: Malad Delphine (Cộng đồng EU), Felix Schwarz (Đức), Jenifer N. (Hoa Kỳ), Rose McConnell (Úc), Elenore Kanter (Thụy Điển), Sanjiv Ahluwalia (Anh), Ayesha Rekhi (Canada), Jean Philippe (Pháp), Tone Wroldsen (Na Uy), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Thụy Sĩ). -      Các tổ chức Nhân quyền quốc tế: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Brittis Edman (CRDs), Billy Ford (Freedom House). Đồng kính gửi: -       Quốc hội nước CHXHCNVN. Kính thưa Quí Vị,             Chúng tôi, những tổ chức Xã hội Dân sự độc lập khẩn cấp báo động với tất cả Quí Vị và trước nhân dân thế giới về việc đàn áp những người lên tiếng tranh đấu cho Nhân quyền một cách trắng trợn, phi pháp và có hệ thống của Nhà nước Cộng hòa XHCNVN, đặc biệt trong năm 2014.             Chúng tôi xin đính kèm bản Báo cáo “Việt Nam: thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ và vi phạm nhân quyền 2014” minh chứng rõ ràng cho những vi phạm ấy, cùng những phân tích khách quan, đối chiếu sát sao những khuyến nghị của UPR. Chúng tôi cũng làm rõ chiến thuật che đậy của nhà cầm quyền VN trong những năm gần đây.             Bản báo cáo này tố cáo tính hai mặt trong chính sách nhân quyền mà nhà cầm quyền Hà Nội đang tích cực thực hiện. Đó là làm cho quốc tế tin tưởng họ có thiện chí cải thiện nhân quyền tại Việt Nam, trong khi họ vẫn tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị, nặng về đàn áp, không coi trọng tự do và nhân phẩm của người dân.             Chân thành cảm ơn Quý vị đã quan tâm và lên tiếng.             Trân trọng, Danh sách các tổ chức XHDS đồng hành lên án vi phạm nhân quyền: 1.   Bach Dang Giang Foundation: Ths.Phạm Bá Hải. 2.   Bauxite Việt Nam: Gs. Phạm Xuân Yêm, Gs. Nguyễn Huệ Chi. 3.   Con đường Việt Nam: Ông Nguyễn Công Huân. 4.   Diễn Đàn XHDS: Dr. Nguyễn Quang A. 5.   Giáo hội Cao Đài, Khối Nhơn sanh: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Nguyễn Bạch  Phụng 6.   Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ: MS. Nguyễn Hoàng Hoa 7.   Giáo hội Mennonite thuần túy: MS. Nguyễn Mạnh Hùng. 8.   Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Ông.Nguyễn Bắc Truyển. 9.   Hội Anh Em Dân Chủ: Ls.Nguyễn Văn Đài 10. Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo: Cô Hà Thị Vân. 11. Hội Bầu bí Tương thân: Ông Nguyễn Lê Hùng. 12. Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi. 13. Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts.Phạm Chí Dũng 14. Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, cô Trần Thị Nga. 15. Hội thánh Tin lành Chuồng Bò: MS. Lê Quang Du. 16. Khối Tự do dân chủ 8406: Lm. Phan Văn Lợi. 17. Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh 18. Nhóm Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc: Anh Huỳnh Trọng Hiếu 19. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải. 20. Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm 21. Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu: Bà Trần Ngọc Anh. 22. Tăng Đoàn Giáo hội PGVNTN: HT.Thích Không Tánh. 23. Liên mạng truyền thông Báo-Động: Giám đốc Huỳnh Tâm. (Pháp) 24. Thanh Niên Canada Tranh Đấu cho Nhân Quyền VN: Cô Nguyễn Khuê Tú (Canada) ******** 24 Vietnamese CSOs Report on Human Rights violation 2014 in Vietnam Vietnam, Jan 30, 2015 To: - NGOs’ submission to Human Rights Council - Mr. David Kaye, Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression - Mr. Heiner Bielefeldt, Special Rapporteur on freedom of religion or belief - Mr. Michel Forst, Special Rapporteur on the situation of human rights defenders - Mr. Juan Ernesto Mendez, Special Rapporteur on torture and other cruel, inhuman or degrading treatment or punishment - Mr. Maina Kiai, Special Rapporteur on the rights to freedom of peaceful assembly and of association - Mr. Mads Andenas, Working Group on Arbitrary Detention - Mr. Pierre Vimont, Executive Secretary General of the European External Action Service - Mr. Scott Kofmehl, Mr. Ryan Fioresi, Vietnam Desk Officers, the US Department of State - Embassies in Hanoi: Malad Delphine (EU delegation), Felix Schwarz (Germany), Jenifer N. (USA), Elenore Kanter (Sweden), Sanjiv Ahluwalia (England), Ayesha Rekhi (Canada), Rose McConnell (Australia), Jean Philippe (France), Tone Wroldsen (Norway), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Switzerland). - International NGOs on human rights: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Brittis Edman (CRDs), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Billy Ford (Freedom House). CC: - The National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam Ladies and gentlemen, We, the independent civil society organizations, urgently alert all of you to the blatant, illegal and systematic crackdowns on human rights defenders and dissidents of the Socialist Republic of Vietnam, especially in 2014. We enclose here the report "Vietnam: Member of the UN Human Rights Council & Human Rights Violations in 2014" to demonstrate such violations clearly by the objective analysis comparing closely with the UPR recommendations. We also clarify the tactics to cover up the human rights abuses in the recent years. The report lays bare the duality of human rights policy that the Hanoi government has been implementing actively. One hand they get the international community to believe their willingness to improve human rights in Vietnam. On the other hand, they continue to maintain the totalitarian regime with serious persecution, not respecting for freedoms and human dignity of their citizens. Thank you for your consideration and taking action. Sincerely, Vietnamese independent civil society organizations co-sign to condemn human rights abuses: 1. Bach Dang Giang Foundation: Pham Ba Hai (MBE) 2. Bauxite Vietnam: Prof. Pham Xuan Yem, Prof. Nguyen Hue Chi. 3. Vietnam Path Movement: Mr. Nguyen Cong Huan. 4. Civil Society Forum: Nguyen Quang A (Ph.D.) 5. Cao Dai church, Humanism: Mr. Hua Phi. Mr. Nguyen Kim Lan, Mrs. Nguyen Bach Phung. 6. Evangelical Lutheran Community Church Vietnam-America: Pastor Nguyen Hoang Hoa 7. Christian Mennonite Church: Pastor Nguye n Manh Hung 8. Vietnamese Political and Religious Prisoners Friendship Association: Nguyen Bac Truyen (LLB) 9. Brotherhood for Democracy: Lawyer Nguyen Van Dai 10. Association to Protect Freedom of Religion: Ms. Ha Thi Van. 11. Gourd and Squash Mutual Association: Mr. Nguyen Le Hung 12. Former Vietnamese Prisoners of Conscience: Dr. Nguyen Dan Que, Catholic Priest Phan Van Loi. 13. Independent Journalists Association of Vietnam: Pham Chi Dung (Ph.D.) 14. Vietnamese Women for Human Rights: Ms.Huynh Thuc Vy, Ms.Tran Thuy Nga 15. Evangelical Protestant Chuong Bo Church: Pastor Lê Quang Du 16. Bloc 8406: Priest Phan Van Loi. 17. Viet Labor: Ms. Do Thi Minh Hanh. 18. Religion and Ethnic Minority Defenders: Mr. Huynh Trong Hieu. 19. Nguyen Kim Dien Group: Father Nguyen Huu Giai. 20. Hoa Hao Buddhist Church, Purity: Mr. Le Quang Liem. 21. Oppressed Petitioners Solidarity Movement: Ms. Tran Ngoc Anh 22. Delegation of Vietnamese United Buddhists Church: Ven. Thich Khong Tanh. 23. Vietnamese Interactive Network: Director Huynh Tam (France) 24. Canadian Youth for Human Rights in Vietnam: Ms. Khue Tu Nguyen (Canada) Theo fvpoc.org
......

Cuốn sách nguy hiểm nhất thế giới?

Cuốn sách ‘Mein Kampf’ (Con đường đấu tranh của tôi) của Adolf Hitler sẽ hết thời hạn bản quyền ở Đức vào năm 2015. Điều gì sẽ xảy ra khi giới chức không còn có thể kiểm soát việc in ấn và phát hành cuốn sách này? Xuất bản hay đốt bỏ? (Carl de Souza/Getty Images) “Họ muốn biến nó thành Kinh Thánh,” ông Stephan Kellner, một chuyên gia sách hiếm, thì thầm trong một căn phòng yên ắng ở thư viện bang Bavaria. Ông giải thích bằng cách nào mà Đức Quốc xã đã biến một cuốn sách kể lể – nửa là hồi ký, nửa là tuyên truyền – thành tài liệu trung tâm trong ý thức hệ của Đệ tam Đế chế? Khi Mein Kampf hết thời hạn bản quyền thì cũng có nghĩa là về mặt lý thuyết bất cứ ai cũng có thể xuất bản tác phẩm này ở Đức. Một chương trình mới trên đài phát thanh BBC 4 đã tìm hiểu giới chức Đức sẽ làm gì với cuốn sách tai tiếng nhất trên thế giới này. Việc thế hệ trẻ tiêm nhiễm tư tưởng Quốc xã có thể được ngăn chặn tốt hơn bằng cách đối diện cởi mở với những gì Hitler viết chứ không phải giữ cho những gì bị người đời nguyền rủa này trong bóng tối của sự bất hợp pháp.New York Times viết trong một bài xã luận Theo nhà sản xuất chương trình có tên là ‘Xuất bản hay đốt bỏ’, cuốn sách này vẫn là một tài liệu nguy hiểm. “Lịch sử về Hitler là những câu chuyện hạ thấp Hitler và người ta đã hạ thấp cuốn sách này,” ông John Murphy, người có ông nội đã dịch bản tiếng Anh đầy đủ đầu tiên của Mein Kampf hồi năm 1936, nói. “Có lý do để chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc bởi vì người ta có thể diễn dịch sai nó. Mặc dù Hitler viết cuốn sách này vào những năm 1920, những gì mà ông ta viết ông ta đã thực hiện. Nếu lúc đó người ta để ý một chút có lẽ họ đã nhận ra mối đe dọa,” ông nói. Hitler bắt đầu viết Mein Kampf khi còn ở trong tù vì tội phản quốc sau cuộc nổi dậy thất bại ở Munich hồi năm 1923. Cuốn sách đề ra quan điểm phân biệt chủng tộc và bài Do Thái. Một thập niên sau đó khi Hitler giành được quyền lực thì cuốn sách này đã trở thành tài liệu chủ chốt của Đức Quốc xã. 12 triệu bản đã được in và được phát cho các cặp vợ chồng mới cưới trong khi các bản mạ vàng được trưng bày trang trọng trong nhà của các quan chức. Cuốn sách là cương lĩnh chính trị của Đức Quốc xã Vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi quân đội Mỹ chiếm được nhà xuất bản Eher Verlag của Đảng Quốc xã, bản quyền Mein Kampf chuyển sang chính quyền bang Bavaria. Họ đảm bảo rằng cuốn sách này chỉ được tái bản ở Đức trong những trường hợp đặc biệt. Nhưng với việc bản quyền của nói hết hạn vào tháng 12 năm 2015 thì tại Đức đã nổi lên tranh luận gay gắt về việc làm cách nào để ngăn chặn mọi người tự do in ấn nó. Làm sao ngăn được? “Chính quyền bang Bavaria đã dùng bản quyền để kiểm soát việc xuất bản Mein Kampf nhưng sự kiểm soát đó sắp kết thúc – điều gì sẽ xảy ra?” ông Murphy nói, “Đây vẫn là một cuốn sách nguy hiểm – hiện đang có những vấn đề với bọn phát xít mới và nguy cơ người ta diễn giải sai nó nếu nó không được đặt trong đúng bối cảnh.” Một số người đặt vấn đề liệu có ai đó muốn tái bản cuốn sách này hay không. “Nó đầy những lời lẽ khoa trương, khó theo dõi, những vụn vặt lịch sử và những sợi chỉ tư tưởng rối nùi mà cả những kẻ tân phát xít cũng như các sử gia đều muốn né tránh.” Hitler viết Mein Kampf khi đang ở trong tù Vậy mà Mein Kampf trở nên được yêu thích ở Ấn Độ với các chính trị gia có xu hướng theo chủ nghĩa dân tộc. “Nó được xem là một cuốn sách tự học rất ý nghĩa,” Atrayee See, giảng viên về tôn giáo và xung đột đương đại ở Đại học Manchester, nói, “Nếu loại phần nói về chủ nghĩa bài Do Thái ra thì nó là cuốn sách về một người đàn ông mơ chinh phục thế giới và muốn thực hiện ước mơ này.” Việc đặt cuốn sách này khỏi bối cảnh của nó là một trong những lo sợ của những người phản đối việc tái bản. Trong chương trình ‘Xuất bản hay đốt bỏ’, ông Ludwig Unger, phát ngôn nhân của Bộ Giáo dục và Văn hóa bang Bavaria, nói. “Hậu quả của cuốn sách này là hàng triệu người thiệt mạng, hàng triệu người bị ngược đãi, nhiều nước chìm vào chiến tranh. Điều quan trọng là bạn phải luôn nhớ những điều này. Khi đọc một số đoạn trong sách bạn luôn phải có những nhận định lịch sử phản biện phù hợp.” Khi bản quyền hết hạn, Viện Sử học Đương đại Munich có kế hoạch đưa ra một ấn bản mới của Mein Kampf. Ấn bản này sẽ kết hợp bản gốc với những lời bình luận chỉ ra những thiếu sót và xuyên tạc sự thật trong cuốn sách. Một số nạn nhân của Đức Quốc xã đã lên tiếng phản đối cách làm này trong khi chính quyền bang Bavaria rút lại sự ủng hộ sau khi những người sống sót trong nạn diệt chủng người Do Thái chỉ trích. Hàng triệu người Do Thái là nạn nhân trong các trại tập trung của Hitler Nhưng chôn vùi cuốn sách này có lẽ không phải là cách làm hay. Một bài xã luận trên tờ New York Times lập luận: “Việc thế hệ trẻ tiêm nhiễm tư tưởng Quốc xã có thể được ngăn chặn tốt hơn bằng cách đối diện cởi mở với những gì Hitler viết chứ không phải giữ cho những gì bị người đời nguyền rủa này trong bóng tối của sự bất hợp pháp.” Murphy thừa nhận rằng một lệnh cấm cuốn sách xuất bản trên toàn cầu là không thể thực hiện được. “Điều này phụ thuộc nhiều vào việc chính quyền Bavaria có lập trường. Họ phải đưa ra lập trường ngay cả khi trong thế giới hiện đại họ sẽ không thể ngăn chặn người ta tiếp cận cuốn sách.” Chris Bowlby, người dẫn chương trình ‘Xuất bản hay đốt bỏ’ cho rằng những hành động biểu tượng vẫn có ý nghĩa. Sau thời hạn bản quyền, bang Bavaria dự định sẽ dùng điều luật cấm kích động hận thù sắc tộc để truy tố những ai xuất bản cuốn sách này. “Theo quan điểm của chúng tôi thì tư tưởng của Hitler đồng nghĩa với khái niệm về sự kích động,” ông Ludwig Unger nói, “Nói là một cuốn sách nguy hiểm nếu ở trong tay không đúng người.” Bản tiếng Anh bài này đã được đăng trên BBC Culture. Mein Kampf: The world’s most dangerous book? By Fiona Macdonald (Carl de Souza/Getty Images) Adolf Hitler’s Mein Kampf falls out of copyright in Germany at the end of 2015. What will happen when authorities can no longer control its publication and distribution? A new BBC programme examines the issues. “They wanted to replace the Bible.” Whispering in a hushed room of the Bavarian State Library, rare books expert Stephan Kellner describes how the Nazis turned a rambling, largely unreadable screed – part memoir, part propaganda – into a central part of the Third Reich’s ideology. As Mein Kampf comes out of copyright – meaning that, in theory, anyone could publish their own editions in Germany – a new programme on BBC Radio 4 explores what authorities can do about one of the world’s most notorious books. According to the producer of Publish or Burn, which will be broadcast on January 14, it remains a dangerous text. “The history of Hitler is a history of underestimating him; and people have underestimated this book,” says John Murphy, whose grandfather translated the first unabridged English language version in 1936. “There’s a good reason to take it seriously because it is open to misinterpretation. Even though Hitler wrote it in the 1920s a lot of what he said in it, he carried out – if people had paid a bit more attention to it at the time maybe they would have recognised the threat.” Hitler began writing Mein Kampf while in prison for treason after the failed 1923 ‘Beer Hall’ putsch in Munich, outlining his racist, anti-Semitic views. Once he gained power a decade later, the book became a key Nazi text, with 12m copies printed; it was given to newly married couples by the state and gold-leaf editions were displayed prominently in the homes of senior officials. At the end of World War Two, when the US Army seized the Nazis’ publisher Eher Verlag, rights for Mein Kampf passed to the Bavarian authorities. They ensured the book was only reprinted in Germany under special circumstances – but the expiration of its copyright in December 2015 has prompted fierce debate on how to curb a publishing free-for-all. “The Bavarians have used copyright to control republication of Mein Kampf but that control is coming to an end – what happens next?” says Murphy. “This is still a dangerous book – there are issues with neo-Nazis, and a danger of people misinterpreting it if it’s not put into context.” Chapter and verse Some question whether anyone would want to publish it – according to the New Yorker, “It is full of bombastic, hard-to-follow clauses, historical minutiae, and tangled ideological threads, and both neo-Nazis and serious historians tend to avoid it.” Yet the book has become popular in India with politicians who have Hindu nationalist leanings. “It is considered to be a very significant self-help book,” Atrayee Sen, a lecturer in contemporary religion and conflict at the university of Manchester, tells Radio 4. “If you take the element of anti-Semitism out, it is about a small man who was in prison who dreamt of conquering the world and set out to do it.” The removal of context is one of the fears of those opposed to republication. In Publish or Burn Ludwig Unger, spokesman for the Bavarian Ministry of Education and Culture, says:  “The result of this book was that millions of people were killed, millions were maltreated, whole areas were overrun with war. It’s important to keep this in mind and you can do that when you read certain passages with appropriate critical historical commentary.” When the copyright expires, the Institute for Contemporary History in Munich plans to bring out a new edition of Mein Kampf that combines the original text with a running commentary pointing out omissions and distortions of the truth. Some victims of the Nazis oppose this approach, and the Bavarian government withdrew its support for the Institute after criticism from Holocaust survivors. Yet suppressing the book might not be the best tactic – an op-ed in the New York Times argued that: “The inoculation of a younger generation against the Nazi bacillus is better served by open confrontation with Hitler’s words than by keeping his reviled tract in the shadows of illegality.” Murphy acknowledges that a global ban on the book is impossible. “This is more to do with the Bavarian authorities making a point, rather than really being able to control it. They have to take a stand, even if in the modern world it won’t prevent people getting access.” Publish or Burn’s presenter Chris Bowlby argues that symbolic actions still matter. After the copyright expires, the state plans to prosecute using the law against incitement to racial hatred. “From our point of view Hitler’s ideology corresponds to the definition of incitement,” says Ludwig Unger. “It’s a dangerous book in the wrong hands.” Mein Kampf: Publish or Burn? will be broadcast on Radio 4 at 11am on January 14. http://www.bbc.com/culture/story/20150113-the-worlds-most-dangerous-book
......

Ai nữa sẽ chết lây vì ông Nguyễn Bá Thanh?

Vào ngày 11/1/2015, nhân lúc dư luận xôn xao về tin ông Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc, chúng tôi đã viết một bản tin liên quan đến cái chết của ông Alexander Litvinenko (http://diendanctm.blogspot.com.au/2015/01/tim-hieu-ve-au-oc-phong-xa-tru...), một nhân viên của Cơ Quan An Ninh Liên Bang (FSB), tức hậu thân của  cơ quan an ninh tình báo cảnh sát mật vụ KGB của Liên Xô trước đây, do bị đầu độc với chất phóng xạ Polonium-210. Vào Tháng 7 năm 2013, 7 năm sau khi ông Litvinenko qua đời, việc điều tra về cái chết của ông Litvinenko bị bãi bỏ mặc dầu các cơ quan giảo nghiệm cho là cần thiết để có thể nghe được thông tin mật. Tuy nhiên, vào Tháng 11, 2014, Toà Án Tối Cao đảo ngược quyết định của Bộ Nội Vụ, và Bộ Nội Vụ  Anh Quốc tuyên bố cuộc điều tra mở sẽ được tiếp tục.  Vì vậy, câu chuyện ông Litvinenko bị đầu độc chết năm 2006 nay bỗng trở lại thời sự vì sự nguy hiểm của chất phóng xạ dùng để đầu độc ông và sự an toàn của những người liên hệ, bao gồm các nhân viên y tế thời đó và hiện giờ. Hai người bị tình nghi là thủ phạm đầu độc ông Litvinenko sau khi cùng uống trà với ông ta Andrei Lugovoy và Dmitry Kotvun hiện vẫn đang bị cảnh sát Anh yêu cầu trục xuất từ nước Nga nhưng nước Nga từ chối. Bác sĩ Nathaniel Cary đã nói với ủy ban điều tra về cái chết của ông Litvinenko là "cuộc giảo nghiệm tử thi của ông Litvinenko là cuộc giảo nghiệm nguy hiểm nhất từ trước tới giờ trong thế giới Tây phương". Bs Cary nói là "thi thể của ông Litvinenko rất nguy hiểm" và được đưa về một nơi an toàn để thực hiện các cuộc thử nghiệm, và cho biết là là Ông và các đồng nghiệp đã mặc áo trắng, đeo bao tay bảo vệ, đội mũ kín trùm đầu đặc biệt được bơm không khí qua máy lọc vào để thở trong lúc làm thử nghiệm. Bs Cary nói là lượng phóng xạ trong cơ thể ông Litvinenko cao quá mức chết người, và trước giờ chưa từng có trường hợp nào như vậy ở Anh Quốc. Thám tử Mascall đã cho ủy ban điều tra biết là vào cao điểm đã có hơn 100 thám tử và 100 nhân viên cảnh sát mặc đồng phục làm việc làm việc liên quan đến cuộc điều tra. Những chia sẻ về nguy cơ bị nhiễm phóng xạ của các nhân viên y tế tiếp cận với thi thể của ông Litvinenko khiến người ta nghĩ đến nguy cơ lây nhiễm phóng xạ tương tự đối với tất cả những người đã và đang tiếp xúc với ông Nguyễn Bá Thanh. Cho tới giờ phút này nhà nước CSVN chưa cho một thông tin chính thức nào về ông Nguyễn Bá Thanh, rằng ông NBThanh còn sống hay đã chết, và nếu còn sống thì tình trạng bệnh của ông ta ra sao, nguyên do gây bệnh là gì, và nếu là bị nhiễm phóng xạ thì những người tiếp xúc với ông Thanh đã được thông tin như thế nào và những biện pháp bảo vệ họ là gì? Nếu đã không có những biện pháp bảo vệ thích ứng thì rất nhiều những người này đang thật sự có nguy cơ bị mất mạng. Đây là một sự tắc trách không thể chấp nhận được của nhà nước CSVN./.
......

Hải chiến Hoàng Sa 1974 - Hộ Tống Hạm Nhật Tảo (HQ10) đi vào lịch sử

Lời mở đầu: bài viết này tổng hợp từ các bài đã viết về Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trong trận hải chiến Hoàng Sa, và các tài liệu đã được tìm thấy gần đây trong đó có tài liệu do gia đình cố HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp. Tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ những hình ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng. Thềm Sơn Hà -------------------- Hơn hai tháng biệt phái công tác cho Vùng I Duyên Hải, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 trở về Đà Nẵng sau chuyến tuần dương cuối cùng để bàn giao lại vùng trách nhiệm cho HQ11 (Hộ tống hạm Chí Linh). Tất cả nhân viên chiến hạm đều vui mừng khi nghĩ đến lần trở về Sài Gòn sắp đến sẽ trùng hợp vào ngày Tết Nguyên Đán. Họ sẽ có dịp gần gũi gia đình trong những giờ phút thiêng liêng của năm mới và cũng theo lời Hạm Phó (HP) Nguyễn Thành Trí nói với vợ trước khi lên đường công tác thì chiến hạm sẽ chuẩn bị đi đại kỳ tại Guam sau khi trở về Sài Gòn (1). Ngoài ra với đồng lương mới lãnh, họ đi bờ ra phố Đà Nẵng mua sắm hàng hóa đặc biệt của địa phương để mang về làm quà Xuân cho gia đình và cũng là dịp những chàng lính thủy độc thân ra phố hưởng thụ những giây phút thoải mái sau những ngày dài lênh đênh trên trên biển. Bất ngờ chiều 17-1-1974 chiến hạm nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 lên đường ra công tác Hoàng Sa (HS). Hạm Trưởng (HT) ra lịnh kéo còi nhiệm sở vận chuyển. Một vài nhân viên trở về lúc sợi dây cuối cùng vừa tháo vội vàng nhảy xuống tàu, có người bị hụt chân rớt xuống nước phải thả phao vớt lên. Chiến hạm rời bến Đà Nẵng lúc 2000H (8 giờ đêm) với tốc độ chậm để chờ HQ5. Lúc 00 giờ 12 qua ngày 18-1, HQ5 bắt đầu tách bến và bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15 sáng. Trước tình trạng kỹ thuật của HQ10 chỉ còn xử dụng được một máy và do nhu cầu hành quân khẩn cấp nên HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hành Quân đã quyết định chỉ thị HQ5 chạy trước bỏ lại HQ10 phía sau. Trên đường đến HS, Hạm Trưởng HQ10, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (K.12/SQHQ/NT) ra lịnh kiểm soát tất cả mọi ụ súng, đem đạn tối đa từ hầm đạn lên các dàn súng nhưng tất cả các khẩu súng đều phải bao lại và nòng súng chỉa lên trời, HT khuyến khích tất cả các nhân viên không thuộc phiên đi ca cố ngũ để lấy sức cho những ngày kế tiếp. Ngoài ra ông ra lịnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến và kiểm soát lại 4 bè cấp cứu cùng các hộp mưu sinh thoát hiểm. HT còn ra nghiêm lịnh bắt buộc tất cả nhân viên phải mặc áo phao và đội nón sắt mặc dù trời rất nắng và nóng bức (đây là những chỉ thị rất sáng suốt của một cấp chỉ huy đầy kinh nghiệm, tiên liệu được những điều có thể xảy ra cho chiến hạm trong một trận hải chiến và cũng nhờ những nghiêm lịnh này mà các chiến sĩ HQ10 trong lúc đào thoát đã có sẵn một số nước uống, thực phẩm khô để cầm cự trong thời gian đầu và áo phao đã giúp họ không bị chìm cũng như che chỡ bớt cơn lạnh về đêm). HQ10 đến HS vào khoảng 11 giờ đêm ngày 18-1. HT liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (K.10/SQHQ/NT) Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ16 kiêm Chỉ Huy Trưởng Phân Đội II (gồm có HQ 10 và HQ 16), sau đó thi hành lịnh của Trung Tá Thự, HT ra lịnh làm tối chiến hạm (darken ship) để địch không nhận dạng được. Khoảng 01.00H khuya 19-1, chiến hạm nhận được lịnh hành quân từ Đại Tá Ngạc. Sau khi hội ý với HP là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí (K.17/SQHQ/NT), HT đã ở lại phòng vô tuyến phụ cạnh đài chỉ huy (ĐCH) để liên lạc với các giới chức liên hệ và chỉ thị HP họp các SQ và nhân viên tại phòng ăn SQ vào lúc 0200H. Trong buổi họp, HP đã thông báo cho thủy đoàn HQ10 biết là theo nội dung công điện hành quân thì chiến hạm sẽ chuẫn bị chiến đấu thực sự lúc 6 giờ sáng, HP cũng nhấn mạnh ở điểm là bên ta không được khai hỏa trước vì vậy phần thiệt hại về phía ta có thể lên đến 80% hoặc 90%. Trung Úy Nguyễn Đông Mai có đặt câu hỏi về việc khai hỏa thì HP trả lời đây là lịnh từ Sài Gòn chúng ta phải thi hành theo lịnh. Cuộc họp chấm dứt vào lúc 0230H. Khoảng 4 giờ sáng, sau một giấc ngủ ngắn HT thức giấc và từ ĐCH ông ra lịnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Tiếp theo hồi còi.. tít..tít..tít..là tiếng của HT vang lên trong hệ thống âm thoại:” đây là HT…nhiệm sở tác chiến …nhiệm sở tác chiến…tất cả vào nhiệm sở tác chiến”. Nghe tiếng còi và lịnh của HT tất cả nhân viên bật dậy và lập tức vào nhiệm sở của mình. Tiếp theo đó là nhiệm sở phòng không. Tất cả nòng súng rợp rợp hướng lên trời ở góc độ 45 độ. Khoảng 4 giờ 30 có hai đóm sáng trên trời, tất cả các khẩu súng đều quay về hướng hai mục tiêu này. Khoảng 5 giờ 30 hai đóm này lại xuất hiện. Lúc 6 giờ hai đóm sáng này bay thấp hơn có lẽ là hai phản lực cơ. Sự xuất hiện liên tiếp của các phi cơ lạ tạo nên tình trạng căng thẳng cho tất cả các nhân viên trên chiến hạm, chắc hẳn mọi người ai cũng linh cảm rằng một cuộc hải chiến chắc sẽ xảy ra. Rạng sáng ngày 19-1, thi hành lịnh Phân Đội Trưởng, HQ10 di chuyển vào lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm theo lối giữa bãi Antelope và đảo Quang Hòa. Lúc này trời còn lờ mờ chưa tỏ hẵn ánh dương, lực lượng địch bây giờ được tăng cường thêm 2 chiếc Trục lôi hạm T43 mang số 389, 396. Như vậy chúng có cả thảy 4 chiến hạm (2 chiếc Hộ tống hạm loại Kronstadt số 271, 274 đã xuất hiện từ trước) và 2 tàu đánh cá ngụy trang mang số 402, 407 đang hiện diện tại vùng, đối đầu với 4 chiến hạm của ta (kể cả Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ 5 thuộc Phân Đội I đang ở trong khu vực phía Nam và phía Tây Nam đảo Quang Hòa). Chiến hạm ta và địch chạy đan qua đan lại nhau rất gần. Địch nhiều lúc như muốn đâm thẳng cả tàu vào chiến hạm của ta nhưng về cả hai phía các khẩu súng đều chỉa lên trời. Khoảng 6 giờ 30, Đại Tá Ngạc ra lịnh cho HQ5 đổ bộ toán người Nhái lên đảo Quang Hòa. Toán này vừa tiến vào bờ thì bị lính TC nổ súng trước, một SQ và một chiến sĩ người Nhái bị tử thương. Đại Tá Ngạc ra lịnh toán người Nhái mang xác SQ và rút toàn bộ trở về HQ5. Nghe tiếng súng nổ, HT thông báo diển tiến và ra lịnh tất cả nhân viên sẵn sàng. Ngay sau tiếng súng nổ trên đảo, chiến hạm của ta và TC không còn chạy gần nhau nữa mà bắt đầu tách ra xa. Khoảng 9 giờ, các tàu TC trao đổi quang hiệu. Ngay tiếp sau đó các tàu đánh cá ngụy trang được 4 chiến hạm bảo vệ di chuyển song song về hướng Bắc và dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người trên chiến hạm thoáng vui mừng, ai cũng thở phào nhẹ nhõm nghĩ là TC đã chịu lùi bước rút lui. Phần Trung Úy Hà Đăng Ngân hơn ngày qua lúc nào thần kinh cũng căng thẳng áo phao, nón sắt rất bực bội bây giờ được tạm cỡi ra vừa xuống phòng ăn cơm xong định đặt chân vào phòng tắm thì còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, Tr/Úy Ngân tức tốc chạy lên nhiệm sở, mặc lại áo phao, đội nón sắt vào. Nhìn theo hướng chỉ trên ĐCH thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm TC đã rời vùng cách đây khoảng một tiếng quay đầu trở lại. Khi các chiến hạm TC tiến đến các chiến hạm ta, chúng không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng 1 km làm thành một vòng tròn bao quanh các chiến hạm ta. Sau khi chạy loang quanh chừng 2 vòng các tàu TC từ từ lảng xa ra hơn. Như tiên đoán trước được dấu hiệu khác thường HT ra lịnh chuẩn bị tác chiến nhưng tất cả nòng súng hướng vào phía đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trông chờ mãi khẩu lịnh “bắn” vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần xao lãng không còn vẽ hăng say như lúc đầu. Lợi dụng khoảng thời gian này , một số nhân viên ở các nhiệm sở luân phiên vào nhà ăn để dùng cháo cho buổi điểm tâm. Khoảng 10 giờ, hai chiếc tàu TC mang số 389, 396 bắt đầu tách rời ra khỏi hai chiếc 271, 274 và chạy song song gần nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường, HT ra lịnh hạ nòng súng và quay súng về phía tàu TC, vài phút sau hai tàu TC chạy gần sát vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song trực chỉ HQ10. HT ra lịnh tất cả ổ súng hướng về hai mục tiêu địch và xin lịnh cấp trên cho phép nổ súng nhưng được trả lời chờ Sài Gòn quyết định. Lúc này thần kinh tất cả mọi người thật căng thẳng. Hai tàu TC cứ từ từ đến gần, khi còn cách HQ10 khoảng 200-300m, HT hét lớn “bắn”. Tất cả các khẩu súng trên tàu đều nhả đạn vào tàu địch. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lịnh của chính HT (theo HQ Tr/Tá Lê Văn Thự Hạm Trưởng HQ16 thì HQ16 khai hỏa trước). Những phát đạn đầu tiên của HQ10 trúng ngay vào chiếc 389 của TC làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu 127 ly trên HQ16 trực xạ vào chiếc 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay ĐCH làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh. Đến lúc này HQ10 vẫn an toàn, đạn từ tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước. Chiếc 389 bị trúng nơi hầm đạn với lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, ngoài ra máy phát điện cũng bị hư vì trúng đạn. Sau khi đã cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa chửa máy phát điện, chiếc này quay trở lại tham chiến. Điểm cần nêu lên ở đây là so sánh về hỏa lực thì hai trục lôi hạm số 389 và 396 tuy không được trang bị đại bác cỡ lớn nhưng bù lại mỗi chiếc có 4 khẩu đại bác 37 ly (tương đương với đại bác Bofors 40 ly của ta) và 4 khẩu đại bác 25 ly. So sánh về kích thước 2 chiếc này tương đương với HQ10, do đó địch đã áp dụng chiến thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly trên HQ16 và 76, 2 ly trên HQ10. Đang chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76, 2 ly trên HQ10 bị trở ngại tác xạ (có phải đây là lý do mà HT đã khẩn cấp gọi HP lên ĐCH???) thêm vào đó chiến hạm lại chỉ có một máy khiển dụng, vì thế việc vận chuyển để xử dụng tối đa 2 khẩu đại bác 40 ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn. Lợi dụng sự bất lợi của HQ10, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ10 bắt đầu trúng đạn ở ĐCH và phòng lái. HT, hầu hết các Sĩ Quan, HSQ và nhân viên ngành Giám lộ và Vận Chuyển có mặt trên ĐCH và phòng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm Phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải). Ngoài ĐCH và phòng lái, hầm máy và hầm đạn dược cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu. Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát thấy HQ10 đang ở trong tình trạng rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 của TC vận chuyển tiến vào phía sau lái hữu hạm HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào một vài nhân viên hơi giao động nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu vẫn ngang nhiên ghì chặt nòng súng làm tròn phận sự của mình (lúc này trên HQ10 có khoảng 50 chiến sĩ đã hy sinh, một số bị thương nặng nhẹ, chỉ còn khoảng 20 người còn khả năng chiến đấu). Lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên , súng bazooka qua HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại, sau đó sẽ cặp vào đổ bộ lính lên chiếm đoạt tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ10. Những đợt tác xạ của địch trúng vào Đài Chỉ Huy đã làm Đ/U Trí rớt xuống phòng lái, tuy nhiên với dáng người to con, tướng vạm vỡ (cao 1,74m - nặng 70 kg), HP Nguyễn Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên. Đoán được ý định của giặc, từ phòng lái, Đ/U Trí đã giựt lấy khẩu M16 nhã hàng loạt đạn vào tàu địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, Đ/U Trí đã cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm vào hông chiếc 389 của địch. Cố thiếu tá Nguyễn Thành Trí Quá bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không còn cách gì để vận chuyển tránh né khỏi nên đã bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu điểm của chiến hạm là phần sau lái. Cú đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy kịch, có lẽ đang sắp sửa chìm. Đây chắc cũng là lý do khiến chiến 396 phải ngưng chiến đấu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu chiếc 389. Tuy nhiên, ngay cả chiếc 396 cũng lâm vào tình trạng nguy ngập vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang 402 và 407 đã đến tiếp cứu và đưa 389 ủi vào bãi san hô. Có thể nói đây là một chiến công thật hiển hách của anh hùng Nguyễn Thành Trí trước giặc thù Trung Cộng. Nhận lãnh trách nhiệm quyền Hạm Trưởng (HT Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt kiêm Phân Đội Trưởng Phân ĐộI II đã chỉ định HQ Đ/U Nguyễn Thành Trí thay thế HT Ngụy Văn Thà đã tử thương) trong lúc đang bị thương nặng, một mình đơn độc trên đài chỉ huy (Hạm Trưởng và hầu hết các SQ và nhân viên trên đài chỉ huy và phòng lái đã hy sinh), chiến hạm lại đang ở trong tình trạng nguy kịch, Đ/U Trí quyết định liều chết trong tình trạng khẩn trương đã dùng con tàu làm vũ khí lợi hại chống lại kẻ thù. Đ/U Trí không những đã phá vỡ ý đồ cướp tàu, bắt sống thủy thủ đoàn và mang HQ10 về làm chiến lợi phẩm của địch mà ngược lại còn gây thiệt hại nặng nề cho tàu địch. Hành động này của Đ/U Trí đã dẫn đến cái chết cho ông và 6 chiến sĩ trên HQ10 trong lúc đào thoát, nhưng ngược lại đã bảo toàn danh dự của Hải Quân VNCH và của tổ quốc Việt Nam. Vì cấu trúc của phần mũi HQ10 rất chắc chắn nên sau khi đâm mạnh vào sau lái chiếc 389, phần sườn và võ tàu HQ10 không bị hư hại thêm nhiều nhưng cả 2 máy lúc này hoàn toàn bất khiển dụng. Chiến hạm ta và địch từ từ tách ra xa. Tiếng súng đã lắng dịu. Trận hải chiến đang ở trong giai đoạn chấm dứt. HQ16 đang cố gắng bơm nước ra và sửa chửa máy phát điện từ từ ra khỏi lòng chảo hướng về Đà Nẵng. HQ4 và HQ5 rời vùng về hướng Đông Nam. Chiến hạm địch đang tự cứu hoặc đến cứu giúp lẫn nhau. Do đó, mặc dù HQ10 vẫn còn hiện diện tại vùng chiến nhưng đã không có một chiến hạm nào khác của TC đến gần để thăm dò hoặc để bắn chìm. Mãi đến 11 giờ 49 phút TC mới ra lịnh cho 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281, 282 tăng tốc độ trực chỉ đến vùng và chúng đã đến địa điểm giao chiến vào lúc 12 giờ 12 phút. Tình trạng HQ10 lúc này quá bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm Trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có Tr/Úy Thạch Cơ khí trưởng hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, 2 máy chánh và máy điện hoàn toàn bất khiển dụng, hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không xử dụng được. Đ/U Trí từ ĐCH bò xuống sàn tàu. Trước tình trạng tuyệt vọng không được sự tiếp cứu từ các chiến hạm bạn, ngoài ra các chiến hạm địch cũng đang tự cứu lấy do đó không còn là mối đe dọa nữa. Có lẽ đây là những lý do đã khiến cho Đ/U Trí ra lịnh đào thoát. Với gương mặt đầy máu, Đ/U Trí được hai nhân viên dìu đứng gần bè cấp cứu dõng dạc tuyên bố:” Hạm Trưởng đã hy sinh, tôi thay mặt Hạm Trưởng ra lịnh đào thoát.” Sau đó, Đ/U Trí đã lết đến từng chỗ mà kéo vực các binh sĩ xuống bè đào thoát (trong số này có Tr/úy Phạm Văn Thì đang ở tại nhiệm sở thủ cây đại liên). Ngoài ra Đ/U Trí chỉ định những nhân viên còn khỏe mạnh thả 4 bè cấp cứu cùng phụ giúp đưa những người bị thương xuống bè và chuẩn bị 1 bè nhỏ có 2 miếng ván kê lên để cho 2 chiến sĩ bị thương nặng là TS/VC Đa và TS/TP Nam nằm lên. Khi tất cả nhân viên đã xuống bè, Đ/U Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại chết cùng Hạm Trưởng cùng nhân viên và chiến hạm nhưng hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long đã cặp và lôi ông xuống bè. Như vậy cuộc đào thoát đã được thực hiện từng giai đoạn, rất có kỷ luật và theo đúng truyền thống Hải Quân. Quyền Hạm Trưởng Nguyễn Thành Trí là người cuối cùng miển cưỡng rời chiến hạm. Trong những giờ phút sau cùng, Đ/U Trí vẫn không quên những bài học về Hải Quy trong hai năm thụ huấn nơi quân trường. Khi tất cả nhân viên đã lên bè đầy đủ (có người nhảy xuống nước rồi mới lên bè) kiểm điểm lại có tất cả 28 người trong đó có những người bị thương nặng và nhẹ trên 4 bè lớn và 1 bè nhỏ, ngoại trừ các chiến sĩ đã hy sinh. Có 2 chiến sĩ oai hùng là HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã từ chối không xuống bè đào thoát, quyết ở lại tử chiến với giặc thù Trung Cộng và chết theo tàu.. Tình trạng các bè rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của Đ/U Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng Đ/U Trí vẫn còn tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đưa 4 bè lại gần nhau rồi dùng những sợi dây chung quanh phao, cột chúng lại với nhau để cho tàu chạy ngang qua dễ nhìn thấy. Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong; về phía Trung Cộng, 3 chiếc cũng đang bốc cháy. Tất cả mọi người đều hy vọng sẽ có chiến hạm bạn đến tiếp cứu nhất là HQ16 cũng không xa lắm, nhưng khi nhìn thấy HQ16 bị nghiêng một bên và đang từ từ chạy ra khỏi lòng chảo họ mới hiểu được lý do vì sao HQ16 không đến vớt họ lên. Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi đến gần thì ra là hai chiếc số 281, 282 loại Hainan của TC. Khi 2 chiếc này tới gần HQ10 vào lúc 12 giờ 12 phút khẩu đại bác 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ bắt đầu nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly từ HQ10 im bặt, HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã trúng đạn của giặc thù TC hy sinh đền nợ nước một cách oai hùng. Mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng tàu TC vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 trong khi HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh cho đến 14 giờ 52 phút thì chìm tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope reef) khoảng 2,5 km mang theo thân xác của Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và 54 (2) chiến sĩ anh hùng của HQ/VNCH. Thanh toán HQ 10 xong, hai chiếc 281, 282 quay lại tiến gần đến các bè, HP Nguyễn Thành Trí dặn các nhân viên trên bè: ”nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng van xin”. Tất cả đều hồi hộp không biết chúng sẽ hành động như thế nào? Chúng sẽ vớt họ lên bắt sống làm tù binh? Chúng sẽ bỏ mặc cho bè các anh tiếp tục trôi để chết lần mòn giữa biển khơi? Hay là chúng sẽ bắn vào bè để giết chết hết các anh?... Cuối cùng, sau khi chạy quanh các bè khoảng 2 vòng, chúng vẫy tay cười rồi bỏ đi. Chúng đã chọn phương cách thật tàn nhẫn vừa khỏi phí đạn, vừa khỏi tốn công chăm sóc các anh theo luật tù binh quốc tế, vừa khỏi mang tiếng sát nhân vì chúng nghĩ là sớm muộn gì các anh cũng sẽ chết. Hành động vô nhân đạo này của TC đã làm chết thêm 7 chiến sĩ của HQ10. Nếu chúng thi hành đúng theo hiệp ước Geneva về tù binh thì khi các chiến sĩ HQ10 được vớt lên chúng có nhiệm vụ phải chăm sóc cho họ và sẽ không có thêm 7 chiến sĩ của HQ10 phải chết oan uổng trên đường đào thoát. Sau khi tàu TC bỏ đi, các bè vẫn tiếp tục trôi và khi mặt trời bắt đầu lặn dòng nước đưa các bè lại gần một hòn đảo nhỏ. Đ/U Trí ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống, tuyệt đối không được uống nước biển sẽ chóng chết. Các anh em cố gắng dùng tay và những mảnh ván nhỏ thế chèo nhưng vẫn không vào được gần đảo, dần dần các bè trôi ra ngoài khu vực lòng chảo. Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có Đ/U Trí bị đứt giây tách ra khỏi nhóm. Tất cả mọi người trên các bè đều lạnh run và mệt lả. Trên bè của Đ/U Trí có thêm Tr/úy Ngân cũng bị thương. Phần Đ/U Trí bị thương trên đầu, bụng và chân nhưng ông vẫn cố gắng giữ vẻ tỉnh táo, che dấu đi những nổi đau đớn do vết thương hành hạ. Tuy nhiên vết thương ở chân vì không được băng bó kỷ lưỡng nên vẫn còn rĩ máu vì thế cá mập cứ bám theo sau. Lo ngại về sự an toàn của đồng đội và có lẽ cũng biết là mình sắp chết nên Đ/U Trí đã bảo thuộc cấp: "hảy thả tôi xuống biển, nếu không cá mập cứ bám theo, các anh cũng sẽ chết hết." (3) Nhưng các anh em không thể nhẩn tâm đối với vị Hạm Phó đã từng sống chết với mình nên họ đã làm ngơ. Cho đến khi đêm xuống, các anh em mệt nhoài ngủ thiếp đi thì cũng là lúc Đ/U Trí trút hơi thỏ cuối cùng đền nợ nước vào khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1974, sau khi đã làm tròn nhiệm vụ của một chiến sĩ HQ/VNCH cho đến phút cuối cùng. Các chiến sĩ đào thoát đã chờ đến lúc trời sáng để làm lễ thủy táng cho ông theo truyền thống Hải quân. Ngoài Đ/U Trí còn có 5 chiến sĩ bị thương trong trận hải chiến cũng đã hy sinh trên các bè đào thoát, danh sách trích từ phiếu tường trình ủy khúc số 121/BLH/HĐ/NV/TTUK/K ngày 16-2-1974 của BTL/HĐ (4) gồm có: - HQ. Đại Úy Nguyễn Thành Trí số quân: 61A702.714 - TS1/GL Vương Thương - 64A700.777 - TS/VCh Phan Ngọc Đa - 71A703.001 - TS/TP Võ Văn Nam - 71A705.697 - TS/ĐTTrần Văn Thọ - 71A706.845 - TS/QK Nguyễn Văn Tuấn - 71A700.206 Với khoảng 4 ngày và 3 đêm trôi lênh đênh giữa vùng biển mênh mông trên các bè loang lỗ đầy vết đạn của giặc thù, nước uống và thức ăn không đủ để chia nhau phải dùng nước tiểu pha với nước biển để uống cầm cự. Họ đã sống giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa cái chết và cái sống, giữa những cơn đau đớn tận cùng do vết thương hành hạ, do thời tiết nghiệt ngã mang đến và nhất là nổi đau xót khi chứng kiến đồng đội người này tiếp nối người kia gục ngã trên bè, thân xác được thủy táng vào lòng đại dương. Nhưng hầu như tất cả mọi người lúc nào cũng chia xẽ với nhau, cũng nhường nhịn lo lắng cho nhau và cùng nhau cầu nguyện. Công tác tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ đào thoát. Ngay trong ngày 19-1, trước tin sơ khởi báo cáo về cho biết có thể có 2 chiến hạm phía ta đã bị hỏa tiển Styx của TC bắn chìm, chánh phủ VNCH đã 3 lần nhờ chánh phủ Hoa Kỳ trợ giúp trong việc tìm kiếm và cấp cứu (2 lần nhờ sự trợ giúp của các chiến hạm và 1 lần nhờ sự trợ giúp của các trực thăng thuộc Đệ 7 Hạm Đội), nhưng lời yêu cầu này đã bị Đại Sứ Martin khước từ. Người bạn đồng minh từ bao năm nay đã lựa chọn thái độ không can dự vào các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo trong vùng biển Đông, ngay cả việc giúp đỡ với mục đích nhân đạo. Thái độ này đã được thể hiện rõ rệt qua việc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Quốc Phòng chỉ thị cho Hải Quân Hoa Kỳ đứng ngoài khu vực xung đột. (ngày giờ chính xác của văn thơ này chưa được rõ). Do vậy, nên ngay sau khi được tin chiến hạm HQ/VNCH đã nhận được lịnh khai hỏa, Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 0950H ngày 19-1 lập tức gởi công điện ra lịnh cho các chiến hạm Hoa Kỳ tránh xa khỏi khu vực sắp giao chiến và tránh các hành động có thể được xem như là tham dự vào hay cung cấp sự yểm trợ cho miền Nam. Đồng thời Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương cũng ra lịnh cấm tất cả các phi cơ thuộc Không Lực Hoa Kỳ bay trên không phận quần đảo Hoàng Sa ở bất cứ cao độ nào. Nhật báo The New York Times ra ngày 19-1 có đăng lời Phát Ngôn Viên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tuyên bố “Chúng tôi không đứng về bất cứ phe nào”. Ngoài ra John F. King viên chức Giao Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã phát biểu khi trả lời các câu hỏi:” Lẽ dỉ nhiên, chúng tôi hết sức mong muốn một sự dàn xếp êm đẹp”, nhưng “chúng tôi không can dự vào”. Vào buổi tối ngày 20-1, Ngoại Trưởng VNCH đã yêu cầu Đại Sứ Martin chuyển đạt lời yêu cầu đến chánh phủ Hoa Kỳ để nhờ họ đề nghị với TC đồng ý hưu chiến trong 48 giờ, đủ thời gian để chánh phủ VNCH có thể di tản những người chết và bị thương ra khỏi quần đảo HS (5) Lời đề nghị hợp lý và nhân đạo này đã không được chánh phủ Hoa Kỳ chuyển đến Bắc Kinh. Trước thái độ dửng dưng của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi cân nhắc lợi hại đã từ bỏ ý định dùng võ lực tái chiếm Hoàng Sa. Vì vậy các giới chức thẫm quyền đã nghĩ ngay đến việc cứu cấp các chiến sĩ HQ10 đào thoát trên bè sau trận hải chiến. Trưa ngày 22-1 lúc 1 giờ 05 phút, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn đã gởi điện thư về Bộ Ngoại Giao báo cáo là vào buổi sáng, dinh Độc Lập, Bộ Ngoại Giao và Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đã thông báo với họ là Chánh Phủ Việt Nam cảm thấy bắt buộc phải mở ra cuộc hành quân không/hải để tìm kiếm những người hy vọng sống sót trên mặt biển trong khoảng giữa Hoàng Sa và Đà Nẵng. Tiếp theo đó lúc 1 giờ 31 trưa ngày 22-1, Tòa Đại Sứ lại gởi tiếp bản văn từ Bộ Ngoại Giao VNCH mới vừa được Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao VNCH phổ biến đến báo chí, nội dung bản văn loan báo cấp chỉ huy quân sự Việt Nam đang mở ra cuộc hành quân cứu cấp trong vòng 48 giờ để cứu vớt những người sống sót trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, chiến hạm này đã được báo cáo mất tích sau trận hải chiến với Hải Quân TC tại quần đảo Hoàng Sa. Lực lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119. Khu vực tìm kiếm nằm trong giới hạn bởi các tọa độ dưới đây: - A. 15 độ 30 phút 28 giây Bắc - 110 độ 00 phút 18 giây Đông - B. 14 độ 50 phút 30 giây Bắc - 110 độ 40 phút 27 giây Đông - C. 15 độ 30 phút 36 giây Bắc - 111 độ 10 phút 00 giây Đông - D. 16 độ 00 phút 00 giây Bắc - 110 độ 40 phút 48 giây Đông Bản văn từ Tòa Đại Sứ Mỹ cũng cho biết là các giới chức thẫm quyền VNCH quan tâm đến số phận của thủy thủ đoàn HQ10 mà lần sau cùng đã được thấy không người điều khiển gần đảo Vĩnh Lạc (Money). Với dòng nước biển chảy bình thường sẽ đưa HQ10 hoặc là nếu chiến hạm bị chìm sẽ đưa những người sống sót đến khoảng 70 hải lý về hướng Tây Nam của khu vực nằm trong các tọa độ A, B, C và D. Bản văn còn cho biết là chánh phủ VNCH chỉ thị phái đoàn VN ở Geneva lập tức thông báo cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế những điều đã đề cập ở trên và yêu cầu Hội thông báo Bắc Kinh về bản chất và phạm vi của cuộc hành quân, ngoài ra còn yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ xử dụng các phương tiện thông tin trực tiếp với Bắc Kinh trong nỗ lực để đảm bảo là Bắc Kinh cũng biết rõ về chiến dịch hoàn toàn có tính chất nhân đạo này. Về phần Đại Sứ Martin, ông cũng khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Mỹ nên tiếp xúc với Phái đoàn liên lạc TC ở Hoa Thịnh Đốn hoặc Văn phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh để yêu cầu TC thông báo đến các giới chức thẫm quyền quân sự của họ về chiến dịch này và Bộ Ngoại Giao có thể chỉ thị Phái Đoàn Hoa Kỳ ở Geneva tạo điều kiện để Phái đoàn Việt Nam tại Geneva và Hội HTT quốc tế gặp gỡ nhau. Những lời khuyến cáo của Đại Sứ Martin đã được Ngoại Trưởng Kissinger chấp thuận, vì vậy ngay sau đó Ngoại Trưởng Kissinger đã gởi điện thư cho Văn Phòng Liên Lạc Mỹ ở Bắc Kinh yêu cầu họ thông báo với Bộ Ngoại Giao TC về cuộc hành quân cứu cấp này. Ngoài ra cũng giải thích cho Bắc Kinh biết là Mỹ làm việc này theo sự yêu cầu của chánh phủ VN và với tính cách nhân đạo, còn việc đề nghị Bộ Ngoại giao TC thông báo cho cấp chỉ huy quân sự TC là tùy ở Văn Phòng Liên Lạc. Trong khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 22-1-1974 tàu dầu Kopionella thuộc hảng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã tìm thấy và vớt tất cả 22 người (5) thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông, như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển trong khoảng 78 giờ với khoảng cách độ 110 km. Sau khi lên tàu Thượng Sĩ Châu vì quá kiệt sức nên đã trút hơi thở cuối cùng, ngoài ra có 4 người bị thương nặng. Tất cả đã được từ Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và phu nhân của các vị này cùng thủy đoàn tàu dầu Kopionella tận tình chăm sóc. Với tư cách Sĩ quan thâm niên hiện diện, HQ Trung Úy Phạm Văn Thì đã được Thuyền Trưởng đưa vào phòng của ông để liên lạc với cấp chỉ huy Hải Quân Việt Nam. Sáng ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6 để đưa về Đà Nẵng. Qua lời thuật lại của các chiến sĩ sống sót, cuộc hành quân cứu vớt tiếp tục sang ngày 23-1 với hy vọng tìm thấy bè bằng cây trên đó có TS/VC Đa và TS/TP Nam, nhưng đến 6 giờ 15 phút chiều cùng ngày phi cơ tuần tiểu đã phát giác hai mãnh ván tại tọa độ 15 độ 43’ Bắc – 110 độ 02’ Đông, nhưng khi chiến hạm được điều động đến nơi mọi người đều thất vọng vì chỉ thấy 2 miếng ván không người. Cuộc hành quân tìm kiếm và cấp cứu đã được chấm dứt ngay sau đó. Để kết luận, trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 như là một định mệnh đã sẵn dành cho Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử chống ngoại xâm để gìn giữ cõi bờ hùng vĩ do tổ tiên truyền lại. Tuy mất Hoàng Sa nhưng gương sáng về những sự hy sinh cao qúy, về tinh thần chiến đấu cao độ, liều chết tử thủ trước giặc thù, về lời nói đầy hùng khí ngay cả khi lâm vào tình thế nguy khốn sẽ mãi mãi được nhớ đến trong lịch sử oai hùng ngàn đời của con dân nước Việt. Xin cho một lần tất cả những người dân nước Việt, không phân biệt Nam, Trung, Bắc không phân biệt lý thuyết, chủ nghĩa hãy cúi đầu khâm phục tinh thần bất khuất và sự hy sinh cao cả của 54 chiến sĩ HQ10 đã hy sinh tại chiến trường, 7 chiến sĩ hy sinh trên đường đào thoát cũng như 21 chiến sĩ còn lại đã thoát chết trong lúc chiến đấu với giặc thù, đã sống sót trong 3 đêm và 4 ngày gian khổ cùng cực trên biển khơi. Các anh còn sống để có ngày chứng minh cho cả thế giới biết sự chiến đấu hào hùng của dân Việt cũng như sự nhẫn tâm của giặc thù Trung Cộng. Sơ đồ cuộc hành quân tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ thuộc HQ 10. Chuyện bên lề: Trong bài “Nhật ký bên lề trận hải chiến Hoàng Sa”, HQ Đại Tá Võ Sum TP6/BTL/HQ (Phòng Truyền Tin) đã viết là vì muốn biết số phận cuả HQ10 nên trong ngày 20 tháng 1, ông đã dùng phương pháp cảm xạ học để tìm vị trí của chiến hạm xấu số này. Ông đã tiên đoán số phận HQ10 “không bao giờ trở lại” và các bè trôi theo hướng 240 độ thật là chính xác. Vị trí cuối cùng của các bè đào thoát do Ông tìm được lần sau cùng vào lúc 10 giờ đêm ngày 22 tháng1 là điểm E tọa độ 16 độ 17’ Bắc và 110 độ 58’ Đông. Ngoài ra cũng theo bài viết thì chính HQ Trung Tá Lê Thành Uyển đã thiết lập khu vực tìm kiếm cho các chiến hạm và phi cơ. Phần dẫn chứng: Trong bài viết “On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution” tác giả TC đã diển tả về chiếc 389 như sau:”….chiếc 389 bị trúng đạn nước tràn vào trong hầm đạn dược…..ngoài ra 5 binh sĩ cũng hy sinh trong lúc sửa lại máy phát điện. Tất cả thủy thủ chiếc 389 chiến đấu một cách dũng cảm ném từng quả lựu đạn, xử dụng súng tiểu liên, súng bazooka bắn qua chiếc HQ10 gần sát đó. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh trong trận chiến xáp lá cà này. Lúc bấy giờ chiếc HQ 16 trở lại giao chiến với chiếc 389 để tiếp cứu chiếc HQ10 đang cháy bừng bừng. Đại Úy Nguyễn (ám chỉ Nguyễn Thành Trí) trên chiếc HQ10 thay thế Thiếu Tá Thà đã hy sinh, dốc toàn lực định húc ngay phía sau chiếc 389 thì chiếc 396 đến kịp để cản trở chiếc HQ 16 yễm trợ cho chiếc 389 thoát hiểm……………. 12 giờ 12 phút, phân đội 74 nhận lịnh công kích, chiến hạm 281 bắn xối xả lên chiến hạm Nhật Tảo, tuy thủy thủ đoàn chiến hạm Nhật Tảo chống trả mãnh liệt, đến 14 giờ 52 phút chiến hạm Nhật Tảo chìm tại địa điểm phía Nam bãi Ninh Dương (bãi đá Hải Sâm – Antelope reef) cách 2,5 cây số”. Ngoài ra bài này đã viết về chiếc 389 sau khi bị HQ10 đụng vào phía sau lái: ”… chiến hạm số 389 của ta có hơn 10 người chết, đã bị chiến hạm VNCH bắn trúng nhiều lần và bị thiệt hại rất nặng. Khi chiếc 396 chạy đến cứu, hầm máy chiếc 389 đã bị phát nổ, lửa đang cháy lớn, tàu có thể bị chìm bất cứ lúc nào. Hai chiếc tàu đánh cá số 402 và 407 cũng đang bị tấn công nhưng đã cố sức chạy đến cứu và cuối cùng đã thành công đưa chiếc 389 ủi vào bãi. Ba chiến hạm khác của ta tất cả đều hư hại, chiếc 274 bị thiệt hại rất nặng phải rởi khỏi vùng trở về đảo Phú Lâm, tại đây chiếc này đã được sửa chửa và đã trở lại căn cứ hải quân Yulin ngày hôm sau”. Có thể nói một phần trong bài này đã được phía TC viết gần đúng sự thật. Đoạn viết này đã cho thấy vài sự kiện rất quan trọng và từ đó sau khi kiểm chứng và tổng hợp với các tài liệu từ phiá VNCH ta có thể làm sáng tỏ 1 vài sự kiện mà từ trước đến nay chưa giải thích được, ngay cả các nhân chứng còn sống sót trên HQ10 cũng không biết về các hành động rất dũng cảm và rất oai hùng của các chiến sĩ trên HQ10. - Điểm thứ nhất bài viết đã xác nhận là chiếc 389 đã tiến sát vào HQ10 qua việc chúng ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên. - Điểm thứ 2 là vì tiến vào quá gần nên chúng đã quan sát thấy HT Ngụy Văn Thà đã tử trận. - Điểm thứ 3 là vì ở quá gần nên chúng đã quan sát thấy HP Nguyễn Thành Trí dốc toàn lực định húc ngay phiá sau chiếc 389. - Điểm thứ 4 là chúng đã công nhận khi 281 và 282 nhập vùng tác xạ vào HQ10 thủy thủ đoàn trên HQ10 đã chống trả mãnh liệt, điều này chứng tỏ là 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu đã can trường liều chết tử thủ, chống trả dữ dội khiến chúng không dám xáp lại gần, vì thế phải mất gần 2 tiếng đồng hồ, chúng mới đánh chìm HQ10. Bài viết của TC dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng sự thật vì không có can đảm viết rõ là HQ10 do chính Đại Úy Trí điều khiển đã đâm mạnh vào phần lái tả hạm và đã gây nên tổn thất nặng nề cho chiếc 389. Nếu 389 không bị đụng thì tại sao chúng lại bỏ cơ hội hiếm có để đổ bộ lên chiếm đoạt HQ10 và tại sao tàu lại bị nghiêng và phần lái bị chìm xuống. Tại sao 2 tàu đánh cá 402 và 407 phải chạy đến để tiếp cứu? (hình chụp chiếc 389 trích trong www.military.china.com) Tài liệu “On January 19, 1974 Xisha defended the war” trong phần tổng kết thiệt hại về phía TC có viết là chiếc 389 bị tổn thất nặng nề và 2 tàu đánh cá 402, 407 từ các vị trí ẩn núp an toàn lúc xảy ra trận hải chiến đã chờ cho đến khi các chiến hạm ta rút ra khỏi vòng chiến chúng mới dám chạy đến yểm trợ để đưa 389 ủi vào bãi san hô tránh chìm, nếu không chiếc 389 sẽ chịu chung số phận như HQ10. Đoạn viết này không nói đến 396 lại yểm trợ cho 389 chứng tỏ là 396 cũng đang bị thiệt hại nặng phải tự cứu. Ngoài ra khi 281 và 282 đến nơi hầu hết các chiến sĩ trên HQ10 còn sống sót đang ở trên các bè đào thoát, TC đã biết rõ điều này nhưng trong bài viết chúng cho là “thủy thủ đoàn” HQ10 chống trả mãnh liệt để tô đậm thành tích đánh chìm HQ 10 của chúng. Về việc HQ 10 đụng mạnh vào tàu TC, một số bài viết về phía VNCH như Hải Chiến Hoàng Sa của HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê đăng trong HSTT và bài viết Lần đào thoát ở Hoàng Sa của HQ Tr/U Nguyễn Đông Mai (6) cho là chiếc 396 của TC đụng vào HQ10, nhưng dựa theo các tài liệu TC thì đây là chiếc 389 trùng hợp với Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm. Hà Đăng Ngân trong Hoàng Sa và HQ10 (7) viết:”…Vài phút sau mục tiêu 2 cũng bốc khói, mục tiêu 1 tuy còn chút khói bốc lên, chạy trở vào gần HQ10, bắn trả lại HQ10 và HQ10 bắt đầu trúng đạn của tàu Trung Quốc…”. Tuy không nhớ rõ số của mục tiêu 1 và mục tiêu 2, nhưng qua bài viết của TC ta có thể suy ra mục tiêu 1 là chiếc 389 và mục tiêu 2 là chiếc 396. Các bài viết của các SQ và nhân viên còn sống sót trên HQ10 đã xác nhận sự kiện một chiến hạm TC đụng vào HQ 10 và ý định của chúng định cặp vào đổ bộ lính qua HQ10 mặc dù con số chiến hạm có khác đi. HQ Tr/Úy Nguyễn Đông Mai trong bài ‘Lần đào thoát ở Hoàng Sa’ đã viết:”..chiếc 396 như tiến lại gần tôi hơn từ phía lái…rồi chừng 15 phút sau, một tiếng va chạm mạnh làm chúng tôi té nhào trên sân tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vùng này có nhiều san hô. Sau này khi đào thoát tôi mới biết HQ10 đâm vào tả hạm chiếc 396.” HQ Ch/Úy Tất Ngưu (8) đã cho thấy một sự kiện hiển nhiên là chiến hạm của chúng tiến vào quá gần và các chiến sĩ trên HQ10 có cảm tưởng là chúng sẽ cặp vào để đưa lính sang chiếm tàu, bài ‘Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót’ đã viết:"…Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn: ”tàu TC đổ bộ, anh em cẩn thận”. Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tàu của ta đâm vào tàu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh. Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt." Hạ Sĩ Trọng Pháo Vương Văn Hà (9) qua bài “Người về từ Hoàng Sa” cũng xác nhận cú đụng này: ”… HQ10 bị bất khiển dụng khiến cho tàu địch đã bị bắn ở phía tả hạm đụng vào tàu chúng tôi.” HSTT cũng viết: ” …….tuy chiến hạm đang cháy nhưng vẫn tiến từ từ, sau đó ngừng lại khi đụng vào lái tàu địch 396….” Các bài viết trích dẫn ở trên đã xác nhận sự việc HQ10 và chiếc 389 đụng vào nhau, nhưng vì lúc bấy giờ trên ĐCH và phòng lái không còn ai sống sót, ngoại trừ HP Nguyễn Thành Trí do đó không ai biết được lý do chính xác và nếu không nhờ những chi tiết từ bài viết của TC, chiến công oanh liệt và oai hùng của HP Nguyễn Thành Trí sẽ không được biết đến. Qua các dẫn chứng trên đã chứng minh một sự thật hiển nhiên là HQ10 và chiếc 389 không phải vì đã: ”…trôi nổi không kiểm soát được trên mặt biển, đã đụng vào nhau” như trong Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa đã viết mà cú đụng này là do chủ ý của Đại Úy Trí đã đơn độc vận chuyển chiến hạm liều chết hy sinh cả chiến hạm và mạng sống đâm mạnh vào phần lái tàu địch. Chiếc 389 có lẽ không ngờ được là trên đài chỉ huy còn Đ/U Trí vì thế chúng không thể nào tránh né được cú đụng này và có lẽ chúng đã quan sát một cách rõ ràng những diển tiến trên ĐCH nên trong bài viết chúng đã nêu rõ là Đ/U Trí “dốc toàn lực định húc vào tàu chúng”. Dựa theo bài viết trên thì sự thiệt hại nhân mạng về phía TC trong trận hải chiến HS là 18 người chết và 67 người bị thương (chưa được kiểm chứng) trong số đó chiếc 389 trực chiến với HQ10 có số thương vong cao nhất là 10 người chết, như vậy đã chứng tỏ mức độ giao chiến rất khốc liệt giữa HQ10 và 389. Tuy dáng người vạm vỡ, nhưng với vết thương quá nặng có lẽ HP Nguyễn Thành Trí biết là mình sẽ không thể nào sống sót được lâu, nên sau khi tất cả nhân viên đã xuống bè Ông quyết định ở lại chết với chiến hạm, nhưng các nhân viên đã bắt buộc Ông phải xuống bè với họ. Việc Đ/U Trí quyết định ở lại tàu có 2 tài liệu viết trong khoảng thời gian ngắn sau biến cố HS đã chứng minh một cách rõ rệt. Tài liệu “Đêm Xuân trên vùng biển chết” của tác giả Thanh Chương trong Lướt Sóng đã viết: ”Người đã bị thương nhiều nhưng quyết ở lại cùng HT… …Một nhân viên đã phải vực Người nhẩy xuống cùng bè với tôi, bè cấp cứu sau cùng rời chiến hạm.” Tài liệu của tác giả ẩn danh viết: ”…. Hạ Sĩ Trọng Pháo Trần Ngọc Sơn và Thủy thủ Thám Sát Trương Văn Long, 2 người này đã cặp Đ/U Hạm Phó và lôi xuống bè.” (2) Dựa trên tài liệu của TC/CTCT thì: ”Chiến hạm cùng thủy thủ đoàn gồm 82 người đã bị mất liên lạc”, như vậy số quân nhân chết theo chiến hạm là 54 người. Tuy nhiên theo TTHS thì số quân nhân chết theo chiến hạm là 55 người. (6) Tài liệu của TC/CTCT viết: ”…thương thuyền Kopionella quốc tịch Hòa Lan đã vớt được 23 thủy thủ của Hộ tống hạm HQ10……Trong số này có 2 quân nhân bị tử thương ( gồm có 1 Đại Úy Hạm Phó)”… Chi tiết này không đúng vì Đ/U Hạm Phó đã hy sinh trên bè đào thoát và tàu dầu Hòa Lan chỉ vớt được tổng cộng có 22 người. Đặc Tính Hộ Tống Hạm Nhật Tảo: Hộ Tống Hạm Nhật Tảo thuộc loại Admirable Class Minesweeper (AM) do hảng tàu Winslow Marine Railway and Shipbuilding Co ở Winslow tiểu bang Washington đóng. Chiến hạm được hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943 và được đăt tên là USS Serene (AM 300). Ngày 7 tháng 2 năm 1955 đổi thành loại Fleet Minesweeper MSF 300. Ngày 24 tháng 1 năm 1964 chuyển giao cho Hải Quân VNCH và được đặt tên là Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10. Trọng tải: 650 tấn (tiêu chuẩn) – 945 tấn (tối đa) Kích thước: dài 184,5 ft – ngang 33 ft - tầm nước 9,75 ft Máy chánh: 2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mã lực Vũ khí: - 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm tối đa 14,000 yds, tầm hữu hiệu 7,500 yds, tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút. - 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm tối đa 11,000 yds, tầm hữu hiệu 4,000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút - 4 khẩu đại bác 20 ly đôi bao quanh phòng lái có tầm tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút - 2 khẩu đại liên 30 - có trang bị súng cối 81 ly (không rõ số lượng) - Vũ khí chống tàu ngầm: với nhiệm vụ tuần tiểu và hộ tống các dụng cụ rà mìn đã được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy lựu đạn (depth charge rack) đã được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra còn có 1 dàn phóng thủy lựu đạn hedgehog ở phía sân trước. Vận tốc: tối đa 14,5 knots, có tầm hoạt động 6,500 miles với vận tốc tiết kiệm là 8 knots Thủy thủ đoàn: 82 người Tài liệu dẫn chứng: - công điện với nhóm ngày giờ 190150Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 0950H) của Tư Lịnh Đệ 7 Hạm Đội Hoa Kỳ. - công điện với nhóm ngày giờ 190420Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 1220H) của Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương (Bấm vào đây xem tài liệu 2 công điện trên) - điện thư số 075995 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. - điện thư số 01000 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (Bấm vào đây) - điện thư số 01006 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Sòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ - điện thư số 013552 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Văn Phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh - điện thư số 014042 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn - điện thư số 01026 ngày 23-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ - Hà Văn Ngạc “Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” trong Tuyển Tập Hải Sử (TTHS) - Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (THHQ&HH) ấn hành 2004 - Jane’s Fighting Ships - Lê Văn Thự “Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa” – Calitoday, March 08, 2004 - Liu Bingfeng “On January 19, 1974 Xisha defended the war” – Military.china.com - Nguyễn Thị Thanh Thảo: ”Tài liệu mới HQ10 – Hoàng Sa” (bấm vào đây) - Phạm Mạnh Khuê “Hành quân Trần Hưng Đạo 47” (TTHS-THHQ&HH 2004) - Thanh Chương “Đêm Xuân trên vùng biển chết”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa ,Cục Tâm Lý Chiến/K.CTCT/BTL/HQ ấn hành 2004 - The Vietnam Center and Archive (Vietnam.edu.ttu) – tài liệu về đặc tính chiến hạm thuộc Hạm Đội Hải Quân VNCH - Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/Cục Tâm Lý Chiến “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của VNCH” ấn hành 1974 - Vũ Hữu San &Trần Đỗ Cẩm “Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa” ấn hành 2004 - Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com - Võ Sum “Nhật ký bên lề cuộc hải chiến Hoàng Sa”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa, Cục TLC/Khối CTCT/BTL/HQ ấn hành 1974 - Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com - (1) Theo lời thuật lại của chị Nguyễn Thành Trí trong lần đến thăm chị ở Sài Gòn vào tháng 10/2006. - (3) HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng TTHQ/VIDH lúc xảy ra biến cố HS “Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lịnh Hải Quân” phổ biến vào năm 1997 tại Yukon – Oklahoma (Câu nói này chính Đ/U Thự đã nghe nhân viên HQ10 trên cùng bè đào thoát với Đ/U Trí kể lại sau khi HQ6 đưa họ về Đà Nẵng) - (4) Phiếu Tường Trình Ủy Khúc số 121 ngày 16 tháng 2 năm 1974 của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội (Tài liệu do phu nhân cố HQ/Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp) - (5) điện thư số 0869 ngày 20-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ. - (7) Nguyễn Đông Mai “Lần đào thoát ở Hoàng Sa” (TTHS-THHQ&HH 2004) - (8) Hà Đăng Ngân “ Hoàng Sa và HQ10” (bấm vào đây) - (9) Tất Ngưu “Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót” – (bấm vào đây) - (10) Vương Văn Hà “Người về từ Hoàng Sa” – TTHS-THHQ&HH, 2004 - (bấm vào đây) Nguồn: Web Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa
......

Tưởng niệm 74 anh hùng tử sĩ VNCH đã hy sinh nơi biển đảo Hoàng Sa

Nghệ An, 14h30 ngày 18/1/2015, anh em dân chủ Nghệ An cùng nhau ra biển Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An để tưởng niệm 74 chiến sĩ VNCH đã chiến đấu anh dũng bảo vệ chủ quyền biển đảo và hy sinh nơi biển đảo Hoàng Sa. Trong nước cũng như ở Hải ngoại người dân – đồng bào của các anh cùng một mẹ Việt Nam vô cùng đau xót đang nhỏ lệ xót thương nhớ về các anh chiến sĩ đủ mọi binh chủng của Quân lực VNCH đã anh dũng hi sinh cho Tổ Quốc Việt Nam thân yêu. Hòa chung giọt lệ đó, anh em Nghệ An chúng tôi cũng xin gửi sóng biển tới các anh lời cám ơn, sự tiếc thương sâu sắc nhất. Dù thời tiết giá lạnh, nhưng anh em chúng tôi kẻ xa, người gần cũng đã quay quần về nơi đây để thả về đó lẳng hoa lòng. Dù biết các chú công an có theo dõi nhưng các cựu tù nhân lương tâm: Trần Đức Thạch, Chu Mạnh Sơn, Nguyễn Xuân Anh và rất nhiều những thân nhân gia đình tù nhân lương tâm, các anh chị em yêu mến dân chủ tham dự buổi tưởng niệm long trọng. Trong bối cảnh chủ quyền biển đảo của đất nước hình chữ S bị xâm phạm từ nước láng giềng Trung Quốc, cần lắm sự đồng lòng của nhiều người. Ánh lửa nhỏ từ những ngọn nến nhỏ sẽ thành ngọn đuốc bừng cháy, rừng lửa chiến sẽ bừng cháy dữ dội và hừng hực. Nguồn: https://www.facebook.com/DJ.duyen?pnref=story
......

65 năm bang giao Trung-Việt !!!

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 211 (15-01-2015) Hôm 14-1, sứ quán Việt cộng bên Tàu đã tổ chức họp báo về việc kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt–Trung (18/1/1950-18/1/2015). Theo đại sứ Nguyễn Văn Thơ, đây là dịp quan trọng để hai nước nâng cao hơn nữa mối “quan hệ hữu nghị truyền thống” và “hợp tác chiến lược toàn diện”. Lý do: Trung Quốc vừa là láng giềng lớn, vừa là nước cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam!           Phản ảnh Cam kết hợp tác toàn diện tháng 2-2011, Nguyễn Văn Thơ nói: “Đảng, Chính phủ và nhân dân VN trước sau như một luôn xem trọng việc phát triển quan hệ mọi mặt với Trung Quốc, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu, nhất quán và lâu dài trong chính sách đối ngoại của VN”. Đại diện Hà Nội nêu rõ: hai nước cần (1) tăng cường các cuộc tiếp xúc, thăm viếng cấp cao cũng như giao lưu giữa các bộ ngành và địa phương, đặc biệt thế hệ trẻ, nhằm củng cố niềm tin chính trị và niềm tin chiến lược; (2) tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, sớm thành lập hai nhóm công tác về cơ sở hạ tầng và tiền tệ; (3) tiếp tục giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lợi ích song phương và luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); (4) tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa hai dân tộc, nhất là cho giới trẻ”. (Theo Thông tấn xã VN 14-01-2015). Thiệt là trong lịch sử bang giao giữa các quốc gia và dân tộc tự cổ chí kim, từ đông sang tây, nhất là trong mấy ngàn năm Việt sử, chưa hề có mối quan hệ thắm thiết, sâu sắc, toàn diện như vậy!?!           Để chuẩn bị cho tinh thần này, ngày 27-12-2014, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ/VN -Nguyễn Thiện Nhân- và Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị TQ -Du Chính Thanh- đã cùng khai trương "Học viện Khổng Tử", một cơ quan tuyên truyền cho Tàu cộng. Sau đó, tại “hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015” ngày 29-12, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã khẳng định: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.           Nhân kỷ niệm 65 năm bang giao Trung-Việt, hãy thử nhìn lại mối quan hệ giữa hai lân bang này, mà đúng hơn là giữa hai cộng đảng. Một mối quan hệ luôn thể hiện trong ý đồ xâm lăng, kiểu cách “cá lớn nuốt cá bé” như từng chứng kiến trong lịch sử các quốc gia CS: Nga đối với các tiểu quốc Liên bang Xô viết, Liên Xô đối với các nước Đông Âu, và Tàu cộng đối với các nước châu Á cộng sản.           Ngày 13-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao VN, Hoàng Minh Giám, rồi ngày 18-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao TQ, Chu Ân Lai thay mặt chính phủ hai nước gửi công hàm công nhận lẫn nhau và đề nghị thiết lập quan hệ, từ đó ngày 18-1 được coi là ngày kỷ niệm chung. Nhưng cũng chính từ hôm này, mộng xâm lăng bành trướng muôn thuở của Đại Hán “tiến lên một tầm cao mới”. Lợi dụng sự viện trợ quân sự to lớn để giúp Hà Nội đánh Pháp rồi đánh Mỹ, mà thực chất là đánh phe quốc gia và chế độ tư bản, lợi dụng lòng tin tưởng mù quáng của Hồ Chí Minh và đảng Việt cộng vào tình đồng chí vô sản (hay là niềm tín thác sáng suốt của tên Tàu đội lốt Việt Hồ Tập Chương), lợi dụng sự ngu dốt về lịch sử chống giặc của tiền nhân và sự coi thường khí phách kháng Tàu của dân tộc, Mao Trạch Đông đã phá vỡ Ải Nam Quan, tiền đồn chốt chặn ngàn đời của nước Việt để không những đem lực lượng quân sự mà cả lực lượng chính trị, kinh tế, văn hóa ngõ hầu xâm lược Việt Nam, biến nó lại thành An Nam, và xa hơn là thành tỉnh Âu Lạc.           Bước xâm lược đầu tiên thể hiện qua cuộc Cải cách ruộng đất tiến hành theo đường lối Tàu và dưới sự chỉ đạo của Tàu, vừa nhằm tước đoạt đất đai cho cộng đảng, vừa nhằm phá vỡ cơ cấu xã hội và đạo đức dân tộc, vừa nhắm làm kiệt quệ kinh tế của Hà Nội để phải nhận sự viện trợ của Bắc Kinh trong cuộc chiến mở xuống phía Nam chủ nghĩa CS. Tiếp đến là thể hiện qua cuộc Trăm hoa đua nở theo tinh thần “Bách gia tranh minh” của Trung Nam Hải, vừa nhằm mục đích cải biến trí thức thành “cục phân” (vì mù quáng thần phục đảng) vừa nhằm mục đích tiêu diệt văn hóa Việt để văn hóa Tàu dễ tràn vào.           Cuộc thống trị kiểu “cá lớn nuốt cá bé” tiến thêm một bước với công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhằm tước bỏ chủ quyền nước Việt trên Hoàng Sa lẫn Trường Sa để giao cho kẻ ngoại thù mà cả mấy ngàn năm, biên giới phía Nam chỉ đến Hải Nam đảo. Giao cho chúng ngõ hầu được chúng viện trợ quân trang, quân dụng và cả quân đội để tàn phá chính đất nước của Tổ tiên (“dẫu đốt cả dãy Trường Sơn” như HCM từng nói), tàn sát chính đồng bào cùng huyết tộc (“đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng vì Trung Quốc” như Lê Duẩn từng khẳng định). Cuộc chiến tranh tương tàn càng kéo dài bao lâu thì cuộc xâm lăng của Trung Nam Hải càng tiến sâu chừng ấy.           Đến năm 1974, khi Tàu cộng ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa của đất nước, phá vỡ cuộc kháng cự anh dũng của VNCH, vào chính ngày kỷ niệm bang giao Trung-Việt (18-01), thì như để đánh dấu tình hữu nghị răng môi, tình đồng chí vô sản, Hà Nội hí hửng tuyên bố: “Thà để Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hơn là thuộc Ngụy Sài Gòn. Bạn giữ cho ta rồi có ngày sẽ trao lại”?!? Xâm lăng VNCH xong, Hà Nội bắt đầu bị Bắc Kinh đòi nợ chiến phí. Khốn nạn một điều là Trung Nam Hải không đòi tiền (mà có đòi thì Ba Đình chẳng biết lấy đâu đủ để trả) cho bằng đòi dâng đất, một điều mà vua chúa Việt chưa từng làm trong lịch sử, thậm chí còn cấm đoán với lời răn đe tru di tam tộc (Trần Nhân Tông). Nhưng Việt cộng thì cần gì biết tinh thần lẫn giáo huấn đó, nên năm 1988, lúc Tàu cộng chiếm thêm Gạc Mathuộc Trường Sa quần đảo, chính tên bộ trưởng quốc phòng thân Tàu là Lê Đức Anh đã cấm binh sĩ kháng cự, coi chúng như kẻ thù, thậm chí Bộ Chính trị sau đó còn cấm loan tin (rồi sẽ nhiều lần cấm tưởng niệm), khiến cho 64 chiến sĩ hải quân mãi mãi là những oan hồn tức tưởi vì bị hy sinh cho thứ tình hữu nghị không ai hiểu nổi!           Sau khi mất chỗ dựa vật chất và tinh thần từ anh cả Liên Xô và khối Đông Âu cộng sản, Hà Nội lại chạy sang Bắc Kinh mà mình từng coi là kẻ thù kể từ cuộc chiến biên giới 1979, để khấu đầu tạ tội, tái nhận giặc làm cha, xin nối lại mối bang giao, tình hữu nghị (1990). Thế là Tàu cộng lợi dụng cơ hội để biến quan hệ đồng chí anh em thành quan hệ chủ tớ, đại quốc chư hầu. Tại Hội nghị Thành Đô, các tên cáo già Giang Trạch Dân và Lý Bằng đã ra oai trước những chú cừu non Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và biến ba tên này thành đám đồng lõa, tay sai cho cuộc xâm lấn ngày càng sâu rộng, tặng cho Hà Nội vòng kim cô 16 chữ vàng ngày càng siết chặt đầu dân Việt và bảng mật ước ghê gớm ngày càng ngoạm dần đất Việt (xem dưới).           Và đó là Hiệp ước phân định biên giới năm 1999 nuốt trọn Ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, gần 1000 km2 đất liền; Hiệp ước phân định lãnh hải năm 2000 triều cống cho Tàu trên dưới 10.000 km2 vịnh Bắc bộ; Tuyên bố Việt-Trung năm 2001 rồi 2008 (do Nông Đức Mạnh) cho Tàu cộng vào yếu huyệt Tây Nguyên di dân, ém quân, cấy người qua vỏ bọc khai thác bauxite. Tuyên bố tai hại này được Nguyễn Tấn Dũng biến thành hiện thực qua Quyết định số 167 ngày 01-11-2007, cho phép các nhà thầu TQ thực hiện dự án kéo dài từ 2007 đến 2025. Và đó là việc để cho thường dân Tàu đi vào VN sinh sống, lập làng xã, xây phố thị từ Nam chí Bắc; để cho thương lái Tàu đi vào VN lường gạt nông dân, phá hoại nông nghiệp khắp nơi mọi chốn; cho chuyên gia Tàu đi vào VN trúng thầu đến 90% các công trình xây dựng cơ bản (đường, điện); cho doanh nhân Tàu thao túng nền kinh tế tụt hậu và giết chết các công ty xí nghiệp èo uột của dân Việt.           Trên mặt chính trị và văn hóa, Tàu cộng không ngừng khống chế Việt cộng, lèo lái Bộ chính trị, xâm nhập Trung ương đảng để thảo ra Cam kết hợp tác toàn diện tháng 2-2011; đẻ ra nhiều kế hoạch làm lợi kẻ thù như cho Tàu cộng thuê mấy trăm ngàn hecta rừng quốc phòng, nhiều vị trí chiến lược như Vũng Áng, Cửa Việt, Hải Vân, Cam Ranh; tạo ra nhiều nội ứng cho giặc như phó thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải; tung ra những đòn tàn bạo trấn áp các cuộc xuống đường chống Tàu, những đòn bắt bớ kết tội các công dân lên tiếng tố Tàu; soạn ra những sách vở, tài liệu làm nhân dân quên đi hiểm họa Tàu trong quá khứ lẫn hiện tại; và gần đây nhất là lập ra viện Khổng Tử (đang lúc trên thế giới ngày càng xóa sổ nó) để tuyên truyền cho chính sách Tàu.           Để kết luận về những gì được mất sau 65 năm bang giao Trung-Việt, tưởng không có gì hơn là nhắc đến bài viết mới đây của đại tá Phạm Quế Dương, "VN sẽ là Quốc gia tự trị hay là một tỉnh của TQ?”. Trong bài này, vị sĩ quan phản tỉnh viết: theo tài liệu được tiết lộ bởi Thiếu tướng Hà Thành Châu, Chính ủy Tổng cục công nghiệp Quốc phòng, tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 08-4-2013, phải chăng tại cuộc họp tại Thành Đô năm 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khấu đầu trước Đặng Tiểu Bình: “Nhờ TQ mà Đảng CSVN mới nắm được chính quyền, mới thắng được đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn TQ to lắm, bốn biển gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước VN đề nghị TQ bỏ qua hiểu lầm, xóa bỏ các bất đồng đã qua. Phía VN sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chủ tịch dày công xây dựng trong quá khứ. VN sẽ tuân thủ đề nghị của TQ là cho VN được hưởng “Quy chế tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như TQ từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng,Tân Cương, Quảng Tây”. Phải chăng có kế hoạch sáp nhập VN vào TQ  dự kiến qua ba giai đoạn : Giai đoạn 1: 15-7-2020: Quốc gia tự trị; Giai đoạn 2: 05-7-2040: Quốc gia thuộc trị; Giai đoạn 3: 05-7-2060: Tỉnh Âu Lạc.           Phải chăng đó sẽ là thành quả bang giao Trung-Việt được làm nên bởi những kẻ cũng da vàng máu đỏ, cũng con Hồng cháu Lạc, nhưng chưa bao giờ có ý thức quốc gia, tự hào dân tộc và tình nghĩa đồng bào? Hỡi quốc dân đất Việt, còn đợi gì nữa?           BAN BIÊN TẬP  
......

Nhân kỷ niệm 25 năm sụp đổ bức tường ô nhục Bá Linh

Bối cảnh lịch sử của nước Đức sau Đệ Nhị Thế Chiến Cuối Đệ Nhị Thế Chiến vào ngày 8.5.1945 nước Đức sau khi đầu hàng bị chia ra làm 4 phần do 4 Đồng minh quản lý: Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Nga. Berlin là Thủ Đô nước Đức nên cũng bi chia ra làm 4 như trên, Nga trấn giữ vùng Đông Bá Linh . Đến ngày 30.6.1946 Nga quyết định vạch ra đường ranh giới giữa Đông và Tây Đức và từ ngày 29.10.1946 người  ra vào vùng Nga chiếm đóng phải có giấy Thông Hành Liên Vực (Interzonenpass) mới được di chuyển và chỉ có giá trị 30 ngày . Từ đó xảy ra liên tục những va chạm giữa Nga và ba Đồng Minh còn lại.   Vào ngày 20.6.1948 Đồng Minh Hoa Kỳ Anh Pháp cho đổi Reichmark thành D-Mark ở toàn vùng của mình. Để trả đũa lại Nga cũng cho đổi Reichmark thành tiền Deutsche Mark vào ngày 23.6.1948 và muốn toàn Bá Linh phải sử dụng tiền này. Vì Đồng Minh Hoa Kỳ Anh Pháp không đồng ý, nên Nga trở mặt ra lệnh phong tỏa Berlin vào ngày hôm sau 24.6.1948. Tất cả đường bộ ra vào Berlin đều bị cấm không cho qua lại khiến cho Đồng Minh Hoa Kỳ Anh Pháp phải lập cầu không vận cho Berlin ngay hôm 25.6.1948. Cầu Không vận này kéo dài hơn  một năm, khi Nga dỡ bỏ lệnh phong tỏa Berlin vào ngày 12.5.1949 thì cầu Không vận vẫn tiếp tục tiếp tế cho Berlin tới ngày 30.9.1949 mới chấm dứt nhiệm vụ. Trong khi đó 65 Nhân Sĩ trong một cơ quan gọi là Parlamentarischer Rat dưới sự lãnh đạo của Konrad Adenauer soạn thảo từ 1.9.1948 bộ Luật gốc (das Grundgeset) làm căn bản cho Hiến pháp nước Đức. Cho tới ngày 24.5.1949 bộ Luật gốc được trình duyệt và thông qua, đánh dấu cho ngày hình thành  nước Cộng Hòa Liên Bang Đức. Trước đó vào tháng 4.1949 toàn bộ Quân Đội Đồng Minh vùng phía Tây Hoa Kỳ Anh Pháp đã rút đi để nhường quyền cho chính phủ Đức. Ngày 12.9.1949 Quốc Hội Cộng Hòa Liên Bang Đức đã bầu chọn Theodor Heuss làm Tổng Thống (Bundespresident) và ba ngày sau đó 15.9.1949 Konrad Adenauer được bầu chọn làm Thủ Tướng (Bundeskanzler)  đầu tiên của CHLB Đức . Ngày 7 10.1949 nước Cộng Hòa Nhân Dân Đức cũng được hình thành và Wilhelm Pieck là Tổng Thống đầu tiên (President) của nước này. Ngày 26.5.1952 phía Đông Đức quyết định đóng cửa ranh giới Đông Tây, chỉ ở Berlin người ta vẫn còn được phép qua lại ranh giới. Vào ngày 17.6.1953 xảy ra cuộc nhân dân tổng nổi dậy (Volksaufstand) tại Berlin và các vùng có nhiều Công Nhân như Halle, Magdeburg, Dresden, Leipzig để chống lại chính quyền Cộng Sản. Số người tham dự được ước đoán khỏang 400.000 tới 1,5 triệu người. Quân đội Nga và Đông Đức đã dùng xe tăng đàn áp thẳng tay khiến cho số người bị bắn chết lên đến  34 người, ngoài ra còn có 40 người bị xử tử tại chỗ và cả trăm người bị đày khổ sai ở Siberien. Tới tháng 1.1954 lại có 1.526 người đem ra xử trước Tòa án Đông Đức, có 2 người bị xử tử vả 3 người bị tù chung thân, phần còn lại đều bị kết án tù. Sự tàn ác với dân chúng của chế độ Cộng Sản Đông Đức và  Nga đã dể lại một vết nhơ trong lịch sử nước Đức. Ngày nay ở Berlin vẫn còn tên Đại Lộ 17.6 là một con đường lớn chạy thẳng đến Brandenburger Tor, nơi mà hầu như quốc khách nào của Berlin đều phải chạy qua khi muốn đến tiếp xúc với Tổng Thống Thủ Tướng hay Quốc Hội. Chính Nguyễn Tấn Dũng, Hồ Cẩm  Đào, Tập Cận Bình ...cũng đã được đưa đi trên con đường này. Sau đó chính quyền nước Cộng Hòa Nhân Dân Đức đã tìm mọi càch ngăn cản người dân Đông Đức đi qua phía Tây Đức. Tới một lúc thì chẳng đặng đừng chính quyền Đông Đức ra lệnh đóng cửa  biên giới và bắt đầu xây bức tường ô nhục Bá Linh vào ngày 13.8.1961. Người  ra lệnh xây bức tường nêu lý do là để ngăn chận  những kẻ phát xít phương Tây vào Đông Đức , nhưng sụ thật là họ chỉ muốn trói dân ở lại với chế độ Cộng Sản.     Trong thời gian Chiến Tranh Lạnh sau này  đã có hai Tổng Thống Hoa Kỳ đến viếng bức tường Bá Linh, người đầu tiên là John F Kennerdy dứng trước Brandenburger Tor ngày 26.6.1963 với câu nói bất hủ “ich bin ein Berliner„ và 24 năm sau là Ronald Reagan ngày 12.6.1987 với câu „ Herr Gorbatschow, tear down the Wall„ Nói chung bức tường Bá linh tồn tại 28 năm từ 13.8.1961 đến 9.11.1989 có chiều dài tổng cộng 167,8km mà phần chia Đông Tây Bá Linh chiếm khoảng 43km, có cả thảy 13 cổng qua lai nhưng bị đóng kín và canh gác cẩn thận bởi các lính Đông Đức. Họ được phép bắn vào người cố ý lại gần bức tường. Sống ở Tây Berlin tuy vẫn thoải mái như mọi nơi trên đất nước CHLB Đức, hồi đó lại còn được hưởng Berliner Zulage là tiền phụ cấp khó khăn nên tiền lương thường cao hơn bên Tây Đức,  nhưng mỗi lần phải đi ra khỏi Berlin là cả một sự khó khăn vì bị  bắt buộc phải đi qua con đường Xa Lộ xuyên qua Đông Đức. Vào Xa lộ này là phải đi thẳng không được dừng tùy tiện và chỉ được đổ xăng hay vào nghỉ tại những trạm đã được quy định. Có một  xa lộ chính đi thẳng ra Helmsted, Hannover. Quãng đường chỉ dài khoảng 200km, nhưng sự kiểm soát lúc vào và ra khỏi Xa lộ thì rất phiền toái vì phải xếp hàng chờ đợi rất lâu và vì sự hống hách trì hoãn của Cảnh sát Đông Đức. Ngưới ta phải làm thủ tục  để nhận Transitvisum (giấy thông hành trên xa lộ xuyên Đông Đức) khi  ra khỏi thì phải trả Transitvisum lại. Các lính Cảnh Sát kiểm soát rất gắt gao và khó chịu; khi thấy một bộ mặt nào không ưa là họ cho mời xe tách  ra khỏi hàng và cho đứng  đó cho tới khi họ muốn thì cho đi lại. Đứng mà không kêu ca được gì cả . Họ làm quyền thế cứ y như là các cán bộ  công an cảnh sát ở Việt Nam bây giờ. Bề gì thì cũng là một lò với nhau. Nguyên nhân làm sập đổ bức tường Bá Linh Trong thế giới này chỉ tiếc là đời sống con người quá ngắn ngủi nên chúng ta không được nhìn thấy được hết cái đinh luật thiên nhiên chi phối vào đời sống con người. Bức tường ô nhục Bá Linh đã sập đổ cũng do định luật thiên nhiên đó. Nguyên nhân của cái phút giây lịch sử đó đã bắt nguồn từ nhiều sự kiện cùng xảy ra một lúc: từ sự tự hủy của vật chất theo tháng năm, từ sự sinh lão bệnh tử của con người, từ tấm lòng biết  hướng về lẽ phải, từ sự kiên trì  tranh đấu của toàn dâ , từ  những sự kiện tầm thường đến đáng buồn cười... đã xảy ra như một xâu chuỗi liên tục để tạo ra lịch sử. 1.- Nguyên nhân xa nhưng lại là then chốt của vấn đề Giữa Hungary và Áo có một ranh giới tiếp cận dài 270km mà hàng rào ranh giới đã bị hư hỏng mục nát từ năm 1987. Tuy có gắn chuông báo động nhưng thường lại là báo động sai , trong khi hàng năm vẫn có tới 2.000 người Đông Đức vượt hàng rào này thành công qua Áo. Vì vậy chính phủ Hungary đã ký một sắc lệnh vào tháng 2.1989 là sẽ dỡ bỏ hàng rào ranh giới này. Lúc đó chính phủ Đông Đức vẫn yên chí đó chỉ là một quyết định suông để ve vãn phương tây, nhưng không ngờ đến ngày 11.9.1989 hàng rào này thực sự được dỡ bỏ hẳn. Trong vòng 3 tuần sau khi dỡ hàng rào biên giới có tới 25 ngàn người Đông Đức chạy trốn qua Áo. dân Hungary thì không có nhu cầu vượt biên vì họ đã có sẵn một Thông Hành Quốc Tế do chính phủ cấp, muốn đi đâu cũng được.   2.- Nguyên nhân từ trong Đông Đức: Montagdemo (Biểu tình vào mỗi thứ Hai)   Song song với sự kiện trên là vào ngày thứ Hai 4.9.1989 sau khi làm lễ ở nhà thờ Nikolai Kirche ở Leipzig có khoảng 1.000 người giương biểu ngữ “ für ein offenes Land mit freien Menschen= cho môt đất nước thông thoáng với những con người tự  do “ và “ Wir wollen  raus=Chúng tôi muốn đi ra” sau đó bị cảnh sát chìm bao vây họ đổi thành khẩu hiệu “ Stasi raus= Công an cút đi”, và từ đó cứ mỗi thứ Hai là họ lại tụ tập trước nhà thờ ở Leipzig để biểu tình, sau đó lan rộng qua các thành phố Đông Đừc khác. Tới ngày 2.10.1989 con số ngưới biểu tình ở Leipzig lên đến 15.000 người.   Ngày 7.10.1989 là ngày lễ lớn kỷ niệm 40 năm thành lập Đông Đức với duyệt binh và biểu diễn lực lượng võ trang với  xe tăng , súng máy , máy bay…bên cạnh buổi lễ trang trọng đó vẫn có xảy ra “ lộn xộn“ gần bên khán đài nơi Honecker và Gorbatschow, có nhưng tiếng kêu trong đám đông “Gorbatschow, cứu chúng tôi”. Công an cảnh sát đã được lệnh đàn áp thẳng cánh những người biểu tình này. Sau đó hai ngày, ngày 9.10.1989, số người đi biểu tính ở Leipzig lên đến 70.000 người. Lúc đó ở bên Tây Đức ai cũng hồi hộp hướng về Leipzig vì liên tưởng đến ngày 17.6.1953 người dân Đông Đức đã bị đổ máu dưới  sự đàn áp dã man của xe tăng Nga. Nhưng may thay điều đó đả không xảy ra, vì Gorbatchow, với mục tiêu giảm bớt chiến tranh lạnh với phương tây trong chủ trương Glasnow=mở cửa và Perestroika = đổi mới, đã ra lệnh cho lính Nga không được can thiệp vào nội bô Đông Đức. Đến ngày 4.11.1989 có một triệu người biểu tình ở Alexander Platz Berlin với khí thế rất mạnh, từ khẩu hiệu “Wir sind das Volk = chúng ta là nhân dân “ đã trở thành “wir sind ein Volk= chúng ta là một dân tộc ”. Ngày 6.11.1989 có dấu hiệu hoảng sợ trong bộ chính trị Đông Đức , một số hồ sơ mật đã bị  cho hủy. Ngày 8.11.1989 bộ chính trị trung ương từ chức và dự định bầu lại bộ chính trị mới.   3.-Sự kiện trong toà Đại sứ CHLB Đức tại Tiệp khắc   Số người ùn ùn bỏ Đông Đức  ra đi theo hướng Đông ngày càng nhiều, một số leo tường rào vào trú ngụ tại toà Đại sứ CHLB Đức. Đến 30.9.1989 có tới 4000-5500 người ở trong Đại sứ quán. Điều kiên ăn ở  và vệ sinh rất khó khăn, cho nên Genscher, bộ trưởng bộ ngoại giao CHLB Đức đã đến và từ Balkon toà Đại sứ ông đã tuyên bố một câu đã đi vào lịch sử nước Đức “ toàn thể mọi người được nhập cảnh vào CHLB Đức “, mọi người đã ôm chầm nhau nhảy múa vui mừng .   Ngày 3.10.1989 CHLB Đức đã đem một đoàn xe lửa chở tất cả mọi người trong tòa Đại sứ ở Prag về Tây đức. Cái khó khăn là xe lửa phải đi qua một đoạn đường Đông Đức ở Dresden. Tại đây một số dân chúng địa phương được biết đoàn tàu đi qua nên đã tụ tập đòi trèo lên xe lửa đi theo qua Tây Đức, Cảnh sát Đông Đức đã ra tay đàn áp mạnh, nhưng dân chúng cũng lấy gạch đá chống chọi lại. Cuối cùng thì đoàn tàu cũng thoát ra khỏi cuộc hỗn chiến và đưa mọi người từ Prag bình an tới Tây Đức. 4.- Nguyên nhân từ sức khỏe của thủ lãnh Honecker   Honecker sanh năm 1912, xuát thân  từ  gia đình nông dân, bỏ học sớm, 10 tuổi đã tham gia vào đoàn thiếu nhi Cộng Sản. Có một thời gian Honecker xin đi học nghề lợp mái nhà ở người bà con. Học nghề chưa xong Honecker xin gia nhập đoàn thanh niên Cộng Sản vào lúc 14 tuổi. Tới 16 tuổi được cử đi học ở trường Lenin bên Nga. Tháng 5.1971 Honecker được bầu làm Đệ  Nhất Bí Thư sau khi Ullbrich từ nhiệm, 1976 Honecker trở thành Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản. Ngày 7.7.1989 Honecker bất ngờ bị Gallenkolik (đau bụng cấp tính do sạn mật) và được chở qua Bệnh viện ở Rumanie để điều trị cấp cứu, sau khi ổn định được đưa về bệnh Viện Buch để mổ Túi Mật. Trong khi mổ Bác Sĩ đã nghi ngờ là có thể có dấu hiệu ung thư Thận phải, nhưng không can thiệp. Trong suốt tháng 9 .1989 Honecker không xuất hiện làm việc, Mielke và Mittag đứng ra điều khiển hành chính trung ương. Trong ngày biểu dương lực lượng kỷ niệm 40 năm thành lập nước Đông Đức Honecker đã tái xuất hiện bên cạnh Gorbatschow là khách mời danh dự, mặc dù trong bụng Honecker chẳng ưa gì chủ trương Glasnow và Perestroika của Gorbatschow. Trước sức ép của quần chúng và vì lý do sức khỏe Honecker đã từ chức vào ngày 17.10.1989. Giữa tháng11.1989 Hội Đồng Nhân Dân DDR đã họp và tố cáo Honecker về tội tham nhũng và lạm dụng ngân quỹ quốc gia. Ngày 3.1.1990 Honecker và vợ bị bắt buộc phải rời chỗ ở xa hoa tại Wandlitz, ngày 6.1.1990  lại nhập viện và đươc xác định bị ung thư thận. Ngày 29.1.1990 Honecker bị bắt nhưng hôm sau 30.1.1990 được thả ra ngay vì bị bệnh nặng. Khi được thả ra thì Honecker và vợ không còn nhà cửa nữa. Trong một cuốn phim tài liệu mà phóng viên đã theo sát Honecker trong chuyến đi lang thang tìm nơi trú ẩn này cho thấy sự bất mãn của dân chúng Đông Đức đối với ông Tổng Bí Thư tới mức nào. Có người lấy nắm tay đấm lên xe, lên cửa kính xe hơi hăm he. Chưa bao giờ tính mạng Honecker bị đe dọa dữ dội như lúc này. Cuối cùng Pastor Uwe Holme, chính Pastor đã từng bị Honecker bỏ tù trước đây, đã cho vợ chồng Honecker tạm trú tại nhà thờ Bernau. Honecker đã ở đây tới 4.1990 vì lý do an toàn và sau đó dọn qua Quân Y Viện Nga ở Beelitz. Ngày 30.11.1990 Tòa án CHLB Đức kết tội Honecker vì đả cho lệnh bắn người vùng biên giới Đông Tây Đức. Ngày 13.1.1991 Honecker và vợ bay qua Moskau do sự can thiệp của Nga. Tới tháng 2.1992 thì Honecker đã bị di căn qua Gan. 29.7.1992 Honecker bay từ Moskau về tới nhà tù Moabit Berlin, còn Margot Honecker bay thẳng qua Santiago / Chile đến nhà con gái Sonja tại đó. 13.1.1993, sau 169 ngày nằm khám Moabit, Honecker được thả ra và được đưa qua Santiago với vợ con. Tại đây ông mất ngày 29.5.1994. Bà Margot Honecker bây giờ 87 tuổi  vẫn cò sống tại Santiago, hưởng mỗi tháng 1.700 Euro tiền lương hưu của CHLB Đức, có nhà riêng và có người hầu hạ. 5.-Nguyên nhân kinh tế Mặc dù nhận được tiền tiếp viện mỗi năm hàng trăm triệu Đức mã từ Tây Đức để xây dựng và tu bổ con đường xa lộ và đường sắt nối Berlin sang Tây Đức xuyên qua Đông Đức, cũng như được tiếp hơi đến hàng tỷ Đức Mã trong thời gian 1983-1984; và mặc dù đời sống của người dân Đông Đức còn khá hơn đời sống của dân Ba Lan và Rumanie, nhưng nền kinh tế của Đông Đức đã dần dần kiệt quệ. Gerhard Schürer là chủ tịch Hội Đồng Staatliche Plankommission thời đó đã tuyên bố:  tới 1989 Đông Đức nợ 49 Tỷ Valuta Mark và mỗi tháng tăng lên 500 triệu Valuta Mark; cứ theo đà đó thì đến năm 1991 Đông Đức sẽ phá sản hoàn toàn. Trong khi đó thì Gorbatschow đã từ chối không viện trợ kinh tế cho Đông Đức nữa.   6.-Nguyên nhân gần và rất tầm thường nhưng lại là yếu tố quyết định tối hậu   Lúc 18:53 giờ ngày 9.11.1989 Günter Schabowski, phát ngôn viên DDR tuyên bố trong một cuộc họp báo có trực tiếp truyền hình là Công Dân Đông Đức có thể sẽ được qua Tây Đức thăm viếng người thân. Khi  một phóng viên  hỏi „ lệnh này bắt đầu từ bao giờ“ thì Schabowski chợt trở nên lúng túng và nói lắp bắp:  „ab sofort, unverzüglich = ngay lập tức, không trì hoãn”, từ đó tin loan ra như cơn bão. Người Đông Đức từ mọi nơi mọi phía dồn về tất cả cổng thành của bức tường ô nhục và làm áp lực với lính canh gác tại đó. Tới 22:30giờ một cổng ở phiá bắc Berlin, cổng Bornholm, mở ra đầu tiên và sau đó thì tất cả cổng đều được mở ra hết, trừ cổng Brandenburger Tor thì tới 22.12.1989 mới được mở. Tại cổng Bornholm chính bà đương kim Thủ Tướng Merkel cũng đã lần đầu đi qua đây để đến Tây Berlin.                                             xx  xx xx Luận bàn   Qua các yếu tố lịch sử đã được nêu trên đây cho thấy sự sụp đổ bức tường ô nhục Bá Linh là kết quả của một xâu chuỗi sự kiện theo chiều hướng thiên thời địa lợi nhân hòa khiến sự sụp đổ bức tường là đoạn kết  hợp lý của một ván cờ chót . Là người Việt Nam có ai không ao ước có một ngày nào đó Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng sẽ bị vướng vào một vòng xoáy khủng hoảng đến nỗi phải tự động rút lui nhường chỗ cho một thể chế đa nguyên dân chủ hợp hiến và hợp pháp. Trước tình hình trong nước hiện tại nếu chúng ta quan sát kỹ thì cũng có thể nhận ra những dấu hiệu thoái hóa của chế độ Cộng Sản. Chỉ cần tới một thời điểm chín mùi thì quả sẽ rụng mà không cần tới bạo lực. Những yếu tố bất lợi của chế độ Cộng Sản Việt Nam   1.- Sự khiếm khuyết  của luật pháp trong chế độ Cộng Sản Việt Nam: Ngày 2.9.1945  là ngày Việt Minh đã cướp công kháng chiến chống Pháp của toàn dân và cướp chính quyền hợp pháp của Thủ Tướng Trần Trọng Kim để khai sinh ra chế độ Cộng Sản man rợ đưới cái tên VNDCCH. Tuy rằng họ đã cho ra đời một cái Hiến Pháp vào ngày 9.11.1946 , nhưng đó chỉ là những sáo ngữ và hệ thống Luật Pháp Hành Pháp và Tư Pháp không được hình thành, nền Dân chủ không được thực hiện. Thể chế Cộng Sản đã áp đặt lên đầu người dân bằng cách nắm lấy miếng ăn như nuôi một bầy súc vật. Trong chế độ bao cấp con người chỉ còn là những cái Hộ Khẩu. Nói một cách mộc mạc như nhà văn Tiểu Tử, giá trị  một con người với cả một khối óc lương tri chỉ còn là một cái miệng ăn (không phải là miệng nói) trong chế độ Cộng Sản. Bảy giờ trước trào lưu tiến hóa của xã hội, trong thời đại Internet bao phủ toàn cầu, trong thời đại suy thoái của Cộng Sản Đông Âu, Cộng Sản Việt Nam phải xoay sở để tồn tại. Ngoài cái Hội Nghị Thành Đô bán nước giữ Đảng, Cộng Sản Việt Nam đã lộ chân tướng của một chế độ vô luật pháp hỗn loạn. Từ cái chiêu bài trị dân theo lối côn đồ, cho công an cảnh sát tay sai  mặc thường phục hành hung dân chúng hoặc ném đồ dơ bẩn vào nhà dân… thì cái thói côn đồ ấy lại trở nên hoành hành từ trong nội bộ cơ quan điạ phương khiến trung ương không còn kiểm soát được địa phương nữa. Đó là định luật  nhân quả . 2.- Chủ thuyết hồng hơn chuyên, nhất cùng nhị bạch để trị dân của Cộng Sản Việt Nam   a) Trăm năm trồng người: để củng cố chế độ, Cộng Sản hô hào kế hoạch trăm năm trồng người . Họ  trồng một giống người theo kiểu mẫu Mao-it, vô gia đình vô tổ quốc vô thần và cả vô học nữa. Cộng Sản muốn con người là công cụ của nhà nước hoàn toàn, muốn xóa bỏ đạo lý gia đình, xóa biên giới lãnh thổ, xóa lòng tự hào người con đất Việt, xóa sạch sự hiểu biết của tầng lớp trí thức, xóa luôn cả niềm tin vào đấng thiêng liêng. Kết quả của kế hoạch này là một tập đoàn lãnh đạo Cộng sản cuồng chiến nhưng không có khả năng điều hành một đất nước, một  xã hội hỗn loạn: con người trở nên dốt nát hung dữ, không tin vào lẽ phải điều hay mà lại trở thành  mê tín dị đoan, đạo đức luân lý trong gia đình và xã hội không còn tồn tại. b) Dân trí: Trong trường học lịch sử bị bóp méo, những lập luận “lưỡi gỗ” nhàm chán không còn thuyết phục được ai nữa. Nhưng môn chính trị kinh điển về Cộng Sản vẫn là phần chánh trong chương trình đào tạo chuyên môn. Điều này khiến cho chương trình đào tạo chuyên nghiệp bị thu hẹp lại, kết quả là chuyên môn bị kìm hãm, nhân tài bị bóp nghẹt và tài năng cá biệt không được phát triển.   c) Xã hội: Chúng ta phải khẳng định là quốc nạn trộm cắp vặt được nảy sinh từ chế độ bao cấp. Dĩ  nhiên trộm cắp là một bản năng tồn tại của loài người khi đói ăn thiếu mặc. Do sự cung cấp nhỏ giọt thời bao cấp nên của cải vật chất trở nên quý hiếm. Từ cái lốp xe đạp , thước vải cũng đổi ra được miếng ăn cái mặc nên bất cứ vật dụng gì cũng được trưng dụng. Bác Sĩ “ăn” thuốc men, y tá “ăn” kim chích chăn  mền, thư ký “ăn” giấy bút, nhân viên bưu điện “ăn“ bưu phẩm, thư quà.. Với thói quen “ăn” trong cơ quan như vậy cho nên khi đã bị tiêm nhiễm nặng người ta không còn phân biệt được phải trái, thấy của cải vật chất là cứ “ chôm“ mà không sợ luật pháp, nên mới xảy ra những vụ người Việt trộm cắp bên Nhật bên Anh nổi tiếng thế giới.   3.- Giai cấp Đảng viên và tham nhũng Trong cuốn “chuyện thời bao cấp“ của nhà xuất bản Thông Tấn/Hà Nội  in năm 2007 trang 31”. Cứ ngỡ rằng thời bao cấp mọi khó khăn được chia đều trong xã hội nhưng khi nghiền ngẫm cơ chế phân phối thời bao cấp với cửa hàng lương thực, hệ thống tem phiếu và quầy hàng tết ở cuộc trưng bà , mới hay rằng nhân dân có tiêu chuẩn riêng và ở mức thấp nhất, tiêu chuẩn của cán bộ, công nhân, viên chức tùy thuộc vào vị trí công tác và đặc thù nghề nghiệp của mỗi người. Cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản; trung cấp tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân viên chức bình thường mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố.“ như vậy cái ảo tưởng xóa bỏ giai cấp của Cộng Sản chỉ là một cái bánh vẽ để chiêu dụ những kẻ nông nỗi nhất là giới thanh niên sinh viên học sinh tại các vùng đất tự do. Khi vào rọ rồi thì cái giấc mơ “công bằng bác ái” trong môi trường Cộng Sản trong thực tế chỉ là những hạt kim cương khi nhìn từ xa nhưng khi đến gần mới biết đó là những giọt nước mắt.   Khi chế độ bao cấp đã từ từ tự triệt tiêu vì cái quy chế phản tự nhiên của nó và nhất là sau khi khối Cộng Sản Đông Âu sập đổ, các nguồn viện trợ trao đổi hàng hóa bị cắt đứt thì Cộng Sản Việt Nam phải biến thái để tồn tại dưới mô hình “kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” với những ưu tiên độc đoán trong thị trường cho cán bộ đảng viên cao cấp để bóp nghẹt thị trường kinh tế tự do và tạo sự dung túng lộng hành quyền lực cho nhóm Đảng Viên và tay chân. Tham nhũng được hình thành và nuôi dưỡng từ trong môi trường  độc quyền đặc lợi, một xã hội hỗn loạn vô luật pháp công minh tạo ra một nền kinh tế èo uột tồn tại trên những ký sinh trùng bòn rút của công làm của riêng, mua quan bán chức…                                            xx   xx    xx Tóm lại thời  tự hủy diệt chế độ Cộng Sản Việt Nam đã điểm, thế nước lòng dân  đã và đang tiềm ẩn trong mọi thành phần dân chúng. Khi nào thời và thế đồng nhất hội tụ thì đó chỉ là một câu hỏi về thời gian. Ngày nay trước sự tiến triển của công nghệ thông tin thì sự độc quyền chuyển tải tin tức một chiều từ hệ thống truyền thông của Cộng Sản Việt Nam không còn quan trọng nữa. Những người có khát vọng tìm hiểu về tình hình quốc tế và quốc nội đều có thể cập nhật tin tức hằng ngày trên Internet  mặc dầu có sự cản ngăn của cả một tập đoàn Công An Mạng. Nhưng những người trẻ tuổi hôm nay đã có đủ khả năng ứng phó và vượt qua những khó khăn này.   Trong không khí đầu năm 2015 chúng ta hãy cầu nguyện cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ và có pháp quyền. Khi nào mỗi người dân đứng trước luật pháp đếu có quyền lợi và bổn phận ngang nhau và nhân quyền được tôn trọng tuyệt đối thì ngày đó dân tộc Việt Nam mới có thể ngẩng đầu so vai với thế giới. Berlin ngày 01.01.2015 BS. Hoàng Thị Mỹ Lâm
......

Viện Khổng Tử, cơ quan tuyên truyền và tình báo Trung Cộng

(VNC) Các nước trên thế giới, dù nhỏ hay lớn đều muốn nhân loại biết đến những cái hay cái đẹp của nước mình. Viện Goethe (Goethe-Institut), đặt tên theo nhà văn và chính khách Đức Johann Wolfgang von Goethe, có 159 cơ sở hoạt động gần khắp thế giới để trao đổi văn hóa và ngôn ngữ. Viện Goethe tự trị về tài chánh và độc lập điều hành từ chính phủ Đức. Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) do một số trí thức Pháp trong đó có nhà khoa học Louis Paster, nhà văn JulesVerne, sáng lập từ 1883, có mặt trên 137 quốc gia với tổng số gồm 850 trung tâm cũng hoạt động độc lập với chính phủ Pháp. Các nước Phi Châu tuy nghèo nàn, lạc hậu về kỹ thuật, bị thực dân xâm lược rồi nội chiến triền miên nhưng không phải vì thế mà họ không kiêu hãnh với nền văn hóa và cũng luôn tìm mọi cách để giới thiệu cùng nhân loại những nét đặc thù của dân tộc họ. Hiến chương Phục Hưng Văn Hóa Phi Châu được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chuẩn y ngày 24 tháng Giêng 2006 đã tạo điều kiện phục hưng các giá trị và giới thiệu văn hóa Phi Châu đến các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc. Ngày nay nhiều viện văn hóa Phi Châu do tư nhân tài trợ có mặt nhiều nơi trên thế giới. Phát huy văn hóa là lẽ tự nhiên và đáng ca ngợi. Ngoài trừ những kẻ tự thu mình trong góc tối, sống trong ảo tưởng “quê hương mình là đẹp hơn cả” dù suốt đời không ra khỏi nhà để rồi trở nên ngày thêm u mê lạc hậu, phần lớn các lãnh đạo và con người trên thế giới đều biết trong cái riêng bao giờ cũng có cái chung, văn hóa của một dân tộc là một phần của văn minh nhân loại. Thế nhưng, những khái niệm văn hóa, độc lập, tự trị, phi chính phủ của các trung tâm, các viện văn hóa nêu trên không áp dụng trong trường hợp các Viện Khổng Tử của Trung Cộng, bởi vì thực chất của các viện này chỉ là cơ quan tuyên truyền, tình báo và được đặt dưới sự lãnh đạo của Cục Tuyên Truyền Trung Ương đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tuyên truyền là xương sống của chế độ CS. Từ khi thành lập đảng CSTQ năm 1921 đến nay, tuyên truyền luôn đóng một vai trò quyết định trong việc thực thi các chính sách của đảng. Cục Tuyên Truyền Trung Ương do Lý Trường Xuân, Ủy viên Bộ chính trị đứng hàng thứ năm làm Cục Trưởng. Tại sao là Viện Khổng Tử mà không là Viện Mao Trạch Đông hay Viện Đặng Tiểu Bình? Bản chất của CS từ Âu sang Á là giấu mặt và vận dụng ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử trong đó Khổng Tử là một trong những nạn nhân. Trong thời kỳ sau 1949 đến 1966, lãnh đạo Trung Cộng dựa vào Khổng Tử như biểu tượng của quyền hạn gia đình bởi vì trong giai đoạn đó Mao chủ trương phân tán quyền sở hữu đất đai xuống các đơn vị gia đình qua trung gian các chính sách cải cách ruộng đất và Bước Tiến Nhảy Vọt đầy thảm họa. Mao ca ngợi Khổng Tử “nhiệm vụ của chúng ta là nghiên cứu các thành tựu lịch sử và đánh giá chúng với quan điểm Mác Lê. Trung Hoa có một lịch sử dài nhiều ngàn năm với đặc tính riêng và là những kho tàng quý báu… Chúng ta phải tổng hợp từ Khổng Tử đến Tôn Dật Tiên và kế thừa các truyền thống giá trị này”. Lưu Thiếu Kỳ còn đi xa hơn khi cho rằng Khổng Tử có nhiều đặc điểm của một người CS tốt. Tuy nhiên, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, bao nhiêu thất bại, sai lầm của Mao đều được đổ lên đầu Khổng Tử khi chiến dịch Chống Bốn Cũ (nhận thức cũ, văn hóa cũ, truyền thống cũ, tập quán cũ) được phát động. Nội dung của Cách Mạng Văn Hóa được tóm tắt là “cái mới” chống “cái cũ” và trong đó Khổng Tử đại diện cho mọi “cái cũ” và biểu tượng của xã hội giai cấp. Không chỉ chống Khổng Tử về mặt tư tưởng mà cả đền thờ, di tích, sách vở đều bị đục bỏ hay đốt phá. Mao phát biểu “đọc sách nhiều quá sẽ làm tê liệt khả năng nhận thức”. Mục đích chống Khổng Tử của Mao là để đương đầu với sự thất bại kinh tế do chính y gây ra và chống lại những lãnh đạo thực tâm sùng bái Khổng Tử trong đó có Lưu Thiếu Kỳ. Kết quả, 60 phần trăm lãnh đạo CS các cấp bị thanh trừng qua nhiều hình thức. Khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ ba, thế giới thay đổi và sẽ thay đổi một cách nhanh chóng trong thời gian tới. Sự toàn cầu hóa không chỉ diễn ra trong lãnh vực kinh tế mà cả văn hóa, xã hội. Nhân vật lịch sử cần được đánh bóng không phải là hai hồn ma CS Mao hay Đặng mà chính là Khổng Tử. Lãnh đạo Trung Cộng Hồ Cẩm Đào khi giới thiệu Khổng Tử đã ca ngợi ông ta chủ trương một “xã hội hài hòa”. Bộ máy tuyên truyền Trung Cộng in Luận Ngữ và là tác phẩm phát hành nhiều nhất ở Trung Quốc, và các ấn bản ngoại ngữ cũng được giới thiệu nhiều nơi trên thế giới. Theo Giáo sư Gilbert Rozman thuộc khoa xã hội học, đại học Princeton, Trung Cộng “muốn thế giới nhìn vào lịch sử Trung Quốc và những vinh quang quá khứ để khuyến khích họ chấp nhận một Trung Quốc hiện nay nhiều hơn”. Phê bình quan điểm của Hồ Cẩm Đào, Giáo sư Perry Link, Ban Đông Á, đại học Princeton cho rằng có sự mâu thuẫn về căn bản là cái cách chính phủ Trung Cộng sử dụng Khổng Tử để đại diện cho văn hóa Trung Hoa hài hòa ở nước ngoài trong khi đó đảng áp dụng chính sách toàn trị hà khắc đối với người dân trong nước. Lịch sử hình thành Viện Khổng Tử Kế hoạch Viện Khổng Tử được chính thức ra đời vào tháng Sáu năm 2004. Sau vài lần thử nghiệm tại Uzbekistan, viện đầu tiên được khánh thành ngày 21 tháng 11 năm 2004 tại Seoul, Nam Hàn. Đến nay, 2014, đã có 480 Viện Khổng Tử rải rác khắp sáu lục địa. Lãnh đạo Trung Cộng tuyên bố vào năm 2020 con số Viện Khổng Tử sẽ lên đến một ngàn viện. So với Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) được thành lập 131 năm trước, con số một ngàn đầy tham vọng và cấp bách của Trung Cộng rõ ràng không phải chỉ thuần mục đích văn hóa. Tạp chí The Economist nhận xét Viện Khổng Tử chỉ là “cơ quan nhà nước” CS và do đó chấp hành một cách nghiêm chỉnh các chủ trương của đảng. Với điều kiện thông tin ngày ngay, nhận xét của tạp chí The Economist có thể kiểm chứng một cách dễ dàng. Các chức năng mặt nổi của Viện Khổng Tử Theo tài liệu chính thức, Viện Khổng Tử là bộ phận của Hán Ban (汉办) “một cơ quan của Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, một tổ chức không lợi nhuận, phi chính phủ, liên kết với Bộ Giáo Dục Trung Quốc” Nhiệm vụ công khai của Viện Khổng Tử là “giảng dạy Hoa ngữ ” và “đóng góp vào sự thành hình một thế giới đa dạng và hài hòa”. Hán Ban, về cơ cấu trực thuộc Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, trong thực tế chẳng phải phi lợi nhuận, tự trị gì mà do một lãnh đạo CS cấp trung ương điều hành. Chủ tịch Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ là bà Chen Zhili. Bà Chen sinh tháng 11 năm 1942, nguyên Cố Vấn Nhà Nước kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục Trung Cộng. Bà gia nhập đảng CSTQ năm 1961. Nguyên là Bí Thư đảng bộ Ban Khoa Học Kỹ Thuật Thượng Hải, sau đó được thăng cấp giữ chức Giám Đốc Ban Tuyên Truyền Thượng Hải kiêm Phó Bí Thư Ban Chấp Hành Đảng Bộ Thượng Hải. Từ năm 2008 bà Chen là Phó Chủ Tịch Quốc Hội Trung Cộng. Về cấp bậc đảng, bà Chen là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSTQ tại các đại hội 15, 16, 17 đảng CSTQ. Tổng giám đốc hiện nay của Hán Ban là bà Xu Lin, cấp thứ trưởng trong chính phủ, thành viên của Hội Đồng Nhà Nước và ủy viên Hội Đồng Tham Vấn Chính Trị. Điều đó cho thấy cả hai lãnh đạo Viện Khổng Tử đều là cán bộ tuyên truyền cao cấp chứ chẳng thuần túy văn hóa, ngôn ngữ gì. Về tài chánh, theo Chinadigitaltimes, Viện Khổng Tử được sử dụng một ngân sách rất cao lên đến nhiều tỉ yuan và website của Viện Khổng Tử cũng được xếp vào một trong những website tốn kém nhất tại Trung Cộng. Bà Chen Zhili ra ngoại quốc được quyền sử dụng tiền bạc một cách rộng rãi so với các ngân sách giáo dục khác. Mặc dù rất ngạc nhiên trước thái độ yểm trợ tài chánh dồi dào của Trung Cộng, nhiều đại học quốc tế, kể cả Mỹ, cần tiền bảo trợ cho các chương trình Hoa Ngữ nên cũng không khó khăn lắm trong việc chấp nhận sự thành lập Viện Khổng Tử. Các chức năng mặt chìm của Viện Khổng Tử - Thực hiện chủ trương tuyên truyền “sức mạnh mềm”: Theo Giáo sư Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm được định nghĩa như là khả năng đạt được mục tiêu bằng ảnh hưởng, hợp tác với đối phương thay vì ép buộc đối phương phải tuân hành. Người viết đã phân tích chi tiết trong bài Từ Hồ Cẩm Đào đến Obama, bài học về chính sách Sức mạnh mềm (Soft power). Joseph Nye Jr. tóm tắt quan điểm này trong tác phẩm Sức mạnh Mềm: Phương tiện để Thành công trong Chính trị Thế giới (Soft Power: The Means to Success in World Politics): “Một quốc gia có thể đạt được kết quả mong muốn trong chính trị thế giới bởi vì các quốc gia khác – khâm phục giá trị của nó, tích cực noi gương các thành tựu nó đạt được, khát vọng để đạt đến mức độ thịnh vượng và mở rộng của nó, muốn theo chân nó. Trong ý nghĩa đó, quan trọng là đặt ra một nghị trình và thu hút các quốc gia khác trong chính trị thế giới, và không chỉ buộc họ thay đổi bằng các đe dọa quân sự hay trừng phạt kinh tế.” Cũng theo Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm của một quốc gia đặt trên ba nguồn: văn hóa, giá trị chính trị và chính sách đối ngoại. Áp dụng chính sách sức mạnh mềm trong phạm vi thế giới đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chính sách tuyên truyền quốc tế của Hồ Cẩm Đào và các lãnh đạo Trung Cộng hiện nay. Trung Cộng có hai đường lối tuyền truyền tương đối độc lập gồm tuyên truyền đối nội nhằm kiểm soát nhận thức người dân và tuyên truyền đối ngoại tập trung vào việc ảnh hưởng dư luận quốc tế một cách phù hợp với chính sách đối ngoại của đảng CSTQ. Tạp chí Economist giải thích các Viện Khổng Tử được sử dụng nhằm giành được sự đồng thuận của dư luận thế giới. Mục đích cụ thể của đường lối tuyên truyền đối ngoại gồm (1) trấn an dư luận thế giới về một Trung Cộng đe dọa, (2) bảo đảm nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng lãnh phí, (3) xây dựng các liên minh quốc tế và làm yếu vai trò của Đài Loan trong cộng đồng thế giới, và (4) phát huy một thế giới đa phương và giới hạn sức mạnh của Mỹ. Khi Hồ Cẩm Đào công bố chủ trương áp dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới đầu năm 2009, Lý Trường Xuân không giấu diếm khi cho rằng các Viện Khổng Tử là “cửa ngõ quan trọng để làm sáng danh văn hóa Trung Quốc, giúp mở rộng văn hóa Trung Quốc, đó là phần của chiến lược tuyên truyền quốc tế”. Mặc dù luôn bào chữa là “khách quan”, “độc lập”, các vấn đề nhạy cảm như biến cố Thiên An Môn, Pháp Luân Công, Tây Tạng v.v. đều bị gạch bỏ khỏi các chương trình giảng dạy tại các Viện Khổng Tử và các học viên không được phép bàn đến các vấn đề này. Do đó, khác với nội dung do Joseph Nye phác họa, chính sách của CSTQ thực chất là một chính sách tuyên truyền và mua chuộc, tương tự như chính sách thực dân trước đây. - Hang ổ tình báo: Trung Cộng hiện có 60 triệu Hoa Kiều sinh sống gần như tại hầu hết quốc gia trên thế giới và việc sử dụng nguồn lực của đạo quân thứ năm này để phục vụ một cách hữu hiệu đường lối đảng là một quan tâm lớn của lãnh đạo Trung Cộng. Tờ báo có uy tín của Mỹ Forbes, trong tháng 10 2014, tố cáo một trong những trường đại học rất uy tín tại Mỹ, đại học Stanford, đã hợp tác với Trung Cộng qua trung gian Viện Khổng Tử. Ngân sách của viện do Trung Cộng tài trợ. Tác giả bài viết trên Forbes trích lời phát biểu của Arthur Waldron khi nói rằng “Viện Khổng Tử có thể đóng vai trò then chốt trong việc ảnh hưởng chính sách tình báo của Trung Cộng”. Cũng trên Forbes, tác giả Eamonn Fingleton, chỉ trích các trường đại học Mỹ bán rẻ lương tâm trí thức qua việc im lặng trước sự kiện Thiên An Môn. Lý do, tiền của Bộ Giáo Dục Trung Cộng đổ vào các đại học này một cách ồ ạt qua cửa Viện Khổng Tử. Hiện nay có khoảng 220 ngàn sinh viên Mỹ theo học các Viện Khổng Tử. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên và nguy hiểm là các hợp đồng giữa Bộ Giáo Dục Trung Cộng và các đại học Mỹ đều phải được giữ kín. Theo Abrice De Pierrebourg, một cựu chuyên viên ngành tình báo Pháp, nhiều “chuyên viên ngôn ngữ Trung Quốc” lại có lý lịch gốc an ninh tình báo. Chức năng của những người này không phải là giáo dục mà là kiểm soát sinh viên gốc Hoa sinh ra ở nước ngoài và đồng thời tuyển dụng tình báo để làm việc cho Trung Cộng. Phóng viên Omid Ghoreishi của báo The Epoch Times, trong điều tra Bắc Kinh Sử Dụng Viện Khổng Tử cho mục đích Gián Điệp (Beijing Uses Confucius Institutes for Espionage) đã trích dẫn lời của Michel Juneau-Katsuya, cựu Trưởng Cơ Quan An Ninh Tình Báo đặc trách Á Châu Thái Bình Dương của chính phủ Canada rằng với kinh nghiệm nhiều chục năm của ông hoạt động trong khu vực, cho thấy Trung Cộng không ngừng nỗ lực để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Cũng theo lời ông Michel Juneau-Katsuya, đương kim chủ tịch chấp hành công ty an ninh Northgate SSI và một trong những chuyên viên an ninh được trích dẫn nhiều nhất tại Canada, Viện Khổng Tử là một đe dọa đối với chính phủ và nhân dân Canada. Ông khẳng định “Có những thông tin cho thấy rõ ràng các cơ quan tình báo Tây phương đã xác định Viện Khổng Tử như hình thức của cơ quan tình báo do Trung Cộng sử dụng và cũng do Trung Cộng tuyển dụng”. Bài báo trên The Epoch Times cũng nhắc lại lời tuyên bố của Hồ Cẩm Đào như một bằng chứng cho thấy các Viện Khổng Tử thực chất là hang ổ gián điệp. Họ Hồ phát biểu “Sau nhiều năm nỗ lực, chúng ta đã tìm ra cách để trồng cấy và chuẩn bị những người ủng hộ đảng chúng ta”. Dĩ nhiên các lãnh đạo Trung Cộng luôn bác bỏ những lời tố cáo của các chuyên viên tình báo quốc tế và uy tín như Michel Juneau-Katsuya. Các lãnh đạo Trung Cộng hãnh diện khi nhắc đến Viện Khổng Tử như một phần của “mặt trận đoàn kết” chống kẻ thù. Nhưng kẻ thù của “mặt trận” này là ai? Không ai khác hơn là “năm nọc độc” gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà tranh đấu dân chủ, và “thế lực thù địch Tây Phương” đứng đầu là Mỹ. Một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố sớm muộn cũng sẽ sụp đổ Mặc dù phát triển kinh tế nhanh trong hai chục năm qua, Trung Cộng đang đương đầu với những khó khăn khách quan về lâu dài không thể vượt qua bao gồm yếu tố dân số thặng dư và mất cân đối, y tế công cộng thiếu hụt trầm trọng, môi sinh độc hại nhưng quan trọng nhất vẫn là cơ chế chính trị độc tài toàn trị, bóp nghẹt hầu hết các quyền căn bản của con người và tham nhũng đã trở thành một đặc tính trong mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến địa phương. Lãnh đạo CSTQ đã và đang làm mọi cách để tồn tài bất chấp dư luận và thể diện của một đất nước có nhiều ngàn năm văn hóa. Sự lừa dối bỉ ổi thể hiện khi Ủy Ban Thế Vận Quốc Tế đến kiểm nghiệm điều kiện môi sinh tại Bắc Kinh vào năm 2001 trước khi chấp thuận cho Trung Cộng làm quốc gia tổ chức. Ngày trước đó, lãnh đạo Trung Cộng đã ra lịnh xịt nước xanh lên hai hàng cây dọc đường phố có đoàn xe của Ủy Ban Thế Vận chạy qua để đánh lừa họ rằng Bắc Kinh là thành phố cây xanh. Hành động này giống hệt chuyện xảy ra hơn nửa thế kỷ trước khi các lãnh đạo CS tỉnh Hồ Bắc cho dời các ruộng lúa ra sát đường nơi có xe lửa của Mao chạy qua để gây tượng cho Mao rằng mùa màng dư giả. Bản chất lừa dối của chế độ CS không thay đổi và một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố để tồn tại, chế độ đó sớm nay muộn rồi sẽ sụp đổ. Trần Trung Đạo
......

Ông Nguyễn Bá Thanh đã bị đầu độc!

Tràn lan trên mạng hiện nay là các thông tin đồn đoán về tình trạng sức khỏe của ông Nguyễn Bá Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính TW, có tin cho rằng ông đã từ Mỹ trở về và hiện đang nằm điều trị ở bệnh viện Ung thư Đà Nẵng, có tin ông đã chết, đã đưa về Việt Nam cho gia đình trong một quan tài kẽm, lại có tin đồn ông đã bị hạ độc bằng phóng xạ, ngay tại trung tâm y tế lớn nhất của Mỹ cũng vô phương chữa trị. Thực hư về nguyên nhân và tình trạng sức khỏe hiện nay của ông Nguyễn Bá Thanh ra sao?     Theo nguồn tin đã được chứng thực từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ TW, khoảng giữa tháng 05/2014, sau khi đóng sổ vụ án Dương Chí Dũng và hoàn tất hồ sơ vụ án Bầu Kiên, bàn giao cho Tòa án Nhân dân Tối cao, ông Nguyễn Bá Thanh đột nhiên bị choáng phải đưa đi cấp cứu, các bác sĩ chẩn đoán ông có triệu chứng rối loạn sinh tủy, trước đó, khi rời Đà Nẵng ra Hà Nội nhậm chức Trưởng ban Nội chính TW, sức khỏe ông hoàn toàn bình thường và được đánh giá là sức khỏe tốt, đủ đảm đương công việc. Ông Thanh không tin vào kết quả chẩn đoán căn bệnh rối loạn sinh tủy từ Ban Bảo vệ Sức khỏe TW và tiếp tục làm việc bình thường, ai cũng thấy sắc mặt ông ngày một xám, nhìn gần thấy ẩn những mụn thâm đỏ dưới da. Sức khỏe ông Nguyễn Bá Thanh ngày một yếu và tiếp tục bị ngất xỉu trong chuyến công tác Thụy Điển đầu tháng 6/2014, khi đó ông mới đồng ý để Ban Bảo vệ Sức khỏe TW đưa đi Singapore chữa trị 02 lần vào trung tuần các tháng 6 và 7/2014. Tuy nhiên, dù Singapore có nền y tế hàng đầu khu vực vẫn không tìm ra nguyên nhân đích thực của căn bệnh, chỉ chẩn đoán là “Nhiễm độc xương, tủy” và đề xuất đưa ông Bá Thanh qua Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson, Mỹ (nơi có kinh nghiệm hàng đầu về điều trị bệnh ung thư). Được sự phê chuẩn của Ban Bí thư, ngày 16/8/2014, ông Nguyễn Bá Thanh đã được đưa sang Mỹ, ngay sau khi nhập viện, ông đã được chẩn đoán “Ngộ độc phóng xạ – ARS” và lập tức được chuyển đến Bệnh viện Johns Hopkins Medicine (Baltimore, Mỹ), đây là cơ quan chuyên nghiên cứu và điều trị mạnh nhất của Hoa Kỳ về các bệnh do nhiễm xạ gây ra. Sau ca phẫu thuật ghép tủy, ông có dấu hiệu phục hồi và được chuyển đến Trung tâm Y tế Đại học Washington (Washington University Medical Center) tiếp tục theo dõi và điều trị. Tính đến cuối tháng 10/2014, ông vẫn thường xuyên liên lạc về để báo cáo tình trạng sức khỏe với Ban Bí thư và chỉ đạo công việc của Ban Nội chính TW. Bệnh viện Johns Hopkins Medicine (Baltimore, United States) Tuy nhiên, từ đầu tháng 11/2014 đến nay ông không còn báo cáo về Trung ương cũng như chỉ đạo công việc của Ban Nội chính. Khi Ban Bảo vệ Sức khỏe TW liên lạc được với ông Phan Văn Tâm, thư ký phụ trách tháp tùng chăm sóc ông Thanh, ông Tâm cho biết bệnh tình ông Nguyễn Bá Thanh bắt đầu trở nặng do biến chứng của ca phẫu thuật ghép tủy, người bắt đầu khô quắt, xám xịt toàn thân, ngoài ra ông Tâm cũng không biết gì hơn, nhất là vấn đề chuyên môn. Đầu tháng 12/2014, được sự đồng ý của Ban Bí thư, Ban bảo vệ Sức khỏe TW đã thành lập đoàn qua Mỹ gồm lãnh đạo Ban Tổ chức TW và Ban Bảo vệ Sức khỏe TW, đến thẳng Trung tâm Y tế Đại học Washington làm việc trực tiếp với các bác sĩ điều trị để tìm hiểu về bệnh tình ông Nguyễn Bá Thanh và tìm giải pháp. Trung tâm Y tế Đại học Washington (1959 Northeast Pacific Street, Seattle, WA 98195, United States, Phone: +1 206-598-3300), nơi ông Nguyễn Bá Thanh đang điều trị Sau khi thăm ông Nguyễn Bá Thanh tại bệnh viện, đoàn công tác đã làm việc với Trung tâm Y tế Đại học Washington, theo các bác sĩ tại đây, dù đã cố gắng điều trị nhưng bệnh tình ông Nguyễn Bá Thanh ngày một trở nặng, lý do bệnh nhân được chuyển đến quá trễ, độc tố nhiễm trong xương không thể giải trừ hết. Dù ca phẫu thuật ghép tủy trước đó thành công nhưng các tế bào nhiễm độc phóng xạ ARS đã chuyển thành ung thư và đang lây lan rất nhanh, hiện không có liệu pháp ngăn chặn. Bác sĩ F. Marc Stewart, người trực tiếp điều trị ông Nguyễn Bá Thanh cho biết, ông Thanh vừa được hóa trị lần 3 nhưng chỉ có thể duy trì thêm một thời gian ngắn. Khoa Điều trị ung thư của thành phố Seattle (Seattle Cancer Care Alliance Clinic) do giáo sư, tiến sĩ Elihu Estey làm bác sĩ chính cũng đã vào cuộc, nhưng hi vọng rất mong manh, có thể nói, sự sống của ông Nguyễn Bá Thanh chỉ còn được tính bằng ngày… Bác sĩ F. Marc Stewart (điện thoại +1 206-351-4514), người trực tiếp điều trị cho ông Nguyễn Bá Thanh tại Trung tâm Y tế Đại học Washington Như vậy, việc ông Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc phóng xạ là sự thật minh xác, số phận ông dường như đã bị định đoạt bởi hành vi thấp hèn của đối thủ chính trị khi ông đang chuẩn bị ghi điểm quyết định nhằm tiến vào Bộ Chính trị khóa tới và khẳng định vai trò thủ lĩnh miền trung bằng cách âm thầm tiến hành điều tra tài sản tham nhũng của gia đình một Ủy viên Bộ Chính trị đương chức, cũng là người miền Trung theo chỉ thị trực tiếp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì bỗng nhiên ngã quỵ… Ai là kẻ đứng trong bóng tối giật dây cho hành vi tội ác này?   Xuất hiện nhiều tin đồn đoán cho rằng nhóm lợi ích đứng sau ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thực hiện, nhưng thực tế hoàn toàn khác và khác rất xa, việc ông Nguyễn Bá Thanh rớt khỏi Bộ Chính trị tại Hội nghị TW 7 do thiếu sự ủng hộ của ông Dũng là đúng một phần nhưng thực tế lí do chính mà ai cũng biết là ông Dũng không đồng tình với quyết định sai qui trình và độc đoán của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hơn nữa bản thân ông Dũng ủng hộ ông Bá Thanh vì ông Thanh là người làm được việc và ông Thanh đã biết rõ và rất vui vì được sự ủng hộ của cả tứ trụ triều đình, mở rộng cửa vào Bộ Chính trị trong Hội nghị TW 10 sắp tới. Còn việc ông Thanh bị triệt hạ uy tín, chặn đường vào Bộ Chính trị qua vụ Thanh tra chính phủ công bố kết quả thanh tra đất đai Đà Nẵng thì mọi người cần tham khảo bài Sự thật về thanh tra đất đai ở Đà Nẵng để có thông tin cụ thể hơn. Vậy ai mới là thủ phạm đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh? Có câu tiền nhân hậu quả, hãy xem ai là người bị đe dọa nhất trong việc nếu ông Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính trị? Chúng tôi sẽ vạch mặt tên thủ phạm bỉ ổi này trong bài phóng sự tới.   Cầu mong trời phật phù hộ cho ông Nguyễn Bá Thanh vượt qua được kiếp nạn lần này. Chân Dung Quyền Lực
......

Tại Sao Người Việt Hải Ngoại Chia rẽ?

Chung mục đích mang lại tự do dân chủ cho Việt Nam, nhưng 40 năm qua các cá nhân, các tổ chức chính trị ở hải ngọai vẫn sinh họat một cách rời rạc thiếu liên kết và người Việt nói chung không mấy quan tâm đến các sinh họat đấu tranh. Câu hỏi được liên tục đặt ra: Tại sao người Việt hải ngọai lại chia rẽ? Có nhiều lý do, nhưng chính yếu hải ngọai là một môi trường sinh họat tự do và đa nguyên với nhiều cá nhân, nhiều tổ chức hướng đến các giải pháp cho Việt Nam một cách khác biệt. Ts Nguyễn Quang Duy Khuynh hướng đấu tranh bất bạo động Sử dụng bất bạo động như một phương tiện để từng bước xói mòn khả năng kiểm soát của nhà cầm quyền Hà Nội. Bốn phương cách chính của đấu tranh bất bạo động bao gồm: ·       Thứ nhất, sử dụng các phương tiện truyền thông mang thông tin đến với người dân; ·       Vận động tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp, thực hiện quyền con người; ·       Tiến đến việc xây dựng các nhóm sinh họat dân chủ, xây dựng thế liên kết, phân công và phối hợp hành động; và ·       Cuối cùng là vận động người dân tạo sức ép lên chế độ buộc họ phải chấp nhận thay đổi hoặc sẽ bị đào thải để thay bằng một chính phủ dân chủ do chính người dân bầu lên. Bước chuyển biến quan trọng nhất là năm 1996, Khối 8406 đã chuyển Phong Trào Dân Chủ từ đấu tranh bí mật sang thế đấu tranh công khai. Cùng lúc một Phong Trào Yêu Nước bảo vệ biên giới biển đảo công khai họat động. Cao điểm là giữa năm 2011 đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình tại Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố khác. Từ đó hình thành một số các Tổ Chức Dân Sự như hiện nay. Mặc dù số người công khai đấu tranh đã và đang gia tăng nhưng để có thực lực nhằm chuyển đổi thể chế độ cộng sản sang dân chủ rõ ràng phải cần nhiều năm nữa. Cần thời gian nên nếu tính đến cái giá mà người dân và người đấu tranh trong nước đang tiếp tục phải gánh chịu, cái giá của đất nước đang càng ngày càng lụn bại và cái giá của ảnh hưởng của ngoại bang càng ngày càng gia tăng. Thì đấu tranh bất bạo động không chắc là giải pháp ít thiệt hại nhất cho đất nước. Lại nữa, bất bạo động không chắc đã khả thi tại Việt Nam vì nó cần một số điều kiện mà Việt Nam sau nhiều năm vẫn chưa có. Điều kiện đòi hỏi nhất là các tổ chức chính trị phải ra mặt công khai đấu tranh thay vì vẫn họat động trong vòng bí mật. Có họat động công khai các tổ chức chính trị mới có dân và dân là yếu tố quyết định sự chuyển đổi thể chế. Bài học từ cuộc đấu tranh của người dân Hong Kong cho thấy cộng sản không bao giờ nhượng bộ, ngay cả khi có hằng trăm ngàn người xuống đường biểu tình một cách ôn hòa bất bạo động.   Khuynh hướng cách mạng   Những người tin vào giải pháp này cũng sử dụng các phương tiện truyền thông tân tiến mang thông tin đến cho đại chúng, xây dựng cơ sở quốc nội, sách động người dân, nhất là thanh thiếu niên, đứng lên để lật đổ cộng sản. Vì chủ trương cách mạng các tổ chức theo khuynh hướng này vẫn tiếp tục họat động bí mật tại quốc nội, nên khó có thể đánh giá một cách khách quan. Khuynh hướng thay đổi từ bên trong và bên trên đảng Cộng sản. Nhiều người, bao gồm những người ngọai quốc quan tâm đến tình hình Việt Nam, tin vào những thay đổi từ bên trong đảng Cộng sản. Họ cổ vũ hay ngầm ngấm ủng hộ những thay đổi nhỏ, làm tiền đề căn bản cho những thay đổi xa hơn và lớn hơn. Nhưng đến nay vẫn chưa có được những chuyển đổi rõ rệt. Khuynh hướng dựa vào Hoa Kỳ Xuất phát từ thực tế chính trị Việt Nam và tin vào sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ nhiều người đứng ra vận động thành lập chính phủ lưu vong. Việc làm của họ hòan tòan phù hợp với luật pháp của Hoa Kỳ. Nhưng trên thực tế Hoa Kỳ luôn đặt quyền lợi của Hoa Kỳ với Cộng sản Việt Nam cao hơn, nên chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ chính thức công nhận hay ủng hộ các nỗ lực nói trên. Khuynh hướng bảo vệ xây dựng hải ngọai và yểm trợ quốc nội Đây có lẽ là khuynh hướng được nhiều người hải ngọai ủng hộ nhất. Những người theo khuynh hướng này thường gắn bó với các sinh họat cộng đồng, vừa bảo vệ, vừa xây dựng cộng đồng, vừa dựa vào sức mạnh cộng đồng vận động yểm trợ quốc nội và quốc tế vận. Cộng Đồng   Ở hầu hết các địa phương Cộng đồng là tiếng nói chung hay tiếng nói của đa số người Việt. Tại Úc, Cộng đồng Liên Bang là một cơ cấu điều hợp các Cộng đồng Tiểu Bang mang tiếng nói chung đến chính giới Úc. Được biết hiện Luật sư Võ Trí Dũng chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự Do Úc châu đang ở Hoa Kỳ vận động liên kết giữa các Cộng Đồng Bắc Mỹ và Úc châu để có thể có một tiếng nói chung cho người Việt hải ngọai. Điều cần nêu ra là các Ban Chấp Hành Cộng Đồng thường thay đổi theo nhiệm kỳ và có nhiều công việc khác ưu tiên hơn. Vai trò của Cộng Đồng cũng khác với vai trò của các tổ chức đấu tranh. Bởi thế các việc vận động nhân quyền hay vận động yểm trợ quốc nội thường do các tổ chức đảm trách. Quốc Tế Vận Một trong những nỗ lực chính yếu của người Việt hải ngọai là cất tiếng nói cho chính họ hay mang tiếng nói của những người quốc nội đến chính giới và dân chúng địa phương. Từ những khuynh hướng khác nhau phát sinh nhiều sinh họat quốc tế vận khác nhau: ·       Để mọi người biết đến hay để vận động địa phương chính thức công nhận lá cờ, nhiều người sử dụng lá cờ vàng trong mọi sinh họat tại địa phương; ·       Vận động địa phương để cấm các sinh họat của nhà cầm quyền cộng sản tại địa phương; ·       Quảng bá những sự thật như nỗ lực “Hành trình đến Tự do” của Thượng Nghị Sỹ Ngô Thanh Hải tại Canada; ·       Các cuộc biểu tình tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam; ·       Sử dụng các phương tiện báo chí, truyền thông hay qua những trao đổi cá nhân, cũng đóng góp vận động người ngọai quốc hỗ trợ cho một Việt Nam tự do. Việc vận động nhân quyền cũng đã được liên tục thực hiện, nhưng cũng có nhiều phương cách và mục đích vận động khác nhau: ·       Chỉ tập trung vận động cho thành viên trong tổ chức hay một số Tù nhân Lương Tâm; ·       Tố cáo những hành động vi phạm nhân quyền để các tổ chức quốc tế hay chính giới ngọai quốc nắm được tình hình chung; ·       Ảnh hưởng đến chính sách các quốc gia sở tại. Như các cuộc điều trần, các nỗ lực gắn liền nhân quyền với viện trợ nhân đạo hay ra những đạo luật buộc cộng sản phải cải thiện nhân quyền mới được gia nhập TPP; ·       Cả ba mục đích trên được phối hợp một cách nhịp nhàng. Quốc tế vận càng ngày càng trở nên quan trọng và hải ngọai có thể dùng sức mạnh của lá phiếu để thực hiện một số công việc nhất định. Nhưng mang lại tự do dân chủ vẫn phải được quyết định từ những họat động quốc nội. Khách quan nhận xét khi thực hiện các công tác quốc tế vận các cá nhân hay các tổ chức hải ngọai thường tương nhượng hay liên kết làm việc. Gần đây một số các sinh họat quốc tế vận cũng đã được các anh chị quốc nội đứng ra đảm trách. Đây là một bước tiến quan trọng của Phong trào dân chủ Việt Nam. Nguyên nhân gây ra chia rẽ Tình hình Việt Nam và tình hình thế giới khó cho chúng ta thấy trước chuyện gì sẽ xảy ra và xảy ra ở lúc nào. Vì thế không thể mang lý thuyết ra để tranh luận đúng sai. Trong sinh họat các tổ chức có quy mô nhỏ thường sinh họat cần sự đồng thuận hơn, ngược lại các tổ chức có quy mô lớn thường có sự chỉ đạo từ trên xuống dưới. Đó là chưa kể đến những người không sinh họat với bất cứ tổ chức nào, nhưng cũng quan tâm đến tình hình Việt Nam và muốn đóng góp thay đổi thời cuộc theo suy nghĩ của cá nhân. Thực trạng nêu trên tạo các va chạm từ khuynh hướng đến phương cách thực hiện công việc. Điều đáng tiếc một số người thay vì hướng đến mục đích chung lại mở mặt trận “ai thắng ai” ngay tại hải ngọai, đấu tranh với những người theo khuynh hướng khác. Ở một mức độ sự cạnh tranh và việc tranh luận là điều cần thiết, nhưng khi đã vượt quá làn ranh và thiếu người hòa giải, lại tạo ra bất hòa không thể giải quyết. Nhưng im lặng, thiếu giải thích và thiếu thực tế chứng minh cũng không phải là một giải pháp khôn ngoan. Đương nhiên, nhà cầm quyền cộng sản cũng không thể để các cộng đồng hay tổ chức sinh họat một cách bất lợi cho họ. Về mặt chìm khó có thể biết được chính xác sự can thiệp, nhưng về mặt nổi như văn nghệ, dạy tiếng Việt, truyền thông sách báo tuyên truyền... thì Nghị quyết 36 là một bằng chứng đảng Cộng sản đã trực tiếp tài trợ (bao cấp) cho một số các sinh họat nói trên. Điều đáng tiếc có người đã lợi dụng lý do để gán cho người khác là Việt cộng hay Việt gian gây thêm nghi ngờ và chia rẽ trong các sinh họat hải ngọai. Nhiều người đâm ra chán nản và số người sinh họat chính trị hay sinh họat cộng đồng vốn đã ít nay lại ít hơn. Người dân hải ngọai xuất phát từ nhiều thành phần khác nhau và vốn đã e dè với các sinh họat. Nay không thấy kết quả cụ thể, chỉ thấy những mặt trái của sinh họat, nên càng trở nên e dè với các sinh họat đấu tranh.   Liên kết trong ngòai   Ở hải ngọai làm việc với nhau đã khó việc liên kết với trong nước lại càng khó hơn. Khách quan nhìn nhận, mặc dù mới phát triển các sinh họat quốc nội đã làm được một số điều mà chính các tổ chức hải ngọai cần học hỏi: ·       các nhóm đã liên kết làm việc chung; ·       một số nhóm đã sử dụng Facebook như một phương tiện công khai tài chánh; ·       Trong buổi họp cuối năm 2014 tại Dòng Chúa Cứu Thế đại diện các tổ chức Dân Sự đã trình bày các ưu khuyết điểm của họ trong năm 2014 và định hình hoạt động cho năm 2015. Những việc làm như vậy sẽ giúp các thành viên hiểu rõ được thực lực và định rõ được hướng đi, cũng như giúp các tổ chức xây dựng uy tín. Sự thực và minh bạch sẽ giúp xây dựng các giá trị lâu dài.   Kết Mặc dầu 40 năm nhà cầm quyền cộng sản đã đưa ra nhiều sách lược nhằm kiểm sóat, cộng đồng hải ngọai vẫn là một cộng đồng tự do. Nhưng nỗ lực yểm trợ người dân trong nước đấu tranh mang lại tự do cho Việt Nam thì vẫn còn bị giới hạn rất nhiều. Cuối năm cũng là lúc để mỗi người chúng ta, mỗi tổ chức tự xét xem làm thế nào để giảm bớt chia rẽ trong sinh họat chính trị hải ngọai, gầy dựng lại niềm tin của người dân và gắn bó hơn với cuộc đấu tranh chung. Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi 22/12/2014 Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
......

Di sản Đông Đức 25 năm sau ngày thống nhất

Hai mươi lăm năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức Thống Nhất, cùng với ngân khoản khổng lồ để tái thiết những vùng trước kia ở bên kia bức màn sắt của nước Đức lên tới một ngàn năm trăm tỷ Euros, khoảng 2000 tỷ mỹ kim, hai miền của nước Đức nay vẫn còn nhiều khác biệt từ kinh tế đến con người. Một bản tin của AFP vào cuối tháng 10 vừa qua (1) cho biết như vậy. Ngân khoản to lớn vừa kể (ước tính cho đến nay) là khoản tiền thuế phụ trội 5.5% có tên gọi là thuế “đoàn kết” (solidarity tax) mà người dân Tây Đức phải đóng thêm từ năm 1991 cho đến năm 2019 để tái thiết lại Đông Đức sống dở chết dở sau bao nhiêu kế hoạch ngũ niên của nhà nước cộng sản Đông Đức.   Một bản tin khác của AFP tháng trước đó (2) thuật lại một số chi tiết trong bản báo cáo hàng năm, đánh giá về việc tái thiết Đông Đức để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 25 năm nước Đức thống nhất năm nay, tuy có đưa ra hình ảnh tích cực hơn của Đông Đức sau 25 năm nước Đức thống nhất, nhưng vẫn cho thấy những nét ảm đạm của “di sản Đông Đức”. Bản báo cáo vừa kể của bà Iris Gleicke, đại diện của những tiểu bang “mới” cho biết, mặc dù việc tái thiết 5 tiểu bang thuộc Đông Đức cũ đã đạt được nhiều tiến triển và hài lòng về “bức tranh tổng thể”, cũng như đã thành công phần lớn trong việc hội nhập của người dân Đông Đức, nhưng vẫn còn một khoảng cách đáng kể giữa hai miền trong lãnh vực kinh tế và công ăn việc làm. Mặc dù lợi tức bình quân đầu người của người dân Đông Đức nay đã tăng gấp đôi so với lúc bức tường Bá Linh vừa sụp đổ vào năm 1990, nhưng lợi tức này nay vẫn chỉ bằng khoảng 2/3 lợi tức bình quân của người dân Tây Đức, trong khi đó thì sự thịnh vượng của Tây Đức gần gấp đôi Đông Đức. Bản báo cáo này còn cho biết, từ năm 1995 đến năm 2013 nền kinh tế ở Đông Đức tăng trưởng 20%, cùng thời gian đó kinh tế Tây Đức Tăng trưởng 27%. Theo bản báo cáo thì con số ít ỏi các công ty lớn di chuyển sang Đông Đức là yếu tố quan trọng làm cho năng suất lao động của người dân vùng này thấp kém, điều này cũng khiến sự hội nhập của người dân Đông Đức trong mấy năm vừa qua chậm lại. Mặt khác, nền công kỹ nghệ ở Đông Đức sau năm 1990 chỉ gồm những công ty loại trung bình và nhỏ. Không có một công ty nào có tên niêm yết trên thị trường chứng khoán DAX của Đức đặt trụ sở của họ ở phía Đông Đức. Các công ty đa quốc gia đặt trụ sở ở phía Tây Đức vì điều kiện làm việc tốt hơn, họ cũng trả lương cao hơn, và nhờ thế họ mới giữ được lực lượng lao động có tay nghề và năng suất cao.   Theo các con số chính thức thì tỷ lệ thất nghiệp ở phần đất Đông Đức là 10.3%, dù rằng trong năm 2013 Đông Đức đã hạ được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất kể từ khi nước Đức thống nhất đến nay; trong khi tỷ lệ đó ở Tây Đức chỉ khoảng 6%. Mười năm trước đây tỷ lệ thất nghiệp ở Đông Đức lên đến 18.4%, gấp đôi ở Tây Đức. Một báo cáo khác của viện nghiên cứu kinh tế Ifo công bố gần đây cũng cho thấy một hình ảnh tương tự. Theo một cuộc thăm dò vào cuối tháng 9 thì có đến 75% “Ossis”, tức những người ở Đông Đức cũ như ở Đức vẫn gọi họ, thấy nước Đức thống nhất là sự kiện tích cực, trong khi đó chỉ có 48% "Wessis" (người ở phía Tây Đức) cảm nhận tương tự. Nhiều người dân Đông Đức thuộc thế hệ già cả vẫn nuối tiếc hệ thống y tế và giáo dục “bao cấp” thời cộng sản. Nhìn chung thì ai cũng phải thừa nhận những nguyên nhân, sự khác biệt và yếu kém của nền kinh tế Đông Đức cũ dưới chế độ cộng sản. Nó để lại một di sản nặng nề và tồi tàn cho nước Đức sau khi thống nhất. “Việc tái thiết (Đông Đức) vẫn chưa xong, rõ ràng là như vậy. Tuy nhiên đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm”. Ông Michael Burda, kinh tế gia ở đại học Humboldt, Berlin, đã nhận xét như vậy khi nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất.   --- (1) Theo ước đoán của giáo sư Thomas Lenk, đại học tài chánh công Leipzig (public finance at Leipzig University), 25 years on, Germany's east-west divide still palpable (http://news.yahoo.com/25-years-germanys-east-west-divide-still-palpable-...) (2) Eastern Germany still lags 25 years after Berlin Wall's fall, (http://news.yahoo.com/eastern-germany-still-lags-25-years-berlin-walls-2...)   Theo FB CTM
......

Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung – Việt tại Thành Đô

Bài sau đây có nguồn gốc từ một trang mạng bán chính thức của Trung Quốc và mang giọng điệu gián tiếp đe dọa sẽ bật mí tất cả trong thời gian tới. Điều này cho thấy nếu Hà Nội không sớm công bố các ký kết bí mật tại Hội Nghị Thành Đô thì Bắc Kinh sẽ ra tay trước và theo hướng có lợi cho họ. Không những thế, Bắc Kinh còn có thể thêm bớt vào các ký kết để thủ lợi tối đa vì không ai ngoài các thủ lãnh CSVN và CSTQ biết bản nào thật, bản nào giả. (BBT-TTĐQ). *****************   Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.   Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai   Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.   Tháng 7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao, cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu Bình thổ lộ điều bí mật Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.   Không ngờ hai vị lãnh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.   Đặng Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói: Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam  khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch. Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ý hữu hảo Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết. Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ. Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này. Nguyễn Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông. Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế. Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.   Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.   Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung. Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.   Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói : “Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.” “Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.” “Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.” “Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.” “Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”   Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng. Hoàng giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành. Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng? Vì việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ. Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc phòng Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này. 8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết. Trong tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.   Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này. Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương. Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương   Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý. Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.   Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn. Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.   Gặp gỡ bí mật Thành Đô   Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Lãnh đạo Trung cộng & Việt cộng tại Thành Đô Lý Bằng & Giang Trạch Dân nâng ly chúc mừng Hội nghị thành công Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh. Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên. Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều nay. Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm. Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh. Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3] Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.   16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc -Việt Nam Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”. Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới. Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết có đăng trên mạng China.com. ————— [1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lý Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND). [2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND). [3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình hữu nghị muôn đời (ND). [4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và ngoài Trung Quốc. (ND) Nguồn: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
......

Lý Bằng tiết lộ hội nghị Thành Đô 1990

Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990 là bước ngoặt của quan hệ Trung-Việt... Hai bên ký kết "Kỷ yếu hội nghị" đồng thuận bình thường hóa quan hệ song phương. Cuộc đàm phán bí mật, đảng cộng sản Việt Nam không tiết lộ và cũng không công bố cho toàn nhân dân Việt Nam biết một sự kiện lịch sử quan trọng. Đến ngày 5/11/1991, Đỗ Mười Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, và Võ Văn Kiệt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán Bắc Kinh (钓鱼台国宾馆). Một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, được tiết lộ bởi "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (李鹏外事日记 ) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình (和平发展合作), ngoài ra tác giả công bố hơn 230 bức ảnh phụ trang, phần lớn đã được công bố tại Trung Quốc. Nguồn: Công bố bởi Nhà xuất bản Tân Hoa Xã. Chúng tôi xin tóm lược một luồng thông tin giới thiệu tới độc giả như để tham khảo những tài liệu sau này về Hội Nghị Thành Đô 1990: Lý Bằng (Li Peng) viết hai cuốn Hồi ký "Nhật ký ngoại sự", và "Hòa Bình phát triển hợp tác", đó là những cuốn sách nhật ký chú trọng phần hoạt động đối ngoại của Lý Bằng đã từng là Phó Thủ tướng, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Thường vụ (NPC). Bài này trích trong cuốn "Nhật ký ngoại sự" và "Hòa bình phát triển hợp tác" của tác giả Lý Bằng. NXB Tân Hoa xã xuất bản. Nguồn:people.com.cn. [1] Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư. (3) Phạm Văn Đồng, (4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân), (5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), (6) Lý Bằng, (7) Đỗ Mười, (9) Hồng Hà (bìa phải) và Đinh Nho Liêm. Ảnh chụp tại Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!" [2] Lý Bằng "Nhật ký ngoại sự" (外事日记). Về hình thức ghi lại quá trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt như sau: Cuối những năm 1970. Việt Nam đưa quân sang Campuchia. Năm 1979, quan hệ Trung-Việt đụng đáy hết thuốc chữa. Tháng 12 năm 1986, thời đó Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đương quyền, tình hình quốc tế thay đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Liên Xô bị tan rã. Nguyễn Văn Linh tìm kiếm chính sách, điều chỉnh lại bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc-Việt Nam. Sau khi hai bên Trung-Việt thông qua đường liên lạc, đồng ý hội nghị bí mật vào ngày 03 - 04 tháng 9 năm 1990. Nguyễn Văn Linh và Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười chấp nhận đàm phán với các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên. Thứ Sáu, ngày 26 tháng 12 năm 1986. Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời vào tháng 7. Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, tại Đại hội 6 đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 8. Hôm nay, Việt Nam tuyên bố rằng "Rút toàn bộ quân đội của Việt Nam ra khỏi Campuchia". Lần này, tạo ra các điều kiện để giải quyết "trơn tru" cho mọi thuận lợi của vấn đề Campuchia, đồng thời làm "sạch" các chướng ngại bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Thứ Tư, ngày 6 tháng 6. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hẹn gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei) [3] tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn (Văn Linh), hy vọng cho một lần đầu, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai đảng, đồng thời mong sớm được đàm phán tại Trung Quốc. Chủ Nhật, ngày 26 tháng 8. Giới thiệu chuyến viếng thăm nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc, gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mục đích giải tỏa những vấn đề hai nước, hai đảng..., tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, ông cho biết hoàn toàn tán thành. Thứ Hai, ngày 27 tháng 8. Về đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến với Nguyễn Văn Linh theo những dự thảo liên quan, tôi đã báo cáo lên đồng chí Đặng Tiểu Bình. Theo quan điểm của Thế vận hội Châu Á (Asian Games), sắp tới tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng cuộc họp này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt, đặc biệt hệ trọng, nên để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm sẽ được bố trí ở Thành Đô. Thứ Năm, ngày 30 tháng 8. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đi đến Thành Đô để đàm phán nội bộ với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, đã có ban hành lời mời phía Việt Nam. Bây giờ thử xem Việt Nam trả lời thế nào. Chủ Nhật, ngày 02 tháng 9. 15 giờ 30, tôi lên chiếc máy bay chuyên cơ, cất cánh từ vùng ngoại ô sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 00 đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi di chuyển bằng ô-tô qua lộ trình mất hơn 20 phút đến Kim Ngưu tân quán (宾馆金牛), Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ đợi. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chiếc bay chuyên cơ đến Thành Đô chậm hơn tôi nửa giờ sau, tôi đến Thành Đô. 08 giờ 30 tối. Đến 11 giờ đêm, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi chính sách cho cuộc đàm phán với phía Việt Nam vào ngày mai. Thành Đô thứ Hai, ngày 03 tháng 9. Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc tiến hành đàm phán với phía Việt Nam. Khoảng 14 giờ 00, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng cùng đến Kim Ngưu tân quán Thành Đô (成都宾馆金牛) [4]. Giang Trạch Dân và tôi chào đón họ tại tầng lầu 1. Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, mặc veston cà phê, phong thái học giả. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười mái tóc bạc trắng cũng có thái độ mạnh mẽ, mặc veston màu xanh. Họ là những người trên bảy mươi tuổi, và Phạm Văn Đồng thị giác mắt nheo đục, mặc veston đại cán phù hợp với màu xanh, ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc. Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Buổi chiều, cuộc đàm phán bắt đầu, Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên thực hiện một bài phát biểu dài. Mục đích mong muốn bày tỏ giải quyết các vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt, đồng thời đàm phán việc thành lập Hội đồng tối cao của Campuchia là một phần ưu tiên, không nên loại trừ bất kỳ bên nào, không thể bày tỏ sự miễn cưỡng để can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh có vẻ chỉ muốn bày tỏ thái độ tuyên bố về nguyên tắc, trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Cuộc đàm phán tiếp tục cho đến 8 giờ 00, sau 08 giờ 30 mới bắt đầu mở tiệc buổi tối. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh? Thứ Ba, ngày 04 tháng 9. Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Tại thời điểm này, có thể nói những vấn đề nêu ra trong đàm phán đã đi đến sự đồng thuận một cách khá thỏa đáng, cùng quyết định soạn thảo một bản "Kỷ yếu hội nghị". 14 giờ 30, trong hai bên Trung-Việt tổ chức một buổi lễ ký kết tại khách sạn trên tầng số 1 Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt đồng ký do Tổng bí thư và Thủ tướng Chính phủ tương ứng. Đây là một bước ngoặc lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đọc câu thơ của Lỗ Tấn "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Tặng cho các đồng chí Việt Nam. Về vấn đề này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra hài lòng. 16:00, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 như vậy đã đến nơi. Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội 7 Thứ Bảy, ngày 29 tháng 6 năm 1991. Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được đắc cử Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng làm cố vấn. Những giai điệu tổng thể của Đại hội 7, Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh kiên trì giáo lý chủ nghĩa xã hội, tham gia vào các cải cách kinh tế, chủ trương tình hữu nghị Việt-Xô, Việt-Trung. Tinh thần của Đại hội 7 có lợi cho việc cải thiện quan hệ song phương Trung-Việt. Bắc Kinh thứ ba, ngày 30 tháng 7. Buổi chiều, tôi đã gặp gỡ các đại diện đặc biệt của Lê Đức Anh của Ủy ban Trung ương Việt Nam và Hồng Hà. Họ yêu cầu mở cuộc họp cấp cao Trung-Việt tổ chức tại Việt Nam. Tôi cho rằng, để nhân dân hai nước có sự chuẩn bị trước, để cho ASEAN và các nước khác không nảy sinh nghi ngờ, hai bên Trung-Việt. Cần tiến hành cuộc đáp ứng, gặp ở các cấp thứ trưởng và bộ trưởng ngoại giao trước đã, như cuộc họp cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng không có vấn đề về nguyên tắc. Ngày hôm sau Tổng bí thư Giang Trạch Dân sẽ trả lời chính thức với phía Việt Nam. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, cả hai đối tác thông qua tham khảo ý kiến và giải quyết. Trung Quốc giữ thái độ tích cực với tất cả các lĩnh vực về thương mại, bưu chính, vận chuyển, thanh toán ngân hàng, khôi phục giao thông đường bộ. Thứ Ba, 17 giờ 00, ngày 05 tháng 11. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đã tổ chức lễ đón chính thức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tại quảng trường ở ngoài cửa phía đông Đại lễ Đường Nhân dân. Tiếp đó, chúng tôi tổ chức tiến hành cuộc đàm phán. Đỗ Mười có thái độ rất rõ ràng về vấn đề Đài Loan. Đồng chí Giang cho biết, sau khi quan hệ song phương một thời quanh co, nay đã trải qua một quãng đường gập ghềnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam có thể ngồi lại với nhau để tiến hành cuộc đàm phán cấp cao mang ý nghĩa quan trọng. Đây là một kết thúc của các cuộc đàm phán trong quá khứ, hướng tới tương lai, nó đánh dấu sự bình thường hóa trong quan hệ hai nước, sẽ có tác động sâu sắc đến sự phát triển của quan hệ song phương. Đỗ Mười nói rằng, bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời cũng giúp ích cho hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới. Tiếp đó, tổ chức bữa tiệc. Thứ Tư, ngày 06 tháng 11. Buổi chiều, tôi đàm phán với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt, bầu không khí rất tốt. Đầu tiên tôi nêu ra rằng Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tiến hành đàm phán khả quan, đã trao đổi đầy đủ quan điểm. Về vấn đề Đài Loan, thái độ Võ Văn Kiệt thể hiện rất tốt. Tôi điểm qua các vấn đề về vay nợ, biên giới, người dân tị nạn… trong cuộc hội đàm. Hai bên đồng ý sau này sẽ không bàn tới nữa. Với các dự án vay vốn do phía Việt Nam vừa đề xuất, tôi đã hứa sẽ cho khảo sát các dự án của phía Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nêu rõ, thỏa thuận về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia đã được ký tại Paris, việc thực hiện thỏa thuận vẫn đòi hỏi các bên phải tiếp tục nỗ lực. Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆) Thứ Năm, ngày 7 tháng 11. Buổi chiều, Hiệp định Thương mại Trung-Việt và Hiệp định tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới giữa hai nước đã được ký kết và thỏa thuận tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆). Các lãnh đạo đảng và chính phủ hai nước đã dự lễ ký kết, sau đó, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân chia tay Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi du lịch đến Quảng Châu, Thẩm Quyến và đến thăm những nơi khác. Huỳnh Tâm (Dân Làm Báo)
......

CCRĐ – Tội ác vượt chỉ tiêu trên giao

Hiện nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cho mở triển lãm về cải cách ruộng đất (1947-1957) nhằm tuyên truyền sai sự thật về cuộc cải cách vô cùng àn bạo này, khoác lên mình toàn máu của nó những đóa hoa của nhân bản và thắng lợi; rằng cải cách đã chia ruộng cho dân nghèo. Để hai năm sau, năm 1958, phong trào hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp đã cướp hết ruộng đất , trâu bò, cày cuốc …của nông dân nghèo vừa được chia ruộng, gom vào trong tay một tên đại địa chủ khét tiếng khác có tên là nhà nước. Riêng việc ông Hồ Chí Minh đã ký quyết định đấu tố và xử bắn bà địa chủ yêu nước, tham gia kháng chiến , có công lớn với dân tộc đất nước là bà Cát Hanh Long ( tức bà Nguyễn Thị Năm) đã nói lên bản chất phi nghĩa của cuộc cải cách ruộng đất. Thử tưởng tượng nếu không có sự đóng gióp vô cùng to lớn của hàng chục vạn địa chủ trong kháng chiến chống Pháp thì thử hỏi Việt Minh của ông Hồ Chí Minh lấy đâu ra thóc gạo để nuôi ngót một triệu bộ đội cùng dân quân và bộ máy khổng lồ chỉ đạo cuộc kháng chiến ? Thế mà, thay vì trả công cho tầng lớp địa chủ kháng chiến yêu nước này, các ông lại ký lệnh bắt nhốt hàng vạn địa chủ yêu nước lại, rồi đấu tố họ tàn bạo và bắn giết họ không thương tiếc mà còn dám huênh hoang khoe khoang rằng cải cách ruộng đất tốt đẹp lắm thì còn giời đất gì nữa ? Quê tôi làng Bình Hải, năm ấy có tên là xã Thúc Kháng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định được trên ưu ái cho long trời lở đất làm cuộc cải cách ruộng đất vào đông xuân 1956-1957 khi tôi đã 10 tuổi; nên tôi đã là chứng nhân, là một thành viên trong cuộc cải cách đầy máu và nước mắt này. Như có lần tôi đã kể, tôi có hai ông nội. Một ông nội nuôi bố tôi từ thơ bé, theo đạo Thiên Chúa, đã dựng vợ gả chồng cho bố tôi, rồi năm 1954 di cư vào Nam nên ông nội họ Trần của tôi và các cô chú tôi thoát khỏi tai nạn cải cách ruộng đất. Ông nội sinh ra bố tôi họ Phạm, theo đạo Phật, gia đình nuôi cán bộ trong kháng chiến nên không bị quy lên địa chủ, chỉ phải nhục nhã kiểm thảo trước nhân dân vì tội có học, biết chữ Hán và chữ quốc ngữ, nhà có nhiều sách, để cho ông em ruột có chữ, được vua ban cho chức quan thấp nhất là cửu phẩm. Chính ra ông nội họ Phạm của tôi đã bị xử bắn vì bị quy lên hàng trí thức, nhưng vì có quý nhân là quan lớn cải cách che đỡ nên cho thôi. Chỉ có một ông em ruột, em út của ông nội họ Phạm của tôi là cụ sư Niên ( Phạm Văn Niên) là sư cụ trụ trì một ngôi chùa to trong huyện bị quy lên địa chủ và bị đội cải cách lệnh cho phá chùa. Trước ngày bị đấu tố, biết chắc chắn sẽ bị chúng xử bắn, cụ sư Niên đã treo cổ chết phản đối chính quyền đã vu oan giá họa cho sư cụ nhằm phá chùa. Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị trói nhốt chuồng trâu chờ ngày đấu tố. Tôi đã chứng kiến Tậy đi càn quét nhưng không khí làng tôi những ngày cải cách đấu tố bắn bỏ địa chủ còn kinh khủng hơn nhiều đầu năm 1954 quân Pháp càn quét tìm Việt Minh. Cùng với các ông đội bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính ( hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ : rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư… Bọn thiếu nhi thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiêu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước. Đến lượt mình, tôi run bắn ấp úng thưa : - Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ ! Ông đội hét : Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng ! Tôi run run lí nhí : - Dạ em đấu tố thằng bố em ạ ! - Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đã đảo tên địa chủ Hiền… Tất cả bọn thếu nhi hô to đả đảo làm tôi mất hết tinh thần, run lên như chính mình sắp bị xử bắn. Tôi bèn kể lể dông dài một cách điêu toa là thằng địa chủ Hiền kia đã bóc lột con gà nhà bà Lộng, bóc lột con chó nhà bà Y, bóc lột gạo thóc ngoài ruộng nhà bần cố nông…Ông đội chỉ đạo cuộc đấu tố thí nghiệm hét lên : - Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn. Tôi hết hồn, điên lên hét thật to : - Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo ! Trong tiếng hô đả đảo vang trời của bọn thiếu niên thiếu nhi con cái các ông bà nông dân, thì ông đội tát cái bốp vào mặt tôi, khiến tôi ngã dúi, vừa tát ông vừa hét : - Thôi, câm ngay, đấu tố, chửi bố mình vượt chỉ tiêu trên giao ! Nghĩa là tôi đấu tố bố mình điêu hơn, ngoa hơn cả bài tố điêu tố gian của toàn đảng toàn dân ta đang long trời lở đất, kinh quá ! Lấy ý của ông đội cái cách tát bốp vào mặt tôi như vừa kể trên trong ngày giáp tết năm 1956-1957 ấy, tôi xin kết luận rằng : TỘI ÁC MÀ CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT từ năm 1947-1957 xảy ra ở Việt Nam do cấp trên Stalin, Mao Trạch Đông giao cho những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã vượt chỉ tiêu trên giao.,. Sài Gòn ngày 12-9-2014 T.M.H
......

Cải Cách Ruộng Đất : Sự Thật vẫn bị che dấu !

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...   Ngày 8/9/2014 tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội đã tổ chức cuộc triển lãm với 150 hình ảnh và các di vật về “Cải cách ruộng đất” trong khoảng thời gian từ 1946-1957.  Khác với cuộc triển lãm được tổ chức năm 1955 tại khu triển lãm Cát Linh với diện tích máy ngàn mét vuông, cuộc triển làm này chỉ trong không gian hẹp 250 mét vuông. Đây là sự kiện thu hút sự quan tâm của giới sử học và nhiều người dân… Chủ đề triển lãm tái hiện giai đoạn lịch sử mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đã giúp “người cày có ruộng, xóa bỏ giai cấp bốc lột ở nông thôn”. Nhưng  trên thực tế họ đã phản bội giai cấp nông dân, lừa dối họ để huy động lưc lượng đóng góp rất lớn vào trường kỳ kháng  chiến chống thực dân  Pháp. Cảm nhận chung là cuộc triển lãm cải cách ruộng đất này là không trung thực. Sự thật của cuộc cải cách ruộng đất vẫn bị che dấu.   Từ Hà Nội, sau khi xem triển lãm, nhà báo tự do JB Nguyễn Hữu Vinh đã nói lên những cảm nhận của mình qua cuộc  phỏng vấn của phóng viên Trần Quang Thành. Nội dung như sau. Mời quí vị theo dõi : http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...
......

Đặng Tiểu Bình Chỉ Huy Trận Chiến Hoàng Sa 1974

Ký giả Bill Hayton vừa cho xuất bản một quyển sách rất hay liên quan đến Biển Đông: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Trong Chương 3 đề cập về “Danger and Mischief từ 1946 -1995”, tác giả đã dựa theo tài liệu quân sự của Hoa Kỳ thập niên 70 được giải mật, và một tài liệu được soạn thảo bởi Hải quân Trung cộng vào năm 1987 – trong đó, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai là người - vào năm 1973 - đã đưa ra quyết định đánh chiếm Hoàng Sa, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao và Nixon năm 1972. Người được giao trách nhiệm thực hiện quyết định này là Đặng Tiểu Bình do sự đề bạt của Chu Ân Lai. Đặng Tiểu Bình lúc đó đang bị thất sủng sau cuộc cách mạng văn hóa vào năm 1966, và phải sống lưu đày cùng với vợ tại Giang Tây từ năm 1969 đến 1973. Chu Ân Lai đã cho đưa họ Đặng về Bắc Kinh vào ngày 20/3/1973 để tiến hành quyết định đánh Hoàng Sa của hai thủ lãnh Mao, Chu. Kế hoạch đánh chiếm bắt đầu được chuẩn bị và luyện tập từ tháng 9/1973. Theo tin tức tình báo Hoa Kỳ vào lúc đó, cảng Beihei đã được Trung Cộng cho kiểm soát gắt gao và từ giữa tháng 12/1973, hàng trăm lính Trung Cộng được đưa xuống 6 tàu đánh cá, hàng ngày rời khỏi cảng Beihei và trở lại cảng lúc trời tối, liên tục trong vòng 10 ngày. Kế hoạch đưa người ra chiếm Hoàng sa hoàn tất vào đầu tháng 1 năm 1974. Những nghiên cứu của ký giả Bill Hayton nói trên đã cho chúng ta thấy là việc đánh chiếm Hoàng sa của Trung Cộng là bước khởi đầu, nằm trong chiến lược khống chế biển Đông đã được vạch ra từ những lãnh đạo cao cấp nhất của Bắc Kinh là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Vì thế mà sau khi đưa hàng trăm lính ra chiếm các đảo của Việt Nam Cộng Hòa, ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại giao Trung Cộng ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đương nhiên Việt Nam Cộng Hòa đã ra tuyên bố khẳng định Hoàng sa, Trường sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ mọi cáo cuộc phi lý của Trung Cộng. Lo ngại Trung Cộng có thể đưa quân chiếm đóng, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra các đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm. Nhưng đã quá trễ. Ngày 16/1/1974 khi phái đoàn Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra thăm các đảo ở Hoàng sa để nghiên cứu thiết lập phi trường thì đã phát hiện lính Trung Cộng nằm đầy trên các đảo. Trận hải chiến Hoàng Sa bùng nổ và kết thúc vào ngày 19/1/1974. Lý Thái Hùng 8/9/2014
......

Ngày độc lập nào?

Từ lâu tôi luôn tự hỏi phải chăng ngày 2 tháng 9 năm 1945 thật sự là ngày độc lập của nước Việt Nam mới sau gần một thế kỷ làm thuộc địa của Pháp? Trước khi trả lời câu hỏi nghiêm túc này, cần lần giở lại các trang sử hiện đại của nước nhà, để ghi nhận một số sự kiện quan trọng sau đây: Cảnh ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng, Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngay sau đó, vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là thời điểm đáng lưu ý. Ngày 7/4/1945, vua Bảo Đại chuẩn y thành phần nội các mới, trong đó học giả Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập. Tháng 6/1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Đến khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Thủ tướng Trần Trọng Kim vào ngày 16/8/1945 khẳng định bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sau đó, vào ngày 18/8/1945, vua Bảo Đại tái xác nhận nền độc lập của Việt Nam đã công bố vào ngày 11/3/1945. Cần lưu ý, tuy là một chính quyền thực tế và chính danh từ tháng 3/1945, nhưng Đế quốc Việt Nam không đủ lực lượng quân sự để kiểm soát tình hình. Đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị. Nhiều tổ chức và đảng phái hình thành trước đó đã tranh thủ thế đứng chính trị riêng trước vận hội mới của Việt Nam, trong đó Việt Minh dường như là lực lượng được tổ chức hoàn bị nhất, khả dĩ tranh giành quyền lực vượt trội. Từ ngày 19/8/1945 tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh tiến hành đảo chính cướp chính quyền, buộc nhà nước Đế quốc Việt Nam chuyển giao quyền lực, một sự kiện mà sau đó được gọi là “Cách mạng tháng Tám”. Trước tình thế đó, vua Bảo Đại quyết định thoái vị và giải tán chính phủ Trần Trọng Kim. Dù tồn tại không bao lâu và phải dung hòa ảnh hưởng của các thế lực quốc tế cùng chủ thuyết Đại Đông Á của Nhật, nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế chính trị độc lập và mang đến niềm hy vọng về nền tự chủ đầu tiên cho Việt Nam sau ngần ấy năm lệ thuộc Pháp. Ngày 2/9/1945, chớp thời cơ về một khoảng trống quyền lực và sự yếu kém của các đảng phái chính trị khác tại Việt Nam khi ấy, đại diện Việt Minh là ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trong một buổi lễ long trọng tại Hà Nội, và sau đó tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sơ lược lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động như trên để thấy rằng nhiều điều bấy lâu nay bộ máy tuyên truyền và giới sử nô mặc định là đương nhiên đúng rất cần xem xét lại một cách công tâm, chẳng hạn nội các Trần Trọng Kim có thật là “bù nhìn” không, và ngày 2/9/1945 phải chăng là ngày độc lập trên phương diện thực tế và pháp lý? Như đã nói trên, sau khi bị quân đội Nhật đảo chính tại Đông Dương, nước Pháp trên thực tế đã đánh mất quyền kiểm soát về chính trị và quân sự ở các nước này, dù họ chưa bao giờ muốn từ bỏ thuộc địa béo bở như thế. Với tư cách là một đại diện chính danh và hợp pháp của một chính quyền đã và đang cai trị đất nước liên tục từ năm 1802, vua Bảo Đại ngay lập tức tuyên cáo Việt Nam độc lập. Ông đã thủ giữ vai trò đại diện đương nhiên của quốc dân và quốc gia trong sự chuyển tiếp từ thể chế chính trị cũ sang thể chế mới, mà không một nhân vật chính trị nào đương thời hội đủ tư cách thay thế được. Do đó, xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11/3/1945. Vậy không lý gì đến ngày 2/9/1945 người ta lại cần tuyên bố độc lập một lần nữa, mà người tuyên bố đơn thuần chỉ là thủ lĩnh của một phong trào chính trị, dù là mạnh nhất trong số nhiều tổ chức và đảng phái khác nhau cùng tồn tại khi ấy, và người đó cũng chưa bao giờ được quốc dân lựa chọn hoặc công nhận, dù mặc nhiên hay bằng một thủ tục hợp pháp, là đại diện chính danh của quốc gia tính đến thời điểm ấy. Cần lưu ý, trước thời điểm 2/9/1945 danh tính Hồ Chí Minh chưa từng được biết đến rộng rãi như một nhân vật chính trị có uy tín, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ nổi danh như một trong các nhà cách mạng đương thời tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam mà thôi. Hai tên ấy của một con người vốn luôn thích bí ẩn, dù về sau rất nổi tiếng, vẫn chưa đủ mang đến cho ông tư cách chính danh và hợp pháp vào lúc đó để có thể đứng ra đại diện tuyên bố độc lập cho quốc gia. Tất nhiên, chân lý thuộc về kẻ mạnh, nên khi thắng cuộc người ta có thể diễn giải mọi sự kiện lịch sử theo ý riêng của mình, rằng ngày 2/9/1945, chứ không phải ngày 11/3/1945, trở thành ngày độc lập của nước Việt Nam mới. Tuy nhiên, với cách đọc sử không lệ thuộc vào ý thức hệ, từ lâu tôi đã bác bỏ lối tường thuật và nhận định lịch sử theo hướng bóp méo vì mục đích chính trị như vậy. Cho nên, nếu gọi đó là ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn có thể đồng ý, nhưng nếu áp đặt đấy là ngày độc lập thì dứt khoát không đúng, bởi với tôi chỉ có thể là ngày 11/3/1945 khi vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam độc lập mà thôi.   nguồn: facebook.LSLeCongDinh
......

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Trong những lúc gần đây nhân sĩ trí thức Việt Nam đang cố vươn tới điều mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm cách nay nhiều thập niên đó là nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung Quốc. Liệu đây là nỗ lực có tỷ lệ thành công ra sao và vai trò nhà nước trong vận động này là gì? Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến tham dự một cuộc họp của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc tổ chức tại Hà Nội hôm 22/12/2011.   Khi nói về văn hóa không những chỉ có yếu tố tích cực mà còn những tiêu cực, do hoàn cảnh lịch sử khiến cả một dân tộc trong nhiều thế kỷ phải theo đuổi một cách mù quáng đôi khi miễn cưỡng một triết thuyết do tập đoàn cầm quyền hay chế độ phong kiến muốn áp đặt cho dễ dàng trong việc cai trị. Lệ thuộc văn hóa Trung Quốc đến từ đâu? Văn hóa Trung Quốc với Khổng giáo làm chủ đạo thâm nhập vào Việt Nam đã hơn 1.000 năm, tại sao giờ này mới nảy sinh ý định thoát ra khỏi nó và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu có khác gì với Nhật Bản và Hàn Quốc hay không?   Ngoài nguyên nhân văn hóa, hệ thống chính trị của Trung Quốc đã làm cho Việt Nam không thể độc lập tự chủ, ít nhất trong các quyết sách chính trị mà lý tưởng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi đường lối. Nguyên nhân ấy ăn sâu vào từng con người trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam khiến mọi nỗ lực thoát Trung gần như tuyệt vọng trong một giai đoạn kéo dài gần một thế kỷ. Nhà văn Hoàng Hưng, một trong những người tổ chức buổi tọa đàm có tên “Thoát Trung về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết quan điểm của ông: "Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó. Họ đưa vào điều lệ đảng, đưa vào hiến pháp các thứ. Trong xã hội thì ai cũng biết rằng bản thân người lãnh đạo Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đang tìm cách để thoát dần dần ra khỏi nó. Thí dụ như về kinh tế thì rõ ràng họ đã thoát ra và chấp nhận kinh tế thị trường chứ không còn chấp nhận cái đuôi Xã hội chủ nghĩa, cái cách mà nhà nước nắm quyền chi phối. Nếu mà nói đúng thì nó phải là một nền chuyên chính vô sản của công nhân, của nông dân. Thế nhưng ai cũng biết công nhân và nông dân hiện nay là tầng lớp khổ nhất trong xã hội. Đất đai không được ai bảo vệ, nghèo khổ bị đàn áp. Cái được gọi là chủ nghĩa Mác Lênin thực chất chỉ là cái vỏ đễ giữ lại nội dung chuyên chính độc tài toàn trị của một giới đặc quyền nắm quyền cai trị. Cái giả dối lớn nhất là giả dối về lý tưởng rao truyền trên xã hội. Những điều giả dối như vậy thì làm sao xã hội không giả dối theo trên tất cả mọi lãnh vực?" Khổng giáo và ý thức nữ quyền   Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011. Nhà báo Lê Phú Khải nhìn nguyên nhân ở một góc độ khác: sự lệ thuộc Khổng Mạnh một cách mù quáng đã khiến xã hội Việt Nam rơi vào quỹ đạo mà vua quan phong kiến thiết lập ra cho dễ bề thao túng quyền con người, đặc biệt là ở người phụ nữ:   "Khổng giáo nó ngấm vào mạch máu, nó ngấm vào từng con người và người ta xem đó là chân lý. Chẳng hạn người ta nói người phụ nữ chồng chết thì phải theo con. Tại sao phải theo con mà không lấy chồng khác? Nhưng người phụ nữ Việt Nam lại xem đó là chân lý, là lẽ phải. Trinh tiết, tiết tháo, thủy chung với chồng. Những chân lý mà người ta tiếp thu giống như người khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Cái nguy hiểm của văn hóa Khổng Mạnh tức là anh khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Điều này nó ngấm vào tiềm thức của xã hội Việt Nam và rất khó cho phép con cãi lại cha. Cha có thể sai chứ? Cấp trên có thể sai chứ? Thứ văn hóa bầy đàn mà chúng ta không thể thoát ra vẫn đi theo con đường toàn trị. Cho nên cái gốc của nó là như thế." Giáo sư Ngô Đức Thọ, người nghiên cứu văn hóa Trung Quốc trong hàng chục năm trời cho biết kinh nghiệm của ông và nguyên nhân chính khiến Việt Nam lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc là do nhà cầm quyền cố ý tránh né sự thật lịch sử Việt Nam bị nô lệ hàng ngàn năm từ cái gọi là giao lưu văn hóa hai nước:   "Ba cuộc chiến tranh dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc thì mọi người Việt Nam học lịch sử đều thuộc cả, ta gọi là ba lần Bắc thuộc. Chính xác phải là 13 thế kỷ hơn 1.300 năm. Như vậy nó là một trang sử rất u tối của chúng ta. Nói đến 1.000 năm Bắc thuộc thì mọi người nói rất nhiều mà sử sách thì viết không biết được bao nhiêu phần trăm? Lướt qua một cách thoải mái. Thực ra trong một nghìn năm đó lịch sử Việt Nam đau thương vô cùng mà lớp trẻ bây giờ không rõ. Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư của chính phủ Trần Trọng Kim thời trước khi chúng tôi còn đi học thì người ta vẽ một vài tấm tranh trong thời kỳ đó rất tang thương. Những ngôi mộ thời Đường như thế nào, cảnh hoang tàn của quân Nam Chiếu ở trên Vân Nam nó tàn sát như thế nào. Thế hệ bây giờ thì không có nữa, rõ ràng là rất thiếu. Cứ nghiên cứu trên quan niệm là giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc nên mới có chuyện người Việt học chữ Hán… Rất nhiều lĩnh vực của xã hội đen tối dưới thời Bắc thuộc, tội ác của những thái thú đối với người dân Việt Nam thế nào trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc đấy tàn sát bao nhiêu vụ? bóc lột thu thuế má vượt sản như thế nào, bắt quân dịch các đợt như thế nào …nhưng lịch sử chính thức của nước ta bây giờ hỏi số liệu đó thì hoàn toàn không có, không một trang nào viết cả, đó là một thiếu sót rất lớn." Nô bộc chính trị Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định tính chất nô bộc chính trị của lãnh tụ đã biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Sự coi thường văn hóa nước nhà đã gây ra hậu quả ngày nay: "Có một thời gian dài mình đã gửi cái hồn phách cho Tàu còn cụ Hồ thì nói là gửi hồn sang Mạc Tư Khoa thì đều không đúng. Vấn đề là phải gửi gấm cái hồn dân tộc vào văn hóa của mình vào lòng người, vào văn hóa. Đấy là những cái mà chúng tôi muốn nói đến. Hai nữa văn hóa nó phải bồi đắp cho một sức sống mới của một dân tộc cho nên vấn đề quốc văn quốc sử phải xem xét lại. Vấn đề quốc sử chẳng hạn: hiện nay có một điều là giới sử học, chính trị thì đã đành rồi, nhưng giới sử học ngay vấn đề lịch sử ¼ thế kỷ của Việt Nam Cộng Hòa chả ai nghiên cứu cả mặc dù nó là một thực thể lịch sử, nó có cái hay, cái dở, cái đúng cái sai nhưng trong ¼ thế kỷ ấy không có nghiên cứu, tức là một khoảng trống của một nửa nước. Và bây giờ rõ ràng về mặt chính trị người ta muốn thừa kế nó thì phải thừa nhận tính chính thống trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình nhưng các mặt khác thì mình có thừa kế không và làm sao bỏ nó đi được?" Thói quen theo đuôi hữu nghị   Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa).   Từ Úc châu, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết những quan sát của ông về thói bắt chước một cách mù quáng của hệ thống cầm quyền Việt Nam đã khiến đất nước này biến thành một phiên bản của Bắc Kinh từ ngôn ngữ hành chánh cho tới sinh hoạt khoa học và thậm chí trong cả lãnh vực quốc phòng, ông nói: "Những motif về tham nhũng, phong trào các quan lớn có bồ nhí… tất cả đều xuất phát từ bên Tàu, Việt Nam chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. Nếu xem lại các tàu kiểm ngư của Việt Nam mình thì sẽ thấy nó có màu trắng có vẽ mấy cái gạch xéo xéo xanh đỏ trên sườn tàu. Nếu nhìn những cái gạch đó của tàu cảnh sát biển Việt Nam và cảnh sát biển Trung Quốc thì giống y chang nhau! Hóa ra trước đó có mấy ông cảnh sát biển của Tàu nó qua giao lưu với Việt Nam và 4 tuần sau thì xảy ra xung đột. Trong khoa học, khi qua thăm Trung Quốc trong mấy năm gần đây mình thấy Việt Nam quan tâm tới vấn đề như phòng thí nghiệm trọng điểm hay các chương trình có những con số như 322 này nọ… khi mình qua Tàu mình thấy cũng y như vậy. Nó cũng có chương trình trọng điểm, những chương trình khoa học 917… như vậy thì mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!"   Lệ thuộc chính trị kéo theo bất động của cả nước trước sự xâm lấn văn hóa của phương Bắc ngày càng trầm trọng. Nỗ lực thoát ra khỏi những hệ lụy ấy đang là đầu đề của các buổi thảo luận căng thẳng đầy khó khăn. Câu hỏi đặt ra trước mắt: Thoát Trung, phải thoát điều gì? Nhà văn Hoàng Hưng cho biết những suy nghĩ của ông trước câu hỏi hóc búa này: "Khi ta bàn thoát Trung về Văn hóa là phải thoát cái gì. Tôi nghĩ rằng có một nét văn hóa tồi tệ vì giới cầm quyền Maoist của Trung Quốc đã xây dựng trên xã hội của họ và truyền sang xã hội Việt Nam do quan hệ được gọi là môi răng. Một nền văn hóa mà tôi đặt là “văn hóa giả dối”. Bây giờ nó đã thành một cái nạn rất là tệ hại, nghiêm trọng đối với toàn bộ đời sống tinh thần của tất cả các tầng lớp trong xã hội từ quan cho đến dân. Về lâu dài tôi cho nó là một tội ác. Nó phá hoại nền tảng tinh thần của Việt Nam rất là nguy hiểm. Tôi cho đó là một trong những tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao và nó gây hại cho dân tộc Việt Nam." Văn hóa quỳ lạy Nền “văn hóa giả dối” ấy theo nhà báo Lê Phú Khải cần phải nâng lên một tầng nấc khác, đó là “văn hóa quỳ lạy” do Khổng Mạnh cấy vào xã hội Trung Hoa từ hàng ngàn năm về trước. Sự quỳ lạy mà cộng đồng ngấm ngầm chấp nhận và thực hiện như một ước mơ đã tạo ra hàng trăm thế hệ hư đốn mà không nhận ra sự nô dịch của mình. Văn hóa quỳ lạy ấy đã tràn sang Việt Nam và nở rộ như nấm dưới mưa trong thời đại cộng sản: "Văn hóa nào thì nó chọn cái chính trị đó. Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa quỳ lạy tức là anh chí thú đi học để làm quan, để quỳ lạy trước nhà vua, để được hậu thưởng bổng lộc và chỉ có vua là đúng còn tất cả bàng dân đều là số không. Chỉ có anh ta đúng thôi. Ý vua là ý trời! Trong khi đúng vào cái thời kỳ đó thì ở phương Tây Aristos nói rằng có tranh luận, có đi tìm chân lý thì mới có chân lý. Thoát Trung là thoát khỏi văn hóa Khổng Mạnh của Trung Quốc, ảnh hưởng giới trí thức Việt Nam. Căn bản nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa chỉ có trên đúng còn dưới thì sai. Chỉ có vâng lời không có đối thoại. Tôi cho cái đó là quan trọng nhất." Chủ nghĩa cộng sản Giáo Sư Ngô Đức Thọ trong khi công tác tại Viện Hán Nôm ngoài kinh nghiệm về lịch sử giữa hai nước, ông phân tích sự lệ thuộc một cách mù quáng của lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã bất chấp giá nào để đạt được mục đích ngay cả phải hy sinh con người trong những phong trào đấu tố diệt chủng. Chủ tịch HCM đã nhắm mắt theo lời Stalin để cải cách ruộng đất và từ đó đất nước thấm đẫm oan khiên. Lịch sử này nếu không thoát ra hôm nay liệu Việt Nam còn có cơ hội nào khác nữa?   "Về mặt tư tưởng ta phải thoát Trung. Thoát Trung là gì? Đó là thoát tư tưởng đấu tranh giai cấp, tư tưởng Mao Trạch Đông, những tư tưởng này rất ảnh hưởng đến Việt Nam. Chúng ta đã biết những tư tưởng này là cách mạng chuyên chính của Mao được các cán bộ tầm cỡ của ta mang về từ Diên An. Kể cả Đề cương Văn hóa của đồng chí Trường Chinh viết năm 1943 cũng đậm màu sắc Trung Quốc trong đó văn học đại chúng không khác gì các đề cương văn hóa của Trung Quốc ở Diên An cả. Cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông tại Diên An  gần như được mô phỏng trong đề cương Văn hóa Việt Nam, tôi ví dụ như vậy. Cái tư tưởng này là gì thì mọi người đều biết rồi. Tư tưởng của anh Tàu rất tai hại. Theo tôi nghiên cứu tài liệu thì trước đây chỉ có mỗi Tàu nhưng sau này đọc lại thì thấy cũng ảnh hưởng quốc tế cộng sản từ Nga. Vấn đề “Cải cách ruộng đất” không hẳn của Tàu, chính Stalin chỉ thị cho Chủ tịch HCM về Việt Nam cải cách ruộng đất còn nếu không làm cải cách thì không công nhận đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên đảng cộng sản ra đời phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất này. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng rằng thời gian rồi nó sẽ qua, lấy thời gian làm vũ khí nhưng vũ khí thời gian không nghĩa gì cả bởi vì tai nạn này, kiếp nạn này là rất lớn."   Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh sự lệ thuộc về văn hóa từ mỗi cá nhân do tác động từ các việc làm của hệ thống chính trị. Cá nhân phải tự thân ý thức sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc của mình có hại cho quốc gia dân tộc như thế nào mới may ra cải đổi khuôn mặt văn hóa Tàu trong lòng từng người như hiện nay:   "Muốn hay không muốn thì văn hóa của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu rất lâu. Một ngàn năm bị đô hộ, sống chung với họ thì rất là khó để mình gột rửa nét văn hóa của họ đặc biệt dưới sự cai trị khắc nghiệt như thế này thì nó lại càng khó hơn. Cả Việt Nam mình hiện nay nó như một phiên bản của Trung Quốc, rập khuôn Tàu trên tất cả mọi lãnh vực từ chính trị cho đến tổ chức xã hội, kinh tế, khoa học và khá là ngạc nhiên vì tôi mới phát hiện nhiều cái rập khuôn về khoa học nữa. Thậm chí có những cái tên nhiều khi mình không để ý. Những cái tên mình đang dùng hiện nay cũng là bắt chước, xuất phát từ Tàu. Nếu muốn thoát Trung Quốc thì không phải chỉ thoát về hệ thống chính trị hay các thiết chế và tổ chức xã hội mà còn phải thoát từ trong tư tưởng của mỗi người, thậm chí thoát những cái bắt chước từ Trung Quốc. Tôi nghĩ nó không phải bắt đầu từ chính quyền mà bắt đầu từ mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân cần phải gột rửa những ý tưởng, những cách hành xử mà lâu nay mình tưởng là của truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng là của Tàu." Nhà văn Thùy Linh, người luôn có mặt trong các cuộc biều tình chống Trung Quốc cho biết quan sát của bà về vấn đề này mà theo nhà văn chính Khổng giáo là nguyên nhân sâu xa nhất nhưng nhà cầm quyền hiện nay muốn nó tồn tại để dễ dàng thao túng:   "Đời sống văn hóa Việt Nam sau năm 1945 đến giờ gần như đã bị chính trị hóa cho nên không còn đời sống văn hóa thật sự nguyên bản. Ngay cả tín ngưỡng dân gian cũng đã bị chính trị hóa. Đầu tiên người ta dẹp bỏ và cho đấy là mê tín dị đoan nhưng sau khi mở cửa thì tất cả những tín ngưỡng dân gian đều bị biến màu. Không có cái gì trong đời sống văn hóa mà không bị ảnh hưởng trong đời sống chính trị. Chính trị Việt Nam và Trung Quốc thời gian gần đây, cận hiện đại, hai nước có sự giao thoa ảnh hưởng rất sâu sắc, nhưng lui về trước nữa thì đạo Khổng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam. Chính Khổng giáo làm méo mó nhân cách, méo mó tất cả đời sống tự nhiên của con người và Việt Nam bị ảnh hưởng trong cái vòng ảnh hưởng đó. Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu. Hiện tại Khổng giáo đang làm cho chính quyền hưởng lợi chính vì vậy việc thoát Trung tại Việt Nam hết sức cam go."   Câu hỏi đặt ra, nếu sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc sẽ làm đất nước trì trệ, lạc hậu và không có cơ hội phát triển như các nước lân cận liệu chính quyển có đủ can đảm từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nay đã mịt mùng cộng với sự mê đắm vào Khổng giáo làm mê muội trí thức hầu củng cố quyền lực của mình hay không? Nhật hay Hàn, bài học nào cho Việt Nam? Nếu cho rằng thoát Trung là một ý tưởng hoàn toàn không thể thực hiện được người lạc quan có ngay một motif để chứng minh ngược lại, đó là sự thành công của hai nước lân cận với Trung Hoa là Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ không những đã thoát được vòng kểm tỏa của văn hóa Khổng Mạnh mà còn vượt ra khỏi hủ lậu của cả Châu Á nữa là đằng khác. Nhật Bản có lẽ là nước sâu sát với Trung Quốc hơn ai hết nhưng sau thế chiến thứ II nước này ý thức được muốn đứng lên bằng đôi chân của mình phải chịu đau đớn rời bỏ hai thanh nạng mà Trung Quốc ép vào tay trong suốt hàng ngàn năm qua chủ thuyết Khổng Mạnh mà nói theo nhà báo Lê Phú Khải là văn hóa quỳ lạy. Tinh thần Samurai không cho phép người Nhật quỳ lạy dù bất cứ trước thần tượng nào để đổi lấy miếng đỉnh chung như triết lý Khổng Mạnh của người Trung Quốc. Thiên Hoàng của Nhật được thần dân kính trọng và tôn sùng như thần thánh vì là hiện thân của con cháu Thái Dương Thần Nữ trong phạm trù tín ngưỡng và sự tôn sùng ấy vẫn được gìn giữ cho tới ngày nay. Ngược lại, Nhật Hoàng luôn tỏ ra là một minh quân hết lòng chăm lo cho dân chúng đã khiến niềm tin của người dân thêm được củng cố. Khổng Mạnh không chiếm giữ được văn hóa Nhật Bản mặc dù chủ nghĩa này được du nhập rất sớm vào xứ sở Phù tang. Việc du nhập văn hóa, văn minh phương Tây và chủ trương các trường quốc học Kokugaku là nỗ lực thành công thoát ra khỏi quỹ đạo văn hóa Trung Quốc vào cuối thế kỷ 17 đã mang Nhật đến gần hơn niềm mơ ước tự lực tự cường. Nam Bắc Triều và Hà Nội- Sài Gòn Hàn Quốc gần với tình trạng Việt Nam hơn nhưng họ vượt qua được cũng từ ý chí muốn đất nước thoát ra nghèo đói và nhục nhã. Thoát Trung nảy sinh trong lòng người dân Hàn Quốc phát sinh từ sự phân ranh Nam Bắc mà phía bên kia là Trung Quốc, một thế lực lớn lao công khai ủng hộ, giúp đỡ cho Bình Nhưỡng chống lại Seoul. Hoàn cảnh lịch sử này ngược lại với Việt Nam khiến người dân và chính phủ Hàn Quốc ý thức rõ rằng, thoát nền văn hóa Trung Quốc là tiền đề cho việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Lý do thứ hai làm cho thoát Trung thành một yếu tố cần thiết hiển nhiên là sự vận động dân chủ của Hàn Quốc đã tới mức cao nhất có thể. Một đất nước có dân chủ thật sự sẽ không thể chịu nổi bản chất độc tài đảng trị mà thể chế cộng sản theo đuổi. Không ai bỏ căn nhà tiện nghi của mình để chấp nhận vào hang động trú thân nhằm tìm cho ra chủ nghĩa xã hội là gì như Việt Nam đang lần mò trên con đường vạn dặm. Nhà văn Thùy Linh tự hỏi không biết Việt Nam rồi đây sẽ làm gì và bằng cách nào để có thể theo chân hai nước đồng văn đồng chủng với Trung Quốc này:   "Nhật hay Hàn quốc họ cũng bị ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng tại sao họ thoát được? Họ phải xây dựng một nền văn hóa thoát được Khổng giáo, họ xây dựng được một bản sắc rất độc đáo vậy thì tại sao chúng ta không làm được điều đó? Gần đây chúng ta mới đặt ra việc thoát Trung, chặng đường ấy tôi nghĩ rất dài nhưng chúng ta phải làm. Việt Nam bị ảnh hưởng Trung Quốc gần như một số phận khiến chúng ta phải ở cạnh một đất nước như thế nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể thoát nỗi sự ảnh hưởng của gã khổng lồ đó. Muốn phát triển phải có con đường đi riêng giống như Hàn Quốc hay Nhật." Hãy giải phóng chính mình   Nhà báo Lê Phú Khải chủ trương cổ vũ cho một tư duy độc lập trước khi có được một thái độ độc lập đối với sự cai trị nếu muốn thoát Trung như Nhật và Hàn Quốc đã làm:   "Như Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn họ còn muốn thoát Á nữa. Nó đã dân chủ, văn minh rồi tại sao vẫn muốn thoát Á? Bởi vì nó muốn thoát hẳn cái văn hóa Khổng Tử, cái văn hóa không có tranh luận, văn hóa bầy đàn mà họ muốn phải giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân rất quan trọng. Mỗi một con người đều là một tiềm năng nếu giải phóng được thì giống như phản ứng hạt nhân còn không có nó thì không có sức mạnh của cả dân tộc. Con số 1 đứng trước 6 con số 0 thì thành hàng triệu nhưng nếu mất con số 1 rồi thì 6 số không kia cũng vô nghĩa. Nhưng nếu con số 0 ấy là số 1 thì nó không cần ai chăn dắt cả." Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định một chính sách đứng đắn của nhà nước tạm gọi là “quốc chính” phải được đặt ra nếu muốn thoát Trung. Tấm gương của Hàn Quốc rất rõ trong trường hợp này, ông cho biết: “Quốc chính” là một nền chính trị để nó cầm nhịp cho bước phát triển mới tiến bộ nhân văn…thế nhưng hiện nay nền quốc chính của ta có nhiều điều rất lạc hậu. Một đội ngũ công chức đáng lẽ là lực lượng cầm nhịp cho sự phát triển xã hội thì tham nhũng là chính, hành dân là chính, làm sao mà đưa dân tộc phát triển được, đấy là các vấn đề phải đặt ra. Khi nói văn hóa mà quên đi vấn đề làm sao đưa giá trị văn hóa để cho nền chính trị của đất nước nó tử tế hơn lên, làm thăng hoa giá trị con người. Nhân văn, nhân ái, tình thương, dân chủ, tôn trọng con người….những vấn đề ấy văn hóa phải đóng góp và sửa đổi sớm những lệch lạc của cái được gọi là nền quốc chính, tức là nền chính trị của đất nước." Những ý kiến, tư duy cũng như trăn trở cho một tương lai đất nước vẫn đang được nhiều người, nhiều giới hưởng ứng, đồng tình. Tuy nhiên nếu mọi cố gắng thoát văn hóa Trung Quốc này không được nhà nướ quan tâm kể như 3 phần 4 câu chuyện sẽ không có hồi kết thúc.   Nguồn: rfa.org
......

Trần Đĩnh và tác phẩm Đèn Cù

Trong chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu tác phẩm Đèn Cù của nhà văn nhà báo Trần Đĩnh. Sách dày 600 trang sẽ được nhà xuất bản Người Việt phát hành vào hạ tuần tháng 8 này. nhà văn nhà báo Trần Đĩnh Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận. Những phân tích tinh tế   Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản. Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân, tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.   Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc. Những ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái tim thi sĩ. Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật. Khi đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết: “Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu”. Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy, do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính. Nhân chứng lịch sử Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật. Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do tác giả cung cấp.   Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”. Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật. Qua lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới Bắc Kinh. Chính ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể: “Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam? Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức. Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”. Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh… Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi. Những con rối không tự biết mình là rối   Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do tác giả cung cấp.   Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này. Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như nguyên bản. Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.   Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số phận Việt Nam: “Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh”. Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào. Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.   Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”. Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản. Và rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ cộng sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh. Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.   Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do tác giả cung cấp.   Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế  An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai… Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại: “Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba màu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã. Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng... Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng. Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì? Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười”. Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”. Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.   Thất tình Hồ Chí Minh? Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế? Trần Đĩnh: Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi. Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp. Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy? Trần Đĩnh: Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc. Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lênin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lênin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi. Ông Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế! Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiển viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông? Trần Đĩnh: Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được. Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay? Trần Đĩnh: Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được. Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không? Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.   Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ? Trần Đĩnh: Trước hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lênin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”. Có nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản tổng giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.   Anh hùng hay anh hèn? Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về việc này? Trần Đĩnh: Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa. Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không? Trần Đĩnh: Bây giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ, nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nổi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ. Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.   Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một show về thời trang của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!   Mặc Lâm: Xin cám ơn ông. M.L.- T.Đ. nguồn: rfa.org Bài liên quan Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt nam http://www.ttdq.de/node/1678  
......

Hoàng Sa - dữ kiện lịch sử từ wikileaks

Hoàng Sa - những diễn biến lịch sử theo các tài liệu của wikileaks lại các điện tín mà Wikileaks đã lưu trữ và công bố trên trang của họ [1], mình có thể liệt kê các biến cố quan trọng theo tình tự thời gian: 1) Ngày 11 tháng Một năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) bất thình lình tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Ngày 16 tháng Một năm 1974, tàu Lý Thường Kiệt (HQ-16) ra Hoàng Sa để kiểm sát thì phát hiện có hai "tàu cá" của Trung Quốc ở đó. Chiều ngày 16 tháng Một năm 1974, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc thay mặt chính phủ VNCH chính thức lên tiếng lên án thái độ phi pháp của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc về việc tuyên bố sai sự thật và việc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam bất hợp pháp. Ngoại trưởng Bắc liệt kê những bằng chứng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của VNCH: - Vua Gia Long năm 1802 đã hình thành quân đội kiểm soát quần đảo Hoàng Sa theo tài liệu của Đại Nam Nhất Thống Chí. - Vua Minh Mạng năm 1834, trình điều Huế đã có bản đồ Hoàng Sa trong Hoàng Việt Địa Du. - Thời Pháp thuộc đã có sắc luật 156/SC vào ngày 16 tháng Sáu năm 1932 ấn định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của tỉnh Thừa Thiên. - Vua Bảo Đại một lần nữa ra quyết định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của Thừa Thiên vào 30 tháng Ba năm 1938. - Toàn quyền Đông Dương một lần nữa xác định quyền quản lý Hoàng Sa thuộc chính phủ bảo hộ vào ngày 5 tháng Năm 1939. - Dưới thời đệ nhất VNCH, sắc lệnh 174-NK vào năm 1961 quyết định quần đảo Hoàng Sa thuộc Định Hải, Hoà Vang, Quảng Nam thay vì Thừa Thiên. - Dưới thời đệ nhị VNCH, sắc lệnh 079-BNV quyết định Định Hải sáp nhập với Hoà Long thuộc Hoà Vang. - Phái đoàn Việt Nam tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam và không có bất cứ quốc gia nào trong 51 nước tham dự đã phản đối. [2] "Đại Nam nhất thống toàn đồ” vẽ năm 1838 triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán. 2) Ngày 18 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc với vai trò thành viên dự khuyết của nước VNCH gởi thư đến chủ tịch LHQ Gonzalo J. Facio về thông tin đã được phát thanh vào chiều 16 tháng Một năm 1974 [3]. 3) Ngày 19 tháng Một năm 1974, hải quân VNCH và hải quân CHNDTH đụng độ tại Hoàng Sa. Báo Hoà Bình, một tờ báo độc lập của nam Việt Nam lên tiếng chỉ trích cộng sản Bắc Việt hoàn toàn im lặng trong khi họ rêu rao việc đấu tranh cho độc lập và trọn vẹn lãnh thổ [4]. 4) Ngày 20 tháng Một năm 1974, đại diện VNCH gởi thư cho chủ tịch LHQ thỉnh cầu triệu tập cuộc họp khẩn cấp để giàn xử việc CHNDTH cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và phía VNCH hiểu được tình trạng có thể thiếu sự ủng hộ của các thành viên của hội đồng bảo an LHQ [5] và bức thư này đã được ký nhận [6]. 5) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận việc phía VNCH đã kêu gọi hội đồng bảo an LHQ triệu tập cuộc họp khẩn cấp [7]. 6) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cho biết đã gặp phía VNCH và đại diện VNCH nhận thấy sẽ có những khó khăn để tìm 9 phiếu ủng hộ từ hội đồng bảo an LHQ nhưng phía VNCH cho biết họ sẽ làm việc với phía Anh, Pháp, Indonesia và Úc cũng trong ngày [8]. 7) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cũng đã chuyển thư thỉnh cầu của phía VNCH đến tổng thư ký LHQ Kurt Waldheim [9]. 8) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía VNCH và VNCH cho biết họ xác nhận cần tiến hành cuộc họp khẩn cấp với hội đồng bảo an LHQ và cần 3 ngày để sắp xếp nhân sự có mặt ở New York. Facio cũng cho biết chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, ông bắt đầu làm việc với từng đại diện của hội đồng bảo an LHQ, bắt đầu với Trung Quốc và sẽ cho phía VNCH biết tình hình vào sáng 22 tháng Một năm 1974 [10]. 9) Chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía CHNDTH và cho biết phía CHNDTH rất giận dữ và họ xác định chuyện Hoàng Sa là chuyện nội bộ của Trung Quốc và việc ông chủ tịch làm việc với các thành viên hội đồng bảo an LHQ để đưa đến cuộc họp khẩn này có thể dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền quốc gia Trung Quốc. [11] 10) Cũng trong chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, theo Kissinger, đại sứ Phương (của VNCH) đã gọi cho Hummel [12] và Stearns [13]. Phương cho biết dù nhận thấy những điểm bất lợi của vụ họp khẩn này của hội đồng bảo an LHQ nhưng VNCH không có chọn lựa nào khác trong tình thế này. Hummel và Stearns cho biết họ e ngại rằng phía Trung Quốc sẽ đưa ra một phiên bản khác và lật ngược thành chuyện VNCH đã khiêu khích và xâm chiếm và sự vụ sẽ trở nên rắc rối và bất lợi cho phía VNCH. Họ cũng cho biết, trong tình trạng này, sự từ chối khiếu nại của VNCH sẽ có hại cho VNCH [14]. 11) Cũng trong ngày 21 tháng Một năm 1974, Kissinger đánh giá tình thế bất lợi của VNCH do thành viên của hội đồng bảo an LHQ có những thay đổi: Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ tốt với VNCH. VNCH cần 9 phiếu thuận (trong 15 phiếu) trong tình trạng gấp rút này e rất khó thành [15]. 12) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Phillipines cho biết quan điểm của họ về vụ Hoàng Sa là "thái độ xâm lấn của Trung Quốc là kết quả của việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam". Sự vụ này cho thấy Philippines nên tiếp tục duy trì căn cứ của Hoa Kỳ tại Phillipines. Phillipines cũng nhận định sự vụ này nhắm vào phía VNCH khiến Hà Nội ắt đã vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên, Hà Nội có lẽ cũng đã nhận ra rằng sự mất mát Hoàng Sa là sự mất mác không thể lấy lại được [16]. 13) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Mã Lai yêu cầu cho biết thêm chi tiết về sự vụ và nghi ngờ rằng đây là một trong những bước đầu tiên Trung Quốc kiểm soát tất cả các đảo trong khu vực mà họ đã công bố chủ quyền [17]. 14) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Liên Xô cho biết nhận định của họ về sự vụ cần được giải quyết giữa các phía liên can (VNCH, CHNDTH và Phillpines). Theo Liên Xô, bắc Việt (VNDCCH) chưa bao giờ xác nhận chủ quyền của họ ở quần đảo Hoàng Sa. Theo Trifonov, sự vụ này diễn ra do VNCH muốn hợp tác với Mỹ để khai thác dầu hoả [18]. 15) Ngày 22 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio liên lạc với phía VNCH và đánh giá tình hình. Ông cho rằng VNCH đang nằm trong thế bất lợi để có thể có đủ phiếu thuận. Theo thẩm định của ông, Phiếu thuận: Úc, Áo, Anh, Mỹ và Costa Rica Phiếu chống: Beylorussia, Trung Quốc, Indonesia, Iraq và Liên Xô Phiếu trắng: Careroon, Pháp, Kenya, Maritania và Peru [19]. 16) Ngày 23 tháng Một năm 1974, phía Indonesia xác nhận quan điểm của họ là Hoàng Sa thuộc Trung Quốc theo hội nghị San Francisco 1951. Tuy nhiên, đại diện Indonesia từ dối xác định vị thế của họ trước cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [20]. 17) Ngày 23 tháng Một năm 1974, đại sứ Martin cho biết vì thiếu mối quan hệ ngoại giữa VNCH và Peru cho nên Peru sẽ chọn phiếu trắng trong cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [21]. 18) Ngày 23 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc kêu gọi SEATO áp dụng điều khoản 4 của hiệp định Manila và kêu gọi các quốc gia trong hiệp hội SEATO có những động thái cần thiết [22]. 19) Ngày 23 tháng Một năm 1974, theo Kissinger thì chính phủ Hoa Kỳ đã nhận được tuyên bố phía Indonesia cho rằng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và được quốc tế công nhận [23]. 20) Ngày 23 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ đã xác nhận phổ biến bức thư của đại sứ VNCH Nguyễn Hữu Chi, đại diện VNCH như thành viên dự khuyết của hội đồng bảo an LHQ trình bày sự vụ Hoàng Sa [24]. 21) Ngày 23 tháng Một năm 1974, Kissinger chuyển gởi thông tin đến phía VNCH về việc Costa Rica xác định ủng hộ VNCH. Tuy nhiên tình thế vẫn rất bất lợi cho phía VNCH vì chỉ có 5 phiếu thuận, 5 phiếu trắng và 5 phiếu chống [25]. 22) Ngày 24 tháng Một năm 1974, Kissinger cho biết phản ứng của SEATO với sự vụ VNCH kêu gọi ngày 23 tháng Một năm 1974 là "tiêu cực" (negative) và Hoa Kỳ rất ngờ vực khả năng của SEATO [26]. 23) Ngày 25 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc gởi thông điệp qua đại sứ thường trực Nguyễn Hữu Chi về việc phía VNCH rút thỉnh cầu kêu gọi cuộc họp khẩn cấp dựa theo quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng mong mỏi hội đồng bảo an LHQ ghi nhận trường hợp này và xử lý sao cho thích hợp [27]. 24) Ngày 25 tháng Một năm 1974, chính phủ Pháp xác nhận việc Pháp dự định bỏ phiếu trắng là không đúng sự thật. Tuy nhiên, đại diện chính phủ Pháp cho rằng sự vụ rất phức tạp và ngay lúc này họ không thể chọn ủng hộ bên nào. Pháp muốn biết quan điểm cụ thể của Hoa Kỳ như thế nào [28]. --------------------------------------- Nhận định cá nhân: - Sự việc xảy ra nhằm lúc có những điểm bất lợi cho VNCH vì hội đồng bảo an LHQ vừa thay đổi thành viên thường trực. Trong đó, Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ mật thiết với VNCH. Byelorussia thuộc USSR thì việc ủng hộ VNCH là việc không thể. - Chính phủ VNCH đã cố gắng hết sức để vận động cả hội đồng bảo an LHQ lẫn tổ chức SEATO nhưng SEATO không mang lại kết quả nào tích cực. - Liên Xô dù đang va chạm với Trung Quốc nhưng không muốn ủng hộ VNCH và cũng không muốn ra mặt đối chọi với Trung Quốc trong việc ra phiếu thuận cho VNCH. - Indonesia và China bắt đầu quan hệ ngoại giao từ năm 1950 nhưng bị ngưng vào năm 1967 vì biến cố Gestok năm 1965 tại Indonesia. Tuy nhiên, Indonesia luôn luôn xác định Hoàng Sa là của Trung Quốc và cho đến phút chót, vị trí bỏ phiếu chống VNCH của Indonesia vẫn không thay đổi mặc dù theo dư luận chung của quốc tế, quần đảo Hoàng Sa thời điểm này vẫn thuộc dạng "dispute" (tranh chấp). Indonesia đã tạo thêm bất lợi cho VNCH. - Pháp có thái độ mập mờ về việc ủng hộ VNCH với chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mặc dù trong thời Pháp thuộc, Pháp đã nhiều lần xác định cơ quan hành chánh cho Hoàng Sa. Sự quyết định chậm trễ và mập mờ của Pháp đã góp phần vào việc VNCH phải huỷ bỏ cuộc họp khẩn cấp về sự vụ Hoàng Sa. - Nếu Ấn Độ và Sudan vẫn còn là thành viên thường trực của hội đồng bảo an LHQ và Indonesia và Pháp có động thái tích cực và chính xác hơn thì có lẽ VNCH đã có thể chiếm 9 phiếu thuận trên 15 phiếu và sự vụ đã được khép lại. - Hội đồng bảo an LHQ và phía Hoa Kỳ đã làm việc rốt ráo và có những đóng góp ý kiến có giá trị vì nếu VNCH không nắm tình hình mà lao vào cuộc biểu quyết và bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Phía VNCH và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định rút đơn thỉnh cầu và đó là một quyết định đúng đắn vì nếu VNCH bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Sau 1975, chính phủ VNDCCH chưa bao giờ đưa sự vụ Hoàng Sa ra LHQ. Cho đến ngày nay, Hoàng Sa đã trở thành căn cứ và thuộc đơn vị hành chánh "Tam Sa" nhưng chính phủ CHXHCNVN chưa bao bao giờ có bất cứ động thái rốt ráo và quyết liệt nào cả. Chú thích: [1] wikileaks.org [2] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00752_b.html [3] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00175_b.html [4] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00859_b.html [5] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00188_b.html [6] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012722_b.html [7] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012732_b.html [8] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00190_b.html [9] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00192_b.html [10] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00194_b.html [11] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00203_b.html [12] Hummel, Arthur William, Jr. trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [13] Stearns, Monteagle, phó trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [14] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013405_b.html [15] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013407_b.html [16] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MANILA00775_b.html [17] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974KUALA00310_b.html [18] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MOSCOW01036_b.html [19] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00219_b.html [20] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974JAKART00961_b.html [21] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01039_b.html [22] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974BANGKO01283_b.html [23] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE014788_b.html [24] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00233_b.html [25] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015338_b.html [26] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015405_b.html [27] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01040_b.html [28] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974PARIS02298_b.html Nguồn: https://www.facebook.com/notes/773727779316198/  
......

CHUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974.  Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây. 1.-  TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển.  Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển.  Riêng  quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị:  3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý.  Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất.  Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.  Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.)  Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau: (1)   Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc. . . . . . . . . . . . . . . (4)  Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).  Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý.  Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].  Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.  Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay. 2.-   CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam.  Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo.  Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.  Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.  Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”  Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông thường.  Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.” Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt.  Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I.  Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai.  Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.  3.-  TRUNG QUỐC BIỆN MINH Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện. Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc.  Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng. Thứ nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc.  Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”  Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược]. Người thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5.  Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai...  Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975.  Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.” 4.-   CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.  Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.  Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý...” Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của chính phủ mình.  Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy.  Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy. 5.-  HIỂU CÁCH NÀO? Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.  Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.    Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.”  Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài.  Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”?  Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt Nam.  Khi  cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài?  (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao - danlambaovn.blogspot.com) Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).  Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ.  Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng.  Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội.  Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản.  Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội.  Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết. Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).  Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau.  Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.  Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm.  Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc. 6.-  LIÊN MINH QUÂN SỰ? Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc.  Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn. Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.) Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức ...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)   Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới.  Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi.  Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)?  Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.  Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa.  Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.  Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?  Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước.  Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai.  Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng. Như thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để chống Trung Quốc.  Trung Quốc dư biết điều đó.  Cộng sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra.  Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm.  Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước ... 7.-   PHẢI QUYẾT ĐỊNH Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài.  Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình. Muốn thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.  Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm.  Phạm Văn Đồng đã chết.  Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn.  Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội.  Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.  Có hai cách giải thể: Thứ nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết.  Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen. Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông? Thứ hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản.  Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng.  Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.  Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.  Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN  theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi.  Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 5-6-2014)
......

Khắp nước biểu tình chống Trung Quốc

Sáng hôm nay Chủ Nhật ngày 11 tháng 5. 2014, người dân quan tâm đến việc Trung Quốc kéo giàn khoan dầu HD 981 vào sâu trong khu đặc quyền kinh tế Việt Nam biết rằng sẽ có biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn để chống lại hành động xâm lược này. Được biết hàng ngàn người đã âm thầm chờ đợi để sáng hôm nay biểu lộ lòng yêu nước cũng như sự phẫn nộ qua hành động biểu tình chống Trung Quốc lần đầu tiên trên ba miền đất nước. Tại Hà Nội vào lúc 8 giờ hàng trăm người dân đã tập trung đông đảo tại công viên Lenin và cùng nhau tiến tới trước Đại sứ quán Trung Quốc. Trên tay họ là những biểu ngữ chống Trung Quốc bằng nhiều câu chữ khác nhau. Anh Nguyễn Đức Quốc, từ Lăng Cô, Huế ra Hà Nội hai ngày trước đây cho biết: “Bây giờ mọi người đang dần dần đổ về tại công viên Lenin cũng được ba bốn trăm người rồi theo thông báo thì lúc 9 giờ mới bắt đầu. Công an đứng chung quanh rất nhiều nhưng chưa thấy hàng rào. An ninh cầm máy quay phim quay người tham gia biểu tình rất đông. Đồng bào các nơi đổ vể rất đông có Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An đang tập trung lại.” Sài Gòn Biểu tình chống Trung Quốc Xâm lược Đà Nẵng bất ngờ biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Không khí biểu tình rực lửa tại Hà Nội     Chị Nga một khuôn mặt bất đồng chính kiến nổi tiếng cho chúng tôi biết cụ thể: “Hôm nay người dân Việt Nam có xuống đường để phản đối Trung Quốc xâm lược trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc. Lực lượng an ninh mật vụ cùng lực lượng dư luận viên từng đàn áp các cuộc biểu tình trước đây cũng có mặt. Hôm nay được huy động thêm bộ đội thanh niên sinh viên cầm biểu ngữ cờ đỏ sao vàng để chống Trung Quốc.” Không riêng tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài gòn, thành phố tiêu biểu của miền trung là Đà Nẵng cũng có biểu tình chống Trung Quốc, Anh Nguyễn Văn Thạnh có mặt từ sớm tại công viên 2 tháng 9 cho biết: “Hôm nay chắc cũng trên trăm người. Anh chị em đến thể hiện chính kiến củ mình đố với hành vi xâm lược của Trung Quốc có rất nhiều khẩu hiệu và an ninh cũng như lực lượng chức năng không làm khó dễ gì anh em họ chỉ thực hiện chức năng của họ. Bây giờ sau khi làm lễ các anh linh liệt sĩ anh em sẽ tập trung tuần hành đến Hội đồng Nhân dân thành phố.”   Ở Đà Nẵng không biết chắc chắn số lượng người biểu tình là bao nhiêu nhưng tại Thp.HCM thì người ta đoán chừng con số có thể lên tới it nhất hai ngàn người sẽ có mặt tại Nhà Hát lớn thành phố và Nhà văn hóa Thanh Niên gần khu vực Hồ Con Rùa. Tại Nhà hát lớn thành phố từ 8 giờ đã có vài chục người tập trung và 30 phút sau đã lên đến vài trăm người. Có một trở ngại cho người biểu tình giống như tại Hà Nội trước đây đã làm.  Đó là một dàn nhạc đã được mang tới trước nhà hát thành phố.   Không biết đây là sự sắp đặt hay chỉ vô tình nhưng ông Lê Công Giàu một thành viên trong nhóm người kêu gọi biểu tình cho biết: “Bây giờ đang tập họp trước nhà hát lớn nhưng chưa đông lắm chỉ vài trăm người. Có một dàn nhạc trước nhà hát theo tôi nghĩ thì nó vẫn chơi hàng tuần lát nữa mình sẽ nói với họ. Tôi nghĩ lần này nhà nước sẽ không cản trở đâu.” Tuy nhiên khác với sự yên ắng tại các nơi, nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế không được tự do tập trung người biểu tình như những khu vực khác. Lúc 8 giờ một số an ninh, dân phòng cùng với cảnh sát giao thông đã bao vây DCCT. Những khuôn mặt trước đây từng đàn áp dân oan cũng có mặt như muốn cảnh cáo những người biểu tình sáng nay. Chị Trần Ngọc Anh, một trong hàng chục dân oan chuẩn bị tham gia biểu tình cho biết:   “Đúng rồi đang bị bao vây và bây giờ bắt đầu xuất phát. Chúng nó bao vây thì kệ nó mình cứ ra chứ biết sao bây giờ? Những khuôn mặt mà chúng tôi thường bị cưỡng chế bắt lên xe gặp tụi tôi biết chứ. Chúng tôi là dân oan chúng tôi biết tụi nó chứ.” Bùng nổ Đến 9 giờ 30 sáng tại Hà Nội người biểu tình tập trung rất đông đảo con số đã lên đến hơn hai ngàn người.   Những khuôn mặt từng biểu tình chống Trung Quốc trước đây gần như đầy đủ. Có rất nhiều an ninh, dư luận viên, dân phòng trà trộn vào nhưng tất cả đều hướng về Đại sứ quán Trung Quốc để tỏ thái độ chống đối sự xâm lược của Bắc Kinh và không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra trong đoàn người biểu tình. Blogger Khúc Thừa Sơn cho biết: Từ chuyện giàn khoan HD 981 của Trung Quốc xâm phạm biển Đông thì người dân Việt Nam đều xuống đường để chống đối. Không những tại Hà nội mà người dân cả nước đều cùng chung một tiếng nói. Chưa bao giờ thấy người dân Việt Nam đoàn kết một lòng như thế này. Mọi người đang diễu hành trên đường rất là khí thế tập trung đầy đủ các nhân sĩ trí thức đủ mọi thành phần. Hình ảnh cho thấy hàng trăm dân phòng đứng sau những hàng rào dã chiến mang băng đỏ đứng nhìn nhưng không có một sự cố nào xảy ra.   Nhà báo tự do JB. Nguyễn Hữu Vinh ghi nhận: Đoàn biểu tình đã từ sứ quán Trung Quốc ra đến bờ hồ. Khí thế người dân hết sức hừng hực và mạnh mẽ. Khá nhiều người không thể đếm hết được nhưng tôi nghĩ phải hơn nghìn người. Hôm nay công an khá mềm mại hòa nhã không đến nỗi làm những trò bẩn như các cuộc biểu tình trước đây. Tại Đà Nẵng do con số người tham gia biểu tình ít ỏi hơn và không khí biểu tình cũng êm dịu hơn so với Hà Nội và ThP-HCM. Hơn trăm người đã giải tán vào lúc 10 giờ sáng sau khi tuần hành tới UBND thành phố. Không có ghi nhận rắc rối nào xảy ra. Anh Nguyễn Văn Thạnh cho biết: Tình hình phản đối đã xong bây giờ đã giải tán rồi ạ. Tuy nhiên nhìn chung cuộc biểu tình lớn và đa dạng, quan trọng nhất đã diễn ra tại thành phố HCM. Lúc 9 giờ 30 sáng nhà thơ Đỗ Trung Quân thuật lại: Sáng nay rất nhiều đoàn, do đó ai nhập vào đoàn nào thì chỉ biết đoàn đó. Đoàn của chúng tôi vừa mới ra Lãnh sự quán Trung Quốc xong và một nhóm khác rẽ ra. Bây giờ tôi thấy một nhóm lớn tập trung rất đông tại Nhà hát thành phố. Thực ra tình hình cài răng lược đã xảy ra. Tôi cho là khí thế hừng hực và một điều đáng ghi nhận là lực lượng an ninh giữ trật tự khá tốt cho đoàn biểu tình. Hai nữa họ không phá sóng điện thoại như mọi lần ở khu vực nhạy cảm và cũng chưa xảy ra va chạm gì cho tới giờ này. Hiện tại tôi đang đứng trước nhà hát thành phố và tôi cho rằng người tham dự biểu tình hôm nay có thể hơn ba ngàn người. Nhóm biểu tình "quốc doanh"!   Trước nhà hát lớn thành phố nơi một nhóm nhân sĩ tổ chức biểu tình đã có một sự cố nhỏ đó là sự không đồng thuận giữa ban tổ chức cuộc biểu tình và Thành đoàn. Theo lời kể lại của ông Huỳnh Kim Báu thì có sự phá rối âm thanh khi ông Huỳnh Tấm Mẫm phát biểu. Cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn được Thành đoàn cho một số rất lớn thanh niên tham gia nhưng các phát biểu của họ làm người dân phẫn nộ. Các ngôn từ như “Việt Nam muốn giữ hòa hiếu với Trung Quốc” hay “Việt Nam luôn kiểm chế”, “người dân đứng sau chính phủ” hay “sống và làm việc theo pháp luật”…đã bị la hét chống đối và cuộc biểu tình đôi lúc tưởng có thể vỡ ra nhưng cuối cùng không có gì đáng tiếc xảy ra.   Ông Huỳnh Kim Báu một thành viên tổ chức thuật lại sự việc này:   Bọn quốc doanh, cái đoàn thanh niên nó cướp diễn đàn nó đem khẩu hiệu của nó ra kêu gọi “bình tĩnh, hòa khí” tùm lum hết thì tụi anh chiếm lại diễn đàn để hô đúng khẩu hiệu của tụi anh. Cái thứ hai là hai mươi tổ chức xã hội dân sự tại số 4 Duy Tân thì lực lượng khoảng 2 ngàn người còn lực lượng bên này tổ chức thành đoàn thì khoảng 1.000 người. Bây giờ anh đang tham gia cuộc biểu tình của 3 ngàn người của quần chúng nhân dân tự phát đang đi trên đường Võ Thị Sáu dự kiến sẽ kéo đến Lãnh sự quán Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ bị nó ngăn. Ông Huỳnh Tấn Mẫm, người có phát biểu trước Nhà Hát lớn hôm nay thuật lại: Thấy rõ ràng là họ muốn phá nhưng phá không được. Thành đoàn thì nó không phối hợp nhưng nó có mặt nó cố ý phá. Không biết từ phía công an hay phía Thành đoàn nhưng rõ ràng là vào giờ chót thì nó lại có phá rối đối với một số anh em phát biểu, có sự giằng co chỗ đó. Mình thấy khí thế quần chúng rất là dữ dội, nhìn chung rất tốt, khí thế quần chúng đang lên quyết tâm phản đối Trung Quốc rất mạnh mẽ. Lúc 10 giờ 30 hơn năm ngàn người đã tập trung biểu tình tại nhiều địa điểm của thành phố HCM. Từng đoàn người kéo ngang Lãnh sự quán Trung Quốc, Nhà văn hóa Thanh Niên ở số 4 Duy Tân và trên các con đường như Võ Thị Sáu, Đồng Khởi cùng vài con đường khác cho thấy khí thế của người dân đã bùng dậy không còn bị kềm chế như trước đây. Trong tất cả các đoàn biểu tình đều có an ninh và thành đoàn thanh niên trà trộn cái răng lược. Người biểu tình đều biết nhưng không cần chú ý và không gây đụng chạm. Những biểu ngữ của nhà nước ghi các dòng chữ như: “Biểu tình bằng lòng yêu nước, không lợi dụng xuyên tạc và kích động bạo lực” chen với một rừng biểu ngữ cầm tay tuy nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của nhân dân và các tổ chức dân sự.   Từ Hà Nội Luật sư Hà Huy Sơn có mặt trong đoàn biểu tình cho biết nhận xét của ông: Trước hết cuộc biểu tình này là thành công và theo quan sát của tôi thì cuộc biểu tình này được nhà nước ủng hộ. Tôi cho rằng đây là dịp thức tỉnh cái nhận thức của người dân vể vấn đề chủ quyền cũng như bày tỏ quan điểm trước các vấn đề xã hội của đất nước. Con số người dân tham gia biểu tình vượt trội thành phần nhà nước tại thành phố HCM đã làm các cuộc biểu tình mang một ý nghĩa rất lớn. Những nhân vật bất đồng chính kiến tham dự biểu tình nói với đài Á Châu Tự do họ tin rằng nhân dân sẽ thức tỉnh trước dã tâm thôn tính Biển Đông của Trung Quốc sau những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa của ngày hôm nay. Nguồn: rfa.org Hình Internet tổng hợp:   Người biểu tình tại Hà Nội căng tấm băng rôn: “Thủ tướng Đức chỉ cho Tập cận Bình bản đồ TQ không có Hoàng sa Trướng sa” Khu vực chợ Bến Thành Khu vực nhà thờ Đức Bà Hai hình ảnh biểu tình trái ngược Đây là cuộc biểu tình quốc doanh để chụp hình  đăng báo của nhà cầm quyền tại Sài Gòn:  
......

Chúng ta đương mất nước từng phần vào tay giới cầm quyền Trung Quốc

TQ tuồn đủ mọi hàng hóa rẻ tiền vào lũng đoạn thị trường nước ta, bóp nghẹt mọi sản phẩm của ta; họ thực hiện mọi thủ đoạn thâu tóm kinh tế nước ta đồng thời phái thương nhân vào phá hoại kinh tế của ta; về chính trị, họ cũng chi phối phía ta; về quân sự, họ không ngừng lấn, cướp biển đảo của ta, bắt tàu cá, tịch thu tài sản, đánh thuyền viên, đâm hỏng tàu, bắn ngư dân, phá mọi hoạt động của ta trong thềm lục địa của mình, báo chí của họ luôn đe dọa dùng vũ lực với ta. Mọi sự việc nêu trên, những ai quan tâm theo dõi đều đã biết cả.   Tình hình còn nguy hiểm và bức xúc hơn là chúng ta đương mất nước từng phần vào tay những nhà cầm quyền TQ, và sẽ mất nữa:   Trước đây họ đã mua được hàng ngàn ha rừng biên giới, một đoạn bãi biển Đà Nẵng, người Việt Nam không ai vào được. Thế là mất chủ quyền, cũng là mất một phần đất nước vào tay TQ. Vài năm gần đây, họ đổ tiền vào đầu tư bất động sản, địa ốc, những nơi ấy họ đã xây nhà hay chưa cũng là lãnh địa của họ rồi.   Họ chi 40 triệu đôla mua hơn 6 triệu cổ phiếu của Công ty Vinacafe Biên Hòa, trở thành cổ đông lớn thứ 2 của công ty. Họ tăng cường mua cổ phần của nhiều công ty nước ta, đến một lúc họ mua được 51% cổ phần, sẽ biến thành công ty của TQ, những mảnh đất mà các công ty này tọa lạc sẽ nghiễm nhiên trở thành đất của TQ. Tập đoàn Yulun, Giang Tô xây dựng nhà máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm tại Vụ Bản, Nam Định chiếm 80.000 m2 đất. Lấy Tập đoàn dệt may Việt Nam làm bình phong, TQ dự kiến xây dựng nhà máy dệt tại huyện Nghĩa Hưng chiếm diện tích khoảng 1.500 ha.   Theo một người dân Kỳ Anh nói: “Người TQ hầu như đã làm chủ thức tế huyện Kỳ Anh”. Họ xây dựng tường cao tốc dọc phía Đông đường quốc lộ suốt từ Kỳ Anh qua Cẩm Xuyên đến chân Đèo Ngang, phía trong bức tường ra biển, họ là gì trong đó không ai biết được. Họ thuê cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Họ được Đài Loan nhượng dự án khu kinh tế Formosa bao gồm cả cảng Vũng Áng chiếm một diện tích rất rộng, riêng cảng là 3.300 ha. Cảng Vũng Áng là điểm cực kỳ xung yếu, nó là yết hầu của miền Trung, TQ làm chủ, khi họ trở mặt, họ có thể khống chế đường giao thông của ta cả trên bộ lẫn trên biển, chia cắt nước ta làm 2 phần. Cửa Việt và Vũng Áng, họ cấm người ra vào, có thể họ đương xây dựng thành căn cứ quân sự. Tóm lại, những nơi mà TQ thuê, mua, đầu tư đã trở thành lãnh địa của TQ. Người Việt Nam, công an, chính quyền địa phương không được vào, ngay cả công trường nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân do TQ thầu đương xây dựng, phó Giám đốc công an tỉnh Bình Thuận cũng không được vào. Thế là tất cả những nơi nói trên, ta mất chủ quyền, chẳng phải là mất nước từng phần là gì? Những nơi TQ thuê, mua, đầu tư họ đều đưa người của họ sang làm. TQ trúng thầu 90% công trình trọng điểm của nước ta. Bằng nhiều thủ đoạn, bất chấp luật pháp của nước ta, họ đưa ồ ạt lao động phổ thông vào. Thế là họ vừa thực hiện được mục đích di dân vừa bố trí được đội quân thứ 5 hàng vạn người rải khắp nước ta. Rất nhiều người trong số họ lấy vợ Việt Nam, sau thời hạn 50, 70 năm sẽ có hàng trăm “làng TQ” trong nước ta. Cứ đà này, sớm muộn nước ta sẽ trở thành “thuộc quốc” hoặc “thuộc địa kiểu mới” của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Đại Hán! Vì đâu nên nỗi? Phải nói thẳng ra đây là trách nhiệm của các cấp nắm quyền của ta từ dưới lên trên.   Hoặc do mê muội bởi “16 chữ, 4 tốt”, “cùng ý thức hệ”, mà không thấy được giới cầm quyền TQ miệng thì nói “hữu nghị”, nhưng hành động thì ác độc, đầu óc thì thâm hiểm, nên tạo cho họ mọi sự dễ dàng. Làm gì có “cùng chung ý thức hệ”? Từ khi Đặng Tiểu Bình nói: “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì họ đã đi theo con đường TBCN rồi, dù vẫn nêu xây dựng CNXH đặc sắc TQ. Còn ở nước ta, tuy tên nước vẫn là XHCN, nhưng trong nội dung có gì là XHCN đâu!? Hoặc do không tiếp thụ được ý chí quật cường của cha ông, nên tự ty, tự cho mình là nước nhỏ, quân yếu, nhân nhượng họ cho yên, vẫn giữ được quyền, được ghế. Hoặc quá sợ họ đánh, nên họ đề xuất gì, yêu cầu gì đều chấp nhận; họ sai trái, vi phạm luật pháp của ta, không dám xử lý. Hoặc có vị “ăn xôi chùa ngọng miệng”, quyền ký thì ký, quyền bỏ qua thì bỏ qua, để mặc họ muốn gì cũng được. Hoặc chỉ thấy tiền, cho thuê, bán, cho đầu tư, cấp dự án, thì được tiền, tiền cho ngân sách đồng thời cho cả cá nhân, cho nhóm lợi ích, bất chấp sự nguy hại cho đất nước, đúng là “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Phải làm gì? 1. Nhân dân kêu gọi những ai trong bộ máy cầm quyền còn tâm huyết với dân tộc, với Tổ quốc hãy đấu tranh thực hiện dân chủ, quay lại với dân, dựa vào sức mạnh của dân ngăn chặn mối nguy cho đất nước. 2. Các tổ chức, các lực lượng yêu nước liên kết nhau thành sức mạnh đấu tranh quyết liệt loại bỏ những hình bóng của loại Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, ủng hộ người có thực đức, thực tài xuất hiện cùng nhau giữ độc lập, tự chủ và đưa đất nước tiến lên. Xây dựng tuyến đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội là chuốc họa.   Tôi rất tâm dắc với suy nghĩ của bạn Hoàng Mai về con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội, cho rằng: “Mục đích trước mắt của tuyến đường này là để hàng hóa TQ xâm nhập Việt Nam một cách nhanh hơn, rẻ hơn, qua đó nhằm bóp chết nền sản xuất của Việt Nam, cũng là để vơ vết tài nguyên của Việt Nam một cách nhanh hơn…”. Tôi nghĩ, đến một thời cơ nào đó, TQ xuất quân đánh ta thì chính con đường cao tốc này cho phép bộ đội cơ giới của họ tiến rất nhanh đến Hà Nội. Từ xưa đến nay, các thế hệ cầm quyền TQ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta và tiến xuống bá chiếm Đông Nam Á. Đồng ý với bạn Hoàng Mai, tôi cho rằng con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội lợi cho ta thì ít, lợi cho TQ thì nhiều. Trong khi tài chính của ta đương rất khó khăn, nợ nước ngoài đã chồng chất mà vay để chi một khoản tiền khổng lồ 896 triệu đôla cho con đường cao tốc này thì thật là phi lý. Là con nợ của TQ, sau này không chỉ phải trả bằng tiền mà còn phải trả họ bằng nhiều thứ khác theo đòi hỏi của họ. N.T.V http://xuandienhannom.blogspot.de/2014/04/nguyen-trong-vinh-chung-ta-ang...
......

Pages