“Vạn lý trường thành” trên Biển Đông?

Hiếu Linh - (VNTB) “Bộ Quốc phòng Đài Loan vào sáng thứ Hai (4/5) xác nhận rằng Trung Quốc đang lên kế hoạch thiết lập một khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.” Taiwan News gần đây đăng tải tin tức về Biển Đông nhưng ít người Việt chú ý đến. “Bộ Quốc phòng Đài Loan vào sáng thứ Hai (4/5) xác nhận rằng Trung Quốc đang lên kế hoạch thiết lập một khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.” ADIZ là không phận của một quốc gia, trong khu vực đó tất cả các máy bay được yêu cầu cung cấp nhận dạng, vị trí và chịu kiểm soát nhằm bảo đảm an ninh quốc gia. “Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ thành lập một ADIZ ở Biển Đông, nhưng họ vẫn chưa chính thức công bố.” Tính pháp lý của ADIZ là “đơn phương đặt ra dựa trên nhu cầu quốc phòng của quốc gia đó và nó không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.” Tại sao lại là ADIZ? Vào tháng 5 năm 2013, quân đội Trung Quốc đã đệ trình một đề xuất chính thức cho một ADIZ ở biển Hoa Đông. Kế hoạch này đã được phê duyệt vào tháng 8 bởi các cơ quan đảng, nhà nước và quân đội hàng đầu của Trung Quốc. Mục đích của Trung Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền cốt lõi tại vực này. Kế hoạch này sẽ giúp Bắc Kinh bảo vệ tốt hơn trước các mối đe dọa trên không. Các hành động ngăn chặn, giám sát, cảnh báo mở rộng với các máy bay chiến đấu trong vùng Biển Đông sẽ được Bắc Kinh tiến hành thường xuyên hơn trong tương lai. Có thể hình dung “tương lai Biển Đông” qua bài viết đăng tải trên Brookings (1), đó là “Vạn lý trường thành trên không” của Trung Quốc. Ý tưởng ban đầu về “Vạn lý trường thành trên không” có thể bắt nguồn vào ngày 1 tháng 11 năm 2009, nhân kỷ niệm 60 năm Không quân Trung Quốc. Thời điểm đó, Nhân dân Nhật báo đã xuất bản một bài báo có tựa đề “Xây dựng Vạn lý trường thành trong Vạn lý trường thành”, Tân Hoa Xã cũng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với Hứa Kỳ Lượng, Tư lệnh Không quân Trung Quốc, với tựa đề “Xây dựng Vạn lý trường thành trên bầu trời xanh.” Kết quả Bắc Kinh tuyên bố vào ngày 23 tháng 11 về ADIZ biển Hoa Đông mà không cần tham vấn bất kỳ quốc gia liên quan nào. Thực hiện ADIZ giúp Bắc Kinh thực hiện “vùng đệm” trên bờ biển, gia tăng các hoạt động quân sự của Bắc Kinh, làm thay đổi hiện trạng tranh chấp trong khu vực tương tự như lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm và bồi lấp đảo nhân tạo, thúc đầu nhiều quốc gia lớn trong khu vực tăng cường quân sự, làm tăng căng thẳng và khả năng xảy ra va chạm trong vùng Biển Đông. ADIZ là cơ sở củng cố quan điểm “các lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ thực hiện các biện pháp phòng thủ khẩn cấp để đối phó với các máy bay không hợp tác trong nhận dạng.” Biện pháp phòng thủ khẩn cấp bao gồm: thẩm vấn, ngăn chặn, buộc hạ cánh hoặc thậm chí bắn hạ. Như vậy kế hoạch này sẽ hỗ trợ đắc lực cho Bắc Kinh trong tham vọng “đường chín đoạn” trên Biển Đông. Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện giờ đang chứng tỏ mình đủ khả năng và sự quyết đoán trong duy trì lập trường cứng rắn về lợi ích chủ quyền tại Biển Đông. Sẽ phải làm gì? Dù thiếu các quy tắc ADIZ quốc tế nhưng với tham vọng của Trung Quốc, ADIZ sẽ hoàn tất tham vọng quân sự hoá tại Biển Đông của Bắc Kinh. Hãy tưởng tượng người Việt nhìn ra Biển Đông sẽ thấy vùng nhận dạng phòng không, lệnh cấm đánh bắt cá, chuỗi đảo nhân tạo với đầy đủ khí tài quân sự và cơ quan hành chính của Trung Quốc. (2) Liệu các phiên bản máy bay chiến đấu “Su” từ đất liền phóng ra các đảo tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam sẽ dễ dàng như trước hay sẽ gặp khó như tàu cá Việt Nam bị cảnh cáo, húc, đâm chìm khi đang khai thác hải sản tại ngư trường Việt Nam. Biển Đông không còn “dịu êm” như thời kỳ 2014 – khi Bắc Kinh đã quyết liệt hơn trên các cơ sở Biển Đông mà quốc gia này cưỡng chiếm có được. Chính quyền Việt Nam có thể làm gì? Điều cần thiết là sớm có động thái phản ứng, cùng các quốc gia có yêu sách trong ASEAN ra tuyên bố phản đối Bắc Kinh, tăng cường sức sẵn sàng chiến đấu của giới quân nhân, dung dưỡng lòng yêu nước của nhân dân cũng là điều cần thiết trước khi mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Hiếu Linh Nguồn: https://vietnamthoibao.org/vntb-van-ly-truong-thanh-tren-bien-dong Chú thích: (1) https://www.brookings.edu/opinions/chinas-adiz-over-the-east-china-sea-a-great-wall-in-the-sky/ (2) https://tuoitre.vn/bien-dong-adiz-va-nhung-he-luy-1141501.htm  
......

Covid-19 : Sức kháng cự kỳ diệu châu Phi hay bài học cho các nước giàu ?

Khách hàng tuân thủ "giãn cách xã hội" trước một tiệm bánh ở Nam Phi, ngày 05/05/2020. REUTERS - Siphiwe Sibeko Anh Vũ - RFI| Gần đến ngày được giải tỏa 11/05, người dân Pháp vừa mong chờ vừa lo lắng. Còn chính phủ, chính quyền địa phương thì căng thẳng với các giải pháp sau ngày dỡ bỏ lệnh phong tỏa đang gây không ít hoài nghi, tranh cãi và các vấn đề nảy sinh. Đó là những thông tin chiếm phần chính các trang báo Pháp ra ngày 07/05/2020. Trong khi nước Pháp cũng như các nước ở khắp châu Âu đang dò dẫm từng bước để thoát ra khỏi vòng phong tỏa của đại dịch virus corona, thì nhật báo Libération chú ý đến châu Phi. Dường như lục địa nghèo và lạc hậu này đã thoát được nạn dịch của thế giới một cách ngoạn mục. Đây là sự kiện chính của Libération với câu hỏi lớn trên trang nhất : « Covid-19 : Vì sao châu Phi thành công? ». Khi trận dịch Covid-19 xuất phát từ Trung Quốc và hoành hành khắp thế giới, giới chuyên môn đã cảnh báo liên tục lục địa đen sẽ rơi vào thảm họa y tế. Thế nhưng  « thảm họa đã không diễn ra ở châu Phi », ít ra là cho đến thời điểm này, như ghi nhận của Libération. Đây cũng là thắc mắc của các chuyên gia dịch tễ. Phải chăng câu trả lời nằm ở các điều kiện dân số, khí hậu, cách sống… tất cả chỉ có thể là những giả thuyết cố gắng lý giải thực tế châu Phi được trận đại dịch này chừa ra. Libération nhận thấy châu Phi từ trước đến giờ vẫn gắn với những bất hạnh, nghèo khổ, dịch bệnh, hạ tầng cơ sở y tế thấp kém nhất thế giới và nhất là đang có trao đổi làm ăn rất tấp nập với Trung Quốc, nước xuất khẩu dịch Covid-19, thế mà giờ đây lục địa này lại ít bị dính dịch nhất, bất chấp các dự báo thảm họa của các chuyên gia ở Tổ Chức Y Tế Thế Giới cũng như tình trạng nghèo nàn lạc hậu của châu lục. Theo tờ báo, trên số dân hơn 1 tỷ người của lục địa đen đến giờ có hơn 48 nghìn ca nhiễm, số tử vong là hơn 1.900 người và hơn 16 nghìn người khỏi bệnh. « Chiếm 17% dân số địa cầu, châu Phi chỉ có 1% bệnh nhân và dưới 1% số tử vong của thế giới. Một tỷ lệ mà các nước phát triển nhất thế giới lúc này đều phải ghen tỵ ». Giả thuyết đánh giá thấp số liệu thống kê cũng bị loại trừ vì giới y tế quốc tế đã theo dõi khá sát tình hình dịch bệnh ở các bệnh viện nhiều nước trọng điểm của châu lục, hầu hết không có gì là căng thẳng hay quá tải. Tuy nhiên, những lo lắng cho châu Phi là có cơ sở. Tờ báo dẫn ra số liệu : Tại khu vực Bắc Phi bình quân 10 nghìn dân mới có 2,2 bác sĩ. Trong khi châu Âu con số này là 35. Chi phí cho y tế tính theo đầu người ở những nước khá giả của châu Phi như Mozambique, Cameroun cũng không vượt quá 25 đô la. Nếu dịch lan tràn thì các nước châu Phi làm sao có khả năng chống chịu nổi. Bất ngờ của châu Phi hay chỉ là phản ứng nhanh ? Bên cạnh những giả thuyết về độ tuổi dân số châu Phi chủ yếu là trẻ (2/3 dân số dưới 35 tuổi), một số nhà quan sát ghi nhận, châu Phi là nơi có tần số cao nhiễm các dịch bệnh khác, từ HIV, lao hay sốt rét và sốt xuất huyết Ebola, từng làm hàng trăm nghìn người châu Phi thiệt mạng… có thể vì được trải qua các thử thách lớn đó mà dân cư châu Phi đã phát triển một số kháng thể đặc biệt nào đó ? Một lý do khác có lẽ thực tế và thuyết phục hơn. Theo ghi nhận của đó là các nước châu Phi nhìn chung đã phản ứng nhanh. « Ngay từ khi phát hiện những ca nhiễm đầu tiên các nước châu Phi đã áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt và hành động nhanh hơn các nước châu Âu rất nhiều ».  Thí dụ như Maroc, khi mới ghi nhận 7 ca nhiễm ngày 13/03, nước này đã đóng cửa ngay với bên ngoài. Ngay sau đó, Maroc chuyển đổi các nhà máy dệt may sang sản xuất khẩu trang với công suất 5 triệu chiếc mỗi ngày. Nhiều nước khác ở châu lục này cũng đã hành động tương tự và nhanh chóng ra lệnh phong tỏa cả nước dưới sự giám sát chặt chẽ nếu không muốn nói là hà khắc, nhưng hiệu quả. Giờ đây một loạt nước châu Phi đã bắt đầu tiến hành dỡ bỏ phong tỏa. Tất nhiên là vẫn phải thận trọng vì mối đe dọa virus corona vẫn còn đó. Nhiều tổ chức phi chính phủ lo ngại niềm tự hào đã khống chế trước mắt được dịch có thể khiến châu Phi tin là đã được miễn dịch với virus. Dù chưa thể có lý giải nào thích đáng cho hiện tượng « kỳ diệu châu Phi » kháng cự khá tốt với đại dịch, Liberation vẫn nhìn nhận đó là « bài học » đáng phải suy ngẫm cho phần còn lại của thế giới. Rõ ràng châu Phi lại tỏ ra có kinh nghiệm và hiệu quả chống dịch bệnh nhiều hơn cả các nước Âu – Mỹ. Căn nguyên của dịch bệnh Vẫn trong chủ đề về dịch bệnh, Libération có bài : « Y tế và khí hậu: Căn bệnh gốc », phác họa một vài nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh trên thế giới. Theo tờ báo, chính việc làm đảo lộn môi trường tự nhiên, phá hủy đa dạng sinh học, làm rối loạn bầu khí hậu là những yếu tố thuận lợi cho bệnh tật tràn lan và xuất hiện các đại dịch. Libération nhận xét: « Trong vòng một thế kỷ, các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã giúp giảm số người mắc bệnh, nhưng số lượng bệnh dịch cùng với sự biến hóa tiếp tục gia tăng. Thế giới đã biết đến nhiều trận dịch xuất hiện, lây lan cùng với quá trình nóng lên toàn cầu, chất lượng không khí giảm sút, hệ sinh thái bị đảo lộn, hủy hoại… » Tờ báo dẫn cảnh báo của Marion Borderon, nhà nghiên cứu địa lý thuộc Đại học Vienna, Áo : « Nếu dưới tác động từ cách thức sản xuất của chúng ta, môi trường tiếp tục bị hủy hoại, có thể lại sẽ có một trận dịch khác giống như Covid-19 xuất hiện ».  Như thế không phải loài người không có cách tránh. Tôn trọng không gian sinh tồn của các sinh vật sống, động cũng như thực vật, đó là giữ gìn lá chắn thiên nhiên bảo vệ xã hội. Tổng giám đốc Tổ chức Bảo vệ Thiên nhiên Hoang dã (WWF) của Pháp, bà Véronique Andrieux khẳng định : « Chúng ta phải hiểu là cội rễ của trận đại dịch này nằm ở trong sự lựa chọn tiêu thụ của chúng ta, như trong thực phẩm của chúng ta. Đòn bẩy có hiệu quả để thay đổi là ngừng phá rừng, giảm tiêu thụ thịt, khoanh vùng lại sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở mô hình nông nghiệp sinh thái. Chúng ta phải thay đổi cơ bản trong quan hệ với thiên nhiên ». Trách nhiệm hình sự trong xử lý dịch bệnh ? Liên quan đến khủng hoảng dịch tễ hiện nay, nhật báo Công Giáo La Croix quan tâm đến thời sự ở nước Pháp : Cuộc tranh luận tại Quốc Hội Pháp về trách nhiệm hình sự trong việc xử lý dịch. Xã luận tờ báo ghi nhận : « Như trong những lĩnh vực khác, cuộc khủng hoảng dịch tễ hiện nay đang làm nổi lên một thách thức pháp lý và tư pháp ». Tờ báo nhắc lại những sự kiện thời sự liên quan : Tòa Bảo Hiến Đức, hôm thứ Ba 05/5, đòi Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu phải giải thích trước tòa về hành động đối phó với khủng hoảng kinh tế. Donald Trump muốn Trung Quốc phải bồi thường hàng tỷ đô la thiệt hại vì gây ra vụ dịch này. Tại Pháp thì là cuộc tranh luận gay gắt về trách nhiệm hình sự của các thị trưởng, lãnh đạo làng xã hoặc người chủ thuê lao động trước nguy cơ để dịch lây lan.  La Croix kết luận : « Hiện tượng  gia tăng "tư pháp hóa" đời sống xã hội này đáng lo ngại. Xu hướng này sẽ dẫn đến tình trạng đổ xô kiện cáo và làm chậm lại các ứng phó với khủng hoảng… Trách nhiệm cần phải làm sáng tỏ. Nhưng không nhất thiết phải qua vô số các phiên tòa. » Pháp : Huấn luyện chó đánh hơi tìm bệnh nhân Covid-19 Phần cuối của mục điểm báo hôm nay là thông tin về một thử nghiệm khá hấp dẫn liên quan đến Covid-19 trên Le Figaro với tiêu đề : « Covid-19 có mùi không ? » Theo tờ báo từ hôm 30/04, hơn chục chú chó berger chuyên đánh hơi tìm ma túy, hàng lậu hay chất nổ, tại Pháp và Liban được tập trung tham gia vào dự án Nosais, của Dominique Grandjean, giáo sư Trường Thú Y Quốc Gia Alfort. Mục đích là thử dùng tài đánh hơi của các chú chó để xác định người nhiễm Covid-19, kể cả trường hợp không phát triệu chứng bệnh. Các chú chó được cho làm quen với mùi mồ hôi của một số bệnh nhân để sau đó có thể phát hiện những điểm chung ở các mẫu liên quan đến người bị dương tính với Covid-19. Sau thành công thử nghiệm cho chó đánh hơi phát hiện người mắc bệnh ung thư và dựa trên cơ sở mỗi nhân tố truyền nhiễm đều sinh ra các chất chuyển hóa, được bài tiết ra ngoài, giáo sư Grandjean nhận thấy bệnh nhân Covid-19 dường như cũng tiết ra những thành phần có mùi khác thường và với khả năng đánh hơi đặc biệt, chó có thể tìm ra sự khác biệt này. Thử nghiệm đang được tiến hành và cho kết quả bước đầu khá khả quan, các chú chó đường như phân biệt được mùi của người âm tính và dương tính, nhưng những người thực hiện khóa huấn luyện này còn phải tiếp tục tập hợp các số liệu và kiểm chứng khoa học tin cậy hơn. Nếu dự án Nosais thành công thì sẽ là công cụ bổ trợ có thể làm trên diện rộng, để sau đó người có khả năng nhiễm bệnh được làm các xét nghiệm khác kỹ hơn. Kết quả của « khóa huấn luyện » đặc biệt này sẽ có vào giữa tháng 5 này. Biết đâu những chú chó tinh khôn này lại chẳng hiệu quả không kém gì các phần mềm thông minh truy tìm ca nhiễm virus mà các nhà khoa học đang đau đầu tìm kiếm?  
......

Chân rết ở Canada của Mặt trận Thống nhất giúp Bắc Kinh thu gom thiết bị bảo hộ chống coronavirus

(Ảnh: GFX) Sam Cooper, Global News - Phạm Vũ Lửa Hạ dịch Vào giữa tháng 1/2020, các lãnh sự quán Trung Quốc tại Canada và khắp thế giới đã thực hiện một cuộc gọi khẩn cấp. Trung Quốc lo ngại rằng coronavirus chủng mới đang hoành hành ở Vũ Hán nguy hiểm và lây nhiễm nhanh tới nỗi y tá và bác sĩ ở đó sẽ cạn kiệt thiết bị an toàn. Trung Quốc cần thiết bị bảo hộ cá nhân. Chỉ trong sáu tuần, Trung Quốc nhập khẩu 2.5 tỷ thiết bị bảo hộ chống dịch bệnh, trong đó có hơn hai tỷ khẩu trang an toàn, theo số liệu của chính phủ Trung Quốc. Và điều này làm dấy lên nhiều quan ngại lớn về nhiều khía cạnh, theo giới chỉ trích, trong đó có dân biểu Erin O’Toole [ứng cử viên thủ lãnh Đảng Bảo thủ, đảng đối lập chính thức tại Hạ viện Canada].  Trung Quốc rõ ràng che giấu mức độ của một đại dịch gây nguy hiểm cho thế giới trong khi bí mật thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân với giá thấp. Chiến dịch “lén lút” này khiến “thế giới hết sạch thiết bị bảo hộ cá nhân”, theo phát biểu của Jorge Guajardo, cựu đại sứ Mexico tại Bắc Kinh, với đài Global News.  Kết quả: bắt đầu từ tháng 3, sau khi COVID-19 đã lan khắp toàn cầu, các quốc gia từng cung cấp khẩu trang cho Trung Quốc hồi tháng 1 và tháng 2 đã buộc phải cạnh tranh để mua hàng của Trung Quốc.  Vào cuối tháng 1, các nguồn tin trong giới sản xuất chế tạo và và quân sự đã cảnh báo các chính phủ phương Tây rằng Trung Quốc dường như đang bí mật chiếm giữ nguồn cung thiết bị bảo hộ cá nhân toàn cầu, theo dân biểu O’Toole và cựu đại sứ Guajardo. Nhưng giới lãnh đạo ở Canada đã không hành động, theo dân biểu O’Toole. “Một nguồn tin nói với tôi hồi tháng 1 rằng các cơ quan quân sự và cơ quan ứng cứu khẩn cấp biết rõ là Trung Quốc đang tích trữ khẩu trang và nhìn chung thu gom tất tần tật những gì họ có thể mua,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn với đài Global News. “Và chúng tôi biết … rằng giới chức cấp cao tại Bộ Công chánh Canada, vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2, cũng đã biết chuyện [Trung Quốc] thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân.” © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Đài Global News đã điều tra về những phương pháp rối rắm và những tay chân bí mật được Bắc Kinh dùng để âm thầm gom hết thiết bị bảo hộ cá nhân khắp thế giới trong một chiến dịch cấp nhà nước. Trung Quốc đã sử dụng các kênh ngoại giao, các công ty quốc doanh và các hiệp hội cộng đồng Hoa kiều được cho là ngày càng chịu ảnh hưởng của Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất, thường gọi tắt là Mặt trận Thống nhất, đầy uy quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình. Và thông qua các mạng lưới Mặt trận Thống nhất đóng tại các lãnh sự quán Trung Quốc tại các thành phố từ Vancouver, Toronto, tới New York, Melbourne và Tokyo, Trung Cộng đã kêu gọi hàng triệu “Hoa kiều” mua khẩu trang N95 với số lượng lớn để “gởi về tổ quốc những lô hàng khan hiếm”. Dẫu các phương pháp của Trung Quốc rất đáng lo ngại, chiến dịch này thậm chí còn trông kinh khủng hơn khi được soi rọi kỹ lưỡng vì một số tổ chức dường như có dính líu trong các nỗ lực của Mặt trận Thống nhất ở Canada bao gồm các thành viên trước đây từng bị Cảnh sát hoàng gia liên bang Canada (RCMP) và Cơ quan Tình báo An ninh Canada (CSIS) theo dõi hoặc điều tra, theo các nguồn tin RCMP và CSIS. Ngấm ngầm Một số thành viên Mặt trận Thống nhất ở Vancouver đã bị các cơ quan thực thi pháp luật Canada để ý. (Ảnh: GFX) Chiến dịch nhập khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân của Trung Quốc đã được báo chí nhà nước Trung Cộng mô tả như một nỗ lực thời chiến. Và chiến dịch đó thành công mỹ mãn. Theo một báo cáo của Quốc hội Mỹ được công bố hồi tháng 4, từ ngày 24 tháng 1 tới ngày 29 tháng 2, Trung Quốc đã đẩy mạnh sản xuất khẩu trang và áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu đối với các công ty nước ngoài đóng tại Trung Quốc như hãng sản xuất khẩu trang Medicom của Canada và hãng sản xuất khẩu trang 3M của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc đã nhập khẩu 2.02 tỷ khẩu trang an toàn, theo hồ sơ hải quan tháng 3 năm 2020 của Bắc Kinh. Trung Quốc nhập khẩu 2.02 tỷ khẩu trang trong sáu tuần, theo số liệu của chính phủ Trung Quốc. (http://www.gov.cn) “Để bảo đảm đủ nguồn cung nội địa để chống COVID-19, (Bắc Kinh chỉ đạo) các văn phòng khu vực ở Trung Quốc và ở nước ngoài làm việc với các hiệp hội ngành nghề ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc để ưu tiên thu gom vật tư từ các nguồn toàn cầu,” báo cáo này viết. Lời hiệu triệu toàn cầu về khẩu trang đã được đăng lên các trang mạng của Mặt trận Thống nhất và được gởi tới các lãnh sự quán Trung Quốc nơi các cán bộ của Mặt trận Thống nhất được cài vào. Những lời kêu gọi được đưa ra vào khoảng ngày 14 và 15 tháng 1, khi giới chức Trung Quốc nhận được chỉ thị bí mật từ Tập Cận Bình, và tất cả các vùng đã được khuyến cáo “chuẩn bị và ứng phó với đại dịch”, theo các tài liệu bị rò rỉ được trích dẫn trong một phóng sự điều tra của Associated Press. Nhân viên bệnh viện được lệnh mặc đồ bảo hộ.  Guajardo, cựu đại sứ của Mexico tại Bắc Kinh, nói với đài Global News rằng vào ngày 23 tháng 1, khi Trung Quốc phong tỏa Vũ Hán, ông đã nhận ra Bắc Kinh nhập khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân với số lượng lớn.  Guajardo, hiện đang làm việc tại một công ty tư vấn ở Washington, DC, cho biết vào giữa tháng 1, ông được một nguồn tin trong ngành logistics chuỗi cung ứng của Mexico liên lạc.  “Họ nói, ông biết không, buồn cười là tôi đang ngập đầu với các đơn đặt hàng yêu cầu tôi tìm được bao nhiêu khẩu trang N95 thì gởi hết sang Trung Quốc.” Ông nói rằng ông đã thử kiểm tra một số nơi tại Mỹ và ước đoán rằng lượng thiết bị bảo hộ cá nhân đang biến mất dần từ ​​những nơi bán lẻ thông qua các phương pháp “ngấm ngầm”. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. “Tôi nghĩ, ‘Trời đất ơi, họ đang thu gom hết nguồn cung N95 trên thế giới,’” Guajardo nói với đài Global News. Ông tin tới nỗi ông đã viết trên Twitter vào ngày 27 tháng 1 dự báo điềm gở sắp khan hiếm thiết bị bảo hộ cá nhân ở Bắc Mỹ. Vào tháng 3, những khẩu trang từng bán cho Trung Quốc vào tháng 1 và tháng 2 đã được bán lại cho Mexico với giá gấp 20 tới 30 lần, theo Guajardo. Và báo Washington Post và đài CNN tường thuật hồi tháng 4 rằng thiết bị bảo hộ cá nhân đôi khi có giá hơn 1000% so với giá vào đầu tháng 1.  “Đại dịch này đã trở nên phức tạp vì Trung Quốc giấu giếm lúc ban đầu,” Guajardo nói. “Và nay nó càng phức tạp hơn nữa do Trung Quốc khiến thế giới hết sạch thiết bị bảo hộ cá nhân.” “Họ khởi xướng đại dịch và nay họ đang trục lợi từ nó.” Guajardo cũng nói rằng theo kinh nghiệm của ông về Trung Quốc, khẩu trang nay được bán ngược lại sẽ không những có giá cắt cổ và có thể kém chất lượng mà còn có yêu sách chính trị về dài hạn. Trung Quốc tăng cường sản xuất thiết bị bảo hộ cá nhân trong khi cấm xuất khẩu và tăng nhập khẩu, theo báo cáo quốc hội Mỹ. (Congressional Research Service) Báo cáo quốc hội Mỹ được công bố hồi tháng 4 cũng có kết luận tương tự: “Chính phủ Trung Quốc có thể cung cấp một cách có chọn lọc một số vật tư y tế ra nước ngoài, với những quốc gia được chỉ định, theo các tính toán chính trị.” © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Trong một cuộc phỏng vấn, dân biểu Đảng Bảo thủ O’Toole, nói rằng ở Canada, ông đã nghe những cảnh báo tương tự về thiết bị bảo hộ cá nhân từ các nguồn tin của ông vào tháng 1 rằng Guajardo đang nhận được từ các nguồn tin ở Mexico và Mỹ. Dân biểu O’Toole nói ông biết “chắc chắn” rằng một số quan chức cấp cao của Canada hồi tháng 1 đã được cảnh báo rằng Trung Quốc đang tích trữ thiết bị bảo hộ cá nhân. Nhưng thay vì ứng phó với nguy cơ đó, chính phủ Canada đã gởi 16 tấn thiết bị bảo hộ cá nhân sang Trung Quốc. Dân biểu O’Toole nói rằng ông tin rằng các phương pháp mà Bắc Kinh sử dụng để thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân và phản ứng của Canada cần phải được điều tra trong một cuộc điều tra tổng quát quốc gia khi các nguy cơ về y tế của coronavirus cuối cùng đã lắng xuống. “Trung Cộng cố tình giấu kín thông tin về một ổ dịch trong ít nhất vài tuần, nếu không nói là vài tháng,” O’Toole nói. “Điều đó không chỉ khiến thế giới có ít thời gian hơn để ứng phó, mà còn giảm nhẹ mức độ trầm trọng tiềm ẩn của nguy cơ này. Các quốc gia đã không ra các quyết định về cấm chuyến bay và (bảo vệ) các cửa hàng bán thiết bị bảo hộ cá nhân.” Khi được đài Global News yêu cầu phản hồi phát biểu khẳng định của O’Toole, phát ngôn viên của Bộ Y tế Canada cho biết vào tháng 1, giới chức trách bắt đầu theo dõi coronavirus ở Trung Quốc và “bắt đầu làm việc với Bộ Dịch vụ Công cộng và Mua sắm Canada để mua vật tư cần thiết để ứng phó với dịch bệnh có thể xảy ra ở Canada.” Các email nội bộ của Bộ Y tế Canada cho thấy vào ngày 31/1, Bộ trưởng Patty Hajdu đã phê duyệt tặng thiết bị bảo hộ cá nhân cho Trung Quốc từ kho dự trữ khẩn cấp của Canada, bao gồm “những thứ mà (sẽ) hết hạn vào tháng Hai và tháng Ba.” Bộ Y tế tin rằng đợt quyên tặng này sẽ không ảnh hưởng tới nguồn cung thiết bị bảo hộ cá nhân của Canada, theo các email đó. Tuần trước, Thủ tướng Justin Trudeau thừa nhận rằng hai máy bay từ Canada được gửi để mua thiết bị bảo hộ cá nhân ở Trung Quốc nay đã quay về trống rỗng. Trudeau nêu các lý do tình trạng tắc nghẽn tại các phi trường Trung Quốc và các lệnh hạn chế chỉ cho phép máy bay chờ hàng hóa trong thời gian ngắn. Nhưng Trung Quốc nói các phát biểu của Trudeau là “không chính xác”. Sau khi bài này được đăng, đài Global News đã hỏi Trudeau rằng hồi tháng 1 ông có biết là Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch toàn cầu để thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân hay không, và nếu chính phủ của ông biết, tại sao không thực hiện hành động nào để bảo vệ nguồn cung của Canada. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. “Vào ngày 2 tháng 1, giám đốc y tế công cộng của chúng tôi đã triệu tập một nhóm giám đốc y tế công cộng tỉnh bang để thông báo rằng có những tường thuật về một loại virus mới hiện diện ở Trung Quốc,” thủ tướng Treau nói hôm 30/4. “Các cơ quan tình báo của chúng tôi đã theo dõi và biết được các vấn đề và chúng tôi đã nhận được các cập nhật thường xuyên hồi tháng 1. Ngoài chuyện đó ra, tôi không có gì để nói thêm.” Các lãnh sự quán Trung Quốc và các hiệp hội cộng đồng được nêu tên trong bài này vẫn chưa phúc đáp các câu hỏi từ đài Global News. ‘Mỗi Hoa kiều là một chiến sĩ’ Mặt trận Thống nhất lợi dụng các tổ chức Hoa kiều để phục vụ cho các chính sách chiến lược của Bắc Kinh, theo CSIS. (Ảnh: GFX) Qua các tường thuật chính thức từ báo chí nhà nước Trung Cộng như Tân Hoa Xã cũng như các trang mạng của Mặt trận Thống nhất ở Trung Quốc và báo cáo từ các tổ chức cộng đồng người Canada gốc Hoa có liên quan, có thể thấy rằng số lượng thiết bị bảo hộ cá nhân khổng lồ ít nhất 100 tấn đã được gởi từ Canada tới Trung Quốc vào tháng 1 và tháng 2. Những nỗ lực đó được tổ chức thông qua các lãnh sự quán ở Vancouver, Toronto và Montreal. Ở Vancouver và Toronto, các hiệp hội kinh doanh có liên hệ chính thức với Mặt trận Thống nhất dường như đã đi đầu trong chiến dịch toàn cầu thu gom khẩu trang N95, đồng thời thu gom và gởi thiết bị bảo hộ cá nhân từ các quốc gia khác tới Trung Quốc.  Một bản tin ngày 2 tháng 3 của Tân Hoa Xã ghi lại một khía cạnh của chiến dịch toàn cầu bao gồm đến hàng triệu di dân từ tỉnh Phúc Kiến ở miền nam Trung Quốc. Bản tin này — với tít phụ ‘Mỗi Hoa kiều là một chiến sĩ’ — đầy những từ ngữ quân sự đao to búa lớn sặc mùi tuyên truyền. “Đại dịch đáng sợ này xuất hiện bất ngờ. Nhưng sức mạnh vô biên xuất phát từ các nhân viên y tế tuyến đầu, đảng viên và cán bộ, từ nhân dân, và từ người Hoa ở Phúc Kiến và Hoa kiều,” bản tin của Tân Hoa Xã viết. “Người Phúc kiến từ hàng chục quốc gia trên năm châu lục đã tham gia trận chiến vô hình này … họ hành quân cả ngày lẫn đêm và chạy đua với thời gian để gởi về những lô hàng khan hiếm cho quê hương.” Bản tin này tập trung vào Phòng Thương mại Toronto Phúc Thanh. Đây là một trong những tổ chức tham dự một cuộc tuần hành có liên hệ với Mặt trận Thống nhất để chống các biểu tình đòi dân chủ ở Hong Kong, tại Markham, Ontario, vào mùa hè năm 2019.  © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Theo bản tin của Tân Hoa Xã, chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh đã bay tới Trung Quốc vào tháng 1 trước Tết Nguyên đán của Trung Quốc. Nhưng sau khi “thấy rằng vật tư đang trở nên khan hiếm, ông đã bay về Toronto để giúp mua (khẩu trang),” theo bản tin đó. Bản tin đó không đề cập tới các nguy cơ COVID-19 tiềm tàng đi theo khi chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh bay từ Trung Quốc tới Toronto vào dịp Tết Nguyên đán, khi chính phủ Trung Quốc đưa ra các cảnh báo nội bộ rằng nguy cơ lây lan đại dịch là rất cao. Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào cho thấy chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh biết về các nguy cơ đại dịch do đi nước ngoài vào thời điểm đó, bởi vì Canada và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không khuyến cáo không nên đi từ Trung Quốc sang Canada. Theo bản tin của Tân Hoa Xã — điều mà đài Global News không thể xác minh một cách độc lập — sau khi chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh hạ cánh ở Toronto trong thời tiết -25 độ C, ông ta lập tức lên xe và lái tới trụ sở chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh và ra lệnh: “Mua (thiết bị bảo hộ cá nhân) theo từng phần nhỏ. Hành động ngay bây giờ!” © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. “Ngay lập tức, gần một trăm Hoa kiều lái xe đến phòng thương mại,” bản tin của Tân Hoa Xã viết. Các hội viên Phòng Thương mại Toronto Phúc Thanh gởi thiết bị bảo hộ cá nhân về Trung Quốc thông qua Mặt trận Thống nhất, theo Tân Hoa Xã. (Ảnh: Tân Hoa Xã) Trong những ngày tiếp theo, 200 thành viên phòng thương mại Phúc Thanh đi khắp Ontario gom mua vật tư y tế, theo bản tin đó, trong khi ở Trung Quốc, một quan chức “làm việc với Sở Công tác Mặt trận Thống nhất của Phúc Kiến và hải quan ở Phúc Kiến” và nhiều hãng hàng không Trung Quốc khác để nhận “vật tư y tế từ Canada”. Chúng tôi đã không thể liên lạc được với chủ tịch phòng thương mại Phúc Thanh để xin bình luận.  Các bản tin tường thuật về những chuyến hàng lớn thiết bị bảo hộ cá nhân từ Toronto được chứng thực bằng các báo cáo từ văn phòng Toronto của hãng Hàng không Hải Nam (HNA). Các báo cáo đó cho biết vào ngày 25 tháng 1, HNA “đã đáp ứng lời hiệu triệu của nhà nước” và chuyển tới Trung Quốc các lô hàng thiết bị bảo hộ cá nhân “do các cơ quan chính phủ, tổ chức từ thiện, tổ chức xã hội  nước ngoài và Hoa kiều quyên tặng”. Đến giữa tháng 2, HNA đã giao 56 tấn thiết bị bảo hộ cá nhân từ Toronto sang Trung Quốc, theo các báo cáo đó. Trong khi đó, vào ngày 26 tháng 1, Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại Montreal đã thành lập một đội ứng cứu khẩn cấp dịch bệnh để thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân cho Trung Quốc và “đã liên lạc với hơn 10 quan chức nhà nước Canada ở ba cấp chính quyền”. Thông qua các doanh nghiệp và “các tổ chức Hoa kiều và sinh viên Trung Quốc ở nước ngoài”, lãnh sự quán ở Montreal đã giúp hàng chục tổ chức chuyển bằng máy bay hơn 30 tấn khẩu trang và quần áo bảo hộ tới các thành phố khác nhau ở Trung Quốc. Và vào ngày 23 tháng 1 tại Vancouver, Yongtao Chen, một nhà kinh doanh bất động sản và là chủ tịch Liên minh các Hiệp hội Người Hoa ở Canada (CACA), đã được lãnh sự quán Trung Quốc thông báo về nhu cầu cấp thiết cần thiết bị bảo hộ cá nhân tại Vũ Hán, theo các bản tin của báo chí nhà nước Trung Cộng.  CACA là một tổ chức Mặt trận Thống nhất “ở cấp độ có quyền chỉ đạo” ở Canada, theo Chen Yonglin, một cựu viên chức ngoại giao Trung Quốc đã trốn sang Úc. Và nó là một thành viên của Ban Hoa kiều Vụ của Mặt trận Thống nhất, một cơ quan được Bắc Kinh dùng để gây ảnh hưởng với cộng đồng Hoa kiều, theo Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Mỹ-Trung năm 2018. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Ban lãnh đạo CACA đã làm việc với lãnh sự quán Vancouver thông qua một nhóm WeChat ứng phó dịch bệnh để gây quỹ và tổ chức mua thiết bị bảo hộ cá nhân ở Canada và những nơi khác, theo một bản tin ngày 31 tháng 1 của một trang mạng có liên hệ với CACA. “Thông qua các kênh khác nhau, cuộc họp chung đã gom được quần áo bảo hộ, chất khử trùng, khẩu trang và các vật liệu bảo hộ khác, và đang đẩy mạnh sắp xếp để chuyển tới Vũ Hán,” bản tin đó cho biết. Các cuộc điều tra của CSIS và RCMP Ít nhất một trong những tổ chức do Vancouver đứng đầu dường như có liên quan với CACA trong chiến dịch thu gom thiết bị bảo hộ cá nhân của Bắc Kinh – Liên đoàn Hoa Kiều Quảng Đông – bao gồm các thành viên bị các cuộc điều tra về an ninh và thực thi pháp luật của Canada chú ý, theo các nguồn tin hiểu rõ về các vụ việc này của RCMP và CSIS. Chúng tôi đã không thể liên lạc được với ban lãnh đạo của liên đoàn này để xin bình luận.  Một báo cáo ngày 23 tháng 3 từ Liên đoàn Hoa Kiều Hồi hương Toàn Trung Quốc đã trình bày các nỗ lực vận chuyển thiết bị bảo hộ cá nhân của liên đoàn Quảng Đông, tổ chức có hội viên ở 131 quốc gia. Báo cáo đó dẫn lời lãnh đạo liên đoàn Quảng Đông Ruji Feng, chủ tịch Hiệp hội Chao Shan Canada tại Vancouver, nói rằng “các cộng đồng địa phương tích cực hợp tác với các đại sứ quán và lãnh sự quán để khuyến khích và liên lạc với tất cả các nhóm cộng đồng Hoa kiều để chuẩn bị các vật tư y tế khác nhau.” Liên đoàn của Feng cũng hỗ trợ CACA trong việc vận chuyển bằng máy bay 60 thùng thiết bị bảo hộ cá nhân từ Manila, Philippines tới Trung Quốc, theo báo cáo đó.  Một người đàn ông trả lời điện thoại theo số được niêm yết của Hiệp hội Canada Chao Shan tại Vancouver nói với đài Global News rằng ông không có liên hệ với hiệp hội và không thể tìm được ban quản trị để bình luận về bài viết này. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Qua xem xét các hồ sơ ngân hàng hải ngoại và hồ sơ tòa án hình sự và dân sự ở British Columbia, đài Global News phát hiện rằng một số hội viên Canada Chao Shan — hầu hết ở Vancouver nhưng cũng ở miền nam Trung Quốc — có liên quan đến các hoạt động tài chính được cho là bí mật.  Năm 2003, một trong những hội viên ở Vancouver, Xun Chuang, đã bị kết án tù 18 tháng có điều kiện do các tội sản xuất ma túy và bị cấm sử dụng vũ khí trong 10 năm, theo hồ sơ hình sự của BC. Và theo các hồ sơ án dân sự của Tối cao Pháp viện British Columbia và các nguồn tin, Xun Chuang và địa chỉ viên chức Chao Shan Canada của ông ta có liên hệ với các nghi phạm trong cuộc điều tra E-Pirate của RCMP, cuộc điều tra về rửa tiền sòng bạc và hoạt động ngân hàng ngầm lớn nhất từ ​​trước đến nay của Canada. Chúng tôi đã không thể liên lạc được với Xun Chuang, thông qua hãng luật đại diện trong một trong những vụ cho vay bất động sản của ông ta, để xin bình luận. Ông ta không được nêu tên như một nghi phạm hoặc bị buộc tội trong cuộc điều tra E-Pirate. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Các nghi phạm có liên hệ với Xun Chuang bị cáo buộc dính líu đến hoạt động cho vay bất động sản và hoạt động cho vay nặng lãi để đánh bạc có liên tới buôn bán ma túy và hoạt động ngân hàng ngầm ở Richmond, BC và Trung Quốc đại lục.  Tuy nhiên, tội rửa tiền và trốn thuế trong cuộc điều tra E-Pirate đã được hủy trước khi các nghi phạm được đưa ra xét xử do các sai sót của các công tố viên liên bang về công bố bằng chứng. Những cáo buộc chưa được chứng minh tại tòa. Hiệp hội Canada Chao Shan và một số người có liên hệ với tổ chức này đã được các đặc vụ CSIS biết đến, theo xác nhận của một nguồn tin giấu tên.  Các mối liên kết của Mặt trận Thống nhất giữa Úc, Canada và miền nam Trung Quốc (Ảnh: GFX) Các mạng lưới mờ ám tương tự của Mặt trận Thống nhất đã được điều tra tại Úc, nơi chính phủ Úc thực hiện lệnh cấm xuất khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân vào ngày 29 tháng 3 sau khi một số nhà kinh doanh bất động sản người Hoa gởi hơn 82 tấn thiết bị bảo hộ cá nhân sang Trung Quốc, theo một báo cáo của quốc hội Mỹ. Một trong những tổ chức Mặt trận Thống nhất ở miền Nam Trung Quốc có liên quan đã được phát hiện có dính líu tới các cáo buộc về tội phạm có tổ chức và hoạt động “tổ chức đánh bạc lớn ở sòng bạc” khả nghi, theo tường thuật của báo Sydney Morning Herald.  © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Và các tổ chức Mặt trận Thống nhất Quảng Đông và Chao Shan hoạt động tại Úc cũng được phát hiện có liên hệ với ban lãnh đạo tổ chức ở Canada, theo hồ sơ họp hành của Mặt trận Thống nhất ở Trung Quốc. Một lãnh đạo có tiếng của Mặt trận Thống nhất Quảng Đông tên là Xiangmo Huang, một tỷ phú kinh doanh bất động sản và người đánh bạc cao cấp, đã bị cấm nhập cảnh Úc vào năm 2018 vì lý do an ninh quốc gia.  Alex Joske, một chuyên gia và nhà nghiên cứu về Mặt trận Thống nhất ở Viện Chính sách Chiến lược Úc, nói rằng Liên đoàn Hoa Kiều Hồi hương Toàn Trung Quốc — mà các liên đoàn Quảng Đông ở Canada và Úc là thành viên — là một phần ngày càng quan trọng trong chiến lược kiểm soát Hoa kiều thuộc Mặt trận Thống nhất của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.  Manthorpe nói rằng tuy tay chân của Mặt trận Thống nhất đã được CSIS theo dõi từ năm 1998, các mạng lưới đang phát triển nhanh chóng ở Canada dưới thời Tập Cận Bình. © Bản tiếng Việt của Canada Info. Mời quý độc giả kết nối để cập nhật tin tức: canadainfo.net, facebook.com/thongtincanada, twitter.com/thongtincanada. Và mức độ nguy cơ hiện tại đã được thể hiện trong một báo cáo của CSIS năm 2018, viết rằng: “Các hoạt động của Mặt trận Thống nhất của Trung Cộng bao gồm chiêu dụ giới chóp bu, quản lý thông tin, thuyết phục, cũng như truy cập thông tin và tài nguyên chiến lược. Nó cũng thường xuyên là một phương tiện để tạo điều kiện cho hoạt động gián điệp.” Trung Quốc không thừa nhận rằng Mặt trận Thống nhất của họ được sử dụng cho hoạt động gián điệp và các lãnh sự quán Trung Quốc tại Canada đã phúc đáp các câu hỏi cho bài viết này. John Townsend, trưởng ban quan hệ truyền thông của CSIS, không chịu trả lời trực tiếp về câu hỏi cơ quan an ninh quốc gia có đang điều tra các hoạt động xuất khẩu thiết bị bảo hộ cá nhân liên quan tới các tổ chức Mặt trận Thống nhất ở Canada, như Canada Chao Shan, hay không. “Theo luật của chúng tôi, CSIS rõ ràng có nhiệm vụ điều tra gián điệp và phá hoại, khủng bố, sự can thiệp của nước ngoài, và lật đổ chính quyền và chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng các quyền hạn pháp lý của mình để bảo đảm nhà nước Canada có được thông tin tình báo về những vấn đề hệ trọng này,” ông nói. Sam Cooper Nguồn: Global News, 30/4/2020. https://globalnews.ca/news/6858818/coronavirus-china-united-front-canada-protective-equipment-shortage/ Phạm Vũ Lửa Hạ dịch Nguồn: https://canadainfo.net/16596/    
......

Cạn lời nhưng vẫn phải viết

Chau Doan| Về vụ án Hồ Duy Hải, tôi đã viết quá nhiều, đến mức thấy mình cạn kiệt ngôn ngữ, cạn kiệt ý nhưng tôi vẫn thấy mình phải viết. Với tôi, vụ án này với nỗi đau khổ của Hồ Duy Hải, chị Loan mẹ của Hải và em gái của Hải chỉ là nỗi đau của vài cá nhân. Tất nhiên là tôi chia sẻ nỗi đau khổ của họ, tôi khâm phục sự kiên cường của tấm lòng người mẹ đã ròng rã suốt 12 năm đi kêu oan khắp nơi để cứu con, nhưng một nỗi buồn lớn hơn nhiều, âm u ghê rợn hơn nhiều là bởi vụ án này đã thể hiện một nền tư pháp rừng rú không thể tưởng tượng nổi với những con người quen suy nghĩ một cách văn minh. Người dân sẽ còn rất khổ. Sự oan ức, sự thiệt thòi, nước mắt sẽ còn chảy dài, chảy rất lâu trên những đôi má của người dân Việt. Khi mà hầu như 100% cư dân mạng đều lên án những người thực thi pháp luật của vụ án, của những phiên toà về những sai trái ngạo ngược thì họ vẫn ngang nhiên tiếp tục chà đạp lên công lý, không nể nang gì công luận và để một lần nữa giầy vò hàng triệu con tim những người có lương tri, khiến nỗi phẫn uất dâng tràn, sự khinh bỉ căm hận đã bị đẩy lên đến tột độ. Ở đây, để khẳng định là Hồ Duy Hải có vô tội không, tôi không có quyền khẳng định nhưng tôi có quyền có niềm tin rằng cậu ấy vô tội. Lý do thì đã nói nhiều rồi, bởi chứng cứ nguỵ tạo, vật chứng mua ngoài chợ, hồ sơ vụ án bị thao túng, lời khai nhân chứng không có gía trị, sự che dấu mập mờ với một nghi can khác…. Chính vì những lý do ấy mà việc huỷ bản án để điều tra lại là một việc rất nên làm, ít ra là để vớt vát chút lòng tin của công luận nhưng bọn họ vẫn mặc kệ, vẫn ngang nhiên chà đạp lên công lý, ngang nhiên sỉ nhục lương tri, ngang nhiên vò xé con tim thương cảm của công luận. Nhưng việc gì cũng vậy, một phần công luận chúng ta cũng có lỗi trong việc này. Có lỗi bởi trước kia chúng ta đã thờ ơ với những bất công, với những sự vô lý ngạo ngược trong xã hội. Ai cũng tự bảo nói để làm gì, việc gì đến mình thì một ngày nào đấy khi sự lưu manh, dối trá dưới lốt luật pháp đổ xuống đầu chúng ta thì ai sẽ đứng ra bênh vực? Còn bây giờ tôi muốn nói với 17 vị đã đồng loạt giơ tay biểu quyết. Các vị đã vĩnh viễn ghi tên mình vào lòng hận của dân chúng. Tên tuổi các vị đã mãi mãi gắn liền với sự ô nhục của nền tư pháp của Việt Nam. Trong đội ngũ 17 người kia, sẽ chỉ có thể rơi vào những dạng người sau: ác độc, vô lương tâm còn nếu không ác độc, vô lương tâm mà giơ tay đồng thuận thì chỉ có thể là hèn nhát. Các vị đã có một sự đồng thuận, các vị đã có “nhau” nhưng nhân dân mãi mãi coi các vị là tội đồ và chỉ có sự khinh bỉ, nỗi tức giận mỗi khi họ nhìn thấy mặt các vị. Sự có nhau ấy của các vị chỉ là một sự a dua thấp hèn, bè cánh và chẳng có ý nghĩa gì nhiều ngoài mấy miếng cơm manh áo hèn mọn. Các vị sẽ mãi mãi là những đứa con ghẻ của dân tộc này. Ai đấy sẽ bảo tôi nhân danh nhân dân mà nói điều đao to búa lớn, nhưng hãy thử đưa cho tôi một cư dân mạng nào ủng hộ cách làm của các cơ quan liên quan trong vụ án này. Một kẻ ngu nhất, bỉ ổi nhất, lưu manh nhất, thích thú việc ôm đít quyền lực nhất cũng vẫn thấy toàn bộ vụ án này là một trò đùa quái gở, bất nhân và vô pháp. Tôi thật sự đã cạn lời rồi! Đoàn Bảo Châu - Fb Chau Doan ***** Oan Khiên Hồ Duy Hải, Trời Đã Nổi Cơn Thịnh Nộ? Phạm Thành Tối qua 8.5.2020 lúc 20h30 trời bỗng bất ngờ nổi gió giật. Gió giật từng cơn, từng cơn, giống như ông Trời giận dữ ai đó, cầm từng nắm gió ném xuống trời đất Hà Nội. Vợ tôi đang xem mạng ở trong phòng riêng, giật mình, gào lên: Gió mạnh quá anh ơi. Trời không có tín hiệu báo mưa mà sao Trời lại bất ngờ nổi gió giật lạ lùng như vậy? Đi theo gió là mưa rơi. Mưa lưa thưa, nhưng những hạt mưa thì to. Tôi có cảm giác như ông Trời bỗng nổi cơn giận dữ, bốc nước đá từ kho mưa của nhà Trời ném xuống bầu trời Hà Nội vậy. Mưa, gió man rợ như vậy, nhưng tuyệt nhiên không có tiếng sét nào, và trận mưa cũng đến rồi đi như một cơn mưa rào thoảng qua vậy. "Sao bỗng nhiên ông Trời lại nổi cơn giận dữ, ném gió, ném nước đá xuống bầu trời Hà Nội như vậy? - Vợ tôi than thở hỏi và rồi vợ tôi tự trả lời: "Chắc có oan khiên nào đó vừa xảy ra ở Hà Nội ta, anh ạ". Tôi nói: "Còn oan khiên nào vào đây nữa? 17 thằng và con thẩm phán vừa giơ tay lên Trời, quyết giết oan cháu Hồ Duy Hải thêm một lần nữa. Oan khiên đó, chứ còn oan khiên nào nữa? Ông Trời đang nhậu bữa tối, nhìn thấy thế, không ghìm được bức tức, bèn nổi trận lôi đình, lập tức bốc gió và nước đá ném vào mặt 17 thằng cùng con thẩm phán này. Vợ tôi nói:" Ấy là ông Trời đang bận nhậu, chứ vào lúc ông Trời đang làm việc thì hẳn là quăng sấm sét vào bọn chúng rồi, phải không anh?" Đúng quá rồi còn gì? Chúng có thể thoát chết lần này, nhưng lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, chúng nó có trốn dưới Âm phủ cũng không thoát tội bị Trời hành đâu. Em hãy cứ chờ mà xem.  
......

Hồ Duy Hải đã không được xem như một con người

Trân Văn| Phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao khi giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải “giết người”, “cướp tài sản” làm nhiều người ngỡ ngàng, thất vọng. Những tâm trạng ấy là tất nhiên nhưng lại chưa… đúng đắn vì ngộ nhận cả về bản chất chế độ cộng sản lẫn đặc điểm tư pháp xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của hệ thống tư pháp trong điều tra, truy cứu trách nhiệm và xử lý hình sự dựa trên Luật Tố tụng hình sự và Luật Hình sự. Luật Tố tụng hình sự qui định về thủ tục, cách thức tiến hành điều tra, truy tố, xét xử còn Luật Hình sự qui định về tội danh và hình phạt tương ứng với tội danh và mức độ phạm tội. Sở dĩ phải có Luật Tố tụng hình sự và phải đặt bộ luật này bên cạnh Luật Hình sự vì đó là cách duy nhất để ngăn chặn các cơ quan tiến hành tố tụng (công an, Viện Kiểm sát, Tòa án) khám xét, thu thập bằng chứng, bắt giữ, hỏi cung, truy tố và xét xử bất kỳ ai một cách tùy tiện, xâm hại các quyền căn bản của con người. Về nguyên tắc, tất cả những vi phạm qui định của Luật Tố tụng Hình sự đều có thể dẫn đến hai hậu quả: Thứ nhất, khiến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trở thành vô hiệu. Thứ hai, tùy tính chất, mức độ vi phạm mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán sẽ bị xử lý vì “vi phạm tố tụng”, kể cả phải vào tù. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Hồ Duy Hải là một trong những ví dụ điển hình về “vi phạm tố tụng”. Những “vi phạm tố tụng” này trầm trọng đến mức tháng 11 năm ngoái, Viện Kiểm sát Tối cao quyết định kháng nghị. Ở phiên giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát Tối cao đã trình bày sáu vấn đề liên quan đến “vi phạm tố tụng” (1). Phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao thừa nhận các “vi phạm tố tụng” nhưng nhận định những “vi phạm tố tụng” ấy không làm thay đổi bản chất vụ án, không hủy các bản án đã tuyên đối với Hồ Duy Hải (2) chính là bằng chứng rất rõ ràng cho thấy, 17 Thẩm phán của Tòa án Tối cao xem Luật Tố tụng hình sự là rác. Khi Luật Tố tụng hình sự là rác thì chỉ ngậm ngùi cho số phận của Hồ Duy Hải sẽ là thiếu sót lớn, thậm chí là thiển cận vì ai cũng có thể bị như thế. Đó là thân phận chung của cả trăm triệu công dân Việt Nam. Trên thực tế, Hồ Duy Hải không phải là nạn nhân đầu tiên của việc khinh rẻ các “vi phạm tố tụng”. Nếu Luật Tố tụng hình sự được tôn trọng như phải thế, sẽ không có những cá nhân không phạm tội nhưng vẫn cúi đầu nhận tội vì bị tra tấn, không bị bắt oan, không bị truy tố oan, không bị phạt đủ loại hình phạt từ tù có thời hạn đến chung thân, tử hình, không có những gia đình tan nát. Oan sai không trở thành vấn nạn nghiêm trọng như đã thấy. Chuyện 17 thẩm phán của Tòa án Tối cao đồng thanh nhận định những “vi phạm tố tụng” không làm thay đổi bản chất vụ án khi xét lại vụ án Hồ Duy Hải theo trình tự giám đốc thẩm chính là một kiểu tái khẳng định, sẽ còn vô số những Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long,… Đã từng có nhiều Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán của hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa thăng tiến nhờ “vi phạm tố tụng” mà đạt được vô số “thành tích” khi tham gia xử lý hình sự nhiều cá nhân. Đồng bào không phải là công dân với các quyền hiến định, đồng bào, thậm chí đồng chí chỉ là công cụ phục vụ… sự nghiệp cá nhân và đảng! Phán quyết từ phiên giám đốc thẩm về hai bản án dành cho Hồ Duy Hải của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao chính là cam kết tập thể, nó giống như chứng thư, bảo đảm kiểu thăng tiến vừa kể vẫn còn giá trị. Phán quyết ấy có thể làm nhiều triệu người chưng hửng nhưng giúp hàng triệu đồng chí, đồng đội bớt hoang mang, thêm hứng thú. Nói cách khác, cho dù được chọn tham gia Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Tối cao để tiến hành giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, 17 cá nhân đại diện cao nhất cho tư pháp xã hội chủ nghĩa vẫn chỉ xem Hồ Duy Hải như một loại công cụ và không hề ngán ngại khi cùng nhổ toẹt vào hy vọng của nhiều triệu người: Được nhìn thấy Luật Tố tụng hình sự còn thoi thóp chứ không phải đã mệnh một và sẽ khiến các viên chức trong hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa chùn tay, bớt làm càn. *** Thật đáng buồn khi phải mường tượng, dường như Hồ Duy Hải chỉ là công cụ của nhiều cá nhân trong hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa nhưng khó có thể nghĩ khác. Tại sao chín năm trước (2011), hết Tòa án Tối cao đến Viện Kiểm sát Tối cao cùng bác bỏ đề nghị kháng nghị hai bản án mà Tòa án Long An (sơ thẩm), rồi Tòa án Tối cao tại TP.HCM (phúc thẩm) đã dành cho Hồ Duy Hải và ngậm tăm suốt từ khi Chủ tịch Nhà nước đề nghị hoãn thi hành án tử hình, xem lại vụ án (2014) đến nay? Những lời đồn đoán về việc sắp đặt nhân sự lãnh đạo đảng CSVN nhiệm kỳ 13 cũng như các dấu hiệu cho thấy nhiều nhóm trong đảng đang triệt hạ lẫn nhau để giành ưu thế nhằm thâu tóm quyền lực, có liên quan gì đến sự kiện Viện Kiểm sát Tối cao đột nhiên đổi ý, kháng nghị các bản án đã tuyên với Hải vào tháng 11 năm ngoái? Nếu Hội đồng Thẩm phán phiên giám đốc thẩm vụ án này tuyên hủy hai bản án ấy, phán quyết đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến uy tín, sự nghiệp chính trị của ông Trần Quốc Vượng, nhân vật từng là Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao giai đoạn 2007 – 2011 và giờ là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư? Nếu Hội đồng Thẩm phán phiên giám đốc thẩm vụ án này tuyên hủy hai bản án ấy, phán quyết đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến uy tín, sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Hòa Bình, nhân vật từng là Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao giai đoạn 2011 – 2016 và từ 2016 đến nay là Chánh án Tòa án Tối cao? Phải thắc mắc như thế vì với bối cảnh chính trị, xã hội, nhân tâm như hiện nay và đặc biệt là với những bằng chứng hết sức rõ ràng đã được Viện Kiểm sát Tối cao liệt kê, sau đó được cả 17 thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao thừa nhận là “vi phạm tố tụng”, tại sao cả hội đồng nhất trí… y án, bất kể Luật Tố tụng hình sự vẫn còn hiệu lực! Đó cũng là lý do tại sao ngỡ ngàng, thất vọng về phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao sau phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải là chưa đúng đắn. Tâm trạng đúng phải là phẫn nộ. Chỉ phẫn nộ vì một đồng loại bị biến thành công cụ, trở thành nạn nhân của hàng loạt “vi phạm tố tụng” song án tử hình vẫn lơ lửng trên đầu suốt 12 năm qua chưa đủ mà còn phải phẫn nộ về thân phận cũng như tương lai của chính mình, của thân nhân, của bạn bè mình! Con người không thể và không nên để bị dùng như công cụ! Chú thích (1) https://tuoitre.vn/vien-kiem-sat-de-nghi-dieu-tra-lai-6-van-de-vu-an-ho-duy-hai-20200508152512439.htm (2) https://tuoitre.vn/hoi-dong-tham-phan-bac-khang-nghi-vu-an-ho-duy-hai-20200508144802024.htm  
......

Phúc – Vượng đấu đá để giành chức Tổng Bí Thư

Tác giả: Sông Quê Thời gian vừa qua, trong khi Việt Nam đang vật lộn với nạn dịch cúm Vũ Hán thì truyền thông trong nước đã khuấy động nên một vụ việc khá bất thường, đó là đại gia Đường Nhuệ bị dính vào vòng lao lý. Gọi là bất thường là vì vụ việc này xảy ra tại một địa phương rất nhạy cảm, đó là Thái Bình. Đây cũng chính là bản quán của đương kim ứng cử viên Tổng Bí thư kỳ tới Trần Quốc Vượng. Ai cũng biết bất cứ lãnh đạo nào muốn leo cao thì đều phải dựa vào sự ủng hộ của vây cánh và thường là những người cùng quê hương bản quán vì họ có mối quan hệ máu mủ ruột già. Đổi lại khi lãnh đạo leo càng cao thì càng tạo ra cái ô dù lớn để che chở và nâng đỡ cho vây cánh của ông ta. Do vậy, chạm vào Thái Bình ngay trước thềm đại hội 13 có thể được coi là một cú tát của một đối thủ chính trị nào đó nhằm hạ uy tín của ông Trần Quốc Vượng. Vụ việc việc này chắc chắn sẽ đến tai các ủy viên bộ chính trị, đặc biệt là TBT CTN Nguyễn Phú Trọng và nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các lá phiếu dành cho ông Vượng nên khả năng ông ta trúng ghế TBT kỳ tới có thể sẽ hẹp lại. Ngay sau vụ việc Đường Nhuệ, dư luận lại xôn xao về chuyện nâng khống giá mua máy xét nghiệm Covid-19 ở Quảng Nam. Cụ thể, là Giám đốc sở y tế tỉnh này Nguyễn Văn Hai đã duyệt mua chiếc máy với giá hơn 7 tỷ đồng, trong khi giá sau khi được thanh tra chỉ vào khoảng chưa đến 5 tỷ đồng. Ông này sau đó được truyền thông đưa tin đậm nét vì đã phải bật khóc khi trình bày với lãnh đạo tỉnh Quảng Nam vào chiều ngày 29 tháng 4. Đáng chú ý hơn nữa là vụ việc tương tự cũng xảy ra ở Hà Nội, Quảng Ninh và các địa phương khác nhưng truyền thông trong nước lại đặc biệt chú ý tới Quảng Nam – đây là quê hương của đương kim thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Ông Phúc cũng được cho là có tham vọng đối với chức vụ Tổng Bí Thư kỳ tới. Vụ việc Đường Nhuệ ở Thái Bình và mua gian máy thử Covid 19 ở Quảng Nam đã gây đồn đoán về cuộc đấu đá chính trị ngầm giữa ông Vượng và ông Phúc. Mặc dù Nguyễn Xuân Phúc đã gần như có được chức chủ tịch nước trong nhiệm kỳ tới nhưng rõ ràng đây chỉ là chức danh mang tính hình thức mà không có thực quyền. Trong khi dưới tay Phúc hiện nay là các nhà tài phiệt cỡ bự trong nước. Việc Phúc chỉ có được chức chủ tịch nước được coi như là thất bại vì mất hết thực quyền. Vậy là Nguyễn Xuân Phúc là vỏ quýt dày thì Trần Quốc Vượng là móng tay nhọn, hoặc ngược lại. Quãng thời gian từ nay đến đại hội 13 không còn nhiều. Đây là thời điểm mang tính quyết định nên các ứng viên cho ngôi vị cao nhất sẽ tung ra những quân bài cuối cùng. Kịch hay đang vào hồi gay cấn. Hãy chờ xem…  
......

Trò đùa tài sản ngoạn mục

Phạm Trần| Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CSVN Nguyễn Phú Trọng là người thích nói dai và nói dài chuyện “chuẩn bị nhân sự Đại hội đảng XIII”, diễn ra vào thượng tuầng tháng 01 năm 2021, nhưng ông lại không dám thanh toán những kẻ khai gian tài sản. Và một lần nữa, vẫn húc đầu vào chủ nghĩa lỗi thời Mác-Lenin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh để cai trị độc tài, độc đảng. Trong bài viết, phổ biến ngày 26/04/2020, có nhan đề “Một số vấn đề cần đặc biệt quan tâm về chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII”, ông Trọng lập lại 6 tiêu chuẩn “không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những người có một trong các khuyết điểm sau : (1) Bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; (2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán; không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; (3) Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị; (4) Không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút; (5) Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; (6) Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay. (Chú thích điểm 6: Nhằm vào  lý lịch của người thân trong gia đình bao gồm lập trường và quan điểm chính trị trong qúa khứ và hiện tại, song song với việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.) Phải kiên trì Mác-Lênin Vấn đế “bản lĩnh chính trị không vững vàng” quy định ở điểm 1 có nghĩa  là phải bị loại nếu không  “tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước…” Điều này cũng cho thấy ông Trọng đã loại bỏ mọi khả năng đổi mới chính trị, trong đó có đề nghị của  127  trí thức và nhiều cựu lãnh đạo đảng cao cấp, đưa ra từ năm 2015. Những người này  muốn đảng hãy can đảm vượt qua chính mình, gỡ bỏ những ràng buộc lỗi thời để thoát khỏi gông cùm ý thức hệ Cộng sản với nước láng giềng nham hiểm Trung Cộng. Hồi đó, trong Thư đề ngày 09/12/2015, trong số những người ký tên nổi tiếng, nay đã qua đời, có Thiếu tướng Nguyễn trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ tại Bắc Kinh và Giáo sư Hoàng Tụy. Nhưng những điều họ viết 5 năm trước, nay đọc lại vẫn còn giá trị so với tình hình hiện nay (năm 2020), đó là: “Thực trạng kinh tế đang có nhiều bất ổn (nổi lên là ngân sách và cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nặng kéo dài, nợ công tăng quá nhanh); nhiều tài nguyên bị khai thác cạn kiệt; môi trường bị tàn phá và ô nhiễm nghiêm trọng; văn hóa xuống cấp; đạo đức xã hội bị băng hoại; nhân dân ngày càng mất lòng tin vào thể chế chính trị. Mặt khác, Trung Quốc ngày càng ngang nhiên thực hiện mưu đồ bành trướng, hòng biến nước ta thành một chư hầu kiểu mới, liên tục xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của nước ta cả trên biên giới đất liền và biển đảo, tăng sự uy hiếp và chi phối đối với nước ta trên nhiều mặt. Thời gian gần đây, trong khi vẫn dùng những lời hoa mỹ về hòa bình, hữu nghị, nhà cầm quyền Trung Quốc đã có những bước leo thang thực hiện mưu đồ bành trướng trên Biển Đông bất chấp luật pháp quốc tế, không chỉ trắng trợn xâm phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn gây bất ổn cho hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Cả hai nhận xét này trùng hợp với những điều do chính ông Nguyễn Phú Trọng  viết ngày 26/04/2020, cũng như hành động của Trung Cộng ở Biển Đông. Theo ông Trọng thì: “Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hòa bình") mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông toàn cầu, chiến tranh mạng,...” Trong khi đó, Trung Cộng đã lợi dụng tình hình nạn dịch Vũ Hán (Trung Quốc), Covid 19, đang gây chết người và suy thoái kinh tế trên  toàn thế giới để gia tăng áp lực quân sự ở Biển Đông nhằm vào Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương và Mã Lai Á. Từ hành động đâm chìm tầu cá Việt Nam ngày 2/4 (2020) đến việc xây dựng thêm hai "trạm nghiên cứu" mới tại đá Chữ Thập và đá Subi, trước khi đặt tên cho 80 vị trí chìm và nổi trong phạm vi hình Lưỡi bò để dành chủ quyền. Ngoài ra, Trung Cộng cũng đã thành lập 2 Huyện Hoàng Sa và Trường Sa và gửi Liên Hiệp Quốc Công hàm năm 1958 của nguyên Thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng, với ngụ ý xác nhận Việt Nam đã thừa nhận quyền chủ quyển của Trung Cộng trên Hoàng  Sa và Trướng Sa. Phía Hà Nội bác bỏ lập luận của Bắc Kinh với quan điểm Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ công nhận quyền lãnh hải 12 hải lý mà không nói gì đến Hoàng Sa và Trường Sa, vì khi ấy (năm 1958), hai quần đảo này thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa. Tư tưởng gì? Cũng nên biết hồi năm 2015, các Trí thức đã viết rằng: “Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong nhiều năm qua về thực chất đã từ bỏ những nguyên lý cơ bản về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Vậy mà các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhấn mạnh lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa, đặt độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường phải gắn với chủ nghĩa xã hội”. Điều này cũng đã phản ảnh đúng quan điểm của ông Trọng và Bộ Chính trị trong nội dung dự thảo Văn kiện đảng XIII, đang lưu truyền trong nội bộ đảng, với điều cốt lõi hàng đầu là phải “kiện định và trung thành tuyệt đối với Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì vậy, Hội đồng lý luận Trung ương, tổ chức chủ trì soạn thảo Văn kiện đảng XIII, Ban Tuyên giáo đảng và Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng đã không ngừng hô hào phải bảo vệ tư tưởng đảng, bao gồm Chủ nghĩa Mác-Lênin-Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh đảng (bổ sung, phát triển 2011), Điều lệ đảng và chủ trương, đướng lối đảng. Nhưng nhiều cán bộ và đảng viên, kể cả một số không nhỏ cấp lãnh đạo từ Trung ương xuống cơ sở đã phạt  nhạt lý tường và đang “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” khỏi Chủ nghĩa giáo điều Cộng sản. Bằng chứng như ông Trọng đã bộc lộ trong bài viềt:”Tình hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng trong nhân dân, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngại. Nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức mới chỉ bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình hình trên cho thấy nhiệm vụ của toàn Đảng sắp tới là rất nặng nề.” Người đứng đầu đảng và nhà nước còn thừa nhận:”Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, thậm chí có người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa." Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, vi phạm nguyên tắc và quy chế làm việc, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm.” Tài sản của ai? Bên cạnh những lo âu suy thoái tư tưởng, ông Nguyễn Phú Trọng còn muốn loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những ai: “Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất…” Nhưng chuyện này đã xưa như trái đất vì cho đến bây giờ, kể từ khi có Luật Phòng, chống Tham nhũng năm 2005, sau đó thay bằng Luật năm 2018, có hiệu lực ngày 01/07/2019, chưa bao giờ đảng cho dân xem và kiểm soát các bản khai tài sản của cán bộ, đảng viên. Từ xưa đến nay, người  có bổn phận phải khai thì cứ khai rồi giao cho Thủ trưởng cất vào tủ cho mọt ăn dần hay niêm yết nơi làm việc để cho nắng mưa ăn nát chứ có ai được dòm đến đâu. Đăc biệt, các bản khai này lại không được công khai nơi cư trú của người phải khai nên dân mờ mịt như thầy bói sờ voi. Hãy đọc những lời nói thật của Tiến sĩ Đinh Văn Minh, hiện giữ chức Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ. Ông nói (khi  còn là Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra): ”Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn luôn là một giải pháp quan trọng trong tổng thể các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Giải pháp này, dù đã được thực hiện nhiều năm nay nhưng được đánh giá là “mang nặng tính hình thức”. Nghĩa là, hiệu quả của nó trong việc góp phần vào ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng còn khá thấp. “ Theo bài viết đăng trong báo điện tử Xây dựng Đảng thì: “Cho đến hiện nay, chúng ta mới quan tâm nhiều đến việc kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức mà chưa thực sự quan tâm đến việc kiểm soát tài sản của những người này. Điều đó có nghĩa rằng, pháp luật mới chỉ quan tâm nhiều đến việc kê khai tài sản đi vào nề nếp, đúng pháp luật mà chưa có biện pháp để bảo đảm việc kê khai đó giúp cho Nhà nước và xã hội kiểm soát được tài sản cũng như sự biến động về tài sản của cán bộ, công chức. Qua đó phát hiện những dấu hiệu bất minh và có biện pháp ngăn chặn sự tẩu tán và cuối cùng là có thể thu hồi tài sản đó khi chứng minh được mối quan hệ của nó với hành vi tham nhũng.  Chưa hề có việc tài sản của những người bị coi là kê khai không trung thực được đụng đến. Những khối tài sản “sừng sững” mà dường như pháp luật đang bất lực đứng nhìn”. (Theo xaydungdang.org.vn, ngày 27/11/2018) Những “khối tài sản kếch xù này”, như có lần nhìn nhận của nguyên Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu (Khóa VIII), thì chúng đã bị giao cho người khác đứng tên thì làm sao mà moi ra được. Như vậy thì liệu ông Nguyễn Phú Trọng có thành công trong đề xướng không cho vào Trung ương XIII những kẻ “Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc”, hay ông sẽ đứng trơ ra mà nhìn cho mỏi mắt? 06/05/2020 Phạm Trần  
......

Nguồn gốc của oan sai

Đỗ Ngà - Van Nga Do| "Anh có quyền im lặng, những gì anh nói sẽ là bằng chứng chống lại anh trước Toà" là câu cửa miệng của nhân viên điều tra khi họ bắt giữ tội phạm ở các nước dân chủ. Đây là nghĩa vụ của nhân viên điều tra, luật pháp trao cho bị can quyền im lặng và cũng “khuyến mãi” luôn quyền được biết cho họ. Luật người ta nhân bản thế đấy. Chưa hết, ngoài quyền im lặng và quyền được biết, nghi phạm còn được luật pháp trao cho họ quyền được có luật sư ngay từ đầu. Như ta biết, khi mới bị bắt, vì hoảng loạn hoặc vì mất bình tĩnh mà nghi phạm có thể nói bừa hay nói ngang kiểu thách thức lực lượng bắt giữ. Thực tế rất nhiều người hay phạm vào khuyết điểm này. Mà hầu hết người dân thì lại không hiểu hết luật pháp, họ cũng không thấu hiểu hết quy trình tố tụng nên lúc mới bị bắt, họ rất dễ bị sa vào bẫy của chính lời nói chính mình. Chính vì lẽ đó mà quyền im lặng được ra đời. Để trám vào sự thiếu hiểu biết về pháp luật của của các phạm nhân, thì luật pháp cũng đã trao cho họ quyền được có luật sư ngay từ đầu. Chỉ có luật sư mới biết thân chủ của họ nên nói những gì và nên im lặng những gì. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì tất nhiên nghi phạm, bị can, hay bị cáo đều được xem chưa phải là tội phạm nếu tòa chưa tuyên án. Biết đâu người mà bị lực lượng chấp pháp bắt ấy là vô tội thì sao? Nên luật pháp đã trao cho mọi bị can đều có quyền có luật sư ngay từ đầu là vậy. Thế mới thấy cách làm luật của những nước dân chủ họ không những chặt chẽ mà còn rất nhân bản. Thực tế, quyền giữ im lặng và quyền có luật sư ngay từ đầu nó là 2 chiếc đũa trong một đôi đũa, nếu thiếu một trong hai thì tất có những kẻ hở pháp lý, và chính kẽ hở này mà dẫn đến buộc tội oan. Nếu thiếu quyền im lặng, thì nhân viên điều tra có thể dễ dàng khai thác lời khai của nghi phạm trong lúc hoảng loạn, nếu thiếu quyền có luật sư từ đầu thì sẽ tạo ra khoảng trống để nhân viên điều tra ép cung, thậm chí nhục hình để vu oan giáng họa cho bị can. Đó là lý do vì sao quyền im lặng và quyền có luật sư ngay từ đầu phải được quy định song hành. Những luật pháp có tính bảo vệ bị can như vậy tất nhiên nó không thể có được trong một nền chính trị độc tài toàn trị CS được, bởi vì với 96% là đảng viên ĐCS trong Quốc hội, thì rõ ràng không ai là đại diện cho dân thực sự cả. Mà tệ hại hơn, những người trong ngành công an, như các giám đốc sở công an các tỉnh thành hay những qua chức công an cấp bộ lại làm đại biểu quốc hội. Họ vừa muốn điều tra nhanh, họ muốn nhục hình ép cung để khoe “thành tích phá án giỏi” để mị dân thì làm sao họ có thể viết ra thứ luật vì người dân được? Họ không đứng về phía người dân thì làm sao họ có thể đứng trên quan điểm “suy đoán vô tội” mà làm luật được? Vậy nên trong luật pháp Việt Nam không đầy đủ 2 luật quy định quyền im lặng và quyền có luật sư từ đầu là vậy. May thay vì có mạng internet, nên những điều luật văn minh ở xứ tự do cũng được các nhà chuyên môn đem lên mạng xã hội thảo luận để soi rõ bộ mặt man rợ của luật pháp Cộng sản. Đứng trước sức ép như vậy, Quốc hội bù nhìn CS cũng được bộ chính trị bật đèn xanh cho thông qua “quyền im lặng”. Và ngày 1 tháng 1 năm 2018 luật này đã trở thành một tu chính án bổ sung vào bộ Luật Tố Tụng Hình Sự năm 2015. Nói chung, sự bổ sung luật đơn điệu này là cách làm miễn cưỡng để cho có chứ thực sự trong quá trình tố tụng, nó không được phát huy. Như đã nói, quyền im lặng nó phải đi kèm quyền có luật sư từ đầu, như vậy CS chỉ thông qua luật về Quyền im lặng, thì xem như luật này được làm ra là chỉ để làm cảnh thôi, không hơn không kém. Trên thực tế, khi công an CS khi bắt người họ không bao giờ thông báo cho bị can biết là bị can có quyền giữ im lặng cho đến khi có luật sư đại diện. Thêm vào nữa là năm 2011, Bộ Công an cũng đã ra một văn bản dưới luật để tước đoạt quyền có luật sư từ đầu của bị can, đó chính là thông tư Thông tư 70/2011/TT-BCA. Trong điều 5 của Thông tư này có quy định, chỉ khi nào được cơ quan tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thì luật sư mới được quyền đại diện cho bị can. Cái bệnh hoạn của luật pháp CS là văn bản dưới luật lại loại bỏ những điều khoản trong luật pháp, những điều khoản trong luật pháp có thể loại bỏ những điều khoản trong hiến pháp. Cho nên nếu có luật mới quy định quyền có luật sư ngay từ đầu thì cũng bị thông tư này hoá giải. Không nhắc nghi phạm quyền giữ im lặng và ra thông tư hạn chế quyền mời luật sư của phạm nhân phải nói là một chiêu trò gian xảo. Chính nó cho thấy Công an CS cố tình tạo khoảng trống do thiếu vắng luật sư để ép cung nhục hình phạm nhân, và từ đó họ mới dễ dàng nặn ra những bản án “hoàn hảo” và nhanh chóng để kết thúc điều tra sớm. Vậy nên mới nói, việc ép cung nhục hình nó được xây dựng bài bản từ ý đồ làm luật và từ quy định quái đản về quá trình tố tụng, cho nên mọi người đừng nghĩ nhục hình bức cung chỉ là “sai sót”, mà phải hiểu nó là ý đồ mang tính hệ thống của ĐCS. Để dọn đường cho quá trình ép cung, Cộng Sản đã làm như thế đó. Bản chất CS là muốn tất cả mọi người phải thừa nhận những gì đảng muốn, nên tất họ phải tạo ra những thứ luật pháp rừng rú như vậy. Việc Hồ Duy Hải bị oan chỉ là một trong vô số vụ án oan như vậy mà thôi. Cũng bởi có mạng xã hội, cũng bởi Hải có một bà mẹ vĩ đại và những người thân tuyệt vời, cũng bởi còn đó những luật sư có tâm luôn sát cánh cùng gia đình Hải nên mới có phiên tòa giám đốc thẩm. Chỉ có vụ án nào có lực khui quá mạnh như thế thì dân mới biết, còn vô số những vụ án không có lực khui đủ mạnh thì rõ ràng những nạn nhân ấy phải chấp nhận xanh cỏ cùng với nỗi oan không bao giờ giải do thứ “pháp quyền” khốn nạn này mang đến. Đào sâu để chúng ta thấy, việc vu cáo giáng họa bằng cách ép cung nhục hình nó là thủ đoạn mang tính hệ thống chứ không phải là sai sót. Mục đích của nó là để trám đi lỗ hổng nghiệp vụ kém cỏi của ngành công an CS, và cũng đồng thời nhằm mục đích gieo rắc sự kinh hãi với nhân dân để đạt mục đích cai trị. CS muốn dân hiểu rằng “Dù vô tội, dù sống theo hiến pháp và pháp luật thì cũng chẳng thể an toàn nếu tao muốn chúng mầy có tội. Đừng có dại mà làm phật ý đảng!”. Bản chất là như vậy, nên sẽ không bao giờ có luật công minh và một nền tư pháp vì công lý được. Không bao giờ! -Đỗ Ngà-  
......

Chỉ Cộng Sản Mới Lật Đổ Được Cộng Sản?

Trần Trung Đạo| Hai thái độ bi quan rất quen thuộc trong nhiều người Việt dù rất quan tâm cho đất nước là (1) chỉ khi nào Trung Cộng sụp thì CSVN mới sụp theo, và (2) chỉ có CS mới thay đổi được chế độ CS. Người viết đã bàn thái độ thứ nhất trong loạt bài về “hiểm họa Trung Cộng”. Thái độ thứ hai, người viết có phân tích trong bài “PHẢI CHĂNG CHỈ CS MỚI LẬT ĐỔ ĐƯỢC CS?” Quan điểm chỉ có CS mới lật đổ được CS không chỉ sai trong lý luận mà sai cả trong thực tế lịch sử. Một nhân vật được nêu lên nhiều nhất và cũng được hiểu sai nhiều nhất là Mikhail Gorbachev khi cho rằng ông ta chính là người đã mang dân chủ đến cho Nga nói riêng và 14 nước khác trong khối Liên Sô nói chung. Không ai phủ nhận các chính sách cấp tiến, những quyết định can đảm của Gorbachev trong hai năm cuối của chế độ CS Liên Sô. Tuy nhiên, Mikhail Gorbachev chỉ thổi tắt ngọn đèn khi bình dầu đã gần như khô cạn.Sự chuyển hóa tri thức là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào và chính nhận thức sẽ là vũ khí quyết định làm thay đổi vận mệnh của mỗi con người cũng như vận mệnh của cả dân tộc. ***** Thời gian vừa qua, các phong trào xã hội, phong trào dân chủ tại Việt Nam chịu đựng sự đàn áp khốc liệt của giới cầm quyền Cộng Sản. Không gian bị thu hẹp. Phần lớn các lãnh đạo phong trào đều bị bắt. Một số bị xét xử với những bản án dài hạn bất nhân, một số đông còn bị giam chờ ngày lãnh án và những người chưa bị bắt sống trong tâm trạng sắp bị bắt. Điều này làm không ít người trở nên bi quan khi nhìn viễn cảnh quá xa xôi của một đất nước Việt Nam thật sự tự do, và tự hỏi phải chăng “chỉ có Cộng Sản mới lật đổ được Cộng Sản”? Quan điểm “chỉ có Cộng Sản mới lật đổ được Cộng Sản” là một quan điểm không đúng. Không đúng cả về lý luận, lịch sử lẫn thực tế. Nhân vật được viện dẫn nhiều nhất cho quan điểm này là Mikhail Gorbachev, người tuyên bố cáo chung chế độ Cộng Sản tại Liên Sô. Không ai phủ nhận các chính sách cấp tiến, những quyết định can đảm của Gorbachev trong hai năm cuối của chế độ Cộng Sản Liên Sô. Tuy nhiên, Mikhail Gorbachev chỉ thổi tắt ngọn đèn khi bình dầu đã gần như khô cạn. Lúc bảy giờ chiều ngày 25 tháng 12, 1991, Mikhail Gorbachev từ chức chủ tịch Liên Sô giữa sự thờ ơ của đại đa số dân Nga. Không một quốc gia nào trong số 15 nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” trước đó thuộc Liên Bang Sô Viết quan tâm. Không một tiếng vỗ tay ngoài điện Kremlin. Không có một tiếng hoan hô trên “Quảng Trường Đỏ”. Nhiều người dân Nga đi xe điện về nhà sau ngày dài làm việc không biết mình đang sống trong thời điểm lịch sử. Cả đất nước không biết mình đang choàng tỉnh sau 74 năm dài trong cơn mê kinh hoàng Cộng Sản. Lý do như Mikhail Gorbachev phát biểu “người dân đã từ chối chế độ từ trước đó rồi”. Tại các quốc gia Baltics, những lãnh đạo của phong trào dân chủ là những trí thức, những giáo sư, nhạc sĩ và phần đông chưa hề làm chính trị. Chẳng hạn tại Estonia, khi các nhạc sĩ cất lên tiếng hát cả nước hát theo. Bài hùng ca tự do của dân tộc Estonia cũng chính là bài ai điếu đưa một chế độ phi nhân ra nghĩa trang lịch sử. Tại các nước Đông Âu như Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ba Lan, các phong trào dân chủ đã hình thành, bị vùi dập dưới xích sắt của xe tăng nhưng không chết. Tinh thần cuộc Nổi Dậy Hungary Gia Lợi. Họ là ai? Là những giáo sư đại học, văn nghệ sĩ, những công nhân và nông dân có quá khứ bình thường và khiêm nhượng. Tại Romania, vợ chồng Nicolae Ceaușescus bị bắn chiều ngày 25 tháng 12, 1989, nhưng chế độ đã sụp đổ từ bốn ngày trước trong buổi mít-tinh tại thủ đô Budapest do chính đảng Cộng Sản tổ chức. Ai đã buộc Ceaușescus, một lãnh tụ Cộng Sản sắt máu phải rút lui vào phòng trong, bỏ dở diễn văn đang đọc? Người dân Romania. Chính những người đầu tiên trong số hàng trăm ngàn người bình thường có mặt hôm đó đã lớn tiếng phản đối Ceaușescus. Tiếng hét của người dân là kết quả của nỗi hờn căm tích chứa suốt 44 năm. Tiếng thét của họ không còn lẻ loi, vô vọng nữa. Những ngọn sóng nhỏ trở thành ngọn triều dâng cao và đánh sụp chế độ chỉ trong bốn ngày sau. Nicolae Ceaușescus không tiên đoán được ngày tàn của mình. Căn bịnh ung thư di căn mà các lãnh tụ độc tài Cộng Sản đều có trong người là ung thư quyền lực. Bịnh ung thư quyền lực ăn sâu vào trong não bộ làm mù lương tâm và lý trí của các lãnh tụ Cộng Sản độc tài. Một bằng chứng rất hài nhưng có thật. Báo New York Time, phát hành ngày 26 tháng 5, 2000, kể lại những ngày Erich Mielke, hung thần đứng đầu tổ chức an ninh Đông Đức Stasi, còn ở trong tù sau khi nước Đức thống nhất. Erich Mielke chỉ bị kết án 6 năm vì y giả bịnh một cách khéo léo nhưng khi vào nhà tù Moabit, Erich Mielke lại bịnh thật. Một căn bịnh tinh thần khó tìm ra nguyên nhân. Ban quản đốc nhà giam bèn nghĩ ra một sáng kiến. Họ đặt trong phòng tù của Erich Mielke một chiếc điện thoại màu đỏ giống hệt như điện thoại mà ông ta dùng để ra lệnh khi còn là tổng giám đốc cơ quan an ninh Stasi. Dĩ nhiên đường dây của điện thoại chẳng nối vào đâu cả nhưng mỗi ngày Erich Mielke đều quay số và ra lịnh bỏ tù người này, hạ sát người kia như đang thật sự là tổng giám đốc của Stasi. Tại Mông Cổ ở Á Châu, Ethiopia ở Phi Châu cũng tương tự, cách mạng bùng lên từ nạn đói, nỗi đau nhức, sự chịu đựng của người dân thường chứ chẳng từ một lãnh tụ CS nào thương xót hay thức tỉnh. Người viết đã có lần trình bày, tác giả Archie Brown, giáo sư chính trị học đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự vươn lên và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) phát hành lần đầu 2009 đã nêu ra 8 lý do khiến chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải là kinh tế hay quân sự mà là sự thay đổi xã hội (social change). Theo đà phát triển văn minh, người dân dần dần không những có khuynh hướng muốn tìm hiểu những gì khác hơn mà còn nghi ngờ và từ chối các kiến thức họ bị chế độ đầu độc. Sự chuyển hóa tri thức là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và chủ quyền của dân tộc Việt Nam cho tới nay vẫn là còn là một đấu tranh không cân sức. Tuy nhiên, chính nghĩa cuối cùng sẽ thắng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Đảng CS còn mạnh nhờ bộ máy tuyên truyền, nhờ thành phần phên dậu, nhờ nhà tù dựng khắp ba miền nhưng chính họ cũng phải biết chế độ CS tại Việt Nam chỉ có tính cách tạm thời và khi sụp đổ sẽ sụp đổ rất nhanh. Trần Trung Đạo Mời nghe PHẢI CHĂNG CHỈ CS MỚI LẬT ĐỔ ĐƯỢC CS?” do Anh Chi Anh Chi đọc dưới đây. https://www.youtube.com/watch?v=bF4IdbqtCAM&fbclid=IwAR1c387PS2pFXcI5D-JvusE0Xffqt7z_0d4RRstM2IGY7YYx6n0TQDGP3cE   http://www.tvvn.org/chi-cong-san-moi-lat-do-duoc-cong-san-tran-trung-dao/      
......

Chiếc áo choàng cũ của “tân vương”

Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí Thư đảng CSVN. phát biểu trong hội nghị về công tác tổ chức xây dựng đảng hôm 25/12/2019. Ảnh: VTC News Tân Phong – Web Việt Tân Nếu không có gì thay đổi, thì tới đây, sau đại hội đảng lần thứ 13, ông Trần Quốc Vượng, thường trực Ban Bí Thư, là người mà ông Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, giới thiệu là ứng viên duy nhất cho vị trí tổng bí thư, đương nhiên sẽ trở thành “tân tổng bí.” Ở vị trí tối cao của một đảng cầm quyền, ông Vượng sẽ tiếp tục kiên định đi theo đường lối Marx Lenin? Liệu ông Vượng có những tiến bộ, cải cách nào khác ngõ hầu đưa “con thuyền không bến” Việt Nam rách nát tơi tả đang trôi dạt ở biển Đông trong sóng gió vùi dập của anh “bạn vàng 4 tốt”, thoát khỏi cái nạn vong quốc, đắm tàu? Liệu ông có thể giúp cho 97 triệu con dân nước Việt thoát khỏi viễn cảnh hãi hùng trở thành “thuyền nhân” vô tổ quốc, ngay trên chính mảnh đất cha ông ngàn năm văn hiến mà lịch sử từng ghi dấu những “Đinh, Lý, Trần, Lê cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương?” Ông Trần Quốc Vượng, sinh ngày 5, tháng Hai, năm 1953. Nếu không có khai man, khai gian tuổi giống như các đồng chí của ông, thì năm nay ông 67 tuổi. Nhưng nhìn ông thì thấy ông hom hem, già nua hơn con số 67 mặc dù chế độ chăm sóc sức khỏe dành cho cán bộ thuộc Bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản thì vua chúa ngày xưa cũng chẳng là cái đinh gì. Nhìn ông đứng cạnh ông Trọng, từ điệu bộ ăn mặc, đi đứng, ngoại hình già cỗi, chậm chạp, cái kiểu cười “ngây ngô, hiền, hiền” như giáo làng … giống nhau đến kỳ lạ. Có lẽ cũng bởi vì thế, nên ông Trọng ưng ông Vượng lắm. Ông bà mình có câu “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã; mướp đắng, mạt cưa… mới vừa mắt nhau.” Quả cấm có sai. Cứ thấy ông Trọng dắt tay ông Vượng, hai người thắm thiết cười nói với nhau thì thấy cái tình đồng chí cộng sản nó ghê gớm thế nào. Ông Vượng nghe nói là học luật, sau ngồi tới viện trưởng viện kiểm sát tối cao từ 2007 – 2011, trước khi trở thành thường trực ban bí thư bây giờ. Ông Vượng là người kín tiếng, không thấy có scandal gì. Kẻ thì bảo ông thanh liêm, người thì bảo ông trốn trong đống rơm kỹ quá. Thôi thì cứ tin là ông thanh liêm, chính trực, đạo đức sáng ngời theo tiêu chuẩn cộng sản, nhưng còn việc sắp tới ông nói và làm ra sao trên vị trí “tân vương” của đảng cầm quyền, thì là chuyện khác. Vì ông là tân vương, nên ai cũng mong ngóng có một tân vương sáng suốt chứ không lú. Đấy là hy vọng thế, chứ vẫn biết rằng “đời chẳng như mơ.” Không khéo, ông còn lú hơn cả Lú. Cứ nhìn vào phát ngôn, việc làm của ông thì nghĩ nó nản. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tất yếu Mới đây, ông Vượng thay mặt Bộ Chính Trị CSVN, ký ban hành Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 khóa IX về việc “…tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Theo đó, ông yêu cầu tiếp tục tăng cường tuyên truyền, quán triệt về bản chất của kinh tế tập thể, hợp tác xã; khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tất yếu, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đồng thời đưa nội dung phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vào giảng dạy trong hệ thống các trường chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.” Có lẽ, đối với những người lớn tuổi ở Việt Nam, những ký ức kinh hoàng về giai đoạn nhà cầm quyền CSVN duy trì chế độ kinh tế tập thể, vẫn còn chưa phai dấu. XEM THÊM: Hợp tác xã đội mồ sống lại? Thành phần vô sản “lý lịch ba đời bần cố nông” được lựa chọn là giai cấp lãnh đạo, “vừa cầm súng, vừa điều hành nền kinh tế” theo khẩu hiệu và những mô hình cóp nhặt từ Trung Quốc, Liên Xô đã biến xã hội Việt Nam những năm 70 – 80s trở thành địa ngục trần gian. Chính sách kinh tế tập thể, công tư hợp doanh, đánh tư sản mại bản… sau năm 1975 đã tiêu hủy nền kinh tế thịnh vượng nhất Đông Nam Á mà Việt Nam Cộng Hòa để lại gần như nguyên vẹn. Quốc gia nông nghiệp với rất nhiều tài nguyên và lợi thế môi trường phải nhập bobo về ăn. Các bà, các cô miền Bắc nhắc về thời kỳ hợp tác xã, kinh tế tập thể, có câu vè cay nghiệt “Suốt ngày hợp tác, hợp te. Chẳng có mảnh vải mà che cái …” Nhưng đó là sự thực, vì từng mét vải, cái kim, sợi chỉ cũng phải phân phối theo chế độ tem phiếu mậu dịch mà chẳng mấy khi có đủ cho nhu cầu tối thiểu che thân. XEM THÊM: Hợp tác xã – nỗi ám ảnh của thế kỷ 20 45 năm sau cuộc chiến, giờ người Việt Nam có một cuộc sống đỡ thiếu thốn vật chất hơn, đầy đủ hơn chẳng phải là nhờ vào tài năng của người cộng sản, mà đó là nhờ sau khi chẳng có nổi bobo mà ăn thì những chóp bu của đảng mới mở trói bớt phần nào gông cùm cho người dân và cho phép kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư. Tới nay, khu vực kinh tế tư nhân đang lớn mạnh từng ngày. Đến năm 2018, lực lượng này đóng góp tới 42,1% GDP (10% là chính thức, còn lại là 30% phi chính thức) của nền kinh tế. Đây cũng là khu vực tạo nhiều việc làm mới, đặc biệt là số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Năm 2019, số lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm 83,3% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của cả nước, tương đương gần 45,2 triệu người. Trong hai năm 2017-2018, kinh tế tư nhân chiếm tỉ trọng 25,3-26,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và chiếm tỷ trọng 34,7-34,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa, lớn gấp hơn 10 lần về xuất khẩu và gần 7 lần về nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (không kể dầu thô). Như vậy là xuất phát từ con số 0 vào năm 1986, lực lượng kinh tế tư nhân đã trở thành trụ cột quan trọng nhất đảm bảo an sinh và việc làm cho quốc gia bên cạnh khối doanh nghiệp vốn FDI đóng vai trò trụ cột cho việc xuất cảng các sản phẩm gia công. Riêng một công ty Samsung Hàn Quốc cũng chiếm tới 25% GDP của Việt Nam. Trong khi đó, chỉ vài chục tổng công ty, bộ ngành, tập đoàn nhà nước chiếm tới 80% đất đai tài nguyên quốc gia, ngốn tới hơn 45% qui mô vốn của nền kinh tế nhưng chỉ góp khoảng 20% GDP chính thức. Tuy vậy thì hầu hết tất cả các tổng công ty, tập đoàn nhà nước đều là những con nợ khủng. Càng nhiều những doanh nghiệp trong lĩnh vực độc quyền thì nợ càng lớn. Doanh nghiệp nhà nước là lãnh địa riêng của các quan chức chóp bu chia nhau lợi quyền và đục khoét công quĩ. Những “quả đấm thép” của đảng vẫn đang đấm vỡ mặt nhân dân và khiến cho đống nợ quốc gia ngày càng chồng chất cao, cao mãi. Thế mà, ông Vượng vẫn xác định “phát triển kinh tế tập thể, HTX là xu hướng tất yếu” thì nhất định ông “không thần kinh, thì cũng khốn nạn” mới phát ngôn như thế. Khuyến khích đảng viên đọc sách “ní nuận”, sách chính trị Mác, Lê, Mao, Hồ Hôm 16 tháng Tư, 2020 vừa qua, ông Vượng ký Chỉ thị 44 của Ban Bí Thư về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành và nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị. Ông Vượng đánh giá: “…chất lượng chính trị, khoa học, tính thực tiễn, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hấp dẫn của sách lý luận, chính trị còn hạn chế, chưa có nhiều đầu sách hay, có giá trị cao về lý luận và thực tiễn; phương thức xuất bản còn nhiều bất cập, việc xuất bản điện tử chưa được quan tâm đúng mức. …Những hạn chế, yếu kém này là do hoạt động xuất bản, phát hành sách lý luận chính trị chưa nhận được sự quan tâm đúng mức và đầu tư tương xứng; việc mua, đọc, nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị của không ít cơ sở, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa được chú trọng. Các cấp uỷ, tổ chức Đảng cần xác định nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị là nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, đảng viên, là một trong những hoạt động chính trong sinh hoạt định kỳ của tổ chức cơ sở Đảng.” Vốn dĩ, thì những người cộng sản Việt Nam đã tụng niệm những cuốn sách đó suốt 90 năm qua. Dù cả thế giới đã ném triết thuyết vô thần nhưng cuồng tín đó vào sọt rác của lịch sử từ lâu thì ở quốc gia này, nó vẫn là thứ bấu víu lay lắt cho một thể chế đã lạc điệu với thế giới, phi nhân và phản động. Các cấp uỷ, tổ chức Đảng cần xác định nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị là nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, đảng viên, là một trong những hoạt động chính trong sinh hoạt định kỳ của tổ chức cơ sở Đảng.” Vốn dĩ, thì những người cộng sản Việt Nam đã tụng niệm những cuốn sách đó suốt 90 năm qua. Dù cả thế giới đã ném triết thuyết vô thần nhưng cuồng tín đó vào sọt rác của lịch sử từ lâu thì ở quốc gia này, nó vẫn là thứ bấu víu lay lắt cho một thể chế đã lạc điệu với thế giới, phi nhân và phản động. Chỉ thị mang số 44 của Ban Bí Thư đảng CSVN hôm 16/4/2020 về việc nâng cao chất lượng và nghiên cứu, học tập sách lý luận, sách chính trị. Ảnh chụp màn hình Bộ Nội Vụ. Những nhà ní nuận của đảng không biết từ khi nào, đã không còn chỗ đứng trước công luận và xã hội, họ chỉ còn biết “tự sướng” trong những diễn đàn nội bộ của một đám lưu manh chính trị tung hô, vỗ ngực “đảng ta đạo đức, đảng ta là văn minh, chủ nghĩa xã hội bất diệt…” Những chóp bu tin vào “tính tất yếu lịch sử” của chủ nghĩa xã hội cũng giống như ông vua tin vào chiếc áo choàng bằng không khí qua lời xu nịnh của những kẻ lừa đảo, đã tự lột truồng mình trước bàn dân thiên hạ mà tự nhủ rằng đây mới là bộ cánh đẹp nhất thế gian. Ông ta tin rằng “những kẻ nào ngu ngốc mới không nhìn thấy tấm áo choàng này đẹp nhường nào!” Nhưng, càng ngày thì càng nhiều tiếng nói cất lên “tên vua đang cởi truồng!” Ông Vượng, phải chăng đang cố gắng tìm lại trong mớ “ní nuận” cũ kỹ những câu bùa chú để cứu vãn tình trạng tuyệt vọng đó? Nhưng ngay cả ông, chắc chắn cũng chẳng có lời giải đáp. Và rồi, đến một ngày nào đó, ông ta sẽ lại tự lột truồng tấm thân già nua, nhăn nhúm của mình, giả đò như thể đang khoác lên mình bộ áo choàng hoang tưởng, cũ kỹ để diễu hành với đám tùy tùng hô vang “chủ nghĩa xã hội vô địch, chủ nghĩa xã hội muôn năm…” 6/5/2020 Tân Phong  
......

Ông Vượng lại chỉ thị tiếp

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân| Là thường trực Ban Bí Thư, ông Trần Quốc Vượng thay thế ông Nguyễn Phú Trọng giải quyết những công việc hàng ngày; trong trách vụ như vậy, ông Vượng đã ký khá nhiều chỉ thị mang nội dung “giật lùi” của những chính sách cách nay 20 năm. Người ta còn nhớ cách đây không bao lâu, ông Vượng đã ký chỉ thị đẩy mạnh kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã làm dư luận quá ngạc nhiên, vì tính cách phản tiến hoá của nó trong đời sống kinh tế. Khoảng một tuần sau, ông Vượng ký tiếp chỉ thị thúc đẩy cán bộ và người dân tích cực mua báo đảng và đọc báo đảng, một điều mà ngay chính những tờ báo đảng mang theo cái đuôi “nhân dân” như báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân cũng không dám tin. Không dừng lại ở đó, ngày 16 tháng Tư, 2020 vừa qua ông Vượng lại cho ra đời chỉ thị mang số 44, chỉ đạo các cấp uỷ đảng, bộ máy chính quyền, các cơ quan Mặt Trận Tổ Quốc về việc phải đổi mới, nâng cao chất lượng và nghiên cứu, học tập sách lý luận, sách chính trị. Ông cũng phê phán loại sách lý luận, chính trị còn ít, không có giá trị cao về lý luận và thực tiễn đời sống. Mặt khác đội ngũ nghiên cứu lý luận còn thiếu chuyên gia có trình độ cao về chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh để có thể biên soạn sách chính trị thật nhiều. Ý của ông Vượng là các loại sách báo về lý luận, chính trị hiện nay còn quá nghèo nàn, thiếu lý luận sắc bén, viết nhảm nhí. Đó là lý do khiến đảng viên và quần chúng không mua, không đọc và sách bị ế hàng. Có thật như thế không? Nói một cách tổng quát, ở Việt Nam tất cả các loại sách báo hay những bài viết lôi cuốn được nhiều người đọc, không do có lý luận chính trị Mác-Lê hay không. Độc giả chỉ chú trọng đến phần nội dung của quyển sách hay bài viết phục vụ gì, có đáp ứng được gì cho nguyện vọng quần chúng hay không thì người ta mới ham thích tìm đọc. Huống chi với loại sách lý luận, chính trị của đảng vừa khô khan vừa vô bổ thì còn ai muốn đọc? Vả chăng hàng ngày những chiếc loa phường vẫn ra rả bên tai “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm” thì đọc sách chính trị cũng hoá nhàm và nhảm. Ai cũng biết, chủ nghĩa cộng sản ra đời ở Âu Châu vào giữa thế kỷ 19 để giải thích và đáp ứng sự thất vọng của giai cấp công nhân chưa thích ứng được với những thay đổi trong quan hệ sản xuất mới, khi nền công nghiệp Tây phương đang trên đà phát triển. Chủ thuyết ấy được Liên Xô, Trung Quốc và một số quốc gia Đông Âu lấy làm nền tảng tư tưởng cho phong trào cộng sản, tạo sự liên kết để tìm con đường phát triển đất nước một cách nhanh chóng, hầu đuổi kịp khối Tự Do. Nhưng sau một thời gian dài được khai thác triệt để, lý thuyết cộng sản đã bộc lộ nhiều nhược điểm của một công trình chỉ có sức hấp dẫn quần chúng lúc đầu với những giá trị giả tạo, phi thực tế của con đường tiến lên xã hội phồn vinh, mệnh danh xã hội chủ nghĩa. Đó là lý do cắt nghĩa sự thoái trào và tan vỡ của chủ nghĩa cộng sản, đã giúp các quốc gia nêu trên nhìn lại kịp thời, tìm con đường phát triển cho riêng cho mình. Việt Nam trước đây cũng như các quốc gia thuộc địa khác, trước hoàn cảnh khắc nghiệt của dân tộc, một số lãnh đạo chống Pháp đã nhập cảng chủ thuyết cộng sản, khoác lên chiếc áo chủ nghĩa yêu nước và lôi kéo được quần chúng về phía mình. Sau khi nắm được quyền lực, do nhu cầu tồn tại độc quyền và lâu dài, họ tiếp tục coi giáo điều cộng sản là chân lý, bất chấp sự kiện chủ nghĩa xã hội đã chết và giờ đây chỉ còn là một mớ lý thuyết bầy nhầy, hoang tưởng. Sự tô vẽ cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như đảng CSVN rao giảng hiện nay là chuyện hài hước, vì chính ông Hồ Chí Minh đã tự nhận không có tư tưởng gì khác, ngoài tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng chuyện hài hước ấy vẫn được đảng đề cao, nhằm giúp các đảng viên như một thứ bùa ngải để bám víu vào đó, tiếp tục biện minh cho sự độc tôn quyền lực chính trị lẫn kinh tế, bóp chết các quyền tự do của người dân. Thật ra, sách báo lý thuyết, chính trị của đảng sản xuất từ trước đến nay cũng không phải là ít. Ngoài những cây bút ăn lương tháng của các cơ quan như Tạp Chí Cộng Sản, Hội Đồng Lý Luận Trung Ương, Ban Tuyên Giáo Trung Ương, ngày đêm nặn óc viết những cuốn sách theo ý đảng, người ta còn thấy những công trình đồ sộ về lý luận Mác-Lênin khác. Điển hình như Lê Duẩn Tuyển Tập, Hồ Chí Minh Toàn Tập hay sách dịch Lênin Toàn Tập của nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. Ngay cả một tổng bí thư xuất thân ngành lâm nghiệp cũng đóng góp vào sự nghiệp lý luận của đảng bằng “Nông Đức Mạnh Tuyển Tập” gồm 4 cuốn dầy cộm. Tác giả của chúng là những nhân vật một thời là lãnh đạo cao cấp trong đảng, nên khả năng viện dẫn kinh điển Mác-Lê rất hùng hồn, vẽ ra con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa đầy vinh quang để ru ngủ quần chúng. Cần nhìn nhận một sự thật là đại đa số các đảng viên cộng sản chẳng mấy ai “dám đọc” qua những tuyển tập và toàn tập này, ngoại trừ bị nhồi nhét trong những lớp học gọi là “bồi dưỡng chính trị.” Lẽ dĩ nhiên người dân thì đâu ai thèm đọc những mớ lý luận hoang tưởng hoàn toàn vô bổ đó, vì nó quá xa rời thực tiễn đời sống xã hội và nhất là đã lỗi thời. Cái mà người dân cần đọc là những trào lưu tư tưởng mới mẻ, phong phú, những bài viết, sách báo phát huy dân chủ trong đời sống công dân, phát huy tính nhân bản trong giáo dục và quyền làm người, quyền được sống trong một môi trường xã hội công bằng, lành mạnh. Đó là nhu cầu thiết yếu của một đất nước tiến bộ mà bất cứ nhà cầm quyền nào cũng phải hiểu thấu hầu cai trị một cách thành công. Nhưng những điều này ở Việt Nam chẳng những không có mà còn bị cấm đoán, thậm chí nếu có người truyền đạt hay phổ biến lập tức bị chế độ bắt và cầm tù. Chính vì thế mặc dù nắm độc quyền viết, xuất bản, phổ biến nhưng những sách báo tuyên truyền của chế độ cũng chỉ in ra để làm cây kiểng trên giá sách. Với những lý luận một chiều nhằm mục tiêu tô vẽ hình ảnh đảng Cộng Sản được lập đi lập lại càng làm lộ rõ sự lỗi thời, bế tắc nên người đọc và ngay cả đảng viên cũng chẳng ai quan tâm. Do đó Chỉ Thị 44 của Thường Trực Ban Bí Thư Trần Quốc Vượng ngoài việc giúp thêm công ăn việc làm cho đám văn nô của đảng sống còn trong thời buổi kinh tế thị trường, nhưng quan trọng hơn là ông Vượng muốn làm an lòng nội bộ đảng là sẽ tiếp tục đi theo con đường “hồng hơn chuyên” sau khi thay thế Nguyễn Phú Trọng. Phạm Nhật Bình  
......

Nối vòng tay lớn.

Dang Xuong Hung|  Đợi xong ngày 30/4, mới viết đôi dòng về nó, vì muốn xem có điều gì mới mẻ hay không? Năm nay là năm chẵn nên « bên này » tưởng nhớ cũng cao hơn, « bên kia » do nhu cầu công hàm Phạm Văn Đồng, dường như nhẹ tông đôi chút. Thời gian càng trôi xa lại càng củng cố thêm khẳng định: vĩ tuyến 17 chỉ chia đôi đất nước Việt Nam, nhưng 30/4/1975 đã chia đôi dân tộc Việt Nam. Đã 45 năm, bản luận tội cộng sản của phía « bên này » ngày càng dài ra. Niềm tiếc thương Việt Nam Cộng Hòa, nên dân chủ non trẻ, ngày càng sâu nặng hơn. Đã 45 năm, thời gian quá thừa để phơi bày bản chất chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do đảng cộng sản độc quyền. Vòng tay Việt Nam chưa bao giờ được khép kín. Nhưng 45 năm qua, đã có rất nhiều người từ phía « bên kía » dần chuyển sang phía « bên này ». Ban đầu là từ suy nghĩ, tư tưởng, sau chuyển thành hành động. Người Việt Nam trong nước đã thay đổi trong suy nghĩ rất nhiều. Họ đã nghĩ về ngày 30/4 kèm theo suy luận giá như cực kỳ đơn giản từ ví dụ Nam và Bắc Triều Tiên. Bài viết này, tiếp tục hướng về phía « bên kia », để mong một ngày nào đó « rừng núi sẽ dang tay, nối lại biển xa ». Người dân đã thay đổi, người dân cũng mong muốn đổi mới chế độ. Cộng sản không bao giờ thay đổi, nhưng muốn thay đổi cộng sản, cần có những người cộng sản thay đổi. Cộng sản sẽ phải sụp đổ, người cộng sản Việt Nam thức tỉnh càng sớm càng có lợi cho họ. Người dân đang lên tiếng mọi nơi, cần lắm những người cộng sản có thể nghe được tiếng nói của dân. Mọi thứ cần phải thực tâm, thực lòng. Con bài mị dân, lừa dân, thành công trong nhiều năm qua, nay đã hết hiệu nghiệm rồi. Đấu tranh bất bạo động của người dân như gián tiếp truyền đi thông điệp: để hận thù không nối tiếp hận thù, người dân đứng lên chỉ là để đòi trả lại cho dân quyền phán quyết của họ. Họ muốn « tiêu diệt cộng sản » qua một cuộc bầu cử tự do. Con đường phía trước của dân tộc Việt Nam còn rất chông gai. Đó là hàn gắn được nhịp cầu đã gẫy do ngày 30/4/1975 gây ra. Chông gai là vì kể cả khi tác giả của hận thù sụp đổ, thì mối hận thù sau 30/4 không hẳn một sớm một chiều hàn gắn được. Để dựng tình người trong ngày mới, để từ Bắc vô Nam, từ trong ra ngoài, nối liền một vòng Việt Nam, thì mỗi con người Việt Nam, cả trong và ngoài nước, cả người chống cộng và người còn là cộng sản đều nên đặt lợi ích của dân tộc Việt Nam lên trên lợi ích của đảng phái của mình. Đây là thời điểm rất đặc biệt để kiểm nghiệm thái độ của người cộng sản Việt nam giữa lợi ích của đất nước, dân tộc Việt Nam với lợi ích của đảng cộng sản Việt Nam mà họ đang hưởng quyền lợi. Hậu đại dịch sẽ là thời điểm họ không thể chần chừ được nữa. Vòng tay lớn của Việt Nam sẽ có mặt cả những người cộng sản Việt nam đã biết thay đổi. Đặng Xương Hùng
......

Thoang thoảng mùi thuốc súng?

Nguyen Khan| Dường như TC (Trung Cộng) không còn giữ được sự “lạnh lùng” cần có của một nước lớn đang nuôi tham vọng xưng bá dưới tấm bình phong rất lãng mạn: Trung Hoa Mộng. Mạng xã hội đang rộ tin nhà cầm quyền TC đã đe nẹt các nước (nhỏ ) sẽ chuốc lấy cơn thịnh nộ của TC như TC đã từng làm thế ở Triều Tiên đầu thập niên 50 thế kỷ trước nếu các nước dám to gan “a dua” chống lại TC. TC cũng không giấu được sự tức giận khi các chiến hạm Mỹ vào Biển Đông, không chỉ phá đám ý đồ độc chiếm Biển Đông của TC qua các hoạt động ngang ngược của bầu đoàn thê tử tàu thăm dò địa chất HD-08 và cụm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh, mà còn liên tục cho chiến hạm áp sát khu vực 12 hải lý quanh các đảo trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa TC cướp của VN, đe dọa có thể đáp trả chiến hạm Mỹ bằng hành động quân sự để bảo vệ điều mà TC cho là Mỹ đã vi phạm chủ quyền biển đảo hợp pháp của TC trong Biển Đông. Có vẻ như Mỹ đã đánh hơi ý đồ TC lợi dụng dịch cúm Vũ Hán làm tê liệt Mỹ và thế giới để xưng bá khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Các điểm nóng khả nghi là mục tiêu TC xâm chiếm, có thể là quần đảo Senkaku của Nhật, Đài Loan, quần đảo Trường Sa, và cũng có thể TC sẽ chiếm đóng Hongkong phá bỏ hiệp ước Trung – Anh một quốc gia hai chế độ… Nên Mỹ, ngoài việc tăng cường chiến hạm tuần tra trong Biển Đông và Biển Hoa Đông, còn điều hai siêu phi cơ chiến lược B-1B Lancer và 1 phi cơ tiếp dầu cất cánh từ Mỹ bay qua Biển Đông áp sát…để răng đe TC. Tin mới nhất, Mỹ đã bố trí 4 phi cơ chiến lược B-1B lancers tại đảo Guam, cùng với một phi đội pháo đài bay chiến lược tàng hình B2 đang đồn trú ở đó, sẵn sàng xuất kích khi có lệnh. Sự xuất hiện các loại phi cơ thứ dữ này cho thấy bóng ma đại chiến đang ẩn hiện… Ngoài ra, Nhật cũng vừa thành lập đơn vị phòng không hiện đại bố trí ở phía Tây Nam để sẵn sàng đối phó trước bất kỳ cuộc tấn công nào của TC. Tư lệnh phòng không và không gian Mỹ cũng tuyên bố lực lượng này đang trong tình trạng sẵn sàng tốt nhất, đáp trả mọi mối đe dọa khi có lệnh. Tổng thống Mỹ Donal Trump cũng vừa đe dọa trừng phạt hàng ngàn tỷ USD thuế hàng hóa TC. Mỹ cũng đang phối hợp với nhiều nước điều tra nguồn gốc virus Vũ Hán và điều tra việc TC cố tình giấu dịch gây tổn thất nặng nề về mạng người và kinh tế cho Mỹ và cộng đồng quốc tế, nghiên cứu khởi kiện đòi TC bồi thường hàng vạn tỷ USD thiệt hại. Mỹ cũng cấm sình viên và các nhà khoa học TC đến Mỹ học tập và nghiên cứu, đang điều tra bắt giữ gián điệp TC, trục xuất những người Hoa hợp tác hoặc thân tình với Bắc Kinh…. Xem ra Mỹ đang tìm cách trả đũa Bắc kinh, cho rằng Mỹ bị virus Vũ Hán gây tổn thương nặng nề là do TC cố ý hãm hại Mỹ và nhiều nước. Cho nên đây không còn là lúc đặt câu hỏi Mỹ có kiếm chuyện trả đũa TC bằng vũ lực hay không, mà nên hỏi Mỹ và TC sẽ có hành động quân sự giới hạn đến mức nào. Bởi một khi Đại Bàng bị tổn thương thì rất khó có thể ngăn cản nó phô trương sức mạnh. Dẫu bộ ngoại giao TC cũng đã hạ hỏa kêu gọi Mỹ đừng can thiệp vào điều mà TC cho là chuyện nội bộ của TC và các nước trong Biển Đông, nhưng phát ngôn đó chưa đủ thiện chí để Mỹ quan tâm. Về phía TC, một nước lớn đang ôm ấp giấc mộng Trung Hoa, đang có thừa thủ đoạn, gian trá, ngang ngược,ngạo mạn và tàn bạo, sẵn sàng đạp lên mọi luật lệ và thông lệ quốc tế để đạt cho bằng được tham vọng bá quyền, thì đây là lúc không gì thuận lợi hơn để dùng sức mạnh quân sự đánh chiếm các mục tiêu, kiểm soát các khu vực địa chính trị và các vùng biển chiến lược như Biển Đông và Biển Hoa Đông, loại bỏ vai trò siêu cường số 1 của Mỹ theo cái bẩy Thucydich. Đó là lý do các giới chức TC liên tục có những phát ngôn mang tính kẻ cả khó nghe, những chính sách ngoại giao pháo hạm, những hoạt động quân sự đầy thách thức… trong khi các nước đang chạy sấp chạy ngửa đối phó với dịch cúm Tàu, không còn hơi sức mưu cầu chuyện khác, thì có vẻ như TC đang sung sức để “múa gậy vườn hoang” ? Có vẻ như TC vừa đấm vừa run… đang dao động, lưỡng lự trước những động thái diễu võ dương oai của Mỹ, chưa biết Mỹ thực sự bị virus Vũ Hán làm suy yếu đến mức nào, chưa rõ sự chia rẽ trong chính trường Mỹ trong năm bầu cử sẽ làm tổng thống Trump chập chờn thiếu quyết đoán đến đâu, chưa hiểu Mỹ đang phô trương sức mạnh quân sự để răng đe TC, để trả đũa TC hay chỉ là hành động rung cây nhát khỉ để che đậy sự suy yếu của quân đội Mỹ do virus Vũ Hán gây ra? Dù gì đi nữa, cũng không còn cơ hội nào tốt hơn cho TC thực hiện giấc mơ Trung Hoa. Nếu không là thời điểm này thì chẳng còn thời điểm nào. Bởi không chỉ đây là lúc tốt nhất và duy nhất để thực hiện giấc mơ Trung Hoa, mà còn là thời điểm ra tay để ngăn chặn hậu họa của dịch cúm Tàu. Vì nếu TC chần chừ chậm ra tay, để Mỹ và các nước ngăn chặn được dịch bệnh, phục hồi hoạt động kinh tế, sẽ liên minh với nhau cô lập và hạch tội TC, thì lúc ấy không những giấc mơ Trung Hoa sẽ vĩnh viễn nằm trong cõi mộng, mà ngay cả sự tồn tại của thể chế độc tài dã man TC hiện nay cũng khó có thể duy trì. Đó là những lý do khiến mùi thuốc súng đang thoang thoảng phảng phất…?  
......

Ước mơ Việt Nam

Lý Thái Hùng - Web Việt Tân| Mùa Hè năm ngoái (2019), người viết có cơ hội gặp mặt và trò chuyện với một số anh chị em du sinh và công nhân đang học hay làm việc tại một số quốc gia ở khu vực Đông Á. Họ ở nhiều lứa tuổi nhưng đa số là dưới 30 tuổi và họ đến từ nhiều địa phương khác nhau ở Việt Nam. Hỏi thăm về sự quan tâm hiện nay, đối với các bạn du sinh thì đa số muốn sớm ra trường để tìm một công việc nào đó có đồng lương cao hầu giúp gia đình, còn chuyện trở về Việt Nam làm việc thì tính sau. Những anh chị em công nhân thì cố căng sức kiếm tiền thật nhanh, thật nhiều để quay lại Việt Nam sau 3 năm lao động, nhằm trả hết nợ (khoảng từ 7 đến 10 ngàn Mỹ Kim) và sau đó làm lại một cuộc đời mới. Hỏi về ước mơ gì cho tương lai, các bạn đã chia sẻ những điều rất đơn giản, tựu trung là: Có một cuộc sống không còn những mệnh lệnh chính trị lạc hậu; muốn được trở thành một nhà giáo đúng với lương tâm của người Thầy; muốn được ngẩng đầu hãnh diện mình là người Việt; muốn có một cuộc sống an bình cùng với gia đình ngay trên đất nước để không phải tha phương cầu thực… Những mong ước nghe qua thì thật là bình dị và không có gì là to lớn mang tính chất đội đá vá trời, nhưng nhìn vào hoàn cảnh của mỗi anh chị em và tình hình Việt Nam dưới sự cai trị độc tài, tham ô nhũng lạm của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) thì phải nói rằng đó đúng là ước mơ. Thật ra mơ ước này không chỉ riêng gì của những anh chị em đang nỗ lực kiếm sống tại Nhật Bản hay Hàn Quốc, mà có thể nói đó là nỗi niềm chung của hàng triệu người Việt đang sống trên chính quê hương mình. Câu hỏi đặt ra là tại sao những điều bình dị trong cuộc sống đó đã không đến với người dân Việt Nam sau 45 năm đất nước không còn chiến tranh, Việt Nam đã thu nhận hơn 200 tỷ Mỹ Kim đầu tư ngoại quốc và viện trợ nhân đạo trong nhiều năm qua, nên không còn là nước nghèo nàn, lạc hậu như ba thập niên trước? Từ năm 1987 đến nay, với chính sách mở cửa, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương. Năm ngoái, Việt Nam lần đầu tiên vượt ngưỡng 500 tỷ Mỹ Kim của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Kinh tế phát triển, đầu tư ngoại quốc gia tăng, nhưng lại có non 2 triệu thanh niên phải đi làm công tại nhiều quốc gia trên thế giới! Điều này cho thấy là đất nước và xã hội Việt Nam đã không phát triển lành mạnh như các quốc gia bình thường, vì chính bộ máy độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến Việt Nam thành một xứ tư bản hoang dã, cạnh tranh theo quy luật “mạnh được yếu thua,” và cơ hội thăng tiến quyền, lợi cá nhân được thu tóm vào một thiểu số có sẵn quyền lực hoặc biết móc ngoặc. Sở dĩ Việt Nam rơi vào tình trạng phát triển bất công và lạc hậu như ngày nay là vì hoàn toàn thiếu vắng ba nền tảng căn bản của phát triển bền vững, bao gồm: 1/Xã hội bình đẳng; 2/Luật pháp công minh; 3/Môi trường trong sạch. Xã hội bình đẳng Đó là một xã hội mà mọi người dân đều được tôn trọng như nhau trên cương vị con người, có tư cách pháp lý, cơ hội và nghĩa vụ ngang bằng nhau. Nền tảng chính yếu của xã hội bình đẳng quy định rằng mọi người đều phải có cơ hội như nhau để thăng tiến. Trên tinh thần này, đấu tranh giai cấp, nguồn gốc của sự chia rẽ, hận thù giữa những người trong một nước cũng như mọi hình thức kỳ thị phải được chấm dứt và bị nghiêm cấm. Mặc dù hiện nay, nhà cầm quyền CSVN không còn đề cập đến đấu tranh giai cấp như quá khứ, nhưng trong thực tế, với hệ thống đảng, đoàn, mặt trận tổ quốc được tổ chức chằng chịt trong xã hội, đã phát sinh ra một đám cường hào ác bá không khác gì thời phong kiến, vừa bóc lột người dân, vừa cấu kết chiếm đoạt tài sản đất nước làm của riêng. Từ đó bất bình đẳng xã hội càng ngày càng lớn dần, theo đà giàu có của những nhóm tư bản đỏ. Vào năm 2017, Ngân Hàng Thế Giới đã công bố hồ sơ điều tra về thu nhập của người Việt Nam từ ngày đổi mới kinh tế vào năm 1987, cho thấy là bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam tăng trong hai mươi năm qua và đáng chú ý hơn là số người giàu đang chiếm phần thu nhập quá lớn. Khoảng cách về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và các nhóm khác đang gia tăng từ năm 2004, và số người siêu giàu cũng tăng. Theo tính toán của tổ chức Oxfam (liên minh quốc tế gồm 17 tổ chức tìm giải pháp cho vấn đề nghèo đói và bất công toàn cầu) cho thấy mức độ thay đổi khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất ở Việt Nam như sau: Người giàu nhất Việt Nam có thu nhập trong một ngày cao hơn thu nhập của người Việt Nam nghèo nhất trong 10 năm, và tài sản của người giàu nhất này lớn tới mức có thể tiêu một triệu Mỹ Kim mỗi ngày trong sáu năm mới hết. Trong một giờ, người giàu nhất Việt Nam có mức thu nhập cao hơn gần 5.000 lần số tiền mà nhóm 10% nghèo nhất Việt Nam chi hàng ngày cho các nhu cầu thiết yếu. Luật pháp công minh Đó là nền luật pháp dựa trên hai nền tảng công lý và minh bạch. Công lý biểu hiện lẽ phải, sự thật, đạo đức, công bằng để giải quyết những tranh chấp, xung đột trong xã hội. Minh bạch biểu hiện cho sự rõ ràng, không che dấu. Nói cách khác, luật pháp công minh là nền luật pháp dễ hiểu, công khai, dựa trên sự thật, lẽ phải để xét xử hay giải quyết các tranh tụng một cách công bằng. Tình trạng luật pháp tại Việt Nam được người dân ví von rằng: “Việt Nam có cả một rừng luật, nhưng khi tòa án xét xử thì dựa theo luật rừng.” Thật vậy, luật pháp tại Việt Nam không nhằm bảo vệ công lý cho người dân mà là để phục vụ cho quyền lợi của đảng và những kẻ liên hệ. Vì thế mà các bản án thường được quyết định trước khi phiên tòa bắt đầu, và phiên tòa chỉ là màn kịch với một số cán bộ đóng vai chánh án, công tố để diễn trò công lý mà thôi. Quan trọng hơn, luật pháp dưới chế độ CSVN còn được sử dụng cho thủ đoạn trấn áp tất cả những ai có hành động thách thức lại sự cầm quyền hay lãnh đạo của đảng và nhà nước. Họ dùng luật để qua đó gán ghép những hành động hay phát biểu của những người mà họ cho là nguy hiểm đối với chế độ bằng những bản án khắc nghiệt trong các phiên tòa kangaroo. Trong một báo cáo vào năm 2018 của Ban Dân Nguyện trực thuộc Quốc Hội CSVN cho biết là qua kiểm tra văn bản do các bộ, ngành, địa phương ban hành trong năm 2017, có tới 5.639 văn bản trái pháp luật. Trung bình một ngày có hơn 15 văn bản trái pháp luật được ban hành. Theo thống kê trong giai đoạn 10 năm từ năm 1995 đến 2015, Cục kiểm tra của Bộ Tư Pháp kiểm tra 3,6 triệu văn bản phát hiện hơn 90.000 văn bản trái pháp luật được ban hành. Sở dĩ xảy ra tình trạng này là vì các cơ quan tùy tiện viện dẫn luật theo quyền lợi chủ quan của mỗi cơ quan, và quan trọng hơn là do sự cấu kết với những lợi ích nhóm ở trong bộ máy đảng và nhà nước. Môi trường trong sạch Đó chính là môi trường sống của con người bao gồm nước, đất và  không khí phải luôn luôn được bảo vệ để tránh sự ô nhiễm. Sau hơn 2 thập niên đẩy mạnh công nghiệp hóa, môi trường sống tại Việt Nam đang bị đe dọa trầm trọng. Hàng năm, cả nước xử dụng hơn 100.000 tấn hóa chất; phát sinh ra hơn 23 triệu tấn rác thải, hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp và hơn 600.000 tấn chất thải nguy hại trong khi việc xử lý chất thải, nước thải còn rất hạn chế.  Trong khi đó các công ty đầu tư ngoại quốc (FDI) tuy đóng góp một phần rất lớn kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam (70% hàng năm); nhưng đa số các công ty FDI sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân sự trong các ngành như luyện kim, sửa chữa tàu biển, dệt may, da giày, khai thác và tận thu khoáng sản, sản xuất hóa chất, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất bột giầy… gây ra nhiều hậu quả về môi trường. Một số dự án FDI gây ô nhiễm nổi tiếng như công ty Vedan, Midwon, Formosa, khói bụi ô nhiễm của nhà máy Nhiệt Điện Vĩnh Tân 2, Công ty Lee&Men, v.v. Nhưng trong tất cả những loại ô nhiễm môi trường hiện nay ở Việt Nam, đối với thực phẩm và nước, người ta có thể lựa chọn và làm sạch; còn đối với không khí thì đây là mối đe dọa sinh tử, đặc biệt là bụi mịn, trong đó siêu bụi mịn PM2.5 có thể đi sâu vào phế nang gây viêm nhiễm đường hô hấp và làm tăng nguy cơ tử vong ở những người bị bệnh phổi và tim mà hai chứng bệnh này phổ thông tại Việt Nam. Hai thành phố Sài Gòn và Hà Nội bị siêu bụi mịn nặng nề nhất phát sinh từ khí thải của các xe chạy bằng dầu, ở các nhà máy nhiệt điện, các công trình xây dựng, các nhà máy công nghiệp. * Những vấn nạn nói trên là hệ quả tất nhiên của đường lối phát triển kinh tế – xã hội dựa vào mô hình mở cửa thị trường, thu hút đầu tư ngoại quốc để gia tăng tổng sản lượng nội địa (GDP) nhằm tuyên truyền về thành tích đổi mới, hầu tiếp tục biện minh cho chủ trương “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Nếu lãnh đạo CSVN coi việc nâng cao phúc lợi toàn dân là mục tiêu theo đuổi, thì Việt Nam đã có một tương lai hoàn toàn khác từ năm 1975 khi kết thúc cuộc chiến cách nay 45 năm, hoặc từ năm 1986 khi áp dụng chính sách đổi mới lúc khối Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Thật vậy, nước Nhật chỉ mất 30 năm (1945 – 1975) để trở thành một cường quốc kinh tế Á Châu, Nam Hàn mất 26 năm (1961-1987) và Đài Loan mất 25 năm (1970-1995) để trở thành những con Hổ tại Á Châu, trong khi Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới vẫn còn loay hoay ở mức quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Sự khác biệt này, đến từ một điểm cơ bản là chính quyền phải coi ước mơ bình dị của từng người dân là chính, và có bổn phận tạo điều kiện cũng như cơ hội để cho người dân được quyền tham gia vào việc thực hiện ước mơ này một cách tự do, bình đẳng bằng chính sức lực và nhu cầu của mỗi người. Đã đến lúc câu khẩu hiệu “đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý” cần phải được dẹp bỏ vì “đảng” (CSVN) không những không hề được các chủ nhân là nhân dân cho phép lãnh đạo, mà còn chứng minh quá kém cỏi trong vai trò tự phong này sau 45 năm quản lý đất nước theo đà giật lùi so với nhân loại, qua chính cái “nhà nước” mà đảng nặn ra. Đã đến lúc dân tộc Việt Nam cần lấy lại quyền làm chủ, để chung tay xây dựng ước mơ Việt Nam cho toàn thể mọi người, chứ không chỉ riêng một đảng hay một nhóm đặc quyền nào. Có như vậy, tiềm năng to lớn của đất nước mới được khai dụng đúng mức và hiệu quả; người Việt Nam mới được sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Lý Thái Hùng  
......

Thoát Trung

Quốc Ấn Mai| Sài Gòn những ngày phong thành, đầu óc người viết chỉ quanh quẩn một chủ đề: thoát Trung. Dịch đến, nước ta đóng biên với Trung Quốc, nền sản xuất gần như tê liệt trừ một số doanh nghiệp lớn đã trữ hàng hay các doanh nghiệp có nguồn hàng khác. Không nói đâu xa, có những người tôi biết đã mang nỗi ám ảnh phụ thuộc Trung Quốc rất lớn. Không có nguyên liệu Trung Quốc thì đắp chiếu máy để đó, không tìm nguồn khác hoặc giới thiệu nguồn khác cũng không làm. Đơn giản là nguyên liệu Trung Quốc rẻ hay ngay cả nó được làm giá để không rẻ thì cũng dễ đang kiếm hơn là dứt ra khỏi sợi dây ràng buộc ấy. Và muốn những người muốn thoát Trung phải đồng ý cảnh phụ thuộc. Nhưng có bao nhiêu người biết lớp vi lọc meltblown của Trung Quốc giá 1,5 tỉ/tấn có loại sau kiểm định chỉ ngang với lớp SMS Ấn Độ với giá chỉ 0,9 tỉ/tấn? Màng pp mà độn polyme còn rẻ hơn nữa. Những chiếc khẩu trang đang hoành hành trên thị trường theo cách rẻ và dỏm như vậy đấy! Có những người quăng tiền nhiều tỉ vào máy 2D nhập Tàu và nguyên liệu cũng nhập Tàu nốt đã nói về khả năng thu hồi vốn nhanh với thứ khẩu trang dùng nguyên liệu dỏm. Ai sẽ “thu hồi” sức khoẻ và nguy cơ lây lan dịch cho khách hàng với cách làm đó? Phụ thuộc “con quái vật” Trung Quốc đất nước này có nhiều! Từ những phát biểu của quan chức trên báo chí đến các quyết định chính trị can thiệp vào các công trình do nhà thầu Tàu, thiết bị Tàu, công nghệ Tàu, nguyên liệu Tàu, nhân công Tàu. Cả “hoa hồng” nhân dân tệ Trung Hoa để tệ với nhân dân trong nước nữa! Nhưng có bao nhiêu người tự hỏi bản thân rằng những đồ vật trong nhà có bao nhiêu thứ made in Vietnam? Thoát Trung bắt đầu từ mỗi gia đình, mỗi cá nhân mang ý thức ấy và lan toả. Thoát Trung bắt đầu từ hành động cụ thể hoá ý thức thoát Trung. Là sẵn sàng học cách người Trung Quốc đoàn kết một giá, một phong cách bán hàng; nhưng cũng sẵn sàng từ chối ngay cách làm việc phụ thuộc điểm đầu chuỗi sản xuất luôn phụ thuộc vào “quốc gia có đường biên giới với Quảng Ninh”. Chỉ viết về thoát Trung, đã có kẻ dè bỉu, mỉa mai. Chỉ quyết vài chuyện để thoát Trung trong mối quan hệ cá nhân đã có thể rạn nứt một số quan hệ lâu năm, thậm chí mất bạn. Và cả chuyện “quan trên trông xuống” bởi cũng có nhiều quan một lòng hướng về phương Bắc. Nhưng nếu không thoát Trung thì cơn lịm dần mà “bẫy nợ” Tàu giăng như chiếc thòng lọng sẽ siết lại tiếp. Nếu không tự lực thì nền kinh tế sẽ què quặt và lại lần nữa phơi bày sự đứt gãy chuỗi sản xuất như ChinaVirus đã chứng minh. Càng không tự cường thì bẫy thu nhập trung bình sẽ là nỗi ám ảnh dài hạn của quốc gia chuyên xuất khẩu lao động, kể cả xuất khẩu qua Tàu. Thoát Trung! Không chỉ là miệng nói mà cần cả tay làm. Thoát Trung! Không chỉ là tư duy mà cần cả hành động. Thoát Trung! Không chỉ là dám bày ra những hạn chế của bản thân mà lắng nghe cả những góp ý trái chiều về “sự vĩ đại Trung Hoa” mà lực lượng Hoa Nam vẫn hàng ngày ra rả. Thoát Trung! Trước hết là nhận diện lại “con người bên trong” của mình có đủ một tâm thế Việt Nam không cần ngạo nghễ; mà từng bước tự nhiên nói không với lần lượt những gì bất hợp lý made in China hay không!  
......

Hậu Covid-19: Cơ hội không để mất cơ hội

Chu Hảo - vandoanviet.blogspot.com|   Đây là thời điểm thoát Trung thuận lợi nhất, chỉ cần thoát khỏi nỗi sợ hãi thôi.“Một dân tộc tìm cách né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì dân tộc đó sẽ lãnh đủ cả hai thứ: cả chiến tranh và sự nhục nhã.” Cho đến hôm nay chúng ta có cơ sở để hy vọng đại dịch Covid-19 ở Việt Nam sẽ được khống chế một cách cơ bản vào khoảng giữa tháng 5, khi còn dưới 20 người vẫn đang phải điều trị và khoảng 30 ngày liên tục không xuất hiện ca nhiễm nào trong cộng đồng. Đó là một thành tích kỳ diệu, xứng đáng được cả thế giới ngưỡng mộ. Cũng vì vậy mà Chính phủ và các học giả đã bắt đầu bàn đến các cơ hội to lớn đang mở ra và đề xuất các giải pháp tận dụng để phát triển đất nước, như bạn đọc có thể thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng mấy ngày qua (xem các bài của Phạm Chi Lan, Trần Văn Thọ, Nguyễn Trung, Nguyễn Quang Dy, Vũ Minh Khương, Nguyễn Ngọc Chu, v.v.). Tôi tán thành hầu hết các ý kiến ấy, sau đây chỉ xin được chia sẻ với bạn đọc ý kiến riêng của mình về một vài khía cạnh khác. 1. Theo tôi cơ hội lớn nhất đối với chúng ta lần này là Cơ hội không để tuột mất cơ hội. Chắc các bạn còn nhớ những lời nhận xét đau lòng đại thể như “Việt Nam là đất nước không muốn phát triển (?!)”, luôn đi liền với “Việt Nam là chuyên gia bỏ lỡ cơ hội”. Trong bài viết gần đây, GS Trần Văn Thọ chỉ nhắc đến hai cơ hội vào năm 1975 và 1990; nhưng cựu Đại sứ Nguyễn Trung thì thấy nhiều hơn, bắt đầu từ khi xuất bản cuốn “Thời cơ vàng” (NXB Trẻ, 2010) cho đến tận gần đây, cứ mỗi lần xuất hiện một thách thức mới là Nguyễn Trung lại đau đáu một “cơ hội vàng” cho đất nước, nhưng rồi cứ mỗi lần hy vọng lại là một lần thất vọng… “Cái dớp bỏ lỡ cơ hội” này sẽ mãi mãi ám ảnh chúng ta chừng nào cái thói “kiêu ngạo cộng sản” của các nhà lãnh đạo (như Lê-nin đã nhận ra trong nội bộ đảng của mình từ ngay từ những năm đầu của Cách mạng tháng Mười, và Lý Quang Diệu viết về các nhà lãnh đạo Việt Nam sau 1975 trong hồi ký của mình); và chừng nào dân chúng vẫn còn “tự sướng” coi Việt Nam là “lương tâm của thời đại”, là “rốn của Vũ trụ” như sau các chiến thắng năm 1954 và năm 1975. May thay lần này Covid -19 đã làm cho dân ta, nhất là tầng lớp tinh hoa, thấm thía rằng chẳng có gì là vĩ đại tuyệt đối cả, chẳng có gì là chắc chắn tuyệt đối cả; nhưng sinh mạng và quyền được sống của mỗi con người, cũng như chủ quyền và lợi ích của mỗi quốc gia là tuyệt đối, là vĩnh cửu. Có lẽ vì vậy mà thói kiêu ngạo và ngông nghênh vỗ ngực tự hào hình như giảm hẳn. Đó là cơ sở để chúng ta tin rằng cái “dớp bỏ lỡ cơ hội” lần này sẽ được hóa giải. Mong lắm sao! 2. Cơ hội thứ hai mà Covid-19 mang lại cho chúng ta có thể là cơ hội ngàn năm có một: Cơ hội thoát Trung. Ở đây thoát Trung có ý nghĩa cụ thể là: Thoát khỏi âm mưu thâm độc và nhất quán của bè lũ cầm quyền Trung Hoa đại lục từ xưa đến nay nhằm thôn tính đất nước ta; liên tục xâm phạm không gian sinh tồn gồm lãnh thổ và lãnh hải của dân tộc ta; luôn tìm cách bóp nghẹt nền kinh tế và lũng đoạn hệ thống chính trị của đất nước ta; đầu độc tinh thần và phá hoại nền văn hóa văn hóa - đạo đức của nhân dân ta. Có một bộ phận không nhỏ đồng bào ta, cả trong tầng lớp lãnh đạo và giới tinh hoa, vẫn còn mơ hồ, hoặc bị khống chế vì đã bị mua chuộc, nên không nhận ra hoặc không dám nói công khai ra sự thật kinh hoàng này; không thoát ra khỏi cái vòng kim cô “đồng ý thức hệ”, với “16 chữ vàng” và “bốn tốt” lừa mị thâm hiểm, của bọn cướp toàn cầu ngồi ở Trung Nam Hải. May thay Covid-19 làm cả thế giới bừng tỉnh, nhất là nước Mỹ, trước tham vọng của bè lũ bá quyền Bắc kinh đang vội vàng vươn lên thành bá chủ thiên hạ bằng những thủ đoạn hèn hạ nhất, độc ác nhất. Toàn thế giới giờ mới có dịp làm cho chiếc mo ô nhục che mặt bè lũ ấy rơi xuống đất, và đồng lòng lên án, tẩy chay và trừng phạt chúng. Có lẽ nào nhân dân ta lại không có cách gì tận dụng “cơ hội vàng” này để thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ không bao giờ muốn Việt Nam trở thành một nước Độc lập, Tự cường? Hình như có một nỗi sợ vô hình khi đối mặt bọn bá quyền Bắc Kinh vẫn bao trùm đâu đó. Nỗi sợ ấy hoàn toàn phi lý. Thời chống quân Nguyên, thế và lực của nước ta yếu hơn nhiều so với kẻ xâm lược, mà ông cha ta đâu có sợ? Lúc ấy chỉ có lòng dân là cứu được nước, cũng như bây giờ chỉ có trên dưới một lòng nước ta mới vượt qua Covid-19 một cách đáng ghi nhận. Nỗi sợ sẽ làm ta dễ cam chịu. Hãy nhớ lời nhắn nhủ của Winston Churchill (Thủ tướng Anh thời chiến tranh Thế giới thứ hai): “Một dân tộc tìm cách né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì dân tộc đó sẽ lãnh đủ cả hai thứ: cả chiến tranh và sự nhục nhã.” Mọi tín hiệu từ nhiều phía cho thấy đây là thời điểm thoát Trung thuận lợi nhất, chỉ cần thoát khỏi nỗi sợ hãi thôi. 3. Cơ hội thứ ba mà Covid-19 đem lại, mà chúng ta phải quyết không để tuột khỏi tầm tay, cũng rất quan trọng. Đó là, cũng như đối với các nước khác, nó làm bộc lộ một cách bất ngờ nhất những điểm yếu và mạnh trong hệ thống quản trị đất nước để tìm được “đột phát khẩu” cho phát triển. Tôi tán thành với ý kiến của GS Trần Văn Thọ cho rằng, điểm yếu nhất của nước ta hiện nay là nguy cơ tụt hậu và ông đề xuất giải pháp “Chống tụt hậu như chống giặc” để khắc phục “cái yếu nội lực Việt Nam là cơ cấu hành chánh, tinh thần trách nhiệm của quan chức, và sự tương tác không mấy thuận lợi của doanh nghiệp và dân chúng đối với các chính sách của nhà nước”. Là người am hiểu và tinh tế ông chỉ nói đến thế, nhưng có lẽ ta nên hiểu rằng ông đang đề cập đến vấn đề cải cách thể chế chính trị mà bản thân đảng cầm quyền cũng từng nói, nhưng chưa làm được nhiều. Ông cũng nhắc đến ý kiến của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhấn mạnh trong thư gửi cho Bộ Chính trị năm 1995 rằng trong bốn nguy cơ đang phải đối mặt thì nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa là nguy cơ quan trọng nhất. 25 năm trôi qua mà nguy cơ ấy vẫn còn nguyên đó. Coi là tụt hậu là giặc thì các biện pháp thời chiến dễ được toàn dân đồng lòng và tuân thủ, thế thì biết đâu ta lại thắng to!? Tuy vậy cũng nên nhớ lời nói chân thành của Cố Phó Thủ tướng Nguyễn Cơ Thạch với GS Lê Xuân Khoa tại Mỹ năm 1990: “Chúng tôi đánh nhau thì giỏi, nhưng quản trị [đất nước] thì tồi lắm! Không phát triển đất nước được”. Nếu còn sống đến tận hôm nay, liệu Ông vẫn bảo lưu ý của mình?  
......

Tham vọng quá tầm của Tàu cộng

Đỗ Ngà| Một vành đai một con đường là dự án mà Trung Cộng muốn xây dựng một chuỗi những quốc gia Á- Âu phụ thuộc vào Trung Quốc bằng thứ bẫy nợ nguy hiểm. Và đó cũng là cách mà Trung Quốc muốn gây ra sức ảnh hưởng của mình lên các nước trên thế giới. Bẫy nợ nó khó phát tác với những nước trong sạch, nhưng là công cụ rất hữu hiệu cho những quốc gia tham nhũng. Chính vì vậy, Trung Cộng muốn vét những nước tham nhũng trói vào sợi dây “vành đai” của nó là một dự án khả thi. Đây là sáng kiến của Tập Cận Bình, quả thật cái đầu ông này rất cao thâm chứ không phải vừa. Với dân số gấp 2 lần dân số nước Mỹ và EU cộng lại, thế nhưng GDP của Trung Cộng thấp hơn 2 nền kinh tế kia khá xa. Dân số đông là một lợi thế, nếu nâng tầm mức sống lên 2 lần hiện nay thì Trung Cộng có thể đe dọa vị trí thống trị của 2 nền kinh tế lớn kia. Như ta biết, để tiệm cận GDP của Mỹ và EU thì Trung Cộng phải vượt qua bẫy thu nhập trung bình trước đã. Tuy nhiên, với tham vọng to lớn của mình, Trung Cộng quyết bằng mọi giá phải đánh bại sự thống trị của Mỹ trên mọi phương diện chứ không riêng gì kinh tế. Được biết mới đây người đứng đầu Sàn giao dịch vàng Thượng Hải, ông Wang Zhenying, không giấu diếm tham vọng của Bắc Kinh khi phát biểu rằng “Sự phát triển của thương mại quốc tế đòi hỏi một loại tiền tệ mới, không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào”. Tham vọng này đã được chính phía Trung Cộng trước đó cũng đã nhiều lần nhắc đến, chẳng qua nay ông này chỉ nhắc lại. Được biết ngay năm 2014, Tập Cận Bình đã lôi kéo được 4 nước lớn khác gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Nam Phi thành lập Ngân hàng Phát triển Mới New Development Bank (NDB) và một quỹ dự trữ 100 tỷ đô la. Trung Quốc đóng góp hơn 40% vào quỹ đó như muốn lập nên một cuộc chơi mới. “Quân tử trả thù, 10 năm chưa muộn” là câu nói cửa miệng của người Trung Quốc, và tất nhiên Trung Cộng cũng muốn đồng Yuan của mình sẽ lật đổ đồng đô la Mỹ. Đây quả là tham vọng rất lớn, trước mắt 20 năm thì không thể nhưng xa hơn thì khó nói. Vậy nên, Mỹ cần phải làm gì để Trung Cộng không thể lật đổ mình chứ nếu nuông chiều nó thì có ngày phải ôm hận. Chính vì lẽ đó nước Mỹ mới cần tổng thống Trump. Thực tế kích thước GDP của Trung Quốc lớn thật, nhưng làm chủ cuộc chơi trên thị trường giao dịch ngoại hối và thanh toán quốc tế từ xưa đến nay vẫn là đồng đô la Mỹ. Hiện nay đồng Đô la Mỹ chiếm 88% lượng giao dịch trên thị trường ngoại hối trên toàn cầu nhưng đồng Yuan Tàu thì chỉ chiếm 2,12%. Rất khiêm tốn. Trước khi đồng nhân dân tệ có thể trở thành một loại tiền tệ toàn cầu, thì nó phải thành công như một loại tiền tệ dự trữ trước đã. Trung Cộng biết thế nên họ đã nỗ lực và ngày 30 tháng 11 năm 2015, IMF đã công nhận đồng Yuan là đồng tiền thứ 5 trong rổ tiền tệ quốc tế sau đồng đô la Mỹ, đồng EURO của EU, đồng Bản của Anh Quốc, và đồng Yen của Nhật. Được biết cho đến nay trong kho dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng Trung ương trên toàn cầu tương đương 6.700 tỷ đô nhưng trong đó có đến 62,25% là đô la Mỹ, 20,26% là đồng EURO, và đồng Yuan Tàu chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn với 1,84%, thua cả đồng Yen Nhật với 4,97%. Như vậy, để đồng Yuan tàu lật đổ đồng đô la Mỹ thì có thể nói khó vô cùng, nếu không muốn nói là không thể. Thế nhưng Trung Quốc vẫn muốn lật, chứng tỏ nước Tàu có tham vọng rất lớn và chắc chắn họ sẽ vạch ra lộ trình lâu dài để đạt được mục đích này. Khi mỗi người muốn chuyển tiền liên ngân hàng từ nước này đến nước khác, thì thông thường ngân hàng chuyển sẽ hỏi mã SWIFT code của ngân hàng nhận. Ai gởi tiền cho con ăn học ở nước ngoài, hay ở nước ngoài gởi tiền về Việt Nam cũng vậy, cũng đều phải biết mã SWIFT code này. Vậy SWIFT là gì? Đó là Hiệp hội Viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunications – SWIFT). Nó là sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và các nước ở Âu Châu. Được thành lập vào năm 1973. SWIFT sử dụng một nền tảng truyền thông độc quyền được tiêu chuẩn hóa để tạo điều kiện cho việc truyền thông tin về các giao dịch tài chính. Hiện nay SWIFT kiểm soát đến 40% giao dịch toàn cầu và có khoảng 16 triệu lượt yêu cầu thanh toán quốc tế mỗi ngày, trong đó hết 90% là lệnh giao dịch bằng đồng đô la. Như vậy trong 3 nền kinh tế lớn là Mỹ, EU và Trung Quốc thì hiện Mỹ và EU đang chơi chung. Đang nắm phần lớn dòng chảy tiền tệ trong thanh toán quốc tế trên thê giới, nếu muốn lật đổ kết cấu này phải nói khó vô cùng đối với Trung Quốc. Công cụ SWIFT rất lợi hại, Mỹ có thể dùng nó để chặn ngay việc mua bán của các chính quyền độc tài một cách dễ dàng. Ví dụ như Iran muốn mua lương thực, thế nhưng Mỹ lại cấm SWIFT nhận lệnh giao dịch bằng đô la của quốc gia này thì xem như Iran có đô cũng khó mà mua được gì. Đó là một trong những công cụ giúp Mỹ cấm vận nhiều nước độc tài thù địch. Còn Trung Cộng thì họ không thể nào có công cụ này để làm chủ cuộc chơi. Hiện nay có đến 50% lượng đô la đã phát hành được sử dụng bên ngoài nước Mỹ, và có gần 40% nợ của thế giới được phát hành bằng đô la. Vì thế nên các ngân hàng nước ngoài cần rất nhiều đô la để tiến hành kinh doanh. Được biết trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Các ngân hàng ngoài nước Mỹ có khoản nợ tương đương 27 nghìn tỷ đô la phải thanh toán quốc tế bằng ngoại tệ thì đã có đến 18 nghìn tỷ đô la là bằng đô la Mỹ. Như vậy cuộc khủng hoảng tài chính thế giới không những không khiến đồng đô la ít sử dụng mà ngược lại, nó còn khiến cho đồng tiền này được sử dụng rộng rãi hơn. Năm 2018, các ngân hàng của Đức, Pháp và Anh nắm giữ nhiều khoản nợ bằng đô la hơn so với tiền tệ của chính họ. Điều này đồng Yuan Tàu không thể nào có được. Đứng trước khủng hoảng kinh tế vì COVID-19, lo sợ thế giới lại một lần nữa phụ thuộc đồng đô la hơn nên chính quyền Trung Quốc muốn kêu gọi thế giới từ bỏ đô la tham gia vào cuộc chơi mới với Yuan Tàu của họ chăng? Khó lắm, đó chỉ là hoang tưởng. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://vn.sputniknews.com/…/202005018994890-sang-giao-dic…/ https://www.thebalance.com/world-currency-3305931 https://www.scmp.com/…/chinas-yuan-more-popular-reserve-cur…  
......

Trách nhiệm nào của lãnh đạo Bộ Y Tế trong làn sóng nâng giá máy xét nghiệm PCR?

Nguyen Ngoc Chu|   I. SỰ BẤT LƯƠNG XÉ BỎ GIỚI HẠN 1. Ngày 22/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Bộ CA đã khởi tố vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) TP Hà Nội, bắt tạm giam Giám đốc Trung tâm CDC Nguyễn Nhật Cảm và 6 đối tượng liên quan. Tội của ông Nguyễn Nhật Cảm là đã thông đồng nâng giá máy xét nghiệm (Realtime PCR) từ 2,3 tỷ lên 7 tỷ đồng (http://cadn.com.vn/…/75_223766_bat-tam-giam-giam-doc-cdc-ha…).   Việc chiếm đoạt 4,7 tỷ đồng tiền ngân sách trong lúc cả nước căng mình chống đại dịch vius Vũ Hán đã làm rung động cả xã hội. Đó là một số tiền quá lớn trong cảnh cùng khó của người dân - phản ánh sự bất lương đã không còn giới hạn. Giám đốc Trung tâm Nguyễn Nhật Cảm và cộng sự gian lận bị bắt giử. 2. Nhưng sự bàng hoàng không dừng lại. Tại 15 địa điểm đã mua máy ở một loạt các địa phương khác cũng đã xảy ra hành động chiếm đoạt tương tự. Các máy xét nghiệm được nâng giá từ 1,5 tỷ đồng lên 5-8,4 tỷ đồng (https://tuoitre.vn/loan-gia-mua-may-xet-nghiem-covid-19-nhi…). Sau khi ông Nguyễn Nhật Cảm bị bắt, tức thì nổi lên cơn sóng hoảng loạn chạy tội. Một số thì đàm phán lại giá, giảm đến cả 2-3 tỷ đồng. Một số thì chuyển sang “mượn máy”. Cả xã hội mới sực tỉnh, rằng mình đã bị cướp đoạt ở mức độ không ngờ - đạt độ táng tận lương lâm. Giọt nước mắt nấc lên xin chịu trách nhiệm và xin trả lại máy cho người bán của Giám đốc Sở Y tế Quảng Nam Nguyễn Văn Hai cho nhiều suy nghĩ trĩu lòng. Không phải oan ức. Cũng không phải ăn năn. Vì chiếm đoạt tiền bạc nhà nước không phải là lần đầu. Cũng không phải lớn nhất. Mỗi máy nâng khống giá đến 2 - 6 lần. số tiền nâng khống cũng rất lớn, đến 5-6 tỷ đồng. So với hộ gia đình đồng bào vùng cao tiêu pha cả nhà một ngày chỉ có 100 000 đồng, thì số tiền chiếm đoạt mỗi máy 5 tỷ đồng sẽ nuôi sống 50 000 hộ gia đình trong một ngày! 3. Nhưng tính về số lần nhân khống và số tiền chiếm đoạt thì phi vụ ở CDC Hà Nội hay ở Sở Y tế Quảng Nam chưa ăn nhằm gì. Không biết đã là kỷ lục chưa, nhưng nâng giá gấp 1300 lần ở vụ Tinro đã làm cho ai nghe đến cũng phải xanh mặt. Lô hàng thanh lý chỉ trị giá 100 triệu mà nâng giá thành 130 tỷ đồng (https://tuoitre.vn/nang-gia-thiet-bi-lan-len-gap-1300-lan-d…). Chỉ nâng giá có 18 lần, nhưng giá trị lớn, từ 500 tỷ lên 8900 tỷ của vụ AVG làm người to gan nhất cũng phải vỡ mật. Chỉ riêng các quan to đến mức bộ trưởng như ông Nguyễn Bắc Son và ông Trương Minh Tuấn nới có bản lĩnh chịu đựng được sấm sét. Nếu tư nhân làm chủ đầu tư thì quãng đường sắt trên cao 13,5 Km Cát Linh – Hà Đông không thể vượt giá 300 triệu USD. Nâng giá hơn 3 lần, từ 300 triệu USD lên 968 triệu USD của đường sắt Cát Linh – Hà Đông đã nốc ao không chỉ hàng vạn người, mà làm lao đao cả nền kinh tế Thủ Đô trong nhiều chục năm vì phải “kéo cày trả nợ”. Vụ áp phe thế kỷ đường sắt Cát Linh – Hà Đông cướp đi số tiền có thể nuôi cả 50 000 hộ gia đình đồng bào nghèo rẻo cao trong suốt khoảng 8 năm 5 tháng (668 triệu USD x23000 đồng=15364 tỷ đồng/10 0000 đồng/50 000 = 3072 ngày/365= 8,416 năm). Đâu chỉ có những dự án đã nêu trên. Còn hàng ngàn những dự án khác nữa. Phải hỏi ngược lại, là có dự án nào của nhà nước mà không bị nâng giá? Cho nên, cảm nhận những giọt nước mắt trong các vụ án máy xét nghiệm PCR vừa qua như thế nào đây? Chỉ mua một chiếc máy mà khai khống để chiếm đoạt một lúc cả 500 tấn gạo, trong khi nhân dân lâm đại nạn, khi đồng bào góp từng bó rau quả trứng chống đại dịch, trong khi người nghèo xếp hàng dài tại máy tự động để nhận 1,5-3kg gạo - là sự tham nhũng đã đạt đến tột cùng khốn nạn. Lương tâm đã đến chỗ táng tận. Đó là sự bất ngờ đến sững sờ, khi đất nước lâm vào hoàn cảnh nguy nan, đe dọa giống nòi, lại bị những mũi dao từ trong bụng đâm ra. Những mũi dao tự mình đâm chính mình. Nhưng còn muôn vạn mũi dao như thế đang chờ phía trước - khi kẻ thù đã toan tính giăng bẫy khắp mọi nơi. II. TẠI SAO LÃNH ĐẠO BỘ Y TẾ LẠI KHÔNG BIẾT GIÁ MÁY PCR? Máy xét nghiệm PCR không phải là cái kim. Không phải là bó rau. Cũng không phải là vũ khí tuyệt mật. Ngoại trừ PTT Vũ Đức Đam kiêm nhiệm, sao các ông Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long, Đỗ Xuân Tuyên, Trương Quốc Cường và Nguyễn Trường Sơn không ai biết giá? Đừng biện hộ rằng Bộ trưởng và Thứ trưởng không thể biết hết giá, và không cần phải biết giá. Người phụ nữ chịu trách nhiệm hậu cần cho gia đình, cầm túi tiền hạn hẹp, họ phải đi khảo giá biết giá bao nhiêu mặt hàng? Từ bó rau, viên thuốc… cho đến chiếc máy gia dụng… và đến cả chiếc ô tô? Ở đâu họ cũng suy tư. Ở đâu họ cũng đắn đo. Đã làm lãnh đạo Bộ thì phải biết giá. Từ thượng vàng cho đến hạ cám. Chưa biết thì sẽ biết ngay nếu cần. Điều đó không khó trong thời đại công nghệ internet hiện nay. Thế mới xứng với tài năng của người đứng đầu Bộ. Thế mới xứng với lòng tin được giao cả số phận một Bộ với tài sản khổng lồ về tiền bạc và con người trong tay. Đáng ra lãnh đạo Bộ Y tế phải hướng dẫn cho các cấp dưới phải tìm mua máy ở những đâu, với giá như thế nào. Lãnh đạo Bộ Y tế không thể từ chối trách nhiệm trong đợt sóng ma quỷ mưu toan chiếm đoạt tiền bạc của nhân dân từ nâng giá máy xét nghiệm PCR. Nguyên nhân nào? Không được báo cáo về giá? Phân cấp quyền hạn và trách nhiệm? Tiêu tiền không phải của mình? Yếu kém về trình độ? Hoa hồng? Há miệng mắc quai? Rừng nào cọp nấy?... tất cả tổng hợp lại đã làm nên các dự án như Đường sắt Cát linh – Hà Đông, AVG…và PCR. III. TIÊU CHUẨN NÀO CHO VỊ TRÍ BỘ TRƯỞNG BỘ Y TÊ? Vụ nâng giá máy xét nghiệm PCR đã đóng góp thêm một khẩn cầu cấp thiết, rằng Bộ Y tế rất cần một Bộ trưởng thực sự giỏi. 1. GIỎI CHUYÊN MÔN LÀ TIÊU CHUẨN QUYẾT ĐỊNH Với những ngành liên quan đến khoa học tự nhiên như Y tế, người đứng đầu ngành phải là những người rất giỏi về chuyên môn. Vào thời của mình, không phải nhất thiết là xuất sắc số 1 trong cả nước, nhưng là trong nhóm xuất sắc số 1 của cả nước. Không chỉ giỏi chuyên môn ở ngành hẹp mà giỏi ở cả ngành rộng. Đó thực sự là những con người tầm bác học. Chỉ có thể như thế mới vững tay lái không đưa ngành Y tế đi lạc hướng, đồng thời bắt kịp với trình độ chuyên môn cao ở các nước phát triển hàng đầu. Ở các nước TBCN, là nơi hoàn toàn tự do học thuật, trên nền tảng sở hữu tư nhân. Ở đó, các đơn vị cơ sở toàn quyền quyết định sự phát triển, nên lãnh đạo các đơn vị cơ sở thực sự là những người giỏi về chuyên môn, còn lãnh đạo ngành ở mức quốc gia cần thiên về tầm chiến lược quản lý. Nhưng ở Việt Nam, thì lãnh đạo Bộ quyết định đến cả hoạt động tác nghiệp của các đơn vị cơ sở. Vì thế không thể không yêu cầu giỏi về chuyên môn trên bình diện rộng của tầm hiểu biết bác học. Đó là điều cần lưu ý trong lựa chọn các Bộ trưởng ở Việt Nam. Điều này không chỉ đúng cho Bộ Y tế, Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học, mà còn nhiều Bộ khác nữa. Vài chục năm gần đây, các Bộ trưởng Bộ Y tế không phải là những nhà chuyên môn sáng láng, phần lớn cuộc đời lại bị điều đi làm quản lý các đơn vị khác chuyên môn, nên ảnh hưởng đến sự phát triển của Bộ Y tế. Chẳng hạn như ông Nguyễn Quốc Triệu từng giữ chức Phó chủ tịch rồi Chủ tịch UBND TP Hà Nội trước khi làm Bộ trưởng Bộ Y tế, nên chuyên môn bị mai một, đã không đóng góp được gì còn làm chậm bước tiến của ngành Y Việt Nam. 2. THỰC SỰ GIỎI CHUYÊN MÔN TẤT CÓ ĐẠO ĐỨC Trong các ngành khoa học tự nhiên, trong đó có Y học, ở mọi thời, những nhà khoa học giỏi đích thực - luôn là những người biết tuân thủ và trân trọng đạo đức chuẩn mực của xã hội. Tính nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học truyền cho họ điều đó. Nếu không nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học thì không bao giờ có được kết quả khoa học giỏi. Cho nên, người có thành tựu khoa học giỏi đích thực luôn là những người tuân thủ và tôn trọng các chuẩn mực được xã hội chắt lọc nhiều đời. Hệ quả kéo theo là đạo đức của họ luôn phù hợp với yêu cầu cao của mọi xã hội. Các cố Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giỏi chuyên môn và sáng ngời y đức của người thầy thuốc. Chỉ có từ khi nền kinh tế thị trường hoang dã xuất hiện, đã kéo theo sự băng hoại của xã hội, tác động tiêu cực lên một số Bộ trưởng Bộ Y tế, làm giảm uy tín của Lãnh đạo nghành Y tế. Không chỉ trong ngành Y, mà trong tất cả các ngành khoa học, những kẻ làm dơ bẩn khoa học chưa bao giờ là những người giỏi chuyên môn đích thực. Đó chỉ là những kẻ khoác áo khoa học. 3. THẾ NÀO LÀ KINH NGHIỆM THỰC TẾ? 3.1. Khoác một lý lịch dài về kinh nghiệm, ở nước ta, trong vấn đề bổ nhiệm nhân sự, là yêu cầu có hại nhiều hơn có lợi. Vì đó là kinh nghiệm giả tạo. Điều một nhân sự của Bộ Y tế đi làm bí thư huyện, phó chủ tịch hay chủ tịch tỉnh… trong một vài năm chỉ là màn kịch. Vừa không học được việc mới. Vừa quên chuyên môn cũ. Đó không phải là kinh nghiệm. 3.2. Đối với vị trí Bộ trưởng Bộ Y tế, kinh nghiệm thiết thực chính là điều hành các bệnh viện lớn và các trường đại học lớn. Như tướng mặt trận làm tổng tư lệnh, chính hiệu trưởng các đại học Y, giám đốc các bệnh viện lớn trên cả nước là các ứng viên tiềm năng ngồi vào vị trí Bộ trưởng Bộ Y tế. 3.3. Những người giỏi hơn nữa, bước một bước lên ghế Bộ trưởng từ chức Trưởng khoa hay Chủ nhiệm bộ môn. 3.4. Những siêu nhân, ngồi ngay vào ghế Bộ trưởng hay Tổng thống từ zero chức vụ và zero kinh nghiệm. Đó là trường hợp Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Đó là trường hợp Tổng thống Ukraine Zelensky. Lý lịch, chức vụ và kinh nghiệm là cánh cửa đóng cho tài năng trẻ xuất chúng. 4. TRONG GIỎI CHUYÊN MÔN TẤT SẼ TÌM ĐƯỢC GIỎI VỀ QUẢN LÝ Sẽ có phản biện rằng giỏi chuyên môn chưa chắc đã giỏi quản lý. Đúng. Nhưng trong 10 người giỏi về chuyên môn tất có 1/2 không tồi về quản lý, tất có 1/4 giỏi quản lý, tất có 1/10 rất giỏi về quản lý. Cho nên chọn Bộ trưởng phải chọn trong số những người có chuyên môn giỏi nhất. 5. TRỌNG CHUYÊN MÔN KHÓ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI CÁC NHÂN TỐ KHÁC Người giỏi chuyên môn lấy chuyên môn làm trọng. Vì thế những nhân tố như lý lịch, quan hệ, quyền lực và quyền lợi không được họ ưu tiên bằng chuyên môn. Những người lấy lý lịch, quan hệ, quyền lực, quyền lợi làm nhân tố áp đảo trước chuyên môn - là những người không thực sự giỏi về chuyên môn. Có thể chỉ khoác áo chuyên môn! IV. MỞ RỘNG CỬA VÀ MẠNH DẠN CẢI CÁCH 1. Tuổi 40 không thể gọi là trẻ. Đó là tuổi đủ chín chắn cho bất cứ vị trí nào, bao gồm cả vị trí Chủ tịch nước - dù chưa một ngày kinh nghiệm. Đó là lúc cường thịnh của trí tuệ và sức khỏe. Khi có trí tuệ sáng láng thì bất chấp mọi nhân tố khác – bất chấp tuổi tác, bất chấp chức vụ, bất chấp kinh nghiệm, bất chấp lý lịch. 2. ‘Con mắt tinh đời nhất’ là tổng hợp con mắt của hàng triệu người, của toàn thể nhân dân. Cho nên cần thiết phải sinh ra một quy trình dân chủ của số lớn trong lựa chọn nhân sự. Chỉ có dân chủ ở số lớn mới là ‘con mắt tinh đời nhất’. Vì đó là ‘con mắt của số lớn’. Lớn đến hàng triệu mà không thể tiền bạc nào mua được. Lớn đến hàng chục triệu để không quyền lực nào có thể khuất phục. 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã rất vất vả trong chống dịch covid 19. Thế mà Thủ tướng lại còn phải giải quyết những khó khăn do các Bộ đẻ ra. Chẳng hạn như Thủ tướng phải xoay như chong chóng trong vụ xuất khẩu gạo vừa qua. Nhiệm vụ của cấp Bộ mà lại buộc Thủ tướng phải xử lý, thì làm sao có được một Chính phủ mạnh? Hãy mở rộng cửa cho các ứng viên trẻ. Hãy áp dụng quy luật số lớn. Hãy tranh cử 1 mất 1 còn. Ngay trong các Bộ còn nhiều nhân tài chưa có cơ hội bộc lộ khả năng. Trong Nhân dân lại còn nhiều người tài giỏi khác nữa. Làn sóng nâng giá máy xét nghiệm PCR trong lúc cả nước gặp đại họa dịch covid 19 cho thấy tham nhũng đã đạt đến mức cuối cùng của khốn nạn. Đây không phải là hiện tượng nhất thời của ngành Y. Đây không phải là cá biệt của xã hội. Đây là căn bệnh sinh ra từ Cấu trúc Hệ thống của Thể chế. Cho nên trị tham nhũng bằng cách bắt bỏ tù không bao giờ hết. Phải trị đúng bệnh. Phải Cải cách Thể chế. Biết là rất khó. Nhưng kiên trì chờ đợi. Đất Nước là của chung của cả Dân Tộc.  
......

Chuyện cổng Dinh Độc Lập ngày 30.04.1975

Hình minh họa Việt Tân| "Những tấm hình hay những đoạn phim về cảnh chiến xa CS ủi sập cổng dinh Độc Lập để vào bên trong dinh, đều được chụp từ bên trong chụp ra. Có hai điểm cần chú ý: Thứ nhứt, cổng dinh phải đóng thì xe tăng mới ủi sập để đi vào. Thứ hai, nếu cổng đóng lại, tức cổng dinh chưa mở, thì người chụp hình hay người quay phim cảnh nầy, làm sao mà vào bên trong dinh Độc Lập trước xe tăng để chụp hình hay quay phim?" CHUYỆN CỔNG DINH ĐỘC LẬP NGÀY 30-4-1975 Trần Gia Phụng Tin tức báo chí của cộng sản Việt Nam (CSVN) đều viết rằng, khi tấn công dinh Độc Lập ở thủ đô Sài Gòn ngày 30-4-1975, chiến xa CS đã ủi sập cánh cổng dinh Độc Lập. Chẳng những thế, bộ Lịch sử Việt Nam do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Việt Nam (tức “bên thắng cuộc”) tại Hà Nội, phát hành tháng 8 năm 2017, cũng viết như thế. Bộ thông sử nầy rất đồ sộ, gồm 15 tập, tổng cộng trên 9,000 trang, do 30 giáo sư, tiến sĩ Sử học CSVN biên soạn. Trong 15 tập nầy, tập thứ 13, do PGS-TS [phó giáo sư tiến sĩ] Nguyễn Văn Nhật chủ biên, chương VI, trang 535 viết nguyên văn như sau: “Thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm dinh Độc Lập – dinh lũy cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, chiếc xe tăng mang số hiệu 390 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203 dẫn đầu đội hình tiến công của Quân đoàn 2, húc đổ cánh cổng sắt của dinh Độc Lập …” Bộ sách nầy được xem là bộ chính sử căn bản của chế độ CSVN, làm nền tảng cho các sách giáo khoa lịch sử của CSVN. Dưới chế độ CSVN thế kỷ 21, các giáo sư tiến sĩ với các loa phát thanh phường, khóm, làng xã nói cùng một nhịp điệu như nhau, đúng như ý kiến của nhà văn Pháp André Gide vào thập niên 30 thế kỷ trước, cách đây gần 90 năm. Theo lời mời của nhà cầm quyền Liên Xô, Gide đến Moscow (Moscou), thủ đô của Liên Xô, tham dự tang lễ của nhà văn Maxime Gorki. Khi trở về Pháp, ông viết tác phẩm Retour de l’URSS, ấn hành năm 1936 ở Paris. Trong sách nầy, ông đã viết rằng, ở nước Nga CS, chỉ cần nghe một người Nga nói gì thì đủ biết 200 triệu dân Nga nói gì. Ngày nay ở Việt Nam không lẽ cũng có thể nói chỉ cần nghe loa phóng thanh phường xã thôn xóm CS nói gì, thì cũng có thể đoán biết các giáo sư tiến sĩ CS nói gì? Trở lại nguồn tin về cánh cổng dinh Độc Lập Sài Gòn ngày 30-4-1975 do CSVN đưa ra, báo chí thế giới cũng đều viết theo như thế. Tuy nhiên, trên lý luận, xin chú ý, mới chỉ trên lý luận cho vui mà thôi, có hai câu hỏi cần được đặt ra là: 1) Lúc đó, cựu đại tướng Dương Văn Minh đang có mặt trong dinh Độc Lập mà theo lời ông là để chờ đợi quân CS đến. Chờ “khách” thì phải mở cổng dinh để đón mời “khách” vào. Nếu đóng cổng dinh, thì “khách” làm sao mà vào được? 2) Những tấm hình hay những đoạn phim về cảnh chiến xa CS ủi sập cổng dinh Độc Lập để vào bên trong dinh, đều được chụp từ bên trong chụp ra. Có hai điểm cần chú ý: Thứ nhứt, cổng dinh phải đóng thì xe tăng mới ủi sập để đi vào. Thứ hai, nếu cổng đóng lại, tức cổng dinh chưa mở, thì người chụp hình hay người quay phim cảnh nầy, làm sao mà vào bên trong dinh Độc Lập trước xe tăng để chụp hình hay quay phim? Hay những người nầy trổ tài chui cổng hoặc trèo tường để vào hành nghề? Đó mới chỉ là nói lý cho vui thôi, thưa độc giả. Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway). Lúc đó, vào năm 1975, giáo sư Thành còn trẻ, nhà ở vùng cầu Sài Gòn, ngồi trên yên sau xe vespa của phụ thân, tò mò chạy theo sau đoàn quân của CS, để theo dõi cho biết chuyện gì sẽ xảy ra khi quân CS vào thành phố… Ông Thành đã chứng kiến tận mắt đầy đủ sự việc tại cổng dinh Độc Lập hôm đó. Theo lời giáo sư Thành kể lại, sáng 30-4-1975, cổng dinh Độc Lập đã mở sẵn. Xe thiết giáp CS khi đến dinh Đôc Lập, chạy thẳng vào trong dinh, không có gì trở ngại. Vào bên trong rồi, có thể do lệnh trên, tài xế lại lái xe thiết giáp chạy trở ra ngoài. Khi đó, lính CS đóng cổng dinh, quàng dây xích sắt, nhưng không khóa. Xe thiết giáp quay đầu trở lại, chạy đến tông sập cánh cổng dinh Độc Lập, rồi chạy vào bên trong, để cho các nhiếp ảnh viên chụp hình và quay phim. Giáo sư Đỗ Văn Thành kể lại câu chuyện trên cho người viết tại nhà bác sĩ Phạm Hữu Trác, phụ trách tạp chí Truyền Thông ở Montreal ngày 28-4-2007, nhân dịp ông Thành cùng gia đình từ Oslo (Na Uy) qua Montreal (Canada) tham dự Lễ ra mắt sách Kỷ niệm và suy ngẫm, bản dịch từ sách Souvenirs et Pensées của thân mẫu ông là bác sĩ Nguyễn Thị Đảnh tại TRUNG TÂM SAIM (Service d’ Adaptation et d’Integration de Montréal) do Khối Y giới Cao niên và Cơ sở Truyền Thông Montreal tổ chức. Ngoài lời trình bày trên đây của giáo sư Đỗ Văn Thành, ba tài liệu sau đây cũng trình bày câu chuyện gần như thế: 1) Bài báo “Sài Gòn trong cơn hấp hối 30-04-1975” của Nhan Hữu Mai, cận vệ của cựu thủ tướng Vũ Văn Mẫu, đăng trên http://sucmanhcongdong.info và được luân lưu trên các e-mail group. Trong bài báo nầy, ông Nhan Hữu Mai viết: “Khoảng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4, xe tăng cộng sản tiến vào dinh Độc Lập mà không gặp một sức kháng cự nào vì cổng chính đã được mở rộng từ trước”. 2) Thứ hai là bài “Dinh Độc Lập, ngày tháng đợi chờ” của Ý Yên, đăng trên DCVOnline.net ngày 10-04-2012, theo đó: “Lúc 11:15 ngày 30-4-1975, toán xe tăng Bắc Việt tới cổng dinh theo đường Thống Nhứt, trương cờ Mặt Trận GPMN. Một người lính trên xe ra lệnh cho lính gác khóa cánh cổng lại; anh lính chần chờ, quay vô hỏi lệnh viên sĩ quan trực, bị người bộ đội trên xe bắn chết tại chỗ. Một bộ đội khác nhảy xuống, khép cánh cổng, lấy khóa xích vòng chặt lại để chiếc T-54 rồ máy húc nghiêng cánh cổng màu xanh, dây xích bung ra. Đại liên trên xe và lính tùng thiết đồng loạt tác xạ dữ dội, làm như có sức chống trả từ trong dinh. Xe tăng tràn vô đến giữa sân cỏ, mấy người lính Bắc Việt nhảy xuống...” 3) Thứ ba, theo tác giả Huy Đức, trong sách Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, Saigon: Osinbook 2012, chương I: Ba mươi tháng Tư, mục: Sài Gòn trong vòng vây, tr. 32 thì sáng 30-4-1975, cựu tướng Nguyễn Hữu Hạnh đến nhà số 3 đường Trần Quý Cáp [dinh Hoa Lan] tìm tổng thống Dương Văn Minh nhưng không có; tướng Hạnh liền đến dinh Độc Lập, “vào thẳng dinh bằng cổng chính, cổng dinh mở, không có lính gác.” Lúc ông Hạnh đến, cổng dinh Độc Lập mở, không lính gác thì ngay sau đó, quân CS đến, đâu có ai đóng hay gác cổng? Chú ý: đây là tài liệu do một nhà báo CS trong nước viết. Hiện người nầy còn sống và hành nghề trong nước. Như thế, qua hai câu hai câu hỏi đặt ra từ đầu, qua câu chuyện kể của tiến sĩ Đỗ Văn Thành, và qua các bài báo trên đây, nhứt là qua tài liệu của một nhà báo CS, thì rõ ràng vào ngày 30-4-1975, cổng dinh Độc Lập đã mở sẵn, còn việc chiến xa CS ủi sập cổng dinh Độc Lập chỉ là một màn kịch do CS dàn dựng để tuyên truyền, bắt trẻ em học tập trong các sách giáo khoa lịch sử CS. Tài tình quá! Giống như xi-nê-ma Hồ Ly Vọng! Đây không phải là lần đầu CS đóng kịch. Năm 1954 cũng vậy. Các sách lịch sử CS đều đăng hình cờ đỏ của CS được bộ đội CS cắm trên hầm chỉ huy của thiếu tướng Pháp De Castries khi tấn công Điện Biên Phủ. Trận nầy kết thúc ngày 7-5-1954, kết thúc luôn cuộc chiến 1946-1954. Sau đó là hội nghị Genève, đưa đến hiệp định đình chiến và chia hai đất nước ở vĩ tuyến 17. Tuy nhiên điện báo Tuần Việt Nam ở trong nước, ngày 07-05-2009 đã đăng bài phỏng vấn thiếu tướng Lê Mã Lương, giám đốc Viện Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (CS), theo đó thiếu tướng Lương đã phủ nhận điều nầy. Thiếu tướng Lê Mã Lương cho biết, tại Điện Biên Phủ, chỉ có một lá cờ duy nhứt được cắm trên đồi mà CS gọi là đồi Him Lam (tức đồi cứ điểm Béatrice), còn lá cờ cắm trên nóc hầm của thiếu tướng De Castries lần đầu tiên xuất hiện trong bộ phim Việt Nam trên đường thắng lợi của nhà quay phim Liên Xô là Roman Karmen, tức cảnh lá cờ CS trên hầm chỉ huy của thiếu tướng De Castries chỉ là cảnh xi-nê-ma mà thôi, không có thật. Thiếu tướng Lê Mã Lương cho biết: “Sau khi Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam ghi nhận chính xác điều đó, chúng tôi đã cất lá cờ tung bay trên nóc hầm Đờ Cát trước đây có trưng bày ở bảo tàng”. Những chuyện tầm thường và rõ ràng như thế mà CS còn thay trắng đổi đen, theo chủ trương của đảng CS, huống gì là những sự kiện lịch sử trọng đại. Sử học CSVN chỉ để phục vụ chủ nghĩa CS, phục vụ đảng CS và phục vụ nhà nước CS. Vì vậy, ngày nay, trong nước thầy không muốn dạy sử, học trò không muốn học sử. Thế đó! “Học sử ngày nay đã chán rồi”. Không ai lạ gì lịch sử viết theo lệnh của đảng CSVN! Sử gia Trần Gia Phụng 30/04/2020    
......

Đừng biến Việt Nam thành quốc gia của tượng đài và lăng mộ.

Nguyen Ngoc Chu I. CHÁY NHÀ MỚI RA MỌI NHẼ VÀ PHÉP “MUỐN ĂN GẮP BỎ CHO NGƯỜI” Thế là rõ. Cháy nhà mới ra... mọi nhẽ. Phía sau của mục đích đặt tượng Lý Thái Tông là đặt tượng các chánh án của Tòa án Nhân dân Tỗi cao (TANDTC). “Văn phòng TAND Tối cao cho biết, đa số các ý kiến góp ý nhất trí với phương án xây dựng tượng các chánh án TAND Tối cao là tượng bán thân dáng đứng, có chân đế. Dự kiến tượng và khối phụ trợ được đúc bằng chất liệu đồng đỏ (nguyên khối), chân đế tượng được làm bằng đá tự nhiên. Kích thước tượng dự kiến cao 2,2m (bao gồm cả tượng, khối phụ trợ và chân đế; trong đó phần chân đế dự kiến cao 1,2m” (https://dantri.com.vn/…/tand-toi-cao-muon-dung-tuong-cac-co…). Tượng vua Lý Thái Tông chỉ là cái cớ. Đây là phép “Muốn ăn gắp bỏ cho người”. II. ĐÃ LÀ TÒA ÁN THÌ PHẢI QUANG MINH CHÍNH ĐẠI 1. Trong công văn 141/TANDTC-VP ngày 23/4/2020 đã ghi rõ là tượng vua Lý Thái Tông sẽ được “đặt tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, và Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp”. 2. Kinh phí dựng tượng vua Lý Thái Tông cũng đã được Nhà nước phê duyệt trong kế hoạch xây dựng trụ sở TANDTC như ông Nguyễn Quang Ngọc thừa nhận: “Được biết, thiết kế xây dựng tượng nhân vật tiêu biểu trong hoạt động xét xử Việt Nam nằm trong kế hoạch xây dựng trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt” (http://congly.vn/…/82-5-y-kien-lua-chon-vua-ly-thai-tong-la…). Ông Nguyễn Quang Ngọc là Phó chủ tịch Hội Lịch sử Việt Nam, một “quân cờ chính” trong ván bài “Chọn nhân vật tiêu biểu trong hoạt động xét xử Việt Nam”. tượng vua Lý Thái Tông 3. Nhưng sau khi tiếp thu ý kiến , Chánh án TANDTC Nguyễn Hoà Bình cho biết: - Chỉ đặt tượng vua Lý Thái Tông duy nhất ở TANDTC. - “Việc xây dựng tượng vua Lý Thái Tông sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp”. - “ Và không sử dụng ngân sách Nhà nước. Nếu xây dựng tượng thì cán bộ, công chức ngành toà án sẽ đóng góp kinh phí”(https://dantri.com.vn/…/tand-toi-cao-muon-dung-tuong-cac-co…). Lương của cán bộ, công chức ngành tòa án, theo mức lương hiện hành, thì rất eo hẹp. Vậy mà phải quyên góp để xây dựng tượng vua Lý Thái Tông thì có làm thêm khó khăn cho đời sống cán bộ công chức ngành tòa án không? Hay rồi vẫn biến báo sử dụng ngân sách đã được duyệt? 4. Muốn trở thành quan tòa để ngồi trên công đường xử án thì phải quang minh chính đại. Quang minh chính đại phải trở thành thuộc tính của các quan tòa. Ở ngôi vị của TANDTC lại càng phải quang minh chính đại. 5. Tại sao Chánh án TANDTC mới chỉ tiếp thu ý kiến của nhân dân chỉ một phần? Vẫn kiên trì đặt cho bằng được tượng vua Lý Thái Tông tại TANDTC? Hứa không dùng tiền từ ngân sách nhưng sẽ quyên góp? 6. Cho nên, không đặt tượng của vua Lý Thái Tông tại TANDTC. Để không tiêu tiền từ ngân sách. Để không phải quyên góp từ tiền lương của cán bộ công chức ngành tòa án. Để khỏi phải đối phó với xã hội đến mức dối lời, làm mất tính quang minh chính đại của tòa án. III. KHÔNG TẠC TƯỢNG CÁC CHÁNH ÁN 1. Ngành tòa án Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chưa làm được gì xuất sắc cho nhân dân, nếu không nói là còn rất nhiều khiếm khuyết. Vì đã để cho tình trạng án oan ngày một gia tăng. Số lượng án không giải quyết kéo dài nhiều năm. Đưa đến nhiều oan trái cho nhiều người dân trong nhiều năm. Đã có quá nhiều dẫn chứng mà không cần phải liệt kê ra ở đây. 2. Các cựu chánh án TANDTC , cũng từ năm 1945 đến nay, chưa có ai ghi được những thành tựu xuất sắc để trở thành huyền thoại. Đó là không nói đến phần khuyết điểm, để cho ngành tòa án xuống cấp nghiêm trọng như ở mức hiện nay. Vì ở dưới quyền điều hành của chánh án mà đã để lọt nhiều quan tòa có trình độ yếu, đạo đức kém mà vẫn ngồi xử ở công đường. Hậu quả là nạn ăn tiền trong xét xử trở thành quốc nạn, mang đến oan ức cho nhiều gia đình. Mức độ yếu kém của quan tòa đã xuống đến đáy, đến mức như ông chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đã xác nhận “viết một đằng tuyên một nẻo”, phải mời người đến “dạy viết chính tả, từng lỗi chấm phẩy”, thì nói chi đến trình độ để xử các vụ án phức tạp: “Đặc biệt, Chánh án tòa tối cao cũng chỉ ra nhiều trường hợp viết bản án cũng có lỗi về chính tả thậm chí viết một đằng tuyên một nẻo. Hoặc có trường hợp 2 bản án cùng số, cùng ngày nhưng khác nội dung khiến dư luận đặt câu hỏi về thẩm phán: “Ok thì nhẹ, không ok thì nặng”. Đây là thách thức lớn khi sắp tới ngành tòa án sẽ công khai bản án lên cổng thông tin. Cũng theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, trong năm 2017, ngành tòa án sẽ mở lớp tập huấn để viết bản án theo mẫu định sẵn. Lớp học này sẽ mời các giáo viên dạy văn đến dạy về chính tả, ngữ pháp và từng dấu chấm, dấu phẩy…” (https://www.tienphong.vn/…/nganh-toa-an-se-moi-giao-vien-de…). 3. Không có ông chánh án nào của TANDTC trở thành huyền thoại cả. Bởi thế, không ông chánh án nào xứng đáng được tạc tượng cả. Tượng đài ở các nước là hậu thế tôn vinh những huyền thoại. Đừng học theo, vì ngành tòa án Việt Nam hiện đại chưa có huyền thoại. Đừng làm tốn thêm tiền thuế của dân. IV. ĐỪNG BIẾN VIỆT NAM THÀNH ĐẤT NƯỚC CỦA TƯỢNG ĐÀI VÀ LĂNG MỘ 1. Dựng tượng tiêu biểu ngành, tạc tượng lưu danh các chánh án, có phải TANDTC đang muốn tiên phong mở đường cho một xu thế làm suy yếu đất nước? Nếu bộ nào cũng dựng tượng các bộ trưởng, ngành nào cũng dựng tượng đầu ngành, thì đất Hà Nội đâu đủ chỗ cho các tượng đây? Những năm gần đây, hình thành phong trào xây tượng đài. Cả nước xây tượng đài. Tốn kém vô kể về tiền bạc và đất đai. Những năm gần đây, hình thành phong trào xây lăng mộ. Các quan càng to lăng mộ càng lớn. Có người lăng mộ còn chiếm nhiều đất hơn cả vua. Chế độ nào cũng dựng tượng xây mộ như hiện nay thì Việt Nam không còn đất để cày cấy mà sống sót. 2. Không thể lưu danh cho hậu thế bởi tượng đài và lăng mộ do mình tự dựng lên. Hậu thế sẽ dỡ bỏ nếu hậu thế không tự nguyện tôn vinh. 3. Đề nghị TANDTC bỏ hẳn việc dựng tượng Lý Thái Tông và các chánh án tại Tòa án Nhân dân Tối cao. Điều mà TANDTC cần làm - là chấm dứt các án oan sai, chấm dứt hối lộ trong xử án, chấm dứt án bỏ túi, chấm dứt chạy án, và loại bỏ các quan tòa dốt nát về trình độ, băng hoại về đạo đức ra khỏi ngành tòa án. Lúc đó nhân dân sẽ tự động tôn vinh ngành tòa án. Đừng biến Việt Nam thành đất nước của tượng đài và lăng mộ.
......

Kiêu ngạo CS - vẫn rần rần kỷ niệm ngày 30 tháng Tư

Mạnh Kim| Hệ thống tuyên truyền lẫn bộ máy chính quyền các cấp vẫn rần rần kỷ niệm “45 năm ngày giải phóng”. Dĩ nhiên chính quyền không “ngu” và không “thấy” được tâm trạng và phản ứng của người dân nói chung, cả ba miền, lẫn người Việt hải ngoại. Thế nhưng người ta vẫn làm. Có năm yếu tố có thể giúp giải thích phần nào lý do. 1/ Đó là cơ hội để rút rỉa ngân sách. Lễ lộc và kỷ niệm luôn là dịp được ăn chia thoải mái và tham nhũng gần như công khai. Chính quyền “nhỏ” ăn kiểu “nhỏ”; chính quyền “lớn” xơi kiểu lớn, nhân danh phục vụ nhân dân và nhân danh cả việc “tưởng nhớ” người đã khuất. 2/ Điều thứ hai là duy trì “nhận thức” cho giới trẻ. Nhồi sọ trong nhà trường là không đủ. Những sự kiện cụ thể như thế này mới khiến giới trẻ “hiểu” hơn về “những gì đã xảy ra” dù những gì được kể chỉ là những câu chuyện được tô màu, tiết giảm liều lượng, thậm chí ngụy tạo. Thử phỏng vấn một bạn trẻ 8x hoặc 9x về cuộc chiến Việt Nam, về ngày “thống nhất 30-4”, có lẽ họ nói không gì khác hơn những gì được thuật một chiều trên mặt báo. Hỏi họ có biết những chuyện sau ngày “giải phóng” về việc có hàng triệu người vượt biên bỏ mạng, hàng ngàn người vô tội phải đi tù, hàng triệu người khác đột nhiên mất nhà mất cửa…, chắc họ không biết hoặc thậm chí có thể nghĩ đó là “bịa đặt”. 3/ Yếu tố thứ ba là sự nêu bật tính “chính nghĩa cuộc chiến”. Chính quyền không thể nói sự thật về việc Hiệp định 1973 bị xé toạc và Bắc Việt vi phạm nghiêm trọng như thế nào khi đưa quân chính quy vào đánh chiếm miền Nam. Cuộc chiến này, theo chính quyền, cần được hiểu là cuộc chiến “chính nghĩa”, được thực hiện nhằm “giải phóng” miền Nam khỏi sự áp bức của chế độ VNCH “thối nát” khiến đồng bào miền Nam khổ sở, và đồng thời đánh đuổi xâm lược ngoại bang Mỹ… Nêu bật yếu tố “chính nghĩa” cũng nhằm cho thấy phản ứng của người hải ngoại đối với sự kiện 30-4 là “sai lầm”. 4/ Điều quan trọng nữa để tổ chức kỷ niệm 30-4 là làm nổi bật tính chính danh của đảng cai trị, rằng đảng và chỉ đảng cộng sản mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. 5/ Yếu tố cuối cùng có lẽ là xuất phát từ chủ trương chia rẽ. Cách thức hành xử của nhà cầm quyền khiến khó có thể không nghĩ đây là một chính sách. Mục đích là làm suy yếu sức mạnh đoàn kết chính trị – đặc biệt giữa người trong nước với người hải ngoại – một sự đoàn kết có thể dẫn đến những hành động hoặc những cuộc vận động ảnh hưởng đến việc duy trì và củng cố thể chế, đưa đến một “nguy cơ” “đa nguyên”./.  
......

‘Quan nhất thời, dân vạn đại, chế độ này phải thay đổi’

Công dân Việt Nam gốc Pháp, ông Andre Menras Hồ Cương Quyết, cho rằng xã hội Việt Nam “không thực sự hòa bình” như trên bề mặt của nó. Khánh An-VOA| Một người Pháp đã cắm “cờ giải phóng” của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trước Hạ nghị viện của Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1970 nói với VOA rằng những năm tháng dài sinh sống và đồng hành cùng người dân Việt Nam đã giúp ông nhìn thấy rõ chế độ mà ông từng ủng hộ nay đã trở thành một hệ thống mafia chính trị kết hợp với kinh tế, đầy tham nhũng và chà đạp con người, “không xứng đáng” và không phù hợp với quan niệm sống của ông “về con người và nhân quyền”. Từng được chính quyền Việt Nam tôn vinh như một “anh hùng quốc tế” và được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đặc cách cấp quốc tịch Việt Nam với tên “Hồ Cương Quyết” vào năm 2009, ông Andre Menras nói với VOA rằng ngày xưa ông ủng hộ chính quyền miền Bắc vì không thể chịu nổi cảnh người dân chết chóc trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, và vì nghĩ rằng chỉ có cách đó mới giúp chấm dứt “cái ác” do chiến tranh gây ra. “Bởi vì tôi không đi theo chính quyền nào. Tôi không đi theo một ý thức hệ nào. Tôi đi theo con người, tình trạng của con người tại chỗ. Hồi xưa, tôi là giáo viên. Tôi 20 tuổi, là cao thủ bóng bầu dục ở Pháp, có nghĩa là tôi không quan tâm đến chính trị, không biết Marx-Lenin, không thuộc về công đoàn nào. Khi tôi đi xe gắn máy ở nông thôn [Việt Nam] năm 1968, Tết Mậu thân 1869, thì tôi thấy tình trạng của người nông dân ở đó bị đánh bom, bị giết ở trên đường, bị thương ở bụng… Làm sao [tôi] chịu nổi? Chiến tranh là ác nhất trong thế giới này. Vậy nên tôi phản ứng như một thanh niên Pháp yêu đời và không chấp nhận tình trạng đó. Tôi đã làm như thực tế tôi thấy, không phải theo ý thức hệ”, ông Menras kể lại với VOA. Tuy nhiên, điều mà chàng thanh niên Andre Menras lúc đó không ngờ tới là vài chục năm sau đó, chính mình lại là người lên tiếng phản đối chính quyền mà mình đã từng tâm huyết ủng hộ. “Những giá trị của tôi vẫn còn đây, nhưng tôi thay đổi về vấn đề đi theo ai, không theo ai hay chính quyền nào, bởi vì tôi thấy ở Việt Nam một thực tế rất rõ là người dân bị chính quyền cướp quyền và bị coi thường, bị đàn áp. Có một đảng là Đảng Cộng sản đã không tôn trọng người dân và tham nhũng. Không phải tham nhũng ít mà là tham nhũng khổng lồ, là một hệ thống mafia chính trị cấu kết với kinh doanh, lưu manh, và hơn nữa là tôi thấy họ hèn với Trung Quốc”, ông Andre Menras nói. Sau bộ phim “Hoàng Sa: Nỗi đau mất mát” nói về cuộc sống của ngư dân miền trung Việt Nam trước hiểm hoạ Trung Quốc, ông Andre Menras mới đây công bố bộ phim mới có tên “Việt Nam: Tiếng gào thét từ bên trong”, trong đó quy tụ nhiều tiếng nói từ những “công thần” của chế độ như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyên phó Bí thư thành đoàn TPHCM – cựu tù chính trị Lê Công Giàu, nhà văn Nguyên Ngọc, Nghệ sĩ ưu tú Kim Chi… và nhiều trí thức khác như GS. TS. Chu Hảo, nhà giáo Phạm Toàn, Giám mục Nguyễn Thái Hợp, luật sư Đặng Đình Mạnh… Ông Menras nói bộ phim mà ông đã âm thầm thực hiện một mình suốt 2 tháng là nhằm để ghi lại “những tiếng gào thét” về sự thật bên trong một xã hội “không thực sự hoà bình” như trên bề mặt của nó. Ông cho biết: “Một số người hồi xưa đã chiến đấu, đã phục vụ chế độ này. Nhưng từ từ họ không chịu được sự bất nhân, cái ác của chế độ toàn trị này và cảm thấy như bị phản bội. Giống như bản thân tôi, những giá trị mà tôi đã chiến đấu vì con người, vì hoà bình, thì tôi thấy chế độ này chà đạp, họ ăn mày dĩ vãng và làm ngược lại, lợi dụng cái đó”. Trong phim, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, người đã 104 tuổi và có thể thấy thính lực đã không còn tốt, thừa nhận rằng Việt Nam cần phải thay đổi, mà trước tiên là phải có dân chủ. “Không có dân chủ, chả được cái gì”, vị tướng cộng sản nói thêm. Theo đạo diễn, nhà làm phim tự do người Pháp, bộ phim có tính “lột trần sự thật” này không hề nằm trong ý định ban đầu của ông. Năm ngoái, ông Menras trở về Việt Nam với dự tính thực hiện bộ phim tài liệu mới về Trường Sa, nhưng sự kiện một người bạn bị bắt sau khi dự buổi họp mặt với các trí thức khác đã khiến ông hoàn toàn thay đổi ý định và quyết tâm thực hiện một bộ phim về nhân quyền. “Một số người đã xin tôi quay, ghi lại lời nói của họ. Tôi không xin. Họ xin. Họ vui vì có một cách để có thể nói mà người ở bên ngoài và trong nước có thể nghe được. Tôi rất ấn tượng về thái độ của họ. Họ làm không phải vì họ, vì cuộc đời họ đã ở sau lưng rồi, mà vì thế hệ mới, vì tương lai của đất nước. Những người đó là những người rất yêu nước”, ông Menras cho biết thêm. Công dân Việt Nam gốc Pháp này nói rằng với hơn nửa thế kỷ sống với người Việt, từ lâu, ông Menras đã xem Việt Nam là đất nước của mình, và ông “có quyền và có trách nhiệm” nói lên những điều tốt cho đất nước. Nhà làm phim người Pháp hiện đang nỗ lực phổ biến bộ phim ra quốc tế, với mong muốn tiếng nói của các trí thức trong phim sẽ được lắng nghe, và để bên ngoài biết tình trạng thực sự của con người trong xã hội “hoà bình” tại Việt Nam. “Họ phải biết chế độ này đã tuyên chiến với dân, và tiêu biểu là vụ Đồng Tâm, khi hàng ngàn cảnh sát cơ động đã tấn công một làng nhỏ nông dân, những người bình thường đã phục vụ chế độ từ mấy chục năm, và hành quyết một ông già đã bị tàn phế ngay trên giường một cách man rợ như vậy thì chế độ này là của ai?”, ông Menras nói với VOA. Mượn câu nói “Quan nhất thời, dân vạn đại” của người Việt, ông Andre Menras nói ông tin chắc Việt Nam sẽ phải thay đổi, dù ông không muốn và không dám đưa ra bất cứ một dự đoán nào về tương lai của quê hương thứ hai này. “Tôi đã học một điều là phải rất khiêm tốn khi nói về lịch sử. Khi tôi đến Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ tôi sẽ treo cờ giải phóng. Khi tôi đã treo cờ giải phóng thì không nghĩ [mình] còn sống, [mà] sẽ bị bắn chết. Sau đó, không nghĩ mình sẽ bị tù. Không nghĩ sau đó 5 năm thì hết bom đạn, khói lửa ở Việt Nam. Nhưng như ông Võ Văn Kiệt đã nói, không nghĩ rằng ‘triệu người sẽ buồn’”. “Như một cách nói ở Việt Nam hay nói là ‘Quan nhất thời, dân vạn đại’, nghĩa là tình trạng ở Việt Nam bắt buộc sẽ phải thay đổi. Có thể tôi không được thấy ngày đó, nhưng chắc chắn tôi biết là ‘dân vạn đại’, nghĩa là dân chủ sẽ thắng. Việt Nam sẽ có một chế độ, một xã hội dân sự và lành mạnh. Đó là một điều chắc chắn”, ông Menras khẳng định./.  
......

Khi chánh án là “vua”

Hình: Một trong ba mẫu phác thảo biểu tượng công lý Lý Thái Tông (Nguồn: Internet) Tân Phong – Web Việt Tân Chẳng hiểu căn cớ làm sao mà Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam lại nảy ra ý muốn lấy ông vua Lý Thái Tông làm “tổ ngành” của mình và dựng tượng ông như biểu tượng của …Công Lý ở các tòa án các cấp, từ trung ương tới địa phương. Ý tưởng này thậm chí còn bị chính những cựu công chức cao cấp của chế độ cho rằng “dựng tượng vua để tôn kính thì được chứ để làm biểu tượng Công lý thì nực cười quá” – như ông Ngô Cường, nguyên vụ trưởng vụ quốc tế của Tòa án nhân dân tối cao nói với báo Tuổi Trẻ online hôm 28 tháng Tư, 2020. Tuy vậy, ý tưởng nực cười đó vẫn có thể được thực thi ở một xứ sở mà bất kể chuyện phi lý và quái đản đến đâu cũng có thể trở thành hiện thực khi nó được “lãnh đạo” chấp thuận và trở thành “quyết tâm chính trị”. Một cuộc triển lãm các mẫu hình tượng ông vua Lý Thái Tông trong trang phục “áo cổn, mũ miện”, một tay cầm một quyển sách, tay kia cầm một cái cân, hông đeo một thanh gươm được đem ra thuyết minh các ý nghĩa “thâm thúy”, mang tính lịch sử sâu sắc… Thôi thì chưa nói đến những ý tứ thâm sâu mà chỉ có lãnh đạo mới hiểu được. Dân đen nhìn qua thì thấy ông Lý Thái Tông trông rất giống ông vua Tàu nào đó trên các bộ phim chiếu suốt ngày trên các kênh truyền hình Việt Nam mà được Trung Quốc tặng miễn phí. Nói về trang phục triều Lý thì quả thực cho tới giờ, chúng ta cũng chẳng thể biết các vua chúa ngày xưa ăn mặc ra sao. Lịch sử chính thống mới được ghi chép lại từ thời Trần. Cái sự ăn mặc của cổ nhân dù có đem ra tranh cãi trong “ngàn năm mũ áo” của ông Trần Quang Đức thì cũng chẳng có mấy căn cứ sử liệu đầy đủ. Ngoài những hình vẽ, ảnh chụp hiếm hoi có từ thời Nguyễn làm mẫu hình gốc còn lại thì cũng tùy thế nhân sáng tạo theo trí óc của mình. Thế nên, chuyện ông vua Lý bây giờ có mặc y chang ông vua nhà Đường bên Tàu thì cũng là chuyện dễ hiểu khi mà giờ đây “người người xem phim Tàu, nhà nhà xem phim Tàu.” Không rõ từ khi nào, cái “văn hóa tượng đài” nó lại ăn sâu vào trí não của các lãnh đạo CSVN đến như thế và cớ tại làm sao thì có …Giời mới biết. Nhưng kể ra thì cũng có cái lý của nó vì mang tiếng là đất nước 4000 năm văn hiến nhưng chẳng có một tượng đài nào thực sự có giá trị lịch sử. Những người cộng sản chắc sẽ phải cố công lắm để dựng lên một hình tượng trong lòng dân chúng. Dù 20 năm qua, tượng của ông Hồ được xây dựng trên khắp mọi miền đất nước, ngốn một nguồn kinh phí khổng lồ hàng trăm ngàn tỷ nhưng thú thực là nó xa lạ, phô trương và …rẻ tiền về giá trị văn hóa chứ đừng nói tới lịch sử. Nói thì bảo ác khẩu, chứ cứ nhìn số phận những tượng đài của các “bậc thày vĩ đại” của ông Hồ là ông Lê Nin, ông Các Mác thì biết. Có lãnh đạo cộng sản nào dám khẳng định rằng 10 năm, 20 năm nữa… những giai cấp vô sản ở thế kỷ 21 hôm nay, vào một ngày đẹp trời nào đó, lại chẳng quàng dây kéo cổ tượng ông Hồ xuống mà đập, giống như với tượng ông Lê Nin ở nước Nga? Có lẽ thế, nên bây giờ, người ta lại tính chuyện dựng tượng ông vua Lý? Được coi là ông vua “nhân triết thông tuệ, có đại lược về văn võ, biết trước mọi việc, đánh đâu được đấy, vũ công lừng lẫy. Khi trở thành Hoàng đế, ông thân oan, đặt luật, trị quốc thân dân, đưa đất nước bước vào thời kỳ hoàng kim, thái bình, thịnh trị và trở thành tấm gương bảo vệ công lý tiêu biểu nhất trong thời đại quân chủ Việt Nam.” Phải chăng giờ tượng ông Hồ đã trở thành quá nhàm và mất thiêng? Hay có một cuộc thay đổi màu sắc dần dần từ “cộng sản chủ nghĩa” sang “dân tộc chủ nghĩa” chăng? Nhưng có thay đổi màu gì thì cái bản chất vẫn là “định hướng xã hội chủ nghĩa” và mọi sự thì vẫn phải theo “ý đảng.” Có một điều khá kỳ khôi và bi hài là người cộng sản từ trước tới nay luôn gương cao ngọn cờ “đấu tranh giai cấp, đánh đổ ách phong kiến, thực dân, giải phóng dân tộc.” Những người cộng sản đã đập phá không hề thương tiếc những công trình lịch sử, xóa bỏ và viết lại lịch sử theo chủ kiến của những “lãnh đạo cộng sản.” Thế mà giờ đây, họ lại dựng tượng ông vua Lý theo hình tượng na ná của một ông vua Tàu nào đó, cầm chiếc cân đứng ở tòa án của người cộng sản. Người thì bảo phải làm thêm cho ông cái ghế chánh án để bên cạnh, kẻ thì bảo phải thêm cái chuông cho người dân đến đánh kêu oan (Dương Trung Quốc)…thôi thì chín người, mười ý. Cái tri thức của kẻ hậu thế nó chắp vá, hổ lốn tới thảm hại làm sao! Thế là ông vua Lý Thái Tông, một tay thì mượn cái cân của thần Công lý ở Tây Phương, một tay cầm thêm quyển sách luật “Hình thư,” lại còn đeo gươm, ghế ngồi, trống chiêng cho đủ bộ, đứng ở trước cửa tòa án của nhà cầm quyền cộng sản. Thế là rõ rồi, cái tòa đó sẽ vừa viết luật, vừa đem số mạng dân đen lên cân được mấy lạng cân tiền, rồi rút gươm ra mà chặt… Đã là vua rồi thì nói sao chẳng phải ý Trời! Nghe nói, sắp tới nhà cầm quyền sẽ đem vụ án Hồ Duy Hải ra giám đốc thẩm như một cuộc trình diễn công lý của người cộng sản. Một vụ án tiêu biểu cho oan khuất ngút trời của người dân đen ở xứ thiên đường này. Vụ án mà có sự vi phạm cố ý trắng trợn của cơ quan tiến hành tố tụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án đã bị phơi bày trước công luận, bị Quốc Hội lên tiếng nhiều lần nhưng phải đợi tới 12 năm mới được kháng nghị giám đốc thẩm. Số phận của chàng thanh niên Hồ Duy Hải thật là một số phận bi thảm, hy hữu. Khi mà chiếc cổ của anh đã đặt dưới chiếc máy chém của chế độ thì người mẹ của anh vẫn cố gắng hết sức để lôi chân anh ta ra và cái lưỡi chém vẫn chưa rơi xuống. Sự sống chết của người dân oan trở thành cuộc cạnh tranh chính trị của các phe phái. Và giờ, có lẽ sau 12 năm sau, số phận của Hồ Duy Hải sẽ trở thành một cuộc trình diễn công lý của “phe thắng trận.” Một hệ thống tư pháp như thế mà đem hình tượng ông vua Lý Thái Tông ra làm biểu tượng quả thực là trơ trẽn và đốn mạt làm sao. Nó cũng giống như cái chế độ “bán nước, hại dân” này suốt nửa thế kỷ qua đã xử dụng hình tượng ông Hồ để chính danh một thể chế ăn cướp, tồi bại. 1/5/2020 Tân Phong  
......

Cội nguồn của sự chia rẽ dân tộc

Đỗ Ngà| Trong xã hội này chỉ có kẻ cướp hoàn lương mới được gọi là hòa nhập với xã hội. Còn khi kẻ lương thiện từ bỏ những gì vốn có của mình gia nhập vào thế giới tội ác thì tất đó không phải là hòa nhập với xã hội mà người ta gọi là sa ngã. Không ai xem tội ác, bất lương, phi nhân tính, ích kỷ là chuẩn mực để con người phải hòa nhập vào đó. Xã hội từ cổ chí kim, từ đông sang tây đều minh định rằng: đạo đức, lương thiện, trung thực, nhân bản, bao dung mới là chuẩn mực chứ không phải ngược lại. Hòa nhập hay hòa hợp thì cũng tiêu chuẩn cũng giống nhau, chấp nhận những giá trị phổ quát và không phạm vào những điều gây chia rẽ. Đã 45 năm sau ngày Sài Gòn sụp đổ mà bài toán hòa hợp hòa giải dân tộc vẫn không thể nào giải được, bởi lẽ, chính cộng sản ngạo mạn cho rằng, chính kẻ thắng cuộc mới là kẻ ra chuẩn mực mà bất cần đến những giá trị phổ quát như đạo đức, lương thiện, trung thực, nhân bản, và bao dung. Đó là bản chất vấn đề đã đưa đến sự chia rẽ dân tộc suốt ròng rã 45 năm qua, và nó sẽ kéo dài đến nhiều năm sau nữa. Nội chiến Việt Nam diễn ra sau nội chiến Mỹ trăm năm, nhưng vì sự vô minh vốn có của người CS khi não trạng của họ bị nhiễm quá nặng lý thuyết “bạo lực cách mạng” của Mác Lê nên họ chẳng rút ra được bài học gì từ cách cư xử của người Mỹ trước đó. Cái đáng sợ là họ lại luôn phủ định bất cứ những giá trị nào mà do “tư bản” tạo ra. Như ta biết, năm 1861, nước Mỹ đã từng xảy ra nội chiến đẫm máu giữa quân đội Miền Bắc chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ và quân Miền Nam muốn duy trì chế độ nô lệ. Cuộc chiến này kéo dài chỉ có 4 năm mà đã làm cho hơn 600 ngàn người phải bỏ mạng, và hơn 400 ngàn người bị thương. Nó vô cùng khốc liệt. Mà như ta biết, càng khốc liệt thì càng dễ phát sinh thù hận sâu sắc. Đã là nội chiến thì cuộc nội chiến nào cũng đau thương. Nó là sự tương tàn của những người cùng tổ quốc. Chính vì vậy, nếu tránh được chiến tranh thì không gì bằng, nhưng nếu không tránh được thì sau khi chiến tranh kết thúc, giữa 2 bên hãy cư xử với nhau như những người quân tử thì dân tộc có được sự hòa hợp hòa giải. Và chỉ có hòa hợp hòa giải thì khi đó dân tộc mới phát huy sức mạnh mà hướng tới thái bình cho nhân dân và thịnh vượng cho đất nước. Ngày 9 tháng 4 năm 1865 là ngày lịch sử, không những lịch sử cho nước Mỹ mà là còn ngày lịch sử cho các dân tộc khác muốn hướng vào sự hòa hợp. Ngày ấy không những nó là ngày ký hiệp ước đình chiến kết thúc chiến tranh mà nó còn là ngày mở ra một cuộc hòa hợp hòa giải dân tộc mang tính mẫu mực cho những ai yêu chuộng công lý và hòa bình. Ngày đó, tướng miền Bắc Ulysses S. Grant đã gặp tướng Miền Nam Robert E. Lee trong phòng khách của căn nhà nhỏ tại làng Appomattox Court House, bang Virginia. Trong cuộc gặp lịch sử ấy, tướng Ulysses S. Grant của bên thắng cuộc đã cư xử với bên thua cuộc bằng sự bao dung của kẻ chiến thắng, bằng thái độ đúng mực của người quân tử. Ngày đó Ulysses S. Grant cam kết với Robert E. Lee rằng, phía ông vẫn xem những người thua cuộc là anh em một nhà, là đồng bào trong một nước. Để thể hiện tinh thần đó, ngay trong phòng họp, Ulysses S. Grant đã thẳng thừng bác bỏ các ý kiến của các chỉ huy dưới quyền muốn xử Robert E. Lee tội phản quốc. Một cách cư xử không gì đẹp bằng. Đấy chỉ là lời là những cam kết, còn thực hiện thì sao? Liệu tướng Ulysses S. Grant có nuốt lời lừa Robert E. Lee như người Cộng Sản đã lừa quân dân cán chính VNCH sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 không? Xin thưa là không. Thực tế, khi thi hành hiệp ước, Ulysses S. Grant đã làm còn tuyệt vời hơn cả những gì ông đã ký. Ông không hề bắt một người lính miền Nam nào làm tù binh, ông nghiêm cấm binh sỹ của mình không được có bất kỳ hành động trả thù hay sỉ nhục nào với binh lính bại trận. Nghiêm cấm binh sỹ không được có bất cứ hành động thất lễ nào với tướng Robert E. Lee. Chưa dừng lại ở đó, ông còn bác bỏ luôn yêu cầu được diễu hành ăn mừng chiến thắng của binh sỹ bằng lời nhắc nhở rằng “Những kẻ mà các bạn gọi là quân nổi loạn đều là đồng bào của chúng ta đấy!”. Vì sao? Vì ông biết nếu binh lính ông diễu hành ăn mừng chiến thắng, thì đấy chính là nhát dao cứa vào vết thương lòng của những người bại trận-những người mà ông xem là đồng bào của mình. Không những thế, ông còn cho phép binh lính bại trận được được phép giữ lại ngựa súng để phục vụ cho mục đích mưu sinh và phòng thân. Đây là điều duy nhất ông làm trái với quy định của hiệp ước. Theo quy định của bất kỳ hiệp ước đầu hàng nào thì điều khoản không bao giờ thiếu, đó tước bỏ vũ khí của phía bại trận. Năm 1865 nội chiến kết thúc thì chỉ nửa thế kỷ sau, nước Mỹ đã vươn lên vị trí dẫn đầu thế giới và thay thế vai trò thống trị của Anh Quốc. Như vậy chúng ta thấy ở đây là, chuẩn mực nào mà người Mỹ đã dùng để giải bài toán để hòa hợp hòa giải dân tộc của họ? Có phải bên thắng buộc thua phải quỳ gối chấp nhận những gì trái với luân thường đạo lý không? Không! Kẻ chiến thắng đó đã chọn sự bao dung, nhân bản, đạo đức, trung thực làm chuẩn mực. Chính những chuẩn mực này mà bên thua cuộc đã quay về với chính nghĩa và vứt bỏ hận thù. Mà như ta biết, một khi kẻ thắng cuộc- những kẻ nắm quyền điều hành nước Mỹ đã chọn những chuẩn mực đó để cư xử với nhau thì sao nước Mỹ không hùng cường được? Trái với người Mỹ thì người Cộng Sản Việt Nam đã làm ngược tất cả. Họ không bao giờ chịu từ bỏ sự gian trá, không bao giờ từ bỏ thái độ hách dịch của kẻ chiến thắng, không từ bỏ ý đồ trả thù thấp hèn, họ không bao giờ từ bỏ gian ác, và tất nhiên họ không bao giờ từ bỏ dối trá. Vậy nên, bên thua cuộc không thể nào hòa hợp hòa giải với họ được. Với cách cư xử như thế, thì thậm chí ngay cả những công dân được sinh ra và lớn lên dưới thời cai trị của họ thì cũng không thể nào dung nạp được. Dung nạp sao được khi mà họ cứ lộng quyền bắt bớ người nói lên sự thật? Vậy thì hòa hợp hòa giải thế nào được đây? Qua bao năm sống dưới chế độ CS, thì chúng ta thấy một điều rõ ràng rằng, CS không thể dung nạp được sự thẳng thắng và trung thực của chính dân mình, nhưng họ lại dung nạp rất tốt sự gian trá của kẻ thù cướp nước. Vậy câu hỏi đặt ra là, cuối cùng CS được sinh ta trên đất nước này là để làm gì? Thực tế cho thấy, họ được sinh ra chỉ để mang lại những cuộc chiến tranh vô nghĩa làm hao mòn nội lực đất nước, họ mang đến sự chia rẽ và lòng hận thù sâu sắc giữa chính người Việt với nhau. Và bất hạnh hơn, họ còn mang đến cho dân tộc này chiếc thòng lọng nô lệ. Với kẻ thắng cuộc như vậy thì bất cứ ai yêu chuộng những giá trị chuẩn mực như đạo đức, lương thiện, trung thực, nhân bản, và bao dung đều không thể hòa hợp với họ được. Thật sự là như vậy, cho nên có thể nói còn CS thì dân tộc không thể có hòa hợp hòa giải dân tộc. Đó là cái kết rất đắng cho dân tộc. Không biết tại sao dân tộc này cứ bị CS đeo bám mãi?! Một dân tộc bị đọa đày dai dẳng. Đỗ Ngà  
......

Sinh vi Tướng tử vi Thần: Các quân nhân quân lực VNCH tự sát trong những ngày cuối cùng 30.04.1975

"Những ai đã chết vì sông núi Sẽ sống muôn đời với núi sông" CÁC QUÂN NHÂN QUÂN LỰC VNCH KHÔNG MUỐN RƠI VÀO TAY GIẶC, ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA NĂM 1975. 1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975 2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975 3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975 4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975 5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975 6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat. 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn 7- Đại Tá Lê Cầu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975. 8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975 9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ 10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG, 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn 11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ – Cục An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh 12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975 13- Trung Tá Vũ Đình Duy, trưởng Đoàn 66 Đà Lạt 30/4/1975 14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham m ưu. Tự sát ngày 30/4/1975 15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng) 16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con 17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. 30/4/1975 tự sát cùng vợ 18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975 19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75 20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975 21- Đại Úy Tạ Hữu Di, tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975 22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975 23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản 24- Trung Sĩ Trần MinhTrần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975 25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975 26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa 29/4/1975 27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt 30/4/1975 28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75 29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975 30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM 31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, CS đặc biệt, 30/4/1975 tại Thanh Đa, Sài Gòn 32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn. 33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975 34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa 35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975 36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau 37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu...,,v v v còn nhiều vị nữa ...!
......

45 năm sau, con đường nào cho giáo dục Việt Nam

Phạm Minh Hoàng - Web Việt Tân| Vào những ngày tháng kỷ niệm 45 năm chủ nghĩa cộng sản thống trị trên toàn cõi đất nước, nếu phải chọn một chủ đề để nói về những thất bại của họ, chắc chắn chủ đề đó phải là giáo dục, và những ai còn nghĩ về tương lai của dân tộc, chắc chắn sẽ phải đặt những câu hỏi: Đảng CSVN đã tàn phá nền giáo dục như thế nào? và đến bao giờ đất nước mới thoát ra khỏi cảnh u tối của ngày hôm nay? Để có một cái nhìn từ cội rễ vấn đề, trước tiên chúng ta phải căn cứ vào những văn bản, những chủ trương chính thống của hai thể chế. Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Việt Nam Cộng Sản. Trong chế độ VNCH, ta có thể tóm tắt các chủ trương giáo dục vào 3 triết lý chính: − Nhân bản: Chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế giới; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời làm căn bản; xem con người như một động lực của sự phát triển chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ; − Dân tộc: Giáo dục phải biểu hiện, bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác; − Khai phóng: Giáo dục phải không ngừng hướng tới sự tiến bộ, tôn trọng tinh thần khoa học, mở rộng tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, tinh hoa văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội. Cả 3 triết lý này được ghi vào Hiến Pháp, và là kim chỉ nam cho mọi chủ trương về giáo dục trước năm 1975. Riêng về phía chế độ Cộng sản ở miền Bắc và ngày nay trên toàn thể đất nước, Luật Giáo Dục 2005 đã quy định: Điều 2. Mục tiêu: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Điều 3.1. Tính chất, nguyên lý giáo dục: Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều 40. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học: Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản, ngoại ngữ và công nghệ thông tin với kiến thức chuyên môn và các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhận xét đầu tiên mà ai cũng có thể thấy đó là phía VNCH đề cao những giá trị phổ quát của nhân loại. Ngược lại, phía CS nhấn mạnh đến một chủ nghĩa chính trị (cộng sản) đi kèm theo tư tưởng của những con người đi theo lý tưởng này (Mác, Lênin, Hồ Chí Minh). Có lẽ đây là đặc thù chung của các nước độc tài. Và 45 năm sau ngày thống trị toàn thể đất nước, ngay cả những người cầm quyền cũng như báo chí chính thống và các nhà giáo cũng đều phải nhận ra được rằng họ đã đưa cả một nền giáo dục đến một tình trạng suy đồi và không hề thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vụ gian lận thi cử ở Hội đồng thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) tại Trường Đồi Ngô (Bắc Giang) khi có tới 42 cán bộ, giáo viên, nhân viên dính líu gây chấn động dư luận và được báo Thanh Niên mô tả là “chưa từng có trong lịch sử loài người.” Nhưng “cái lịch sử” ấy lại được lặp lại 6 năm sau với vụ gian lận trong công tác tổ chức, chấm thi ở kỳ thi tốt nghiệp THPT 2018 tại 3 tỉnh Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình. Lần này vụ việc được báo điện tử Vietnamnet đánh giá là “chưa từng có trong các kỳ thi quốc gia.” Song song với gian lận trong thi học hành, thi cử, tình trạng bạo lực học đường cũng diễn ra với một mức độ chưa từng có: Học sinh lớp 8 mắng chửi và bóp cổ cô giáo; phụ huynh bênh con xông vào trường đánh gẫy sống mũi thầy giáo; cô giáo ra lệnh cho học sinh tát một bạn trong lớp 231 cái vì nói chuyện trong giờ học; học sinh đánh nhau, lột quần áo, hạ nhục nhau công khai… Tất cả đều trở nên những chuyện thường ngày và dư luận thì chỉ biết thở dài ngao ngán! Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đương nhiên, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (GD&ĐT) phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu quy tất cả trách nhiệm cho ngành giáo dục thì hoàn toàn không khách quan và không công bằng. Lý do là giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, còn Bộ GD&ĐT là cơ quan phải thực thi theo đúng chủ trương đã được hoạch định. Và chủ trương thì đã được ghi rõ trong Luật Giáo Dục như đã đề cập ở trên. Khách quan mà nói, trong nhiểu năm qua, nhiều đời bộ trưởng, trưởng các ngành giáo dục đã lập nhiều ủy ban, đưa nhiều đợt cán bộ, công chức để cố gắng tìm tòi, tham khảo nhiều mô hình giáo dục của các quốc gia tiên tiến áp dụng vào Việt Nam nhưng hoàn toàn bế tắc và chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Nguyên nhân một phần là tiếp thu chắp vá, nhưng phần chính là do cơ chế giáo dục Việt Nam không có môi trường cho các mô hình giáo dục tiên tiến vận hành để mang lại hiệu quả. Vậy thì mô hình nào mới đem lại kết quả? Trước tiên phải nói đến khối lượng và cách phân bổ kiến thức. Theo Giáo Sư Hoàng Xuân Sính, lối học nhồi nhét của Việt Nam ngày nay rất lạc hậu và đi ngược lại sự phát triển trí tuệ của học sinh. Để dễ hiểu, chúng ta có thể ví việc học như một cuộc chạy trường lực. Vào những năm tháng trung, tiểu học, các em chỉ cần học thông, viết thạo, biết tính toán và đặc biệt là để định hình bản thân và chung sống với người khác. Ngoài kiến thức hàn lâm nhà trường còn chú trọng đến việc rèn luyện thể chất và các kỹ năng sống. Tất cả như để chuẩn bị các bước chạy xa trên đại học. Thứ hai, về nội dung kiến thức. Tại các nước phát triển, nhà nước tạo cơ chế mở và quyền tự chủ, thông thoáng cho các nhà trường. Nhờ vậy, họ phát huy được tối đa tính chủ động, năng lực sáng tạo của các cơ sở giáo dục trong tự do học thuật cũng như trong xây dựng chiến lược phát triển nhà trường. Trong không gian giáo dục như vậy, người thầy không phải là nhà truyền giáo, áp đặt một chiều kiến thức có sẵn, mà là người bạn đồng hành của học sinh trong quá trình tìm tòi, khám phá tìm ra chân lý. Chính vì thế nền giáo dục không bị xơ cứng, thoái hóa, lạc hậu với thời gian mà ngược lại luôn sống động tạo ra các sản phẩm là những con người có tư tưởng khai phóng, có tư duy độc lập; có năng lực phản biện và dám phản biện bảo vệ chân lý; luôn chủ động, sáng tạo trong công việc, trong cuộc sống hàng ngày của bản thân và trong đời sống xã hội. Trên đây là ý kiến của một độc giả đã được đang trên báo điện tử Vietnamnet. Thứ ba, trả lương xứng đáng cho các thầy cô. Hiện nay, hai ngành có mức lương thấp nhất trong xã hội là sư phạm và nông nghiệp, ngược lại, ngành có mức lương cao nhất là an ninh. Theo một công bố của Bộ GD&ĐT, thì lương khởi điểm của giáo viên trung bình khỏng 3,5 triệu. Sau 18 năm thâm niên, lương tăng 2,4 lần, nghĩa là chỉ bằng lương của một công nhân nhà máy Samsung. Với mức lương bèo bọt này thì các thầy cô khó chu toàn trách nhiệm và dễ dẫn tới các tiêu cực. Hiện có khoảng 1 triệu giáo viên trung, tiểu học. Nếu đồng loạt tăng mỗi người 50 USD/tháng thì tốn 600 triệu USD/năm, nghĩa là chỉ bằng 6% ngân sách giáo dục. Ba điều trên đây không phải là chướng ngại khó, nhưng sao mãi chúng ta không thể vượt qua? Quả đúng như thế! Rất dễ, nhưng ở Việt Nam thì rất khó, vì: − Giảm tải cho học sinh ư? Nếu thế thì sách giáo khoa in ra hàng triệu cuốn ai mua? Cho đến nay đã thay sách giáo khoa 3 lần. Có lần Bộ GD&ĐT đã xin một ngân khoản 70 ngàn tỉ, tương đương với 3 tỉ USD chỉ để thay sách! Một con số chóng mặt. − Loại bỏ các môn vô bổ như “Lịch sử Đảng, Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế học Mác Lê, Tư tưởng Hồ chí Minh” và thay vào các môn Đào tạo nhân cách, Khái niệm về Quyền Con Người, Tư duy phản biện… ư ? Người nào đề nghị chắc phải thực sự can đảm hoặc chán sống! − Loại bỏ các giáo viên yếu, vô kỷ luật ư? Có mà anh bị loại trước không chừng? Chúng là dạng 5C (con cháu các cụ cả). − Cho đại học quyền tự chủ ư? Được! nhưng cơ sở đảng vẫn phải duy trì và nội dung vẫn do đảng kiểm soát. Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu thế nào là sự khác biệt giữa hai nền giáo dục của VNCH và Việt Nam Cộng Sản. Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu tại sao Bộ Luật Giáo Dục 2005 nó chi phối đến cuộc sống và chính sách giáo dục của Việt Nam hiện nay. Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu rằng chỉ có một cách để cải tổ sâu rộng nền giáo dục nước nhà và đưa đất nước vào một kỷ nguyên mới đó là, xóa bỏ chế độ độc tài để xây dựng một xã hội thực sự nhân bản. Phạm Minh Hoàng 30/4, giáo dục Việt Nam, hệ thống giáo dục Việt Nam, nền giáo dục VNCH, Quốc Hận 30/4
......

Làm thế nào để đánh cho tàn phế một dân tộc?

Đỗ Ngà  - Van Nga Do Ngay từ lứa tuổi thiếu nhi, mọi học sinh dưới mái trường XHCN đều bị buộc phải hô khẩu hiệu “Vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lí tưởng bác hồ vĩ đại, hãy sẵn sàng”. Đây là một câu khẩu hiệu thể hiện bản chất của CS, bản chất lợi dụng ngay sự ngây thơ con trẻ để phục vụ cho ý đồ chính trị. Ngày nay chúng ta luôn phẫn nộ bất kỳ kẻ nào nhẫn tâm bắt con nít hành hạ làm cho tàn phế chân tay, rồi buộc những đứa trẻ tội nghiệp đó phải bò lết đi ăn mày để mang nhiều tiền về làm giàu cho chúng, thì cớ sao chúng ta không phẫn nộ khi có một kẻ nào đó bắt trẻ con làm cho tàn phế bộ não rồi dùng những đứa con nít ấy như là công cụ để trục lợi? Chắc chắn kẻ làm tàn phế não bộ con nít ấy phải khốn nạn hơn những kẻ đã hành hạ thân xác bọn trẻ. Ở trên đời này có những kẻ làm tàn phế bộ óc con nít sao? Có. Xin thưa, đó chính là Cộng Sản. Ở đây CS không phải bắt một vài đứa trẻ để chọc mù não bộ mà họ bắt mọi đứa trẻ trong một đất nước trăm triệu dân để chọc mù não. Như ta biết, xúi trẻ em đi vào vùng súng đạn là một tội ác không thể dung thứ, nhưng với CS thì họ không từ bất kỳ thủ đoạn nào cả. Hình ảnh Lượm trong một bài thơ của Tố Hữu là một ví dụ. Hiện nay hầu hết các bậc cha mẹ đều lớn lên trong nền giáo dục XHCN độc hại nên không mấy ai nhận ra cái man rợ mà Tố Hữu đã gởi vào trong thơ Lượm. Nếu là người có đạo đức và có tư duy độc lập mà khi đọc bài thơ này thì không ai không sởn gai ốc vì chất man rợ trong nó, man rợ không khác gì quân ISIS ngày nay. Giả sử như có một thế lực chính trị nào xúi một đứa con vị thành niên của bạn phải băng qua những làn đạn chết người giữa khu vực chiến sự tàn khốc, mục đích là để phục vụ cho đám người già đầu đang núp lùm tránh đạn thì bạn nghĩ như thế nào? Bạn có dám cho con bạn làm chuyện đó không? Và liệu rằng, với tổ chức chính trị mà có dã tâm xúi một đứa trẻ con đi vào chỗ chết như thế, thì có đáng để cho bạn theo nó và tôn vinh nó không? Nếu bạn dám giao con cho chúng dùng mục đích như thế thì quả thật, một là bạn có bản chất loài cầm thú, hai là bạn đã bị tẩy não. Con nít được sinh ra là để nó được sống trên nền tảng lý tưởng của riêng nó, để nó sống cuộc đời đúng với ước mơ của nó. Tất cả mọi con người đều phải trải qua thời tuổi thơ. Nhiệm vụ của bậc cha mẹ, nhiệm vụ của nền giáo dục là cần phải chắp cánh để ước mơ của chúng được bay cao. Nó tựa như mồi lửa khi mới được nhóm lên, nhiệm vụ của một nhà nước chân chính là phải thổi vào ngọn lửa ấy một luồng dưỡng khí để rồi những ước mơ của chúng được bùng lên chứ không phải dập tắt chúng. Trăm triệu con người là trăm triệu lý tưởng. Và trong trăm triệu lý tưởng ấy có hàng vạn thậm chí hàng triệu lý tưởng phi thường thì nó là nguồn sức mạnh vô giá góp phần vào sự phát triển xã hội, góp phần vào sự tiến bộ đất nước, và góp phần làm cho quốc gia trở nên hùng cường. Ấy vậy mà vì mục đích cai trị, CS nhẫn tâm dập tắt nó đi. Thường thì chúng ta nghĩ câu khẩu hiệu mà CS buộc học sinh hô hào kia là vô hại. Nhưng không! Nghĩ thế là lầm to. Khi chúng ta xâu chuỗi lại với những gì mà CS đã và đang làm, thì tất sẽ thấy đấy đó là một quá trình có chủ đích, có bài bản. Với một thiên la địa võng đánh phá vào não trạng của dân tộc như thế thì dẫn đến não trang dân tộc này bị tàn phế là điều khó tránh khỏi. Đó là thành công của ĐCS và là họa lớn cho dân tộc. Đánh cho chết lý tưởng chưa đủ, CS còn phải đánh tan nguyện vọng của toàn dân nữa mới đủ bộ. Phải vừa đánh chết ý tưởng vừa đánh tan nguyện vọng thì ĐCS mới dễ dàng dẫn dắt cả dân tộc này đi theo ý họ muốn mới được. Từ khi lên làm tổng bí thư cho đến giờ, Nguyễn Phú Trọng đã âm thầm ký 27 văn kiện bí mật giữa ĐCS Việt Nam và ĐCS Trung Quốc. Mà như ta biết, chỉ có ký những văn kiện phản dân hại nước mới bí mật như vậy. Cho nên để dẫn dắt dân tộc này ngoan ngoãn chui vào họng con mãnh thú Tàu Cộng thì tất, Nguyễn Phú Trọng phải loại bỏ nguyện vọng của toàn dân và áp đặt nguyện vọng của ông ta lên tất cả gần 100 triệu người. Đó là dã tâm của lão già 76 tuổi, đầu bạc đang chiếm giữ 2 ghế này. Hôm qua, ngày 27 tháng tư, đồng loạt các tờ báo đảng đăng bài “Suy nghĩ của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước là suy nghĩ của toàn Đảng, toàn dân” là một bước đi ấy, bước đi giết chết nguyện vọng toàn dân để áp đặt nguyện vọng của một người có tư tưởng nô lệ Tàu lên đầu dân tộc. Giết chết lý tưởng của con nít để áp đặt lý tưởng của một xác chết vẫn chưa đủ khốn nạn, thì hôm nay Nguyễn Phú Trọng lại giết chết nguyện vọng của toàn dân để áp đặt nguyện vọng bệnh hoạn của lão. Việc làm này của ông Trọng âu cũng là điều dễ hiểu, cái khó hiểu ở đây là tại sao dân tộc này lại để cho những kẻ bệnh hoạn như thế giết chết ước mơ và áp đặt nguyện vọng của chúng lên một cách dễ dàng như vậy?! Câu trả lời dành cho 100 triệu người./.    
......

Phút cuối của tướng Lê Văn Hưng

Từ trái sang phải : Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, và Đại Tá Trần Văn Nhựt tại chiến trường An Lộc hôm 7 Tháng Bảy, 1972. (Hình: Flickr manhhai) Tuấn Khanh - nhacsituankhanh| ‘…Theo gương tiền nhân bảo toàn khí tiết, sau khi gặp mặt thuộc cấp dặn dò, tâm tình và vĩnh biệt gia đình, ông đã tuẫn tiết tại tư dinh ở trại Lê Lợi, Cần Thơ, bằng cách dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45. Hưởng dương 42 tuổi…’ Trải qua cuộc nội chiến, phía Bắc vẫn ca ngợi những anh hùng của mình. Miền Nam cũng có những anh hùng trong trí nhớ của người dân. Đó là lịch sử. Và lịch sử thì sừng sững, có thể được nhìn từ nhiều hướng nhưng không ai có thể vin vào lý lẽ nào để xóa đi. Dưới đây là chuyện kể của bà Kim Hoàng, vợ của tướng Lê Văn Hưng, mở ra một góc khuất của lịch sử. Xin đặt lại nơi đây, nhân tưởng niệm 45 năm cuộc tương tàn. Phút cuối của tướng Lê Văn Hưng Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: "Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ. " Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: "Em phải sống ở lại nuôi con."  Tôi hoảng hốt: "Kìa mình, sao mình đổi ý?" - "Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con." - "Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc." - "Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta." - "Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?" Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc: - "Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?"  Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:  - "Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế."                                                    *** Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: "Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào." Tôi phát run lên hỏi:  "Nhưng mình ơi, còn em? Em phải làm gì trong lúc này?" Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: "Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình." Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:  "Vâng, em xin nghe lời mình." Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục: "Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi." - "Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?"  Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:  "Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh." *** Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: "Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó." Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: "Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên."  Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống. Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói: "Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh." Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: "Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả."  Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. *** Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin: "Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết." Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chặt cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: "Nghĩa trở lại với tôi." Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rảy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: "Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?" Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: "Chuẩn Tướng! Trời ơi, Chuẩn Tướng!" Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: "Chuẩn Tướng! Chuẩn Tướng ơi!" Tôi bảo Giêng: "Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào cũng phải ngăn chận Việt Cộng." Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap vấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, giấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc dộng, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi. (Bài viết của Bà Quả phụ Lê Văn Hưng, khuê danh Phạm Thị Kim Hoàng) ---------------- Tướng Lê Văn Hưng là chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 3 năm 1972, ông được vinh thăng cấp bậc Chuẩn tướng nhiệm chức tại Bộ tư lệnh Sư đoàn ở căn cứ Lai Khê, Bình Dương. Sau trận tử thủ An Lộc thành công nổi tiếng trong chiến trận "Mùa hè đỏ lửa", tháng 7 cùng năm ông được tặng thưởng tại mặt trận Đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu cùng ân thưởng Huy chương đặc biệt mang danh hiệu Bình Long Anh Dũng. Ngày 1 tháng 11 năm 1974, được lệnh bàn giao Sư đoàn 21 lại cho Đại tá Mạch Văn Trường (nguyên Chánh thanh tra của Sư đoàn), để về lại Quân đoàn IV nhận chức Tư lệnh phó Quân đoàn do Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 vào lúc 8 giờ 45 sáng, khi được tin Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí đầu hàng. Tại Bộ tư lệnh Quân đoàn IV ông rất đau buồn, với tinh thần bất khuất không chịu đào thoát hoặc đầu hàng địch. Theo gương tiền nhân bảo toàn khí tiết, sau khi gặp mặt thuộc cấp dặn dò, tâm tình và vĩnh biệt gia đình, ông đã tuẫn tiết tại tư dinh ở trại Lê Lợi, Cần Thơ, bằng cách dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45. Hưởng dương 42 tuổi. 26/04/2020 Tuấn Khanh - nhacsituankhanh  
......

Đa nguyên và khai phóng là nền tảng phát huy tiềm lực đại khối toàn dân

Nguyễn Văn Đài - Web Việt Tân| 45 năm qua kể từ ngày 30 tháng Tư, 1975, hai miền Nam và Bắc đã thống nhất trong vòng kiềm tỏa của chế độ Cộng sản. Nếu những người lãnh đạo Việt Nam coi chủ trương “dân giàu nước mạnh” mà họ tuyên bố sau khi chiếm miền Nam làm mục tiêu phát triển thì ngày hôm nay, đất nước và xã hội Việt Nam đã có một tương lai hoàn toàn khác. Việt Nam 45 năm dưới chế độ cộng sản, tuy kinh tế có phát triển, thu hút nhiều đầu tư ngoại quốc sau ba thập niên mở cửa, nhưng sự phát triển này chỉ giúp làm giàu cho một giai cấp thống trị trong đảng cùng với đám tư bản đỏ. Có 4 yếu tố quan trọng mang tính quyết định trong việc phát triển và xây dựng một quốc gia từ nghèo nàn, lạc hậu để trở thành giàu mạnh và văn minh, mọi người dân được thụ hưởng cuộc sống tự do, sung túc và hạnh phúc. Thứ nhất, tài nguyên thiên nhiên phong phú và dồi dào; Thứ hai, vị trí địa lý có tầm chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng; Thứ ba, người dân thông minh, cần cù, chịu khó. Thứ tư, yếu tố cuối cùng mang tính nội tại của mỗi quốc gia và là yếu tố quan trọng nhất mang tính chất quyết định, đó là thể chế chính trị. Trong 4 yếu tố nói trên, 3 yếu tố đầu mang tính tự nhiên được Đấng Tạo hóa ban cho mà tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều mơ ước có được. Nếu chúng ta đem so sánh 3 yếu tố đầu tiên của Việt Nam với 4 cường quốc trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore thì thấy là cả 4 cường quốc nêu trên đều không có được các nguồn tài nguyên thiên phong phú và dồi dào như Việt Nam. Một là Việt Nam có đầy đủ các nguồn tài nguyên quí, hiếm phục vụ cho việc xây dựng và phát triển đất nước như Vonfram, Titan, dầu khí, quặng boxit, đất hiếm, than đá, quặng sắt, đồng, kẽm, chì,… Nhưng trong hơn 30 năm qua, chế độ cộng sản đã khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt, gây ô nhiễm môi trường, lợi tức thu được từ việc xuất khẩu quặng thô thì đem chia nhau để hưởng thụ, không đem để đầu tư xây dựng đất nước. Việt Nam cũng có 3 khu vực phát triển nông nghiệp tuyệt vời như đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ, là vựa lúa của cả nước và thế giới. Tây nguyên là khu vực cây công nghiệp như cao su, cà phê, ca cao, điều, tiêu,… mang tầm thế giới; Việt Nam có bờ biển dài, có nhiều bãi tắm và danh lam bực nhất thế giới như Hạ Long, Lăng Cô, Đà Nẵng, Phan Thiết, Vũng Tàu, Phú Quốc,… Tài nguyên biển phong phú,… Hai là Việt Nam có vị trí chiến lược hàng đầu khu vực và thế giới. Biển Đông là nơi có tuyến hàng hải quốc tế chiếm tới 60% lượng vận tải hàng hóa toàn cầu. Biển Đông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan, Trung Quốc ở khu vực, mà còn có tầm quan trọng với cả Hoa Kỳ và Âu Châu. Nói cách khác, tầm quan trọng của Việt Nam và biển Đông chính là trục lộ giao tiếp của các châu lục, trên mọi lĩnh vực như quân sự, chính trị, kinh tế,… Quốc gia nào khống chế được biển Đông thì quốc gia đó đã khống chế được hơn phân nửa thế giới. Hơn 30 năm qua, đảng và chế độ cộng sản chỉ đem biển Đông và vị trí chiến lược của Việt Nam ra làm chính sách đu dây giữa Việt Nam với các cường quốc như với Hoa Kỳ và Trung Quốc, với Nhật Bản và Trung Quốc, với Úc và Trung Quốc,… Mục đích tìm kiếm sự tồn tại cho đảng và chế độ CSVN. Không đem lợi ích gì cho đất nước và Nhân dân. Đồng thời đảng và chế độ CSVN đã và đang đánh mất tất cả mọi lợi thế của biển Đông và Việt Nam vào tay Trung Quốc. Ba là Việt Nam có dân số trẻ và mọi người đều cần cù, chịu khó, thông minh. Nhưng dưới sự cai trị của chế độ cộng sản, nền giáo dục lạc hậu lại mang tính nhồi sọ nên đã làm cho những người Việt Nam trẻ tuổi không phát huy được tố chất thông minh của mình. Nhiều tài năng trẻ tuổi sau khi du học nước ngoài thì họ ở lại. Nhưng đem yếu tố thứ tư liên quan đến thể chế chính trị, đối chiếu với 4 quốc gia phát triển Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore, Đài Loan, người ta mới thấy lý do vì sao yếu tố này mang tính quyết định trong sự phát triển của quốc gia. Cả 4 cường quốc trên không có 3 yếu tố quan trọng mà Việt Nam có. Nhưng 4 cường quốc đó có thể chế chính trị tự do, dân chủ đa đảng, văn minh, vì thế mà thể chế chính trị đã giúp cho 4 quốc gia nói trên từ nghèo nàn, bị tàn phá bởi chiến tranh, thường xuyên bị thiên tai, để vươn lên thành cường quốc về kinh tế, chính trị ở Á Châu và thế giới. Còn Việt Nam bị cai trị bởi đảng và chế độ cộng sản độc đoán, chuyên quyền, phản động. Nên đảng và chế độ cộng sản đã phá hủy mọi yếu tố thuận lợi của đất nước, tham nhũng, hủ bại và làm suy đồi văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc. Vậy làm thế nào để phát huy 3 yếu tố thuận lợi mà Đấng Tạo hóa đã ban cho đất nước, dân tộc Việt Nam để phát triển đất nước? Chúng ta đã thấy rõ, đảng cộng sản và thể chế chính trị độc tài, bạo lực của nhà nước cộng sản hiện nay là chuớng ngại duy nhất – đã và đang cản trở và phá hủy mọi tiềm năng – khiến cho người Việt Nam không có điều kiện đóng góp thật sự vào công cuộc canh tân và phát triển lâu dài. Đảng và chế độ cộng sản cũng đã và đang gây chia rẽ và mất đoàn kết giữa cộng đồng người Việt ở trong và ngoài nước. Vậy nên, Việt Nam cần một nền chính trị đa nguyên, đa đảng để đoàn kết người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng nhau chung tay xây dựng đất nước. Nói đến đa nguyên, tức là nói đến sự chấp nhận khác biệt nhưng sẵn sàng hợp lực vì quyền lợi tối thượng cho hạnh phúc nhân dân, chứ không nhằm phục vụ cho bất cứ đảng phái hay chủ nghĩa nào. Đi cùng với việc thiết lập nền chính trị đa nguyên, đa đảng, tinh thần khai phóng là một yếu tố cần thiết để con người mở rộng tầm nhìn, biết dung nạp cái mới tốt đẹp thay thế cái cũ đã lỗi thời. Tinh thần khai phóng không chỉ giúp cho người Cộng sản nhìn thấy sự cổ hũ, lạc hậu của chủ nghĩa Mác – Lênin trong sự phát triển của toàn cầu hóa, mà còn giúp cho người Việt Nam có sự tự do chọn lựa hướng tiến của đất nước, bằng chính ước mơ muốn thay đổi Việt Nam của mỗi người. Nói cách khác, đa nguyên đa đảng chỉ là nguyên tắc sinh hoạt, nhưng chính tinh thần khai phóng đã giúp cho con người sống hài hòa và chấp nhận khác biệt để cùng vươn lên. Muốn có tinh thần khai phóng, trước hết con người phải được thông tin và tự do tìm hiểu về những thay đổi chung quanh, kể cả thế giới bên ngoài, hầu từ đó có thể nhìn ra những gì phải làm và làm ra sao để cải tiến đời sống cho được văn minh hơn và giúp cho xã hội tiến bộ hơn. Ngày nào mà đất nước Việt Nam chưa có một thể chế chính trị dựa trên hai nguyên tắc Đa Nguyên và Khai Phóng, sức mạnh toàn dân không thể kết hợp làm một mà ngay cả tiềm năng to lớn được Đấng tạo hóa ban cho cũng không khai dụng một cách hợp lý để phát triển bền vững như Nhật Bản hay Nam Hàn. Rõ ràng 45 năm nhìn lại sau biến cố 30 tháng Tư, 1975 nhu cầu sinh tử của Việt Nam không phải là phát triển kinh tế, gia tăng tổng sản lượng GDP mà chính là thay đổi thể chế chính trị để cho mỗi người dân được tự do thực hiện ước mơ của chính mình, đóng vào góp vào ước mơ Việt Nam: Tự do, Dân chủ, Thịnh vượng. Nguyễn Văn Đài  
......

Nói thẳng với Phan Đăng

Ls Yến Phương| Những ngày này, người dân Việt Nam ở trong nhiều tình cảm xáo trộn, khi thấy “giặc” Trung Quốc đang ngày đêm uy hiếp nước ta. Nỗi lòng của người dân cả nước, trong đó có em – một người con nước Việt, luôn tự vấn lòng mình, “ta phải làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”? Xin tự giới thiệu với anh Phan Đăng, em chỉ là một nữ sinh Sài Gòn, sinh năm 1995, mới tốt nghiệp đại học luật, chuyên ngành luật quốc tế được 3 năm. Kiến thức của một cô gái nhỏ như em, chắc chưa theo kịp với một nhà báo tiếng tăm tầm cỡ như anh. Nhưng em mạo muội nói thẳng với anh một số vấn đề. Cũng như nhiều bạn trẻ khác, em cũng rất say mê chương trình “Lẩm Bẩm 24h” của anh Phan Đăng trên kênh Youtube. Thế nhưng, khi nghe anh Phan Đăng “lẩm bẩm” trên trang Youtube của anh ấy về đề tài Biển Đông – kiện hay không kiện, em từ kinh ngạc chuyển sang phẫn nộ. Clip này, anh Phan Đăng nói khoảng hơn 38 phút, em đã phải nghe ít nhất là 5 lần, để hiểu được vì sao Việt Nam “không chịu phát triển” và trở nên yếu hèn như vậy? Vì sao giới trẻ Việt Nam nhiều người không yếu ớt về thể chất, nhưng lại bạc nhược về tinh thần? Vì có những con người như anh, Phan Đăng ạ. Trong bài nói chuyện gần 40 phút này, luận điểm chính của anh Phan Đăng là: Để trả lời cho câu hỏi, có nên kiện Trung Quốc hay không, anh Phan Đăng nói là giới trẻ Việt Nam cần phải trả lời 3 câu hỏi của anh ấy trước đã. Đó là i) Kiện toà nào?; Kiện cái gì?; Và sau khi kiện sẽ làm gì? Trong lúc hùng biện, anh Phan Đăng đã dẫn chứng rất nhiều kiến thức từ luật quốc tế, lịch sử Việt Nam cũng như quan hệ quốc tế hiện đại để dẫn chứng cho các luận điểm của anh ấy. Và chốt lại, anh Phan Đăng trả lời giùm là “các bạn trẻ cứ yên tâm đi, Đảng và Nhà nước đã biết hết các nỗi lo của các bạn rồi, Đảng và Nhà nước đã có phương án hết cả rồi. Và chúng ta cũng không cần kiện Trung Quốc đâu. Các bạn cứ tin tưởng vào Đảng và Nhà nước đi”. Bài viết của em để đáp lại lời anh, chia thành hai phần chính. Một là trả lời 3 câu hỏi của anh về chuyện kiện. Hai là trả lời cho luận điểm hãy yên tâm đi, mọi việc đã có Đảng và Nhà nước lo rồi. Và bây giờ, em sẽ xin nói thẳng với anh Phan Đăng từng vấn đề một. Vấn đề 1 Thứ nhất, anh Phan Đăng không phải là chuyên gia luật quốc tế, mà anh ấy cũng tự nhận, những cái anh ấy nói, các cụ các bác biết hết cả rồi. Tuy vậy, thực tế là kiến thức của anh ấy không có chuyên môn về luật quốc tế. Nhưng anh lại nói chuyện kiện tụng quốc tế. Như vậy thì rõ ràng anh ta nói về một thứ anh ta không nắm chắc. Mà không nắm chắc thì chắc chắn thông tin anh ấy cung cấp không đầy đủ. “Một nửa cái bánh mì là một nửa cái bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải sự thật”. Đó là em chưa trích câu nói của Lê nin – thầy của Đảng anh là “sự nhiệt tình cộng với sự ngu dốt thành một sự phá hoại”. Chính vì thế, nếu anh không rõ về luật quốc tế, thì “để Mị nói cho mà nghe nè”: 1. Kiện toà nào Từ năm 2014 trở đi, mỗi năm vào dịp hè về, tiếng ve kêu, hoa phượng nở là tàu Trung Quốc lại tiến vào vùng biển của Việt Nam. Những căng thẳng lại dâng lên, và em lại nghe báo chí và các chuyên gia lên tiếng là cần kiện Trung Quốc ra Toà. Anh Phan Đăng có nhắc tới 3 Toà án quốc tế, nhưng hỡi ôi, anh lại nhầm lẫn. Toà thứ nhất, anh nói đúng, đó là Toà án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – Viết tắt là ICJ). Toà này là cơ quan tư pháp của Liên Hợp Quốc. Toà thứ hai anh Phan Đăng nhắc tới là Toà trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration- viết tắt là PCA). Đây là Toà quốc tế lâu đời nhất. Nhưng Toà này không phải là Toà đã ra Phán quyết trong vụ Philippines kiện Trung Quốc như anh nói đâu. Toà thứ ba thì anh Phan Đăng càng lầm lẫn. Toà này mới là Toà xét xử vụ Philippines kiện Trung Quốc nhưng nó chỉ là một Hội đồng trọng tài được thành lập khi phát sinh vụ việc giải quyết tranh chấp, thuật ngữ chuyên môn gọi là adhoc. Vụ Philippines kiện Trung Quốc là bởi vì, nếu một Toà muốn có thẩm quyền xét xử tranh chấp đó, phải có thẩm quyền xét xử theo luật định. Hai Toà trên ICJ và PCA đều đòi hỏi các bên tranh chấp đồng ý đưa lên Toà giải quyết thì Toà mới có thẩm quyền. Thứ hai, trong Công ước Luật biển của LHQ năm 1982 (gọi tắt là UNCLOS) có quy định nếu các bên tranh chấp mà tranh chấp đó liên quan đến việc áp dụng hoặc giải thích bất cứ điều khoản nào của UNCLOS thì có thể sử dụng các cơ chế giải quyết được quy định tại UNCLOS. Trong đó, có Toà trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Và chính một Toà trọng tài như vậy đã được thành lập với 5 Thẩm phán quốc tế lừng danh về luật biển là thành viên của Hội đồng trọng tài. Và theo quy định về giải quyết tranh chấp như đã nêu trong UNCLOS thì nếu các bên đã tiến hành các thủ tục giải quyết trong bước đầu tiên, nhưng vẫn không được, thì một bên có thể yêu cầu một phán quyết từ Hội đồng trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS này, mà không cần sự đồng ý của bên còn lại. Và nhờ có quy định đó, Philippines mới có thể lôi được Trung Quốc ra Toà, bởi vì Trung Quốc có bao giờ thèm ra Toà đâu. Túm lại là thế này nhé anh Phan Đăng, Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS xử vụ Philippines kiện Trung Quốc là một Hội đồng trọng tài có 5 thành viên, được lập ra chỉ để giải quyết vụ này thôi. Và Toà này sử dụng PCA làm chỗ để thực hiện vụ xét xử, sử dụng các dịch vụ của PCA để tiến hành xét xử, và dĩ nhiên, sẽ phải trả tiền cho PCA cho các dịch vụ này. Chứ không phải vụ này do PCA xử anh nhé. Không biết nói thế này, anh Phan Đăng có hiểu không nhỉ, chứ em hồi học đại học, các thầy cô đã giảng rất kỹ về chức năng và tính chất của Toà này, cũng như về Phán quyết biển Đông năm 2016. 2. Kiện cái gì Vấn đề số 2 này liên quan đến vấn đề thứ nhất. Như đã trình bày ở vấn đề số 1, các Toà ICJ và PCA thì không thể có thẩm quyền vì Trung Quốc luôn từ chối việc ra Toà, và hai Toà này có thể khởi kiện vấn đề chủ quyền. Thế nhưng, tranh chấp chủ quyền là một câu chuyện lâu dài, nó có khi kéo dài đến đời cháu anh Phan Đăng cũng chưa chắc đã giải quyết xong. Và chủ quyền không phải là tất cả. Điều quan trọng đáng nói ở đây là Trung Quốc đang sử dụng lúc thì “đường lưỡi bò” lúc thì “Tứ Sa” để làm bình phong cho việc “cướp biển” của Việt Nam. Các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với nguồn tài nguyên hải sản phong phú nay còn đâu? Ngư dân Việt Nam phải lang thang sang “trộm cá” tại vùng biển của các nước khác. Rồi dầu mỏ, khí đốt – nguồn tài nguyên đã nuôi sống nhà nước Việt Nam thời bao cấp, nay còn đâu, khi các mỏ gần thì đã khai thác sắp cạn kiệt, còn mỏ xa hơn một chút như Cá Rồng Đỏ, Cá Kiếm Nâu, Sao Vàng – Đại Nguyệt… bị “giặc Tàu” đe doạ, bắt ép phải rút lui, không được khai thác, cho dù nó nằm ở “nhà mình”. Rồi nếu khi giặc Tàu kiểm soát được hết vùng biển của mình, liệu tất cả các con tàu của mình có thể ra khơi khi không được sự cho phép của nó? Vậy thì nguy hiểm nhất đang cận kề, đó là nguy cơ Việt Nam đang mất biển. Biển mới quan trọng anh ạ. Chứ cái mỏm đá thì ăn thua gì, nhưng ta phải giữ các mỏm đá ấy vì ta muốn giữ biển, anh Phan Đăng ạ. Không biết anh Phan Đăng thông kim bác cổ như vậy có biết câu: “Đường đi khó không phải vì sông ngăn núi trở mà trong lòng cảm thấy có núi trở sông ngăn”. Lỗ Tấn cũng có câu: “Lúc ban đầu, thế giới không có đường đi, về sau người ta đi mãi thì cũng thành đường”. Trước năm 2016, anh nói câu kiện hay không kiện như bây giờ, em nghe còn lọt tai, chứ sau năm 2016, Philippines đã mở đường rồi anh ạ. Anh chỉ việc đi theo mà thôi, vấn đề là anh có dám đi không? Và chắc anh đã từng yêu, nên phải biết rằng khi người ta quyết tâm, người ta sẽ hành động, còn khi người ta không muốn làm thì người ta tìm lý do. Kiện cái gì thì em sẽ nói đây anh ạ. Em – một cô gái yêu kiều, xinh đẹp, mỏng manh nhưng không khiếp nhược trước giặc Tàu “xâm lược” sẽ chỉ anh cần kiện gì. Nếu giặc Tàu lại tiếp tục cho tàu bè của họ, Hải Dương địa chất các loại đó, xâm phạm vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của mình thì anh cứ thu thập bằng chứng về các hoạt động trái phép của họ để đệ đơn lên một Toà Trọng tài theo Phụ lục VII yêu cầu Toà phán quyết là hành động đó đúng hay sai? Và giặc Tàu bảo đó là vùng tranh chấp như khu vực Bãi Tư Chính chẳng hạn, thì anh có thể đệ đơn lên Toà hỏi khu vực đó của Việt Nam hay của Tàu Cộng? Và ai có quyền khai thác dầu mỏ, khí đốt ở đó? Cái đó hoàn toàn nằm trong việc giải thích hoặc áp dụng UNCLOS nên Toà sẽ có thẩm quyền anh ạ. Anh có nói là Việt Nam có thể yêu cầu Toà tuyên bố “đường lưỡi bò” vô hiệu. Anh ơi, cái đó Toà đã tuyên rồi, anh mất công yêu cầu lại nữa làm gì. Cho nên em nói, anh chắc phải học luật từ em thôi. Mà em chả dạy anh đâu, vì anh vừa không đẹp trai lại hèn như thế thì em chả chơi. Hihi! Còn nhiều thứ có thể kiện lắm anh ơi, chẳng hạn nè, Hoàng Sa tuy Trung Quốc đang chiếm đóng, nhưng anh có thể yêu cầu Toà trọng tài (từ giờ em nói Toà trọng tài tức là nói Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS nhé anh) phán quyết các thực thể tại Hoàng Sa có là đảo hay không? là vì Tàu Cộng nói đây là các đảo, nó có chủ quyền, vậy nó có quyền kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo đó. Rồi nữa nè, năm 1996, Tàu Cộng nó tuyên bố một đường cơ sở thẳng bao quanh Hoàng Sa, anh có thể kiện lên Toà trọng tài hỏi đường cơ sở thẳng ấy có vi phạm hay không? Túm cái ống quần lại là nếu anh muốn kiện (mà làm sao anh muốn được, Đảng và Nhà nước của anh kìa, nếu muốn kiện), cứ nói em. Em học luật quốc tế tại Sài Gòn, học chuyên Anh từ nhỏ, nên tiếng Anh em nói như gió, (mà chắc anh nghe tiếng có tiếng không) thì sẽ kiện được, dư sức kiện anh nhé. 3. Sau khi kiện thì làm gì? Anh Phan Đăng nói là dù có kiện ra Toà quốc tế thì cũng chả làm gì vì các toà án quốc tế không có cơ chế cưỡng chế thực hiện. Anh ơi, kiến thức này hồi năm 3 em đã được học. Chả có toà quốc tế nào có cơ chế cưỡng chế thực hiện, chỉ một ít trường hợp của ICJ thì Hội Đồng Bảo An LHQ mới giúp thực hiện, mà thực tế ít xảy ra lắm anh ạ. Nhưng sẽ có cơ chế anh ạ. Mà đúng rồi, anh ở cái xứ mà chỉ biết sử dụng cường quyền thì quan tâm gì đến pháp luật. Pháp luật chỉ được áp dụng khi muốn “triệt tiêu” một ai đó thôi. Chứ Đảng và Nhà nước của anh luôn ở trên pháp luật thì anh nghĩ luật pháp quốc tế nó cũng vậy chăng? Anh có biết là gần 500 năm trước Công nguyên, tinh thần tôn trọng pháp luật đã thấm đẫm trong tâm thức của người phương Tây ở Hy Lạp cổ đại không, huống chi bây giờ. Nói như anh, chắc dẹp hết các Toà án quốc tế đi nhỉ, vì gần như chả có toà án quốc tế nào mà có cơ quan cưỡng chế thi hành án như nhà nước anh nhỉ? Và đây nè, em trích nguyên văn từ một bài viết của anh Dương Danh Huy trên BBC, em thích anh này hơn anh vì ảnh không hèn như anh: “Chắc chắn Trung Quốc sẽ không tự nguyện tuân thủ phán quyết, cũng như họ đã không tuân thủ phán quyết 2016 về vụ kiện Phi-Trung. Nhưng một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, sẽ vô cùng hữu ích trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Các nước khác, đặc biệt là Mỹ, có thể ủng hộ Việt Nam một cách danh chính ngôn thuận, không thể bị cho là thiên vị một bên trong tranh chấp và sự ủng hộ của họ sẽ có nhiều trọng lượng hơn. Trung Quốc sẽ không thể ngụy biện rằng họ đang giải quyết và quản lý tranh chấp với các nước nhỏ một cách tốt đẹp, các nước ngoài khu vực không nên xen vào. Các nước khác có thể lên tiếng bảo vệ các công ty dầu khí của họ khi các công ty này làm việc với Việt Nam, Trung Quốc không thể yêu cầu họ rút ra khỏi “vùng tranh chấp“. Nếu trong tương lai Việt Nam phải đưa tranh chấp ra LHQ, vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ leo thang lấn lướt, nếu có trong tay một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, Việt Nam sẽ được nhiều phiếu ủng hộ hơn.” Đó anh thấy không. Kiện là kiện thôi, ăn thua có muốn và có dám kiện không kìa anh ơi. Anh lại nói rằng, nếu kiện Trung Quốc thì sẽ khó khăn cho người dân mình. Anh ơi, sao anh không nói Đảng và Nhà nước anh học tập Đài Loan đi, họ không dựa vào Trung Quốc mà kinh tế họ vẫn phát triển ầm ầm kìa. Khi đó thì kiện hay không cũng đâu có ngán. Còn đây, cho dù Việt Nam mình không kiện Trung Quốc, thì người dân mình vẫn buôn bán với họ theo kiểu mình là con tin của họ. Lúc thích thì họ mua. Lúc không thích thì họ kiếm chuyện đóng cửa. Mãi mãi người dân mình sẽ là con tin của họ thôi nếu không tìm cách thoát ra “ảnh hưởng của họ” anh ơi. Vấn đề 2 Tiếp theo, anh Phan Đăng nói là “các bạn cứ yên tâm đi, mọi việc Đảng và Nhà nước đã biết hết rồi, Đảng và Nhà nước đã lo cả rồi”. Ôi thôi! Em sẽ phân tích từng thứ cho anh thấy nhé. Anh chắc phải biết, trên báo chí người ta dẫn lời các chuyên gia từ trong đến ngoài nước đều khẳng định là Trung Quốc sẽ quyết tâm độc chiếm biển Đông bằng được. Điều đó là không hồ nghi gì cả. Vậy anh nói Đảng và Nhà nước có cách rồi, không cần kiện mà vẫn giữ được tất cả, không mất gì cả. Có chuyện đó không anh? Đảng và Nhà nước anh có phép thần gì để làm được như thế? Anh có biết là vừa rồi, khi Trung Quốc lại nhắc lại cái “công hàm” Phạm Văn Đồng 1958 làm cả nước xôn xao không anh? Anh biết vì sao mà người ta lại cãi nhau ỏm tỏi như vậy không? Đó là niềm tin giữa những người dân với Đảng và Nhà nước của anh đã cạn kiệt rồi. Mà không cạn sao được. Đảng và Nhà nước của anh nào là vụ Đồng Tâm, Văn Giang, Tiên Lãng… toàn “đánh úp” người dân thôi. Thế thì làm sao mà họ tin vào Đảng và Nhà nước được? Vì lỡ tin, lại có một cái Hiệp ước Thành Đô nữa hay sao? Thêm nữa, Đảng và Nhà nước của anh, từ Chính phủ đến quân đội, công an, đều tham nhũng đầy mình, đều là những bầy sâu nhung nhúc, ăn của dân không chừa thứ gì. Ngay cả đại dịch Covid mới đây nè, mua cái máy xét nghiệm có 2 tỉ thì kê lên 10 tỉ, thế thì với những đại tướng tham nhũng như Phùng Quang Thanh, Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, hay Trung tướng Trần Việt Tân, Bùi Văn Thành… Những người đó mua tàu ngầm Kilo hay tàu chiến Gerard về, lấy gì để đảm bảo họ không kê giá, không ăn bớt? Và những vũ khí đó, liệu có còn xài được không hay chiến sự nổ ra mới hiện nguyên hình là những đống sắt vụn? Chưa kể, với những người tham tiền như thế thì Trung Quốc họ thiếu gì tiền, họ tìm cách hối lộ cho các anh hàng tỉ đô la như cái vụ Bô xít Tây nguyên… Lỡ các anh bán nước thì làm sao tụi dân đen như tụi em có thể biết được? Cho nên anh Phan Đăng ơi, lẽ ra, anh phải khuyến khích những người trẻ như em phải trăn trở với vận mệnh dân tộc, phải đau với nỗi đau của dân tộc thì mới đúng, đằng này anh bảo tụi em hãy vô tư vui chơi đi, hãy trà sữa và tự sướng đi, cho dù ngã vào xe lửa chết cũng được. Thao thức với dân tộc không có nghĩa là chúng em chống lại Đảng và nhà nước của các anh đâu. Chúng em muốn đồng hành với Đảng và Nhà nước của anh trong công cuộc chống lại giặc Tàu này kia. Ngày xưa, Chế Lan Viên phải đau khổ vì “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/ Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.” Thế mà ngày nay, khi tụi em thao thức với tương lai của dân tộc, thì anh lại khuyên bảo tụi em là hãy lo yêu nhau và làm tình đi, vì tất cả Đảng và Nhà nước đã lo rồi. Cũng Đảng và nhà nước của anh lo mà như chị Trần Thị Lam phải đau khổ thốt lên rằng: “Rừng đã hết và biển thì đang chết/ Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa”. Anh dẫn chứng lịch sử chúng ta bị đô hộ hàng ngàn năm mà không bị mất nước. Đúng là như vậy. Bác Hồ kính yêu của anh (đúng không anh?) đã từng nói thế này: “Cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể”. Chính vì thế, anh phải xem cụ thể trường hợp này thế nào nha anh? Nước Việt Nam bị đô hộ hàng ngàn năm không bị mất là nhờ ý chí kiên cường bất khuất chống giặc Tàu của cha ông ta, còn ươn hèn thì làm sao mà chả mất nước. Anh ơi, anh hay nói về lịch sử, anh có nhớ Hịch tướng sĩ không? Này nhé, “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.” Phải có ý chí quyết tâm, căm thù giặc như vậy thì mới có thể giữ được nước chứ anh. Em còn muốn viết nhiều nữa, nhưng em sẽ đợi khi nào anh trả lời em đã. À, em còn cần nói thêm với anh đôi điều. Đó là thay vì kêu tụi em hãy yên tâm kê cao gối ngủ đi, thì anh cần nhớ lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ anh đó: “Chúng ta muốn hoà bình nên chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì kẻ địch càng lấn tới”. Và mong rằng, Đảng và Nhà nước của anh cần phải hiệu triệu toàn dân: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, quyết không để mất một tấc đất, tấc biển nào của tổ tiên để lại” thì tất cả những người trẻ như em sẽ theo bước, chứ không phải ru ngủ tụi em nhé anh. Và nếu anh còn tiếp tục ru ngủ nữa, anh sẽ là tội đồ của dân tộc này đó. Còn chương trình “Lẩm bẩm 24h” của anh chắc nên đổi thành “Lẩn Thẩn 24h” thì mới đúng bản chất. Chào thương mến và quyết thắng nhé anh!    
......

Môi trường sống đang chết dần bởi bàn tay quan chức Cộng Sản

Đặng Xuân Diệu - Web Việt Tân| Sau hơn ba mươi năm, đất nước Việt Nam núp bóng dưới mỹ từ “đổi mới”, nhưng môi trường sống lại trở nên ngày một tồi tệ đến mức nguy hiểm đến cuộc sống và tính mạng người dân. Tình trạng ô nhiễm diễn ra khắp nơi, từ biển khơi tới rừng núi cao, từ hải đảo Phú Quốc đến thung lũng Tây Bắc. Câu nói cửa miệng của mọi người Việt Nam hiện nay là “mọi thứ đều bị ô nhiễm.” Một nghiên cứu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ về bảo vệ hệ sinh thái công bố vào năm 2018, Việt Nam đứng thứ 131 trên toàn cầu, thấp hơn cả Trung Quốc đứng thứ 109. Trong đó có một số chỉ tiêu cơ bản mà Việt Nam đứng sát đáy của nhóm 10 nước tồi tệ nhất về xử lý nước thải, ô nhiễm bụi và mật độ che phủ rừng. Theo báo cáo năm 2017 của tổ chức Ocean Conservacy, Việt Nam là nước đứng thứ 4 trong số các quốc gia gây ô nhiễm môi trường biển nhiều nhất trên thế giới. Trong đó, rác nhựa của 5 nước gồm Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Sri Lanka thải ra biển nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trên thế giới cộng lại. Riêng tại Việt Nam vào năm 2016, công ty Formosa đã gây thảm họa môi trường khiến cá chết hàng loạt trên chiều dài hơn 300 km dọc bờ biển mà đến nay chưa hồi phục. Về ô nhiễm không khí, theo số liệu từ EPI (The Environmental Performance Index) của Hoa Kỳ thực hiện và công bố, Việt Nam hiện đang đứng trong nhóm 10 quốc gia ô nhiễm không khí nhất Châu Á. Đáng lưu ý, tổng lượng bụi ở Hà Nội và TP. HCM liên tục tăng cao, khiến chỉ số chất lượng không khí (AQI – Air Quality Index) luôn ở mức dẫn đầu trong số 10 thành phố ô nhiễm nhất thế giới. Thật vậy, chúng ta không khỏi giật mình khi xem những con số do Bộ Tài Nguyên và Môi Trường báo cáo vào tháng Tám, 2019 như sau: (không loại trừ khả năng con số thực tế còn kinh khủng hơn). Mỗi năm, cả nước đã thải ra môi trường hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật; phát sinh hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt; hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp; hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại từ nguồn khác. Riêng lượng tro xỉ thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than đang vận hành ước tính 12,2 triệu tấn và chủ yếu tập trung tại khu vực miền Bắc (chiếm 60%), miền Trung (chiếm 21%) và miền Nam (chiếm 19%). Chúng ta đều biết hệ thống nhà máy nhiệt điện này đều nhập khẩu máy móc, dây chuyền công nghệ từ Trung Quốc 4 tốt. Trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m³ nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Trên 5.000 doanh nghiệp khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng; hơn 4.500 làng nghề. Hơn 13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m³ nước thải y tế. Cả nước hiện có 787 đô thị với 3.000.000 m³ nước thải/ngày đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý trước khi chảy thẳng ra kênh mương, sông rạch. Hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải, trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan. Như vậy, phải nói rằng người dân cả nước đang sống trong tình trạng nguy hiểm, do ô nhiễm môi trường ngày càng lớn cả về quy mô lẫn mức độ độc hại từ đất đai canh tác, nguồn nước mặt, nước ngầm và không khí . Bằng chứng là thời điểm này ở các khu đô thị Việt Nam, để tìm được một con sông hay kênh đào có nguồn nước trong sạch theo tiêu chuẩn bình thường là điều vô cùng hiếm. Nước vốn là chất không màu, không mùi nhưng giờ đây tại Việt Nam, nước hầu hết đã có màu nâu, thậm chí màu đen và có mùi hôi thối. Để môi trường sống của người dân trên cả nước dẫn đến thảm trạng như ngày hôm nay là do rất nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân cốt lõi và nền tảng nhất chính là xuất phát từ giới lãnh đạo của đảng Cộng Sản không có tầm nhìn chiến lược hay còn gọi là thiếu sự hiểu biết về việc xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi lòng tham của quan chức kể từ khi mở cửa phát triển kinh tế được dịp nở rộ. Các quan niệm “ăn xổi ở thì” trong thời bao cấp được nâng lên một tầm cao mới trong hệ thống kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó trở thành tư duy “vơ vét theo nhiệm kỳ” và “sống chết mặc dân, tiền quan bỏ túi.” Nhìn về quá khứ chúng ta thấy rõ ràng thảm trạng môi trường của Việt Nam bắt nguồn từ sai lầm về việc xây dựng hệ thống giao thông quốc gia, lập quy hoạch cơ sở hạ tầng đô thị và chủ trương phát triển nông thôn. Bắt đầu từ năm 1996 sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và kỷ niệm 10 năm chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, cầu đường bắt đầu hình thành và mở rộng ở mọi nơi. Các định chế tài chính quốc tế và các quốc gia phát triển ào ào đổ ngân quỹ vào viện trợ cho Việt Nam, khiến cho cả một dải đất hình chữ S bỗng trở thành một bãi xưởng công trường kéo dài hơn 20 năm nay mà vẫn ngổn ngang mịt mù khói bụi. Để kịp giải ngân, các dự án được vẽ ra và phê duyệt rầm rộ trong cái tầm nhìn hạn hẹp ấy, sau đó phân chia cho các tổng công ty nhà nước, tập đoàn tư nhân, doanh nghiệp cá nhân, tập đoàn quốc tế… thi nhau đào núi, ngăn sông, lấp hồ, đắp đập thủy điện… khiến cho hệ thống thủy văn tự nhiên hàng ngàn năm nay bị phá vỡ hoàn toàn. Mẹ Việt Nam kể từ đó và nhiều năm sau này phải luôn gồng mình chịu cảnh hạn hán, lũ lụt thảm khốc như là một tất yếu. Rõ ràng là với một thể chế độc tài cả về cơ cấu lẫn tư tưởng đã sản sinh ra hàng hàng lớp lớp thế hệ cán bộ tham lam vô độ. Do đó việc mở cửa phát triển kinh tế theo cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, đã làm cho đất nước bị phân chia, xé nát ngay từ đầu và sau này cứ chạy theo chắp vá, giải tỏa, đền bù… khiến cho sai lầm chồng chất sai lầm. Bắt đầu từ tư duy thiển cận trong một hệ thống chính nhơ nhớp, hàng ngàn thứ hệ lụy về môi trường và xã hội đã bắt đầu sinh sôi nảy nở, để rồi đến nay sau 45 năm cai trị toàn cõi Việt Nam, đảng Cộng Sản đã biến đất nước với rừng vàng biển bạc, đất đai phì nhiêu thành một tổ quốc cạn kiệt mọi thứ ngoại trừ bất công lan tràn. Đặng Xuân Diệu Vấn đề ô nhiễm không khí tại Hà Nội  
......

Một lời khuyên nguy hại

Luân Lê| Cuối cùng thì anh ta cũng đã muốn từ bỏ chủ quyền của đất nước về một phần quan trọng - biển đảo. Anh ta có quyền có quan điểm, nhưng việc khuyên nhủ và muốn mọi người phải từ bỏ quyền đối với lãnh thổ lại là một vấn đề nghiêm trọng. Nó chống lại bổn phận bảo vệ tổ quốc được ghi nhận trong Hiến pháp là một nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả nhất của một nhà nước và mỗi công dân. Khởi kiện là một biện pháp hoà bình và văn minh nhất mà loài người đạt được sau những cuộc chinh phạt và xâm lấn lãnh thổ bằng quân sự (chiến tranh) qua các thời kỳ biến động lâu dài của lịch sử. Nhưng anh ta lại đang đi ngược lại sự vận hành này - từ bỏ quyền khởi kiện để tuân theo pháp luật - thứ mà ai và quốc gia nào cũng phải thượng tôn nó trong mọi hoạt động của mình. Anh ta muốn nhân dân phải từ bỏ quyền bảo vệ tổ quốc của mình theo con đường văn minh và ít tổn thất nhất. Nhưng anh ta cũng lại không quên nhắc rằng người dân nên tin tưởng vào Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ các quần đảo của Việt Nam. Công hàm 1958 và những chính sách đối xử bất công với lịch sử sau 1975 với thực thể VNCH chẳng phải là những thứ đang gây bất lợi cho chính Việt Nam hay sao? Chẳng phải hàng dài người phải đến những cây nhả gạo tự động của tư nhân từ thiện trong đợt đại dịch này? Nên nhớ, niềm tin là một sự lựa chọn. Và trong mọi hoàn cảnh, việc hành xử theo luật pháp mới là quan trọng nhất khẳng định sự văn minh và trách nhiệm của bất kỳ một chủ thể nào. Năm 1988 chẳng phải Trung Quốc đánh Gạc Ma mà ta đã chẳng thể làm gì? Chẳng phải Trung Quốc vẫn thường xuyên gây hấn và xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, ngày một trắng trợn, manh động và dày đặc hơn? Nhân dân nào cũng cần một chính quyền mạnh mẽ và hành động theo luật pháp, nó là một phương thức văn minh và hoà bình, ít tổn hại nhất về mọi mặt mà lại có sự chính danh trước toàn thế giới. Anh ta, vẫn chỉ muốn nhân dân cam chịu hành xử vô pháp và cúi đầu chịu đựng những vấn đề vượt quá cả thẩm quyền của một Nhà nước hay nhỏ hơn là một Đảng đang cầm quyền. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng nhất. Trong khi anh ta thì chẳng có hiểu biết gì về luật pháp, làm sao lại dám lên tiếng khuyên nhủ nhân dân về những điều ngu ngốc tai hại tới mức, ngầm nhắc rằng, đừng bận tâm gì tới vấn đề chủ quyền quốc gia - chẳng thể kiện vì không biết kiện ai và kiện cái gì. Bài học đầu tiên để làm người, là bài học về độc lập và nghĩa vụ trước Tổ quốc của mình. Anh ta đã tự tuyên bố tước bỏ cả hai, và còn muốn nhân dân cũng nên thực hiện nó vào thời điểm mà chúng ta phải hành động quyết liệt nhất. “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không làm vương đất Bắc”. Và một chàng trai mười sáu tuổi còn sôi sục lòng yêu nước trước giặc xâm lăng bờ cõi. Đằng này, hậu bối khuyên nhủ người dân trở nên cam chịu và bạc nhược trước tình thế mà buộc phải cứng rắn và cương quyết. Đó là một hành động gây tổn hại đến lòng yêu nước và tinh thần của nhân dân.          
......

45 năm chính sách “triệt người”

Manh Kim Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long (cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”), kể lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn: “Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu... Cả chủ tiệm cũng mạng vong”… Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn “băng đỏ” gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975. Không chỉ đốt sách, con người cũng bị triệt, đến tận cùng. Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư… đều bị tống đi học tập cải tạo. Miền Nam không chỉ đột nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực mà còn chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng: phu nhân đại tá đi bán rong, vợ giáo sư buôn vỉa hè, thầy giáo mưu sinh bằng xích lô, ký giả chạy xe lam, con sĩ quan xếp hàng mua từng ký gạo… Những hình ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975. Trong số “đối tượng” hứng chịu sự trả thù vô lý và nghiệt ngã có những trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt. Điều đáng tiếc nhất là một số trí thức này đã phải “trả giá” cho lòng yêu nước, khi họ chọn ở lại mà không đi nước ngoài sau 1975, với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và với nhiệt tâm đóng góp tái thiết sau chiến tranh. Quê hương, với họ, là nước nhà; là đất nước và mái nhà. Sinh năm 1929 tại Cần Thơ, giáo sư Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris; bằng Cao học Vạn Vật học, Paris; bằng Thạc sĩ/Agrégé Vạn vật học; bằng Tiến sĩ Khoa học/Vạn vật học, Paris. Giáo sư Hộ từng là giám đốc Hải học viện Nha Trang; Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn; Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục; Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ… Ông cũng là Hội viên Hội Thực vật học Pháp; Hội viện Hội Tảo học Quốc tế; Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế; Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong… Giáo sư Hộ là người vận động cho bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây vào giữa thập niên 1960. Đó là Viện Đại học Cần Thơ, nơi canh nông trở thành môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học. Sau 9 năm sống dưới chế độ mới, giáo sư Hộ, từ khát vọng, trở nên thất vọng. Môi trường giáo dục bị thay đổi hoàn toàn. Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc áo thô đính băng đỏ. Cuối cùng, năm 1984, khi được Chính phủ Pháp mời sang thỉnh giảng, giáo sư Hộ quyết định ở lại Paris. Tại Pháp, ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris (thuộc hệ thống Đại học Sorbonne), miệt mài làm việc suốt sáu năm, bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới phải nghiêng mình ngưỡng mộ. Không như giáo sư Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần. Từng được giáo sư Hộ mời về Viện Đại học Cần Thơ thay mình ở ghế viện trưởng, giáo sư Xuân tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học Vanderbilt, Mỹ. Giáo sư Xuân cũng là vị Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Một bài báo trên Thanh Niên (28-4-2015) nhắc lại: “Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, trước ngày 30-4-1975, những người nào có chức sắc ở Viện Đại học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ trưởng, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam”. Gs. Phạm Hoàng Hộ và Gs. Nguyễn Duy Xuân Không chỉ không được trọng vọng, giáo sư Xuân còn bị tống đi tù, bị giam tại trại Hà-Nam-Ninh. Cuối cùng, năm 1986, giáo sư Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc. Nhắc lại điều này, bác sĩ Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót: “Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước, vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu”… Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng của các trí thức như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Lê Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, bác sĩ Ngô Thế Vinh, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, ông Đỗ Văn Thảo (cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia; bị đi “cải tạo”), giáo sư Vũ Quốc Thông (Khoa trưởng Đại học Luật khoa Sài Gòn, cũng bị đi tù)?… Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu chế độ cai trị - luôn dễ bị “kích động” một cách thái quá cái gọi là “tự hào dân tộc” - biết dùng hiền tài, để sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa? Trí thức chân chính là những người không chỉ “thể hiện” lòng yêu nước bằng ngôn từ. Họ là những người không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho sự tụt hậu nước nhà cùng sự lấn át ngoại bang. Trong bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày 2-2-2017, tác giả Lê Học Lãnh Vân thuật lại tâm sự của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong một lần gặp ông tại Pháp giữa thập niên 1980: “Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!”… Chưa ai thống kê cho thấy có bao nhiêu trí thức kiều bào vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có những người bị cấm về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “trân trọng đón chào” trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ không tin và họ có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. Khi những Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Chu Hảo… còn là “thành phần phản động” thì không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự “thành thật” của nhà cầm quyền đối với trí thức. 45 năm sau 1975, chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách “triệt người”, “triệt” cả chính người của họ. Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ không có cơ hội. Một trong những trí thức mà khi tiếp xúc, tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội của ông dành cho nước nhà. Nói chuyện với ông có cảm giác như đang ngồi trước một sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, dù ông đã gần 80 tuổi. Đó là bác sĩ Ngô Thế Vinh. Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền Tây, với đồng bằng sông Cửu Long, một cách bền bỉ, dù quê quán ông ở Hà Nội. Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng. Ông cũng là tác giả quyển Mekong, dòng sông nghẽn mạch… Việt Nam không chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch. Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng trí tuệ của các bậc trí thức minh tuệ-hùng tâm./.  
......

Vì Sao Nhiều Người Thích Truyện Kiều?

Pham Nguyen Truong I. Tư duy theo lối mòn   Đôi lời phi lộ: Nhân việc ông Nguyễn Phú Trọng lẩy Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" làm ngứa cái lỗ nhĩ, suốt đêm không ngủ được mới nảy ra ý định viết loạt bài này, nhưng đây không phải là chê cụ Nguyễn Du hay truyện Kiều mà là chê những người thời nay vẫn tư duy theo lối nông dân, duy tình, theo lối mòn, từ thời Nguyễn Du hay trước cả Nguyễn Du.   1. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (ở đây xin không cần ghi chú thêm rằng cả người nói lẫn người nghe đều hiểu "Tâm" là "Thiện tâm" chứ không phải "Tà Tâm" hay "Ác Tâm"; "Tâm= Đức", "có Tâm" = "có Đạo đức". Đây chính là câu làm ngứa cái lỗi nhĩ. Tai sao ngứa? Tại vì đấy là câu cửa miệng, sao mòn nhưng rất sai và rất có hại! Xin hỏi: Bạn đã bao giờ thấy người nào phàn nàn là thiếu tâm chưa? Chắc chắn là chưa. Bạn có thể thấy nhiều người phàn nàn là thiếu sức khỏe, bạn có thể thấy đôi khi có người phàn nàn là thiếu kiến thức hoặc thiếu thông minh, nhưng thiếu tâm thì từ thuở khai thiên lập địa đến nay chưa có người nào phàn nàn hết. Không ai chịu nhận là mình thiếu tâm, cho nên một người nào đó, ví dụ, ông vua, quan trên hay bí thư chi bộ sẽ là người quyết định ai là kẻ có “tâm”. Thế là rất sai và rất có hại. Xin xem xét 2 trường hợp A. Trường văn trận bút, cụ thể là lĩnh vực dịch thuật mà tôi khá thạo. Không có "Tài" làm sao dịch hay? Mà không có "Tâm" làm sao biết thông thạo hai, ba thứ tiếng? Thêm nữa, người ta nói "Tài", 10% là bẩm sinh, 90% là do học tập, cho nên người có "Tài" thực chất đã là có "Tâm". Những lĩnh vực viết lách khác, làm văn, làm thơ, làm báo thì cũng tương tự như thế, người ta chỉ thấy người “tài”, được thể hiện trên trang sách, trang báo, và có thể đánh giá một cách khách quan hoặc tương đối khách quan; và cũng có thể nói “Có tài là có tâm” Nhưng ở các nước phong kiến hay độc tài đảng trị, người nào không nghe quan trên hay bí thi chi bộ liền bị coi là không có "Tâm", và những thể chế lạc hậu đó đã giết chết hoặc chí ít là làm thui chột biết bao nhiêu tài năng. B. Chính trường Đây là lĩnh vực dễ bị lẫn lộn nhất và cũng dễ bị người ta dễ dãi tin rằng “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” hơn cả. Đấy là khi người ta nghĩ tới Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… và họ đặt câu hỏi: “Những người đó có tài không?”, rồi tự trả lời: “Có quá đi chứ!”. “Nhưng vì sao họ giết nhiều người như thế?”. “Vì họ không có tâm”. Ở đây lại phải chia thành hai trường hợp. - Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… là những kẻ cướp được chính quyền. Ta có thể làm gì với kẻ cướp trên đoạn đường vắng khi hắn bảo: “Đưa ví và xe đây hay mất mạng?”. Chắc hắn là phần lớn chúng ta không muốn mất mạng. Cho nên phải tránh bọn cướp. Cướp chính quyền thì cũng thế. May là hiện nay những vụ cướp chính quyền đã là của hiếm và ngày càng hiếm hơn. - Nhân dân Đức lúc đó vì những bức xúc nhất thời mà chủ quan nên đã giao cho một kẻ mị dân đại tài là Hitler nhiều quyền hành quá đến mức sau này ông ta đã dìm nhiều dân tộc láng giềng và cả nhân dân Đức vào biển máu. Nhưng nhân loại đã có biện pháp khắc chế những tên đồ tể như Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… Đấy là chế độ dân chủ với chính phủ hạn chế, pháp quyền, tam quyên phân lập, tòa án độc lập, tự do ngôn luận và xã hội dân sự vững mạnh. Chỉ xin lấy một ví dụ rất gần đây về thời gian và rất gần chúng ta về địa lí: Hàn Quốc. Các chính khách cứ việc thoải mái nói rằng mình có tâm, thậm chí rất nhiều tâm; dân chúng nghe lọt lỗ nhĩ thì họ sẽ bầu cho quý vị. Nhưng dân chúng cũng có những cơ chế để phế truất, thậm chí cho quý vị vào tù. Bà tổng thống Hàn Quốc vừa vào tù là ví dụ nhãn tiền. Nước Mĩ thì cũng thế. Như vậy là, chế độ dân chủ, với những đặc điểm của nó như chính phủ hạn chế, pháp quyền, tam quyên phân lập, tòa án độc lập, tự do ngôn luận và xã hội dân sự vững mạnh có thể nhầm lẫn mà bầu một kẻ “không có tâm” lên làm tổng thống, nhưng cũng có những cơ chế để lôi kẻ đó xuống, thậm chí là bỏ tù hắn ta; chẳng cần phải bàn nhiều về “tâm” với “tài”. Thương trường thì cũng thế. Thị trường tự do, cởi mở, không có rào cản, trăm người bán vạn người mua sẽ cho người ta thấy ngay người sàn xuất hay người bán hàng nào có tâm và tài mà không cần phải bàn nhiều về “tâm” với “tài”. Ngứa cái lỗ nhĩ và mất thì giờ vô ích. Ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư của một đảng tự nhận là lãnh đạo cả nước mà không biết những chuyện đó, vẫn suy nghĩ theo lối duy tình, sáo mòn, lạc hậu, trích dẫn lung tung. Thật là đáng nản và thật là bất hạnh cho chúng ta!  
......

Công an Việt Nam ra sức bảo vệ đường lưởi bò

Phạm Minh Vũ| Thời gian gần đây, mặc dù đất nước đang ngập chìm trong dịch bệnh Virus Vũ Hán, thay vì tìm cách giúp dân chống dịch, thì lực lượng công an Việt Nam không quên thể hiện rất rõ bản chất tay sai cho trung cộng. Nếu như Trung cộng lợi dụng tình trạng dịch bệnh để tranh thủ gây hấn ở Biển Đông, thì cộng sản VN lại lợi dụng dịch bệnh để sách nhiễu, gây phiền toái thậm chí bắt giam nhiều người yêu nước chống trung cộng. Mới đây, nhà cầm quyền Hà Nội bắt giam nhiều người yêu nước ôn hoà như Đinh Thị Thu Thuỷ, Trần Đức Thạch. Mời và đe doạ, gây áp lực với nhiều anh chị em lên tiếng trên mạng xã hội. Điểm chung nhiều anh em bị mời đều liên quan tới Khẩu trang có biểu tượng NoU là cắt đường lưỡi bò phi pháp do trung cộng vẽ ra tại Biển Đông. Lực lượng an ninh VN nói rằng không được đeo loại khẩu trang “phản động” này, để hợp thức hoá cái gọi là “phản động” thì công an VN gắn cho nó lên cái mác Việt Tân. Muốn người dân thấy rằng khẩu trang này là Việt Tân làm ra là sai trái, là không được đeo ở VN đâu. Sự thật là do người dân VN quyên góp tiền qua lời kêu gọi của một số người yêu nước, trong đó Cô giáo Yêu nước, yêu môi trường Ngô Thị Thứ là người ra sức vận động nhân dân góp tiền. Mà nếu sử dụng cách gắn cái mác Việt Tân lên khẩu trang ấy thì cộng sản Việt Nam lại thừa nhận Việt Tân là yêu nước đòi chủ quyền, và cũng tự vạch mặt mình là bọn tay sai cho tàu cộng để ra sức bảo vệ đương lười bò rồi. Tôi đang tự hỏi, tự khi nào bảo vệ chủ quyền quốc gia lại bị cho là phi pháp? Và tự khi nào bọn phản quốc lại suốt ngày lên Tivi, báo đảng để rao giảng lòng yêu nước? Thay vì nghĩ cách hiến kế để chống giặc, để lấy lại chủ quyển biển đảo cho VN thì công an VN lại đàn áp dân, đe dọa ai mà mặc áo, bịt khẩu trang có biểu tượng cắt đường bò sẽ bị bỏ tù, sẽ bị đánh đập, sẽ bị đuổi việc. Hành động ra sức bảo vệ đường lưỡi bò của lực lượng công an bằng cách sử dụng vũ lực để trấn áp dân trong thời gian qua là bằng chứng không thể chối cãi, để thêm một lần nữa khẳng định: chính chúng nó là bọn phản quốc, chính chúng nó là tay sai, không ai ngoài bọn chúng. Không biết các ông là người Việt hay người Tàu nên tôi xin long trọng nhắc lại cho các ông nhớ, Người Việt Nam luôn có lòng yêu nước nồng nàn, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả thậm chí bằng sinh mạng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bằng chứng là hàng triệu người Việt nằm xuống vì yêu nước cho cả 2 miền. Xa hơn còn văng vẳng tiếng trống Mê Linh, trên Sông Như Nguyệt, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa còn loang máu quân xâm lược. Lòng yêu nước của Người Việt Nam chúng tôi không phải là cân đường hộp sữa mà cân đo đong đếm bằng nhà tù hay là vài tờ giấy mời là doạ được họ. Giấy mời đó chỉ doạ được bọn phản quốc như các ông mà thôi. Đừng ngạo mạn khi còn quyền lực trên tay, dừng tay lại đi. Là con người phải biết suy nghĩ, hãy nghĩ về tương lai Nhân dân sẽ gửi lại giấy mời đó tới các ông với nội dung gì chắc các ông đã biết. Hãy nhớ rằng, tội gì Nhân dân cũng có thể tha thứ được, tội phản quốc thì còn mãi với thiên thu!
......

Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh: Câu chuyện người xứ Nghệ

‘…Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh cả hai là người con xứ Nghệ nhưng họ đã lựa chọn hai con đường dấn thân rất khác nhau. Một bên là suy nghĩ, văn hóa dân tộc, văn hóa từ cư dân làng, tư tưởng nhân nghĩa, và đồng thuận xã hội để góp phần vào việc giúp dân…’ Phạm Đình Bá - baotiengdan.com| Nghệ Tĩnh là vùng đất định cư của tộc Việt với các di chỉ khảo cổ trên bốn ngàn năm (1). Cứ địa nầy đóng vai trò quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước. Lấy ví dụ, đầu thế kỷ 15, vua Lê Lợi dưỡng quân ở xứ nầy để kháng chiến chống quân Minh xâm lăng và giành lại độc lập cho nước Đại Việt (2). Xứ nầy đầy đủ địa hình núi cao, trung du, đồng bằng và ven biển (3, 4). Dân miền núi sinh sống ở hầu hết các thôn bản, trong các nhà sàn bằng gỗ với nghề nông. Dân trung du thường trồng cây hoặc đốt nương làm rẫy, chăn nuôi, làm sản phẩm và dệt vải. Dân đồng bằng làm nông, do nhiều núi đồi bao quanh nên đất ruộng không nhiều. Nghề biển đã ăn sâu từ bao đời và cứ thế ra khơi bám biển. Người xứ Nghệ có tính hiếu học, giàu lòng yêu quê hương, kiên cường và dũng cảm chống ngoại xâm (3, 4). Nhà hoạt động xã hội Lê Anh Hùng sinh ra và lớn lên ở đây. Một người điềm đạm, mực thước và hiền lành với bạn bè nhưng cứng rắn với dối trá, anh suy nghĩ và làm văn theo văn hóa Nghệ Tĩnh (5). Cứ mỗi lần cầm bút là anh nghĩ đến ba đứa con thơ. Người đàn ông 39 tuổi này đã hai lần vào tù, vì viết blog về nhân quyền và nạn hối lộ, và thường sống phấp phỏng khi còn tự do để viết (6). Tuy thế, anh nói, “Tôi biết điều mình lựa chọn là nguy hiểm nhưng tôi chấp nhận trận chiến này.” Ông Hồ Chí Minh cũng là người xứ Nghệ (7). Trong quá trình hoạt động lâu dài để sáng lập đảng Cộng sản, giành độc lập cho đất nước rồi tạo dựng quyền lực cho đảng, ông từng vào tù ra khám nhiều lần. Ông bị tù ở nhiều nơi và nhiều năm, Hồng Kông, Liên Xô và Trung Quốc (7). Trong những năm lao tù, ông không bị gán ghép là ông bị bệnh tâm thần. Ông cũng không bị buộc phải uống thuốc dành cho người điên để làm suy giảm tinh thần đấu tranh của ông cho đảng. Chính phủ mà ông tạo dựng, theo ý của ông, là một chính phủ cho dân, vì dân và dân ở đây theo ý ông là dân nghèo, dân đen. Lê Anh Hùng học trung học ở Nghệ Tĩnh và tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Anh rời đại học để bước vào một xã hội với nhiều vấn đề, bao gồm thảm họa môi trường, tham nhũng, dân oan, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm và vi phạm nhân quyền (6). Phản ứng của anh trước bất công cũng không khác gì phản ứng của những người đi trước anh. Nhận đình về giá trị và đời sống người dân đưa đẩy anh vào con đường đối kháng với bất công và bạo lực qua ngòi bút mạch lạc với tầm phân tích có chiều sâu (6). Cảng Sơn Dương, Vũng Áng Hà Tĩnh là thương cảng với hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam và của Lào (8). Thảm họa môi trường Formosa đề cập đến hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng bắt đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 2016 và sau đó lan ra vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, và Quảng Nam-Đà Nẵng (9). Trong gần 3 tháng, chính phủ che đậy thảm họa môi trường nầy, dù rằng đến cuối tháng 4, hàng tấn cá biển chết dạt vào bờ ở các tỉnh Hà Tĩnh (>10 tấn), Quảng Trị (>30 tấn), và Quảng Bình (>100 tấn). Ngày 30 tháng 6 năm 2016, gần ba tháng sau, chính phủ tổ chức họp báo, công bố nguyên nhân cá chết là do chất thải gây ô nhiễm từ Công ty thép Formosa khi chính phủ cho phép họ dùng một đường ống ngầm để mỗi ngày xả ra biển khoảng 12.000 m3 chất thải. Trong hơn 1 năm từ khi có thảm họa Formosa, hàng loạt người dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng và nhiều thành phố trong cả nước đã xuống đường trong nhiều đợt để đòi hỏi “Cá cần nước sạch, dân cần minh bạch” (9). Các bloggers, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ sáng tác về đời sống cư dân các tỉnh bị liên hệ, cũng như lo âu của dân ở nhiều nơi khác. Mặc dù chính phủ đàn áp các cuộc xuống đường và bắt giam một số người lên tiếng về thảm họa môi trường, blogger Lê Anh Hùng và nhiều người khác vẫn lên tiếng liên tục và mạnh mẽ để bảo vệ môi trường (10). Thực tế phổ biến trong cách lãnh đạo và cách làm việc của đảng và chính phủ của ông Hồ là sự hiện diện thường xuyên của tham nhũng, dối trá và gian lận (11). Nhân viên nhà nước lừa dối dân trong khi cung cấp dịch vụ mà trên luật pháp, dân được quyền nhận các dịch vụ ấy. Đồng nghiệp lừa dối nhau. Các cơ quan cấp dưới gian lận trong nhiệm vụ và ăn chận các quỹ được phân bổ. Tham nhũng đi vào trung tâm của chế độ và có quy mô lớn. Tổ chức Toàn vẹn tài chính toàn cầu ước tính thất thoát ra nước ngoài mỗi năm trung bình khoảng 10,6 tỉ đô la Mỹ liên tục từ 2006 đến 2015, và rất có thể vẫn tiếp tục cho đến nay, 2020 (12). Bất chấp đàn áp từ đảng qua bắt bớ và giam cầm, các bloggers tiếp tục tố cáo nguy cơ làm mất đi cơ hội đầu tư vào các dự án cần thiết cho đất nước khi cán bộ cấp cao tẩu tán tiền hối lộ và gia đình ra nước ngoài (13). Lê Anh Hùng là tiên phong trong mạng lưới bloggers chống tham nhũng và gởi đơn tố cáo các lãnh đạo cao cấp tham nhũng đến Quốc Hội và chính phủ bền bỉ và kiên trì, tổng cọng 136 lần (14). Quan điểm trong chính phủ về sở hữu tài sản là “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đất đai thuộc sở hữu bao đời của dân, do lao động nhiều đời của họ, họ có quyền sỡ hữu chính đáng (15). Nhưng quan điểm trong dân gian là có chỗ nào có tài sản thuộc sỡ hữu nhà nước mà không có bọn ăn cắp có thẻ đảng. Xã hội dần dần không có ai đúng ai sai, chỉ có kẻ mạnh người yếu. Kết quả là hơn một triệu dân oan bị cưỡng chế đất đai nhà cửa của họ bởi cán bộ đảng và nhà nước (15). Các địa danh nổi tiếng về cán bộ cưỡng chế tài sản của dân bao gồm Dương Nội, Thủ Thiêm, Cồn Dầu, Lộc Hưng và Đồng Tâm, cũng như hàng ngàn nơi lớn nhỏ khác (16). Ở Đồng Tâm, thảo luận giữa người dân và chính quyền tiếp tục duy trì từ 2017 đến 2019, nhưng bất ngờ lúc 3 giờ rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020, chính quyền tấn công vào làng Đồng Tâm (17). Chính quyền bắt vài chục người và bắn chết cụ Lê Đình Kình, 84 tuổi, cựu Bí thư Đảng uỷ xã Đồng Tâm, người lãnh đạo Tổ Đồng Thuận thay mặt bà con khiếu nại về quyền sử dụng khu đất đang tranh chấp. Chính quyền sau đó cản trở những người hoạt động dân sự độc lập từ Hà Nội muốn tiếp cận với Đồng Tâm để minh bạch thông tin từ Đồng Tâm. Lê Anh Hùng là người tích cực trong việc giúp tiếng nói cho quyền lợi của dân oan (18). Lịch sử dân tộc phần lớn là về chống xâm lăng từ phương Bắc (19). Từ thế kỷ II trước Công Nguyên cho đến đầu thế kỷ X, Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Khúc Thừa Dụ và Ngô Quyền liên tục đấu tranh giành độc lập trong thời kỳ Bắc thuộc.  Thế kỷ X đến XV chứng kiến những thành công trong các cuộc kháng chiến chống xâm lăng của Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, các vua và tướng lĩnh nhà Trần, và Lê Lợi. Trong lịch sử chống ngoại xâm, cư dân làng xã là thành trì bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc, và ngoài ra, tư tưởng nhân nghĩa (Lê Lợi) và đồng thuận xã hội (Hội nghị Diên Hồng) góp phần vào việc giữ nước, an dân. Ngày nay, chính phủ chỉ là hư cấu của đảng. Đảng đặt chủ nghĩa Mác-Lê lên trên các giá trị văn hóa dân tộc và dùng đấu tranh gia cấp để phân rã xã hội nhằm bảo tồn quyền lực (20). Đảng không minh bạch về mức phụ thuộc của đảng vào đảng Cộng Sản Trung Quốc. Trong khi đó, đảng Cộng Sản Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình có những yêu sách chủ quyền ở Biển Đông rất lớn, với cái gọi là “đường chín đoạn” bao gồm phần lớn vùng biển nầy (21). Ngược lại, chính phủ Việt Nam thì hầu như là im lặng và không có biểu hiện hay biện pháp nào để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Cộng. Các cuộc biểu tình ôn hòa phản đối Trung Quốc xâm lấn lãnh hải đất nước năm 2011 và 2014 tại Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Bình Dương, Thanh Hóa, đã thu hút hàng ngàn người tham gia (22). Năm 2018, khi những lãnh đạo trong đảng của ông Hồ có kế hoạch mở ba đặc khu kinh tế tại phía bắc, trung tâm và phía nam, nơi các nhà đầu tư Trung Quốc được bảo trợ từ chính phủ với tiền thuế của dân và họ được phép thuê đất tới 99 năm, đa số dân coi đây là hình thức bán đứng quyền lợi quốc gia. Các cuộc biểu tình lớn chống luật đặc khu đã diễn ra ở nhiều thành phố trong năm 2018. Lê Anh Hùng xuống đường ở Hà Nội, phỏng vấn người tham gia biểu tình, thâu thập tin tức và tường thuật các sự vụ nầy (23). Trong gần 20 năm, những việc làm của Lê Anh Hùng phản ánh quan điểm những người quan tâm đến thảm họa môi trường, tham nhũng, dân oan, toàn vẹn lãnh thổ và sự bất lực cũng như tham ô của đảng và thể chế mà Hồ Chí Minh tạo dựng. Việc làm của Lê Anh Hùng cũng là điển hình cho cuộc xung đột giữa các thế hệ trẻ và những người đứng đầu cấu trúc xã hội từ Hồ Chí Minh. Xung đột lớn nhất giữa Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh là trong quan điểm giặc “nội xâm”. Hồ Chí Minh định nghĩa giặc nội xâm là tham ô, lãng phí và quan liêu, và nếu không giải quyết loại giặc nội xâm này thì không thể thắng được giặc ngoại xâm (24). Định nghĩa hẹp của ông Hồ thiếu mất một thành tố quan trọng, theo Lê Anh Hùng và những người yêu nước. Chính nhất, giặc nội xâm phải bao gồm những người nối giáo cho giặc phương Bắc. Theo định nghĩa nầy và trong bối cảnh đất nước hiện nay, việc đảng và chính phủ từ ông Hồ không minh bạch về mức phụ thuộc của đảng vào đảng Cộng Sản Trung Quốc là hành động có thể coi là hành động nội gián đầu tiên cho giặc phương Bắc (14). Theo suy nghĩ của Lê Anh Hùng và những người yêu nước, đảng của Hồ Chí Minh tạo điều kiện và hỗ trợ trong nỗ lực Hán hóa đất nước (14). Lê Anh Hùng đau lòng trước đất nước tràn ngập hàng hoá Trung Quốc; nông nghiệp phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc từ giống lúa, thuốc trừ sâu cho đến phân bón; an ninh năng lượng đặt vào tay Trung Quốc với hầu hết các nhà máy nhiệt điện, thuỷ điện hoặc do Trung Quốc làm tổng thầu hoặc mua thiết bị Trung Quốc, vốn lạc hậu và hư hỏng; ngành công nghiệp xây dựng với 24 nhà máy xi măng thì có đến 23 nhà máy do Trung Quốc làm tổng thầu; ngành khai thác khoáng sản mà phần lớn các mỏ khoáng sản đều do người Trung Quốc nắm; tuyến biên giới được mở toang bằng hệ thống xa lộ cao tốc theo các hướng tấn công của đội quân xâm lược đến từ phương bắc tháng 2/1979, mở đường cho cuộc xâm lăng kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Điểm khác biệt nhất giữa Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh có thể định hình bởi một bên là lòng yêu nước tiềm tàng theo đúng văn hóa Nghệ Tĩnh và bên kia, là suy nghĩ vọng ngoại với chủ định áp đặt một chủ nghĩa ngoại lai bằng bạo lực lên toàn dân tộc với trọng tâm duy nhất là duy trì quyền lực của đảng để lãnh đạo có thể vơ vét tài sản của người dân để tẩu tán tài sản và gia đình chúng ra nước ngoài. Trước bạo lực và đàn áp (25), Lê Anh Hùng dựa vào sức mạnh nội tâm và truyền thống xứ Nghệ để cảm tháng rằng “Họ muốn bịt miệng tôi nhưng thành bại lại do ý Trời; điều đó nằm ngoài ý chí của họ.” Lê Anh Hùng bị bắt tại vào ngày 5 tháng 7 năm 2018 và bị giam trong 20 tháng mà không xét xử (6). Tổ chức Ân xá Quốc tế lên án vụ bắt giữ và yêu cầu chính phủ Hà Nội phải trả tự do ngay lập tức (26). Kể từ tháng 11 năm 2019, anh đã bị buộc phải uống thuốc dành cho người bị bệnh tâm thần tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương số 1, Hà Nội. Mẹ anh nói rằng anh thường xuyên bị nhức đầu, đờ đẫn và không ngủ được (27). Nhiều làn sóng phản đối trên trang mạng trong và ngoài nước đã không ngăn được sự lạm dụng thể xác và tinh thần của anh (27, 28). Mẹ anh nói với Đài Á Châu Tự Do (6) – An ninh buộc con trai tôi phải uống thuốc, nhưng cháu đã cố từ chối. Nếu họ nghĩ rằng con trai tôi có tội thì hãy truy tố nó, nếu không phải trả con tôi cho tôi! Lê Anh Hùng và Hồ Chí Minh cả hai là người con xứ Nghệ nhưng họ đã lựa chọn hai con đường dấn thân rất khác nhau. Một bên là suy nghĩ, văn hóa dân tộc, văn hóa từ cư dân làng, tư tưởng nhân nghĩa, và đồng thuận xã hội để góp phần vào việc giúp dân. Môt bên là tha phương cầu đạo, đem nghịch lý ngoại lai mà áp đặt lên toàn dân với vũ lực và cường bạo. Lịch sử sẽ cho thấy lựa chọn nào là đúng và lựa chọn nào là sai. Nhưng cái giá cho đại đa số người dân, nhất là cái giá về lựa chọn của Hồ Chí Minh cho dân nghèo và dân oan là quá khắc nghiệt. Việc cấp thiết cho những người quan tâm đến các lựa chọn nầy là đòi hỏi an toàn chữa trị cho Lê Anh Hùng. Phạm Đình Bá, viết theo chỉ dẫn của những người đòi hỏi an toàn chữa trị cho Lê Anh Hùng Nguyễn Chí Trung – nhà hoạt động, đảng Dân Xã – Sài Gòn. Nhà giáo Đặng Đăng Phước – trung cấp sư phạm mầm non Đăk Lăk. Nguyễn Tấn Quan – nhà báo tự do – Sài Gòn. Ngô Thị Hồng Lâm – nhà nghiên cứu lịch sử – Vũng Tàu. Nguyễn Xuân Lam – làm việc tự do – vương quốc Anh. Nguyễn Thị Hiền – giáo viên – Hà Nội. Vũ Văn Tuyển – kỹ sư – Sài Gòn. Võ Lê Diễm Thuý – giáo viên – Maryland, Hoa Kỳ. Nguyễn Vũ Bình – nhà báo – Hà Nội. Nguyễn Đức Lão – tu sĩ tôn giáo – Bảo Lộc, Lâm Đồng. David Tuan – giáo viên – Raleigh NC, Calirona, Hoa Kỳ. Nguyễn Tường An – Lâm Đồng, Việt Nam. Việt Hưng – lái xe – Đồng Nai, Việt Nam. Nguyễn Đan Quế – cựu bác sĩ, giảng viên trường đại học y dược – Sài Gòn. Nguyễn Thúy Hạnh – nội trợ – Sài Gòn. Nguyễn Lê Tuấn, Kiến trúc sư, Lausanne, Thuỵ Sĩ Lê Đoàn Thể – lao động tự do – Hà Nội. Nguyễn thị Phụng – nội trợ – Sài Gòn. Vũ Thư Hiên – nhà văn – Pháp. Phạm Thành (Bà Đầm Xòe) – nhà văn – Hà Nội Trần Nghi Hoàng, nhà thơ, nhà báo, Pennsylvania, Hoa Kỳ Khánh Phương, nhà thơ, nhà báo, Pennsylvania, Hoa Kỳ Hà Huy Toàn, nhà giáo, Hà Nội. Nguyễn Tự Quyết – kỹ sư điện tử – Hoa Kỳ. Hồng Phúc – ký giả – Nhà báo, Ký giả truyền thông tại Wichita, Kansas, Hoa Kỳ. Nguyễn Thy – kinh doanh tự do – Sài Gòn. Bùi Văn Sơn – nhà hàng – Cộng hòa Áo. Bùi Đình Sệnh – cựu sinh viên Đại Học Bách Khoa Hà Nội – Làm vườn – Hải Phòng. Trần Hải – giáo viên – Bình Thuận. Đặng Thị Mười – giáo viên về hưu – Hà Tĩnh. Nguyễn Tường Thụy – nhà báo – Hà Nội. Huỳnh Ngọc Tuấn – nhà văn – Đăk Lăk. Đàm Ngọc Tuyên – nhà báo – Quảng Ngãi. Trương Quang Khánh – kỹ sư điện – Sài Gòn. Phạm Viêm Phương – chuyên viên dịch thuật – Sài Gòn. Nguyễn Thị Hà – Nghề tự do – Từ Sơn – Bắc Ninh. Tăng Thị Thu Thảo – Bà nội trợ – An Giang. Nguyễn Chiến – lao động tự do – Sài Gòn. Nguyễn Anh Duy – Gia Lai – Việt Nam. Phạm Lan – Australia. Đỗ Thành Nhân – Tư Vấn Đầu Tư – Quảng Ngãi. Nguyễn Kim Chi – Hà Nội. Huỳnh Thị Kim Liên – nội trợ – Houston, Hoa Kỳ Hoàng Hùng – Kỹ sư – Sài Gòn. Nguyễn Thanh Nguyện, Vũng Tàu. Trương Tiến Minh – công nhân – Cộng hòa liên bang Đức. Nguyễn thanh Vinh – Kế toán – Sài Gòn Trần Bảo Quốc – – Essen, Germany Thanh Nguyen – Về hưu – Santa Anna, USA Nguyễn Quang Vinh – Sỹ quan quân đội nghỉ hưu – Đội Cấn, Hà Nội Hồ Quang Huy – Ks đường sắt – Khánh Hòa, Việt Nam Ngô Tuấn Quang – Hành nghề tự do – Thái Nguyên Truong Tien Minh – Công nhân – Schwabach Cong Hao Lien Bang Duc Huỳnh Thi Thu Vân – nội trợ – Sài Gòn. Xuân Chiến – Lao động tự do – Thanh Hóa, Việt Nam. Tôn Phi – Liên đoàn ký giả Á châu – Sài Gòn. Lê Mạnh Hà – Tiếng Dân Tivi Tuyên Quang – Việt Nam. Nguồn: 1. Võ Văn Tuyển. Về hình thức mai táng của cư dân thời tiền – sơ sử trên đất Nghệ An. Văn Hóa Nghệ An. http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/32-dat-nuoc-xu-nghe/701-ve-hinh-thuc-mai-tang-cua-cu-dan-thoi-tien-so-su-tren-dat-nghe-an 2. Hoàng Nguyên. Lễ hội Bươn Xao. Văn Hóa Nghệ An. http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/26-tin-tuc/13378-le-hoi-buon-xao 3. Nghệ An. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghệ An 4. Hà Tĩnh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hà Tĩnh 5. Thư của nhà nghiên cứu sức khỏe Bùi Đình Sệnh về trường hợp ký giả Lê Anh Hùng. https://nghiepdoanbaochi.org/2020/03/25/thu-cua-nha-nghien-cuu-suc-khoe-bui-dinh-senh-ve-truong-hop-ky-gia-le-anh-hung/ 6. Nguyễn Vũ Bình. Hãy cứu giúp người tù bị cưỡng bức điều trị tâm thần: Lê Anh Hùng. https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/save-le-anh-hung-11092019092411.html 7. Hồ Chí Minh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hồ Chí Minh 8. Cảng Sơn Dương Vũng Án Hà Tĩnh. https://vi.wikipedia.org/wiki/Cảng_Sơn_Dương_-_Vũng_Áng 9. Cá chết hàng loạt ở Việt Nam 2016.  https://vi.wikipedia.org/wiki/ Cá_chết_hàng_loạt_ở_Việt_Nam_năm_2016 10. Lê Anh Hùng. Vì sao Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn ‘quyết liệt’ ủng hộ Formosa Hà Tĩnh? https://www.voatiengviet.com/a/vi-sao-thu-tuong-nguyen-tan-dung-van-quyet-liet-ung-ho-formosa-ha-tinh/2972679.html 11. Độc tài độc đảng và tham nhũng. https://nghiepdoansinhvien.org/2019/03/11/doc-tai-doc-dang-va-tham-nhung/ 12. Vietnam Tops List for World’s Illicit Financial Flows. https://www.ozy.com/around-the-world/vietnam-tops-list-for-worlds-illicit-financial-flows/95871/ 13. Ưu tiên về tương lai đất nước có đúng không? https://nghiepdoanbaochi.org/2019/10/11/bai-nghien-cuu-uu-tien-ve-tuong-lai-dat-nuoc-co-dung-khong/ 14. Lê Anh Hùng. Thư ngỏ gửi ĐBQH Dương Trung Quốc về vụ tố cáo Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải. https://www.voatiengviet.com/a/thu-ngo-gui-dbqh-duong-trung-quoc-ve-vu-to-cao-bi-thu-thanh-uy-ha-noi-hoang-trung-hai/3253288.html 15. Bùi Quang Vơm. Đối thoại với Tổng Trọng về cuộc chiến chống tham nhũng. http://www.viet-studies.net/kinhte/DoiThoaiVeThamNhung_ABS.htm 16. Dân oan và sự sợ hãi của chế độ. https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/ReviewOnlineDomesticPress/mistreated-citizens-and-the-regime-s-fearness-nn-03042016114346.html 17. Tranh chấp đất đai tại Đồng Tâm. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tranh_chấp_đất_đai_tại_Đồng_Tâm 18. Tường thuật phiên tòa xét xử sơ thẩm Dân oan Cấn Thị Thêu. http://www.tinmungchonguoingheo.com/blog/2016/09/20/dien-bien-phien-toa-xet-xu-so-tham-dan-oan-can-thi-theu/ 19. Bắc thuộc. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/bac-thuoc-lan-thu-nhat 20. Giặc nội xâm đang tàn phá đất nước! https://nghiepdoansinhvien.org/2019/12/30/giac-noi-xam-dang-tan-pha-dat-nuoc/ 21. Đường Lưỡi Bò từ đâu mà ra? https://www.bbc.com/vietnamese/world/2016/07/160718_china_taiwan_nine_dash_line 22. Biểu tình phản đối Trung Quốc tại Việt Nam 2014. https://vi.wikipedia.org/wiki/Biểu_tình_phản_đối_Trung_Quốc_tại_Việt_Nam_2014 23. Hà Nội trả tự do cho blogger Lê Anh Hùng sau 10 ngày giam giữ trong trại tâm thần. http://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20130205-ha-noi-tra-tu-do-cho-blogger-le-anh-hung-sau-10-ngay-giam-giu-trong-trai-tam-than 24. Hồ Chí Minh. Quan điểm về “chống giặc nội xâm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. http://tinhuyquangtri.vn/ quan-diem-ve-“chong-giac-noi-xam”-cua-chu-tich-ho-chi-minh 25. Lê Anh Hùng. Nỗi sợ của con người trước ác quỷ. https://www.voatiengviet.com/a/noi-so-cua-con-nguoi-truoc-ac-quy/3235198.html 26. Viet Nam: Blogger arrested for criticizing government must be freed. https://www.amnesty.org/en/latest/news/2018/07/viet-nam-blogger-arrested-for-criticizing-government-must-be-freed/ 27. Anh Khoa. Blogger Lê Anh Hùng bị cưỡng bức tinh thần. https://vietnamthoibao.org/vntb-blogger-le-anh-hung-bi-cuong-buc-tinh-than/ 28. Reporters Without Borders. Vietnam: Second trial brings blogger’s total prison sentence to nine years. https://rsf.org/en/news/vietnam-second-trial-brings-bloggers-total-prison-sentence-nine-years  
......

Đôi điều về vụ án thầy Nguyễn Năng Tỉnh

Manh Dang| Với kết quả y án sơ thẩm, vụ án xét xử thầy Nguyễn Năng Tĩnh đã khép lại với mức án kỷ lục đối với một tội danh “vạ miệng”, thường được gọi tắt là “Tội tuyên truyền chống Nhà nước” : 11 năm tù giam, 05 năm quản chế sau khi mãn hạn tù và 05 năm cấm đảm nhiệm vào các chức vụ dân cử, chính quyền và lực lượng vũ trang. Như nhiều vụ án hình sự phúc thẩm thông thường khác đã từng diễn ra trên xứ sở này, phiên tòa xét xử thân phận pháp lý một con người diễn ra chóng vánh, chỉ khoảng hơn hai tiếng đồng hồ để tái khẳng định mức hình phạt dài dằng dặc đến hơn cả chục năm tù. Trao đổi với các luật sư, thầy Tĩnh cho biết đã tuyệt thực 46 ngày, từ ngày 03/03 đến ngày 17/04 để yêu cầu được thực hiện các quyền về tín ngưỡng, bao gồm cả việc yêu cầu gặp một linh mục công giáo. Nhưng đã không được chấp nhận. Thầy sẽ tiếp tục tuyệt thực sau phiên tòa phúc thẩm. Trong phiên tòa xét xử mình, thầy Tĩnh đã có đến hai lời nói cuối. Một theo quy định, trước khi hội đồng xét xử vào nghị án, thầy khẳng định : “Tôi vô tội”. Và một, từ sự phẫn uất sau khi nghe dứt lời tuyên án : “Một lũ bất nhân tạo ra một phiên tòa bất nhân”. Dĩ nhiên, cả phiên tòa, từng thành viên hội đồng xét xử, công tố viên, các nhân viên an ninh và chúng tôi … phải “nuốt” trọn lời nói cuối đó của thầy trong câm lặng. Tuy không ngạc nhiên về kết quả vụ án, nhưng rời phiên tòa, chúng tôi vẫn thấy lòng mình trĩu nặng về mức hình phạt quá hà khắc cho một công dân lương thiện, người thầy giáo mực thước vốn chỉ mong muốn điều tốt lành cho dân tộc, sự hùng cường cho xứ sở. Tạm biệt vội ông bà thân sinh của thầy và cả vị linh mục đang an ủi cho con chiên, tôi và LS.Nguyễn Văn Miếng sắp hành lý lên xe để rời Vinh. Rời nơi mà "ai đó" đã rất quan tâm đến sinh mạng của chúng tôi khi "ân cần" gởi lời nhắn tin từ ngay trước phiên xử : “Bọn mày là luật sư cho thằng Tĩnh à. Bọn mày xuống Nghi Phú, Yên Đại đây ông giết”[1], để lại xuôi dọc con đường quốc lộ dài 1.500km về Sài Gòn trong tâm trạng ngổn ngang. Về ngang dòng sông Bến Hải, nơi còn lưu giữ chiếc cầu Hiền Lương, biểu tượng chia cắt với hai màu sơn khác nhau. Với thế giới, chiếc cầu chỉ là một vạch vĩ tuyến 17 để đáp ứng toan tính chính trị, nhưng với dân tộc này, đã là một sự chia cắt lòng người, không chỉ 20 năm nội chiến mà đến tận 45 năm sau thống nhất, cho dù chiếc cầu đã nối lại, nhưng lòng người vẫn chưa hề thống nhất. Đến mức, chỉ để yêu nước, mà sao vẫn quá khó khăn để thể hiện nếu khác chính kiến với chế độ … Chuyến đi khứ hồi dài 3.000 km của một tay lái không chuyên, di chuyển qua 14 tỉnh thành, trong suốt gần một tuần lễ của những ngày giãn cách xã hội đã kết thúc an toàn vào lúc nửa đêm ngày 22/04. Tất cả, là nhờ vào lời chúc lành, cầu nguyện lặng lẽ của các linh mục, sư thầy, nhiều anh chị em quan tâm và cả lời cầu nguyện của chúng tôi khi dự lễ trực tuyến lúc xe đang băng ngang Khu kinh tế Vũng Ánh, thuộc thị trấn Kỳ Anh, Hà Tĩnh … Cảm ơn tất cả và xin chúc lành cho nhau và nhất là cho thầy Tĩnh, người tù nhân lương thiện ! Sài Gòn, ngày 24/04/2020 Đặng Đình Mạnh, luật sư thực thụ -------//------- P/s : Chúng tôi sẽ sớm có ý kiến phân tích về một số điểm pháp lý về vụ án để làm cơ sở yêu cầu xem xét giám đốc thẩm vụ án [1] Nghi Phú, Yên Đại là nơi có khách sạn mà các luật sư thường lưu trú khi công tác ở Vinh  
......

Facebook nhắc khéo điều gì?

Cuộc va chạm giữa nhà cầm quyền Việt Nam và tập đoàn Facebook đã khiến bật ra một số điều thú vị. Theo tin từ Reuters, suốt trong 7 tháng, kể từ cuối năm 2019, phía các nhà mạng của Việt Nam cùng phối hợp gây khó cho Facebook ở Việt Nam, làm cho trang này liên tục trở thành dạng offline, khiến cập nhật và theo dõi rất khó khăn. Dĩ nhiên, đây không thể là một cuộc hợp tác tự phát, mà chắc chắn là phải từ lệnh và chiến dịch phát đi từ ông Lê Mạnh Hùng, hiện là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông. Chuyện này được xác nhận bởi bà Amy Sawitta Lefevre – Quản lý chính sách truyền thông của Facebook, và bà xác nhận việc Hà Nội có đưa ra cụ thể danh sách các trang và bài cần phải được chặn, vốn bị coi là gây khó chịu riêng với nhà cầm quyền, nhưng lại nằm trong quyền tự do ngôn luận của người dân. Còn nhớ, vào khoảng trung tuần tháng Tư/2020, đột nhiên bản đồ Facebook không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi sự sau đó, được dàn xếp và coi là lỗi kỹ thuật. Ngay sau đó, Facebook chuyền tin cho Reuters cho biết tình trạng kiểm duyệt ở Việt Nam. Rồi hôm nay, tức một tuần sau sự việc, Facebook ở Việt Nam đã bắt đầu dịu đi tình trạng khó truy cập. Có hay không, sự đáp trả im lặng bằng kỹ thuật số giữa Việt Nam và Facebook? Dĩ nhiên, đó là tùy vào suy nghĩ riêng của người đọc. Nhưng không chỉ vậy, Facebook còn để lại một thông điệp ẩn của bà Amy Sawitta Lefevre – Quản lý chính sách truyền thông của Facebook – rằng cần lưu ý là mặc dù những nội dung này đã bị chặn ở Việt Nam, nhưng nó vẫn có thể được xem ở các quốc gia khác trên thế giới. Tức Facebook nắm giữ một công cụ phân phối thông tin theo IP định vị từng địa phương. Chẳng hạn, Hoàng Sa và Trường Sa có thể hiển thị ở nhiều nước, trừ Trung Quốc, nhưng cũng có thể chỉ còn duy nhất hiển thị ở Việt Nam, tùy theo ứng xử của Hà Nội với Facebook. Thông điệp cũng nhắc rằng bài bị chặn, bị xóa ở Việt Nam, nhưng vẫn đọc thấy ở các quốc gia khác. Tức Facebook, bằng cách nào đó, đã nhắc đến việc cần sử dụng VPN (virtual private network). VPN (*) là gì? Nói nhanh, vắn tắt, đó là một công cụ mã hóa, giúp bạn đi bằng đường hầm bí mật, thoát qua hệ thống kiểm duyệt ở Việt Nam, giấu tung tích của mình để là một người tự do và ẩn danh. Chắc nhiều người đọc sẽ hỏi những loại nhu liệu này hợp pháp hay không? Xin nói rõ, đây là một thủ thuật tin học hợp pháp và được sử dụng trên toàn thế giới, để bảo vệ chính mình theo quyền bảo vệ riêng tư, cũng như bảo vệ chính bản thân mình trong thế giới có quá nhiều bất cập, đặc biệt từ các quốc gia độc tài. Trong bối cảnh luật an ninh mạng, và nghị định 15/2020 luôn có những cáo buộc mơ hồ, việc sử dụng VPN đang là một giải pháp tối cần thiết cho từng người Việt Nam. Với mức thuê bao thấp nhất là 10.000 đồng hay 20.000 đồng Việt Nam, mỗi ngày, bạn có thể được bảo vệ an toàn nhất bởi các công ty độc lập và kinh nghiệm ở thế giới tự do, chống lại sự theo dõi, loại bỏ các kiểu thu thập thông tin về bạn. Hơn nữa, bạn có thể xem được mọi thông tin bị kiểm duyệt, và thậm chí là truy cập nhanh hơn. Nếu không, chọn một VPN miễn phí, đổi quảng cáo, quyền lợi tối thiểu cho điện thoại thông minh như Open VPN connect hoặc Free VPN Proxy cũng có thể đem lại những tiện lợi này. Ở Trung Quốc, mặc dù bị ngăn cản bằng đủ các hệ thống tối tân nhưng hàng trăm triệu người Trung Quốc vẫn sử dụng được Youtube, Google, Facebook, Twitter… bởi qua VPN. Tương tự như cách làm với các nhà mạng quốc tế khác, Bắc Kinh cấm tất cả những công ty VPN nào không đặt máy chủ ở Trung Quốc (Việt Nam ắt sớm muộn gì cũng vậy), và xóa các ứng dụng gây khó chịu như vậy trên App Store hoặc Google Play. Nhưng điều đó, chỉ tạo thêm sự thách thức đối với các nhà cung cấp, thông qua việc cài đặt trực tiếp bằng apk hay ipa(**), có thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Và dù Trung Quốc tốn hàng trăm tỉ nhân dân tệ để chặn lại, vẫn có những VPN hàng đầu (NordVPN, ExpressVPN, CyberGhost…) cứ trơ trơ và mở cửa, giúp người dân Trung Quốc tìm đến thế giới tự do trên không gian ảo. Thông điệp của Facebook để lại khá rõ cho người Việt, về một cánh cửa phụ vào không gian tự do. Dĩ nhiên đó cũng là một cách chạy chữa của tập đoàn này trước việc phải thỏa hiệp và kiểm duyệt với nhà cầm quyền trong việc tấn công vào tự do ngôn luận ở Việt Nam. Nhưng dẫu sao, cách nhắc khéo này, cũng giúp cho người dân Việt Nam một lựa chọn. Tuấn Khanh — Chú thích: (*) VPN tạo một đường hầm bảo mật, được mã hóa, an toàn qua Internet giữa máy tính, điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng của bạn và bất kỳ trang web hoặc ứng dụng nào bạn đang cố truy cập. Điều này được thực hiện bằng cách chuyển hướng kết nối của bạn thông qua máy chủ VPN ở một quốc gia khác, chuyển đổi danh tính, cho thấy bạn xuất hiện trên một trang web hoặc qua ứng dụng, là bạn chỉ là một khách truy cập khác của địa phương, khác nơi bạn đang ở. Bạn trở nên ẩn danh một cách hiệu quả khi địa chỉ IP của bạn (danh số xác định kết nối trực tuyến trên thiết bị của bạn với nhà mạng mà bạn thuê bao) được thay thế bằng địa chỉ của máy chủ VPN đưa ra, dĩ nhiên là bất định và không có thật. Tất cả những gì bạn cần, là một ứng dụng VPN trên thiết bị của bạn hoặc chọn loại miễn phí, và tốt hơn nữa mua hoặc thuê bao với giá cả phải chăng. Các VPN tốt nhất hoạt động trên máy tính xách tay, máy tính để bàn, điện thoại thông minh và máy tính bảng – thậm chí là Smart TV, với sự hỗ trợ của cáp ethernet hoặc dongle Chromecast. Khi bạn muốn che giấu vị trí thực tế của mình, chỉ cần khởi chạy ứng dụng VPN, chọn quốc gia mà bạn muốn kết nối rồi chuyển qua sử dụng trình duyệt của bạn và bất kỳ ứng dụng nào như bạn thường làm. VPN sẽ là người che chắn cho bạn. Dưới đây là danh sách những VPN miễn phí và trả tiền tốt nhất 2020, theo bình chọn của VPN Mentor https://bit.ly/3eWyUpk (**) Các file cài đặt riêng, phải tải về trên Android hoặc iOS, không cần qua các trang tập trung ứng dụng như App Store hay Google Play. * Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do. Nguồn: RFA Việt Nam: Facebook bị ép kiểm duyệt bất đồng chính kiến  
......

Tâm tư một người Miền Bắc "9X" về ngày 30 tháng tư

Trương Thị Hà| Mỗi lúc buồn hoặc cần viết bài về những câu chuyện không hay đang xảy ra trên đất nước Việt Nam thân thương, tôi thường lắng nghe bài hát “Việt Nam tôi đâu.” Chỉ có giai điệu của bài hát mới giúp tôi diễn tả hết tâm trạng day dứt, đượm buồn, thất vọng nhưng không bao giờ bỏ cuộc… Cách đây vài năm, những ai gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi chưa tin họ. Những ai gọi ngày 30/4 là ngày quốc tang, quốc hận, tôi cũng chưa tin họ. Tôi không tin ai hoàn toàn khi tôi chưa tự đặt ra các câu hỏi và tự tìm hiểu về ý nghĩa thực sự của ngày 30/4. Cảm thấy bị lừa dối Sách giáo khoa lịch sử ư? Tôi chưa bao giờ tin, vì lúc nhỏ, tôi đã có cảm giác những từ “ngụy quân”, “ngụy quyền” là những từ để miệt thị ai đó, chưa biết thực hư thế nào nhưng đó là những từ “không đẹp”. Lớn lên tôi mới biết, sách giáo khoa lịch sử đích thị là một tài liệu nhồi sọ có tính toán và có hệ thống của “bên thắng cuộc” là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lúc đó, tôi cảm thấy bị lừa dối và bị tổn thương rất nhiều. Tôi cảm thấy mình thật ngờ nghệch vì mình bị kẻ khác lừa hai mươi mấy năm. Nhưng có lẽ, mức độ bị lừa của tôi đỡ hơn các bạn trẻ miền Bắc khác? Tôi học lịch sử để được điểm cao, chứ tôi chưa bao giờ tin những gì sách lịch sử viết. Trong khi nhiều bạn trẻ hiện nay vẫn tung hô, vỗ ngực về cái ngày mà chính các bạn chẳng biết là ngày gì. Tất cả những gì các bạn biết về ngày 30/04 là “ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” vì đó là những gì các bạn được học trong sách giáo khoa lịch sử. 30/04 – Ngày Quốc Tang Đối với tôi, ngày 30/4 hôm nay và về sau là ngày đáng thương cho đất nước Việt Nam và toàn thể người dân Việt Nam trước và sau năm 1975. Giải phóng gì mà 444.000 thanh niên miền Bắc và 282.000 thanh niên miền Nam phải bỏ mạng. Giải phóng gì mà 2 triệu người dân Việt Nam vô tội phải chết trong lửa khói. Giải phóng gì mà 1 triệu lính miền Nam phải bỏ tù cải tạo, trong đó có 165.000 lính miền Nam chết trong trại cải tạo. Giải phóng gì mà 1,5 triệu con dân miền Nam phải tha phương nơi đất khách quê người để trốn chế độ cộng sản, trong đó có 300.000 người sẽ mãi mãi không bao giờ nhìn thấy bến bờ tự do. Giải phóng gì khi ngày nay 97 triệu người dân Việt Nam bị tước những quyền cơ bản như quyền biểu tình, quyền lập hội. Thống nhất gì khi lòng dân không yên, vẫn còn phân biệt, đối xử vùng miền giữa thành thị và nông thôn, kẻ có tiền và quan hệ luôn đè đầu, cưỡi cổ kẻ nghèo hèn. Dù sao cũng không đáng ăn mừng Dù tôi không biết gì về sự thật ngày 30/04, tôi cũng chẳng thấy vui gì trong cái ngày này khi tôi bị chính quyền tước hộ chiếu, giấy tờ tùy thân, bị phân biệt đối xử trên chính quê hương mình. Dù tôi không biết gì về sự thật ngày 30/04, tôi cũng chẳng thấy vui gì trong cái ngày này khi thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh vừa bị tuyên y án 11 năm tù và 5 năm quản chế với chứng cứ buộc tội vì thầy dạy bài hát “Trả lại cho dân”. Dù tôi không biết gì về sự thật ngày 30/04, tôi cũng chẳng thấy vui gì trong cái ngày này khi công an vẫn tùy tiện mời, triệu tập người dân lên làm việc vì những lý do rất viển vông như: “làm việc liên quan đến vấn đề đăng tải, chia sẻ bài viết trên mạng xã hội.” Dù tôi không biết gì về sự thật ngày 30/04, tôi không biết gì về sự thật ngày 30/4, tôi cũng chẳng thấy vui gì trong cái ngày này khi hàng triệu người dân Việt Nam vẫn phải tha hương cầu thực nơi xứ người. Đáng buồn hơn, khi những người dân bị tù đày nhiều hơn trên chính đất nước Việt Nam. Họ yêu nước, họ đấu tranh cho công bằng xã hội nhưng lại bị chính quyền bắt bớ vì những tội danh mơ hồ được quy định trong Bộ luật hình sự. Chứng kiến những cảnh này, tôi cứ nghĩ mình đang sống ở đất nước Triều Tiên, Trung Quốc… Tù nhân lương tâm đang sống ở nhà tù nhỏ, còn tôi và người dân Việt Nam đang sống ở nhà tù lớn. 30/04 – Ngày cho kẻ chiến thắng điên cuồng Vào ngày này, đội ngũ dư luận viên hoạt động tích cực để công kích những người dám nói sự thật về ngày 30/04 và có tiếng nói phản biện mạnh mẽ trước những bất công của xã hội. Thật nực cười, khi chúng chỉ biết chửi đổng như Chí Phèo, đăng đi đăng lại vài hình ảnh về việc lính Mỹ giết trẻ em, hiếp dâm phụ nữ chưa được kiểm chứng. Tôi cũng bất lực với mấy câu đại loại như: “Chúng ta đã hy sinh xương máu… nên không thể để chính quyền lọt vào tay người khác”. Tôi chẳng biết các ông đang nói đến xương máu của ai? Chính quyền lọt vào tay ai? Các ông phải nhớ, chính quyền là của người dân Việt Nam, chứ không của riêng ai cả! Trong ngày này, miền Bắc đặc biệt là trung tâm thành phố Hà Nội đang giăng biểu ngữ tung hô Đảng và Nhà nước. Những cô gái trẻ ăn mặc sexy, áo hai dây, quần bò ngắn bó sát người đang trình diễn những tiết mục sôi động trong niềm tự hào viễn vông. Trong ngày này, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh mặc áo cờ đỏ sao vàng, để tay lên ngực và hát vang bài hát “tự hào lắm hai tiếng Việt Nam.” 30/04/1975 – Ngày đen tối cho thế hệ trẻ Tuổi trẻ bây giờ đọc mấy tin scandal, với mấy video trần truồng thì share với like ầm ầm như vụ nghi lộ clip sex của hot girl này, hot girl nọ. Gần đây còn có một game show cực kỳ vớ vẩn, hình như tên là “game love” gì đó. Đại loại là một bạn nam, một bạn nữ sẽ uống bia để vượt qua các thử thách sờ mó, hôn hít nhau trên ống kính trong đó có cả những bạn trẻ sinh năm 97, 98 tham gia chương trình. Nhắc đến chính trị thì mặt bạn nào cũng ngáo ngơ. Phỏng vấn hỏi Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội cũng nhe răng ra cười, lắc đầu không biết. Đó là những người lãnh đạo và quyết định đến vận mệnh của đất nước, đó là những người quyết định đến việc các bạn đi học phải đóng bao nhiêu tiền, quyết định giá lít xăng các bạn đổ mỗi ngày, quyết định nợ công của bạn ngày hôm nay và con cái bạn ngày sau. Chính trị là một khái niệm dễ gây dị ứng. Nó được hiểu như là một lĩnh vực khô khan, gây nhức đầu, chóng mặt và bất an. Nhưng các bạn phải quan tâm đến nó. Nếu các bạn cứ để chính quyền độc tài chính trị, các bạn sẽ sớm là nạn nhân của việc thờ ơ với chính trị. 30/04 – Tuổi trẻ, trách nhiệm, danh dự Các bạn không cần phải có lý tưởng, chẳng cần phải làm điều gì đao to búa lớn, chỉ đơn giản là biết yêu thương, biết quan tâm và biết quan sát một chút. Trước đây, nếu chúng ta sống ở thời chưa có tivi và internet, chẳng ai trách các bạn bị nhồi sọ cả. Nhưng hiện nay, các bạn có tất cả mọi thứ trong tay, internet, smart phone, Facebook… Nếu các bạn còn chưa nhận thức hoặc cố tình không chịu tìm hiểu, tôi xin thẳng thắn nói với các bạn: “Con người khác con vật ở chỗ là biết tư duy độc lập, biết yêu thương và cảm thông cho đồng loại.” Nếu các bạn chưa tin những gì tôi nói, hãy tự mình kiểm chứng. Tôi có thể gợi ý cho bạn làm một việc đơn giản nhất vào ngày hôm nay. Hãy lên mạng research các cụm từ “Sự thật về ngày 30/04”, “Việt Nam Cộng Hòa”, “Cờ Vàng”. “Đất nước mình ngộ quá phải không anh Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…” Thay lời kết Tôi muốn gửi gắm thế hệ đi trước một sự trách móc vì đã để tuột mất nền tự do của miền Nam Việt Nam nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Tôi cũng gửi gắm lòng biết ơn sâu sắc đến những người đã cố gắng gầy dựng và gìn giữ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tự do non trẻ. Đặc biệt, tôi muốn gửi gắm lời cảm ơn chân thành đối với những người còn sống và đã từng phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, những người con và người cháu của họ vẫn đang tiếp tục thắp lên ngọn lửa đi tìm tự do cho đất nước Việt Nam. Là một người trẻ, sống ở miền Bắc, không được cảm nhận trực tiếp về những nỗi đau và mất mát của người miền Nam Việt Nam. Thay vì cứ tự hào về cái quá khứ mà chúng tôi không hề tham dự, chúng tôi sẽ hành động, suy nghĩ độc lập, dũng cảm, biết đột phá, và cố gắng làm mọi thứ để giải phóng người dân khỏi chế độ độc tài, mang lại tự do thực sự cho người dân Việt Nam. Tôi luôn vững tin và mong chờ ngày Việt Nam có tự do thực sự.  
......

Trung Quốc leo thang, sắp đại hội đảng, ‘ta’ sẽ… leo xuống?

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân hội kiến Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Hình minh họa. (Ảnh: TTXVN) Trân Văn - VOA| Bất chấp các khuyến cáo của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ (1), Trung Quốc tiếp tục dấn thêm một bước nữa để khẳng định yêu sách về chủ quyền tại biển Đông. Ngày 21 tháng 4, Bộ Ngoại giao Trung Quốc loan báo, vừa nhắc nhở Việt Nam một cách “nghiêm khắc” vì liên tục đưa ra những tuyên bố về chủ quyền tại biển Đông. Theo đó, những tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền ở biển Đông là “bất hợp pháp”. Những nỗ lực phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông dưới bất kỳ hình thức nào cũng vô hiệu và Trung Quốc sẽ thực thi tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc cả chủ quyền lẫn lợi ích của Trung Quốc tại biển Đông (2). *** Việt Nam sẽ làm gì (?) khi chỉ trong vòng một tuần, Trung Quốc tiến nhiều bước để khẳng định yêu sách chủ quyền tại biển Đông: - Ngày 14 tháng 4, tàu hải cảnh của Trung Quốc hộ tống Hải Dương 8 (chuyên thăm dò địa chấn) tái xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. - Ngày 17 tháng 4, Trung Quốc cáo giác với Liên Hiệp Quốc, Việt Nam “chiếm đóng bất hợp pháp các đảo, bãi đá thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc để tạo ra tranh chấp”. - Ngày 19 tháng 4, tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là quận Tây Sa, quần đảo Trường Sa là quận Nam Sa, đặt lại tên cho “25 đảo, rạn san hô và 55 thực thể địa lý”. - Ngày 21 tháng 4, xếp các khẳng định của Việt Nam về chủ quyền tại biển Đông vào loại “bất hợp pháp”, răn đe sẽ thực thi tất cả các “biện pháp cần thiết” để “bảo vệ chủ quyền”. *** Tại sao Trung Quốc lại chọn thời điểm này để leo thang – củng cố yêu sách về chủ quyền tại biển Đông cả trên thực địa lẫn diễn đàn quốc tế? Theo phán đoán của một số chuyên gia, kể cả chính phủ một số quốc gia thì đó là vì cộng đồng quốc tế đang chật vật đối phó với COVID-19. Tuy nhiên chỉ như thế thì dường như chưa… đủ. Dường như nỗ lực leo thang của Trung Quốc liên quan mật thiết đến nhu cầu tổ chức thành công Đại hội thứ 13 của đảng CSVN. *** Theo dự kiến, Đại hội Đại biểu toàn quốc của đảng CSVN lần thứ 13 sẽ diễn ra vào tháng giêng năm tới. Từ nay đến đó còn chín tháng… Cách nay sáu năm, cũng vào tháng 4, Trung Quốc bắt đầu kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào thăm dò dầu khí tại biển Đông. Ngày 2/5/2014, giàn khoan Hải Dương 981 bắt đầu công việc thăm dò dầu khí tại lô 143 trong bản đồ dầu khí của Việt Nam. Nói cách khác, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 thăm dò dầu khí ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại ví trí chỉ cách đảo Lý Sơn chừng 120 hải lý. Bất chấp phản đối của Việt Nam và chỉ trích của cộng đồng quốc tế, giàn khoan Hải Dương 981 tiếp tục thăm dò dầu khí dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của hải quân và hải cảnh Trung Quốc. Ngày 27/5/2014, giàn khoan Hải Dương 981 di chuyển đến vị trí mới, cách đảo Lý Sơn chừng 150 hải lý và nơi đó vẫn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ngoài biển, khoảng 80 tàu của hải quân, hải cảnh, kiểm ngư, vận tải, tàu đánh cá của Trung Quốc vờn qua, vờn lại với 29 tàu của cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam. Các tàu của lực lượng thực thi luật pháp trên biển của Việt Nam liên tục bị các tàu của lực lượng vũ trang Trung Quốc đâm vào mũi, vào đuôi, vào hông, tấn công bằng vòi rồng… Không chỉ có thế, các tàu của lực lượng vũ trang Trung Quốc và tàu đánh cá vỏ thép của Trung Quốc còn thực thi lệnh cấm lưu thông trên biển Việt Nam, rượt đuổi, bắt giữ, tịch thu ngư cụ của các tàu đánh cá Việt Nam, hành hung ngư dân Việt Nam. Ngày 26/5/2014, một tàu đánh cá của Việt Nam bị đâm chìm… Trên đất liền, các cuộc biểu tình phản đối hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 xảy ra liên tục ở nhiều nơi. Lúc đầu, những cuộc biều tình diễn ra suôn sẻ nhưng khi cường độ va chạm giữa Trung Quốc và Việt Nam tăng lên, các cuộc biểu tình bắt đầu bị đàn áp thẳng tay... Sau đó các cuộc biểu tình ôn hòa trở thành bạo động. Từ 12 đến 15/5/2014, hàng chục ngàn công nhân ở TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương bỏ việc để biểu tình và đập phá, đốt các công ty của giới đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Singapore… Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra ở Khu Kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh)… Hàng ngàn người bị bắt! Bên ngoài Việt Nam, người Việt cũng biểu tình trước Đại sứ quán, Lãnh sự quán Trung Quốc ở Mỹ, Đức, Tiệp, Đài Loan,… Cả trong và ngoài Việt Nam cùng có người tự thiêu (bà Lê Thị Tuyết Mai ở TP.HCM, ông Hoàng Thu Hùng ở Florida), dùng chính thân thể của họ để kêu gọi bảo vệ chủ quyền quốc gia tại biển Đông... *** Giàn khoan Hải Dương 981 chễm chệ ngự trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho đến 15/7/2014 và để lại cho Việt Nam vô số thiệt hại về chính trị, kinh tế, xã hội và có thể ôn lại sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cũng như tham khảo về đủ loại thiệt hại mà sự kiện này gây ra trên Wikipedia (3)! Khoảng 18 tháng sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vào ngày 8/12/2015, khi gặp gỡ ông Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư đảng CSVN – như đại biểu, đại diện cho cử tri các quận Ba Đình, Hoàn Kiếm của thành phố Hà Nội, tại Quốc hội, nhiều cử tri vốn là cựu viên chức của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam đã nhắc đến sự kiện này như một trong những yếu tố khiến họ cũng như nhiều người Việt khác lo ngại cho chủ quyền quốc gia. Theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì ông Trọng khẳng định: Càng ngày càng thấy cách giải quyết vấn đề biển Đông của đảng CSVN là đúng đắn. Thay vì trực tiếp trả lời những cử tri dù lợi ích của cá nhân và gia đình luôn luôn gắn chặt với sự tồn vong của đảng CSVN nhưng không tránh khỏi hoang mang về cách hành xử của đảng CSVN trong quan hệ với Trung Quốc và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông, ông Trọng hỏi họ: Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội đảng được không? Ta xử lý mối quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Nhật… vừa qua như thế hợp lý không? Ông Trọng tỏ ra rất tự tin và tự hào khi tự trả lời câu hỏi do chính ông nêu ra: “Ta” chơi với tất cả mà họ đều phải nể trọng. Không phải vô tình mà vừa qua cùng lúc chúng ta đón ba nguyên thủ lớn cùng đến Việt Nam. Vừa đón ông Tập Cận Bình xuống sân bay lại thay cờ, trang trí ngay để đón Tổng thống Italia... (4). Không rõ ông Trọng quan niệm như thế nào về “nể trọng”, đặc biệt là sự “nể trọng” mà Trung Quốc cũng như ông Tập Cận Bình dành cho Việt Nam và cho chính ông? Tuy ông Tập Cận Bình được Việt Nam tiếp đón trọng thể, được mời trò chuyện với Quốc hội Việt Nam vào ngày 6/11/2015, công khai hứa hẹn sẽ cùng Việt Nam “nhìn về đại cục, hướng về lâu dài, tôn trọng lẫn nhau" (5) nhưng ngay ngày hôm sau (7/11/2015), khi đến thăm Đại học Quốc gia của Singapore, ông Tập Cận Bình khẳng định: Biển Đông của Trung Quốc, một số đảo của Trung Quốc đang bị các nước khác ‘xâm chiếm’, do vậy hoạt động của Trung Quốc tại biển Đông là nhằm bảo vệ chủ quyền (6)! *** Sáu năm đã trôi qua từ khi giàn khoan Hải Dương 981 ngang nhiên thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cả đảng cộng sản Trung Quốc và ông Tập Cận Bình lẫn đảng CSVN và ông Nguyễn Phú Trọng đều cho thấy họ rất nhất quán đối với vấn đề biển Đông. Trước Đại hội Đại biểu toàn quốc của đảng CSVN lần thứ 12, đảng cộng sản Trung Quốc và ông Tập Cận Bình từng gia tăng áp lực để khẳng định, biển Đông là của Trung Quốc. Khi đảng CSVN và ông Nguyễn Phú Trọng nhìn động thái đó theo kiểu: Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội đảng được không? – thì trước Đại hội Đại biểu toàn quốc của đảng CSVN sắp tới, việc Trung Quốc leo thang, phủ nhận chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông là tất nhiên. Chú thích (1) https://www.voatiengviet.com/a/my-noi-trung-quoc-nen-ngung-hanh-vi-bat-nat-o-bien-dong/5378082.html (2) https://www.voatiengviet.com/a/bo-ngoai-giao-trung-quoc-lon-tieng-de-doa-viet-nam-ve-bien-dong/5383275.html (3) https://vi.wikipedia.org/wiki/Vụ_hạ_giàn_khoan_Hải_Dương_981 (4) https://soha.vn/xa-hoi/tong-bi-thu-neu-dung-do-tren-bien-ta-co-ngoi-day-duoc-khong-20151208144743885.htm (5) https://vnexpress.net/ong-tap-can-binh-viet-nam-trung-quoc-can-xuat-phat-tu-dai-cuc-de-xu-ly-bat-dong-3307934.html (6) http://www.rfi.fr/vi/chau-a/20151107-tap-can-binh-lai-khang-dinh-bien-dong-la-cua-trung-quoc  
......

Nguyễn Phú Trọng nhìn đời bằng nữa con mắt

Phạm Minh Vũ|  Ngày hôm qua 23-4, Nguyễn Phú Trọng cầm đầu đám Trung ương đảng mở hội nghị toàn quốc, trọng tâm hội nghị là bàn về công tác nhân sự cho đại hội đảng. Trong bài phát biểu dài lê thê, có những điểm ông Trọng nêu ra cần đánh giá lại xem đó có thật hay không, xem có đúng hay không, cũng như xét lại lời ông ta nói có đứng đắn hay là không. Một ngày trung ương đảng bỏ ra để họp, đối với nhân dân hầu như nó là con số 0 tròn trĩnh, thậm chí nó còn tai hại vì số tiền chi phí cho một ngày họp ấy không dưới 3 tỷ đồng. Đang lúc dịch bệnh nghiêm trọng, đời sống nhân dân cơ cực, Dân chỉ mong tiền hỗ trợ trong cam kết của chính phủ gói 62 ngàn tỷ được rót về tận tay để chi trả lúc khó khăn này. Tiền ăn tiện điện nước, đủ thứ phải lo nhưng chính phủ hứa lèo, nói cho vui mồm. Chứ cái hội nghị này đâu có giải quyết gì, đâu có giúp ích gì cho nhân đâu, không giúp ích lại tốn tiền thuế của dân hàng tỷ đồng.   “cán bộ chủ chốt, đặc biệt là người đứng đầu; nếu chọn đúng người thì đất nước phát triển, nhân dân được nhờ” là một trong những lời phát biểu của ông Trọng. Tôi đang suy nghĩ, nói như thế thành ra đảng cộng sản lâu nay chẳng có bao giờ chọn đúng người. Việt Nam có phát triển không? Xin thưa không, không những không phát triển mà tất cả mọi mặt của đất nước đều thụt lùi so với thế giới. Nhân dân được nhờ chưa? Chưa bao giờ, không những được nhờ mà số tiền nợ công dân gánh vác cho đám chính phủ ăn hại ngày một gia tăng. Có đất nước nào đào tài nguyên lên bán mà lỗ không? Có đất nước nào bán điện mà lỗ không? Xăng thế giới giảm trong khi VN vẫn giữ mức ổn định cao, vậy dân nhờ cái gì? Có chăng, đất nước không phát triển, chỉ có tham nhũng thì phát triển mà thôi. Khi tham nhũng phát triển thì nợ công tăng, lại è đầu dân ra thu thuế, dân chỉ có chết chứ có nhờ được gì chứ. Bao năm qua, cứ tổ chức hết hội nghị này đến đào tạo cán bộ khác để chọn lãnh đạo giỏi. Đất nước thụt lùi phải chăng bao năm qua đảng chưa chọn đúng người? Kế tiếp, ông Trọng nói: Phải có con mắt tinh đời, đừng bị đánh lừa bởi những động tác giả vì nhiều người khéo lắm, thích khoe thành tích và che giấu khuyết điểm. À, ngày xưa Nguyễn Bắc Son, Đinh La Thăng, Trương Minh Tuấn lúc đào tạo họ, lúc mở hội nghị đảng dạy cái gì cho họ mà sao họ tham quá vậy? Đảng có lăng kính nào để soi chiếu mà cần “con mắt tinh đời”. Hay là đảng một tay ôm tiền tay kia thì ký bổ nhiệm? Hay đảng của ông Trọng nhìn đời bằng nửa con mắt? Tôi nghĩ chắc ông trọng và đảng của ông nhìn đời bằng nửa con mắt thôi, chứ nhìn cả con thì đâu có chuyện bổ nhiệm cán bộ nào cũng vô đạo đức, vô nhân tính vậy chứ. Chưa hết, ông trọng còn nói: nếu trên dưới đồng lòng, đoàn kết nhất trí thì công việc mới trôi chảy, mới xứng tầm lãnh đạo đất nước trong bối cảnh tình hình mới. Thế nào là xứng tầm vậy ông trọng? Xứng tầm là trốn lính để rồi được huy chương chống Mỹ sao? Xứng tầm là giặc đang tràn vào bờ cõi, xâm chiếm các đảo ông ngoi lên xin tí máu, ông ngoi lên làm công tác nhân sự cho đại hội mà chẳng đếm xỉa gì đến lãnh thổ, đến ngư dân bị đâm chìm sao? Xứng tầm là dịch bệnh mà các ông lừa dân là hứa cho tiền rồi chẳng bao giờ thấy đấy ư? Xứng tầm là trung cộng ngang ngược xâm phạm chủ quyền, ông lại cho đàn em bắt bỏ tù người chống trung cộng sao? Có chăng, loại người như ông xứng tầm là bọn tay sai cho giặc, bọn thái thú ôm chân ngoại bang cầu xin giặc bảo vệ, để giết hại dân mình. Thứ người như ông, xứng tầm thì chỉ có thế thôi chứ chẳng có gì khác cả!  
......

Những đứa trẻ của ngày 30.04.1975

Tiểu Luận Đào Hiếu| Ngày 30/4/1975 tôi có 3 đứa con: năm tuổi, bốn tuổi và một tuổi. Bây giờ chúng đã là những viên chức, có chỗ đứng tốt trong xã hội. Chúng có học vấn, có cuộc sống ổn định. Chúng sống bình lặng, khiêm nhường và lương thiện như mọi công dân Việt Nam khác. Nhưng không phải ai cũng sống bình thường như vậy. Bởi vì cũng có những đứa trẻ của ngày 30/4/75 đang sống khá đặc biệt. Đó là những người hiện nay thuộc lứa tuổi từ 50 trở xuống (tức là ở thời điểm 30/4/75 các vị ấy chỉ vừa mới cất tiếng khóc chào đời cho đến 12 tuổi), chẳng những không hề tham gia cách mạng mà thậm chí không biết cách mạng là gì, chiến tranh là gì, nhưng hiện nay họ là những ông bà quan lớn cách mạng, giàu có và đầy quyền lực. Họ coi chính quyền này là của riêng họ, làm như thể chính họ đẻ ra cái chính quyền này, họ là bố mẹ của dân, là ông chủ của dân. Trong hàng ngũ các bộ trưởng, thứ trưởng, giám đốc, chủ tịch tỉnh, chủ tịch quận, chủ tịch phường, xã… không ít những người thuộc thế hệ ấy (có những vị bộ trưởng chỉ mới 48 tuổi, có vị chỉ 45 tuổi, bí thư tỉnh Hà Giang 45 tuổi, phó chủ tịch Đà Nẵng 35 tuổi (con trai một ủy viên BCT), còn ở cấp quận, huyện, phường, xã… thì người trẻ vô số). Nói theo kiểu dân gian: họ là những người “tân gia ba” tức là mới tham gia cách mạng sau ngày ba mươi tháng Tư, nhưng họ vẫn hùng hồn tuyên bố: “Chúng ta đã đổ bao nhiêu xương máu để giành lấy chính quyền này thì không thể nào chúng ta có thể để chính quyền lọt vào tay kẻ khác”. Rõ ràng là họ coi chính quyền này như một chiến lợi phẩm mà - tiếc thay - họ chỉ là kẻ thừa hưởng chứ không hề tự tay mình giành lấy, đừng nói tới chuyện “đổ xương máu”. Họ có thể biện bạch rằng: tuy chúng tôi không đổ xương máu nhưng đó chính là xương máu của cha anh chúng tôi. . Thật vậy sao? Vậy mà người ta cứ nghĩ rằng đó là xương máu những người thân của đám dân đen đang chui rúc trong xóm lao động kia, là con, là chồng, là cha của những người nông dân đang đổ mồ hôi và nước mắt trên những luống cày tại những làng quê nghèo khó. Tôi không có ý chê bai những người mới tham gia vào guồng máy chính quyền hiện nay sau ngày 30/4/75 bởi vì điều đó thật vô lý. Tôi cũng không có ý coi thường những cán bộ trẻ bởi vì họ đang đầy sức sống và năng lực, nhưng quả thật là hiện nay đang có những nhà lãnh đạo trẻ, cứ tiếp tục cái điệp khúc: “chúng ta đã hy sinh xương máu… nên không thể để chính quyền lọt vào tay người khác”… đã trở nên quá nhàm chán. Tôi nghĩ, thay vì cứ tự hào về cái quá khứ mà họ không hề tham dự, họ nên hành động, nên suy nghĩ độc lập, biết đột phá, biết tìm con đường mới, biết mở cánh cửa tự do dân chủ, tránh vết xe đổ của lớp đàn anh vừa đi qua thì phúc cho dân tộc này biết chừng nào. * Những người từng đổ xương máu cho chính quyền này là hàng triệu chiến sĩ đã chết ngoài mặt trận, chết nơi ngục tù. Những người ấy giờ chỉ còn là cát bụi, không tài sản, không địa vị, không quyền lực và hiện nay thân nhân của họ đang sống rất nghèo khổ. Họ là những người duy nhất có quyền được tuyên bố rằng mình đã đổ xương máu cho chính quyền này, nhưng không bao giờ những mộ bia quạnh hiu nơi nghĩa trang liệt sĩ, những nấm đất vô danh nơi rừng sâu núi thẳm kia có thể thốt nên lời! Số còn lại thì đã già, đã về hưu, chỉ còn một số ít vẫn đang nắm quyền nhưng rồi chẳng bao lâu họ cũng sẽ xuôi tay nhắm mắt mà không biết rằng mình sẽ để lại cho đời sau những tiếng thơm hay những lời nguyền rủa. Đổ xương máu hay không đổ xương máu thì cũng chỉ còn lại một nước Việt buồn. Đào Hiếu.    
......

Những người phụ nữ Miền Nam sau cuộc chiến

Vùng kinh tế mới Miền Nam sau 1975 Trần Hoàng Yến| https://www.youtube.com/watch?v=Ro_8sGoZWfA&feature=share&fbclid=IwAR3iDLwNj7yfBQaxvx_z6yTrVOMErHv3rD_6tKWYWdavBLkNWhRBva0YQwc   Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ". Rồi miền Nam thất thủ rơi vào tay giặc. Gia đình tôi phải dọn ra khỏi trại lính. Ba tôi cũng như những người Sĩ Quan khác bị bắt ra trình diện, họ nói ba tôi chỉ cần ra học tập cải tạo 3 ngày rồi sẽ được về. Khi ba tôi ra trình diện họ bắt nhốt luôn trong tù. Trại tù cải tạo Sĩ quan VNCH không có ngày về. Mẹ tôi ở nhà người ta tới nói gia đình tôi nếu đi Kinh Tế Mới (KTM) thì ba tôi sẽ được khoan hồng. Họ đã gạt mẹ tôi, dẫn mẹ tôi đi coi miếng đất ở Kinh tế mới và chỉ miếng đất ngon có cây trái xum xuê, nào ngờ khi về đó họ đưa cho mẹ tôi miếng đất phèn, cỏ tranh, lau sậy mọc đầy, cao qua khỏi đầu, một nơi chưa có người ở. Mẹ tôi phải mướn người làm sạch và cất lên cho gia đình tôi 1 cái nhà. KINH TẾ MỚI Rồi mẹ con dắt díu nhau về KTM nhưng vì đông con nên mẹ gửi tôi, đứa em gái và người anh ở lại Sài Gòn cho ông ngoại và bà cô nuôi. Một năm sau mẹ lên đón hai chị em tôi về còn anh tôi ở lại Sài Gòn với bà cô. Gia đình tôi là gia đình đầu tiên về KTM, chị em tôi không đi học vì không có trường. Tôi còn nhớ chính quyền ở KTM kỳ thị gia đình tôi, họ không kêu tên mẹ tôi mà hay nói móc gọi mẹ tôi là bà "Đại Úy ngụy". Và họ nói "Không bán Gạo cho Bà Đại Úy ngụy!". Dạo ấy tôi không hiểu, sau này lớn lên tôi mới hiểu vì sao, vì ba tôi là sĩ quan của chế độ cũ. Vào thời bao cấp nạn đói tràn lan mấy mẹ con tôi phải ăn khoai mì thay cơm! Mẹ tôi nuôi gà, vịt, trồng trọt đủ thứ, nhưng vì miếng đất nhà tôi ở là miếng đất phèn nên cây trái trồng không đơm bông kết trái như ý mẹ mong muốn. Bỏ quá nhiều tiền để mướn người trồng cây nhưng không thu lại được kết quả, mẹ tôi đành phải bỏ bầy con ở nhà, mỗi ngày lên tỉnh mua bán để kiếm tiền đem về nuôi chị em tôi. Có những hôm mẹ tôi đi bán tối về không còn xe nên phải lội bộ gần 5 km cây số, khi mẹ về được tới nhà thì trời đã gần sáng. Mẹ tôi đi sớm lúc chúng tôi còn ngủ và khi mẹ về khuya thì chị em tôi đã ngủ nên chúng tôi rất ít thấy mặt mẹ. Tám chị em tôi ở nhà một mình, tự nấu ăn và đứa lớn trông chừng đứa nhỏ, lúc ấy chị lớn nhất của tôi mới 11 tuổi. Hai chị lớn của tôi ở nhà trông em, còn tôi thỉnh thoảng phải theo mẹ đi bán, 3-4 giờ sáng tôi dậy đi với mẹ, phải lội bộ xa lắm mới ra được đầu đường để đón xe. Ngày ấy mẹ đốt đuốc đi trước, tôi mắt nhắm mắt mở lẽo đẽo theo sau, và thỉnh thoảng mẹ la to coi chừng rắn, tôi nhìn xuống thấy những con rắn mập, bự nằm cuộn tròn phơi sương. Cứ đi một đoạn thì thấy một con rắn, tôi nghĩ nếu bó đuốc của mẹ tắt thì tôi sẽ đạp trúng những con rắn này, vì sợ quá làm tôi tỉnh ngủ luôn. Ký ức này ám ảnh theo tôi hoài có lẽ vì vậy tôi không thích sống ở làng quê. KTM chỗ chúng tôi ở là vùng đất hoang, chưa có nhiều nhà ở, xa xa khoảng 500m mới có 1 căn nhà. Vì đang ở Sài Gòn mà bỗng dưng bị bắt về một vùng quê hẻo lánh ít có bóng người, tối thì đốt đèn dầu, ngủ nghe tiếng cóc nhái kêu làm tôi cảm thấy rùng rợn, tối nào ngủ tôi cũng chui vào giữa mấy chị nằm cho chắc ăn và an toàn. Rồi một ngày em tôi bị “ma giấu” (1 hiện tượng có thật cho em tôi, mà tôi khó cắt nghĩa theo khoa học) mẹ tôi sợ quá không còn muốn ở lại KTM và mẹ quyết định bỏ nhà để lên thành phố sống. Chính quyền địa phương tức giận mẹ tôi nói "ma quỷ" là "Mỹ qua" và họ không cấp hộ khẩu cho gia đình chúng tôi. Tôi còn nhớ mẹ tôi lúc đó cũng phải trốn đi từ từ, không dám công khai dẫn chúng tôi đi cùng một lúc mà mẹ chia ra ba đợt để Chính quyền đừng nghi và không bị họ làm khó dễ. VỀ THÀNH PHỐ Lên thành phố mẹ tôi chạy chọt khắp nơi, cuối cùng cũng xin được hộ khẩu và chị em tôi được đi học lại. Rồi mẹ tôi quyết định buôn thuốc Tây, vì buôn bán thường thì không đủ nuôi 9-10 miệng ăn. Thời gian đó thuốc Tây là hàng quốc cấm, chỉ có hợp tác xã mới được bán. Vì vậy, những tiệm thuốc tây tư nhân phải đóng cửa, họ còn hàng nên giấu, lòn bán ra bên ngoài cho những con buôn. Mẹ tôi mua đi và bán lại. Có những ngày tôi theo mẹ lên Sài Gòn lấy thuốc, tôi phải ngồi ngoài chợ giữ giỏ thuốc cho mẹ, nếu lỡ có bị Công an bắt thì hàng không bị mất hết. Mẹ đi gom thuốc, 2-3 tiếng mẹ đem lại bỏ giỏ cho tôi giữ rồi lại đi tiếp, cứ thế tôi phải ngồi đó một mình cả ngày để đợi mẹ nhiều lúc tôi giận mẹ lắm vì mẹ bỏ tôi ngồi một mình cả ngày ngoài chợ. Giờ nhớ lại tôi thấy cũng tội nghiệp mẹ, vì mẹ không có nhiều tiền nên lội bộ lấy thuốc chỗ này một chút, chỗ kia một chút nên mới lâu. Chiều về thì mẹ con tôi và những bạn hàng phải đứng nép vào trong bóng tối thì xe mới dám ngừng để đón khách, có những lúc phải leo lên những chiếc xe hàng cao, người lên trước phải phụ giúp kéo người ở dưới lên cho lẹ để xe chạy không thôi bị Công An bắt hết. Một lần mẹ tôi trải thuốc bán ở chợ, Công An tới, mọi người ôm đồ chạy nhưng vì đa số là đàn bà nên chạy không kịp và họ bị bắt, mẹ tôi cũng trong số đó. Mẹ kêu tôi chạy về báo bà Sáu biết, tôi lúc ấy mới lên 8, làm gì biết đường về, vì mỗi lần theo mẹ chỉ lẽo đẽo theo sau chứ có bao giờ để ý, mà cũng không biết tên bà là gì, chỉ biết gọi bà là bà Sáu và biết bà là em bà ngoại vậy thôi. Vậy mà lúc đó không hiểu sao tôi diễn tả bà Sáu có những người con tên Tòng, Hà, Phong...thì người ta biết và chỉ đường cho tôi và tôi đã về được nhà bà để cầu cứu. Chuyện đời có đôi khi cũng lạ, Công An thường thì hống hách ưa đi bắt nạt người dân và hay bắt những người bán thuốc tây, nhưng cũng có lúc họ phải đi năn nỉ. Có một bạn hàng là bạn của mẹ tôi dẫn một ông cán bộ cao cấp tới nhà, năn nỉ mẹ tôi kiếm giùm cho ông 1 chai nước biển vàng vì sáng hôm sau 8 giờ sáng mẹ ông lên bàn mổ cần nước biển mà ông tìm hoài không ra.Thời đó nước biển vàng khan hiếm lắm. Mẹ tôi sợ không dám bán nhưng ông năn nỉ quá mẹ thấy cũng tội nghiệp nên kêu ông ra chợ Sài Gòn đợi sẽ có người đem tới bán cho ông và khi mẹ ông mổ xong, ông tới cảm ơn mẹ tôi rối rít và muốn đền ơn nhưng mẹ tôi không dám lấy vì sợ ông quật ngược lại bắt mẹ. Khi khá chút mẹ tôi bắt đầu dự trữ thuốc tây ở nhà để bán, và nhiều người tới nhà tôi mua, họ không mua của hợp tác xã vì tôi nghe họ nói thuốc ở đó không tốt, chửa không hết bịnh, còn hàng mẹ tôi là thuốc thiệt và tốt vì mẹ tôi lấy từ những nhà thuốc tây tư nhân bị đóng cửa và ai cần thuốc gì thì mẹ tôi lên Sài Gòn lấy. Những ông Công An phường bắt đầu canh me, khi thì chận đường bắt lấy giỏ thuốc của mẹ tôi và có lần họ vô xét nhà, tịch thu hết thuốc, mẹ tôi năn nỉ, khóc lóc xin đừng lấy vì mẹ cần tiền để nuôi con nhưng họ vẫn lấy. Mẹ tôi tức quá khóc kêu chị tôi đi mua cho mẹ chai thuốc rầy để tự tử, chị tôi lúc ấy còn con nít, ngây thơ, tưởng thiệt nên chạy đi mua. Giờ nhớ lại tôi thấy họ là những người vô cảm, tôi còn biết hàng xóm ghét cái ông công an tên Hùng, dân ở đó ghét gọi là Hùng mặt chuột vì ông ưa canh me lấy hàng của người khác. Nghĩ lại những ngày đó thấy thương mẹ tôi, công trình đi lấy thuốc từ Mỹ Tho lên Sài Gòn đi và về cũng rất xa, nhưng bị Công An tịch thu hết, mất hết vốn mẹ tôi phải làm lại từ đầu. TRẺ EM RA ĐƯỜNG KIẾM SỐNG Có lần mẹ tôi bị bắt giam cả tháng trời trong nhà tù Mạc Đĩnh Chi chỉ vì cái tội bán thuốc tây, Mẹ tôi khóc miết vì không biết bên ngoài đàn con sống như thế nào. Thời gian mẹ ở tù, 2 chị em tôi thay mẹ lên Sài Gòn lấy hàng. Chị lớn tôi năm ấy 13 tuổi và tôi lên 10, chị dặn tôi ngồi ở bến xe Xa Cảng Miền Tây đợi, chị đi lấy hàng rồi hai chị em sẽ về trước chuyến xe cuối cùng.Tôi đợi mãi cho tới khi trời tối và chuyến xe cuối cùng đã chạy nhưng chị không tới. Tôi đã khóc vì tôi không biết kiếm chị tôi ở đâu, tôi lại không có tiền mà cũng không biết phải làm sao vì trời đã tối. Cũng may có hai mẹ con thấy tôi đứng khóc và biết tôi lạc chị nên đã kêu tôi vào ngủ chung với họ để đợi trời sáng rồi đón xe về. Và đêm ấy tôi không dám ngủ nằm thút thít mãi cho tới khi trời sáng. Sáng hôm sau tôi lên 1 chiếc xe, nghe nói xe về Mỹ Tho nơi tôi ở, tôi ngồi sát trong và cầu mong cho họ đừng đuổi tôi xuống xe vì tôi không có tiền nhưng may sao ông lơ xe chỉ thu tiền những người khác mà không thu tiền của tôi, tôi thấy ông ngó tôi rồi ông quay đi. Lúc đó tôi mừng quá thầm cảm ơn trời, phật đã che chở cho mình và cảm ơn ông đã không đuổi tôi xuống xe. CÔ GiÁO TÔI Chị em tôi ngày học ngày nghỉ và tôi thường hay đi học trễ. Một lần tôi bị cô giáo la: "Hoàng Yến, tại sao em đi học trễ hoài?" Bị cô la trước cả lớp làm tôi khóc vì quê. Tôi trả lời cô: "Dạ, thưa cô em phải tắm 5 đứa em". Nghe tôi nói cô dịu giọng xuống không còn la, cô hỏi tôi: "Vậy chứ mẹ em đâu, sao mẹ em không làm?". Tôi không thể nói mẹ tôi đang bị ở tù nên trả lời :"Dạ, mẹ em đi đâu em không biết nữa cô". Cô hỏi: "Mẹ em đi lâu chưa?" và tôi nói "Dạ, cũng lâu rồi cô." Cô làm thinh một lúc lâu, cô nói: "Chắc mẹ em đi vượt biên, cửa nhà em bằng gì?". Tôi chỉ biết cửa nhà tôi màu bạc nhưng bằng sắt, bằng nhôm hay bằng thiết có bao giờ tôi để ý, nên tôi nói đại "Dạ, chắc bằng sắt". Sau này tôi để ý lại mới biết cửa nhà tôi bằng thiết. Cô đã không la tôi nữa và tôi thấy nét mặt cô đăm chiêu có gì đó hơi buồn trong ánh mắt cô, cô nói nhỏ “em về chỗ ngồi đi”. Sau đó tôi thường vắng mặt, cô kêu mấy bạn tới thăm tôi và coi cửa nẻo nhà tôi có chắc không về báo lại cho cô? Giờ nhớ lại tôi vẫn còn cảm động. Có lần tôi thấy cô ngồi bán bánh ngoài chợ sau giờ dạy học. Đó là những cô giáo "ngụy" mà chính quyền mới thiếu người nên vẫn còn để các cô dạy. Những cô giáo của thời VNCH đào tạo còn sót lại, hiền lành, thương yêu trẻ và giúp đỡ các em học trò trong những hoàn cảnh khó khăn. Ngày tôi ra đi tôi rất nhớ cô và nhớ các bạn, nhớ mái trường xưa, nơi tôi đã từng học và nơi đó đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm. Rồi mẹ tôi buôn bán để dành được ít tiền cho chị em tôi lần lượt vượt biển. Cuối cùng cả gia đình tôi cũng được đoàn tụ ở Đức. Tuy sau này ba, mẹ tôi không sống chung với nhau nữa nhưng chúng tôi luôn tôn trọng ba, mẹ. Cuộc đời mẹ tôi đã quá khổ vì các con nên mẹ tôi đi thêm bước nữa chúng tôi vẫn vui và tôn trọng vì mẹ cũng cần phải có người lo cho mẹ. Ba tôi sau khi ra tù cũng lập gia đình khác, chúng tôi có thêm 3 người em ở VN và chúng tôi thương yêu nhau như trong 1 nhà. . Đó là câu chuyện buồn của gia đình tôi, khi cộng sản vào chiếm miền Nam đã làm cho nhiều gia đình tan nát. Cuộc sống ngày nhỏ của tôi luôn thiếu vắng hình ảnh của cả cha lẫn mẹ nhưng giờ nghĩ lại tôi chắc vào thời điểm đó còn có nhiều gia đình và nhiều đứa trẻ khác còn khổ hơn gia đình tôi rất nhiều. Những người phụ nữ miền Nam sau cuộc chiến, họ từng là những người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng vào thời điểm đó họ trở nên mạnh mẽ, cứng rắn, chịu thương chịu khó, thay chồng lo cho đàn con, dù khó khăn cực khổ cách mấy họ cũng vượt qua. Mẹ tôi là một trong số những người phụ nữ mạnh mẽ ấy. Dù mẹ ở hoàn cảnh nào cũng không bao giờ bỏ rơi đàn con của mình. Chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì có mẹ chúng tôi mới có được ngày hôm nay. * * * Bài đã dịch ra tiến Đan Mạch, để các thế hệ sau tại đây hiểu được tại sao cha anh phải vượt biển. -  Min flugtrejse via åbent hav https://viettannordic.wordpress.com/2020/04/23/min-flugtrejse-via-abent-hav/?fbclid=IwAR1zrkQDtLc1tw75m7ttNeF_taB_OT4YFv04_fSldZdaKWQ0gGIiLBZ5L1E  
......

CSVN mắc quai bởi Công Hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng

Le Anh| Vụ Trung Quốc phản bác sự phản đối Việt Nam liên quan đến vấn đề thành lập 2 quận tại Hoàng Sa và Trường Sa đang dấy lên một số nguồn dư luận bức xúc về những luận điệu ngang ngược của công hàm Trung Quốc mới vừa gửi cho Liên Hiệp Quốc. Nội dung công hàm cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc mà Việt Nam chiếm đóng bất hợp pháp. Một trong những luận điểm về nội dung trong công hàm gây chú ý đến dư luận là phía Trung Quốc đã trao công hàm 1958 do ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký tên và gửi cho Chu Ân Lai cho rằng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa "tán thành" và "tôn trọng" "bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc". Tuyên bố nêu rõ hải phận đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ bao gồm đất liền và quần đảo thuộc chủ quyền của Trung Cộng, trong đó bao gồm Hoàng Sa (the Xisha Islands) và Trường Sa (the Nansha Islands). Tuy nhiên về phía Việt Nam cho rằng, công hàm Phạm Văn Đồng không hề công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc, vì trong công hàm không có chỗ nào nói tới hai quần đảo này. Dư luận cho rằng, chính vì công hàm 1958 đã giúp cho Trung quốc có bằng chứng, củng cố thêm lập luận rằng HS và TS thuộc chủ quyền của họ. Có một số dữ kiện liên quan đến các nhân vật lãnh đạo vào thời điểm lúc đó. Các tuyên bố này đã làm cho dư luận khẳng định rằng Việt Nam chính thức dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Theo tiết lộ của nhà báo Bùi tín, cựu Đại tá QĐNDVN hôm 9/1/2014 rằng, ông Ông Lê Đức Thọ (tên thật Phan Đình Khải), là Ủy viên BCT, Trưởng ban tổ chức TƯ/ĐCS Việt Nam lúc bấy giờ nói rằng: “Lập trường chính trị các anh để đâu? Đang có chiến tranh, lại phối hợp hoạt động với địch à? Cuộc chiến tranh gay go của ta rất cần sự ủng hộ của Trung Quốc, mà lại nói quay sang chống bạn. Trung Quốc có giải phóng Hoàng Sa giúp ta, thì sau này cũng trả lại cho ta thôi.” Ông còn nói thêm; “Hãy yên tâm, Hoàng Sa trong tay các đồng chí Trung Quốc, còn hơn là trong tay ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ!” Ngoài ra, còn có một nhân vật lãnh đạo khác được cố giáo sư Hà Văn Thịnh cho biết (19/1/2013), ông Hoàng Tùng, Ủy viên Trung Ương ĐCSVN, Tổng biên tập Báo Nhân dân cũng đã nói: “Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả lại cho mình.” Qua những dữ kiện trên một số người cho rằng, CSVN bị mắc quai bởi công hàm 1958. Tuy nhiên vấn đề xác định HS và TS là của Việt Nam hay của Trung Quốc thì theo nhiều chuyên gia nghiên cứu trên thế giới cho rằng, phải đòi hỏi nhiều bằng chứng và dữ kiện để chứng minh. Một số chuyên gia quốc tế nghiên cứu về luật biển, cũng như lịch sử Việt Nam và Trung Quốc khẳng định, nếu Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế thì chắc chắn Việt Nam sẽ thắng kiện. Vấn đề còn lại là CSVN có dám hay không? Lê Ánh  
......

Facebook chấp nhận kiểm duyệt nội dung chính trị ở Việt Nam sau khi bị bóp băng thông

Lê Quốc Quân Ngày hôm qua, 21/4 Reuters dẫn lời của 2 nguồn tin đáng tin cậy ngay chính trong công ty Facebook cho biết: Sau khoảng 7 tuần bị đóng máy chủ ở Việt Nam, làm cho lượng truy cập bị suy giảm rất lớn, Facebook đã đồng ý kiểm duyệt mạnh những tin "chống nhà nước". Hiện tượng kiểm duyệt các thông tin nhạy cảm đã được mở rộng phạm vi và nội hàm dưới sức ép của Chính quyền. Việc đóng máy chủ bắt đầu từ giữa tháng 2 và liên tục cho đến khi Facebook phải nhượng bộ. Bộ ngoại giao cũng như công ty Viettel và VNPT không trả lời lại các câu hỏi của Reuters khi hỏi về vụ việc trên. Kể từ năm 2016, Việt Nam là một trong những thị trường lớn nhất của Facebook ở Châu Á với hơn 65 triệu tài khoản sử dụng. Hiện nay không có con số thống kê chính thức số tiền mà FB nhận được qua dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam, nhưng được nhiều nguồn tin đưa ra là không dưới 5 ngàn tỷ cho năm 2019. ***** Văn Khiêm - Luật Khoa  Hai nguồn tin nội bộ của Facebook đã xác nhận với hãng tin Reuters hôm thứ Ba, rằng Facebook đã đồng ý kiểm duyệt những nội dung “chống chính quyền” tại Việt Nam theo yêu cầu của chính quyền, sau khi các nhà mạng bóp băng thông truy cập vào trang mạng xã hội này. Từ đầu năm 2020 cho đến nay, có những lúc người dùng tại Việt Nam không thể tải và sử dụng đươc trang Facebook. Điều này đã được hai nguồn tin nói trên mô tả là phương cách chính quyền Việt Nam dùng để gây áp lực đến Facebook. Họ cho biết các công ty cung cấp dịch vụ mạng tắt các máy chủ của họ ở Việt Nam, khiến trang Facebook không thể hiển thị ổn định trong vòng bảy tuần. “Chúng tôi tin rằng họ hành động như vậy để gây áp lực lớn ép chúng tôi tuân thủ nhiều hơn các yêu cầu pháp lý gỡ bỏ những nội dung mà người dùng của chúng tôi ở Việt Nam thấy được”, một trong hai nguồn tin nói với Reuters. Trả lời Reuters qua email, Facebook cũng xác nhận rằng, tuy rất bất đắc dĩ nhưng công ty đã chấp thuận tuân thủ với lời yêu cầu từ Việt Nam trong việc “ngăn chặn quyền truy cập của người dùng đến những nội dung bị cho là vi phạm pháp luật.” “Sau khi chúng tôi cam kết hạn chế nhiều nội dung hơn, các máy chủ [ở Việt Nam] được các nhà mạng mở lại”. “Xin nói rõ, điều này không có nghĩa là chúng tôi sẽ tuân thủ mọi yêu cầu mà chính quyền [Việt Nam] gửi tới. Nhưng chúng tôi có hạn chế nhiều nội dung hơn”, một nguồn tin nói. “Chúng tôi tin rằng, tự do biểu đạt là nhân quyền căn bản, và nỗ lực bảo vệ quyền tự do quan trọng này trên thế giới… […] Tuy nhiên, chúng tôi tiến hành việc này để đảm bảo các dịch vụ của chúng tôi khả dụng với người dùng ở Việt Nam, vốn dựa vào các dịch vụ này mỗi ngày”, một tuyên bố của Facebook cho biết. Bối cảnh: – Trước đó, VNPT có ra thông báo giải thích việc tốc độ truy cập chậm là do đang bảo trì cáp quang dưới biển và xin lỗi vì người dùng không truy cập được vào Facebook một cách ổn định. – Facebook hiện có 65 triệu người dùng ở Việt Nam. – Theo công ty nghiên cứu Ants, doanh thu quảng cáo trực tuyến ở Việt Nam là khoảng 550 triệu USD trong năm 2018. Trong đó, 70% là của Facebook và Google. – Theo Ân xá Quốc tế, Việt Nam đã bắt giữ nhiều người dân vì những thông tin mà họ đưa lên Facebook. Phía Việt Nam nói gì? – Reuters đã liên lạc với Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Viettel và VNPT về vấn đề này, nhưng không có cơ quan hay công ty nào phản hồi. Chuyên gia nói gì? – Người dùng Việt Nam hay sử dụng thuật ngữ “bóp băng thông” với hàm ý tốc độ truy cập chậm lại. Kỹ sư Dương Ngọc Thái của Google giải thích điều này trên blog cá nhân như sau: “Tại sao Facebook lại đặt máy chủ ở Việt Nam? Tôi không rõ thiết kế của Facebook, nhưng để tối ưu tốc độ phục vụ người dùng các công ty sẽ muốn đặt máy chủ càng gần người dùng càng tốt. Cách tốt nhất là thuê chỗ ở trung tâm dữ liệu của các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Các máy chủ này thường sẽ không có chứa dữ liệu riêng tư của người dùng, mà chỉ chứa những nội dung mà ai cũng xem được. Khi các máy chủ này bị tắt đi, Facebook vẫn hoạt động được, nhưng tốc độ sẽ giảm xuống vì lúc này người dùng sẽ phải kết nối thẳng đến trung tâm dữ liệu của Facebook đặt ở Singapore, Đài Loan hay Hong Kong.”    
......

COVID-19: Cuộc chiến cho sự minh bạch

Ngoc Duc Nguyen - Nguyễn Ngọc Đức Thế giới đang chiến đấu chống Covid-19. Muốn chiến thắng, thế giới cũng cần sự minh bạch. Nói cách khác, cuộc chiến chống Covid-19 gắn liền với cuộc chiến cho sự minh bạch. Ngày 16 tháng Tư, Tổng Thống Mỹ Donald Trump cho biết Hoa Kỳ đang tìm cách xác định liệu Covid-19 có xuất phát từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán hay không và Trung Quốc sẽ trả giá rất đắt nếu cố tình che dấu sự thật. Cùng ngày, Tổng Thống Pháp Emmanuel Macron, trong một cuộc phỏng vấn của báo Financial Times, nêu lên sự nghi ngờ về các dữ kiện của Trung Quốc. Ông nói “Khá chắc chắn là có những điều đã xảy ra, nhưng chúng ta không được biết.” Thứ Hai 20 tháng Tư, Thủ Tướng Đức Angela Merkel tuyên bố “Trung Quốc càng minh bạch về nguồn gốc, dữ kiện của Covid-19, thì càng tốt cho con người trên hành tinh này.” Nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới đòi hỏi một điều giống nhau. Đó là sự minh bạch về nguồn gốc và dữ kiện Covid-19. Thế giới không tin những con số, dữ kiện của Trung Quốc công bố. Cách đây vài hôm, Bắc Kinh có điều chỉnh để nâng cao số lây nhiễm và tử vong, nhưng nhiều chuyên gia về dịch tễ vẫn cho rằng những con số này còn cách xa sự thật rất nhiều. Mới đây, Trung Quốc đã từ chối yêu cầu của Úc về một cuộc điều tra độc lập, để truy tìm nguyên nhân khởi phát dịch bệnh, cũng như cách thức mà Bắc Kinh đối phó với con virus này. “Chúng tôi cần biết chi tiết. Chỉ có một cuộc điều tra độc lập mới cho chúng tôi hiểu về nguồn gốc của virus, cách xử lý và sự minh bạch của các dữ kiện được công bố,” Bộ Trưởng Ngoại Giao Úc Marise Payne khẳng định. Covid-19 từ Vũ Hán đã lan ra 210 nước, khiến gần 2,5 triệu người nhiễm và hơn 165.000 người chết (tính đến 20/4/2020). Con số chắc chắn không dừng ở đây, vì vẫn chưa có thuốc ngừa và thuốc chữa hữu hiệu. Sự minh bạch về nguồn gốc của virus, minh bạch về dữ kiện của Trung Quốc rất cần thiết cho thế giới để chiến thắng dịch bệnh. Nhưng, thái độ của Trung Quốc hiện nay vẫn là bất chấp thế giới, vẫn cố thủ trong chính sách bưng bít thông tin, bóp méo sự thật. Sự bực tức, lên án hay phẫn nộ đối với Bắc Kinh là cần thiết, nhưng sẽ không thay đổi được thái độ của họ. Những đòi hỏi minh bạch, những đe dọa trừng phạt là cần thiết, nhưng cũng không đủ áp lực để Trung Quốc, nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, phải lùi bước, nhượng bộ. Chỉ có sự phối hợp và đoàn kết thật sự giữa các nước dân chủ phát triển trên thế giới mới có thể tạo ra đủ áp lực để buộc Trung Quốc phải minh bạch. Đoàn kết chính là chìa khóa để chiến thắng trong cuộc chiến chống dịch bệnh này. Nguyễn Ngọc Đức
......

Kết quả chính trị của đại dịch Covtd-19, thật không may, sẽ còn kéo dài

The Economist, 18/4/2020 Nguyễn Trung Kiên dịch CÓ PHẢI TRUNG QUỐC ĐANG CHIẾN THẮNG? Năm 2020 đã bắt đầu ở Trung Quốc một cách thật đáng sợ. Khi một loại virus gây bệnh viêm đường hô hấp cấp lây lan ở Vũ Hán, các quan chức của Đảng Cộng sản, vốn hành động theo bản năng, đã che giấu nó. Ngay lập tức, một số người dự đoán rằng đây có thể là một vụ “Chernobyl của Trung Quốc”, hàm ý đến việc Đảng Cộng sản Liên Xô đã nói dối về thảm họa hạt nhân, và vì thế đã đẩy nhanh sự sụp đổ của Liên Xô. Nhưng những người này đã sai. Sau sự lúng túng ban đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhanh chóng áp dụng một chế độ kiểm dịch quy mô lớn về phạm vi và với mức độ cảnh báo nghiêm trọng ở mức cao. Việc giãn cách xã hội dường như đã trở nên hiệu quả. Số lượng các trường hợp dương tính mới với covid-19 đã chậm lại một cách nhỏ giọt. Các nhà máy ở Trung Quốc đang mở cửa trở lại. Các nhà nghiên cứu đang khẩn trương đưa các loại vắc-xin vào thử nghiệm. Trong khi đó, số người chết, theo số liệu chính thức, tại Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ý và Hoa Kỳ đã tăng mạnh. Trung Quốc ca ngợi đây là một chiến thắng. Một chiến dịch tuyên truyền rộng lớn giải thích rằng Trung Quốc đã kiểm soát được dịch bệnh nhờ sự cai trị độc đảng mạnh mẽ. Đất nước này hiện đang thể hiện sự nhân đạo của mình bằng cách cung cấp cho thế giới bộ dụng cụ y tế, bao gồm gần 4 tỷ khẩu trang từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 4 tháng 4. Đất nước này đã hy sinh thời gian của nó để giúp cho phần còn lại của thế giới có thể chuẩn bị. Nếu một số nền dân chủ phương Tây đang lãng phí thời gian, thì điều đó cho thấy hệ thống chính quyền của họ kém hơn Trung Quốc. Một số người, bao gồm cả những người theo dõi chính sách đối ngoại dễ bị kích động ở phương Tây, đã kết luận rằng Trung Quốc sẽ là người chiến thắng từ thảm họa covid. Họ cảnh báo rằng đại dịch sẽ được ghi nhớ không chỉ là một thảm họa của con người, mà còn là một bước ngoặt địa chính trị để loại nước Mỹ khỏi vị trí lãnh đạo toàn cầu. Quan điểm đó đã bắt nguồn một phần do diễn biến thực tế. Tổng thống Donald Trump dường như không có hứng thú trong việc dẫn đầu trong sự phản ứng toàn cầu đối với virus. Các tổng thống Mỹ trước đây đã lãnh đạo các chiến dịch chống lại HIV/AIDS và Ebola. Trump đã tuyên bố sẽ ngừng tài trợ cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vì sự thiên vị của tổ chức này dành cho Trung Quốc. Với người đàn ông đứng đầu Nhà Trắng vốn đang tuyên bố rằng: “Tôi có quyền lực tuyệt đối”, nhưng lại bảo: “Tôi không phải chịu trách nhiệm gì cả”, Trung Quốc đang có cơ hội nâng cao tầm ảnh hưởng toàn cầu của mình. Mặc dù vậy, Trung Quốc có thể sẽ không thành công. Có một điều là, không có cách nào để biết liệu kết quả của Trung Quốc trong nỗ lực đối phó với đại dịch covid-19 có ấn tượng như nước này tuyên hay không. Người ngoài không thể kiểm tra xem các quan chức bí mật của Trung Quốc có phải đã trung thực về số ca dương tính và ca tử vong do virus corona hay không. Một chế độ độc đoán có thể ra lệnh cho các nhà máy phải hoạt động, nhưng nó không thể buộc người tiêu dùng mua sản phẩm của của những nhà máy đó. Chừng nào đại dịch còn hoành hành, sẽ còn quá sớm để biết liệu mọi chuyện sẽ kết thúc với việc tin rằng Trung Quốc đã kiểm soát đại dịch thành công, hay nó sẽ đổ lỗi bằng cách đàn áp bác sĩ ở Vũ Hán - người đầu tiên đưa ra cảnh báo. Một trở ngại khác là tuyên truyền của Trung Quốc thường rất thô bỉ và gây khó chịu. Những phát ngôn của Trung Quốc không chỉ đơn thuần là ca ngợi các nhà lãnh đạo của chính họ; một số phát ngôn còn tỏ ra hả hê vì sự rối loạn của chính quyền Hoa Kỳ, hoặc tuyên truyền các thuyết âm mưu rằng virus corona là một vũ khí sinh học của Hoa Kỳ. Trong mấy ngày gần đây, người châu Phi ở Quảng Châu đã bị đuổi khỏi nhà, bị cấm thuê khách sạn và sau đó bị quấy rối vì ngủ trên đường phố, rõ ràng vì các quan chức địa phương sợ rằng họ có thể bị nhiễm virus. Hoàn cảnh của họ đã tạo ra các tin tức đầy phẫn nộ trên truyền thông và sự phản ứng về ngoại giao trên khắp châu Phi. Và các nước giàu thì đang nghi ngờ về động cơ của Trung Quốc. Margrethe Vestager, Giám đốc về cạnh tranh của EU, kêu gọi các chính phủ mua cổ phần trong các công ty chiến lược của nước họ để ngăn chặn Trung Quốc lợi dụng tình trạng hỗn loạn thị trường nhằm mua lại cổ phần với giá rẻ. Nhìn rộng hơn, đại dịch đã hình thành nên những lập luận rằng các quốc gia không nên phụ thuộc vào Trung Quốc cho các hàng hóa và dịch vụ quan trọng, từ máy thở đến mạng 5G. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự kiến thương mại toàn cầu sẽ giảm 13-32% trong ngắn hạn. Nếu điều này biến thành một cuộc “giải toàn cầu hóa” trong dài hạn, vốn đã là một mối lo ngại trước khi đại dịch Covid-19 xảy ra, thì điều này sẽ gây tổn hại cho Trung Quốc nhiều như bất cứ nơi nào trên toàn cầu. Điều cơ bản hơn là: liệu các quốc gia khác có sẵn sàng chấp nhận để cho Trung Quốc thay thế Hoa Kỳ hay không. Chắc chắn, Trung Quốc sẽ không cố gắng tái tạo thế mạnh theo kiểu Hoa Kỳ: một mạng lưới các liên minh với các đế chế khổng lồ trong khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy quyền lực mềm, từ Google và Netflix đến Đại học Harvard và Quỹ Bill Gates. Trung Quốc cho thấy nó dường như không muốn đảm nhận vị trí lãnh đạo mà sẽ có thể đẩy quốc gia này vào các cuộc khủng hoảng toàn cầu, như nước Mỹ đã từng trải qua từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Một thử nghiệm về tham vọng của Trung Quốc sẽ là cách thức mà quốc gia này tiến hành trong cuộc đua sáng chế vắc-xin ngừa virus corona. Nếu Trung Quốc thành công đầu tiên, thì thành công này có thể được sử dụng như một chiến thắng của quốc gia và là nền tảng cho sự hợp tác toàn cầu. Một thử nghiệm khác là giảm nợ cho các nước nghèo. Vào ngày 15 tháng 4, nhóm G20, bao gồm cả Trung Quốc, đã đồng ý để các quốc gia mắc nợ tạm hoãn thanh toán nợ cho các quốc gia chủ nợ trong tám tháng. Trong quá khứ, Trung Quốc đã mặc cả về nợ nần đằng sau cánh cửa đóng kín và tiến hành song phương, một cuộc mặc cả giữa con rồng với bầy chuột, để tìm kiếm những nhượng bộ chính trị. Nếu quyết định của G20 được thực hiện, có nghĩa là Bắc Kinh hiện đang sẵn sàng hợp tác với với các chủ nợ khác, và tỏ ra hào phóng hơn, đó sẽ là một dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẵn sàng chi tiền để có được vai trò mới trên toàn cầu. Có lẽ Trung Quốc ít quan tâm đến việc điều hành thế giới, mà quan tâm hơn đến sự đảm bảo rằng các cường quốc khác không thể hoặc không dám cản trở nó. Trung Quốc đang cố gắng giảm tỷ lệ dự trữ bằng đồng đô-la [để thay thế bằng đồng nhân dân tệ (ND)] trên quy mô toàn cầu. Và họ đang nỗ lực để đưa các nhà ngoại giao của mình vào các vị trí có ảnh hưởng trong các tổ chức đa phương, để họ có thể định hình các quy tắc toàn cầu, về quyền con người, hay quản trị internet. Một lý do khiến Trump phải chiến đấu với những kẻ khiến Hoa Kỳ trở nên tồi tệ hơn là vì điều đó khiến ông có vẻ xứng đáng hơn với vị trí Tổng thống Hoa Kỳ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang phải điều hòa giữa tham vọng toàn cầu rộng lớn với một sự thận trọng trong việc cai trị một đất nước 1,4 tỷ dân. Họ không cần phải tạo một trật tự quốc tế dựa trên quy tắc mới từ đầu. Họ có thể thích tiếp tục thúc đẩy các trụ cột toàn cầu của trật tự, mà Hoa Kỳ xây dựng sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, trở nên lung lay, để một Trung Quốc đang trỗi dậy sẽ không bị kiềm chế. Đây không phải là một triển vọng tốt lành. Cách tốt nhất để đối phó với đại dịch và hậu quả kinh tế của nó là phải hành động ở quy mô toàn cầu. Các vấn đề như như tội phạm có tổ chức và biến đổi khí hậu cũng vậy. Những năm 1920 đã cho thấy những gì sẽ xảy ra khi các cường quốc trở nên ích kỷ và vội vàng lợi dụng những rắc rối của các quốc gia khác. Sự bùng nổ đại dịch covid-19 cho đến nay đã gây ra nhiều sự lợi dụng để giành lợi thế từ nhiều quốc gia. Trump phải rất nỗ lực để hiện tượng này không tiếp tục diễn ra. Đối với Trung Quốc, để quốc gia này theo đuổi một hành động mang tính lợi dụng như vậy sẽ không phải là một chiến thắng mà là một bi kịch. GÂY ẢNH HƯỞNG TOÀN CẦU – CẢM ƠN NGƯỜI ANH CẢ TẬP CẬN BÌNH Trong trường hợp thiếu sự lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ nhận ra đây một cơ hội để tăng cường sức mạnh của mình. Trung Quốc gọi đây là hoạt động viện trợ khẩn cấp lớn nhất mà họ đã thực hiện ở nước ngoài kể từ năm 1949, khi Đảng Cộng sản bắt đầu nắm quyền. Hầu như không có ngày nào trôi qua mà lại không có tin tức về nỗ lực viện trợ thiết bị y tế của Trung Quốc, từ khẩu trang đến máy thở, cùng sự biết ơn của người được nhận tài trợ; và của các đội y tế Trung Quốc bay ra nước ngoài để giúp các quốc gia chiến đấu với đại dịch covid-19. Chỉ vài tuần trước, Trung Quốc là nạn nhân lớn nhất của virus, và chính phủ của họ đã bị xua đuổi vì hành vi che đậy sự bùng phát ban đầu của đại dịch. Bây giờ, Trung Quốc đang cố gắng vẽ một bức tranh mới của chính mình như là một mô hình để kiểm soát đại dịch, và là vị cứu tinh của thế giới. Phương tiện truyền thông của nhà nước Trung Quốc luôn có mặt để ca ngợi mỗi đóng góp, cho dù nhỏ. Vào ngày 21 tháng 3, một chuyến tàu chở hàng khởi hành từ thành phố Nghĩa Ô phía Đông Trung Quốc đi đến Madrid, cách đó hơn 13.000 km. Ngoài hàng hóa thương mại là 110.000 khẩu trang và gần 800 bộ quần áo bảo hộ được tài trợ bởi một công ty nhà nước (họ đã đến hơn hai tuần sau đó). Khoản viện trợ trị giá dưới 50.000 đô la. Nhưng một trang web truyền thông nhà nước gọi nó là một “bước ngoặt mới” trong việc xây dựng một “con đường tơ lụa sức khỏe”. Trong số những khẩu hiệu được dán trên tàu có một câu nói: Xin mời đến đây, hỡi các hiệp sĩ đấu bò tót! Không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc đang chuyển sự chú ý đến hoàn cảnh của các quốc gia khác. Dữ liệu liên quan đến đại dịch covid của Trung Quốc rất đáng ngờ, nhưng rõ ràng nó đã suy giảm đáng kể các trường hợp nhiễm virus ở trong nước. Hầu như tất cả các ca dương tính mới được được phát hiện của Trung Quốc đều liên quan đến du khách từ nước ngoài. Là nhà sản xuất lớn nhất thế giới của hầu hết các bộ dụng cụ y tế cần thiết nhất trên toàn cầu, và với nhu cầu riêng giảm đi nhiều, Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ các quốc gia khác. Thật vậy, trong một đại dịch, giúp đỡ người khác cũng là để giúp chính mình, như người phát ngôn của Trung Quốc từng nói. Tuy vậy, Trung Quốc cũng nhìn thấy phần thưởng chính trị tiềm năng. Một hệ quả trực tiếp là Trung Quốc tăng cường sức mạnh của nó ở nước ngoài. Ngay cả trước khi đại dịch bùng phát, Trung Quốc đã cạnh tranh quyết liệt với Mỹ để giành ảnh hưởng toàn cầu. Bây Trung Quốc thấy nước Mỹ đang bị tê liệt bởi virus corona, và tổng thống Donald Trump đang dò dẫm để đối phó với cuộc khủng hoảng và không muốn tiến hành một nỗ lực quốc tế để chống lại căn bệnh này. Tại Đại hội Đảng năm 2017, Chủ tịch Tập Cận Bình cho biết đất nước của ông sẽ trở thành một nhà lãnh đạo toàn cầu vào giữa thế kỷ về “tầm ảnh hưởng quốc tế”. Mục tiêu đó thể hiện rõ trong các mô tả của Trung Quốc về cách mà thế giới nên thực hiện để đối phó với đại dịch covid. Thế giới nên coi Trung Quốc đang lãnh đạo tiến trình đối phó với đại dịch ở quy mô toàn cầu. Một lợi ích chính trị khác mà Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể hy vọng sẽ gặt hái được là ở trong nước. Phát huy sự giúp đỡ của Trung Quốc cho các quốc gia bị ảnh hưởng và mong muốn học hỏi từ thành công của Trung Quốc sẽ giúp làm chệch hướng sự chỉ trích của công chúng về phản ứng chậm chạp của Đảng đối với đại dịch này, đặc biệt là việc bịt miệng các bác sĩ đã chia sẻ thông tin về đại dịch này trên mạng Internet, và việc không cảnh báo công dân mặc dù có bằng chứng lây nhiễm từ người sang người. Truyền thông nhà nước nhấn mạnh rằng cuộc chiến của Trung Quốc với đại dịch covid-19 đã cho thấy “sự ưu việt” của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, với khả năng “độc đáo” của đất nước này trong việc điều phối nguồn lực con người và các nguồn lực khác. Việc đánh bóng hình ảnh của Chủ tịch Tập Cận Bình như một nhân vật tầm cỡ toàn cầu đã giúp củng cố thông điệp này. Bất kỳ cuộc gọi điện thoại nào giữa Tập và một nhà lãnh đạo thế giới để thảo luận về cuộc khủng hoảng đều lập tực được đưa lên truyền hình nhà nước mỗi đêm, bất kể nội dung các cuộc điện đàm có công khai hay không. Các tin tức này khiến Tập trở thành một chính khách rộng lượng và đáng tin cậy. Tuyên truyền của Đảng về nỗ lực viện trợ được dẫn dắt bởi các câu khẩu hiệu của Tập. Đi theo “con đường tơ lụa sức khỏe” theo đường sắt từ Trung Quốc đến Tây Ban Nha đã trở thành một biểu tượng. Phép ẩn dụ này được Tập sử dụng lần đầu tiên vào năm 2017, khi Trung Quốc ký thỏa thuận với Tổ chức Y tế Thế giới (WTO) để thành lập một hợp phần liên quan đến y tế thuộc Sáng kiến Vành đai và Con đường, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng toàn cầu của Trung Quốc (mà WHO là tổ chức đầu tiên đăng ký tham gia). Ý tưởng Vành đai và con Đường, và tất cả các chương trình đánh bóng thương hiệu liên quan đến ý tưởng này đều được liên kết chặt chẽ với Tập. Nội dung của chúng thật mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng nào được đưa ra, về một con đường tơ lụa mới. Nhưng ý định là rất rõ ràng: mô tả Trung Quốc về cơ bản là một quốc gia hiền lành. Các con đường trải dài trên toàn cầu, nhưng tất cả đều dẫn đến Trung Quốc. Trong các cuộc thảo luận với các nhà lãnh đạo thế giới về viện trợ liên quan đến đại dịch covid-19, Tập thích sử dụng một cách diễn đạt yêu thích khác: “xây dựng một cộng đồng với một tương lai chung cho nhân loại”. Nghe có vẻ vô hại, nhưng trung tâm của ý tưởng này là một nguyên tắc khiến Trung Quốc trở nên đáng mến, đó là tôn trọng các quốc gia khác bất kể hệ thống chính trị của họ như thế nào. Các công thức khác nhau đã được sử dụng từ thời Mao Trạch Đông (thuật ngữ được ưa chuộng của Mao, “năm nguyên tắc của sự chung sống hòa bình”, vẫn còn được sử dụng). Điều đó có nghĩa là các quốc gia khác nên bỏ qua bất kỳ sự hiểu lầm nào về cách thức mà Đảng Cộng sản đang cai trị Trung Quốc, và thể hiện sự tôn trọng với Trung Quốc. Vào ngày 26 tháng 3, tại một cuộc họp trực tuyến của các nhà lãnh đạo khối G20, Tập đã đề nghị chia sẻ kinh nghiệm của Trung Quốc về việc chống lại căn bệnh này và hợp tác trong việc tìm kiếm vắc-xin bằng cách nhấn mạnh cam kết của Trung Quốc đối với “khái niệm về một cộng đồng nhân loại cùng chia sẻ tương lai chung”. Hai ngày trước đó, Tập đã khẳng định với tổng thống của Kazakhstan, Kassym-Jomart Tokayev, rằng “sự cấp bách và tầm quan trọng” trong việc tạo ra một cộng đồng như vậy đã trở nên “rõ ràng hơn bao giờ hết” trong suốt đại dịch. Một số nhà bình luận về Trung Quốc nói rằng viện trợ y tế của đất nước này có thể giúp củng cố “quyền lực mềm” đầy hấp dẫn của Trung Quốc, trái ngược với “quyền lực cứng” liên quan đến sức mạnh quân sự và kinh tế. Xây dựng quyền lực mềm như vậy là một trong những mục tiêu của Đảng kể từ Đại hội Đảng năm 2007. Tập đã dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng quyền lực mềm, tăng cường các dự án như Học viện Khổng Tử và các dự án phát thanh toàn cầu nhằm truyền đạt tin tức “sạch sẽ” về Trung Quốc cho khán giả phương Tây, theo phong cách vô hại của phương Tây. Trong đại dịch này, truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng như các nhà ngoại giao của nước này đã sử dụng Twitter và Facebook (vốn đang bị chặn ở Trung Quốc) để tuyên truyền các nỗ lực viện trợ nhân đạo của Trung Quốc. Các chuyên gia nói rằng hàng ngàn tài khoản Twitter được sử dụng cho việc này là những tài khoản “bị giật dây”, được thiết lập để truyền bá thông tin sai lệch. Chiến dịch tuyên truyền đã được giúp đỡ bởi sự vắng mặt của Hoa Kỳ trong giai đoạn đầu khi thế giới phải đương đầu với đại dịch, một phần vì ông Trump không quan tâm đến lãnh đạo toàn cầu [đối với đại dịch], và một phần là do thiệt hại do Covid-19 gây ra tại Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thậm chí còn lúng túng trong việc thực hiện nghĩa vụ viện trợ quốc tế của mình. Vào tháng 3, Cơ quan Phát triển Quốc tế (USAID), đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nước châu Phi ngăn chặn Ebola trong giai đoạn 2014-2016, đã bắt đầu hủy kế hoạch viện trợ các lô hàng vật tư y tế ra nước ngoài, vì chúng cần thiết cho Hoa Kỳ. Và khi chính quyền Trump cũng như các thống đốc và bệnh viện của Mỹ lùng sục khắp thế giới để mua khẩu trang, quần áo bảo hộ và những thứ tương tự, họ đang làm điên đầu các đồng minh vốn cũng đang cần những hàng hóa tương tự. Đầu Tư tháng này, các quan chức ở Pháp và Đức đã cáo buộc Hoa Kỳ chuyển hướng [máy bay về Hoa Kỳ] đối với các lô hàng khẩu trang tế được dự định sử dụng ở nước họ. Các quan chức ở Washington đã bác bỏ các báo cáo, nhưng họ củng cố quan điểm, được tuyên bố ở nhiều nơi trên thế giới, rằng nước Mỹ chỉ đang lo cho chính nó. Quyết định của ông Trump vào ngày 14 tháng 4 đã đình chỉ các nghĩa vụ thanh toán [đối với các khoản viện trợ quốc tế] của đất nước ông vì việc xử lý đại dịch trên toàn cầu sẽ củng cố quyết định này, mặc dù nhiều quan chức phương Tây đồng tình với quan điểm của ông trong việc tố cáo Trung Quốc đã không đưa ra cảnh báo sớm về nguy cơ lây truyền của virus corona giữa người với người. Tuy nhiên, chiến thắng trái tim và lý trí cũng không phải là điều dễ dàng đối với Trung Quốc. Tất cả các tuyên truyền về sự hào phóng của Trung Quốc sẽ không có ích gì, bởi giá trị của các khoản quyên góp của Trung Quốc thấp hơn rất nhiều so với việc bán bộ dụng cụ y tế (đôi khi có chất lượng thấp) cho người mua vì mục đích thương mại. Từ ngày 1 tháng Ba đến ngày 4 tháng Tư, Trung Quốc đã xuất khẩu 1,45 tỷ đô-la vật tư y tế trên toàn cầu. Hầu hết hàng hóa này bán cho các quốc gia giàu có với giá thị trường. Vào thời điểm tàu hỏa chở hàng hóa viện trợ của Trung Quốc đến Madrid, Tây Ban Nha đã mua các thiết bị tương tự từ các nhà cung cấp Trung Quốc với trị giá gấp khoảng 10.000 lần so với hàng hóa viện trợ được gửi bằng đường sắt. Có thể Trung Quốc đã không đưa ra một chiến lược viện trợ, với ý thức rõ ràng về việc các quốc gia nào sẽ nhắm mục tiêu ưu tiên và nên được tặng miễn phí bao nhiêu. Thật vậy, thật tốt cho Trung Quốc khi các các công ty của nước này, cả nhà nước và tư nhân, có nhiều công ăn việc làm. Một số công ty lớn nhất của đất nước đã bắt đầu tham gia hoạt động viện trợ với chính phủ, nhưng chủ yếu bởi các công ty này cũng đang có nhiều lợi ích thương mại vốn đang bị đe dọa tại các quốc gia nhận viện trợ của Trung Quốc. SỰ HÀO PHÓNG CỦA GIỚI DOANH NHÂN Jack Ma, nhà tỷ phú, đồng sáng lập Alibaba - một đế chế thương mại điện tử khổng lồ, đã đi đầu trong nỗ lực viện trợ. Cùng với quỹ từ thiện của Alibaba, ông đã gửi các máy thở, bộ đồ bảo hộ và các bộ xét nghiệm covid-19 để phân phối cho tất cả 54 quốc gia châu Phi. Huawei, một công ty viễn thông, vốn đang bị Mỹ coi là mối đe dọa đối với an ninh của họ, đã chuyển một phần lớn cam kết của nó, gồm 500.000 khẩu trang, 50.000 kính bảo hộ, 30.000 bộ quần áo bảo hộ và 120.000 găng tay cho các bệnh viện ở New York. Công ty này cũng đã quyên góp hàng triệu khẩu trang cho các quốc gia đang cân nhắc xem có nên cho phép Huawei đầu tư vào mạng 5G của họ, bao gồm Canada và Hà Lan. Tại nhiều vùng của Châu Âu, viện trợ của Trung Quốc có thể đã giành được sự ngưỡng mộ. Một bảng quảng cáo lớn cảm ơn “người anh cả Tập Cận Bình”, được trả tiền bởi một tờ báo lá cải của chính phủ Serbia, đã xuất hiện ở thủ đô Belgrade của Serbia. Lucrezia Poggetti của tổ chức MERICS, một think-tank ở Berlin, nói rằng sự bất mãn của công chúng đối với Liên minh châu Âu và mất lòng tin đối với ông Trump khiến sự ủng hộ Trung Quốc tăng mạnh. Trong tháng này, một cuộc thăm dò được thực hiện bởi một đài truyền hình Ý đã hỏi mọi người họ muốn trở thành đồng minh nào ngoài châu Âu. Trong số 800 người được hỏi, 36% ủng hộ Trung Quốc và chỉ 30% ủng hộ Hoa Kỳ. Nhưng nhiều người ở phương Tây hoài nghi đối với tuyên truyền của Trung Quốc, bởi Trung Quốc đã bóc lột nhân công giá rẻ và cố tình quên đi sự viện trợ mà phương Tây đã dành cho Trung Quốc vào thời điểm cần thiết. Đầu tháng 2, Mỹ và châu Âu đã gửi 30 tấn vật tư y tế cho Trung Quốc (phần lớn được tặng riêng). Tổng thống Pháp Emmanuel Macron phàn nàn rằng mọi người nói nhiều về viện trợ của Trung Quốc và Nga cho châu Âu, nhưng không ai nói về việc Pháp và Đức đã cung cấp mặt 2 triệu khẩu trang và hàng chục ngàn quần áo bảo hộ cho Ý. Người đứng đầu về chính sách đối ngoại của EU, Josep Borrell, đã cảnh báo về “chính trị của sự hào phóng” của Trung Quốc. Ở các nước nghèo, nỗ lực viện trợ của Trung Quốc có vẻ hiệu quả hơn. Tại Châu Phi, các hàng hóa viện trợ của Trung Quốc đang rất cần thiết – một thực tế mà mạng lưới truyền thông rộng khắp châu Phi của Trung Quốc luôn nhấn mạnh (các hãng tin trên khắp châu Phi sử dụng các thông tin từ Tân Hoa Xã - hãng thông tấn của nhà nước Trung Quốc). Nhưng nước Mỹ vẫn là một nhà tài trợ lớn hơn nhiều cho châu Phi và cho Liên Hợp Quốc. Năm ngoái, Trung Quốc đã đóng góp 368 triệu đô-la cho ngân sách chung của Liên Hợp Quốc, chỉ bằng 55% đóng góp của Hoa Kỳ. Hình ảnh Trung Quốc đã bị ảnh hưởng nặng nề tại châu Phi do những vụ trục xuất một số người châu Phi từ nơi cư trú của họ ở thành phố Quảng Châu (phía nam Trung Quốc), sau khi được báo cáo rằng một vài người trong số họ đã bị nhiễm covid-19. Hình ảnh người châu Phi bị buộc phải ngủ trên đường phố đã được chia sẻ rộng rãi trên các phương tiện truyền thông xã hội ở quốc gia của họ. Daily Nation, một tờ báo Kenya, đã cáo buộc Trung Quốc về sự phản bội trực tiếp này. Một số đại sứ của Trung Quốc tại các nước châu Phi đã được các chính phủ sở tại triệu tập đến để phản đối. Trung Quốc cho biết họ sẽ dần dần dỡ bỏ các hạn chế liên quan đến sức khỏe đối với người châu Phi tại Quảng Châu, đồng thời phủ nhận sự phân biệt đối xử với người châu Phi. Trong số các nước đang phát triển, Trung Quốc rất có thể, nếu không muốn nói là đã giành được sự ủng hộ bằng cách cung cấp các khoản trợ giúp kinh tế như hiện tại bằng cách cung cấp viện trợ y tế. Ở Châu Phi, Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất, đã cho các quốc gia châu Phi vay hơn 140 tỷ đô la kể từ năm 2000. Vào ngày 6 tháng 4, Ken Ofori-Atta, Bộ trưởng Tài chính Ghana, cho biết Trung Quốc nên tăng cường mạnh mẽ bằng cách tái cơ cấu hoặc xóa một số khoản vay, bởi theo ông, Ghana sẽ cần 8 tỷ đô la để phục hồi nền kinh tế trong năm nay. Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế đã đề xuất rằng các chủ nợ nên phối hợp để xóa nợ. Vào ngày 15 tháng 4, Nhóm G20, bao gồm Trung Quốc, đã đạt được đồng thuận trong việc cho phép các nước đang phát triển đình chỉ thanh toán nợ cho các thành viên của mình cho đến đầu năm 2021. Nhưng khi nói đến việc tái cơ cấu các khoản vay, Trung Quốc có thể thích đàm phán song phương hơn là hợp tác chặt chẽ với các bên cho vay khác. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã sẵn sàng thay đổi các điều khoản của khoản nợ của mình, ví dụ như những khoản nợ của Cộng hòa Congo trong năm ngoái. Nhưng Trung Quốc thích hành động lặng lẽ và tùy vào từng trường hợp. Bằng cách đó, Trung Quốc có thể duy trì các mặc cả chính trị được hình thành bởi việc cho vay của Trung Quốc. Năm ngoái, Trung Quốc đã thông báo xóa khoản nợ 78 triệu đô-la cho Cameroon. Một tháng sau, Cameroon đã rút ứng cử viên của mình (và ứng viên của Liên minh châu Phi) cho chức Tổng giám đốc của Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc, dọn đường cho ứng cử viên Trung Quốc trúng cử vị trí này. Một số nhà phê bình phương Tây gọi đây là một “sự bù đắp lại” [cho việc được xóa nợ (ND)]. Trong suốt cuộc đại dịch, Trung Quốc đã thể hiện sự sẵn sàng hợp tác các nước với lòng tốt. Việc triển khai “quyền lực khôn ngoan” [kết hợp giữa “quyền lực cứng” và “quyền lực mềm”] của Trung Quốc, đã được chứng minh rõ ràng trong phản ứng của họ đối với các đề xuất rằng Trung Quốc có thể đã làm trầm trọng thêm đại dịch bởi sự che đậy thông tin. Các đại sứ quán Trung Quốc ở một số quốc gia đã nổi giận khi những những nhân vật nổi tiếng, từ con trai của tổng thống Brazil, Jair Bolsonaro, đến Mario Vargas Llosa, một nhà văn Peru, đã phát biểu “sai lầm” như vậy. Đại sứ quán Trung Quốc ở Lima cáo buộc ông Vargas Llosa đã đưa ra những lời chỉ trích vô lý và vô căn cứ đối với Trung Quốc, khi ông đổ lỗi cho sự che đậy ban đầu của hệ thống độc tài Trung Quốc. Một số nhà ngoại giao Trung Quốc thậm chí đã phản ứng dữ dội khi mọi người chỉ ra rằng virus có nguồn gốc từ Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không đưa ra một kế hoạch chi tiết rõ ràng để định hình trật tự toàn cầu. Nhưng vào năm 2017, Tập đã đưa ra một gợi ý về cuộc chơi lâu dài của Trung Quốc khi ông tuyên bố rằng Trung Quốc đã có một “vị trí dẫn dắt” trong các vấn đề quốc tế, và sẽ đóng góp nhiều hơn cho nhân loại. Điều này dường như không liên quan đến thúc đẩy các quốc gia khác chuyển sang chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc. Mục tiêu của Trung Quốc thường là để tự vệ, để bảo vệ bản thân khỏi những lời chỉ trích và thách thức đối với các yêu sách lãnh thổ của mình. (Khi Bruce Aylward, một cố vấn cho WHO, giả vờ không nghe thấy câu hỏi về Đài Loan của phóng viên, truyền thông Trung Quốc rất vui mừng). Tuy nhiên, Trung Quốc cố gắng thuyết phục những người khác chấp nhận quan điểm đặc biệt về quyền con người. Trung Quốc đánh giá thấp các quyền tự do cá nhân, ưu tiên phát triển kinh tế và nghĩ rằng các chính phủ nên kiểm soát mạng Internet như họ muốn. Việc Trung Quốc có thể tận dụng đại dịch để tăng cường sức mạnh toàn cầu hay không sẽ phụ thuộc không ít vào chính trị và nền kinh tế của Trung Quốc và Hòa Kỳ sau đại dịch. Bằng cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2009, Trung Quốc đã đạt được nhiều ảnh hưởng trong khi phương Tây suy sụp. Tuy nhiên, Trung Quốc này có thể sẽ không đạt được điều đó trong đại dịch này: các gói kích thích kinh tế khổng lồ có thể làm khiến đất nước này tê liệt trong nợ nần. Trung Quốc nên cảnh giác khi lặp lại chiến thuật này. Một khi thế giới trỗi dậy sau đại dịch, sự chú ý của phương Tây dường như sẽ tập trung hơn vào việc ngăn chặn sự xử lý việc bùng phát đạt dịch của Trung Quốc, về độ tin cậy của dữ liệu [của Trung Quốc] liên quan đến đại dịch covid-19, và sự tổn thương của phương Tây trước sự kiểm soát của các chuỗi cung ứng quan trọng của Trung Quốc, không chỉ trong các ngành y tế. Những vấn đề như vậy có thể khiến Trung Quốc lo lắng hơn về ảnh hưởng toàn cầu của mình và khiến đất nước này khó định hình thế giới hơn theo ý muốn của nó. Nếu Joe Biden giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 tới, ông có thể tái khẳng định tầm nhìn tự do về trật tự thế giới, bao gồm hỗ trợ cho các tổ chức đa phương và các liên minh khu vực đã bị Trump chê bai và bỏ qua. Và Trung Quốc có thể vấp ngã. Một làn sóng bệnh dịch khác có thể làm các tuyên bố của Đảng Cộng sản không còn đáng tin cậy. Thất nghiệp tăng vọt có thể làm trầm trọng thêm căng thẳng xã hội ở trong nước và ngăn cản các nhà lãnh đạo Trung Quốc giành thắng lợi trong cuộc tranh giành ảnh hưởng toàn cầu. Hiện tại, khi nước Mỹ đang loay hoay với Đại dịch, Trung Quốc xuất hiện như một nhà lãnh đạo thiếu tự tin dù đang có những điều kiện tốt nhất. Sự thiếu tự tin của Trung Quốc đã được bộc lộ khi quốc gia này trở thành Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc vào tháng trước. Trong suốt tháng, nó đã không triệu tập bất kỳ phiên họp toàn thể nào về đại dịch. (Vào ngày 9 tháng 4, Hội đồng này đã tổ chức một cuộc họp, nhưng Trung Quốc một mực khẳng định rằng cuộc họp trực tuyế này sẽ không công khai với công chúng.) Các phái viên của Liên Hợp quốc nói rằng Trung Quốc không muốn cho Mỹ cơ hội để đổ lỗi cho về đại dịch cho Trung Quốc. Một trong những nhà ngoại giao của Hội đồng Bảo an nói: “Thật vô trách nhiệm!”. Thay vào đó, hai đối thủ kình dịch là Hoa Kỳ và Trung Quốc đều từ chối dẫn đầu. Hoa Kỳ rút lui; Trung Quốc thì không chắc chắn liệu quốc gia này thực sự muốn nhận trách nhiệm toàn cầu hay không. Thế giới, vì thế, sẽ bị tổn thương. Nguyen Trung Kien (Nguồn: www.economist.com)    
......

Bất hợp pháp, như một lẽ tự nhiên

nhacsituankhanh| Người Việt Nam vẫn luôn có một đời sống sinh hoạt bất hợp pháp rất tự nhiên từ hàng chục năm nay, đó là một hiện trạng ai cũng thấy, cũng biết. Và đó cũng là một hình ảnh về sự bất lực của nhà cầm quyền trong việc muốn thống nhất mọi thứ theo một tiêu chuẩn duy ý chí. Sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam vào năm 1975, được mở ra bằng một khái niệm khác là thống nhất địa lý, nhưng chỉ vậy mà thôi. Bởi sau nhiều năm, những gì thuộc về văn hoá của hai nền cộng hòa tự do vẫn tiếp tục lưu hành, bất chấp các biện pháp cấm đoán hay trừng phạt không được ghi trong luật của chính quyền trung ương phía Bắc. Vẫn có một vương quốc tinh thần khác, âm thầm ngự trị trong trái tim hàng chục triệu người: đó là quyền tự do chọn lựa và tiếp nhận. Hơn vậy, những gì thuộc về một tinh thần tự do và không chịu kiểm duyệt – thứ mà các nhà nước độc tài luôn ghét cay ghét đắng – lại vẫn âm thầm phát triển theo thời gian: từ một bản sao chép một cuốn sách cũ, cất giữ một bài báo nước ngoài bị kiểm duyệt, cho đến sở hữu những tác phẩm mới in ở ngoài nước hoặc tự in trong nước. Người dân vẫn cứ chọn thứ mình thích, và khung cảnh rượt đuổi, theo dõi, chụp bắt… giữa nhà cầm quyền và con người vẫn cứ diễn ra thường xuyên. Những ai đã sống qua những năm 80, 90… ở Việt Nam, chắc vẫn còn nhớ hình ảnh công an xộc vào nhà người dân, ôm hốt những sách vở tiếng Anh, tiếng Pháp, kể cả tiếng Việt của miền Nam đem ra đốt, đấu tố. Những bài hát tình yêu đơn giản cũng bị buộc phải nghe nho nhỏ và chuyền tay nhau như một loại hàng quốc cấm.   Thậm chí, nhiều năm trước, việc sở hữu một radio làn sóng ngắn, có ăn-ten parabol… cũng có thể bị coi là tàng trữ, hay âm mưu tiếp nhận các luận điệu chống chính quyền từ các thế lực thù địch bên ngoài. Cho đến hôm nay, mọi thứ trong xã hội có thể khác đi về biểu hiện, nhưng bản chất độc quyền văn hóa và tư tưởng của nhà cầm quyền thì không hề thay đổi. Những tin tức từ truyền thông nhà nước loan đi, tố cáo về việc ai đó bị bắt, bị nghi ngờ “tàng trữ các tài liệu phản động” luôn bộc lộ cho thấy sự bối rối của chính quyền về một loại quyền của người dân được ghi trong hiến pháp, nhưng vẫn luôn bị bẻ cong thành một tên gọi khác, vô nghĩa. Rồi 45 năm sau, kể từ ngày thống nhất địa lý, nhà cầm quyền Việt Nam có vẻ như đã tìm ra một giải pháp cho việc hợp thức hóa các chi tiết quen hành xử độc tài của mình. Rất nhiều điều khoản được cài cắm trong Nghị định số 15/2020 dành cho lĩnh vực bưu chính, viễn thông. Nghị định này, có thể coi như là một phần Luật an ninh mạng bổ sung, tạo sự hợp pháp cho việc bẻ cong quyền của người dân được hiến định, như đã nói trên. Hãy hình dung, mọi điều rất đơn giản như thế này. Ở Việt Nam, hàng ngàn bài hát bolero chưa bao giờ được cấp phép, vẫn được hát và trình diễn ở các quán bar, phòng trà… với sự mặc nhiên cho qua của cơ quan quản lý nhà nước, nhưng bất kỳ lúc nào – vì đó là những bài hát không phép – người hay nơi trình bày các ca khúc như vậy, có thể bị phạt tiền rất nặng (đến hàng chục triệu đồng) do bất chợt một ngày nào đó, từ một viên công an khu vực cho đến một cơ quan cấp thành phố đổi giọng theo vui buồn, nói rằng không công nhận các bài hát của văn hóa miền Nam cũ (chẳng hạn nằm ở điều 99, điều 100 hay 101). Bạn muốn giới thiệu một tập thơ, hay một cuốn sách có nội dung phi chính trị, nhưng nếu đó là một ấn bản tự lưu hành riêng với bạn bè,  hoặc đã in và phát hành với nước ngoài? Bạn cũng có thể là nạn nhân của những điều luật nói trên, vì đơn giản chi tiết nghi định có ghi rằng xử phạt ai dám “cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản ấn phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu”. Hãy tự hỏi, hàng ngàn đầu sách cũ trước năm 1975 vẫn được bày bán công khai, đã được bao nhiêu cuốn được chính thức cho phép lưu hành?   Mơ hồ và ấu trĩ hơn, ở điều 102, người dân có thể bị xử phạt khi nói yêu hay ghét theo quan điểm của mình, nhà cầm quyền sẽ xử phạt, nếu “Tuyên truyền, kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động” hoặc “xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc”. Trên thực tế, nhà cầm quyền thì chưa bao giờ đủ sức hay đủ minh bạch để chứng minh “tư tưởng phản động là gì”, hay xa hơn là “phủ nhận thành tựu cách mạng”, “xúc phạm danh nhân của dân tộc”. Những “thành tựu cách mạng” sẽ bị cấm mổ xẻ, chẳng hạn sẽ không ai được quyền phân tích thảm sát Mậu thân 1968 ở Huế là một sai lầm, hay một tội ác, hay một thất bại của chính quyền phía Bắc khi tự xé hiệp định tạm ngừng chiến? Ai được gọi là anh hùng và là danh nhân của dân tộc? Đó có phải là danh sách các ứng viên được nhà cầm quyền chọn lựa và cho phép, hay lịch sử tự nhiên của dân tộc Việt Nam quyết định? Ai cho quyền nhà nước Cộng sản Việt Nam phỉ báng Phan Thanh Giản, phủ nhận Nguyễn Ánh, và tự tôn xưng những người được ưa thích theo quan điểm chính trị của mình? Và tại sao người Việt phải phủ nhận tổ tiên của mình theo quy định của nhà cầm quyền? Đi vào đời sống, Nghị định 15/2020 được âm thầm ban hành vào ngày 3/2/2020 sẽ lộ ra thêm nhiều lổ hổng hun hút nữa, nhưng trơ trẽn nhất, những lổ hổng ấy, sẽ tạo ra nhiều sự vấp ngã và đau đớn, thuộc về người dân. Cuộc sống của người dân Việt Nam, sau 45 năm thống nhất địa lý, lại tiếp tục chập chờn trong sinh hoạt bất hợp pháp tự nhiên tất yếu của mình, bởi bản chất của luật lệ đưa ra, là việc rào chắn và chống lại tự nhiên, nhằm phục vụ riêng cho ý chí độc tài của một chính quyền. Trong The God Father, khi được hỏi về việc vi phạm pháp luật của mình, Bố già Victor Corleone có nói rằng “bởi có những loại luật pháp được tạo ra để chỉ khiến con người phải vi phạm”.   Biến một dân tộc thành những kẻ phạm pháp dự bị, cho mục đích bảo vệ tư tưởng chính trị của mình, thì cũng không thể công chính hơn một ông trùm mafia trong tiểu thuyết. ————– Tham khảo về Nghị định 15/2020, lưu ý từ điều 99 đến 102 https://bit.ly/3cHeoXV  
......

30/4: Ngày này năm ấy và ngày ấy năm này

Ngày này năm ấy… Những ngày tháng Tư của 45 năm trước, chúng tôi, những đứa trẻ mới lớn, cũng như bao triệu người dân miền Bắc Việt Nam, cứ vểnh tai hướng về những chiếc loa công cộng được gắn đầy trên các cột điện, các cây cao trong mọi thôn làng, xóm bản, ra rả vào sáng, trưa, chiều, tối. Những bản tin liên tục được nhắc đến với những từ “Chiến thắng, thần tốc”… làm nức lòng hầu hết mọi người dân. Người dân Miền Bắc vui mừng, người ta hồ hởi và náo nức chờ ngày “Chiến thắng”. Đến ngày đó, đất nước sẽ được “Xây dựng lại hơn mười ngày nay” để cả nước, người dân được làm chủ, đất nước được huy hoàng “sánh vai với năm châu” như Hồ Chí Minh đã hứa. Không vui sao được, khi mà đã bao năm, cả miền Bắc Việt Nam duy nhất chỉ có những chiếc loa công cộng, những tờ báo đảng và những cuộc nói chuyện thời sự của cán bộ tuyên giáo đảng tổ chức. Ngoài ra, bất cứ ai, bất cứ người nào cố tình hoặc vô ý nghe những thông tin từ bên ngoài bức màn sắt như Đài BBC hoặc một đài nào khác, thì y như rằng người đó là kẻ phản bội Tổ Quốc và sau đó là những cuộc đi tù không án kéo dài chẳng có hẹn ngày về. Khắp các hang cùng ngõ hẻm, những khẩu hiệu chi chít gắn trên những tấm ván, những liếp nhà nhắc nhở người dân: Nghe đài, đọc báo của ta Chớ nghe đài địch ba hoa, nói càn. Hoặc ở những nơi công cộng rằng: “Ở đây tai vách, mạch rừng Những điều bí mật, xin đừng ba hoa”. Những thiếu niên, nhi đồng trước mỗi buổi sáng vào lớp học, tất cả đều phải đồng thanh gào “Giải phóng Miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước”… Cứ vậy, hệ thống tuyên truyền của Miền Bắc cộng sản đã rất thành công khi nhồi nhét vào đầu người dân những điều họ muốn, những thứ họ cần. Qua đó, người dân Miền Bắc chỉ biết được rằng, đồng bào miền Nam đang ngày đêm rên xiết dưới ách thống trị của Đế quốc Mỹ xâm lược và Ngụy quyền bán nước. Ở đó, Đế quốc Mỹ đã không từ một thủ đoạn nào để cưỡng bức, hà hiếp người dân Miền Nam với những sự man rợ nhất. Hồ Chí Minh đã tố cáo “Đế quốc Mỹ”: “ Chúng dùng những phương tiện chiến tranh cực kỳ man rợ, như chất độc hoá học, bom napan, v.v.. Chúng dùng chính sách đốt sạch, giết sạch, phá sạch”. Khi đó, Hồ Chí Minh là thánh sống, là tiên tri, là anh hùng, đã nói gì thì “chỉ có đúng”. Những người thế hệ tôi vẫn nhớ bài thơ “Lá Thư Bến Tre” của Tố Hữu: “Có những ông già, nó khảo tra Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà Có chị gần sinh, không chịu nhục Lấy vồ nó đập, vọt thai ra. Và: “Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc Nó bắt vô vườn, trói gốc sau Nó đốt, nó cười… em nhỏ hét: “Má ơi, nóng quá, cứu con mau!” (Lá thư Bến Tre – Tố Hữu – 1962 Rồi chuyện Đế Quốc Mỹ đầu độc cả mấy ngàn người ở Nhà tù Phú Lợi, rằng: “Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết Cả nghìn nguời, trong một trại giam Của một nhà tù lớn: Miền Nam! (Thù muôn đời muôn kiếp không tan – Tố Hữu) Những thứ đó đã đúc kết vào đầu, vào từng tế bào người dân Miền Bắc rằng, đang có một Miền Nam đau thương, một Miền Nam đói rách, một Miền Nam khốn khổ với những trò giết người, ăn thịt, mổ bụng moi gan hết sức tàn bạo dưới chính quyền Mỹ – ngụy bán nước… Với sự ngây thơ, cả tin và cả buộc phải tin, người dân Miền Bắc đã đem bao lớp thanh niên vào Miền Nam để rồi một số lượng rất lớn không trở lại. Thế rồi, ngày 30/4 cũng đến. Ngày đó, rợp cờ, hoa và tiếng loa vang suốt ngày đêm không ngớt, rằng Tổ Quốc đã sang trang sử mới, rằng là từ đây người dân sẽ làm chủ đất nước này, rằng: “Chúng ta chào mừng Tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi hoạ chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập, tự do! Và: “Không thể có độc lập, tự do thật sự cho dân tộc nếu nhân dân lao động còn bị áp bức bóc lột. Cũng không thể giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột, nếu dân tộc không được độc lập, tự do”. (Trích Diễn văn của Lê Duẩn tại Mít tinh mừng chiến thắng ngày 15 Tháng Năm, 1975 tại Hà Nội) Người ta cứ nghĩ rằng, từ đây, đất nước Việt Nam, người dân Việt Nam sẽ được yên ổn và hòa bình, sẽ nhanh chóng xây dựng Thiên đường XHCN tại trần gian. Kể từ đó, người cộng sản Việt Nam luôn vỗ ngực tự hào đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Sau những cuộc lên đồng tự sướng với “Chiến thắng” với “Giải phóng”… người dân cả nước bắt đầu đối diện với một sự thật cay đắng. Những lời hô hào “Hòa giải, hòa hợp dân tộc” mà Lê Duẩn đã trịnh trọng đọc trước cả nước và cả thế giới được thực thi tại Miền Nam bằng hàng loạt người bị bắt đi học tập, cải tạo – nghĩa là giam giữ không thời hạn, không án và không theo bất cứ luật lệ nào. Những cuộc vây ráp, bắt bớ để “Cải tạo tư sản mại bản Miền Nam” – thực chất là diễn lại những cuộc cướp bóc trắng trợn theo mô hình Cải cách ruộng đất 1954 được tiến hành. Chế độ cộng sản đã thống trị cả đất nước, bắt đầu một mô hình kinh tế tập thể với khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội”. Thế là “cuộc bỏ phiếu bằng chân” vĩ đại lại diễn ra lần thứ 2 tại Việt Nam khi những người dân một lần nữa quyết nói “Không” với cộng sản. Hàng loạt người bỏ mình trên biển, chấp nhận mọi chết chóc, đau thương, mất mát để chạy khỏi sự lãnh đạo thiên tài của đảng. Ở trong nước, người dân cả nước đối diện với một sự thật: Miền Nam không như họ nghĩ, họ biết và họ được tuyên truyền và cuộc chiến kia chỉ là cuộc chiến nồi da nấu thịt vì hệ tư tưởng cộng sản. Và cả đất nước đi theo mô hình kinh tế tập trung, đã dẫn đến nạn đói triền miên. Và ngày ấy năm này Đã 45 năm sau cái ngày ấy. Những ngày ấy của năm này, người ta đã thấy gì? Những lời hứa của người cộng sản năm xưa đã bay theo gió. Bởi đã gần nửa thế kỷ qua, người cộng sản đã làm ngược lại tất cả những điều họ đã hứa hẹn, hò hét, kêu gọi những khi buộc người dân dốc toàn lực cho họ. Kinh tế kiệt quệ, người dân chán nản, lòng người ly tán, đất nước, xã hội suy đồi. Người dân được đảng đưa đi làm nô lệ, bán sức lao động khắp thế giới. Người dân bằng mọi cách đua nhau đi ra nước ngoài kiếm sống. Thậm chí chấp nhận những cái chết dọc đường theo cách chui vào container để trốn lậu sang các nước tư bản giãy chết. Cuộc bỏ phiếu bằng chân lần thứ ba đã xuất hiện ngày càng rầm rộ. Những điều đó, ngày nay chẳng cần nói nhiều thì ai cũng thấy hết sức rõ ràng. Giàn khoan Hải Dương 981 do Bắc Kinh đưa vào thềm lục địa của Việt Nam năm 2014. Nhưng, điều quan trọng hơn, là thay vì đất nước “vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài” thì một phần lãnh thổ đất nước lại rơi vào tay quân Trung Quốc bằng những cuộc xâm lược thật sự với sự giúp đỡ đắc lực của chính đảng này. Và “đất nước”, “chủ quyền”, “độc lập”… chỉ còn là sáo ngữ. Trong khi đó, cái Đảng quang vinh kia, lại hành động ngược lại. Đảng coi nhân dân là kẻ thù. Mới đây, ngày 3 Tháng Tư năm 2020, lợi dụng khi nạn dịch xuất phát từ chính Trung Quốc đang làm cả thế giới chao đảo, Trung Quốc lại tiếp tục có những hành động ăn cướp trên Biển Đông, đâm chìm tàu của ngư dân trong lãnh hải Việt Nam. Oái oăm thay, trong những trường hợp đó, Việt Nam chẳng có ai trong đám “Bạn bè trong phe XHCN” năm xưa lên tiếng. Thế nhưng, khi Việt Nam cô đơn trong sự bỏ rơi, trước những trận đòn tấn công từ “người anh em XHCN”, thì chính Hoa Kỳ lại lên tiếng phản đối sớm nhất và mạnh mẽ nhất. Mới đây, ngày 6 Tháng Tư, 2020, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus tuyên bố: “Đây là vụ việc mới nhất trong một loạt hành động của Trung Quốc nhằm khẳng định những tuyên bố hàng hải trái pháp luật và gây thiệt hại cho các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông” Ngày 9 Tháng Tư, Bộ Quốc phòng Mỹ ra tuyên bố lên án hành vi này của Trung Quốc. Và Việt Nam như bắt được vàng trước việc Hoa Kỳ lên tiếng. Vậy là những ngày này, khi bị xâm lược thật sự, Việt Nam chỉ còn biết bấu víu vào đất nước mà 45 năm qua, họ đã từng tự hào “Đánh cho Mỹ cút”. 45 năm đã qua, người Việt Nam đã thấy rõ rằng: Ngày ấy năm nay, hoàn toàn ngược lại những gì họ đã thấy, đã tin vào ngày này năm ấy. Ngày 20/4/2020 J.B Nguyễn Hữu Vinh  
......

Pages