Ngoại giao đoàn Châu Âu và Hoa Kỳ gặp giới bất đồng tại Sài Gòn 15/5/2018

Trong bối cảnh Hiệp định Tự do Mậu dịch FTA giữa VN và EU đang bước vào giai đoạn phê chuẩn, và trước thềm cuộc Đối thoại Nhân quyền VN – Hoa Kỳ tại Washington, ngày 15/5 đoàn các nhà ngoại giao đã gặp gỡ trao đổi với Ls.Lê Công Định, Ts.Phạm Chí Dũng và Ths.Phạm Bá Hải tại Nguyen Du Park Villas, Sài Gòn. Phái đoàn các nhà ngoại giao Châu Âu bao gồm Miguel Moro Aguila (ĐSQ Tây Ban Nha), Catherine Welter (Tham tán Chính trị EU tại Hà Nội), Nicolo Costantini (ĐSQ Italia), Fabienne Runyo (ĐSQ Pháp), Tim Krap (ĐSQ Hà Lan), Graham (ĐSQ Anh), Victoria Rhodin Sandstrom (ĐSQ Thụy Điển), Konrad Lax (Đại sứ quán Đức). Phía Hoa Kỳ là ông Justin Brown và bà Pontius Pamela, thuộc Tổng lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn. Cuộc trao đổi kéo dài hai tiếng, xoay quanh các chủ đề nóng về vi phạm các tiêu chuẩn nhân quyền như vài điều khoản của Luật an ninh mạng, Luật tín ngưỡng tôn giáo, Luật đất đai liên quan đến vấn đề Thủ Thiêm và Đồng Tâm; nguyên nhân gia tăng đánh đập, bắt bớ, giam cầm, án tù nặng nề người bất đồng chính kiến. Đặc biệt, cuộc trao đổi dành nhiều thời gian để phân tích mục tiêu của Hiệp định Tự do Mậu dịch VN – Châu Âu (EVFTA) mà VN đang cố gắng vận động các quốc gia thành viên EU phê chuẩn. FTA VN – Châu Âu được xem như một hiệp định thương mại phủ một lượng hàng hóa khổng lồ chưa từng có giữa VN và EU. Nó không chỉ xóa bỏ 99% thuế quan trên tất cả hàng hóa mà còn mở cửa thị trường dịch vụ VN ra cho các công ty EU. FTA đẩy nền kinh tế VN tăng 15% GDP, hàng hóa xuất khẩu sang EU tăng một phần ba. Dự đoán GDP tăng 3,2 tỷ đô la vào năm 2020, 6,7 tỷ năm 2025 và 7,2 tỷ năm 2030. Mặc dù nội dung FTA đã thông qua năm 2015, nhưng phê chuẩn nó còn cần có chữ ký của 28 nước thành viên EU. Hiện tại các nhà hoạch định hiệp ước của EU đang xem xét tách riêng các phần thuộc quyền quyết định của các nước thành viên để tiến độ hoàn tất phê chuẩn nhanh hơn, dự tính là trong năm 2018. Tuy nhiên, EVFTA ngay từ đầu đã vấp phải sự phản đối của các tổ chức nhân quyền trên thế giới. Tính con số chính thức tối thiểu bị bắt, năm 2015 có 9 người bất đồng chính kiến bị an ninh VN bắt giam. Các năm 2016, 2017 lần lượt tăng dần đàn áp với số lượng 11 và 43. Riêng năm 2018, có ít nhất bốn người đã bị truy tố hình sự chỉ vì thực thi quyền tự do ngôn luận của họ. Các vụ tấn công bạo lực của công an an ninh cũng trở nên công khai và thách thức tiêu chuẩn nhân quyền mà VN cam kết. Nghị quyết 2013/2989(RSP) của Nghị viện Châu Âu ngày 17/04/2014 đặt ra cách tiếp cận FTA có điều kiện trên nền tảng có tiến bộ về nhân quyền và các quyền tự do căn bản khác. Nhấn mạnh quyền tự do ngôn luận của công dân, tự do báo chí và tự do tôn giáo. Đoạn 21 cũng ghi rõ khả năng ngừng ký duyệt FTA trong trường hợp có vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Trong khuôn khổ Hiệp ước Hợp tác và Đối tác Toàn diện (FACP) với VN, Nghị viện EU ban hành Nghị quyết 2015/2096 (INI) ngày 17/12/2015 kêu gọi chính quyền VN chấm dứt đàn áp người dân thực hiện quyền tự do bày tỏ ôn hòa, quyền hội họp và lập hội. Theo đó, xem xét sửa đổi Điều 79, 87, 88 và 258 trong Bộ luật Hình sự. EU quan tâm đến 60 TNLT xuất thân từ blogger, phóng viên, người bảo vệ nhân quyền, dân oan, công nhân. Khuyến nghị cải tổ hệ thống pháp luật hình sự, đặc biệt là thành lập hệ thống tòa án độc lập. Nghị quyết 2016/2755 (RSP) ngày 09/06/2016 liệt kê một loạt các nhà đấu tranh nhân quyền VN bị giam cầm. Yêu cầu EU tăng cường đối thoại chính trị với VN về nhân quyền trong khuôn khổ FACP. Kêu gọi Phái bộ EU tại Hà Nội dùng các biện pháp thích hợp cùng với chính quyền VN từng bước bảo vệ người bảo vệ nhân quyền. Đối thoại nhân quyền phải có kết quả cụ thể. Tuy nhiên, năm 2017 là năm điểm đỉnh của trấn áp nhân quyền. Các bản án nặng nề được tuyên bất chấp dư luận EU. Nghị quyết 2017/3001 (RSP) thông qua ngày 14/12/2017 lên án nhà nước VN dùng các biện pháp khủng bố tinh thần, tấn công thể xác, quản chế tại gia tùy tiện, áp lực luật sư, chủ doanh nghiệp, chủ nhà trọ và gia đình của các nhà hoạt động, ngăn cản tự do đi lại của công dân đi đến các sự kiện công cộng hay các phiên tòa. Bốn nghị quyết trên của Nghị viện EU đủ thấy mối quan tâm sâu sát về vi phạm nhân quyền tại VN. Bên cạnh đó, các tổ chức nhân quyền quốc tế cũng lo ngại việc các công ty khổng lồ EU sẽ dùng VN như một nhà máy sản xuất giá rẻ, với tiêu chuẩn môi trường thấp. Chủ tịch UB Thương mại thuộc Nghị viện EU, ông Bernd Lange nói: “Công nhân được thuê và bị sa thải mà không có bảo đảm nào, tăng ca tùy tiện, và công nhân nào đấu tranh cho điều kiện lao động công bằng hơn sẽ bị đuổi việc. Rõ ràng là không thể nào bỏ hết mọi thuế suất và làm cho nó thành rẻ ở đây mà không có bất kỳ tiến bộ nào cho công nhân bên đó”. Và ông kết luận: “Nếu không có tiến bộ về nhân quyền và đặc biệt là quyền của người lao động, thì Nghị viện không thể phê chuẩn Hiệp ước FTA” Hàng trăm tù nhân lương tâm đang bị đọa đày trong các nhà tù khắp nước, hàng ngàn người dân bị đánh đập công khai vì bày tỏ ôn hòa, và hàng triệu công nhân lao động không có quyền tự bảo vệ mình trong các “nhà máy mồ hôi”. Mồ hôi và nước mắt của họ không thể dùng để làm cho sản phẩm trở nên rẻ. Tất cả họ không thể bị ngạt bỏ ra ngoài vì cái gọi là sự phát triển đất nước và thịnh vượng. Ngày 15/05/2018 Phạm Bá Hải Điều phối viên Hội CTNLT.
......

Xin đừng ngộ nhận

Hệ thống chính trị được sinh ra để làm gì? Để trả lời thì ai cũng nói được thôi, thứ nhất nó quản lý xã hội, thứ nhì nó quản lý kinh tế đất nước. Thế nhưng nếu đặt ngược lại câu hỏi, 2 mục tiêu đó họ đạt được không? Thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy những con số zero tròn trĩnh. Quản lí xã hội thì buông bỏ hoàn toàn. Vai trò bảo vệ đất nước thì quân đội buông xuôi và xúi dân mang cờ đỏ sao vàng ra biển đấu với súng đạn Trung Cộng. Vai trò bảo vệ yên bình cho dân cũng buông, đẩy trách nhiệm đó cho những hiệp sĩ đường phố làm thay. Tòa án thì bao che cho những kẻ phạm tội, tội ấu dâm tù treo, giật 2 ổ bánh mì vô tù, tự bắt ăn trộm đột nhập vào nhà mình thì bị tù v.v.. Bảo vệ đất nước, không. Bảo vệ bình yên dân, không. Bảo vệ công lý, không. Vậy các bạn còn tin tưởng giao mọi thứ cho Đảng và nhà nước lo ư? Quản lí kinh tế thì sao? Họ mượn nợ thế giới để họ bòn rút rồi đổ món nợ lên đầu bạn. Việt Nam phồn vinh ư? Việt Nam có người sắm Rolls Royce, Bentley, Ferrari, Lamborghini không thua kém nước ngoài ư? Việt Nam có người sắm máy bay riêng như nước ngoài rồi ư? Đấy là bề nổi. Vậy tôi hỏi ngược lại bạn rằng, cộng hết tất cả tài sản của những đại gia giàu có đó, đủ trả nổi món nợ 431 tỷ USD nợ nước ngoài mà chính quyền đã nhân danh bạn để đi vay không? Việt Nam chỉ mới 4 tỷ phú USD tổng tài sản đó liệu trả nổi tiền lời 1 năm của số nợ 431 tỷ USD không? Rồi những triệu phú USD Việt Nam có là gì so với nước khác? Như vậy rõ ràng là, sự phồn vinh mà bạn thấy kia đó chính là số tiền xà xẻo các khoản vay nợ nước ngoài bằng cách này hay cách cộng với các cách ăn cướp tài sản nhân dân bằng chính sách, mà Thủ Thiêm là một ví dụ. Thực sự những sự giàu có của một nhóm người cực ít ỏi kia thực chất là sự vay mượn nước ngoài để tạo bề mặt "phồn vinh". Còn thực chất đằng sau bức màn "phồn vinh" kia là gì nhỉ? Là thu nhập dân chỉ có 2.300 usd sau 32 năm mở cửa, là hàng chục vạn lao động ra nước ngoài làm culi hoặc làm đĩ, là hàng vạn đồng bào bị cướp đất trở thành vô gia cư, là cảnh học sinh lội thác hoặc đu dây đi học, là blah blah blah... Rồi chỉ một chiến dịch bắt tham nhũng bạn đã vội mừng. Sao bạn không đặt câu hỏi, tại sao không ngăn cản tham nhũng từ đầu mà để nó ăn sạch rồi bắt thì gọi là công lao? Thực chất cái đó nó chỉ là sự sửa sai chứ chả công lao gì cả. Vậy thì cứ để sai trái làm nát bấy rồi sửa và réo lên rằng "Công tao lớn lắm đó!" mà bạn cũng vỗ tay hoan hô thì nói thật, bạn quá ngây ngô. Chưa hết, vậy bắt những thằng tham nhũng này và thay thằng khác thì có đảm bảo thằng đó sạch không? Tham nhũng khắp nơi thì cái thể chế chính trị không có lỗi à? ĐCS vô can à? Vậy thì lấy lí do gì để bạn tin? ĐCS tự cho mình độc quyền lãnh đạo đất nước. Vậy bạn có đặt câu hỏi, rằng thành quả của Đảng đâu mà đòi độc quyền? Nhìn đâu cũng chỉ là hậu quả. Từ chiến tranh tương tàn cho tới lúc hết chiến tranh thì cũng toàn là hậu quả. Thế đã chưa là quá đủ sao?
......

Xin đừng ngộ nhận

Hệ thống chính trị được sinh ra để làm gì? Để trả lời thì ai cũng nói được thôi, thứ nhất nó quản lý xã hội, thứ nhì nó quản lý kinh tế đất nước. Thế nhưng nếu đặt ngược lại câu hỏi, 2 mục tiêu đó họ đạt được không? Thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy những con số zero tròn trĩnh. Quản lí xã hội thì buông bỏ hoàn toàn. Vai trò bảo vệ đất nước thì quân đội buông xuôi và xúi dân mang cờ đỏ sao vàng ra biển đấu với súng đạn Trung Cộng. Vai trò bảo vệ yên bình cho dân cũng buông, đẩy trách nhiệm đó cho những hiệp sĩ đường phố làm thay. Tòa án thì bao che cho những kẻ phạm tội, tội ấu dâm tù treo, giật 2 ổ bánh mì vô tù, tự bắt ăn trộm đột nhập vào nhà mình thì bị tù v.v.. Bảo vệ đất nước, không. Bảo vệ bình yên dân, không. Bảo vệ công lý, không. Vậy các bạn còn tin tưởng giao mọi thứ cho Đảng và nhà nước lo ư? Quản lí kinh tế thì sao? Họ mượn nợ thế giới để họ bòn rút rồi đổ món nợ lên đầu bạn. Việt Nam phồn vinh ư? Việt Nam có người sắm Rolls Royce, Bentley, Ferrari, Lamborghini không thua kém nước ngoài ư? Việt Nam có người sắm máy bay riêng như nước ngoài rồi ư? Đấy là bề nổi. Vậy tôi hỏi ngược lại bạn rằng, cộng hết tất cả tài sản của những đại gia giàu có đó, đủ trả nổi món nợ 431 tỷ USD nợ nước ngoài mà chính quyền đã nhân danh bạn để đi vay không? Việt Nam chỉ mới 4 tỷ phú USD tổng tài sản đó liệu trả nổi tiền lời 1 năm của số nợ 431 tỷ USD không? Rồi những triệu phú USD Việt Nam có là gì so với nước khác? Như vậy rõ ràng là, sự phồn vinh mà bạn thấy kia đó chính là số tiền xà xẻo các khoản vay nợ nước ngoài bằng cách này hay cách cộng với các cách ăn cướp tài sản nhân dân bằng chính sách, mà Thủ Thiêm là một ví dụ. Thực sự những sự giàu có của một nhóm người cực ít ỏi kia thực chất là sự vay mượn nước ngoài để tạo bề mặt "phồn vinh". Còn thực chất đằng sau bức màn "phồn vinh" kia là gì nhỉ? Là thu nhập dân chỉ có 2.300 usd sau 32 năm mở cửa, là hàng chục vạn lao động ra nước ngoài làm culi hoặc làm đĩ, là hàng vạn đồng bào bị cướp đất trở thành vô gia cư, là cảnh học sinh lội thác hoặc đu dây đi học, là blah blah blah... Rồi chỉ một chiến dịch bắt tham nhũng bạn đã vội mừng. Sao bạn không đặt câu hỏi, tại sao không ngăn cản tham nhũng từ đầu mà để nó ăn sạch rồi bắt thì gọi là công lao? Thực chất cái đó nó chỉ là sự sửa sai chứ chả công lao gì cả. Vậy thì cứ để sai trái làm nát bấy rồi sửa và réo lên rằng "Công tao lớn lắm đó!" mà bạn cũng vỗ tay hoan hô thì nói thật, bạn quá ngây ngô. Chưa hết, vậy bắt những thằng tham nhũng này và thay thằng khác thì có đảm bảo thằng đó sạch không? Tham nhũng khắp nơi thì cái thể chế chính trị không có lỗi à? ĐCS vô can à? Vậy thì lấy lí do gì để bạn tin? ĐCS tự cho mình độc quyền lãnh đạo đất nước. Vậy bạn có đặt câu hỏi, rằng thành quả của Đảng đâu mà đòi độc quyền? Nhìn đâu cũng chỉ là hậu quả. Từ chiến tranh tương tàn cho tới lúc hết chiến tranh thì cũng toàn là hậu quả. Thế đã chưa là quá đủ sao?
......

TẠI SAO LẠI LÀ HIỆP SĨ? NUÔI CÔNG AN ĐỂ LÀM GÌ?

Thông tin về việc một nhóm người được mệnh danh là Hiệp sĩ đi bắt cướp, bị cướp tấn công lại, 2 người bị đâm chết và 3 người bị thương nặng phải vào bệnh viện vào đêm 13/5/2018 đã đặt lại một vấn đề mà bấy lâu nay đã có nhiều tiếng nói phản ứng, nhưng nhà nước bỏ ngoài tai: “Hiệp sĩ”. Câu chuyện đã được đặt ra từ lâu, khi một số người dân hăng hái đi săn bắt trộm cướp trên đường, sau đó được khen thưởng tặng bằng khen… Thậm chí có những nơi nhà nước còn ra văn bản thành lập các “Câu lạc bộ phòng chống tội phạm” với những quy chế cho họ thay công an làm việc của ngành công an, tặng bằng khen cho những người tự tổ chức đi bắt cướp. Điều này, đã đặt ra cho dư luận xã hội những vấn đề: Tính pháp lý, hiệu quả và hậu quả của việc đó ra sao? Trước hết, cần nói rằng việc người dân tham gia hỗ trợ việc bảo đảm an ninh là việc đáng khuyến khích. Ngày xưa, cha ông ta vẫn dạy: “Giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha” để khuyến khích tính tự giác của cộng đồng, của người dân với những điều xấu, điều ác gây cho cộng đồng, cho xã hội. Thế nhưng, ngày nay vấn đề đã khác. Trong xã hội Việt Nam ngày nay, người dân ngày càng trở nên vô cảm, thờ ơ trước đau khổ của đồng loại. Người ta sẵn sàng giữ chặt cái túi của mình, im lặng tránh xa tên móc túi trên ô tô. Bởi vì nếu nói ra, họ sẽ bị bọn trộm cắp trả thù và nhận được câu “dại”. Bởi nói ra, không được gì, lại phải chịu hậu quả là bị trả thù, và khi đó, chẳng ai dám lên tiếng bênh vực. Người dân sẵn sàng để người bị tai nạn giao thông hoặc một người chẳng may bị trúng gió, bị ốm ngất xỉu bên vệ đường mà không cứu giúp. Bởi đơn giản một điều: Nếu họ cứu giúp, đưa người đó vào bệnh viện, rất có thể “không phải đầu cũng phải tai”. Chẳng hạn, đưa nạn nhân vào bệnh viện, trước hết là họ trả tiền taxi, vào bệnh viện, phải nộp ngay mấy triệu đồng thì bác sĩ mới làm thủ tục nhập viện. Và rồi nếu chẳng may, người đó chết, thì biết đâu người có tinh thần nghĩa hiệp kia, sẽ phải rắc rối với ngay chính gia đình nạn nhân và cơ quan luật pháp. Vì người ta không thể tin được ngày nay lại có người tốt đến mức bỏ công việc, bỏ tiền để cứu giúp nạn nhân không quen biết dọc đường. Thế nên, nạn nhân cứ nằm im chịu chết trước việc mọi người đi qua, hoặc dừng lại chụp ảnh, quay video đưa lên mạng… và chỉ thế. Người ta có thể đứng im, nhìn nhà hàng xóm cháy để quay phim, bình luận… đúng nghĩa đen và nghĩa bóng câu của cha ông đã phê phán cái thói: “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”. Vì sao vậy? Tại sao truyền thống cha ông từ ngàn xưa đến nay đã dạy tinh thần nghĩa hiệp, không chấp nhận cái xấu, cái ác nay người dân Việt lại sẵn sàng bỏ qua những tội ác hiển hiện ngay trước mắt mình? Điều này, chỉ có thể giải thích rất nhanh chóng và rõ ràng là bởi thể chế xã hội Cộng sản ngày nay, đã làm tha hóa và đạo đức xã hội suy đồi đến mức tận cùng. Khi mà cả xã hội đua nhau kiếm tiền bằng mọi giá, bằng mọi cách, đầu độc nhau bằng đủ loại thực phẩm bẩn, cơ quan nhà nước tiếp tay cho việc buôn bán thuốc chữa bệnh giả, nhà nước tìm mọi cách để thu thuế, còn sinh mạng người dân không cần quan tâm, mạng người không đáng để kể đến, thì việc chết thêm dăm bảy người cũng chỉ là chuyện bình thường. Nó cũng như khi nhà nước độc tài chỉ biết thu thuế mà không cần biết chất lượng xăng dầu đối với người dân ra sao, thì chuyện cháy, nổ hẳn nhiên xẩy ra thường xuyên. Chẳng sao, bởi hậu quả người dân chịu. Khi mà người ta cố chen nhau vào đảng, để kiếm cái ghế thật béo bở, và qua đó thì bóp nặn người dân, tham nhũng, cướp bóc… xảy ra ngang nhiên và sau đó thì huênh hoang về sự giàu có, lại được “kính trọng”, thì phản ứng đương nhiên của xã hội là “mạnh thằng nào thằng ấy chạy” và cái lý thuyết Mác – Lenin “Vật chất quyết định ý thức” được dịp thực hiện trên mọi phương diện. Mặt khác, trên bình diện quản lý nhà nước thì với nhà nước độc tài Cộng sản, mọi ý kiến người dân không đúng ý đảng, chỉ bảo vệ dân đều bị đánh phá đủ mọi cách, đủ mọi mánh khóe. Mọi trò bẩn thỉu, vu cáo đủ điều bằng hệ thống truyền thông hùng hậu thì việc người dân quan tâm đến công việc chung, lợi ích xã hội là điều hết sức khó khăn và hiếm hoi. Bởi bất cứ người dân nào, bất cứ ai cũng sẵn sàng trở thành “đối tượng phản động” và bị đánh cho te tua bằng đủ mọi cách từ công an giả danh côn đồ, bằng cách triệt hạ mọi đường sống. Thậm chí nhà tù luôn rộng cửa đối với những người biết yêu quê hương đất nước, biết đau đớn trước việc lãnh thổ và lãnh hải bị mất dần hay với những nạn nhân bị cướp đất. Bởi khi những nạn nhân bị đầu độc bởi Thảm họa môi trườngdo Formosa gây ra có kêu gào, những người nghĩa hiệp giúp đỡ họ được cho vào tù thì chính nhà nước Cộng sản đã cố tình dập tắt sự nghĩa hiệp trong người dân. Những người quan tâm đến xã hội, đến cộng đồng, đến quyền của mỗi con người trong đất nước, quan tâm đến cái chung luôn là đối tượng của nhà nước dập tắt bằng mọi giá thì chính nhà nước đã triệt tiêu tinh thần yêu nước, yêu dân của chính dân mình. Nhất là khi nhà nước ngang nhiên chà đạp luật pháp, công bộc của dân chỉ lo bóp nặn dân, không chăm lo đến công việc phục vụ người dân đang nai lưng nuôi mình, thì chẳng ai lại thừa thời gian đi quan tâm việc cứu giúp người khác hoặc dính vào những việc không liên quan đến mình. Và cứ thế, đất nước chìm vào sự vô cảm, mỗi người chỉ “chăm lo cho bộ da của mình” mà “quên đi những đau khổ đồng loại”. Hiệp sĩ? Tại sao lại là Hiệp sĩ? Khi nạn trộm cướp diễn ra hết sức trắng trợn ở mọi nơi, mọi lúc, nhất là những vụ cướp táo tợn xảy ra trên địa bàn các tỉnh phía Nam gay gắt trước sự bất lực của nhà nước, một số người dân đã buộc phải ra tay để tự bảo vệ mình. Thậm chí có một số người đã ra tay nghĩa hiệp cứu giúp những nạn nhân trên đường phố bị cướp giật. Trần Văn Hoàng, một Hiệp sỹ ở Quận Tân Bình, đã 20 năm qua anh đã tham gia bắt được 500 tên trộm cướp. Thế là như vớ được vàng, nhiều nơi đã tìm mọi cách tận dụng những người này để lập ra cái gọi là “Câu lạc bộ phòng chống tội phạm” với những quy định riêng cho họ. Điều mà lẽ ra, ai cũng phải hỏi khi biết đến việc đó là: Vậy thì sinh ra công an đủ loại, đầy nhung nhúc mỗi khi cần trấn áp dân khiếu kiện việc cướp đất, biểu thị lòng yêu nước, canh giữ người dân yêu dân chủ, tự do… thậm chí công an đứng đầy đường lo trấn lột, ăn mãi lộ mà thôi sao? Vậy nhà nước mua đủ loại súng ống, quả nổ, đạn hơi cay, xe chống bạo động, chó nghiệp vụ… chỉ để cướp đất của dân, nhà tù hàng loạt đầy rẫy chỉ để nhốt người yêu nước sao? Vậy thì có nên giải tán cái Bộ Công an hiện tại để lập nên Bộ Hiệp sĩ thay thế hay không? Những người gọi là “Hiệp sĩ” kia, họ là ai? Họ chỉ là những người dân bình thường, trong tay cũng không tấc sắt, không được trang bị thiết bị, vũ khí, không được huấn luyện đầy đủ để đối mặt với những tên cướp, những toán cướp nguy hiểm thì làm sao có thể an toàn cho họ? Vậy những lực lượng cảnh sát hàng đàn, hàng lũ, đủ mọi lực lượng được huấn luyện chuyên nghiệp bao năm, với biết bao tiền của dân và đủ loại lương thưởng, thiết bị… sinh ra để làm gì? Hay chỉ cần họ lập thành tích thay công an là đủ, còn tính mạng của ngay chính những hiệp sĩ này cũng chẳng có gì đáng để chú ý. Mặt khác, những người dân bình thường thậm chí ít khi có đủ can đảm để đối đầu với bọn cướp, thường chỉ những người, những đối tượng đã dày dạn, nhẵn mặt trộm cướp hoặc có liên quan trộm cướp mới đủ liều để đương đầu. Vậy cũng sẽ trở thành Hiệp sĩ hay sao? Và khi chẳng ai được học hành, đầy đủ nhận thức pháp luật, lại được giao cho việc đi bắt người tự do. Nếu các đối tượng nói trên, hành xử theo cách giang hồ, trả thù cá nhân, bắt bớ người vô tội vạ thì vẫn cứ bình thường sao? Nếu như những phần tử bất hảo, lại xung phong là hiệp sĩ bắt cướp, lợi dụng các ưu ái kia để đi cướp của dân thì sao? Vậy thì cái “nhà nước pháp quyền XHCN” nghĩa là có thể cho phép những người dân bình thường, mang danh Hiệp sĩ có quyền vượt mọi quy định của luật pháp sao? Cần phải hiểu điều này: Việc bảo đảm an toàn cuộc sống cho người dân, người dân đã bỏ tiền thuế của  mình ra để có một lực lượng chuyên nghiệp. Nếu lực lượng đó không làm tròn trách nhiệm vẫn rêu rao là “Thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui chơi” thì chính lực lượng đó phải chịu trách nhiệm. Thực tế, thì Công an ngày càng đông, ngân sách nuôi cả đám đàn lũ công an đã quá sức nặng của người dân, nợ nước ngoài tăng vùn vụt cũng vì nuôi đám này. Thế nhưng, việc tranh công, cướp công của dân cứ đều đều xảy ra, còn trộm cướp cứ hoành hành như chỗ không người, nhưng khi nếu có vụ công an bắt được tên trộm cướp nào, thì hết khen thưởng lại báo công… cứ như họ đang đi làm việc thuộc nhiệm vụ của ai khác. Còn trộm cướp và tội phạm không liên quan gì đến họ? Và hôm nay, khi những “Hiệp sĩ” bị toán cướp đâm chết và bị thương nặng, người dân đến kêu công an cạnh đó hỗ trợ các “Hiệp sĩ” thì lập tức nhận được lời từ chối ráo hoảnh: “Ở Phường khác” một cách hết sức vô cảm, thờ ơ và mất tính người. Rồi chính tên Công an suýt bị trộm mất chiếc xe máy mà các “Hiệp sĩ” đã liều mình chấp nhận chịu chết để bảo vệ cái xe cho hắn nhưng hắn không mảy may động lòng đến các “hiệp sĩ” đã chết thương tâm và những người trong bệnh viện kia. Hắn coi chuyện các Hiệp sĩ phải bảo vệ xe cho hắn và chết thay hắn là chuyện đương nhiên. Thậm chí hắn còn kêu bạn bè đi liên hoan để “giải đen”, chính là điển hình của một thái độ không chỉ vô ơn, mà là sự vô cảm, vô nhân tính. Và những hiện tượng đó chính là những hành động mà các chiến sĩ ngành công an đã làm để giết chết nốt chút tinh thần trượng nghĩa trong dân chúng. Bởi họ sẽ rút ra bài học: Tại sao mình lại đi làm việc của những thằng công an để chịu thiệt thân trong khi chính chúng lại thờ ơ với ngay chính tính mạng của mình? Còn chúng ta, câu hỏi đặt ra là: Tại sao phải là Hiệp sĩ? Nuôi công an để làm gì? Nguồn: RFA
......

HN7 – Hội nghị củng cố quyền lực không mấy thành công

Sau những vụ "đốt củi" rất thành công, đặc biệt phá tan 2 tụ điểm quyền lực tại TP/HCM và Đà Nẵng, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước tiên đoán rằng ở mức tối thiểu tại HN7 phe ông Nguyễn Phú Trọng cũng sẽ loại hẳn Chủ tịch nước Trần Đại Quang ra khỏi bàn cờ và điền khuyết 2 hoặc 3 ghế trống tại Bộ Chính trị để đặt nền nhân sự cho Đại Hội Đảng 13. Đây là thời cơ thuận lợi và thời điểm xung yếu nếu ông Trọng muốn bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ và thống nhất quyền lực về một mối như lãnh tụ Tập Cận Bình tại đại hội tới. Ông Trần Đại Quang (trái) và ông Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 7. Ảnh: Infonet Thực tế đã không diễn ra như vậy. Ông Trần Đại Quang không chấp nhận ra đi dễ dàng như ông Đinh Thế Huynh. Sự cố gắng trở về từ nơi chữa bệnh và góp mặt, góp tiếng của ông Quang tại Hội Nghị 7 đã phát ra một làn sóng năng lực đáng kể và trở thành lớp keo liên kết các phe phái không theo ông Trọng. Hệ quả là tuy không mếu máo như ở cuối Hội Nghị 6 năm 2012, khi không kỷ luật được ông Nguyễn Tấn Dũng, nhưng lần này ông Trọng vẫn để lộ khá rõ các dự tính củng cố quyền lực của ông đã thất bại, không đạt được cả chỉ tiêu tối thiểu. Người ta có thể thấy gì qua diễn văn kết thúc Hội Nghị 7 của TBT Nguyễn Phú Trọng ngày 12/5/2018 ? Trước hết, về mặt ý nghĩa, tư tưởng nội dung, bản văn này hầu như chẳng có gì đáng bàn, vì chỉ dày đặc những câu chữ quá cổ điển, các ý niệm quá lỗi thời từ nửa đầu thế kỷ 20 và thế kỷ 19; các nhận định cũng quá lạt lẽo vì cứ theo đúng một công thức: "đã đạt một số tiến triển nhưng còn giới hạn, bất cập"; và đầy rẫy các mâu thuẫn ngay cả trong cùng một câu. Có lẽ thí dụ điển hình nhất về mức độ sáo ngữ là trong đoạn tóm tắt tình hình, ông Trọng nhắc đến cả "biến đổi khí hậu, nước biển dâng" nhưng lại không nhớ gì tới tình trạng môi sinh đang bị hủy hoại khắp nơi trên cả nước và không thấy gì đáng kể đang diễn ra trên Biển Đông. Có thể nói toàn bộ diễn văn kết thúc chỉ để trang điểm hoặc tạo bối cảnh cho một quan tâm duy nhất. Đó là làm sao củng cố hàng ngũ nhân sự trung thành, qua 3 chủ điểm: Nhân sự trung ương, tăng lương cán bộ, và hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH). 1. Nhân sự Trung ương Đây là lần đầu tiên người dân nghe đến tên gọi và con số 600 "cán bộ cấp chiến lược". Nhưng có lẽ cũng chẳng ai hiểu tại sao lại gọi như thế. Dàn cán bộ đó chắc chắn không soạn thảo ra chiến lược cho quốc gia. Bộ Chính trị chưa hề chia sẻ trách nhiệm đó với ai cả. Hơn thế nữa, ngay cả trong nội bộ Bộ Chính trị, thực tế cho thấy thường chỉ vài người quanh Tổng Bí Thư thực sự quyết định và biết toàn bộ chiến lược mà thôi. Đơn giản vì trong mọi khóa Bộ Chính trị suốt từ ngày đầu luôn có những phe cánh kình nhau, và luôn có những ủy viên đang bị canh chừng và sắp bị thanh trừng, như Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách, Nguyễn Hà Phan, Đinh La Thăng, ... Khi hầu hết hàng ngũ 600 "cán bộ cấp chiến lược" này không được biết toàn bộ chiến lược thì họ cũng chẳng khác gì các cán bộ không nằm trong danh sách này về mặt thực hiện chiến lược, chỉ đơn thuần bảo đâu đánh đó, tức chẳng khác gì tình hình hiện nay. Nếu xét về mặt huấn lưyện, đầu tư đào tạo đặc biệt cho 600 "cán bộ cấp chiến lược", người ta cũng không thấy ông Trọng đưa ra điều gì khác với cách đào tạo hiện nay, nghĩa là vẫn quay quanh "tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch HCM" và một số sáo ngữ. Do đó, "cán bộ cấp chiến lược" chỉ đơn thuần là tên gọi mới cho dàn cán bộ thượng tầng đang nắm giữ các ghế Trung ương đảng, các ghế cao nhất trong mọi ban bộ thuộc hệ thống đảng và chính phủ cấp trung ương, và các ghế đầu tỉnh và thành phố, mà xưa nay gọi chung là dàn "cán bộ trung ương". Vì thế, thông điệp của ông Trọng vừa mang tính quảng cáo tìm cán bộ đầu quân dưới trướng của ông sẽ được liệt vào vòng 600 cán bộ chiến lược để leo vào Trung Ương Đảng kỳ tới và giữ các ghế cao nhất; vừa mang tính hăm dọa đối với những cán bộ đang là ủy viên Trung Ương. Nếu họ không đầu quân theo ông Trọng sẽ không được ghi vào danh sách 600 và không thể tiếp tục ngồi các ghế cao nhất hiện nay. Khi phải công khai dựng bảng tìm thuộc hạ thế này, khá rõ phe ông Trọng đã chấp nhận để lộ chứng cớ cho thấy họ chưa nắm được đa số ủy viên Trung Ương Đảng và còn cảm thấy bấp bênh trên con đường tiến tới Đại Hội Đảng 13. Các nỗ lực "hăm dọa" bằng lò củi trước HN7, các nỗ lực "thuyết phục" trong NH7 đều không đạt kết quả mong muốn và nay đành phải tiếp tục bằng quảng cáo hậu HN7. Con số "600" cũng mang tính tiếp thị, đủ lớn để tạo nhiều hy vọng cho các cán bộ xin đầu quân. 2. Tăng lương cán bộ Bên cạnh các từ ngữ mang tính hoa lá cành như mức lương tối thiểu cho nhân dân theo thông lệ quốc tế, v.v. trọng tâm chính của phần này trong bài diễn văn kết thúc HN7 là lời hứa tăng lương cho hàng ngũ cán bộ, với chủ đích để mua sự trung thành của họ với cá nhân và phe phái ông Trọng. Điều cần chỉ ra đầu tiên là trong tình trạng kinh tế khó khăn tứ bề hiện nay, để tăng lương cho toàn thể cán bộ, ông Trọng chỉ có thể ra lệnh in thêm tiền. Với một nền kinh tế không gia tăng GDP, hệ quả lập tức sau tiếng vỗ tay hồ hởi là mức gia tăng lạm phát vùn vụt, đủ để xóa sạch tác động của việc tăng lương. Nói một cách dễ hiểu là nếu lương tăng mà số lượng thực phẩm, hàng hóa vẫn vậy, người ta sẽ tranh nhau trả giá cao hơn để mua số thực phẩm, hàng hóa đó tới mức giá cả ngang hàng với số lương mới tăng. Như thế thì số thực phẩm và hàng hóa mỗi gia đình cán bộ có được trong tay vẫn như cũ. Đó là chưa kể đến tình cảnh của người dân thường (không phải cán bộ, không được tăng lương) nhìn giá cả hàng hóa tăng và số thực phẩm của gia đình teo lại. Hơn thế nữa, tập thể cán bộ, kể cả ông Trọng, đều biết trong thực tế tình hình hiện nay, một người CSGT đã có thể kiếm thu nhập gấp mười lần lương chính thức, dài lên đến hàng bí thư tỉnh thành đang thu nhập gấp trăm lần tiền lương chính thức. Do đó, cho dù ông Trọng có tăng lương gấp đôi (200%) đi nữa cũng chẳng hấp dẫn gì mấy đối với các cán bộ đang nắm thực quyền, tức đang nắm các mối lợi béo bở. Nếu dân thường còn thấy được thực tế đó thì khó mà ông Trọng và các cố vấn của ông không biết. Chính vì vậy mà biện pháp tăng lương, mua chuộc các cán bộ còn phải sống dựa vào tiền lương chính thức, tức các cán bộ cấp thấp và không có thực quyền, cho thấy mức độ thu hút của cánh ông Trọng không cao như các chuyên gia bên ngoài Việt Nam nhận định. 3. Hệ thống BHXH Cũng vậy, bên cạnh các câu chữ mang tính hoa lá cành về thông lệ quốc tế hay ngay cả cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mà chính ông Trọng cũng chưa chắc hiểu, người ta có thể nhận ra đối tượng của đoạn này trong bài diễn văn không phải là quảng đại quần chúng. Lý do đơn giản ai cũng biết tại VN không có cái gọi là "quĩ" BHXH, tức không có chính sách giữ một khoản tiền lớn đầu tư kiếm lãi với mức rủi ro thật thấp, để lo cho các công dân bị tai nạn, mất sức lao động, và lo cho thế hệ đến tuổi hưu. Chính sách trong nhiều năm qua là thu được bao nhiêu tiền BHXH sử dụng hết bấy nhiêu cho các chuyện khác. Còn khâu xuất ra lo cho những người đã đóng BHXH lại dựa vào cái máy in tiền mới của nhà nước và khả năng lật lọng của dàn cán bộ BHXH. Hệ quả là vô số người dân dở khóc dở cười khi biết mình mất trắng số tiền BHXH đã đóng suốt nhiều năm, hay chỉ còn được lãnh số tiền đáng vài tô phở mỗi tháng. Nếu đã biết chủ đề BHXH là vết thương nhức nhối lâu năm của đại khối người dân mà nhà nước không thể giải quyết thì ông Trọng cố tình nhấn mạnh trong diễn đàn kết thúc HN7 để làm gì? Câu trả lời thỏa đáng duy nhất là vì khối đối tượng cán bộ đã nghỉ hưu. Cho đến nay, lương hưu của cán bộ, đảng viên khác hẳn lương hưu cho công nhân viên thường và dân chúng. Ông Trọng hẳn muốn nhắc nhở giới cán bộ, đảng viên lớn tuổi về sự ràng buộc giữa cuốn sổ hưu và lòng trung thành với chế độ, tức trung thành với người đang đứng đầu chế độ. Rất tiếc cho ông Trọng, thông điệp nhắm vào khối cán bộ đã nghỉ hưu này cũng không để lại ấn tượng gì lớn theo hướng ông muốn, nhưng lại càng để lộ mức vội vã, quính quáng của phe ông. ------ Câu hỏi bật lên trong đầu nhiều người là tại sao cánh ông Trọng đang có vẻ lên như diều, "đốt củi gì cũng cháy", lại bỗng dưng khựng lại ở Hội Nghị 7, và chuyển qua thái độ "khẩn khoản quơ cào" hậu hội nghị như thế? Xem ra tình hình mở rộng hàng ngũ dưới trướng ông Trọng không mấy khả quan. Các vụ đốt lò thay vì tăng tính thu hút với sự hứa hẹn "sẽ được bảo vệ nếu thờ chủ mới" có vẻ như đang tạo tác động ngược trong hàng ngũ cán bộ đang có tài sản lớn, dù đang tại chức hay vừa hạ cánh an toàn. Họ không tin vào các hứa hẹn nhưng lo sợ nhiều hơn về khả năng bị lừa vào bẫy để xẻ thịt. Trường hợp ông Đinh La Thăng được kéo vào Bộ Chính trị và trao cho ghế Bí thư TP/HCM trước khi bị lôi đi xẻ thịt là thí dụ cực lớn. Với thực tế đó, ông Trọng khó có chọn lựa nào khác ngoài việc gia tăng nỗ lực "lôi lò đốt đi khắp miền Nam" để giành lại từng ghế cho phe mình. Liệu cách làm chậm chạp đó có kịp để dàn xếp nhân sự cho Đại Hội Đảng 13 không, và nhất là liệu các phe cánh đang nắm quyền tại các bộ, đặc biệt Bộ Công An, và các tỉnh thành có tiếp tục ngoan ngoãn xếp hàng đi vào lò không? Có vẻ như lúc này chỉ ông Trần Đại Quang biết câu trả lời. (Fb Thach Vu)
......

Số phận Trịnh Xuân Thanh phụ thuộc… cải thiện nhân quyền?

Vụ án song hợp đối nội - đối ngoại mang tên ‘Trịnh Xuân Thăng’ vừa phát sinh một tình tiết thú vị và đánh đố: ngay trước phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ Đinh La Thăng - Trịnh Xuân Thăng vào ngày 7/5/2018 tại Tòa án cấp cao Hà Nội, tòa thông báo nhận đơn rút kháng cáo kêu oan của Trịnh Xuân Thanh (với cả hai vụ án mà ông Thanh bị tuyên án sơ thẩm chung thân). Cùng lúc, con trai của ông Thanh cũng rút đơn kháng cáo đòi trả lại tài sản kê biên (là biệt thự và xe sang do ông bà cho, được coi không liên quan đến cha). Vì sao Trịnh Xuân Thanh bất ngờ rút đơn kháng cáo? Phải chăng ông Thanh, sau khi đã mùi mẫn ‘xin lỗi bác tổng bí thư’ nhưng không được toại nguyện, đã chìm lòng chấp nhận bản án chung thân đến cuối đời? Hay việc rút đơn kháng cáo này đã được tác động bởi một chủ ý chính trị của đảng cầm quyền? Hai phiên tòa - một vụ án Khó có thể cho rằng Trịnh Xuân Thanh rút đơn kháng cáo là một thái độ chấp nhận số phận đã an bài. Bởi trước đó và cùng với việc con trai của ông Thanh tung đơn kháng cáo đòi trả lại tài sản kê biên, người ta nhận ra rất rõ là trong thế cùng đường với hai bản án đều đến mức chung thân, Trịnh Xuân Thanh đã quyết định tung hê mọi việc mà chẳng còn lời xin lỗi nào đến ‘bác tổng bí thư’. Ở một khía cạnh khác, phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ Đinh La Thăng - Trịnh Xuân Thăng vào ngày 7/5/2018 được tổ chức ở Hà Nội trong bối cảnh cách đó hơn 8.000 km đang diễn ra ở Berlin một phiên tòa khác còn thu hút mối quan tâm của dư luận và báo chí quốc tế hơn nhiều: Tòa án Đức xử Nguyễn Hải Long - nghi can tham gia đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin, mà trong phiên tòa này đã bất thần bùng phát một thông tin liên đới một cấp cao hơn rất nhiều: Slovakia đang làm việc với phía Đức để xác minh khả năng ông Tô Lâm, Bộ trưởng Công an Việt Nam, đã sử dụng chuyến thăm của mình đến nước này hồi tháng Tám năm 2017 để làm bình phong bắt giữ Trịnh Xuân Thanh. Mặc dù chỉ là một nghi can và có thể không đóng vai trò chủ chốt trong vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, nhưng Nguyễn Hải Long đã khai báo một tình tiết cực kỳ quan trọng: 3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Berlin, Bộ Nội vụ Slovakia đã cho phái đoàn Công an cao cấp Việt Nam mượn một chuyên cơ của chính phủ Slovakia để bay từ Bratislava, thủ đô nước này, tới Moscow, sau cuộc gặp giữa Bộ trưởng Nội vụ khi đó là Robert Kalinak và Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm. Bộ Nội vụ Slovakia tuyên bố: “Nếu thông tin mà giới chức Đức đưa ra được xác nhận là đúng thì chúng tôi sẽ xem đó là biểu hiện của sự bất công trắng trợn của đối tác Việt Nam, sự lợi dụng lòng hiếu khách của chúng tôi cho mục đích không phải là hữu nghị và gây bất ổn cho mối quan hệ song phương đang tiến triển tốt đẹp giữa hai nước”. Bóng dáng của cuộc khủng hoảng Solovakia - Việt Nam đang lừng lững ập đến. Mất trắng 3 phiếu cho EVFTA Sau cuộc gặp song phương giữa Thủ tướng Slovakia Peter Pellegrini và thủ tướng Đức Angela Merkeol tại Berlin với cam kết của hai bên về ‘sẽ hợp tác làm rõ’ vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, nếu trong thời gian tới phía Slovakia tổ chức điều tra làm rõ và xác định được nghi vấn của cơ quan an ninh Đức về vụ ‘Tô Lâm làm bình phong?’ là đúng, phản ứng tối thiểu của Chính phủ Slovakia đối với Việt Nam sẽ là hạ cấp mối quan hệ ngoại giao và thương mại mà được xem là ‘tốt đẹp’ trước đây, cùng lúc có thể chấm dứt hoàn toàn ý định hỗ trợ Việt Nam để vận động EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam). Và nếu xảy ra hậu quả về EVFTA như thế, Slovakia sẽ là quốc gia thứ hai, sau Đức, khiến chính thể độc đảng ở Việt Nam mất hẳn 2 phiếu trên cung đường đầy gai nhọn hoa hồng dẫn đến một EVFTA ‘cứu cánh’. Cuộc khủng hoảng Slovakia - Việt Nam nếu xảy ra còn chắc chắn làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người đồng hương của Slovakia là Cộng hòa Séc với Việt Nam. Tức trên con đường chông gai dẫn đến EVFTA chưa biết chừng nào mới kết thúc, ngay trước mắt Việt Nam rất có thể đã mất đến 3 phiếu từ Đức, Slovakia và Séc. Với quy định ngặt nghèo rằng phải có đủ 28 nước thành viên của Liên minh châu Âu chấp thuận thì EVFTA mới được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, việc Việt Nam thiếu ít nhất 3 phiếu sẽ khiến một EVFTA mang ý nghĩa ‘cứu cánh’ đối với nền kinh tế và ngân sách đang trên bờ suy sụp của nước này trở nên vô vọng. Liệu Nguyễn Phú Trọng có chịu nhượng bộ trong tình thế quá nan giải ấy? Trọng có nhượng bộ Đức vào cuối năm ngoái? Vào ngày 25/11/2017, đã phát lộ dấu hiệu đầu tiên - có thể là một sự nhượng bộ, dù mớ trong ý định. Trong một cuộc họp Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng trung ương, Tổng bí thư Trọng đã bất ngờ thông báo công khai đưa Trịnh Xuân Thanh ra tòa vào tháng Giêng năm 2018. Dường như vào lúc đó, ông Trọng đã nắm được một ý tứ nào đó từ phía Đức, rằng người Đức sẽ không phản ứng đối với quyết định của ông, trên cơ sở người Đức đã có thể tạm hài lòng với những lời hứa hẹn (nếu có) của ông. Khi đó, một nguồn tin không muốn nêu tên trong Bộ Ngoại giao Đức trả lời VOA tiếng Việt rằng chính quyền Berlin “hiện vẫn trao đổi với chính phủ Việt Nam” về vụ ông Thanh. Khi được hỏi phía Hà Nội đã hồi đáp như thế nào trước các đề nghị Berlin đưa ra hồi tháng Chín, trong đó có yêu cầu Việt Nam xin lỗi và cam kết không lặp lại việc vi phạm pháp luật của Đức, nguồn tin ngoại giao này nói: “Việt Nam biết cần phải làm gì để sửa chữa thiệt hại đã gây ra và để từng bước đưa mối bang giao song phương trở lại quan hệ đối tác chiến lược”… Kể từ tháng Mười năm 2017 khi tạo nên cơn động đất khi đột ngột tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, đó là lần đầu tiên người Đức - dù chỉ là gián tiếp mà chưa có một thông báo chính thức nào - hé ra ý có thể phục hồi mối quan hệ này, do đó cũng mang lại một tia hy vọng cho giới chóp bu Việt Nam bị cáo buộc đã dùng lực lượng mật vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin vào cuối tháng 7/2017. Cũng khi đó đã phát ra một tín hiệu mơ hồ về một khả năng: nhằm vớt vát thể diện trước người Đức, phục hồi quan hệ đối tác chiến lược với nước này và quan trọng không kém là nhằm vận động quốc hội ở các nước châu Âu bỏ phiếu thông qua EVFTA, Tổng bí thư Trọng đã tìm cách “cam kết” trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức sau khi hoàn thành mục tiêu xử có án nặng đối với Thanh như một ý nghĩa ‘rửa mặt’. Tuy nhiên, sau đó đã chẳng có thêm tín hiệu nào mới. Trong khi những cuộc đàm phán Đức - Việt vẫn giậm chân tại chỗ, Trịnh Xuân Thanh đã phải nhận hai án chung thân mà chẳng có hy vọng gì được ‘đoàn tụ với gia đình’ theo nguyện vọng của đại gia tham nhũng này. Số phận Trịnh Xuân Thanh phụ thuộc… cải thiện nhân quyền? Còn giờ đây, thách thức đối ngoại mà đảng cầm quyền của Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt còn khó khăn hơn so với năm 2017. Nếu không chịu nhượng bộ trong việc ‘trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức’, ông Trọng có thể sẽ phải nhận thêm hậu quả về một cuộc khủng hoảng ngoại giao lan rộng giữa các nước châu Âu với Việt Nam, không những tuyệt vọng về EVFTA mà còn có thể tuyệt giao về quan hệ ngoại giao, để khi đó số phận của chính thể độc đảng ở Việt Nam sẽ biến thành… Bắc Triều Tiên. Cũng bởi thế, đang xuất hiện một số suy đoán cho rằng để xử lý khủng hoảng đối ngoại trên, ông Trọng đã chỉ đạo các cơ quan tư pháp ‘vận động Trịnh Xuân Thanh rút đơn kháng cáo’, mà theo đó sau khi ông Thanh đã ‘yên tâm ở tù chung thân’, phía Việt Nam sẽ đàm phán với Đức để âm thầm trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức theo hình thức ‘áp dụng luật đặc xá trong trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước’. Luồng suy đoán trên cũng nêu ra cơ sở là với các nhà lãnh đạo Việt Nam, sau khi đã xử Trịnh Xuân Thanh, đặc biệt ‘ông anh’ của Trịnh Xuân Thanh là Đinh La Thăng, đã phần nào đáp ứng nguyện vọng “trừng trị những kẻ tham nhũng” trong một bộ phận dân chúng, cũng thể hiện được uy quyền “đốt lò” của mình. Con bài Trịnh Xuân Thanh đã hết hạn sử dụng, không nên là vật cản cho quan hệ hai nước Việt – Đức, đặc biệt quan hệ Việt Nam- EU. Hiệp định thương mai tự do Việt nam- EU phải được ký kết sớm, và cần giải toả con bài Trịnh Xuân Thanh càng sớm càng tốt. Như vậy, chỉ cần Chính Phủ đề nghị, với lý do cần đáp ứng yêu cầu của nước Đức để sớm ký kết hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU, Chủ tịch nước sẽ ra lệnh đặc xá trong trường hợp đặc biệt đối với Trịnh Xuân Thanh. Bù lại, Trịnh Xuân Thanh cũng phải “xuống nước” rút kháng cáo kêu oan và chấp nhận mất một số tài sản khủng đứng tên con trai để thi hành án… Tuy nhiên, đó chỉ là một suy đoán và mang tính giả thiết nhiều hơn. Trong thực tế, Hà Nội khá thường nuốt lời với quốc tế về vấn đề cải thiện nhân quyền, và càng chẳng có gì chắc chắn trong lời hứa của chính quyền này với đối tượng quan chức tham nhũng phải đi tù. Toàn bộ vụ Trịnh Xuân Thanh với kết quả đàm phán Đức - Việt gần như bế tắc cho tới nay là một minh chứng quá rõ để khiến giới chính khách châu Âu hiểu thế nào là ‘lời hứa Việt Nam’. Bởi thế trong thời gian tới, việc Trịnh Xuân Thanh sẽ được ‘đoàn tụ với gia đình’ hay bị hứa cuội sẽ vẫn là một dấu hỏi lớn. Nhưng vẫn có thể xảy ra một khả năng hết sức trớ trêu: Trịnh Xuân Thanh có thể được phóng thích khòi nhà tù cộng sản trong trường Nguyễn Phú Trọng thực sự cần đến EVFTA và do đó sẽ nhượng bộ người Đức nói riêng và Liên minh châu Âu (EU) nói chung một số điểm về cải thiện nhân quyền. Còn nếu không có chuyện cải thiện nhân quyền, Trịnh Xuân Thanh đương nhiên bị các đồng chí của mình hứa cuội và sẽ phải ‘yên tâm chung thân’, còn tài sản tham nhũng của Thanh sẽ bị sung công để ông Trọng nuôi đảng mà chẳng bao giờ đòi lại được.
......

Số phận Trịnh Xuân Thanh phụ thuộc… cải thiện nhân quyền?

Vụ án song hợp đối nội - đối ngoại mang tên ‘Trịnh Xuân Thăng’ vừa phát sinh một tình tiết thú vị và đánh đố: ngay trước phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ Đinh La Thăng - Trịnh Xuân Thăng vào ngày 7/5/2018 tại Tòa án cấp cao Hà Nội, tòa thông báo nhận đơn rút kháng cáo kêu oan của Trịnh Xuân Thanh (với cả hai vụ án mà ông Thanh bị tuyên án sơ thẩm chung thân). Cùng lúc, con trai của ông Thanh cũng rút đơn kháng cáo đòi trả lại tài sản kê biên (là biệt thự và xe sang do ông bà cho, được coi không liên quan đến cha). Vì sao Trịnh Xuân Thanh bất ngờ rút đơn kháng cáo? Phải chăng ông Thanh, sau khi đã mùi mẫn ‘xin lỗi bác tổng bí thư’ nhưng không được toại nguyện, đã chìm lòng chấp nhận bản án chung thân đến cuối đời? Hay việc rút đơn kháng cáo này đã được tác động bởi một chủ ý chính trị của đảng cầm quyền? Hai phiên tòa - một vụ án Khó có thể cho rằng Trịnh Xuân Thanh rút đơn kháng cáo là một thái độ chấp nhận số phận đã an bài. Bởi trước đó và cùng với việc con trai của ông Thanh tung đơn kháng cáo đòi trả lại tài sản kê biên, người ta nhận ra rất rõ là trong thế cùng đường với hai bản án đều đến mức chung thân, Trịnh Xuân Thanh đã quyết định tung hê mọi việc mà chẳng còn lời xin lỗi nào đến ‘bác tổng bí thư’. Ở một khía cạnh khác, phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ Đinh La Thăng - Trịnh Xuân Thăng vào ngày 7/5/2018 được tổ chức ở Hà Nội trong bối cảnh cách đó hơn 8.000 km đang diễn ra ở Berlin một phiên tòa khác còn thu hút mối quan tâm của dư luận và báo chí quốc tế hơn nhiều: Tòa án Đức xử Nguyễn Hải Long - nghi can tham gia đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin, mà trong phiên tòa này đã bất thần bùng phát một thông tin liên đới một cấp cao hơn rất nhiều: Slovakia đang làm việc với phía Đức để xác minh khả năng ông Tô Lâm, Bộ trưởng Công an Việt Nam, đã sử dụng chuyến thăm của mình đến nước này hồi tháng Tám năm 2017 để làm bình phong bắt giữ Trịnh Xuân Thanh. Mặc dù chỉ là một nghi can và có thể không đóng vai trò chủ chốt trong vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, nhưng Nguyễn Hải Long đã khai báo một tình tiết cực kỳ quan trọng: 3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Berlin, Bộ Nội vụ Slovakia đã cho phái đoàn Công an cao cấp Việt Nam mượn một chuyên cơ của chính phủ Slovakia để bay từ Bratislava, thủ đô nước này, tới Moscow, sau cuộc gặp giữa Bộ trưởng Nội vụ khi đó là Robert Kalinak và Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm. Bộ Nội vụ Slovakia tuyên bố: “Nếu thông tin mà giới chức Đức đưa ra được xác nhận là đúng thì chúng tôi sẽ xem đó là biểu hiện của sự bất công trắng trợn của đối tác Việt Nam, sự lợi dụng lòng hiếu khách của chúng tôi cho mục đích không phải là hữu nghị và gây bất ổn cho mối quan hệ song phương đang tiến triển tốt đẹp giữa hai nước”. Bóng dáng của cuộc khủng hoảng Solovakia - Việt Nam đang lừng lững ập đến. Mất trắng 3 phiếu cho EVFTA Sau cuộc gặp song phương giữa Thủ tướng Slovakia Peter Pellegrini và thủ tướng Đức Angela Merkeol tại Berlin với cam kết của hai bên về ‘sẽ hợp tác làm rõ’ vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, nếu trong thời gian tới phía Slovakia tổ chức điều tra làm rõ và xác định được nghi vấn của cơ quan an ninh Đức về vụ ‘Tô Lâm làm bình phong?’ là đúng, phản ứng tối thiểu của Chính phủ Slovakia đối với Việt Nam sẽ là hạ cấp mối quan hệ ngoại giao và thương mại mà được xem là ‘tốt đẹp’ trước đây, cùng lúc có thể chấm dứt hoàn toàn ý định hỗ trợ Việt Nam để vận động EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam). Và nếu xảy ra hậu quả về EVFTA như thế, Slovakia sẽ là quốc gia thứ hai, sau Đức, khiến chính thể độc đảng ở Việt Nam mất hẳn 2 phiếu trên cung đường đầy gai nhọn hoa hồng dẫn đến một EVFTA ‘cứu cánh’. Cuộc khủng hoảng Slovakia - Việt Nam nếu xảy ra còn chắc chắn làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người đồng hương của Slovakia là Cộng hòa Séc với Việt Nam. Tức trên con đường chông gai dẫn đến EVFTA chưa biết chừng nào mới kết thúc, ngay trước mắt Việt Nam rất có thể đã mất đến 3 phiếu từ Đức, Slovakia và Séc. Với quy định ngặt nghèo rằng phải có đủ 28 nước thành viên của Liên minh châu Âu chấp thuận thì EVFTA mới được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, việc Việt Nam thiếu ít nhất 3 phiếu sẽ khiến một EVFTA mang ý nghĩa ‘cứu cánh’ đối với nền kinh tế và ngân sách đang trên bờ suy sụp của nước này trở nên vô vọng. Liệu Nguyễn Phú Trọng có chịu nhượng bộ trong tình thế quá nan giải ấy? Trọng có nhượng bộ Đức vào cuối năm ngoái? Vào ngày 25/11/2017, đã phát lộ dấu hiệu đầu tiên - có thể là một sự nhượng bộ, dù mớ trong ý định. Trong một cuộc họp Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng trung ương, Tổng bí thư Trọng đã bất ngờ thông báo công khai đưa Trịnh Xuân Thanh ra tòa vào tháng Giêng năm 2018. Dường như vào lúc đó, ông Trọng đã nắm được một ý tứ nào đó từ phía Đức, rằng người Đức sẽ không phản ứng đối với quyết định của ông, trên cơ sở người Đức đã có thể tạm hài lòng với những lời hứa hẹn (nếu có) của ông. Khi đó, một nguồn tin không muốn nêu tên trong Bộ Ngoại giao Đức trả lời VOA tiếng Việt rằng chính quyền Berlin “hiện vẫn trao đổi với chính phủ Việt Nam” về vụ ông Thanh. Khi được hỏi phía Hà Nội đã hồi đáp như thế nào trước các đề nghị Berlin đưa ra hồi tháng Chín, trong đó có yêu cầu Việt Nam xin lỗi và cam kết không lặp lại việc vi phạm pháp luật của Đức, nguồn tin ngoại giao này nói: “Việt Nam biết cần phải làm gì để sửa chữa thiệt hại đã gây ra và để từng bước đưa mối bang giao song phương trở lại quan hệ đối tác chiến lược”… Kể từ tháng Mười năm 2017 khi tạo nên cơn động đất khi đột ngột tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, đó là lần đầu tiên người Đức - dù chỉ là gián tiếp mà chưa có một thông báo chính thức nào - hé ra ý có thể phục hồi mối quan hệ này, do đó cũng mang lại một tia hy vọng cho giới chóp bu Việt Nam bị cáo buộc đã dùng lực lượng mật vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin vào cuối tháng 7/2017. Cũng khi đó đã phát ra một tín hiệu mơ hồ về một khả năng: nhằm vớt vát thể diện trước người Đức, phục hồi quan hệ đối tác chiến lược với nước này và quan trọng không kém là nhằm vận động quốc hội ở các nước châu Âu bỏ phiếu thông qua EVFTA, Tổng bí thư Trọng đã tìm cách “cam kết” trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức sau khi hoàn thành mục tiêu xử có án nặng đối với Thanh như một ý nghĩa ‘rửa mặt’. Tuy nhiên, sau đó đã chẳng có thêm tín hiệu nào mới. Trong khi những cuộc đàm phán Đức - Việt vẫn giậm chân tại chỗ, Trịnh Xuân Thanh đã phải nhận hai án chung thân mà chẳng có hy vọng gì được ‘đoàn tụ với gia đình’ theo nguyện vọng của đại gia tham nhũng này. Số phận Trịnh Xuân Thanh phụ thuộc… cải thiện nhân quyền? Còn giờ đây, thách thức đối ngoại mà đảng cầm quyền của Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt còn khó khăn hơn so với năm 2017. Nếu không chịu nhượng bộ trong việc ‘trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức’, ông Trọng có thể sẽ phải nhận thêm hậu quả về một cuộc khủng hoảng ngoại giao lan rộng giữa các nước châu Âu với Việt Nam, không những tuyệt vọng về EVFTA mà còn có thể tuyệt giao về quan hệ ngoại giao, để khi đó số phận của chính thể độc đảng ở Việt Nam sẽ biến thành… Bắc Triều Tiên. Cũng bởi thế, đang xuất hiện một số suy đoán cho rằng để xử lý khủng hoảng đối ngoại trên, ông Trọng đã chỉ đạo các cơ quan tư pháp ‘vận động Trịnh Xuân Thanh rút đơn kháng cáo’, mà theo đó sau khi ông Thanh đã ‘yên tâm ở tù chung thân’, phía Việt Nam sẽ đàm phán với Đức để âm thầm trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức theo hình thức ‘áp dụng luật đặc xá trong trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước’. Luồng suy đoán trên cũng nêu ra cơ sở là với các nhà lãnh đạo Việt Nam, sau khi đã xử Trịnh Xuân Thanh, đặc biệt ‘ông anh’ của Trịnh Xuân Thanh là Đinh La Thăng, đã phần nào đáp ứng nguyện vọng “trừng trị những kẻ tham nhũng” trong một bộ phận dân chúng, cũng thể hiện được uy quyền “đốt lò” của mình. Con bài Trịnh Xuân Thanh đã hết hạn sử dụng, không nên là vật cản cho quan hệ hai nước Việt – Đức, đặc biệt quan hệ Việt Nam- EU. Hiệp định thương mai tự do Việt nam- EU phải được ký kết sớm, và cần giải toả con bài Trịnh Xuân Thanh càng sớm càng tốt. Như vậy, chỉ cần Chính Phủ đề nghị, với lý do cần đáp ứng yêu cầu của nước Đức để sớm ký kết hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU, Chủ tịch nước sẽ ra lệnh đặc xá trong trường hợp đặc biệt đối với Trịnh Xuân Thanh. Bù lại, Trịnh Xuân Thanh cũng phải “xuống nước” rút kháng cáo kêu oan và chấp nhận mất một số tài sản khủng đứng tên con trai để thi hành án… Tuy nhiên, đó chỉ là một suy đoán và mang tính giả thiết nhiều hơn. Trong thực tế, Hà Nội khá thường nuốt lời với quốc tế về vấn đề cải thiện nhân quyền, và càng chẳng có gì chắc chắn trong lời hứa của chính quyền này với đối tượng quan chức tham nhũng phải đi tù. Toàn bộ vụ Trịnh Xuân Thanh với kết quả đàm phán Đức - Việt gần như bế tắc cho tới nay là một minh chứng quá rõ để khiến giới chính khách châu Âu hiểu thế nào là ‘lời hứa Việt Nam’. Bởi thế trong thời gian tới, việc Trịnh Xuân Thanh sẽ được ‘đoàn tụ với gia đình’ hay bị hứa cuội sẽ vẫn là một dấu hỏi lớn. Nhưng vẫn có thể xảy ra một khả năng hết sức trớ trêu: Trịnh Xuân Thanh có thể được phóng thích khòi nhà tù cộng sản trong trường Nguyễn Phú Trọng thực sự cần đến EVFTA và do đó sẽ nhượng bộ người Đức nói riêng và Liên minh châu Âu (EU) nói chung một số điểm về cải thiện nhân quyền. Còn nếu không có chuyện cải thiện nhân quyền, Trịnh Xuân Thanh đương nhiên bị các đồng chí của mình hứa cuội và sẽ phải ‘yên tâm chung thân’, còn tài sản tham nhũng của Thanh sẽ bị sung công để ông Trọng nuôi đảng mà chẳng bao giờ đòi lại được.
......

Việt Nam bắt đầu nhượng bộ Đức về nhân quyền?

Sau hai tháng Ba và Tư của nửa đầu năm 2018 le lói một chút tin tức về ‘Bộ Công an trả lại hộ chiếu và quyền xuất cảnh cho người hoạt động nhân quyền’, mới đây đã có những xác nhận về vấn đề nhạy cảm này. Một trong những xác nhận trên đến từ nhà báo Mạc Việt Hồng ở Ba Lan. Trên Facebook của mình vào ngày 11 tháng Năm năm 2018 – tức đúng này Nhân Quyền Việt Nam, bà Mạc Việt Hồng cho biết: ‘Một nhà hoạt động nữ, cựu tù nhân lương tâm sắp xuất cảnh qua châu Âu, tất nhiên là nàng đi rồi nàng lại về. Hộ chiếu, visa cũng như quyền xuất cảnh có được nhờ sự can thiệp của bộ Ngoại Giao Đức thông qua ĐSQ của họ tại Hà Nội. Gần đây có những người đã bị thu hộ chiếu, bị cấm xuất cảnh nhưng với sự trợ giúp của ĐSQ Đức, những nhà hoạt động này đã được cấp lại hộ chiếu và xuất cảnh bình thường. Tháng trước, mình vừa gặp 1 trường hợp như vậy ở châu Âu và nghe kể về một số trường hợp khác. VN đang có những nhún nhường nhất định với Đức. Hy vọng sẽ có những tù nhân lương tâm được giảm án hay phóng thích trước hạn, chứ ko phải là TXT. Thằng đó xứng đáng rũ tù, dù việc bắt cóc hắn là sai trái’. Ở trong nước, cũng có những xác nhận khác về việc trong thời gian gần đây, Bộ Công an đã trả lại hộ chiếu và quyền xuất cảnh cho một số nhà hoạt động nhân quyền, trở thành một hiện tượng ‘lạ’ trong đời sống chính trị và xã hội ở Việt Nam. Đã từ nhiều năm qua, cấm xuất cảnh hoặc tịch thu hộ chiếu, hoặc cả hai động tác này, là một biện pháp rất được Bộ Công an và công an các tỉnh thành dùng đến để đối phó với tiếng nói bất đồng của nhiều người hoạt động dân chủ và nhân quyền. Rất nhiều người hoạt động này đã bị cấm xuất cảnh, theo một danh sách được cho là có đến hàng vài ngàn người bị cấm xuất cảnh, trong đó có giới đấu tranh dân chủ nhân quyền. Từ đầu năm 2014, ở Việt Nam đã ra đời ‘Hội những người bị cấm xuất cảnh’, bao gồm hàng trăm cái tên của những người hoạt động nhân quyền. Nhiều người đã làm đơn khiếu nại đòi công an phải trả lại hộ chiếu và quyền xuất cảnh, nhưng Bộ Công an và công an các tỉnh thành chỉ viện dẫn lý do ‘xâm phạm an ninh quốc gia’ hết sức mơ hồ mà không trưng dẫn ra được bất kỳ bằng chứng nào về sự xâm phạm ấy, để không trả lời các đơn thư khiếu nại. Một biên bản cấm xuất cảnh đối với Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong của Nhà thờ Thái Hà ở Hà Nội. Ảnh: BBC Cho tới gần cuối năm 2017 – là năm mà chiến dịch bắt bớ nhân quyền đã lên dến cao điểm với gần ba chục người bị tống giam, vẫn không có bất kỳ một dấu hiệu nào cho thấy chính quyền và công an nhượng bộ những yêu sách về cải thiện nhân quyền của cộng đồng quốc tế, trong đó có đòi hỏi về trả hộ chiếu và quyền xuất cảnh. Vào tháng cuối năm 2017 và những tháng đầu năm 2018, nhà cầm quyền Việt Nam đã lặng lẽ trả hộ chiếu và cho xuất cảnh một ít trường hợp là cựu tù nhân lương tâm – những nhà hoạt động là Nguyễn Phương Uyên, Trương Minh Tam, Việt Khang, Mục sư Nguyễn Công Chính. Tin tức của nhà báo Mạc Việt Hồng và những nhà hoạt động nhân quyền trong nước về ‘Bộ Công an trả lại hộ chiếu và quyền xuất cảnh cho người hoạt động quyền’ lại xuất hiện trùng thời gian diễn ra một sự kiện thu hút mối quan tâm của báo chí và dư luận ở châu Âu: Tòa án Đức xử Nguyễn Hải Long – nghi can tham gia đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin, mà trong phiên tòa này đã bất thần bùng phát một thông tin liên đới một cấp cao hơn rất nhiều: Slovakia đang làm việc với phía Đức để xác minh khả năng ông Tô Lâm, Bộ trưởng Công an Việt Nam, đã sử dụng chuyến thăm của mình đến nước này hồi tháng Tám năm 2017 để làm bình phong bắt giữ Trịnh Xuân Thanh. Mặc dù chỉ là một nghi can và có thể không đóng vai trò chủ chốt trong vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, nhưng Nguyễn Hải Long đã khai báo một tình tiết cực kỳ quan trọng: 3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Berlin, Bộ Nội vụ Slovakia đã cho phái đoàn Công an cao cấp Việt Nam mượn một chuyên cơ của chính phủ Slovakia để bay từ Bratislava, thủ đô nước này, tới Moscow, sau cuộc gặp giữa Bộ trưởng Nội vụ khi đó là Robert Kalinak và Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm. Cuộc khủng hoảng Slovakia – Việt Nam nếu xảy ra sẽ chắc chắn làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người đồng hương của Slovakia là Cộng hòa Séc với Việt Nam. Tức trên con đường chông gai dẫn đến EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu – Việt Nam) chưa biết chừng nào mới kết thúc, ngay trước mắt Việt Nam rất có thể đã mất đến 3 phiếu từ Đức, Slovakia và Séc. Nếu Nguyễn Phú Trọng thực sự cần đến EVFTA và do đó sẽ nhượng bộ người Đức nói riêng và Liên minh châu Âu (EU) nói chung một số điểm về cải thiện nhân quyền, chính quyền Việt Nam sẽ chơi lại ‘bài’ nới nhân quyền bằng cách dùng cơ chế trả hộ chiếu và quyền xuất cảnh cho một số người hoạt động nhân quyền, và có thể thả một ít tù nhân lương tâm khỏi những song sắt tối tăm. Trịnh Xuân Thanh cũng vì thế sẽ có cơ may được phóng thích khỏi nhà tù cộng sản trong thời gian không quá lâu. Vào những ngày này, đã có dấu hiệu Nguyễn Phú Trọng tỏ ý thực sự cần đến EVFTA và một cuộc đàm phán không công bố với Liên minh châu Âu để có được cái hiệp định cứu vãn kinh tế ấy. Một lần nữa kể từ thời ‘vận động để tham gia Hiệp định TPP’ vào năm 2013, đang có những biểu hiện cho thấy chính quyền Việt Nam chơi lại ‘bài’ nới nhân quyền bằng cách dùng cơ chế trả hộ chiếu và quyền xuất cảnh cho một số người hoạt động nhân quyền để nhượng bộ người Đức nói riêng và Liên minh châu Âu (EU) nói chung. https://chantroimoimedia.com/2018/05/14/viet-nam-bat-dau-nhuong-bo-duc-v...
......

Phản biện ông Trọng và góp ý với Hội nghị Trung ương 7

Một vấn đề quan trọng của HNTƯ7 là “Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp”. Sau khi nêu các thành tích trong quá  khứ, ông Nguyễn Phú Trọng vạch ra rất nhiều tệ nạn của cán bộ trong hiện tại và cho rằng: “đó là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta”. Rồi ông nêu ý kiến: “Trả lời cho được câu hỏi vì sao 20 năm qua, đặc biệt những năm gần đây mặc dù Đảng ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách về công tác cán bộ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhưng trong thực hiện vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả còn thấp? Nguyên nhân từ đâu, ở khâu nào, cấp nào? … Vì sao có nhiều nghị quyết rất đúng, rất trúng nhưng việc thực hiện hiệu quả lại thấp?… Vì sao quy trình thì đúng nhưng bố trí con người cụ thể lại sai? Vướng mắc chính là ở chỗ nào”. Ông nêu nhiệm vụ cho Hội nghị 7: “Cố gắng chỉ ra khâu đột phá là khâu nào? Đánh giá cán bộ hay sắp xếp, bố trí cán bộ? Khắc phục tình trạng “chạy chức, chạy quyền” hay “thân quen, cánh hẩu”? Chú trọng đặc biệt phẩm chất hay năng lực hay coi trọng cả hai? Về công tác cán bộ, trước đây tôi đã có một số bài góp ý, nay nhân HNTƯ7 bàn về vấn đề quan trọng này xin trình bày vài suy nghĩ tiếp. Phản biện ý kiến của ông Nguyễn Phú Trọng Thực trạng bi đát của cán bộ, đó là kết quả của một quá trình. Ông muốn tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Thế nhưng ông đã phạm sai lầm chủ quan, bảo thủ, thiếu khoa học, lại  còn hướng dẫn và bắt buộc người khác cùng phạm sai lầm như thế. Nó thể hiện ở đánh giá “Đảng ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách về công tác cán bộ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ… có nhiều nghị quyết rất đúng, rất trúng… quy trình thì đúng…”. Xin ông hãy mở rộng và hướng lỗ tai về phía đông đảo người dân và những người phản biện để có được thông tin xem dư luận bàn thế nào về cách  “Đảng cử dân bầu” và sự “dân chủ đến thế là cùng ở trong Đảng”. Tôi phát hiện thấy nghị quyết và quy trình chứa nhiều bất cập chứ không phải rất đúng, rất trúng như ông đánh giá. Ông đang ở trong một cánh rừng với nhiều cây đầy sâu mọt. Ông chỉ quẩn quanh để chỉ nhìn thấy rất rõ vài cành lá của một số cây mà không chịu cho tư tưởng thoát ra ngoài để biết về toàn bộ cánh rừng. Đó là vì đầu óc ông quá bị xơ cứng bởi học thuyết Mác-Lê, bởi chưa từ bỏ được thói kiêu ngạo cộng sản và vẫn bị lệ thuộc vào ý thức hệ. Ông cố tự bưng tai, bịt mắt để không nghe thấy những tiếng nói phản biện chân thành, không thấy được bản chất sâu xa, nguyên nhân gốc rễ của các sai lầm và tệ nạn, không phát hiện được những mâu thuẩn và bất cập trong các chủ trương, chính sách, nghị quyết, mà ông tưởng nhầm là rất đúng, rất trúng. Tôi đã một số lần chỉ ra các mâu thuẩn và bất cập đó, yêu cầu được đối thoại, nhưng các ông lờ đi, vẫn giữ nguyên những nhận định chủ quan, đầy nhầm lẫn trong các nghị quyết. Ông không nhận ra rằng nguyên nhân gốc của nhiều tệ nạn trong cán bộ chính là sự độc tài toàn trị của Đảng. Sự độc tài đó hàng ngày sinh ra, nuôi dưỡng bọn cơ hội mà cái lò của ông dù nóng đến bao nhiêu cũng chỉ đốt được một số ít những bọn không cùng phe cánh. Một mặt ông tự bưng tai bịt mắt, mặt khác ông bỏ tù, ông bịt miệng những người bất đồng chính kiến. Thế thì làm sao biết được sự thật. Góp ý với Hội nghị Trung ương 7 Ông Trọng yêu cầu chỉ ra “Đột phá là khâu nào”. Ra thêm vài nghị quyết chăng? Tổ chức nhiều đợt chỉnh huấn chăng? Phát động nhân dân tố cáo chăng? … Đó chỉ là những thứ thuốc bôi ngoài da, trong khi bệnh ở tận gan ruột. Cần phải tìm được nguyên nhân gốc để loại bỏ. Về nguyên nhân, đã nhiều lần tôi viết: “là sự kết hợp giữa một bên là những yếu kém trong văn hóa dân tộc, một bên là những độc hại trong Chủ nghĩa Mác-Lê”. Sự vận dụng Mác-Lê là chủ động của Đảng, còn sự kết hợp là hoàn toàn tự động, tự phát. Không ai chủ trương và tự giác thực hành sự kết hợp đó. Nhưng nó xảy ra mọi lúc mọi nơi, một cách ngấm ngầm, mạnh mẽ… Vậy phải chăng khâu đột phá là xóa bỏ sự độc quyền toàn trị, là từ bỏ việc đặt Đảng cao hơn mọi luật pháp, là chấp nhận sự cạnh tranh bình đẳng. Muốn thế trước hết phải thấy được sự thay đổi vai trò của Đảng. Từ một đảng lãnh đạo làm cách mạng chuyển sang một đảng chính trị, một đảng cầm quyền. Hai đảng này có rất nhiều điểm khác nhau về bản chất. Tình thế đã thay đổi, vai trò đã thay đổi mà cứ giữ chặt lấy mô hình cũ thì thất bại là không tránh khỏi. Tiếp đến là xóa bỏ từ trong ý nghĩ và hành động cách làm “dân chủ giả hiệu” trong bầu cử. Đó là việc “Đảng cử dân bầu”, là việc lãnh đạo cũ ở trên cơ cấu cấp ủy mới ở dưới, là Bộ Chính trị cũ quyết định Trung ương mới và các chức danh Nhà nước. Để có được “Sự đột phá”, ngoài việc có nhận thức đúng còn cần sự dũng cảm và khôn khéo. Hy vọng rằng trong HNTƯ7 sẽ xuất hiện được vài nhân vật như vậy để làm “Cánh chim báo bão”. N.Đ.C.
......

Phản biện ông Trọng và góp ý với Hội nghị Trung ương 7

Một vấn đề quan trọng của HNTƯ7 là “Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp”. Sau khi nêu các thành tích trong quá  khứ, ông Nguyễn Phú Trọng vạch ra rất nhiều tệ nạn của cán bộ trong hiện tại và cho rằng: “đó là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta”. Rồi ông nêu ý kiến: “Trả lời cho được câu hỏi vì sao 20 năm qua, đặc biệt những năm gần đây mặc dù Đảng ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách về công tác cán bộ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhưng trong thực hiện vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả còn thấp? Nguyên nhân từ đâu, ở khâu nào, cấp nào? … Vì sao có nhiều nghị quyết rất đúng, rất trúng nhưng việc thực hiện hiệu quả lại thấp?… Vì sao quy trình thì đúng nhưng bố trí con người cụ thể lại sai? Vướng mắc chính là ở chỗ nào”. Ông nêu nhiệm vụ cho Hội nghị 7: “Cố gắng chỉ ra khâu đột phá là khâu nào? Đánh giá cán bộ hay sắp xếp, bố trí cán bộ? Khắc phục tình trạng “chạy chức, chạy quyền” hay “thân quen, cánh hẩu”? Chú trọng đặc biệt phẩm chất hay năng lực hay coi trọng cả hai? Về công tác cán bộ, trước đây tôi đã có một số bài góp ý, nay nhân HNTƯ7 bàn về vấn đề quan trọng này xin trình bày vài suy nghĩ tiếp. Phản biện ý kiến của ông Nguyễn Phú Trọng Thực trạng bi đát của cán bộ, đó là kết quả của một quá trình. Ông muốn tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Thế nhưng ông đã phạm sai lầm chủ quan, bảo thủ, thiếu khoa học, lại  còn hướng dẫn và bắt buộc người khác cùng phạm sai lầm như thế. Nó thể hiện ở đánh giá “Đảng ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách về công tác cán bộ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ… có nhiều nghị quyết rất đúng, rất trúng… quy trình thì đúng…”. Xin ông hãy mở rộng và hướng lỗ tai về phía đông đảo người dân và những người phản biện để có được thông tin xem dư luận bàn thế nào về cách  “Đảng cử dân bầu” và sự “dân chủ đến thế là cùng ở trong Đảng”. Tôi phát hiện thấy nghị quyết và quy trình chứa nhiều bất cập chứ không phải rất đúng, rất trúng như ông đánh giá. Ông đang ở trong một cánh rừng với nhiều cây đầy sâu mọt. Ông chỉ quẩn quanh để chỉ nhìn thấy rất rõ vài cành lá của một số cây mà không chịu cho tư tưởng thoát ra ngoài để biết về toàn bộ cánh rừng. Đó là vì đầu óc ông quá bị xơ cứng bởi học thuyết Mác-Lê, bởi chưa từ bỏ được thói kiêu ngạo cộng sản và vẫn bị lệ thuộc vào ý thức hệ. Ông cố tự bưng tai, bịt mắt để không nghe thấy những tiếng nói phản biện chân thành, không thấy được bản chất sâu xa, nguyên nhân gốc rễ của các sai lầm và tệ nạn, không phát hiện được những mâu thuẩn và bất cập trong các chủ trương, chính sách, nghị quyết, mà ông tưởng nhầm là rất đúng, rất trúng. Tôi đã một số lần chỉ ra các mâu thuẩn và bất cập đó, yêu cầu được đối thoại, nhưng các ông lờ đi, vẫn giữ nguyên những nhận định chủ quan, đầy nhầm lẫn trong các nghị quyết. Ông không nhận ra rằng nguyên nhân gốc của nhiều tệ nạn trong cán bộ chính là sự độc tài toàn trị của Đảng. Sự độc tài đó hàng ngày sinh ra, nuôi dưỡng bọn cơ hội mà cái lò của ông dù nóng đến bao nhiêu cũng chỉ đốt được một số ít những bọn không cùng phe cánh. Một mặt ông tự bưng tai bịt mắt, mặt khác ông bỏ tù, ông bịt miệng những người bất đồng chính kiến. Thế thì làm sao biết được sự thật. Góp ý với Hội nghị Trung ương 7 Ông Trọng yêu cầu chỉ ra “Đột phá là khâu nào”. Ra thêm vài nghị quyết chăng? Tổ chức nhiều đợt chỉnh huấn chăng? Phát động nhân dân tố cáo chăng? … Đó chỉ là những thứ thuốc bôi ngoài da, trong khi bệnh ở tận gan ruột. Cần phải tìm được nguyên nhân gốc để loại bỏ. Về nguyên nhân, đã nhiều lần tôi viết: “là sự kết hợp giữa một bên là những yếu kém trong văn hóa dân tộc, một bên là những độc hại trong Chủ nghĩa Mác-Lê”. Sự vận dụng Mác-Lê là chủ động của Đảng, còn sự kết hợp là hoàn toàn tự động, tự phát. Không ai chủ trương và tự giác thực hành sự kết hợp đó. Nhưng nó xảy ra mọi lúc mọi nơi, một cách ngấm ngầm, mạnh mẽ… Vậy phải chăng khâu đột phá là xóa bỏ sự độc quyền toàn trị, là từ bỏ việc đặt Đảng cao hơn mọi luật pháp, là chấp nhận sự cạnh tranh bình đẳng. Muốn thế trước hết phải thấy được sự thay đổi vai trò của Đảng. Từ một đảng lãnh đạo làm cách mạng chuyển sang một đảng chính trị, một đảng cầm quyền. Hai đảng này có rất nhiều điểm khác nhau về bản chất. Tình thế đã thay đổi, vai trò đã thay đổi mà cứ giữ chặt lấy mô hình cũ thì thất bại là không tránh khỏi. Tiếp đến là xóa bỏ từ trong ý nghĩ và hành động cách làm “dân chủ giả hiệu” trong bầu cử. Đó là việc “Đảng cử dân bầu”, là việc lãnh đạo cũ ở trên cơ cấu cấp ủy mới ở dưới, là Bộ Chính trị cũ quyết định Trung ương mới và các chức danh Nhà nước. Để có được “Sự đột phá”, ngoài việc có nhận thức đúng còn cần sự dũng cảm và khôn khéo. Hy vọng rằng trong HNTƯ7 sẽ xuất hiện được vài nhân vật như vậy để làm “Cánh chim báo bão”. N.Đ.C.
......

Trịnh Xuân Thanh sẽ được áp dụng luật đặc xá để đoàn tụ với vợ con tại Đức?

Ngày 7/5/2018, có hai sự kiện pháp lý quan trọng liên quan đến Trịnh Xuân Thanh, tại Hà nội, thủ đô của Việt nam lẫn Berlin, thủ đô của Đức. Tại Hà Nội, Toà án cấp cao xét xử phúc thẩm vụ Đinh La Thăng- Trịnh Xuân Thăng đã thông báo nhận đơn rút kháng cáo kêu oan của Trịnh Xuân Thanh (với cả hai vụ án mà Thanh bị tuyên án sơ thẩm chung thân). Con trai của Thanh cũng rút đơn kháng cáo đòi trả lại tài sản kê biên (là biệt thự và xe sang do ông bà cho, được coi không liên quan đến bố) https://tuoitre.vn/ong-trinh-xuan-thanh-va-con-trai-rut-kha…. Đồng thời, tại một Toà án ở Berlin, Đức, vợ của Trịnh Xuân Thanh đã khai với tư cách nhân chứng về việc “biến mất” của chồng tại Berlin vào tháng 7/2016, với nhiều tình tiết “khá nhạy cảm” đối với Việt nam. Bà Schlagenhauf, Luật sư Đức của Trịnh Xuân Thanh đã trả lời trên BBC cùng ngày 7/5/2018 với nội dung như sau: ‘Phiên tòa Hà Nội xử ông Trịnh Xuân Thanh là không hợp lệ’ BBC: Trong phiên tòa sơ thẩm, ông Thanh đề đạt nguyện vọng được sang Đức thăm vợ con. Về mặt logic, việc một bị cáo đang đối diện với mức án tù nặng lại đưa ra đề xuất như vậy, liệu có phải là điều gì bất thường không, hay liệu có thể coi đó là một thông điệp nào đó mà thân chủ của bà muốn gửi ra bên ngoài? Luật sư Schlagenhauf: Theo tôi, việc ông Thanh đề nghị như vậy là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ nếu không có vụ bắt cóc thì vấn đề đã khác. Còn ở đây đã xảy ra vụ bắt cóc bằng bạo lực đối với ông Trịnh Xuân Thanh. Việc bắt cóc này là một hành vi phạm tội. Việt Nam đã vi phạm luật Đức và luật pháp quốc tế. Với việc thực hiện hành vi tội phạm như thế, Việt Nam đã tự đánh mất quyền tố tụng xét xử thân chủ tôi. Phiên tòa xét xử ông Trịnh Xuân Thanh tại Hà Nội là không hợp lệ. Và một khi phiên tòa không hợp lệ rồi thì tất cả những phán quyết tòa đưa ra sau đó cũng đều không hợp lệ. Vì thế, việc ông Thanh muốn quay trở lại Đức và việc đưa ông Thanh quay trở lại Đức là điều có thể làm và hoàn toàn nên làm. Điều này liên quan đến những đòi hỏi mà phía Đức đặt ra với Việt Nam và phía Việt Nam cần tuân thủ, để qua đó hàn gắn quan hệ song phương. Quan hệ giữa hai nhà nước là phải theo luật pháp chứ không thể dùng hành vi bạo lực phạm pháp như thế được. Chúng ta biết rằng trước khi xảy ra vụ bắt cóc, quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Đức đã đạt được nhiều tiến triển tốt đẹp. Nhưng chỉ vì vụ bắt cóc mà quan hệ đối tác chiến lược đã bị đình chỉ, một loạt các dự án hợp tác bị dừng lại, đó là chuyện rất đáng tiếc. Theo tôi, cách tốt nhất là phải tìm mọi biện pháp để bình thường hóa trở lại – chính phủ Đức đã đưa ra một loạt các yêu cầu đối với phía Việt Nam, và việc để thân chủ tôi được quay trở lại nước Đức là một trong những đòi hỏi của Đức. Theo tôi, sự thông minh và xử sự tốt nhất là bằng con đường ngoại giao để giải quyết chuyện này càng nhanh càng tốt. Điều đó sẽ có lợi cho cả hai nước. Đây không chỉ là quan hệ giữa Đức với Việt Nam không thôi, mà còn là quan hệ giữa Việt Nam với cả khối EU nữa. Dù bản thân phiên tòa ở Berlin không cứu được quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đức, nhưng điều mà nó làm được là nó sẽ đưa đến kết luận cuối cùng rằng đây là một vụ bắt cóc hay không, để đưa ra công luận một cách rõ ràng. Vụ này, ngay sau khi xảy ra chỉ một thời gian ngắn, thay vì công tố viện của Berlin thì công tố viện của liên bang đã đảm nhận việc điều tra. Điều đó chứng tỏ nước Đức rất chú trọng vụ này và sẽ làm đến cùng. Từ đó, quan hệ ngoại giao giữa hai nước ra sao sẽ còn tùy thuộc vào cách ứng xử của chính phủ hai nước sau đó. Nhưng công luận cần biết chính xác điều gì đã xảy ra. Giới chức cần phải chứng minh được đó có phải là vụ bắt cóc hay là không. Qua nội dung trả lời của bà luật sư này và những phát biểu của bà Thủ tướng Đức Merkel khi trao đổi với thủ tướng Slovakia mấy ngày trước, cho thấy phía Đức coi việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc giữa thủ đô Berlin là việc rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quan hệ Đức Việt (đã diễn ra tốt đẹp trước đó) và đặc biệt đến việc ký kết chính thức một hiệp định thương mại tự do Việt nam- EU (EFVTA) dự kiến vào mùa hè năm nay. Tất nhiên Trịnh Xuân Thanh không phải là kẻ ngốc, khi tại phiên toà sơ thẩm ở Hà Nội tỏ lòng mong muốn đoàn tụ với gia đình tại Đức. Đây là thông điệp của Thanh gửi đến cho bà luật sư Đức giờ đã nổi tiếng nước Đức lẫn Việt nam, rằng Thanh vẫn muốn tiếp tục xin tỵ nạn tại Đức. Thanh cũng hiểu, nước Đức cũng đã yêu cầu Việt nam trả lại Trịnh Xuân Thanh trở lại nước Đức (như trước khi Thanh bị bắt cóc theo quan điểm của Đức). Và các nhà lãnh đạo Việt nam, sau khi đã xử Trịnh Xuân Thanh, đặc biệt ông anh của Trịnh Xuân Thanh là Đinh La Thăng, cũng phần nào đáp ứng nguyện vọng “trừng trị những kẻ tham nhũng” trong một bộ phận dân chúng, cũng thể hiện được uy quyền “đốt lò” của mình. Con bài Trịnh Xuân Thanh đã hết hạn sử dụng, không nên là vật cản cho quan hệ hai nước Việt – Đức, đặc biệt quan hệ Việt Nam – EU. Hiệp định thương mai tự do Việt Nam – EU phải được ký kết sớm, và cần giải toả con bài TXT càng sớm càng tốt. Theo luật Việt Nam, giải quyết cho Trịnh Xuân Thanh sang Đức theo yêu cầu của Đức có khả thi không và diễn ra như thế nào? Luật Đặc xá năm 2007 của Việt Nam đã dự trù tình huống đó như sau: Chương 3: ĐẶC XÁ TRONG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT Điều 21. Người được đặc xá trong trường hợp đặc biệt Trong trường hợp đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước, Chủ tịch nước quyết định đặc xá cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đang chấp hành hình phạt tù, người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù mà không phụ thuộc vào các điều kiện quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Luật này. Điều 22. Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đặc xá trong trường hợp đặc biệt Theo yêu cầu của Chủ tịch nước hoặc theo đề nghị của Chính phủ về đặc xá được Chủ tịch nước chấp nhận, Chính phủ chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan lập hồ sơ của người được đề nghị đặc xá trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Như vậy, chỉ cần Chính Phủ để nghị, với lý do cần đáp ứng yêu cầu của nước Đức để sớm ký kết hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU, Chủ tịch nước sẽ ra lệnh đặc xá trong trường hợp đặc biệt đối với Trịnh Xuân Thanh. Bù lại, Trịnh Xuân Thanh cũng phải “xuống nước” rút kháng cáo kêu oan và chấp nhận mất một số tài sản khủng đứng tên con trai để thi hành án. Khả năng Trịnh Xuân Thanh sẽ được áp dụng luật đặc xá để đoàn tụ với vợ con tại Đức là trong tầm tay và đúng luật Việt Nam? Chúng ta hãy chờ xem!
......

Hội nghị TW 7 của ĐCS - cuộc họp mặt của một đám chủ tự phong

Lâu đài cho đảng và chuồng trại cho dân Thế nào là cổ đông? Cổ đông là người sở hữu một phần vốn trong công ty. Vì vậy cổ đông là người đồng sở hữu, nên cổ đông có những quyền tác động lên công ty mà mình góp vốn. Họ có quyền ứng cử vào vị trí lãnh đạo công ty. Cổ đông có cơ hội bước vào ghế lãnh đạo công ty bằng luật chơi cho loại doanh nghiệp này. Thế nào là nô lệ? Nô lệ là người chỉ được phép bỏ sức lao động, còn sản phẩm của lao động là kẻ khác hưởng. Đã là nô lệ thì tuyệt đối không có bất kỳ một quyền hành gì cả. Chức năng của nô lệ không khác con vật là mấy. Họ chỉ khác con vật là họ nói tiếng người, còn quyền hành và quyền lợi đều là con số zero. Số phận nô lệ là do nhóm người khác quyết định, kể cả mạng sống. Nô lệ không có quyền mà chỉ có nghĩa vụ. Chế độ Apartheid của Nam Phi thời trước Nelson Mandela làm tổng thống là một đất nước được xem như sở hữu của người da trắng, mặc dù chủ nhân lâu đời của xứ này là người da đen. Ở xứ này, việc ứng cử và bầu cử là hoàn toàn do người da trắng quyết định. Dân da đen chiếm đến 80% dân số nhưng được phân ra một chuồng riêng, chuồng dành cho súc vật hình người da đen. Như vậy bên trong nước Nam Phi khi đó có 2 hình ảnh tương phản, người da trắng là thiểu số có quyền quyết định số phận người da đen đa số. Cảnh này ví nước Nam phi có một lâu đài và một chuồng trại, lâu dài cho người da trắng và chuồng trại cho người da đen. Nhìn kỹ kết cấu một nhà nước tự do, chúng ta thấy sân chơi chính trị là công bằng cho mỗi công dân. Hệ thống đảng phái là một hình thức tổ chức hoạt động theo pháp luật. Con đường vào đảng phái chính trị nào đấy là công bằng cho mọi người, muốn vào phải thắng cử. Con đường vào nhà nước là công bằng cho mọi đảng phái, muốn vào thì tuân thủ luật chơi của đất nước dân chủ, đó là thắng cử. Donald Trump vào đảng Cộng Hoà chưa bao lâu đã bước lên ghế làm chủ nhà trắng. Không cần phải thâm niên lâu đời và gia thế khủng như ĐCSVN. Ghế quyền lực nhà nước luôn rộng mở cho mọi công dân, không là sở hữu riêng của đảng phái nào cả. Dân là chủ sở hữu nhà nước vì họ có quyền chọn nhân sự cho nhà nước. Dân là cổ đông trong quốc gia đó. Kết cấu chính trị ở Việt Nam cũng tựa chủ nghĩa Apartheid Nam Phi. Ở xứ Việt Nam cũng tồn tại mô hình 2 nhóm riêng biệt, lâu đài và chuồng trại. Lâu đài là nơi ĐCS ngự trị, chuồng trại là nơi dành cho thường dân, dưới mắt ĐCS thì dân chúng ta chỉ là súc vật nói tiếng người. Mọi số phận của súc vật nói tiếng người trong chuồng đều do những người chủ trong trong lâu đài quyết định. Con vật nào dám đòi hỏi thì sẽ bị bọn chủ lâu đài mang ra thịt để giằng mặt cả chuồng. Đấy là một thực tế mà không thể bao biện gì được. Có ai đặt câu hỏi, tại sao tôi sinh ra cũng da vàng mũi tẹt, cũng con người đi bằng 2 chân như anh, anh học được tôi cũng học được, anh làm quản lí nhà nước được, tôi cũng làm được. Vậy, cớ sao anh có quyền thành lập đảng mà tôi không có quyền đó? Cớ sao anh giành độc quyền quản lí tôi mà tôi không hề có được một quy chế nào để được bầu làm người quản lí anh? Vì sao cả tôi và anh cùng sống trên mảnh đất chữ S này, nhưng anh có quyền quyết định số phận nó, còn tôi thì không? Vân vân và vân vân với vô số câu hỏi đặt ra là người CS có tất cả đặt quyền còn dân thì không. Điều đó có nghĩa là trên đất nước này ĐCS được đặc quyền của một thằng chủ sống trong lâu đài, còn dân được xem như súc vật làm công tác phục vụ cho ĐCS. Điều bất công này, trong người dân chúng ta được bao nhiêu người nhận ra? Điều mà chúng ta cần phải hiểu là, chúng ta phải lấy lại quyền tự quyết cho mình chứ đừng để ĐCS xem chúng ta là một trại súc vật thuộc sở hữu của chúng. Phải biết mình là người, không ai giải thoát cho mình khi tự mình mặc định mình an phận với kiếp như súc vật trong một đất nước đầy bất công về quyền lợi. Ở Úc, các chủ trang trại nuôi bò thường hay xuất bò thịt nguyên con sang nước khác, trong đó có Việt Nam để cho chủ mới xẻ thịt. Trước cuộc mua bán là cuộc gặp giữ ông chủ người Úc và ông chủ phía đối tác. Sau khi ngã giá xong, bản hợp đồng được 2 ông chủ kí. Sau đó là bò được đưa vào các khoan chứa cho lên tàu và xuất đi. Số phận những con bò do 2 ông chủ quyết mà nó không hề hay biết gì về số phận của nó. Tương tự vậy, mỗi cuộc đại hội Đảng là cuộc họp ăn chia của ĐCS nhằm chia chác số phận 93 triệu người dân. Một đảng phái chính trị thực ra là một nhóm người cùng quyền lợi, lấy tư cách gì mà quyết định số phận một đất nước? Trừ khi đất nước bị xem là vật sở hữu của Đảng, dân bị xem là súc vật trong chuồng của Đảng, và Đảng tự cho mình quyền buôn bán giang sơn lãnh hải và quyền quyết định số phận toàn dân. Và thực tế chính là như vậy. Các cuộc thăm thú người đứng đầu ĐCSVN và người đứng đầu ĐCS Tàu chính là cuộc kí tá giữa 2 thằng chủ để mua bán số phận một dân tộc. Và hôm nay, hội nghị TW của ĐCS, đó là cuộc họp mặt của một đám chủ tự phong - ĐCS. Bọn chúng đang giành giật quyền lợi cho từng phe phái nhỏ trong Đảng. Trại súc vật khổng lồ 93 triệu cá thể được đem ra phân chia giành giật như một miếng bánh. Rõ ràng là sự số phận chúng ta đang bị chúng xem là một món hàng rồi họp nhau chia phần để khai thác. Là người Việt Nam có lương tri thì chắc chắn phải cảm thấy nhục nhã. Người dân chúng ta và ĐCS là người như nhau, sao ta lại kiếp nô lệ mà nó lại làm chủ? Cần phải xóa bỏ kết cấu này để giành lại kiếp làm người đúng nghĩa. Nếu không sớm nhận ra, để nó bán xong mới thức tỉnh thì quá muộn./.
......

Đảng CSVN xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín?

Hôm nay là ngày thứ 3 của HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA 12. Đây là hội nghị rất quan trọng và được xem như là Mini Đại hội Đảng toàn quốc, bởi nó sẽ quyết định nhiều vấn đề vô cùng quan trọng của hàng ngũ lãnh đạo chóp bu. Khai mạc Hội nghi, TBT Nguyễn Phú trọng đã đưa ra 3 gợi ý quan trọng cần tập trung bàn bạc và đưa ra những quyết sách hợp lý. Ba nội dung đó là: 1- Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;   2- Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp;     3- Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một số vấn đề quan trọng khác. Tuy nhiên, tôi cho rằng còn 2 vấn đề rất rất quan trọng khác mang tính chất quyết định đến sự tồn vong lâu dài của đất nước là: A - Giải quyết dứt điểm vấn đề tranh chấp biển Đông để ngư dân yên tâm lao động sản xuất trên biển và đảm bảo an toàn việc THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN trên vùng thềm lục địa và trong vùng biển đặc quyền của Việt nam. Như chúng ta đã biết ngành Dầu khí đem lại 1/3 giá trị GDP hàng năm. Nếu chúng ta tập trung phát triển thêm những giếng dầu mới sẽ đóng góp không nhỏ vào chương trình phát triển kinh tế nước nhà. Thế nhưng, thời gian vừa qua hễ ta đặt giàn khoan ở nơi nào thì Trung quốc đe dọa và buộc phải rút đi đồng thời phải bồi thường rất lớn cho nhà đầu tư. Vụ Cty Repsol của Tây ban nha khoan dầu ở lô 07/03 thuộc mỏ Cá Rồng Đỏ ngoài khơi Vũng tàu là một ví dụ điển hình. Cứ kéo dài tình trạng này Việt nam không những không khai thác được tài nguyên trên lãnh thổ của mình mà còn sẽ phải ăn chia với ngoại bang. Tuy nhiên giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển Đông là một điều rất khó một khi VN theo đang đuổi chính sách ngoại giao “đánh đu” mà dân gian gọi nôm na là chính sách “ngoại giao ca ve”. Trong ba thế lực đang muốn sử dụng VN để chống lại thế lực kia, hãy chọn lấy một đối tác có tiềm năng giúp ổn định vững chắc quốc phòng, phát triển kinh tế giải quyết nợ nần, bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng có người e rằng sẽ lệ thuộc vào thế lực nào đó. Cổ nhân đã dạy: “Trong ba điều xấu hãy chọn điều ít xấu nhất”. Còn VN ta có câu ca dao có ý nghĩa khuyên nhủ: Khi ta đứng giữa ba dòng nước / Nên chọn một dòng hay để nước trôi? B - Vấn đề giáo dục hiện nay nát be nát bét. Lời khuyên của Hồ Chủ tịch: hãy xây dựng nền giáo dục “ thầy ra thầy, trò ra trò”. Nhưng nhiều thập kỷ nay ngành giáo dục làm hoàn toàn ngược lại. Một đất nước muốn phát triển nhanh và bên vững phải có những con người khỏe mạnh về thể lực, thông minh về trí lực và giàu lòng nhân ái. Thế mà những năm qua ngành GD Việt Nam đã nhào nặn ra những phế phẩm bậc nhất thế giới: những tiến sĩ rởm, giáo sư rởm…thầy rởm: nghèo nàn về kiến thức, đồi bại về đạo đức, nông cạn về tầm suy nghĩ. Thử hỏi những GS, TS, những ông “thầy” như thế sẽ dạy được gì cho sinh viên, học sinh. Lại nói về việc đi học của học sinh. Trong “bản án chế độ thực dân” của HCT đã lên án chế độ “xây nhà tù nhiều hơn trường học: thì nay VN làm đúng như vậy. Trẻ em sinh ra không có trường để học, làm cho cha mẹ các em đến mùa học lại lo lắng như ngồi trên đống lửa. Theo công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em mà VN là một trong những nước đi đầu ký vào công ước đó, có nêu rõ: đi học là quyền của trẻ em. Thế mà ngành giáo dục đưa ra bao nhiêu là quy định gây khó dễ cho các em nhập trường. Nhiều nước trên thế giới, học sinh bậc phổ thông không những được hoàn toàn miễn phí (Free of charge) mà còn được cung cấp sách vở và đồ dùng học tập cũng miến phí luôn. Tìm hiểu mới biết: nguồn kinh phí đó trích ra từ tiền thuế của cha mẹ các em. Và ở đó, học hết chương trình giáo dục phổ thông là bất buộc (compulsory) đối với mọi công dân. Những nhà lãnh đạo đất nước phải hiểu một nguyên lý rằng: TRẺ EM LÀ TƯƠNG LAI CỦA ĐẤT NƯỚC. Giờ xin nói qua nội dung thứ nhất do TBT nêu ra: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Đó là ý tưởng rất hay nhưng KHÔNG THỂ THỰC HIỆN. Vì sao? 1/ Hơn bảy chục năm nay Đảng đã hình thành một đội ngũ cán bộ theo thể chế “chuyên chính vô sản”. Chả mấy người hiểu chuyên chính là gì. Đó chính là từ chuyển ngữ từ gốc DICTATORSHIP có nghĩa là độc tài, đôc quyền. Cho nên cán bộ lãnh đạo tha hồ vung vẩy cây trượng quyền lực, giờ mới bàn đến kiểm soát quyền là không thể. 2/ Nhiều năm qua việc hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuốc hệ 5C: CON CHÁU CÁC CỤ CẢ nên nhân tài đã bị đẩy đi hết, nhiều người giỏi giang học ở nước ngoài về mong được chung tay xây dựng đất nước NHƯNG HỌ “KHÔNG ĐỦ TÀI NĂNG” để thích hợp với chế độ Đảng cử dân bàu, cho nên họ phải ngậm ngùi ra đi. Ngậm ngùi bời tài năng của họ chấn động thiên hạ mà về quê cha đât tổ của mình bị xem rẻ. Hỏi còn ai muốn về xây dựng nước nhà nữa. 3/ Hệ thống cán bộ lãnh đạo hiện nay đặc biệt ở tầng lớp chóp bu đều đi lên từ những kẻ chuyên “ngồi chơi ăn bám” như từ các đoàn thể thanh niên, công đoàn, chuyên trách Đảng, mặt trận TQ… không hề kinh qua lao động sản xuất, cái họ có trong đầu là một mớ lý luận hẩu lốn không đáng một xu. Cho nên họ không hiểu gì về tình hình hoạt động kinh tế và thực tại xã hội như thế nào. Họ chỉ biết ngồi và phán bậy. Với tình trạng cán bộ như thế lấy đâu ra cán bộ nguồn để “xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng” và “xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”./.
......

Đảng CSVN xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín?

Hôm nay là ngày thứ 3 của HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA 12. Đây là hội nghị rất quan trọng và được xem như là Mini Đại hội Đảng toàn quốc, bởi nó sẽ quyết định nhiều vấn đề vô cùng quan trọng của hàng ngũ lãnh đạo chóp bu. Khai mạc Hội nghi, TBT Nguyễn Phú trọng đã đưa ra 3 gợi ý quan trọng cần tập trung bàn bạc và đưa ra những quyết sách hợp lý. Ba nội dung đó là: 1- Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;   2- Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp;     3- Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một số vấn đề quan trọng khác. Tuy nhiên, tôi cho rằng còn 2 vấn đề rất rất quan trọng khác mang tính chất quyết định đến sự tồn vong lâu dài của đất nước là: A - Giải quyết dứt điểm vấn đề tranh chấp biển Đông để ngư dân yên tâm lao động sản xuất trên biển và đảm bảo an toàn việc THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN trên vùng thềm lục địa và trong vùng biển đặc quyền của Việt nam. Như chúng ta đã biết ngành Dầu khí đem lại 1/3 giá trị GDP hàng năm. Nếu chúng ta tập trung phát triển thêm những giếng dầu mới sẽ đóng góp không nhỏ vào chương trình phát triển kinh tế nước nhà. Thế nhưng, thời gian vừa qua hễ ta đặt giàn khoan ở nơi nào thì Trung quốc đe dọa và buộc phải rút đi đồng thời phải bồi thường rất lớn cho nhà đầu tư. Vụ Cty Repsol của Tây ban nha khoan dầu ở lô 07/03 thuộc mỏ Cá Rồng Đỏ ngoài khơi Vũng tàu là một ví dụ điển hình. Cứ kéo dài tình trạng này Việt nam không những không khai thác được tài nguyên trên lãnh thổ của mình mà còn sẽ phải ăn chia với ngoại bang. Tuy nhiên giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển Đông là một điều rất khó một khi VN theo đang đuổi chính sách ngoại giao “đánh đu” mà dân gian gọi nôm na là chính sách “ngoại giao ca ve”. Trong ba thế lực đang muốn sử dụng VN để chống lại thế lực kia, hãy chọn lấy một đối tác có tiềm năng giúp ổn định vững chắc quốc phòng, phát triển kinh tế giải quyết nợ nần, bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng có người e rằng sẽ lệ thuộc vào thế lực nào đó. Cổ nhân đã dạy: “Trong ba điều xấu hãy chọn điều ít xấu nhất”. Còn VN ta có câu ca dao có ý nghĩa khuyên nhủ: Khi ta đứng giữa ba dòng nước / Nên chọn một dòng hay để nước trôi? B - Vấn đề giáo dục hiện nay nát be nát bét. Lời khuyên của Hồ Chủ tịch: hãy xây dựng nền giáo dục “ thầy ra thầy, trò ra trò”. Nhưng nhiều thập kỷ nay ngành giáo dục làm hoàn toàn ngược lại. Một đất nước muốn phát triển nhanh và bên vững phải có những con người khỏe mạnh về thể lực, thông minh về trí lực và giàu lòng nhân ái. Thế mà những năm qua ngành GD Việt Nam đã nhào nặn ra những phế phẩm bậc nhất thế giới: những tiến sĩ rởm, giáo sư rởm…thầy rởm: nghèo nàn về kiến thức, đồi bại về đạo đức, nông cạn về tầm suy nghĩ. Thử hỏi những GS, TS, những ông “thầy” như thế sẽ dạy được gì cho sinh viên, học sinh. Lại nói về việc đi học của học sinh. Trong “bản án chế độ thực dân” của HCT đã lên án chế độ “xây nhà tù nhiều hơn trường học: thì nay VN làm đúng như vậy. Trẻ em sinh ra không có trường để học, làm cho cha mẹ các em đến mùa học lại lo lắng như ngồi trên đống lửa. Theo công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em mà VN là một trong những nước đi đầu ký vào công ước đó, có nêu rõ: đi học là quyền của trẻ em. Thế mà ngành giáo dục đưa ra bao nhiêu là quy định gây khó dễ cho các em nhập trường. Nhiều nước trên thế giới, học sinh bậc phổ thông không những được hoàn toàn miễn phí (Free of charge) mà còn được cung cấp sách vở và đồ dùng học tập cũng miến phí luôn. Tìm hiểu mới biết: nguồn kinh phí đó trích ra từ tiền thuế của cha mẹ các em. Và ở đó, học hết chương trình giáo dục phổ thông là bất buộc (compulsory) đối với mọi công dân. Những nhà lãnh đạo đất nước phải hiểu một nguyên lý rằng: TRẺ EM LÀ TƯƠNG LAI CỦA ĐẤT NƯỚC. Giờ xin nói qua nội dung thứ nhất do TBT nêu ra: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Đó là ý tưởng rất hay nhưng KHÔNG THỂ THỰC HIỆN. Vì sao? 1/ Hơn bảy chục năm nay Đảng đã hình thành một đội ngũ cán bộ theo thể chế “chuyên chính vô sản”. Chả mấy người hiểu chuyên chính là gì. Đó chính là từ chuyển ngữ từ gốc DICTATORSHIP có nghĩa là độc tài, đôc quyền. Cho nên cán bộ lãnh đạo tha hồ vung vẩy cây trượng quyền lực, giờ mới bàn đến kiểm soát quyền là không thể. 2/ Nhiều năm qua việc hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuốc hệ 5C: CON CHÁU CÁC CỤ CẢ nên nhân tài đã bị đẩy đi hết, nhiều người giỏi giang học ở nước ngoài về mong được chung tay xây dựng đất nước NHƯNG HỌ “KHÔNG ĐỦ TÀI NĂNG” để thích hợp với chế độ Đảng cử dân bàu, cho nên họ phải ngậm ngùi ra đi. Ngậm ngùi bời tài năng của họ chấn động thiên hạ mà về quê cha đât tổ của mình bị xem rẻ. Hỏi còn ai muốn về xây dựng nước nhà nữa. 3/ Hệ thống cán bộ lãnh đạo hiện nay đặc biệt ở tầng lớp chóp bu đều đi lên từ những kẻ chuyên “ngồi chơi ăn bám” như từ các đoàn thể thanh niên, công đoàn, chuyên trách Đảng, mặt trận TQ… không hề kinh qua lao động sản xuất, cái họ có trong đầu là một mớ lý luận hẩu lốn không đáng một xu. Cho nên họ không hiểu gì về tình hình hoạt động kinh tế và thực tại xã hội như thế nào. Họ chỉ biết ngồi và phán bậy. Với tình trạng cán bộ như thế lấy đâu ra cán bộ nguồn để “xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng” và “xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”./.
......

Hội nghị TW 7 của ĐCS - cuộc họp mặt của một đám chủ tự phong

Lâu đài cho đảng và chuồng trại cho dân Thế nào là cổ đông? Cổ đông là người sở hữu một phần vốn trong công ty. Vì vậy cổ đông là người đồng sở hữu, nên cổ đông có những quyền tác động lên công ty mà mình góp vốn. Họ có quyền ứng cử vào vị trí lãnh đạo công ty. Cổ đông có cơ hội bước vào ghế lãnh đạo công ty bằng luật chơi cho loại doanh nghiệp này. Thế nào là nô lệ? Nô lệ là người chỉ được phép bỏ sức lao động, còn sản phẩm của lao động là kẻ khác hưởng. Đã là nô lệ thì tuyệt đối không có bất kỳ một quyền hành gì cả. Chức năng của nô lệ không khác con vật là mấy. Họ chỉ khác con vật là họ nói tiếng người, còn quyền hành và quyền lợi đều là con số zero. Số phận nô lệ là do nhóm người khác quyết định, kể cả mạng sống. Nô lệ không có quyền mà chỉ có nghĩa vụ. Chế độ Apartheid của Nam Phi thời trước Nelson Mandela làm tổng thống là một đất nước được xem như sở hữu của người da trắng, mặc dù chủ nhân lâu đời của xứ này là người da đen. Ở xứ này, việc ứng cử và bầu cử là hoàn toàn do người da trắng quyết định. Dân da đen chiếm đến 80% dân số nhưng được phân ra một chuồng riêng, chuồng dành cho súc vật hình người da đen. Như vậy bên trong nước Nam Phi khi đó có 2 hình ảnh tương phản, người da trắng là thiểu số có quyền quyết định số phận người da đen đa số. Cảnh này ví nước Nam phi có một lâu đài và một chuồng trại, lâu dài cho người da trắng và chuồng trại cho người da đen. Nhìn kỹ kết cấu một nhà nước tự do, chúng ta thấy sân chơi chính trị là công bằng cho mỗi công dân. Hệ thống đảng phái là một hình thức tổ chức hoạt động theo pháp luật. Con đường vào đảng phái chính trị nào đấy là công bằng cho mọi người, muốn vào phải thắng cử. Con đường vào nhà nước là công bằng cho mọi đảng phái, muốn vào thì tuân thủ luật chơi của đất nước dân chủ, đó là thắng cử. Donald Trump vào đảng Cộng Hoà chưa bao lâu đã bước lên ghế làm chủ nhà trắng. Không cần phải thâm niên lâu đời và gia thế khủng như ĐCSVN. Ghế quyền lực nhà nước luôn rộng mở cho mọi công dân, không là sở hữu riêng của đảng phái nào cả. Dân là chủ sở hữu nhà nước vì họ có quyền chọn nhân sự cho nhà nước. Dân là cổ đông trong quốc gia đó. Kết cấu chính trị ở Việt Nam cũng tựa chủ nghĩa Apartheid Nam Phi. Ở xứ Việt Nam cũng tồn tại mô hình 2 nhóm riêng biệt, lâu đài và chuồng trại. Lâu đài là nơi ĐCS ngự trị, chuồng trại là nơi dành cho thường dân, dưới mắt ĐCS thì dân chúng ta chỉ là súc vật nói tiếng người. Mọi số phận của súc vật nói tiếng người trong chuồng đều do những người chủ trong trong lâu đài quyết định. Con vật nào dám đòi hỏi thì sẽ bị bọn chủ lâu đài mang ra thịt để giằng mặt cả chuồng. Đấy là một thực tế mà không thể bao biện gì được. Có ai đặt câu hỏi, tại sao tôi sinh ra cũng da vàng mũi tẹt, cũng con người đi bằng 2 chân như anh, anh học được tôi cũng học được, anh làm quản lí nhà nước được, tôi cũng làm được. Vậy, cớ sao anh có quyền thành lập đảng mà tôi không có quyền đó? Cớ sao anh giành độc quyền quản lí tôi mà tôi không hề có được một quy chế nào để được bầu làm người quản lí anh? Vì sao cả tôi và anh cùng sống trên mảnh đất chữ S này, nhưng anh có quyền quyết định số phận nó, còn tôi thì không? Vân vân và vân vân với vô số câu hỏi đặt ra là người CS có tất cả đặt quyền còn dân thì không. Điều đó có nghĩa là trên đất nước này ĐCS được đặc quyền của một thằng chủ sống trong lâu đài, còn dân được xem như súc vật làm công tác phục vụ cho ĐCS. Điều bất công này, trong người dân chúng ta được bao nhiêu người nhận ra? Điều mà chúng ta cần phải hiểu là, chúng ta phải lấy lại quyền tự quyết cho mình chứ đừng để ĐCS xem chúng ta là một trại súc vật thuộc sở hữu của chúng. Phải biết mình là người, không ai giải thoát cho mình khi tự mình mặc định mình an phận với kiếp như súc vật trong một đất nước đầy bất công về quyền lợi. Ở Úc, các chủ trang trại nuôi bò thường hay xuất bò thịt nguyên con sang nước khác, trong đó có Việt Nam để cho chủ mới xẻ thịt. Trước cuộc mua bán là cuộc gặp giữ ông chủ người Úc và ông chủ phía đối tác. Sau khi ngã giá xong, bản hợp đồng được 2 ông chủ kí. Sau đó là bò được đưa vào các khoan chứa cho lên tàu và xuất đi. Số phận những con bò do 2 ông chủ quyết mà nó không hề hay biết gì về số phận của nó. Tương tự vậy, mỗi cuộc đại hội Đảng là cuộc họp ăn chia của ĐCS nhằm chia chác số phận 93 triệu người dân. Một đảng phái chính trị thực ra là một nhóm người cùng quyền lợi, lấy tư cách gì mà quyết định số phận một đất nước? Trừ khi đất nước bị xem là vật sở hữu của Đảng, dân bị xem là súc vật trong chuồng của Đảng, và Đảng tự cho mình quyền buôn bán giang sơn lãnh hải và quyền quyết định số phận toàn dân. Và thực tế chính là như vậy. Các cuộc thăm thú người đứng đầu ĐCSVN và người đứng đầu ĐCS Tàu chính là cuộc kí tá giữa 2 thằng chủ để mua bán số phận một dân tộc. Và hôm nay, hội nghị TW của ĐCS, đó là cuộc họp mặt của một đám chủ tự phong - ĐCS. Bọn chúng đang giành giật quyền lợi cho từng phe phái nhỏ trong Đảng. Trại súc vật khổng lồ 93 triệu cá thể được đem ra phân chia giành giật như một miếng bánh. Rõ ràng là sự số phận chúng ta đang bị chúng xem là một món hàng rồi họp nhau chia phần để khai thác. Là người Việt Nam có lương tri thì chắc chắn phải cảm thấy nhục nhã. Người dân chúng ta và ĐCS là người như nhau, sao ta lại kiếp nô lệ mà nó lại làm chủ? Cần phải xóa bỏ kết cấu này để giành lại kiếp làm người đúng nghĩa. Nếu không sớm nhận ra, để nó bán xong mới thức tỉnh thì quá muộn./.
......

Đốt lò ở Thành Hồ

Hội nghị Trung ương 7 sẽ khai mạc vào sáng ngày 7 tháng 5, 2018 giữa những tin đồn pha trộn màu sắc thăm dò về những thay đổi nhân sự ở cấp cao. Trong bối cảnh đó, cuộc chiến đốt lò của Tổng bí thư Trọng đang di chuyển từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Đây cũng là lần đầu tiên ông Trọng hướng mũi dùi chống tham nhũng tiến về phía Nam nơi mà những nhóm lợi ích được tổ chức và cấu kết nhau chằng chịt như một mạng lưới kênh rạch vây quanh một Anh Hai đầu sỏ. Hai đây là Hai Nhựt bí danh của bí thư Lê Thanh Hải được gán hỗn danh “Lãnh chúa Gia Định”. Vì thế lần này ông Trọng thận trọng thăm dò bằng cách cho báo chí lề đảng tung hứng trở lại vụ Lê Tấn Hùng (Chủ tịch Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn), người em trai của bí thư Hải đã từng bị kỷ luật khiển trách. Rồi đến con trai là Lê Trương Hải Hiếu được cha lót ổ chủ tịch quận 12 cũng bị kỷ luật vì vi phạm “đạo đức cán bộ” được báo chí mô tả “có quan hệ tình cảm với phụ nữ và có con chung nhưng chậm báo cáo với tổ chức.” Tiếp theo là những dư luận ồn ào quanh vụ 32 ha đất “tài sản của thành ủy” được mang bán cho Công ty Quốc Cường Gia Lai với giá “rẻ như bèo”. Những vụ việc này không hề xảy ra trên mặt dư luận từ những năm trước đây vì thuộc lãnh vực nhạy cảm của gia đình bí thư thành ủy danh giá. Nhưng nay nó được xới tung lên, hâm nóng lại để phục vụ một mưu đồ triệt hạ lẫn nhau trong đảng hơn là chống tham nhũng để chỉnh đảng. Câu hỏi được đặt ra, vì sao lại có chuyện xảy ra như vậy? Hiện tượng này chỉ có thể giải thích là Lê Thanh Hải không hạ cánh an toàn như bình thường mà đang lọt vào tầm ngắm của Trưởng ban chỉ đạo Ban phòng chống tham nhũng Trung ương. Nói một cách chính xác và rõ ràng hơn là do ông Trọng muốn tiêu diệt đế chế của hai họ Trương và họ Lê là hai họ đã nắm hầu hết quyền lực tài chánh lẫn chính trị tại Thành Hồ trong một thời gian dài. Dự án khu đô thị Thủ Thiêm là tâm điểm khai thác để trục lợi trên hàng ngàn hecta đất giải tỏa của thế lực này, bất chấp tiếng kêu than của người dân. Họ Trương đứng đầu là Trương Mỹ Hoa cựu Phó chủ tịch nước, và họ Lê là Lê Thanh Hải nguyên ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy Thành Hồ. Trương Mỹ Hoa cũng chính là chị vợ của Hải. Gia đình họ Trương còn có Trương Mỹ Lan người điều hành công ty Vạn Thịnh Phát có mặt trong hầu hết công cuộc kinh doanh đủ mọi ngành nghề với các viên chức chính quyền. Trong đảng và ngoài đảng hai họ này lại cùng một nhà nên liên kết thành một sự thao túng ghê gớm mọi mặt. Lê Thanh Hải nối tiếp ngồi trên chiếc ghế chủ tịch UBND rồi bí thư thành ủy suốt từ 2001 đến 2015, thời gian kéo dài gần 14 năm đủ để tạo ra một lớp đàn em làm hậu thuẫn rất mạnh và rất đông. Khó có thể nói có lãnh vực nào chung quanh Thành Hồ hái ra tiền mà thiếu vắng bàn tay mafia của các đệ tử thân tín của Hải và Trương Mỹ Hoa, như Tất Thành Cang chẳng hạn. Do đó để đánh sập quyền lực của hai họ Trương và Lê, ông Trọng đã: 1/ Cho kích lên làn sóng phanh phui các chuyện làm ăn bê bối của những nguời liên hệ với Lê Thanh Hải. Như vụ Phó bí thư Tất Thành Cang chỉ đạo Công ty Tân Thuận trực thuộc thành ủy bán rẻ 32 ha đất công cho Quốc Cường Gia Lai. Cụ thể bán với giá 1,290 triệu/m2, làm ngân sách bị thiệt hại khoảng 2 ngàn tỷ VND, tương đương 100 triệu đô-la chạy lạc vào túi các quan tham thành ủy. 2/ Sau khi làm cho dư luận nổi sóng và cảm thấy khó chịu thì ông Trọng đi bước kế tiếp. Những người liên hệ sẽ bị truy tố ít nhất với tội “cố ý làm trái” mà người ta thường nghe trong cáo trạng trước đây. Cho dù đúng hay sai nhưng ít ra đây là đòn cần thiết để khóa mồm phe đối nghịch, không để ai có cơ hội lên tiếng. 3/ Tiếp theo sẽ là màn gây áp lực mạnh để hai họ Trương và Lê phục tùng ông Trọng. Biết đâu gia đình này lại ngoan ngoãn mang nộp tiền tham ô lâu nay hòng chuộc mạng lúc sa cơ. Điều quan trọng hơn hết, trước mắt sẽ đe nẹt gia đình này từ nay không còn dám vọng về anh Ba Dũng nữa. Đó cũng là cách cho phe cánh Anh Ba còn sót lại thấy thế và lực của cựu thủ tướng ngày nay không còn và ông Trọng chính là “hào kiệt” là “người đốt lò vĩ đại” mà họ phải tôn thờ. 4/ Cuối cùng nếu họ Trương và họ Lê không chịu cúi đầu thi hành mà quyết bảo vệ khối tài sản thu vén lâu nay thì lúc đó Ủy ban Kiểm tra Trung ương của Trần Quốc Vượng sẽ ra tay. Với những tài liệu soạn sẵn được tung ra, Lê Thanh Hải chắc chắn sẽ không thoát khỏi số phận bị bắt giữ khẩn cấp một cách nhục nhã. Cuộc chiến đốt lò của ông Trọng hiện nay đang diễn tiến như thế và chưa phải là màn kết thúc. Nhưng xem ra các đệ tử thân tín của ông Trọng đã vội vàng tâng bốc kỳ công của “sĩ phu Bắc Hà” lên tận mây xanh, y như đảng đã trong sạch và vững mạnh.
......

Đất nước sẽ về đâu?

Tôi có khá nhiều bạn bè hiện đang sinh sống tại Úc, trước đây, khi còn làm việc, cứ ao ước đến ngày về hưu, con cái khôn lớn, có gia đình và có việc làm ổn định cả, sẽ về Việt Nam an hưởng tuổi già. Bức tranh người ta vẽ ra rất đẹp: với số tiền hưu trí tại Úc, người ta có thể dễ dàng có một cuộc sống rất phong lưu ở Việt Nam. Có thể thuê người giúp việc. Có thể đi đây đi đó. Có thể ăn hết món lạ này đến món lạ khác. Thế nhưng, đến ngày họ thực sự về hưu, sau vài chuyến thăm viếng Việt Nam, người ta lại đổi ý. Theo họ, Việt Nam chỉ là nơi để đi du lịch chứ không phải là nơi có thể sống được lâu dài. Người ta đưa ra hai lý do chính: Một là nhớ con cháu tại Úc; hai là, Việt Nam hoàn toàn không an toàn. Tôi cũng có khá nhiều bạn bè ở hướng ngược lại: Họ sống tại Việt Nam, phần lớn đều khá thành đạt, có chức có quyền và có tiền. Họ cho con cái du học ngoại quốc. Học xong, các cháu có việc làm đàng hoàng, sau đó, bảo lãnh cho cha mẹ từ Việt Nam, sau khi về hưu, ra ngoại quốc sinh sống. Họ bỏ lại sau lưng cuộc sống rất dư dả và cũng rất vui vẻ trên quê hương để sang sống ở một quốc gia xa lạ về cả ngôn ngữ lẫn văn hoá; và vì sự xa lạ ấy, cũng khá buồn rầu. Hỏi tại sao, họ cũng nêu lên hai nguyên nhân: Một là muốn gần gũi con cháu; và hai là, ở ngoại quốc, dù buồn, vẫn an toàn hơn hẳn Việt Nam. Bỏ qua việc sống gần con cháu, cả hai nhóm người ấy đều có nhận thức giống nhau: Việt Nam, dù là quê hương người ta rất yêu mến, không còn là một nơi an toàn để sống. Trước hết là thiếu an toàn về chính trị. Ở bình diện cá nhân, người ta có thể bị bắt bớ hay tra tấn bất cứ lúc nào nếu muốn có một tư duy độc lập và nếu muốn thực hiện quyền tự do ngôn luận. Ở bình diện quốc gia, dù nhà nước Việt Nam luôn xem sự ổn định là một trong những mục tiêu lớn nhất của họ, ai cũng biết, Việt Nam lúc nào cũng ẩn chứa đầy những nguy cơ bất ổn. Bất ổn trong nội bộ đảng với các khuynh hướng và phe phái khác nhau. Nhưng quan trọng nhất là bất ổn trong quan hệ với Trung Quốc: Không ai dám chắc những mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông sẽ không bùng nổ thành chiến tranh. Đã đành Việt Nam lúc nào cũng nhân nhượng Trung Quốc. Nhưng sự nhân nhượng nào cũng có giới hạn. Mà Trung Quốc thì rõ ràng không muốn dừng lại ở bất cứ giới hạn nào cho đến lúc hoàn toàn trở thành bá chủ trên Biển Đông. Thứ hai là thiếu an toàn về giao thông. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 10.000 người chết vì tai nạn xe cộ. Mười ngàn: tức mỗi ngày trung bình gần 30 nạn nhân. Đó là người chết. Con số những người bị thương tật chắc chắn sẽ nhiều hơn hẳn. Bởi vậy, ở Việt Nam, nhiều người nói, cứ mỗi lần bước ra khỏi cửa nhà là thấy phập phồng. Con đường nào cũng đầy bất trắc. Đi đúng luật và lái xe cẩn thận cũng có thể bị những chiếc xe “điên” bị mất tay lái cán chết. Ngay cả đi bộ cũng không an tâm. Mỗi lần băng qua đường là một lần đối diện với rủi ro. Nhưng quan trọng nhất là mất an toàn thực phẩm. Báo chí đã nói rất nhiều về thực phẩm bẩn ở Việt Nam. Hầu như tất cả đều bẩn. Hầu như bất cứ loại gia súc nào cũng được cho ăn các hoá chất độc hại để tạo nạc và tăng trọng. Tệ hại hơn, người ta còn đem bán cả thịt thối rữa, sau khi tẩm ướp bằng các loại hoá chất để bay mùi và săn thịt. Ngày trước, đã có nhiều người giả thịt trâu thành thịt bò. Bây giờ, “tài” hơn, người ta còn biến cả thịt heo thành thịt bò. Thịt giả như vậy cũng được đi. Nhưng vấn đề là để làm giả như thế, người ta lại sử dụng các loại hoá chất độc hại để nhuộm màu thịt. Ăn chúng, người ta ăn cả các chất có thể gây ung thư. Thịt đã thế, rau trái cũng thế. Cũng đầy hoá chất. Hoá chất trong phân bón và trong các loại thuốc trừ sâu. Hoá chất còn được dùng để ướp trái cây cho chúng bắt mắt hơn. Ngay cả nước dừa cũng không an toàn. Để trái dừa có màu tươi như mới, người ta lại nhúng chúng vào hoá chất. Lại hoá chất. Trước, người ta tưởng ăn cá tôm và các loại hải sản là an toàn. Nhưng không phải. Tôm cá và hải sản nuôi trong các hồ nhân tạo cũng nhiễm đầy các chất cấm. Còn tôm cá và hải sản được đánh từ sông và biển? Từ mấy năm nay, chúng lại cũng bị nhiễm độc. Hàng trăm tấn cá bị chết, tấp trắng các bờ biển từ Hà Tĩnh vào đến Huế, kéo dài cả hơn 200 cây số. Chính quyền còn ú ớ trong việc xác định nguyên nhân cá chết nhưng có một điều chắc chắn: chúng bị nhiễm độc các loại hoá chất do con người thải ra. Thành ra tôm cá đánh bắt từ biển khơi cũng không còn an toàn nữa. Thịt: độc. Tôm cá: độc. Rau, trái và củ: độc. Cả không khí người ta thở, đặc biệt tại hai thành phố lớn, Hà Nội và Sài Gòn, cũng nhiễm đầy chất chì và thuỷ ngân: độc. Cả nước bị nhiễm đầy chất độc. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tỉ lệ người Việt Nam mắc bệnh ung thư rất cao. Càng ngày càng cao. Lâu nay, nói đến những khó khăn mà Việt Nam đang đối diện, chúng ta hay nghĩ đến các yếu tố chính trị và địa chính trị, đến vấn đề dân chủ và nhân quyền, đến chuyện các đại công ty phá sản và nợ công chồng chất. Nhưng ngay cả về phương diện xã hội, liên quan đến chuyện ăn uống và hít thở hàng ngày, Việt Nam cũng đối diện với bao nhiêu nguy hiểm. Tôi cứ tự hỏi: Trong một khí quyển như thế, làm sao người Việt Nam có thể sống được và tương lai đất nước sẽ đi về đâu? FB Nguyễn Hưng Quốc
......

Sắp có Chủ tịch nước và Ủy viên Bộ Chính trị mới?

Nhiều khả năng sẽ có thay đổi ở vị trí chủ tịch nước và sẽ có thêm một số gương mặt mới được đưa vào Bộ Chính trị tại hội nghị trung ương sắp tới của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo nhận định của các nhà quan sát bên ngoài Việt Nam. Chủ tịch nước Trần Đại Quang được cho là đang phải chữa bệnh Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ Bảy được dự kiến diễn ra trong tháng này trong bối cảnh xuất hiện nhiều đồn đoán quanh tương lai của ông Trần Đại Quang, chủ tịch nước đương nhiệm, sau thời gian dài ông không thấy xuất hiện trước công chúng. Biến động dồn dập Cho đến trước Hội nghị 7, Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 13 đã chứng kiến nhiều biến động nhân sự dồn dập ở mức độ chưa từng thấy. Hồi năm ngoái, lần đầu tiên trong hàng chục năm, một Ủy viên Bộ Chính trị là ông Đinh La Thăng đã bị cách chức rồi sau đó bị tòa tuyên án 18 năm tù vì hành vi tham nhũng. Hồi đầu năm nay, một ủy viên Bộ Chính trị khác là ông Đinh Thế Huynh, thường trực Ban Bí thư và là người trước đó được coi là có triển vọng lên thay ông Nguyễn Phú Trọng trong chức Tổng bí thư, đã thông báo từ chức vì lý do sức khỏe. Hội nghị trung ương 6 họp vào tháng 10 năm ngoái đã khai trừ ông Nguyễn Xuân Anh ra khỏi Ban chấp hành trung ương vì những vi phạm về bằng cấp và phương cách lãnh đạo. Như vậy, nếu như ông Trần Đại Quang cũng phải ra đi vì lý do sức khỏe như ông Đinh Thế Huynh thì Bộ Chính trị, cơ quan ra quyết sách tối cao của Đảng, sẽ giảm từ 19 xuống còn 16 thành viên. Đây là biến động nhân sự lớn nhất trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều thập niên. Một bài báo của tác giả David Hutt trên tạp chí The Diplomat dự đoán Hội nghị Trung ương 7 lần này sẽ bổ sung thêm ba gương mặt mới vào Bộ Chính trị. Nếu dự đoán này là đúng thì nhiều khả năng ba ủy viên Bộ Chính trị mới sẽ thay thế cho ông Đinh La Thăng, ông Đinh Thế Huynh và cả ông Trần Đại Quang. Cũng đã từng có diễn biến tương tự tại Hội nghị Trung ương 7 khóa 12 cách nay 5 năm khi Bộ Chính trị lúc đó được bổ sung thêm hai thành viên là ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Lần này, ông Nhân, người đang giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh sau cú rớt đài của ông Đinh La Thăng, được cho là sẽ được cất nhắc lên làm Chủ tịch nước, tác giả David Hutt dẫn một bài viết của ông Lê Hồng Hiệp, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu đông nam Á Yusof Ishak ở Singapore, cho biết. Người ba phải Ông Nguyễn Thiện Nhân được cho là có dấu ấn chính trị mờ nhạt Theo nhận định của David Hutt thì ông Nhân được nhìn nhận rộng rãi là một ‘người ba phải’ dễ phục tùng người khác. Theo lời ông Hutt thì một nhà phân tích chính trị mà ông không nêu tên đã từng nói với ông là ông Nhân là một người có “tác phong lãnh đạo thụ động và kết quả làm việc tầm thường”. Ông Nhân từng có thời gian giảng dạy rồi quản lý tại Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, sau đó được cất nhắc lên làm Phó Chủ tịch thành phố này trước khi ra trung ương làm Bộ trưởng Giáo dục, rồi Phó Thủ tướng. Sau khi vào Bộ Chính trị, ông được đưa qua làm Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, một tổ chức đặt các hội đoàn dân sự dưới sự lãnh đạo của Đảng. “Ông Nhân có thể được xem là một ủy viên Bộ Chính trị khác thường vốn dường như đã bị thất sủng sau kết quả làm việc tệ hại trên cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo vào những năm 2000,” David Hutt viết trên tờ Diplomat. Tuy nhiên, kiểu người ba phải như ông Nhân lại “chính là tuýp người mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thích”, ông Hutt nhận định. Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của ông Trọng, đã “thay đổi theo chiều hướng bảo thủ hơn”. Quyết sách của Đảng đã trở nên ‘tập trung hơn’ mặc dù vẫn đi theo sự “đồng thuận” dựa trên nguyên tắc “dân chủ tập trung”. Ông Hutt dẫn lời ông David Brown, một nhà ngoại giao Mỹ từng làm việc ở Việt Nam, nhận định rằng ông Trọng muốn khôi phục kỷ cương trong Đảng và trừng phạt những Đảng viên cao cấp bị suy thoái về mặt tư tưởng. Điều này đã được cụ thể hóa trong “27 dấu hiệu về sự suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa” mà Trung ương Đảng đã đưa ra để cho Ủy ban Kiểm tra Trung ương dựa vào để xem xét hành vi của các Đảng viên. Mục tiêu của 27 dấu hiệu này là nhằm vào những nhân vật lãnh đạo có phong cách quá chủ nghĩa cá nhân hay dân túy kiểu như cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hay ông Đinh La Thăng. Việc đưa ông Nguyễn Thiện Nhân về lại Thành phố Hồ Chí Minh để thay thế ông Đinh La Thăng chính là thể hiện cách thay đổi theo hướng này của ông Trọng. Ông Nhân, người được xem là dễ phục tùng trước nguyên tắc dân chủ tập trung của Đảng là kiểu người mà ông Trọng cần cho các vị trí lãnh đạo. “Thật ra, chúng ta hãy chờ xem trong hội nghị Trung ương lần này sẽ chứng kiến sự cất nhắc của những nhân vật trung thành nhưng tẻ nhạt, hầu hết là đi theo hình mẫu của ông Nguyễn Phú Trọng”. Ứng viên Tổng bí thư Ông Trần Quốc Vượng hiện phụ trách công tác chống tham nhũng của Đảng Tác giả David Hutt cũng dự đoán rằng ông Trần Quốc Vượng là người nhiều khả năng nhất sẽ lên làm Tổng bí thư thay ông Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội 13 của Đảng vào năm 2021. Điều này trái với dự đoán của ông Lê Hồng Hiệp rằng nếu được cất nhắc làm Chủ tịch nước, ông Nhân sẽ là một ứng cử viên cho vị trí tổng bí thư. Ông Vượng hiện đang là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, người phụ trách chiến dịch chống tham nhũng của Đảng do ông Trọng đề xướng. Chức vụ này cũng giống như ông Vương Kỳ Sơn, cựu chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, người được xem là cánh tay phải của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong cuộc chiến chống tham nhũng ở nước này. Nếu ông Trọng muốn duy trì nhịp độ và cường độ của cuộc chiến chống tham nhũng thì ông Vượng sẽ là một ứng viên khả dĩ nhất cho vị trí Tổng bí thư. Điều đáng lưu ý là ông Vượng đã lên thay ông Đinh Thế Huynh ở vị trí Thường trực Ban bí thư, một chức vụ bản lề để lên làm Tổng bí thư của Đảng. Một nhân vật khác cũng thăng tiến nhanh chóng đáng được theo dõi, theo ông David Hutt, là ông Nguyễn Xuân Thắng, người được đưa lên làm Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương thay thế cho ông Đinh Thế Huynh hồi tháng Ba. Ông Thắng cũng đang là Bí thư Trung ương Đảng và Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Thật ra, ông Thắng đã nắm Hội đồng Lý luận Trung ương từ tháng 12 năm ngoái kể từ khi ông Huynh vắng mặt vì đi chữa bệnh. Điều đáng lưu ý là ông Trọng đã từng giữ chức vụ này trước khi ông lên làm Tổng bí thư. Ông Huynh, ứng cử viên hàng đầu cho chức vụ Tổng bí thư trước khi ông ngã bệnh, cũng là người nắm các vấn đề lý luận trong Đảng. “Với việc tư tưởng lý luận ngày càng được coi trọng trong hệ thống của Đảng Cộng sản thì Hội đồng Lý luận Trung ương càng có vai trò quan trọng, và do đó vai trò của ông Thắng cũng quan trọng,” ông David Hutt viết. Tuy nhiên, ngoài các tin đồn về việc ông Nhân sẽ lên thay thế ông Quang làm Chủ tịch nước, hiện vẫn chưa ra ba gương mặt có thể vào Bộ Chính trị tại hội nghị trung ương Bảy sẽ gồm những ai. Nếu phân tích của David Hutt là đúng thì rất có thể ông Nguyễn Xuân Thắng sẽ là một ứng cử viên sáng giá. https://www.voatiengviet.com/a/sap-co-chu-tich-nuoc-va-uy-vien-bo-chinh-...  
......

Nuôi 880 tướng quân đội và công an chỉ phí gạo, tiền của dân

Té ra dân nuôi 480 tướng Quân đội và gần 400 tướng công an để bảo vệ biên cương, bảo vệ chủ quyền và toàn ven lãnh thổ, và giữ gìn an ninh trật tự trong nước là phí hoài bát cơm, đồng tiền của dân lắm lắm. Một thời Tổng cục 2-TC tình báo quân đội, dưới thời Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã từng làm khuynh đảo chính trương. TC 2 đã tiến hành trinh sát, nghe lén tất cả các cán bộ cao cấp từ Uỷ viên Trung ương trở lên, đặc biết là các UV BCT. Tưởng thế đã là quá đáng. Giờ mới lộ mặt các tướng tá TC 2 một mặt làm tay sai cho ngoại bang, cung cấp tài liệu mật cho chúng, một mặt dùng quyền lực “đặc biệt” để cướp đất, cướp nhà, cướp doanh nghiệp... thu lời bất chính hàng ngàn ngàn tỷ đồng. Nuôi những tên bán nước này để làm gì? Để phá hoại, để bán rẻ đất nước chăng? Còn lực lượng cảnh sát có chức năng trấn áp tội phạm, giữ gìn trật tự  an ninh thì lại trở thành loại siêu tội phạm: đánh bạc trên phạm vi toàn quốc, tiến hành đàn áp những tiếng nói chân chính, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Còn ai bảo vệ đất nước đây? Còn ai giữ gìn cho biên cương biển đảo đây? Chả trách “tàu lạ” liên tiếp đâm chìm tàu ngư dân, cướp bóc hải sản và ngư cụ ngay trên chính lãnh hải của mình! Chả trách Trung quốc xua đuổi nhũng dàn khoan dầu đang tiến hành khoan, thăm dò trên vùng biển của mình? Chả trách an ninh trật tự đều bất ổn ở mọi nơi, mọi ngõ ngách. Bao nhiêu loại “tặc” ngang nhiên hoành hành mà Thủ tương kêu gào rát họng là phải triệt phá mà không tài nào làm nổi. Vì sao ư? Vì không có vụ cát tặc, lâm tặc, đất đai tặc ... nào mà không có sự tham gia của công an đười nhiều hình thức: chủ đông chỉ đạo, bảo kê dấu mặt, có phần ăn chia. Chưa bao giờ người dân thấy bất an, lo lắng như bây giờ: - lãnh thổ, lãnh hải bị xâm lấn không có người giữ gìn, bảo vệ. - tội phạm xã hội tràn lan không có người trấn áp, không có người giữ gìn cuộc sống an lành cho người dân. Bảo sao dân không lo, không buồn? Fb. Trinh Trang
......

Nuôi 880 tướng quân đội, công an chỉ phí gạo, tiền của dân

Té ra dân nuôi 480 tướng Quân đội và gần 400 tướng công an để bảo vệ biên cương, bảo vệ chủ quyền và toàn ven lãnh thổ, và giữ gìn an ninh trật tự trong nước là phí hoài bát cơm, đồng tiền của dân lắm lắm.   Một thời Tổng cục 2-TC tình báo quân đội, dưới thời Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã từng làm khuynh đảo chính trương. TC 2 đã tiến hành trinh sát, nghe lén tất cả các cán bộ cao cấp từ Uỷ viên Trung ương trở lên, đặc biết là các UV BCT. Tưởng thế đã là quá đáng. Giờ mới lộ mặt các tướng tá TC 2 một mặt làm tay sai cho ngoại bang, cung cấp tài liệu mật cho chúng, một mặt dùng quyền lực “đặc biệt” để cướp đất, cướp nhà, cướp doanh nghiệp... thu lời bất chính hàng ngàn ngàn tỷ đồng. Nuôi những tên bán nước này để làm gì? Để phá hoại, để bán rẻ đất nước chăng? Còn lực lượng cảnh sát có chức năng trấn áp tội phạm, giữ gìn trật tự  an ninh thì lại trở thành loại siêu tội phạm: đánh bạc trên phạm vi toàn quốc, tiến hành đàn áp những tiếng nói chân chính, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Còn ai bảo vệ đất nước đây? Còn ai giữ gìn cho biên cương biển đảo đây? Chả trách “tàu lạ” liên tiếp đâm chìm tàu ngư dân, cướp bóc hải sản và ngư cụ ngay trên chính lãnh hải của mình! Chả trách Trung quốc xua đuổi nhũng dàn khoan dầu đang tiến hành khoan, thăm dò trên vùng biển của mình? Tướng VC Chả trách an ninh trật tự đều bất ổn ở mọi nơi, mọi ngõ ngách. Bao nhiêu loại “tặc” ngang nhiên hoành hành mà Thủ tương kêu gào rát họng là phải triệt phá mà không tài nào làm nổi. Vì sao ư? Vì không có vụ cát tặc, lâm tặc, đất đai tặc ... nào mà không có sự tham gia của công an đười nhiều hình thức: chủ đông chỉ đạo, bảo kê dấu mặt, có phần ăn chia. Chưa bao giờ người dân thấy bất an, lo lắng như bây giờ: - lãnh thổ, lãnh hải bị xâm lấn không có người giữ gìn, bảo vệ. - tội phạm xã hội tràn lan không có người trấn áp, không có người giữ gìn cuộc sống an lành cho người dân. Bảo sao dân không lo, không buồn? Fb. Trinh Trang
......

Đại hội Trung Ương 7: Mong đợi những gì

Dù chính trị Việt Nam thường lôi cuốn sự chú ý của quốc tế trong các kỳ Đại hội Đảng mỗi năm, các sự kiện chính trị quan trọng khác thường không được chú ý. Một trường hợp cụ thể là Hội nghị Trung ương lần thứ 7 của Uỷ ban Trung ương, nơi có thể có tới ba gương mặt mới gia nhập Bộ Chính trị, cơ quan ra quyết định hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam.   Hai bài báo thú vị đã khám phá những gì có thể diễn ra tại Hội nghị: một của Lê Hồng Hiệp, Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, và một của David Brown, một cựu nhà ngoại giao Mỹ tại Việt Nam. Về các đề bạt nhân sự cho Bộ Chính trị, ông Hiệp nói rằng Nguyễn Thiện Nhân có thể được bổ nhiệm làm Chủ tịch nước mới tại Hội nghị này. Ông Nhân đã được bổ nhiệm làm Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh sau khi Đinh La Thăng bị cách chức hồi năm ngoái. Ông Nhân là chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức kiểm soát "các tổ chức nhân dân" hoặc xã hội dân sự ủng hộ Đảng.   Đặc điểm của ông Nhân là một thành viên Bộ Chính trị không nổi bật, người đã dường như để mất ưu thế sau khi đảm nhận kém chức Bộ trưởng Bô Giáo dục trong những năm 2000. Một nhà phân tích chính trị đã cho biết trước đây rằng anh ta dự kiến khả năng lãnh đạo thụ động và hiệu suất tầm thường từ ông Nhân. Thật vậy, ông được nhiều người cho là người ba phải trong Đảng.   Nguyễn Thiện Nhân Tuy nhiên, đây có thể chính xác là loại người mà Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, nhân vật chính trị hàng đầu của đất nước, sẽ ủng hộ. Kể từ Đại hội Đảng lần cuối, vào đầu năm 2016, khi Trọng tái đắc cử và sau đó là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị miễn nhiệm, Trọng đã mở ra một kỷ nguyên thay đổi chính trị bảo thủ. Đảng, dưới sự giám sát của ông ta, đã trở nên tập trung hơn, được điều hành nhờ quyết định “đồng thuận”; chủ nghĩa tập trung dân chủ, nếu là một người tử tế.   Như ông Brown đã đề cập (bản tiếng Việt ở đây), Trọng muốn "khôi phục kỷ luật và đạo đức của đảng để xác định và trừng phạt các lãnh đạo đảng tham nhũng." Điều này đã được nêu ra trong danh sách 27 biểu hiện sẽ do đội ngũ kiểm tra mới để báo cáo về đạo đức của các quan chức trong Đảng. Đồng thời cũng nhắm vào các chính trị gia được coi là quá cá nhân và dân túy, như là Dũng và Đinh La Thăng. [VIDEO::https://www.youtube.com/watch?v=--07w83Xtmo]   Thật vậy, việc thay thế Đinh La Thăng bằng ông Nhân đã tóm lược cách Trọng muốn Đảng giờ đây hoạt động ra sao. Đinh La Thăng, một chính trị gia kiểu ông Dũng, người đã lên tiếng phản đối Trung Quốc và phát biểu về các vấn đề xã hội ảnh hưởng đến người nghèo Việt Nam, được xem là mối đe dọa đến đặc tính ra quyết định đồng thuận của Đảng do ông Hồ Chí Minh đề ra trong những năm 1960, trong khi đó, ông Nhân, một người ba phải có tâm huyết với một lịch sử trong các cơ thể ngu si đần độn của Đảng, là một loại biểu hiện mà Trọng mong muốn. Thật vậy, dự kiến Hội nghị tháng này sẽ chứng kiến ​sự thăng tiến của các Đảng viên tận tuỵ dù nhạt nhẽo, hết đều hình ảnh của Trọng.   Đầu năm ngoái, Đinh La Thăng, Bí thư Thành ủy TP. HCM, đã bị cách chức ra khỏi Bộ Chính trị sau khi bị cáo buộc tham nhũng trong một cuộc điều tra lớn ở PetroVietnam. Đây là lần đầu tiên một thành viên Bộ Chính trị bị cách chức trong nhiều thập niên. Sau đó ông Thăng đã lãnh án 18 năm tù. Đầu năm nay, Đinh Thế Huynh, một quan chức hàng đầu và là người đứng đầu Ban thư ký Đảng, tuyên bố ông từ chức vì bệnh tật. Cũng có những ý kiến cho rằng Chủ tịch Trần Đại Quang, vốn có sức khỏe kém hàng tháng này, với sự vắng mặt bất thường cả tháng trời trong các sự kiện chung hồi tháng Tám, sẽ bị thay thế tại Hội nghị tháng này.   Ông Hiệp đưa ra thêm dự kiến khác. Nếu ông Nhân làm Chủ tịch nước mới, thì có thể khiến ông Nhân sẽ trở thành Tổng Bí thư kế tiếp, khi Trọng gần như sẽ nghỉ hưu tại Đại hội Đảng lần tới vào năm 2021. Hầu hết các nhà phân tích, bao gồm cả bản thân tôi, cho rằng khả năng ứng cử có vai trò này có khả năng nhất là Trần Quốc Vượng, Trưởng ban Thanh tra Trung ương. Thực tế, hoàng đế chống tham nhũng của Việt Nam (mặc dù có thể Trọng cũng có trọng lượng như vậy trong chiến dịch chống tham nhũng của Đảng).   Vào tháng 3, ông Vương cũng được bổ nhiệm làm Bí thư Ban thư ký Đảng, một cơ quan có nhiệm vụ thực hiện chính sách Đảng, sau khi ông Đinh Thế Huynh nghỉ hưu non, ông Huynh là từng được chỉ đinh trở thànhTổng Bí thư tiếp theo. Nhưng ông Hiệp lưu ý rằng nếu ông Nhân trở thành Chủ tịch nước trong tháng này, thì ông Nhân có thể sẽ leo lên chức vụ hàng đầu vào năm 2021. Nguyễn Xuân Thắng Một người chính trị gia khác đang lên đáng chú ý là Nguyễn Xuân Thắng, hiện là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là ông Thắng cũng được thăng chức làm Chủ tịch Hội đồng Lý luân Trung ương vào tháng Ba. Ông Thắng đã đảm nhiệm vị trí này kể từ tháng 12, cũng do sự vắng mặt của ông Huynh. Cũng nên nhớ, Ông Trọng cũng là người đứng đầu Hội đồng Lý luân Trung ương vào đầu những năm 2000. Với việc ý thức hệ bây giờ trở nên quan trọng trong Đảng Cộng sản, Hội đồng lý luân trở nên quan trọng - và ông Thắng cũng có thể cũng sẽ là người quan trọng. Hầu hết người Việt Nam sẽ không nghi ngờ gì về việc Hội nghị sắp tới cũng sẽ như xưa, nhưng có thể sẽ trả lời: “ Ông nào cũng vậy.” Nhưng những gì được quyết định tại buổi họp mặt này sẽ quan trọng đối với những người bình thường. Trước hết, Ủy ban Trung ương dự kiến ​​sẽ bỏ phiếu về việc liệu có nên tăng tuổi nghỉ hưu hay không, sau khi Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung đã gợi ý trước Quốc hội hồi đầu năm nay.   Một đề xuất là tăng tuổi nghỉ hưu từ 60 lên 62 đối với nam và từ 55 đến 60 đối với nữ. Tuổi hưu sẽ được tăng lên dần dần, ba tháng mỗi năm cho đến khi đạt đến độ tuổi tối đa mới. Lựa chọn thứ hai là gia tăng nhiều hơn; tuổi nghỉ hưu sẽ tăng lên bốn tháng mỗi năm cho đến khi đạt 65 cho nam giới và 60 cho phụ nữ.   Ủy ban Trung ương cũng dự kiến ​​sẽ quyết định liệu có nên giảm số năm lao động Việt Nam phải đóng tiền bảo hiểm xã hội trước khi có thể xin hưởng lương hưu hay không. Hiện tại, họ phải đóng phí 20 năm. Nhưng các quan chức Đảng muốn giảm xuống còn 15 năm, và có thể chỉ còn 10 năm nữa trong tương lai.   Lý do cho cả hai điều trên là rõ ràng: Trong khi Việt Nam hiện có dân số trẻ, trong vòng một hoặc hai thập kỷ tới sẽ trở thành một trong những quần thể già hóa nhanh nhất thế giới, làm tăng nguy cơ Việt nam sẽ già đi trước khi nó trở nên giàu có. Sự giàu có ở đây, cũng bao gồm các quỹ trong chương trình bảo hiểm xã hội, mà các nhà quan sát kinh tế nói có thể bắt đầu bị thâm hụt vào năm 2020, và có thể bị cạn kiệt vào năm 2040.   Trừ khi mọi thứ thay đổi. Điều này chủ yếu sẽ được thực hiện bằng cách giảm số người nhận lương hưu và tăng số lượng lao động đóng phí; giảm số năm đóng góp, Đảng nghĩ rằng, sẽ cám dỗ nhiều người lao động và doanh nghiệp phải tham gia đóng phí.   Với tất cả những điều này, những gì người ta có thể mong đợi từ Hội nghị tháng này, là sự củng cố chính trị của Trọng và sự suy giảm thêm quyền của người lao động Việt Nam, những người đã phải trả giá đắt cho việc quản lý tài chính kém của Đảng Cộng sản cầm quyền./.   Nguồn: Thediplomat    
......

Đằng sau vụ đấu giá 9 lô đất vàng ở Thủ Thiêm

Nhà thờ Thủ Thiêm, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và một trường học của nhà dòng nằm trong số 9 lô “đất vàng” sắp được mang ra bán đấu giá lần đầu tiên tại TP.HCM. Ảnh: Khu đô thị mới Thủ Thiêm trong tương lai. Thông tin này được chính quyền thành phố đưa ra trong một cuộc họp báo ngày 2/5, sau khi xuất hiện loạt bài “đấu tố” một nhóm tôn giáo có tên “Hội Thánh Đức Chúa Trời” (hay “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ”) trên truyền thông nhà nước. Một linh mục Công giáo hoạt động về truyền thông nhận định với VOA rằng đây có thể là bước “chuẩn bị dư luận” cho việc giải tỏa các cơ sở tôn giáo sắp tới. Từ áp lực nhiều phía… Đại diện của Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm, nữ tu Đặng Thị Mỹ Hạnh, tối 2/5 cho VOA biết nhà dòng chưa hề nhận được bất cứ thông báo gì về việc bán đấu giá khu nhà hiện đang là nơi ở của hàng trăm nữ tu. “Không có một văn thư nào. Chỉ nghe người này người kia nói nên vô trang báo Tuổi Trẻ đọc thông tin thì thấy hơi lạ”, nữ tu Mỹ Hạnh nói. Khu vực Nhà thờ và nhà dòng Thủ Thiêm được xem là một di sản văn hóa giữa lòng đô thị phồn thịnh nhất Việt Nam. Các nữ tu của nhà dòng đã có mặt tại vùng đất này từ khi nơi đây vẫn còn là một khu rừng hoang. Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm được thành lập vào năm 1840 với tài sản ban đầu là căn chòi lá dựng cạnh một gốc me hiện vẫn tồn tại như một chứng tích lịch sử. Sau đó, nhà dòng dần dần phát triển và xây dựng thêm 3 khu trường học để phục vụ nhu cầu giáo dục của người dân trong khu vực. “Năm 1975, vì nhu cầu của đất nước và theo yêu cầu của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình yêu cầu nhà dòng giao trường cho nhà nước để họ dạy học. Lúc đó, nhà dòng đồng ý giao trường với mục đích giáo dục. Đến năm 2011 là hết học trò, họ lại đưa UBND, trụ sở Công an và các văn phòng của họ vào ở, nên các soeur viết văn thư yêu cầu họ trả trường lại, vì chúng tôi hiến cho mục đích giáo dục, nếu không giáo dục nữa thì phải trả cho chúng tôi. Nhưng từ năm 2011 đến nay, họ không giải quyết cho mình. Họ nói rằng cái đó đã giao cho nhà nước rồi thì thuộc về nhà nước”, Soeur Mỹ Hạnh cho biết. Một trong 3 khu nhà của Trường Tiểu học Thủ Thiêm đã bị chính quyền phá dỡ vào năm 2015 để làm đường cho dự án xây dựng đô thị mới. Tuy nhiên, những nỗ lực sau đó của chính quyền nhằm “san phẳng” khu vực này đã vấp phải sự phản kháng ôn hòa của các nữ tu và giáo dân. “Nhà dòng vẫn giữ quan điểm là ở lại, không đi đâu hết, vì mình đã ở đây trên 178 năm rồi. Tên nhà dòng là Thủ Thiêm. Mình đã ở đây, gắn bó bao nhiêu năm rồi. Tên của nhà dòng là ở đây, chẳng lẽ đi đâu rồi đổi tên khác”,Soeur Mỹ Hạnh nói. Nữ tu đại diện cho Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm nói nhà dòng vẫn đang chịu rất nhiều sức ép để buộc phải di dời, từ việc đại diện chính quyền đến mời các nữ tu đi xem những khu đất mới, hay nêu ra những “khó khăn” về cơ sở hạ tầng khi người dân xung quanh đã bị buộc phải di dời hết, đến những can thiệp trực tiếp như chặn đường vào nhà dòng, cắt điện, nước… viện lý do dành ưu tiên cho các công trình xây dựng. … đến tấm bản đồ mất tích bí ẩn… Linh mục Lê Ngọc Thanh, người phụ trách về lĩnh vực truyền thông của Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, nói với VOA rằng quyết định quy hoạch, giải tỏa nhà thờ và tu viện ở Thủ Thiêm có quá nhiều vấn đề khuất tất và cần phải được bàn thảo. “Thứ nhất, trong quy hoạch ban đầu mà Thủ tướng duyệt, không có quy hoạch nhà thờ và đất của tu viện. Nhà thờ và tu viện hoàn toàn nằm ngoài quy hoạch”, LM. Thanh nói. Tại buổi họp báo ngày 2/5, khi báo chí truy vấn về tung tích của tấm bản đồ năm 1996 của Chính phủ về quy hoạch xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc TP. HCM, Nguyễn Thanh Nhã, nói “đã ‘truy tìm’ bản đồ này từ nhiều năm nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra”, theo Zing. Lý do ông Nhã đưa ra là do cơ quan di chuyển nên không lưu trữ bản đồ. Trong khi đó, Chánh Văn phòng UBND TPHCM Võ Văn Hoan lại nói “không phải là không có [bản đồ gốc] mà chưa tìm ra, cơ quan chức năng vẫn đang tìm”, theo Tiền Phong. Và như vậy, tung tích tấm bản đồ quy hoạch gốc vẫn còn là một ẩn số. Điều “không thỏa đáng” tiếp theo, theo LM. Thanh, là việc giải tỏa không hội đủ cơ sở để giải thích cho lý do buộc các cơ sở tôn giáo phải di dời, vì dự án xây dựng khu đô thị mới chỉ đơn thuần phục vụ cho mục đích kinh tế, không liên quan gì đến an ninh, quốc phòng. Ngoài ra, “Khi khu dân cư được xây dựng xong, thì người dân cũng có nhu cầu phải có một nơi thờ tự. Vậy tại sao trên quy hoạch lại không ưu tiên cho đời sống tâm linh của người dân?”, LM. Thanh đặt thêm câu hỏi. … và ‘chuẩn bị dư luận’? Thông tin về vụ đấu giá “đất vàng” Thủ Thiêm được đưa ra sau khi truyền thông nhà nước rầm rộ đăng loạt bài “đấu tố” Hội Thánh Đức Chúa Trời với những lời lẽ nặng nề, cho rằng nhóm tôn giáo này là một “tà đạo” dựa trên luận điệu phản khoa học, “khiến cho các tín đồ mê muội, bỏ bê công ăn việc làm, gây ly tán gia đình chẳng khác gì tổ chức khủng bố IS”. Loạt bài này đã khiến không ít người dân hoang mang, thậm chí “gây căng thẳng” trong nội bộ các tôn giáo, và giữa người theo tôn giáo và không có tôn giáo, theo lời LM. Lê Ngọc Thanh. Ông cho rằng đây có thể là một bước “dọn đường dư luận” để tiến tới việc giải tỏa các cơ sở tôn giáo ở Thủ Thiêm sắp tới. LM Thanh phân tích: “Sau khi đã chuẩn bị, họ mới công bố việc đấu giá này. Tức là họ dùng dư luận kia để làm cho dân chúng cảm thấy rằng có tôn giáo là sai lầm, bậy bạ, không đứng đắn, và bây giờ nếu có giải tỏa một cơ sở tôn giáo thì cũng là hợp lý, bình thường thôi”. Quyết định giải tỏa các cơ sở tôn giáo ở khu vực “đất vàng” Thủ Thiêm đã bị chỉ trích ở cả trong nước lẫn quốc tế. Nhiều trí thức Việt Nam cho rằng chính quyền “quá tham lam” và “thiếu tầm nhìn” khi đánh đổi những di sản văn hóa, tôn giáo để đạt được lợi ích kinh tế bằng mọi giá. Dịp Tết Nguyên Đán năm ngoái, Tổng lãnh sự quán Canada tại TPHCM đặt câu hỏi trên Facebook rằng: “Bạn nghĩ có nên phá hủy một di sản còn lâu đời hơn cả Canada? Theo kế hoạch phát triển khu đô thị mới Thủ Thiêm tại Quận 2, chính quyền Sài Gòn dự định phá dỡ Tu Viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và nhà thờ Thủ Thiêm để nhường chỗ cho khu đô thị mới. Tu viện được thành lập tại Thủ Thiêm vào năm 1840, nghĩa là đã ở đó được 177 năm (trong khi Canada vừa bước sang tuổi 150 năm nay). Bạn nghĩ thế nào nếu chúng ta hòa nhập những công trình mang tính lịch sử như thế này vào các khu đô thị mới thay vì phá dỡ chúng?”. Tại cuộc họp báo ngày 2/5, lãnh đạo TPHCM yêu cầu các cơ quan chức năng phải có phương án di dời các cơ sở tôn giáo trong khu vực và thu hồi đất của Trường tiểu học Thủ Thiêm để bàn giao cho nhà đầu tư thi công. 9 lô đất, với tổng diện tích 78.000 m2, sẽ được quy hoạch thành khu trung tâm thương mại dịch vụ đa chức năng của đô thị mới Thủ Thiêm. Dự tính tổng mức đầu tư khởi điểm lên đến 27.000 tỷ đồng. Nguồn: VOA
......

43 năm đánh gục ý chí và tiêu diệt ý thức Dân tộc!

Nhà cầm quyền Cộng sản VN đang rầm rộ kỷ niệm cái gọi là “43 năm thống nhất Đất nước, giải phóng miền Nam, xây dựng cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc, kiến tạo xã hội công bằng, văn minh, dân chủ”!?! Nhưng quốc dân, quốc tế và lịch sử đều thấy đó là cuộc thống nhất đất nước bằng xương máu và súng đạn, cuộc xâm chiếm một quốc gia độc lập và có chủ quyền; đó là việc làm cho Tổ quốc ngày càng lệ thuộc Trung Cộng, đời sống nhân dân mất hết mọi tự do cơ bản, ngày càng khổ sở điêu đứng; đó là việc tạo ra một xã hội đầy dẫy bất công bóc lột, ngập tràn bạo lực dối trá, hoành hành độc tài đảng trị. Hiện tình Việt Nam ngày càng hà khắc về chính trị, thụt lùi về kinh tế, chồng chất về thuế má, hỗn loạn về xã hội, ô nhiễm về môi trường, sa sút về văn hóa, suy đồi về đạo đức, thu hẹp về đất đai và nhất là bấp bênh về an ninh quốc phòng…” Bản Lên Tiếng của hơn 40 tổ chức và nhiều cá nhân người Việt hôm 30-04-2018 đã nói như thế. Tất cả những tệ nạn và thảm trạng vừa nêu có thể nói là hậu quả của việc đánh gục ý chí chung của Dân tộc và hủy diệt ý thức của mọi thành phần trong xã hội, một âm mưu mà Đảng đã cố công thực hiện 43 năm qua và trước đó nữa tại miền Bắc, để an toàn thống trị nhân dân và tùy ý sử dụng đất nước, kể cả việc bán Tổ quốc cho ngoại bang, ngõ hầu giữ được quyền lực và quyền lợi. Đúng như một nhà văn Nga từng nói: «CS thực chất là một sự ác tinh thần» (Spiritual evil). 1- Tiêu diệt ý thức đại diện quốc dân nơi thành viên Quốc hội. Được ngồi vào cơ quan quyền lực cao nhất nước với danh nghĩa này do Đảng tuyển chọn, các thành viên ấy qua 14 khóa đã chỉ làm một công việc là «nhất trí cao, phấn khởi lớn, giơ tay đồng thuận» trước ý muốn của Đảng, của Bộ chính trị (Hiến pháp đứng sau Cương lĩnh Đảng, như Nguyễn Phú Trọng từng nói mà!). Những cuộc gặp gỡ, hỏi ý cử tri địa phương chỉ là trò mỵ dân; những cuộc chất vấn thành viên chính phủ thuần là màn trình diễn! Từ công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, hiệp ước Thành Đô năm 1991, hiệp định lãnh thổ năm 1999, hiệp định lãnh hải năm 2000 ký với Tàu, đến thỏa ước cho Tàu khai thác bauxite ở Tây Nguyên năm 2008, xây dựng Formosa Vũng Áng rồi đầu độc biển năm 2016, chưa kể vô vàn vụ việc vi phạm nhân quyền khác, Quốc hội chẳng hề đứng về phía quốc dân để tìm hiểu, chất vấn, phản biện và hành động, một để cho Bộ Chính trị mặc sức tung hoành. 2- Tiêu diệt ý thức phục vụ công chúng nơi viên chức chính quyền. Là những kẻ đã được đảng bộ trung ương hay địa phương đặt để, chẳng được nhân dân bầu chọn (bao cuộc bầu cử hội đồng nhân dân các cấp chỉ là trò hề), những viên chức chính quyền ấy hầu hết ứng xử như những ông trời con, hung thần thổ địa, hống hách khinh người, chỉ lo tích lũy của cải hơn là phục vụ quần chúng. Kiểu cách «hành là chính» để móc túi người dân làm giấy tờ; những màn «cướp cơm chim» của kẻ nghèo khổ và nạn nhân bão lụt; các cuộc cướp đất của nông dân và thị dân dưới chiêu bài phát triển kinh tế quy hoạch sản xuất; việc cấu kết với các nhóm lợi ích (công ty, tập đoàn) để xẻ thịt tài nguyên quốc gia, đem tài sản công phục vụ tầng lớp tư bản; chuyện cho Tàu Cộng thuê rừng quốc phòng, rừng phòng hộ, yếu địa quốc gia, mua hàng loạt khu vực rộng lớn, thiết lập những nhà máy gây ô nhiễm, trúng thầu xây dựng những công trình kém chất lượng với chút «tiền lại quả»… đều là những chuyện sờ sờ xảy ra trên cả nước. 3- Tiêu diệt ý thức tôn trọng và bảo vệ nhân dân nơi công an cảnh sát. Bị nhồi nhét tư tưởng «còn Đảng còn mình, làm lá chắn bảo vệ Đảng, được Đảng gầy dựng, lãnh đạo và trả lương», giới này đã hoàn toàn trở thành công cụ đàn áp nhân dân: từ những đám dân oan bị cướp đất đứng lên đòi tài sản, những nhóm công dân cất tiếng đòi dân chủ, đến những nhóm tín đồ tập hợp đòi tự do hành đạo, những tốp thợ thuyền đình công đòi lương bổng xứng đáng. Lực lượng «bảo vệ luật pháp» này cũng đang là kẻ hỗ trợ cho công tố viên trong các phiên tòa chính trị, nỗi kinh hoàng cho những ai bị bắt về đồn công an với bất cứ lý do «vi phạm» lớn nhỏ, là người thuê mướn và khen thưởng bọn côn đồ theo dõi, ngăn chận và đánh đập các chiến sĩ dân chủ. Rồi lợi dụng quyền lực được đảng dung túng cho, tướng tá công an hết buôn ma túy đến bảo kê cờ bạc, mua rẻ công sản đến mua chuộc quan chức, lập công ty để bí mật kinh doanh cho ngành mình hay cho sếp mình. 4- Tiêu diệt ý thức bảo vệ Tổ quốc nơi hàng ngũ quân đội: Ghi tâm lời thề «trung với Đảng» (thay vì trung với nước), «phấn đấu thực hiện một nước VN xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng…» (trích 10 lời thề của QĐND), coi việc «chính trị hóa/đảng hóa quân đội» là chuyện bình thường, rồi được cho tự do làm kinh tế, quân đội nhân dân nay thực sự trở thành công cụ của Đảng, chỉ lo làm giàu (nhất là hàng lãnh đạo, vốn nắm vô số tổ chức kinh tài lớn nhỏ như Ngân hàng Quân đội, công ty Viettel), khi cần thì tước đoạt công sản lẫn tư sản (như phi trường Tân Sơn Nhất, đất ruộng thôn Hoành…), quên lãng bổn phận bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trên lãnh hải, bỏ mặc ngư dân cho sự sách nhiễu, cướp bóc, tàn sát của Tàu Cộng. Hải quân, cảnh sát biển, lực lượng tuần duyên trang bị đủ thứ khí tài hiện đại nhưng chỉ bám bờ và xua dân bám biển. Các chiến hữu của mình đã tử trận trong chiến tranh biên giới, ở ngoài đảo Trường Sa, nhưng bị cấm tưởng niệm, thế mà lực lượng quân đội cũng chẳng dám lên tiếng phản đối. 5- Tiêu diệt ý thức bảo vệ luật pháp và công lý nơi viên chức tòa án. Dưới sự cầm trịch của CS, ngành tư pháp nói chung và giới viên chức tòa án nói riêng bị biến thành công cụ của đảng, theo cơ chế tam quyền phân công. Đặc biệt trong các vụ án chính trị, công an thẩm vấn, kiểm sát công tố và quan tòa xét xử hầu như luôn toa rập ăn ý với nhau, từ kết luận điều tra đến cáo trạng tội phạm và hình phạt tuyên xử. Tại những phiên tòa loại này, công tố chẳng cần xem xét bằng chứng, đối chất với luật sư biện hộ, thẩm phán thì ngắt lời bị cáo, xét xử chóng vánh cách kỳ lạ, có những «bản án bỏ túi» do trên ấn định sẵn mà thời gian gần đây hết sức bất công và nặng nề. Việc chạy án, việc hối lộ ba thành phần nói trên đều được coi như chuyện bình thường, nhất là trong các vụ án và phiên tòa hình sự. Ngoài những luật gia hay luật sư có tinh thần dân chủ (nay xuất hiện ngày càng nhiều và cũng bị đàn áp không ít), vô số luật sư vẫn sẵn sàng loại trừ các đồng nghiệp «có vấn đề» với đảng, sẵn sàng bênh vực hay ngậm miệng trước nhiều bộ luật chỉ có lợi cho đảng. 6- Tiêu diệt ý thức thương xót bệnh nhân nơi các y bác sĩ: Nền y tế VN từ lâu vẫn nổi tiếng thế giới với những bệnh viện quá tải, y sĩ thiếu khả năng, y phí tăng cao mãi, trang bị lỗi thời, vệ sinh tồi tệ; với cảnh bỏ mặc những ca cấp cứu chưa nộp tiền, đòi buộc bệnh nhân lót tay mới săn sóc chu đáo, cung cấp thuốc quá hạn hay thuốc dổm giả (vụ Công ty VN Pharma nhập 200 ngàn hộp thuốc trị ung thư); với cảnh ăn hoa hồng quá độ khiến giá dược phẩm bị đẩy lên tận trời, ưu tiên săn sóc cho đảng viên cán bộ, coi rẻ những ai dùng thẻ bảo hiểm y tế, đòi hối lộ kể cả khi chuyển viện hay đem xác về nhà, và dân nghèo vào bệnh viện chỉ có nước tử vong… Chữ «nhà thương» nay hoàn toàn vô nghĩa, vì ở đó chỉ có sự khai thác khổ đau của con người. 7- Tiêu diệt ý thức làm chứng cho sự thật và lẽ phải nơi giới tu hành: CS từng phỉ báng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân, nhưng nay lại muốn tôn giáo trở thành thuốc phiện thực sự. Và nó đang làm được điều đó với những chức sắc chỉ còn biết ý nghĩa cuộc sống và hoạt động tu hành của mình là xây dựng điện thờ nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, xuất ngoại kiếm bạc xin tiền, mà hoàn toàn dửng dưng trước cảnh sự thật bị xuyên tạc, công lý bị xem thường, đồng bào, thậm chí đồng đạo bị đàn áp, xã hội bị băng hoại, tổ quốc bị lâm nguy… Những vị này còn lý luận mình không muốn «làm chính trị» – do dị ứng với từ này – chỉ lên tiếng về các nguyên tắc luân lý chung chung (an toàn hơn) chứ không can thiệp vào những trường hợp cụ thể (dễ gặp nguy hiểm). Họ sẵn sàng đặt tượng tên tội đồ dân tộc, từng bách hại tôn giáo bên cạnh Đức Phật trên điện thờ, hay lấy tên của y làm danh hiệu cho giáo phận… Thậm chí có vị thỏa hiệp hay làm tay sai cho chế độ. 8- Tiêu diệt ý thức lương sư hưng quốc nơi các cô thầy: Nền giáo dục CS mang tính chính trị, không nhắm đào tạo những công dân tự do cho nước nhưng là nhào nặn những thần dân nô lệ cho đảng. Chính vì thế, Đảng đã quyết tâm quản lý chặt chẽ giới giáo chức, huấn luyện ra những thầy cô «hồng hơn chuyên», buộc hiệu trưởng mọi loại trường (trừ một số trường mẫu giáo của các giáo hội) phải là đảng viên để nắm chắc đường lối chủ trương của đảng, để theo dõi tư tưởng lập trường của giáo viên và học sinh. Thành ra nền giáo dục VN ngày càng sa sút với vô số giáo viên mua bằng cấp, thiếu tư cách, thiếu khả năng, với vô vàn vụ việc thầy bạo hành trò, đổi tình lấy điểm, bắt nữ sinh làm điếm, để công an hành hạ học trò, cấm sinh viên lên tiếng đòi dân chủ hay biểu tình chống xâm lược… Từ đó, sự ngây thơ, tính trong sáng, đức chân thật, lòng yêu nước nơi học sinh cũng tiêu tùng. Tệ nạn học đường ngày càng gia tăng với vụ giáo viên bị bắt quỳ, học sinh đánh lộn nhau, hành hung thầy dạy, học hành kiểu gian dối hay kiểu đối phó, mua điểm… 9- Tiêu diệt ý thức tôn trọng sự thật nơi giới truyền thông. Vì chủ trương dùng bạo lực và gian dối để cai trị, CS quản lý toàn bộ nền truyền thông, với Luật báo chí kiểm soát chặt chẽ từ nhân sự đủ cấp đến phương tiện đủ loại, với Ban tuyên giáo trung ương nắm đầu mọi tổng biên tập và biên tập, với những đội quân chiến đấu trên mạng hàng chục ngàn người thuộc bộ Công an và bộ Quốc phòng, với đám lính đánh thuê mang tên dư luận viên lên tới cả trăm ngàn đứa… Tất cả cố gắng đem nguyên tắc «nghe theo đảng, nói theo đài» vào trong quần chúng, xã hội, sẵn sàng dối trá vì tiền, chà đạp tiếng lương tâm vì lợi, để tô hồng cho đảng, để đổ tội cho dân, để vu khống thóa mạ những ai cổ vũ cho công lý và sự thật. Việc tiêu diệt ý thức của mọi thành phần có ảnh hưởng xã hội nói trên đều chỉ nhắm mục tiêu: đánh gục ý chí dân tộc, để không người Việt nào còn đủ sự sáng suốt của lý trí, sự vững mạnh của khí phách, sự nhiệt thành của trái tim ngõ hầu liên kết với nhau mà chống lại bạo lực và gian trá của CS, mà khôi phục nhân quyền và dân chủ cho Đồng bào, mà bảo vệ tự do và độc lập cho Đất nước. «Mọi lợi quyền phải qua tay mình», đó là câu nhật tụng, lẽ sống còn của người CS, dù phải bảo toàn lợi lộc và quyền lực đó bằng việc tàn phá đất nước và dâng nộp tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, đang ngày đêm nuôi mộng Hán hóa Việt Nam. Ban Biên Tập Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận
......

Biển Đông của… Canada?

Phàm đã là người Việt thì câu hỏi “Biển Đông của… Canada ?” rõ ràng là ngớ ngẩn! Thế nhưng dẫu có bị mắng là… thậm ngu thì cũng khó ngậm hột thị! Nếu biển Đông không phải của Canada thì hà cớ gì Thượng viện Canada lại lên án chuỗi hành động vừa qua của Trung Quốc tại biển Đông, xác định bản chất chuỗi hành động đó là “thù địch” và sẽ gây nguy hại cho nỗ lực cải thiện quan hệ giữa Canada với Trung Quốc? Nếu biển Đông không phải của Canada thì hà cớ gì Thượng viện Canada lại tranh cãi kịch liệt tới mức, dẫu chiếm đa số song khi biểu quyết thông qua khuyến nghị lên án Trung Quốc, phe tán thành khuyến nghị này tại Thượng viện Canada chỉ có 43 phiếu, phe phản đối kiếm được 28 phiếu, có tới sáu Thượng nghị sĩ vì phân vân giữa cần lên án với cần bảo vệ quyền lợi của Canada tại châu Á thành ra không bỏ phiếu? Photo: Nghị sĩ thượng viện Canada Ngô Thanh Hải Ai cũng biết thị trường Trung Quốc hấp dẫn, hứa hẹn nhiều cơ hội, kinh tế – thương mại của một quốc gia sẽ phát triển nếu giữ được quan hệ tốt đẹp với chính phủ Trung Quốc. Nếu biển Đông không phải của Canada, hà cớ gì Thương viện Canada lại dùng khuyến nghị vừa kể chọc cho Trung Quốc nổi điên, nhảy dựng lên, chỉ mặt Thượng viện Canada, cáo buộc Thượng viện của xứ sở này “vô trách nhiệm” và “quấy rối”? *** Có cả trăm triệu người khẳng định biển Đông của người Việt, cho dù hết thế hệ này đến thế khác của người Việt đã dùng mồ hôi, nước mắt, thẫm chí cả máu, thay nhau minh định điều đó nhưng biển Đông có phải là của người Việt hay không vẫn cứ phải xem lại! Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao hết thập niên này đến thập niên khác, ngư dân Việt bị rượt, bị đuổi khỏi các “ngư trường truyền thống” bằng đủ mọi cách, húc cho hư tàu, đâm cho chìm tàu, tịch thu ngư cụ, hải sản – thành quả lao động, bị đấm đá, bị bắn… mà chỉ có thể kêu Trời? Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao năm 1958 lại có những người Việt soạn – trình cho Trung Quốc một công hàm và Trung Quốc dùng công hàm ấy như một bằng chứng, chứng minh Việt Nam đã phủ nhận chủ quyền của chính mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao năm 1974, Trung Quốc cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, trong lúc một bên cố giữ bằng máu thì một bên bảo nhau im lặng? Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao năm 1988, ngay sau khi Trung Quốc vừa giết 64 người lính Việt, vừa cưỡng đoạt xong bảy bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa (Châu Viên – Cuarteron, Chữ Thập – Fiery Cross, Ga Ven – Gaven, Gạc Ma – Johnson, Tư Nghĩa – Hughes, Vành Khăn – Mischief, Xu Bi – Subi), lúc đến thăm quần đảo Trường Sa nhân dịp kỷ niệm 33 năm Ngày Truyền thống của Quân chủng Hải quân (07/05/1955 – 07/05/1988), ông Lê Đức Anh – thời điểm ấy là Bộ trưởng Quốc phòng – vẫn khẳng định “nhân dân Việt Nam biết ơn sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Trung Quốc”, dù “nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” nhưng sẽ “nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước”? Nếu biển Đông của người Việt, chuyện Trung Quốc bồi đắp bảy bãi đá ngầm đã chiếm của Việt Nam thành chuỗi căn cứ quân sự nhằm hiện thực hóa dã tâm mà ai cũng thấy là độc chiếm biển Đông thì tại sao đã xây dựng Bảo tàng Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa tại Lý Sơn – Quảng Ngãi như một cách trưng bày dấu tích về lịch sử chủ quyền của người Việt trên biển Đông, lại còn dẫn những “lời vàng, ý ngọc” của ông Lê Đức Anh về ơn nghĩa Trung Quốc và mối tình sâu nặng giữa Việt với Trung? Nếu biển Đông của người Việt, tại sao bày tỏ ý chí “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam” bị xem là “phản động”, bị trừng trị một cách nghiêm khắc như một cách răn đe đám đông? Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao ngày 19 tháng trước, tàu Trung Quốc vừa đâm cảnh cáo tàu đánh cá mang số hiệu QNg 90559 của ngư dân Việt Nam để đuổi ra khỏi vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa vì đó là “vùng biển thuộc chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, ngày 22 tháng trước có thêm tàu đánh cá mang số hiệu QNa 90822 của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc tịch thu toàn bộ ngư cụ, bị người của Trung Quốc phá hủy nhiều thiết bị hỗ trợ hải hành… mà ngày 1 tháng này, hết Thủ tướng Việt Nam hứa với Uỷ viên Quốc vụ viện kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc rằng sẽ hết sức “duy trì sự ổn định và kiểm soát tốt bất đồng ở biển Đông”, tới Ngoại trưởng Việt Nam nhẫn nại đề nghị “kiên trì giải quyết các tranh chấp ở biển Đông bằng biện pháp hòa bình, thúc đẩy tiến triển trong đàm phán cấp chính phủ” để “phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc”? Tại sao chỉ trong vòng ba tuần sau khi Thủ tướng hứa, Ngoại trưởng đề nghị, tàu Trung Quốc tiếp tục tịch thu toàn bộ ngư cụ, hải sản của tàu đánh cá mang số hiệu QNg 90332, đâm chìm tàu đánh cá mang số hiệu QNg 90046 của ngư dân Việt Nam mà chính phủ vẫn làm thinh, Quốc hội vẫn không nói tiếng nào? Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao trước nay, chỉ có Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối các lệnh cấm đánh cá ở biển Đông? Nếu biển Đông của người Việt thì tại sao những hành động của Trung Quốc: Cài đặt các thiết bị tác chiến điện tử gây nhiễu sóng, tổ chức thi công cả dưới nước lẫn trên các hòn đảo, bãi đá ngầm ở khu vực Hoàng Sa, Trường Sa, tổ chức du lịch, đua thuyền… rõ ràng là “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam” mà các Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam vẫn chỉ “đề nghị Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này”? *** Thượng viện Canada có 105 Thượng Nghị sĩ. Ngay sau khi Thượng viện Canada công bố khuyến nghị đã kể, Đại sứ quán Trung Quốc tại Ottawa đã phát hành một thông cáo, xác định Thượng Nghị sĩ Ngô Thanh Hải chính là “tác nhân gây rối”. Ông Hải – 71 tuổi – đã bỏ ra hai năm để tác động các đồng liêu nhất trí trong việc lên án Trung Quốc hành xử càn rỡ ở biển Đông. Ông Hải là Thượng Nghị sĩ duy nhất trong Thượng viện Canada có “dây mơ, rễ má” với biển Đông vì… gốc gác của ông. Tùy khóa (nhiệm kỳ) nhưng lúc nào Quốc hội Việt Nam cũng có hơn 400 đại biểu. Nhiệm kỳ hiện tại có 496 đại biểu. Ngoài câu hỏi ngớ ngẩn: “Biển Đông của… Canada ?”, xét về tương quan Việt Nam – biển Đông, đem so những gì ông Hải đã làm ở Thượng viện Canada với hoạt động của Quốc hội Việt Nam trong vài thập niên gần đây, sẽ có thêm một câu hỏi ngớ ngẩn hơn nữa: Quốc hội Việt Nam có người Việt nào không? Nếu Quốc hội Việt Nam có người Việt, tại sao chưa bao giờ Quốc hội Việt Nam phát hành một nghị quyết lên án Trung Quốc càn rỡ ở biển Đông như Thượng viện Canada? Xét về bản chất, giá trị một nghị quyết của Quốc hội vượt xa, hơn hẳn tuyên bố của Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, bởi Quốc hội thể hiện ý chí của cả một dân tộc. Vậy mà ngay cả vào thời điểm sôi bỏng nhất – Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào thăm dò, khai thác dầu khí ở khu vực quần đảo Hoàng Sa – Quốc hội Việt Nam vẫn không phát hành nghị quyết nào. Chỉ có ông Nguyễn Sinh Hùng, lúc đó là Chủ tịch Quốc hội lên án Trung Quốc lúc… phát biểu bế mạc Kỳ họp thứ 7 của Quốc hội Khóa 13 hôm 24 tháng 6 năm 2014! Nguồn: VOA
......

43 năm “ăn mày dĩ vãng”

Một trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất viết sau 1975 của tác giả Chu Lai, một cựu sỹ quan của phía “bên thắng cuộc”, có cái tên rất lạ: Ăn mày dĩ vãng. Nội dung câu chuyện xoay quanh nhân vật Hai Hùng, một biệt động quân Cộng sản, đi tìm lại ký ức, tìm lại người yêu, những người đồng đội cũ. Anh ta không còn gì sau cuộc chiến, ngoài “mảnh quá khứ đập phập phồng trong lồng ngực”. Những người lính như anh, hướng về dĩ vãng, cầu mong cho dĩ vãng ấy “trong lành, chân thật” như một thứ cứu cánh cho hiện thực cay đắng, bẽ bàng. Những “người hùng” năm xưa, trở thành kẻ nát rượu, ngây dại hoặc tàn phế như Hai Hùng, lạc lõng giữa dòng đời, họ “ăn mày dĩ vãng” để tiếp tục “sống không bằng chết”. Dĩ vãng vừa là sự hành hạ ghê gớm,vừa là lý do để tồn tại, nguồn an ủi từ ánh hào quang rọi chiếu từ quá khứ mộng mị, lẫn lộn giữa ký ức và thực tại, giữa hoang tưởng và lý tưởng. Tuy vậy, có thể, anh ta còn may mắn hơn nhiều đồng đội cũ đã tan thây trong cuộc chiến một cách vô danh, hay thảm hại hơn, trở thành những “dân oan” lăn lóc ở những vỉa hè Hà Nội, kêu khóc đòi lại nhà cửa bị cưỡng chiếm bởi chính chế độ mà anh đổ xương máu và tuổi trẻ dựng xây lên, sau nhiều thập kỷ hòa bình. Tôi không định viết về tác phẩm của Chu Lai – một tác phẩm mà theo tôi đã thành công và gây nhiều ấn tượng cho những người ở “bên thắng cuộc”. Tôi muốn viết về cái ngày 30.04 của dân tộc Việt Nam, về những thứ “vinh quang”, “chiến thắng chấn động địa cầu”, “lừng lẫy năm châu” mà toàn bộ hệ thống tuyên truyền, giáo dục, thông tin… dưới sự “định hướng xã hội chủ nghĩa” của đảng cộng sản, đã “ra rả” suốt 43 năm qua như một lý lẽ cho sự “chính danh” của thể chế. Thế hệ sinh ra sau chiến tranh không có những trải nghiệm kinh hoàng và hy sinh xương máu như những thế hệ cha ông, nhưng Benjamin Franklin từng nói “Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, mà hóa đơn của nó sẽ đến sau đó ” – thế hệ của chúng tôi là thế hệ trả những “hóa đơn” của cuộc chiến hôm qua. Những món nợ mà không biết đến bao giờ trả hết. Chúng tôi muốn tìm hiểu về những thứ “vinh quang” của “dĩ vãng” có thực sự hay không? Cái “hóa đơn” mà nhiều thế hệ tiếp nối của đất nước này phải trả, đổi lấy những gì mà dân tộc này đang nhận được có xứng đáng hay không? Cuộc chiến đã lùi xa 43 năm, trong thời đại internet, những thế hệ sau muốn thực sự tìm hiểu, sẽ có rất nhiều thông tin trung thực chứ không phải thứ tuyên truyền dối trá như thế hệ của chúng tôi phải tiếp nhận từ hệ thống giáo dục nhồi sọ và tuyên truyền “tẩy não” của nhà nước Cộng sản Việt Nam. Năm 2017, “The Vietnam War” của Ken Burns và Lynn Novick được phát hành sau 10 năm công phu thực hiện, tổng hợp và sưu tầm kho dữ kiện khổng lồ từ phía Mỹ và trên khắp thế giới, cung cấp cho chúng ta những hình ảnh, chứng cứ, sự kiện, dữ liệu… mà cho đến nay dư luận nói chung chưa hài lòng về độ trung thực của nó. Dù rằng, vẫn có những đánh giá nhà sản xuất có nhiều khuynh hướng “thiên tả”; nhưng chừng đó dữ liệu, đủ cho thế hệ sau biết về cuộc đối đầu tàn khốc giữa hai nửa thế giới. Một bên là Quốc tế cộng sản với hai “đế quốc Đỏ” là Trung Quốc và Liên Xô, một bên là Mỹ và đồng minh cố gắng chặn bước tiến của Cộng sản chủ nghĩa đang “nhuốm đỏ” Châu Á. Lịch sử đã có những khúc quanh nghiệt ngã nhưng chủ đích “dù phải đốt cháy dãy Trường sơn cũng phải dành được Độc lập” và “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” của những lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt, đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh ủy nhiệm tàn khốc nhất trong lịch sử loài người. “Núi xương, sông máu” đã đổ xuống ở cả hai miền Nam Bắc. Tham vọng của người Cộng sản được che giấu bằng lý tưởng “Độc Lập dân tộc”, “giải phóng” miền Nam đang bị “Mỹ Ngụy dày xéo, áp bức”. Những lớp thanh niên miền Bắc ưu tú, trong sáng, tin vào những “lý tưởng” đó như Nguyễn Văn Thạc trong “Mãi mãi tuổi hai mươi” hay bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Những thanh niên đó đã bị “ném” vào guồng máy chém giết đồng loại có cùng chủng tộc, thậm chí có thể cùng huyết thống trong một gia đình hay dòng tộc ở phía bên kia chiến tuyến với một lòng thù hận được giáo dục từ nhỏ và một niềm tin ngây ngô về thứ “lý tưởng kách mạng”. Với dép râu, nón cối và súng AK47 của Trung Cộng, tên lửa, xe tăng, đại pháo của Liên Xô, hàng triệu người lính Bắc Việt băng qua vĩ tuyến 17 để “giải phóng” miền Nam. Để rồi đến cái ngày 30.04.1975, những thanh niên đó (nếu còn sống) ngỡ ngàng đứng trước Dinh Độc Lập và thủ đô phồn hoa, tráng lệ của VNCH. Những người trí thức phản tỉnh như Dương Thu Hương đã quì xuống đường và “khóc như cha chết” vì hiểu rằng, tất cả là một sự lừa dối khủng khiếp. Cả một dân tộc đã bị phỉnh lừa, nhân danh dưới những lý tưởng đẹp đẽ, là những tham vọng đê hèn như câu nói để đời của Đỗ Mười – TBT đảng CSVN đã lột tả hết bản chất của cuộc chiến hôm qua: “Giải phóng miền Nam chúng ta có quyền tịch thu tài sản trưng dụng nhà cửa, hãng – xưởng, ruộng đất chúng nó [ám chỉ người dân miền Nam], xe chúng nó ta đi, vợ chúng ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày đi kinh tế mới và nơi rừng sâu nước độc, chúng nó sẽ chết lần mòn”. Rất nhanh chóng, những đoàn quân “giải phóng” mới hôm qua gương cờ “chính nghĩa kách mạng”, thì sau ngày 30.4.1975, đã biến thành những đoàn quân thảo khấu thực sự. Lính tráng thì thu nhặt từng chiếc đồng hồ, cái đài cassette, chiếc cub, cán bộ cấp cao hơn thì dành nhau những tài sản lớn hơn như xe hơi, biệt thự, nhà phố lớn… Người CS đã vơ vét, cướp đoạt sạch sẽ tài sản của một quốc gia giàu có bậc nhất Châu Á lúc đó, để trả nợ chiến phí và mua bo bo để ăn. Việt Nam trở thành nhà tù khổng lồ sau cuộc chiến chấm dứt. Những nhà tủ nhỏ để tù đày hơn 1 triệu người lính VNCH và âm thầm giết hại thêm 164,000 người trong hơn một thập kỷ sau đó. Nhà tù lớn hơn để giam giữ, kiểm soát cả một đất nước dưới gông ách côn an trị, côn đồ trị, đẩy quốc gia vào những cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội và nhân đạo kinh hoàng. Cuộc vượt biển của 1,5 triệu người dân miền Nam để kiếm tìm Tự do và sự sống trong nỗ lực sinh tồn cuối cùng. Hơn 200.000 người vùi thân nơi lòng đại dương, bị cướp biển giết chết hoặc bị chính những con tàu biên phòng của CSVN đâm chìm sau khi đã thu tiền để “tổ chức” đám tang tập thể cho họ dưới đáy mồ đại dương…“Thuyền nhân” là ký ức đau thương của những cộng đồng người Việt hải ngoại – những người bị thể chế CSVN gọi là “bọn phản động”, “lũ ba que đu càng” bán nước… hôm qua, giờ đây, được Hà Nội “trìu mến” với tên gọi “khúc ruột ngàn dặm” là “máu thịt của máu thịt Việt Nam” khi mỗi năm đem về hơn 10 tỷ USD để xây dựng quê hương. Sau ngày 30.4.1975 nhiều thập kỷ, đất nước tuy thống nhất về mặt địa lý nhưng chưa bao giờ, lòng người lại ly tán và chia rẽ như bây giờ. Đó không phải là do chiến tranh mà do sự cai trị phân biệt, chế độ hà khắc, tham tàn của người CS. Tất cả những tuyên truyền dối trá, tất cả sự hủy hoại xã hội bởi sự hận thù, ngu xuẩn của người cộng sản cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hề dừng lại. Người cộng sản kết thúc cuộc chiến hôm qua bằng một cuộc chiến khác. Những người CS nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Tất cả tiếng nói phản biện, những đòi hỏi về Dân chủ, Tự do ngôn luận, Minh bạch, Nhân quyền, đều là “thế lực phản động”. Thể chế sinh ra từ thù hận và cướp bóc này giống như một con quỉ dracula luôn cần máu tươi để duy trì sự tồn tại “muôn năm” của bản thân. Thật trớ trêu, khi triệu máu xương đã đổ xuống cho những lý tưởng “Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc” nhưng hiện thực là gì? Một dân tộc bị phụ thuộc, dân quyền mất Tự do và Hạnh phúc với đại đa số người dân chỉ là bến bờ ảo vọng. 43 năm qua, thành tựu của người cộng sản đã biến một quốc gia “rừng vàng biển bạc” thành “rừng tan, biển chết”. Một xã hội “có thể” nhiều hơn về vật chất, nhưng tha hóa tận gốc rễ về chính trị, văn hóa, giáo dục… một xã hội không đức tin và không cội nguồn. Đại đa số người dân lao động, với thu nhập bình quân chỉ bằng 1/10 so với mặt bằng thu nhập của khu vực, phải chịu đựng một chế độ thuế phí kinh hoàng, sống trong một xã hội thường trực với mọi rủi ro, từ tai nạn giao thông, lao động, bệnh tật, bị đầu độc bởi ô nhiễm môi trường, bởi thực phẩm bẩn, dược phẩm giả, bị nhũng nhiễu bởi mọi tầng lớp và lực lượng “công bộc”. Một xã hội mà những đứa trẻ sinh ra đã biết nói dối và không biết nói lời xin lỗi hay cảm ơn. 90 triệu người dân hôm nay thành con nợ của thể chế và ngoại bang. Những “tấm hóa đơn” mỗi ngày một dài thêm và không biết bao giờ mới có thể trả hết? Ngày 30.04 hàng năm, ngày mà “triệu người vui, triệu người buồn” như lời ông Võ Văn Kiệt, người cộng sản lại ca hát, tung hô, kỷ niệm “chiến thắng” trong cuộc nồi da xáo thịt tàn khốc, để vinh danh điều gì? “Có hai cách để chinh phục và nô dịch một quốc gia: Một cách bằng thanh gươm và cách thứ hai bằng nợ nần” (John Adams) – bằng cuộc chiến của 43 năm trước, người cộng sản đã đem cả hai điều tồi tệ đó cho dân tộc và đất nước này. Vinh quang nào xây từ xác đồng bào của mình? Chẳng có gì đáng tự hào về cuộc chiến ngu xuẩn, đẫm máu đó cả và vì vậy đừng tiếp tục “ăn mày dĩ vãng” thêm nữa. Tân Phong, 29.04.2018 http://viettan.org/43-nam-an-may-di%cc%83-va%cc%83ng/
......

Hòa giải Nam và Bắc Hàn ló dạng?

Cuộc họp Thượng Đỉnh giữa hai lãnh đạo Bắc và Nam Hàn diễn ra từ sáng đến chiều ngày 27 tháng 4 vừa qua tại Trung Tâm Hòa Bình, Làng Bàn Môn Điếm phía bên Nam Hàn không phải là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai bên mà đây là cuộc gặp lần thứ ba. Lãnh tụ Kim Chính Ân (Bắc Hàn) và Tổng Thống Văn Tại Dần (Nam Hàn) bắt tay nhau ngay tại điểm phân ranh Nam – Bắc tại Bàn Môn Điếm. Ảnh: The Times   Hai lần trước diễn ra giữa lãnh tụ Kim Chính Nhật (Cha của Kim Chính Ân) với Tổng thống Kim Đại Trung (Kim Dae Jung) vào năm 2000 và với Tổng Thống Lỗ Thái Ngu (Roh Moo Hyun) vào năm 2007. Cả hai diễn ra ở thủ đô Bình Nhưỡng, Bắc Hàn, nhưng không mang lại dấu ấn gì đáng kể ngoài việc cho phép thân nhân hai bên viếng thăm nhau.     Cuộc gặp gỡ lần thứ ba vào ngày 27 tháng 4 vừa qua đã thu hút sự chú ý của thế giới nói chung và đặc biệt đối với dư luận Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ vì là những quốc gia quan tâm về việc gia tăng thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn mang tính đe dọa an ninh khu vực trong hai năm vừa qua. Có hai lý do thu hút sự chú ý của dư luận. Thứ nhất là sự kiện lãnh tụ Kim Chính Ân đột ngột chấp nhận việc gặp gỡ một phái đoàn Nam Hàn vào tháng 3 năm 2018, để bàn thảo về cuộc đối thoại hầu chấm dứt chiến tranh giữa hai phía kéo dài từ năm 1953 cho đến nay, mà ngay trước đó vẫn còn giọng điệu quá khích. Thứ hai là việc Kim Chính Ân đưa ra đề nghị gặp gỡ Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump và sẵn sàng ngưng mọi kế hoạch thử nghiệm vũ khí hạt nhân (nhưng không nói đến từ bỏ vũ khí hạt nhân, tức denuclearization), trong lúc Bắc Hàn đã cho thấy có nhiều tiến bộ trong việc thử nghiệm phóng các đầu đạn nguyên tử. Lãnh tụ Kim Chính Ân và Tổng thống Văn Tại Dần bày tỏ đoàn kết sau khi công bố bản Tuyên Bố Chung tại Trung Tâm Hòa Bình, nơi tổ chức Hội Nghị Thượng Đỉnh 27/4/2018. Ảnh: Reuters Vì thế mà dư luận nói chung mang hai tâm trạng: vừa hy vọng một sự đột biến cho tình hình bán đảo Triều Tiên, vừa tỏ ra dè dặt về đề nghị ngưng các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của lãnh tụ Kim Chính Ân, khi chính vũ khí này là sức mạnh duy nhất cho Bắc Hàn mặc cả với Nam Hàn và Hoa Kỳ. Kết thúc Hội Nghị Thượng Đỉnh hai phía đã công bố bản văn, gọi là “Tuyên bố Bàn Môn Điếm về Hòa bình, Thịnh vượng và Thống nhất trên bán đảo Triều Tiên.” Tuyên bố chung có ba nội dung chính: 1/ Đề cao vấn đề hòa giải dân tộc, để hai phía cùng góp phần xây dựng thịnh vượng chung và thống nhất đất nước bằng nguyên tắc tự quyết của dân tộc. Cải thiện quan hệ liên Triều nhằm đáp ứng khao khát của toàn dân tộc và sự cấp thiết của thời đại, khiến cho mối quan hệ này không thể tiếp tục trì trệ hơn nữa. 2/ Nam và Bắc Triều Tiên sẽ cùng nỗ lực giảm căng thẳng quân sự và loại trừ nguy cơ chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên. Cụ thể là hai phía chấm dứt mọi hành động thù địch trên bộ, trên không và trên biển – là những nguyên nhân gây căng thẳng quân sự và dẫn đến xung đột. Đồng thời hai phía chấm dứt phát thanh tuyên truyền, rải truyền đơn tại khu vực dọc theo Đường Phân giới Quân sự, bắt đầu từ ngày 1/5. 3/ Nam và Bắc Triều Tiên sẽ tích cực hợp tác để thiết lập một nền hòa bình lâu dài và bền vững trên bán đảo Triều Tiên. Nam và Bắc Triều Tiên xác nhận mục tiêu chung là phi hạt nhân hóa hoàn toàn, tiến tới một bán đảo Triều Tiên không có hạt nhân. Nếu so với nội dung hai Hội Nghị Thượng Đỉnh Nam và Bắc Hàn trước đây, thì những cam kết nêu ra trong Tuyên Bố Chung lần này có nhiều điều tích cực hơn như: hai phía chấm dứt các hành động thù địch trên bộ, trên không, trên biển và nhất là ngưng phát thanh, rải truyền đơn tố cáo nhau kể từ ngày 1 tháng 5. Ngoài ra, hai phía cam kết sẽ đánh dấu 65 năm ngày đình chiến vào ngày 27 tháng 7 năm 2018 bằng một cuộc hội đàm ba bên Nam ‒ Bắc Hàn và Hoa Kỳ, hoặc bốn bên ‒ có thêm Trung Quốc, để đi đến việc tuyên bố chấm dứt chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, mà từ năm 1953 cho đến nay hai phía vẫn tiếp tục ở trong tình trạng chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Do đó nếu dựa vào hai điểm tích cực nói trên, triển vọng chấm dứt “thù địch” giữa Nam và Bắc Hàn để mang lại sự hòa giải dân tộc dễ dàng hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên điểm then chốt nhất mà dư luận quan tâm là lãnh tụ Kim Chính Ân đã không đề cập gì đến việc chấm dứt vũ khí hạt nhân như đã nói. Nhóm từ “tiến đến phi hạt nhân hóa hoàn toàn” ghi trong bản Tuyên Bố Chung vẫn cho thấy là cam kết của Bắc Triều Tiên còn rất mơ hồ và có thể bị Bắc Hàn lật lọng như đã từng xảy ra trong quá khứ. Đây là vấn đề sẽ tiếp tục được chú ý trong Hội Nghị Thượng Đỉnh giữa lãnh tụ Kim Chính Ân và Tổng thống Donald Trump vào tháng 5 hay tháng 6 tới đây. Lý do dễ hiểu là chủ đích mà ông Trump đã đưa ra chính là đòi hỏi Bắc Hàn phải ngưng toàn bộ thử nghiệm và chế tạo vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Tóm lại, Hội Nghị Thượng Đỉnh Nam và Bắc Hàn vào ngày 27 tháng 4 vừa qua mới chỉ khởi sự chặng đường đầu tiên chấm dứt sự thù địch sau 65 năm đình chiến để bước vào thời kỳ hòa giải dân tộc. Còn một chặng đường nữa khá gay go mới tiến đến hòa bình và thống nhất bán đảo Triều Tiên là lãnh tụ Kim Chính Ân phải cam kết từ bỏ vũ khí hạt nhân trong những Hội Nghị Thượng Đỉnh sắp tới. Chặng đường này có đạt được hay không còn tùy vào 2 yếu tố chính: *Lãnh tụ Kim Chính Ân có thật lòng muốn thay đổi để mở ra một trang sử mới cho dân tộc hay không khi ông ta đang là người đã “lèo lái” các diễn biến hiện nay, khởi sự bằng những động thái gây hấn và đe dọa hòa bình qua việc gia tăng thử nghiệm hạt nhân. Phải chăng chính sự trừng phạt kinh tế của thế giới khiến Kim Chính Ân phải “tạm” hòa hoãn để mua thời gian, nhưng vẫn ẩn tàng đâu đó một âm mưu nham hiểm? Hay đã thỏa mãn tính tự cao, tự đại sau khi đã được Nam Hàn và Trung Quốc “năn nỉ”, và nghĩ là đã “dọa” Mỹ/Nhật đủ rồi? *Tổng thống và chính quyền Mỹ hiện nay liệu có đủ bình tĩnh, khôn ngoan và mềm dẻo để lèo lái các diễn biến theo hướng có lợi nhất cho hòa bình và ổn định hay không? Liệu chủ trương từ bỏ Hiệp Ước Cấm Phổ biến Vũ khí Hạt Nhân với Iran (hạn chót vào ngày 12/5/2018) của ông Trump có làm cho việc thương lượng một hiệp ước tương tự với Bắc Hàn trở nên khó khăn hơn hay không? Tất cả vẫn còn là ẩn số, khiến thế giới chào đón cái bắt tay lịch sử giữa hai lãnh tụ Nam-Bắc Hàn một cách dè chừng. Người dân tại các quốc gia Đông Á tạm thở phào vì thoát đe dọa vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn phập phồng chờ đợi những diễn biến bất ngờ liên quan tới bán đảo Triều Tiên trong thời gian tới. http://viettan.org/hoa-giai-nam-va-bac-han-lo-dang/amp/
......

Đốt lò ở Đà Nẵng

Để chuẩn bị Hội nghị Trung ương 7 khóa 12 dự trù diễn ra trong tháng 5/2018 cho thật xôm tụ, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mở tiếp mặt trận Đà Nẵng và chuẩn bị củi cho mặt trận Sài Gòn. Hai cựu chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Trần Văn Minh (trái) và Văn Hữu Chiến (phải) vừa bị Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố bị can và bắt tạm giam hôm 17/4/2018 trong vụ án Vũ "Nhôm" (giữa). Ảnh: Baohaiduong.vn Hội nghị Trung ương 7 cũng là hội nghị giữa nhiệm kỳ mà tầm quan trọng đối với ông Trọng không thể chối cãi. Lần này, trước 200 ủy viên trung ương đảng là dịp cho ông Trọng thi thố tài năng để được mọi người tiếp tục tín nhiệm trong chiếc ghế tổng bí thư đến hết nhiệm kỳ. Thay vì phải ra đi sau 2 năm như một “giải pháp tình thế” lúc lật đổ Nguyễn Tấn Dũng như đã hứa trong đại hội 12, giờ đây ông Trọng âm thầm củng cố quyền hành, ra sức dựng lò đốt củi, dùng chiến dịch chống tham nhũng tạo uy tín. Đồng thời ông cũng không quên đẩy lùi vào bóng tối những nhân vật có thể tranh quyền với ông như Trần Đại Quang và Đinh Thế Huynh. Trong những ngày qua, dù thường được gọi là Trọng Lú nhưng lần này ông Trọng Lú lại “chơi đẹp” và tỏ ra quyết liệt hơn bao giờ hết. Cùng một lúc ông Trọng ra lệnh truy tố và bắt giam 7 nhân vật cao cấp trong số đó nổi bật nhất là Phan Hữu Tuấn nguyên Trung tướng Tổng cục phó Tổng cục 5 (Tình báo) và 2 cựu chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Trần Văn Minh và Văn Hữu Chiến. Tất cả những người này đều có dính líu đến nhân vật đã chết Nguyễn Bá Thanh trong thời gian ông này nắm quyền sinh sát ở Đà Nẵng. Điều này có thể cắt nghĩa tại sao trong một thời gian dài dưới danh nghĩa “kinh tài và phát triển mạng lưới tình báo” cho Tổng cục 5, Thượng tá Phan Văn Anh Vũ có thể dễ dàng tóm thu nhà đất ở những khu vực đắc địa nhất Đà Nẵng. Nói cách khác, Vũ “Nhôm” chỉ là “hình nộm” hay là con “chốt thí” của các thế lực Thành Phố và Tình báo công an cấu kết để hợp thực hóa những tài sản quốc gia qua các dạng hợp đồng mua bán và chuyển nhượng khống… theo “đúng quy trình”. Ít nhất có 9 dự án, 31 nhà và đất công đã được 2 cựu chủ tịch Đà Nẵng ký quyết định bán cho Vũ “Nhôm” với giá dưới giá thị trường nhiều lần. Cuộc buôn bán này bên ngoài hoàn toàn hợp pháp nhưng cán bộ cộng sản “trong nghề” cũng như người dân thừa biết đó chỉ là trò trao đổi phi pháp của đám lãnh đạo gian manh. Dĩ nhiên một phần “lại quả” không nhỏ đã chạy thẳng vào túi các quan tham Đà Nẵng. Vũ “Nhôm” đã bị tóm từ Singapore về và cuộc điều tra dẫn đến những cuộc bắt giữ gây xôn xao dư luận gần đây. Nhưng nó không làm người ta quá ngạc nhiên, vì chuyện phải đến đã đến. Đây có thể gọi là vụ “đại án” liên quan đến đến hai đơn vị lớn là TP Đà Nẵng trực thuộc trung ương và Tổng cục 5 của Bộ Công An, một thời là nơi bất khả xâm phạm lấy danh nghĩa “an ninh quốc gia” làm bức màn che cho hoạt động kinh doanh phi pháp. Vụ án này chắc chắn sẽ ly kỳ hơn vụ án Đinh La Thăng vì nó không chỉ là chuyện gian lận tài chính để ăn chia giữa các anh công chức ở Tập Đoàn Dầu Khí và ngân hàng. Mà kỳ này nó liên hệ đến chuyện “làm lộ bí mật nhà nước” từ tướng tá Tổng cục Tình báo và các viên chức cao cấp của Đà Nẵng, một thành phố được đề cao là đang lên và đáng sống của cả nước. Mặc dù chưa nhắc đến tên nhân vật Nguyễn Bá Thanh đã chết, nhưng khi xử hai cựu chủ tịch Đà Nẵng ông Trọng không thể nương tay với người Trưởng ban Nội Chính trung ương do chính tay ông cất nhắc. Nhân vật này trong thời gian dài nắm quyền ở Đà Nẵng cũng nhúng chàm không thua ai, nhưng được khéo che đậy bằng những bức màn thanh liêm, chính trực giả tạo. Không ai quên vụ Cồn Dầu dưới thời Nguyễn Bá Thanh bị bộ máy công an đàn áp, cưỡng bức để chiếm đất khiến hàng ngàn gia đình phải ly tán. Cũng như chuyện ông Thanh lúc là chủ tịch UBND thành phố bị cáo buộc nhận hối lộ trong công trình Cầu Sông Hàn năm 2000 nhưng vụ án bị chìm xuồng. Nếu ông Trọng dựng lò mà không lôi mấy anh ở Đà Nẵng ra xử thì không thể nào chạm được mấy anh công an ở Tổng Cục 5. Người ta còn nhớ vào đầu tháng 4/2018 Bộ Công an đã giải thể 6 tổng cục, hạ cấp 2 bộ tư lệnh với lý do “sắp xếp lại và làm tinh gọn” các lực lượng của bộ. Dĩ nhiên đây là lệnh của ông Trọng mà lý do chính yếu là ông Trọng muốn xóa hết các Tổng Cục trong Bộ công an để làm lại từ đầu. Vì ngay khi nằm trong đảng ủy Bộ Công an, Tổng bí thư Trọng cũng thất vọng vì không nắm được hết hoạt động của các cơ quan dường như nằm ngoài tầm kiểm soát của đảng ủy. Vậy không có gì tốt hơn là xóa bàn cờ do người khác bày sẵn, vì có như thế ông Trọng mới xây dựng lại cơ đồ trong Bộ Công an theo đúng ý mình, chứ không thể để như vậy cho phe ông Dũng và Trần Đại Quang tiếp tục chi phối. Bộ Công an sau khi thanh lọc sẽ là chỗ dựa ngon lành cho tổng bí thư trong việc sắp xếp người kế vị phe mình trong Đại hội 13. Trước mắt, sau khi Đốt Lò Đà Nẵng ông yên tâm tại vị tới năm 2021 để quay sang tỉa dần thế lực ông Dũng còn sót lại trong Miền Nam. Không phải tự nhiên mà những ngày gần đây rộ lên tin con trai Lê Thanh Hải, Bí thư thành ủy TP. HCM hồi hưu bị kỷ luật “khiển trách” vì tội trai gái có con “không báo cáo tổ chức” nghe rất khôi hài. Và ngay cả người cha cũng được cho là khó thoát lưới của Ủy ban Kiểm tra trung ương trong vụ đất đai dự án Thủ Thiêm gây biết bao oan trái cho người dân. Vấn đề đặt ra là chiến dịch đốt lò của ông Trọng đã vượt quá tầm tay khi mà “hộp giun” tham nhũng bị mở tung, với những bầy sâu tham ô đang lù lù xuất hiện trước công luận với nhiều đại án… sắp trở thành nhàm chán. Câu hỏi đặt ra là ông Trọng sẽ kéo dài các vụ đốt lò đến bao lâu nữa trong lúc nhu cầu khẩn cấp là khắc phục tình hình khó khăn kinh tế và thiếu hụt ngân sách trầm trọng đe dọa sự bất ổn xã hội? http://viettan.org/dot-lo-o-da-nang/
......

Nguyễn Bá Thanh có bị “đào mồ” để cho vào “lò” của ông Trọng không?

Phải đợi đến thời điểm Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an Việt Nam bắt Phan Văn Anh Vũ (Vũ “nhôm”), khởi tố vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước”, “Trốn thuế”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” thì cố Bí Thư thành ủy Đà Nẵng ông Nguyễn Bá Thanh, một “tượng đài thanh quan” bấy lâu của người dân Đà Nẵng đang thực sự chuyển sang gam màu tối với những tiết lộ liên quan đến những sai phạm diễn ra tại Đà Nẵng lúc còn sống … Ôi tình đồng chí ... thân thương Có thể nói “phát súng” đầu tiên sau hơn 03 năm nằm trong lòng đất đối với cựu Bí thư thành ủy Đà Nẵng – ông Nguyễn Bá Thanh – chính là lời khai của ông Đào Tấn Cường (SN 1969, trú phường Thanh Bình, quận Hải Châu, nguyên PGĐ công ty CP nhiên liệu bay Petrolimex chi nhánh Đà Nẵng) tại phiên xử sơ thẩm ngày 9/2/2018. Ông Cường bị Tòa án Đà Nẵng đưa ra xét xử với tư cách là bị cáo với cáo buộc có hành vi đe dọa giết Chủ tịch Ủy ban TP. Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ. Qúa trình diễn ra phiên xử, Hội đồng xét xử có hỏi ông Cường liên quan gì đến lô đất L09 tại bán đảo Sơn Trà? Ông Cường cho biết vào năm 2006, vợ ông Cường là bà Lê Thị Ngọc Oanh đứng tên lô đất L09 này giúp ông Nguyễn Bá Thanh. Sau khi ông Thanh mất, ông Cường trả đất lại cho gia đình ông Thanh bằng cách lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng toàn bộ đất biệt thự L09 cùng tài sản gắn liền trên đất cho ông Lê Hữu Tiến và vợ là bà Võ Thị Thanh Vân. Được biết, ông Tiến lại là em ruột của bà Lê Thị Qúy, vợ của ông Nguyễn Bá Thanh. Theo cáo trạng vụ án đe dọa giết Chủ tịch Ủy ban TP. Đà Nẵng ông Huỳnh Đức Thơ, do ông Cường nghi ngờ ông Trần Phước Sơn – Phó chánh văn phòng Ủy ban TP.Đà Nẵng đã tham mưu, đề xuất ông Thơ ký quyết định thanh tra lô đất L09 tại Sơn Trà, gây bất lợi đến uy tín em trai mình là ông Đào Tấn Bằng – nguyên Chánh văn phòng thành ủy Đà Nẵng nên đã mua sim điện thoại nhắm tin de dọa ông Thơ. Ngày 18/8/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt khẩn cấp Đào Tấn Cường, khởi tố tội danh “Đe dọa giết người”. Ông Cường bị Tòa án Đà Nẵng tuyên bản án sơ thẩm là 18 tháng tù giam. Tuy không thể triệu tập ông Thanh ra tòa đối chất nhưng lời của ông Cường như “phát súng” nổ vào “tượng đài thanh quan” Nguyễn Bá Thanh đối với tấm lòng suy tôn và mến mộ của người dân Đà Nẵng. “Phát súng” thứ hai nổ vào “tượng đài thanh quan” Nguyễn Bá Thanh chính là việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an Việt Nam khởi tố vụ án và bắt tạm giam ông Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ “nhôm”) vào tháng 12/2017 với những cáo buộc tội “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước”, “Trốn thuế”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Vụ án này sau đó vào ngày 17/04/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an Việt Nam đã phát lệnh khởi tố hàng loạt lãnh đạo và cựu lãnh đạo cấp cao ở Đà Nẵng như: cựu Chủ tịch ông Ủy ban Trần Văn Minh, cựu Chủ tịch Ủy ban ông Văn Hữu Chiến, ông Nguyễn Điểu nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường TP, ông Trần Văn Toán – nguyên Phó Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường TP, ông Lê Cảnh Dương – Giám đốc Ban xúc tiến và hỗ trợ đầu tư TP với cáo buộc có hành vi “Vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai” quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015. Riêng ông Minh và ông Chiến còn bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố thêm hành vi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” quy định Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ông Minh hiện đang bị tạm giam và ông Chiến thì đang áp dụng lệnh cấm đi khởi nơi cư trú. Trao đổi với báo đài Việt Nam sau khi có lệnh khởi tố của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, ông Nguyễn Điểu nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường TP cho biết bản thân ông đã làm việc với Bộ Công an về việc khởi tố có liên quan đến vụ án ông Vũ “nhôm”. Ông Điểu nói những dự án giao cho Vũ “nhôm” thì TP có chủ trương và quyết định. Còn sở, ngành chỉ là đơn vị làm theo, hợp thức hóa thủ tục hành chính. Ông Điểu cũng có nhắc đến ông Minh, ông Chiến và ông Nguyễn Bá Thanh vào thời điểm giao dự án, nhà và đất công sản cho ông Vũ “nhôm” là những người ở cương vị đứng đầu TP nên có trách nhiệm chính. “Phát súng” thứ hai này dành cho ông Nguyễn Bá Thanh thì dư luận dễ dàng suy luận được trong khi “phát súng” thứ nhất lại khiến cho dư luận bất ngờ về “tượng đài thanh quan” đang bị bóc mẽ và có chăng chỉ ở giới cán bộ các cấp cầm quyền mới không bất ngờ về điều này và nhiều người cho rằng, liệu Nguyễn Bá Thanh có bị “đội mồ” để cho vào “lò” của ông Trọng không, khi những ngọn lửa trong “lò”của ông Trọng ngày càng cháy mạnh Trong giai đoạn 2003-2014, thời kỳ ông Nguyễn Bá Thanh nắm chức Chủ tịch ủy ban, Bí thư thành ủy Đà Nẵng thì cũng là giai đoạn Vũ “nhôm” cho người dân Đà Thành và đại gia bất động sản cả nước thấy một sự nhảy vọt “thần kỳ”, từ một thợ nhôm trở thành một đại gia bất động sản đầy tên tuổi, thâu tóm hầu hết những dự án, đất và nhà công sản ở Đà Nẵng. Cali Today từng có bài viết, sự đi lên của ông Vũ “nhôm” gắn liền với chiếc ghế quyền lực của ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà Thành và dĩ nhiên ông Thanh về với cát bụi thì Vũ “nhôm” vào nhà đá cũng là điều dễ hiểu. Cũng cần phải nói thêm, những sai phạm của Vũ “nhôm” cũng có phần trách nhiệm của ông Thanh nên với chiến dịch “đốt lò” chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng ở hiện tại nếu ông Thanh còn sống chắc chắn những ngày qua cũng bị Bộ Công an “sờ gáy”. Và như vậy, không chỉ riêng người dân Đà Thành và người dân cả nước Việt Nam một phen chấn động, đến lúc này “tượng đài thanh quan” trong lòng dân của Nguyễn Bá Thanh đã suy giảm. Mà chắc cũng không yên đối với ông Thanh dù ông đã chết vì vụ án Vũ “nhôm” đang ở cao điểm diệt tham quan ở các nơi và Đà Nẵng đang là chảo dầu đang sôi sục. Căn cứ vào Quy định số: 102-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN ký ngày 15/11/2017 về việc quy định xử lý kỷ luật Đảng viên vi phạm, tại Khoản 2 Điều 5 của Quy định này có nói các trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật và không xử lý kỷ luật Đảng viên vi phạm đã qua đời, tổ chức đảng xem xét, kết luận, không xử lý kỷ luật trừ trường hợp đảng viên đó vi phạm kỷ luật đặc biệt nghiêm trọng. Vậy có nghĩa là nếu vụ án Vũ “nhôm” hoặc những sai phạm liên quan việc quản lý đất đai ở Đà Nẵng mà ông Nguyễn Bá Thanh dù hiện tại đã chết nhưng nếu bị phát hiện có những hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng thì vẫn có thể bị xử lý. Và nếu điều này thực sự xảy ra thì có lẽ “tượng đài thanh quan” dành cho ông Nguyễn Bá Thanh sẽ bị hạ bệ ngay tức khắc trong lòng người dân Đà Nẵng. Ông Nguyễn Bá Thanh (Sinh ngày 8/4/1953- Mất ngày 13/2/2015), lật lại những tờ lịch thì phát hiện ngày mất của ông Thanh trúng vào Thứ Sáu ngày 13, theo tâm linh của nhiều nước phương Tây đây là ngày kém may mắn.
......

Tăng thuế có cứu được chế độ không?

Tình trạng thâm thủng ngân sách từ 8 đến 10 tỷ Mỹ Kim mỗi năm kéo dài liên tục trong ba năm từ 2015 đến nay, đã khiến cho lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đang tất bật cứu nguy. Theo Tổng Cục Thống Kê, ngân sách chi tiêu ở vào khoảng non 60 tỷ Mỹ Kim, nhưng tổng số thu hàng năm trồi sụt từ 50 đến khoảng 52 tỷ Mỹ Kim. Ngân sách phải trả nợ gốc lẫn tiền lãi do vay mượn trong 2 thập niên vừa qua là từ 11 đến 15 tỷ Mỹ Kim hàng năm. Khoản nợ tích lũy lớn nhất là trong giai đoạn xây dựng các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty (2005-2010) để tạo ra các “quả đấm thép,” mà phần lớn đã bị phá sản. Trong khi đó nguồn thu lại bị giảm đáng kể. Thứ nhất là giá dầu thô giảm thê thảm từ 100 Mỹ Kim/Thùng (2014) xuống chỉ còn 40 Mỹ Kim/Thùng (2017). Thứ hai là thuế công ty và nhập khẩu giảm do nhu cầu kêu gọi đầu tư ngoại quốc bị cạnh tranh. Thứ ba thị trường bất động sản suy thoái. Gần đây, nhà cầm quyền CSVN khoe rằng kinh tế đang tăng trưởng ở mức hiếm thấy. Tổng sản lượng nội địa (GDP) đã tăng 6,7% cao nhất trong 10 năm qua. Đặc biệt GDP của quý I/2018 tăng 7,38%. Tuy nhiên con số GDP tăng trưởng này chủ yếu là dựa vào các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI), cụ thể là do tiềm lực của Samsung, Formosa vân vân… Ví dụ công ty Samsung tại Việt Nam đã thu được 58 tỷ Mỹ Kim chiếm ¼ tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2017. Theo ước tính thì các công ty FDI chiếm từ 20% đến 30% GDP của Việt Nam. Nhưng điều nhức nhối mà Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nêu ra rằng tuy GDP có tăng, nhưng lại không giúp gì nhiều cho việc giải quyết thiếu hụt ngân sách vì các doanh nghiệp FDI thuộc đối tượng được miễn giảm thuế phí. Bao nhiêu gánh nặng thuế phí đều dồn vào phía các doanh nghiệp trong nước và người dân. Để cứu nguy tình trạng thâm thụt ngân sách và nhất là giảm thiểu chi phí, nhà cầm quyền CSVN đã phải tung ra hàng loạt chính sách cắt giảm chi tiêu và tăng thuế, kể cả việc bán đi một số công ty nhà nước để có tiền trả nợ như trường hợp bán 343 triệu cổ phiếu (chiếm 53,59% vốn điều lệ) của công ty quốc doanh bia rượu (Sabeco) thu được 4,8 tỷ Mỹ Kim vào cuối năm 2017. Về việc cắt giảm chi phí, nhà cầm quyền CSVN đang cố tinh giảm bộ máy chính phủ ở trung ương lẫn địa phương bằng cách sát nhập để cắt bỏ khoảng 90 cơ quan nhà nước và giải quyết việc “thừa” đến 57 ngàn nhân viên trong biên chế. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 4 triệu công chức nhưng nhà nước lại phải nuôi thêm 4 triệu người khác vì từng có công đóng góp cho đảng trong quá khứ. Nuôi ăn 8 triệu người là một gánh nặng rất lớn, nhưng lãnh đạo CSVN không thể làm khác hơn vì cắt bỏ 4 triệu người “có công” sẽ dẫn đến nguy cơ bùng vỡ đảng từ bên trong. Con đường cuối cùng phải làm của nhà cầm quyền CSVN là giao cho Bộ Tài Chánh nghiên cứu các biện pháp tăng thuế mà dư luận cho là “vặt lông vịt”. Từ năm ngoái, Bộ Tài Chánh cho biết là sẽ đồng loạt tăng 6 loại thuế: Thuế thu nhập cá nhân, thuế đánh trên trị giá gia tăng (VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất – nhập khẩu, thuế tài nguyên. Các loại thuế này sẽ áp dụng từ ngày 1 tháng 7 năm nay. Dư luận chưa qua cơn bàng hoàng về 6 loại thuế sẽ tăng đồng loạt này, Bộ Tài Chánh đã bồi thêm nhát dao thứ hai vào đầu tháng 2 năm nay về đề nghị tăng thuế bảo vệ môi trường, bằng cách tăng thuế xăng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần 4.000 đồng/lít; các loại xăng, dầu khác đều tăng từ 500 đồng tới 1.100 đồng/lít. Theo dự kiến, Bộ Tài Chánh sẽ thu vào cho ngân sách nhà nước khoảng 15.684 tỷ đồng/năm, tương đương với 0,67 tỷ Mỹ Kim/năm. Đề nghị này đã bị dư luận phản đối dữ dội, nhiều chuyên gia kinh tế, tài chánh đã lên tiếng chỉ trích rằng Bộ Tài Chánh đã núp dưới chiêu bài bảo vệ môi trường chỉ để đánh vào nguồn di chuyển của người dân mong bù đắp sự thiếu hụt ngân sách. Đến giữa tháng 4, Bộ Tài Chánh lại tung ra đòn tăng thuế mới. Đánh thuế nhà, đất và xe hơi, du thuyền có giá trị từ 750 triệu hay 1,5 tỷ đồng trở lên. Đối với nhà ở, Bộ Tài Chánh đề xuất hai phương án đánh thuế bắt đầu từ mốc 700 triệu trở lên hoặc nhà ở từ 1 tỷ đồng trở lên với tỷ lệ từ 0,3% đến 0,4%. Theo tính toán của Bộ Tài Chánh, nếu mức thuế tài sản là 0,3% thì dự kiến số tài sản thu về là khoảng 22.700 tỷ đồng đối với nhà ở trên 1 tỷ đồng hoặc là 23.300 tỷ đồng đối với nhà có trị giá trên 700 triệu đồng. Nếu mức thuế là 0,4% thì số thuế dự kiến thu về tương ứng sẽ là khoảng 30.300 tỷ đồng. Việc đánh thuế nhà nói trên nếu áp dụng có thể mang lại cho nhà nước một ngân sách từ 10 tỷ đến 12 tỷ Mỹ Kim. Nhưng theo nhiều nhà chuyên gia nhận định thì đây là chính sách nguy hiểm vì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội. Thứ nhất, việc đánh thuế vào những căn nhà từ 700 triệu đến 1 tỷ đồng, tức là đánh vào nguồn sống của phần lớn những người nghèo tại Việt Nam. Đa số người dân dành dụm cả đời mua được căn nhà, người mua vừa phải nộp tiền sử dụng đất rất lớn, vừa lại phải nộp thuế tài sản là sự bóc lột quá đáng. Ở các nước dân chủ, đất đai thuộc sở hữu tư nhân; không có khoản thu “tiền sử dụng đất” như ở Việt Nam nên việc nộp thuế nhà là đương nhiên. Trong khi tiền sử dụng đất ở Việt Nam chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành của nhà ở – từ 10% đến 50% tùy loại nhà, nay lại bắt nộp thêm thuế nhà sẽ tạo ra gánh nặng rất lớn cho người mua nhà. Thứ hai, không chỉ đóng thuế nhà, người dân Việt Nam hiện nay đóng đủ thứ thuế nào là thuế VAT, một sắc thuế ảnh hưởng lên 90 triệu người dân, thuế phân bón, thuế máy móc, thuế thiết bị chuyên dùng phục vụ nông nghiệp, thuế tàu đánh xa bờ, thuế tiêu thụ đặc biệt nước ngọt, thuế học đường, thuế sửa đường, thuế y tế, thuế nghe Loa phường… thậm chí còn nộp cả thuế chăn trâu bò ăn cỏ. Nghĩa là nhà cầm quyền hiện nay tìm mọi cách bắt dân phải nộp tiền dưới bất cứ hình thức nào để nuôi bộ máy nhà nước. Chính vì lý do này mà cứ mỗi lần đảng đưa ra chỉ thị chỉnh đốn bộ máy nhà nước, thì nó lại phình to ra thêm để có lý do… bắt dân đóng thuế. Việc tăng thuế nói trên đang làm ảnh hưởng trầm trọng đến khu vực doanh nghiệp tư nhân vì sẽ tạo ra gánh nặng thuế phí của các doanh nghiệp. Sản xuất đình đọng vì hàng hóa khó bán, sức cạnh tranh suy thoái khiến cho nhiều doanh nghiệp phải ngưng hoạt động. Trong Quý I/2018 có đến 21.115 doanh nghiệp ngưng hoạt động. Ngân sách thiếu hụt dẫn đến nhiều hệ lụy như trên đã cho thấy là càng tăng thuế sẽ đẩy nhà cầm quyền CSVN vào ngõ cụt. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiểu đã ví von tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay chẳng khác nào người lái chiếc xe đi ngược chiều trên cầu Nhật Tân (Hà Nội), tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và hệ quả khôn lường. Người lái xe này chính là ông Nguyễn Phú Trọng đang say mê chiến dịch “đốt lò” để thâu tóm quyền lực, bất cần những ta thán của người dân về tình hình khó khăn kinh tế hiện nay./. Nguồn: Web Việt Tân
......

Sao đến lúc này mới thập thò quyền nổ súng cho cảnh sát biển?

Phải mất đến chẵn hai chục năm kể từ năm 1998 khi Cục cảnh sát biển Việt Nam thuộc Bộ tư lệnh Hải quân được thành lập, mất 5 năm kể từ năm 2013 khi Cục cảnh sát biển này đôn lên thành Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và trở thành cơ quan mang danh nghĩa trực thuộc Chính phủ, câu tục ngữ đương đại “ngư dân bám biển, hải quân bám bờ” mới có chút cơ hội tự sửa mình khi dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền, Quốc hội Việt Nam lần đầu tiên xem xét “quyền được nổ súng bảo vệ chủ quyền” của lực lượng cảnh sát biển. Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam. Cái bóng lờ mờ và vật vờ Cảnh sát biển Việt Nam có thể nổ súng để “bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển; quản lý về an ninh, trật tự, an toàn, môi trường biển và bảo đảm việc chấp hành pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” - theo bản dự thảo Luật Cảnh sát biển Việt Nam. Cũng theo bản dự thảo trên, Cảnh sát biển có thể nổ súng cảnh cáo các tàu hoạt động bất hợp pháp trong vùng biển của Việt Nam nếu các tàu này không chấp hành hiệu lệnh chấm dứt các hoạt động bất hợp pháp. Cảnh sát biển nổ súng chỉ khi tính mạng và sự an toàn của họ bị đe dọa, hoặc trong khi truy đuổi những người và tàu thuyền vi phạm trên biển, hoặc để bảo vệ người dân mà tính mạng bị đe dọa… Nhưng một câu hỏi mang tính tồn vong dân tộc và quá nhức nhối là vì sao trong suốt hai chục năm qua và kể cả trong 5 năm gần đây, dù đã được nâng cấp thành “bộ tư lệnh” tức tương đương với cấp quân khu và quân đoàn của Bộ Quốc phòng, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam lại chẳng hề chứng minh được tác dụng hay chí ít về sự tồn tại của nó trong các hành động bảo vệ ngư dân Việt trước vô số hành động khủng bố của “đồng chí tốt”? Vào năm 2011 khi tàu hải giám Trung Quốc hành xử lưu manh khi thẳng tay cắt cáp tàu Bình Minh II của Việt Nam, người dân thậm chí còn không nhận ra được hình ảnh tồn tại của Cục Cảnh sát biển, cho dù các tàu của lực lượng này vẫn thường xuyên tuần tra và không ít lần để lại trong tiềm thức ngư dân một vệt nước đen đúa về tinh thần “đòi hỏi” - như một kiểu thu phí BOT đường thủy đang manh nha nổi lên và bị dư luận xã hội phản ứng dữ dội. Nhưng vào thời gian 2011, một số ý kiến quan chức vẫn nại ra ý do rằng cảnh sát biển sở dĩ chưa làm hiệu quả là do chưa có đầy đủ chức năng bảo vệ chủ quyền, và vì chưa trở thành… Bộ tư lệnh. Thế còn từ năm 2013 đến nay và khi đã được phong hàm “tướng”, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam đã làm gì? Ba năm sau vụ Bình Minh II, nổ ra cuộc khủng hoảng Hải Dương 981 khi giàn khoan này từ Trung Quốc lao thẳng vào Biển Đông để giống như một cái tát nổ đom đóm vào thói bạc nhược chưa đánh đã chạy của điều được giới tuyên giáo xưng là “bản lĩnh Việt Nam”. Nhưng một lần nữa, người ta chỉ thoáng cái bóng lờ mờ và vật vờ của cảnh sát biển Việt Nam trong sự đối sánh với dày đặc và ngạo nghễ cảnh sát biển của Bắc Kinh. Nhưng ngay cả vụ Hải Dương 981 cũng không thể khiến “đảng và nhà nước ta” thoát khỏi cơn “ngủ ngày”. Bằng chứng rõ ràng nhất là bất chấp nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc do giới đấu tranh nhân quyền và dân chúng tổ chức nổ ra ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều tỉnh thành khác, Bộ Chính trị và Quốc hội Việt Nam vẫn kiên định tâm thế nín lặng. Từ năm 2014 đến nay, đã không có tối thiểu một bản nghị quyết nào của Bộ Chính trị hay của Quốc hội lên án về vụ Hải Dương 981 hay chí ít để “rửa mặt” trước những câu chuyện “nhục quốc thể” tương tự ở Bãi Tư Chính vào năm 2017 và 2018. Đó cũng là nguồn cơn khiến căn bệnh “hải quân bám bờ” ngày càng nan y, còn lực lượng cảnh sát biển thì gần như… biến mất. Trong tình cảnh “văn dốt võ dát” và giới quan chức Việt thân ai kẻ đó lo như thế, hải quân và tàu cá Trung Quốc có vẻ muốn làm gì thì làm. Mất ngủ lẫn mất ăn Các vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt và bắn giết ngư dân Việt đã đột ngột tăng mạnh kể từ tháng Bảy năm 2017 - thời điểm Việt Nam đưa giàn khoan Repsol - liên doanh với Tây Ban Nha - ra khu vực Bãi Tư Chính để khoan thăm dò dầu khí. Vào cuối tháng 7/2017 đã xảy ra một sự kiện mà được dư luận xã hội liệt vào loại “nhục quốc thể”: chính quyền Việt Nam phải “giương cờ trắng” khi yêu cầu ngừng hoạt động thăm dò khí đốt của Repsol - một công ty Tây Ban Nha liên doanh với Việt Nam - ngay tại Bãi Tư Chính mà luôn được Bộ Ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng “thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam”. Dù chưa bao giờ giới tuyên giáo hay Bộ Ngoại giao Việt Nam dám nói toạc về cái nguồn cơn sâu xa của vụ “nhục quốc thể” ấy, nhưng vụ “giương cờ trắng” này lại trùng hợp với tin tức quốc tế cho biết sau khi Bắc Kinh đe dọa sẽ tấn công một số căn cứ quân sự của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam cho phép Repsol tiếp tục khoan thăm dò dầu khí. Chưa hết, sau thất bại ở Bãi Tư Chính, Việt Nam lại có nguy cơ bị Trung Quốc cản trở việc khai thác dầu khí ở mỏ Cá Voi Xanh - dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam, nơi được phát hiện bởi Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ và có thể sẽ đóng góp gần 20 tỷ đô la vào ngân sách Việt Nam. Thực trạng trần trụi là mỏ khí đốt Cá Rồng Đỏ ở lô 136/03 thuộc Bãi Tư Chính và mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Ngãi, Quảng Nam là những tiềm năng cuối cùng có thể cứu vãn ngân sách đang cạn kiệt. Nếu Repsol và Exxonmobil khai thác thành công thì ngân sách cùng chế độ Việt Nam sẽ được chia phần không ít. Trong cơn quẫn bách mất ngủ lẫn mất ăn ngay trên vùng biển của mình, Hà Nội đã một lần nữa phải “cầu viện” Hoa Kỳ, mà cụ thể là kêu gọi một sự hỗ trợ từ hải quân Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả sự hiện diện của USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba đó đã chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc. Chiến thuật của Hà Nội mượn tàu chiến Mỹ để “hù” Trung Quốc thậm chí còn dẫn đến tác dụng ngược khi Bắc Kinh hạ lệnh cho hàng không mẫu hạm Liêu Ninh và vài chục tàu chiến ồ ạt kéo vào Biển Đông tập trận với đích thân Tập Cận Bình làm tổng chỉ huy. Cùng lúc, một mặt trận ngoại giao - thương mại được Trung Quốc tung ra. Cuối tháng Ba năm 2018, Ngoại trưởng Vương Nghị đến Hà Nội, gặp 3/4 “tứ trụ” của Việt Nam và nói trắng ra: “Đôi bên không nên tiến hành các hoạt động đơn phương làm phức tạp tình hình và nên củng cố hợp tác hàng hải để xây dựng một môi trường lành mạnh nhằm đạt được một thỏa thuận chung cuộc về giải quyết tranh chấp trên biển”. Về thực chất, đó là tối hậu thư của Trung Quốc. Có quá nhiều lý do để Bộ Chính trị đảng cùng cơn lạm phát gần 500 tướng quân đội phải đau đầu đến thống phong. Nếu chấp nhận “hợp tác cùng khai thác dầu khí” với Trung Quốc theo lối nói không thèm úp mở của Vương Nghị, Việt Nam sẽ đồng thời phải thừa nhận một tiền lệ chưa từng có về việc phải cho kẻ cướp chung sống trong nhà mình và một cách chính thức bắt đầu chấp nhận ách đô hộ của “Hoàng đế Tập Cận Bình”. Còn nếu không chấp nhận cách chia bôi lợi nhuận dầu khí với kẻ cướp, tương lai có thể sẽ là một cuộc xung đột quân sự. Cô đơn tuyệt đối Tình thế của chính thể Việt Nam giờ đây là hầu như cô đơn, trái ngược với sở đoản “đa dạng hóa, đa phương hóa” mà các cơ quan tuyên giáo và giới chóp bu ra rả bất tận ở mọi nơi và vào mọi lúc. Sự cô đơn đó thực ra đã trở thành tuyệt đối vào năm 2014 trong vụ Hải Dương 981. Khi đó, đã không một nước nào trong số một chục “đối tác chiến lược” của Việt Nam thèm quan tâm hay tiếp ứng cho giới chóp bu Hà Nội, để mặc tinh thần kiêu ngạo cộng sản phải đối diện với một tinh thần cộng sản kiêu ngạo hơn hẳn là “đối tác chiến lược lớn nhất và quan trọng của Việt Nam” - Trung Quốc. Còn đến đầu năm 2018, Việt Nam thậm chí còn nâng số lượng “đối tác chiến lược” lên chẵn một tá - bao gồm cả hai “tân binh” là Úc và Ấn Độ. Nhưng như tục ngữ “mèo vẫn hoàn mèo”, vẫn chẳng có gì đổi dời về tâm thế cô đơn chính trị và quân sự. Để đến lúc này, trong tình cảnh đã “ngửi” thấy cái hơi của một cuộc “chiến tranh dầu khí” trong tương lai giữa “hai đảng anh em”, giới chóp bu Hà nội mới bắt buộc phải suy tính về “quyền được nổ súng” dành cho đội quân có vẻ chưa bao giờ biết bắn súng - lực lượng cảnh sát biển. Nhưng cho dù vào cuối năm 2018, Luật Cảnh sát biển Việt Nam có được chính thức thông qua chăng nữa, chẳng mấy người dân dám tin rằng với “truyền thống bám bờ” trong quá nhiều năm qua, lực lượng cảnh sát biển sẽ có một hành động thực chất nào để cứu vớt cảnh bị hành hung và bị bắn giết của ngư dân Việt. Thậm chí, ngay cả khi nhiệm vụ duy nhất của cảnh sát biển là bảo vệ các lô dầu khí được Việt Nam phải lao vào khai thác theo cách không còn cách nào khác, cũng chẳng có hy vọng gì để lực lượng này dám “nổ súng” khi bị tàu Trung Quốc vây bọc và đe dọa - điều mà một “nước nhỏ” là Hải quân Philippines đã làm nhiều lần từ năm 2014, thậm chí còn bắt giữ hàng trăm ngư dân Trung Quốc xâm nhập, đánh bắt cá trái phép và đưa ra xử tù mà Bắc Kinh chẳng dám có phản ứng mạnh nào.
......

NHỮNG CÁI CỚ ĂN THỊT LẪN NHAU

“…Cứ tưởng rằng những ngón đòn bẩn thỉu như quăng mắm tôm vào nhà, đánh người rồi vu vạ bắt giam, đưa xét xử mà không có nạn nhân chỉ dành cho những người mà đảng không ưa, chỉ dành cho "thế lực thù địch" của đảng. Nhưng không. Ngay cả với các đồng chí mình, khi cần, thì những trò hèn hạ đó vẫn được sử dụng như thường….” Trong cuộc chiến phe nhóm, thanh trừng lẫn nhau mang tên "Chống tham nhũng" khi những "đồng chí thuộc phe địch" mà đã về hưu, thì con cái các "đồng chí" đó sẽ được đưa ra làm đích ngắm bắn. Ảnh: Lê Trương Hải Hiếu Người ta thấy những lý do đưa ra kỷ luật của đảng với các con cái các "đồng chí thuộc phe địch" nhiều khi đến nực cười. Bởi vì chuyện quan chức cộng sản nhận tiền của, xe cộ, nhà đất và biết bao thứ khác từ doanh nghiệp, từ sân sau... là chuyện trở thành đặc tính riêng của quan chức cộng sản Việt Nam. Có thể nói không ngoa mà không cần thống kê rằng: 100% quan chức cộng sản, không có bất cứ ai sống bằng đồng lương chân chính. Từ những thằng khố rách, áo ôm, ăn củ chuối đi theo cộng sản bỗng trở nên giàu có vô độ, ăn chơi phè phỡn, tài sản khắp nơi... nếu không tham nhũng, hối lộ thì chỉ có ăn cướp. Nhưng không sao, miễn là anh ta hoặc bố anh ta, thậm chí là chị anh ta đang ở vị trí của "phe ta" trong đảng. Bởi vì chuyện không trung thực đâu có là chuyện riêng của Lê Phước Hoài Bão? Xưa nay, cộng sản và trung thực là hai khái niệm đi ngược chiều với nhau. Bởi nếu trung thực thì làm gì còn cộng sản? Hãy nghe lời những nhà lãnh đạo thế giới nói về cộng sản thì rõ. Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nói: "Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối." Còn Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mikhail Gorbachev thì "đấm ngực ăn năn" rằng: "Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá"... Vậy thì "đồng chí Lê Phước Hoài Bão" có gian dối cũng là chuyện cũ xưa nay, có gì mà phải đến mức kỷ luật? Còn Lê Trương Hải Hiếu có tội là "có con nhưng chậm khai báo" với đảng, e cũng là chuyện nực cười. Cứ thử xem trong đảng, thậm chí lật lại lịch sử Đảng cộng sản mà xem. Biết bao nhiêu lãnh tụ, biết bao "đồng chí" không chỉ có một con, mà nhiều con lắm vợ, không những "chậm khai báo" mà còn lờ tịt chuyện vợ con cho mình trong sạch. Thậm chí giết người diệt khẩu, có sao. Đằng sau những lý do mà đảng đưa ra để thịt các "đồng chí" mình, người ta biết chắc chắn là không phải chuyện "có con nhưng chậm khai báo", "nhận nhà cửa xe cộ của doanh nghiệp" "không trung thực, gian dối..." mà cuộc chiến quyền lực, tiêu diệt lẫn nhau trong đảng đã đến hồi nóng, mọi ngón đòn dù hèn hạ, đê tiện đến đâu đều được sử dụng trong cuộc chiến này. Cứ tưởng rằng những ngón đòn bẩn thỉu như quăng mắm tôm vào nhà, đánh người rồi vu vạ bắt giam, đưa xét xử mà không có nạn nhân như thầy giáo Vũ Hùng vừa qua, hay kết án tội "Tuyên truyền chống chế độ" vì "hai bao cao su đã qua sử dụng", "hai người đi xe đạp hàng ba" hoặc những chiến công như tướng công an Phan Văn Vĩnh đốt nhà để điều tra tội phạm, đe dọa giết người để lấy cung... chỉ dành cho những người mà đảng không ưa, chỉ dành cho "thế lực thù địch" của đảng. Người dân đã phát hiện chính Lê Trương Hải Hiếu (người trong vòng đỏ) đã cùng với công an phá đám cuộc biểu tình chống Trung Quốc của Câu lạc bộ Nhà báo tự do. Hai người mặc áo trắng bên phải là Tạ Phong Tần và Điếu cày Nguyễn Văn Hải. Nhưng không. Ngay cả với các đồng chí mình, khi cần, thì những trò hèn hạ đó vẫn được sử dụng như thường. Và biết đâu, chính những "đồng chí" như Lê Trương Hải Hiếu trong những năm tháng làm đoàn Thanh niên, làm chủ tịch Quận, làm quan chức... lại là những đứa đã tham gia, tổ chức những trò bẩn thỉu, đánh lén và đàn áp người dân vô tội, yêu nước bằng những cách thức hèn hạ của đảng thì nay được thưởng thức những món ăn mà anh ta dọn sẵn cho những nạn nhân đó. Thế mới hiểu: Trời có mắt. Ngày 19/4/2018 FB JB Nguyễn Hữu Vinh
......

Lê Trương Hải Hiếu bị kỷ luật: Thêm tín hiệu sụp đổ ‘gia tộc Lê Thanh Hải’

Chỉ 5 ngày sau vụ ông Lê Tấn Hùng – Tổng giám đốc Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn TNHH MTV (SAGRI) và là em ruột của cựu ủy viên bộ chính trị kiêm bí thư TP.HCM Lê Thanh Hải – bị công bố “chi khống 13,3 tỉ đồng” theo kết luận thanh tra, đến lượt con trai cựu bí thư Lê Thanh Hải là ông Lê Trương Hải Hiếu – Thành ủy viên, Phó Bí thư quận ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 12 – bị Ủy ban Kiểm tra thành ủy TP.HCM công khai thi hành kỷ luật. Vụ công bố kỷ luật trên diễn ra tại hội nghị Thành ủy ngày 17/4/2018. Theo đó, ông Lê Trương Hải Hiếu “đã vi phạm trong việc có quan hệ tình cảm với một phụ nữ và có con chung nhưng chậm báo cáo với tổ chức”. Ban Thường vụ Quận ủy Quận 12 đã quyết định kỷ luật ông Lê Trương Hải Hiếu bằng hình thức khiển trách. Lê Trương Hải Hiếu Vào thời người cha còn đương chức Bí thư thành ủy TP.HCM, ông Lê Trương Hải Hiếu đã từng được liệt vào danh sách “tuổi trẻ tài cao” theo ngôn ngữ nửa thật nửa hư của giới quan chức và báo chí, hoặc “hót hay nhảy giỏi” theo cách châm biếm của dân gian đương đại. Thành tích tốt nhất về “nhảy giỏi” là ngay cả sau khi ông Lê Thanh Hải đã “rớt đài” tại đại hội 12 của đảng cầm quyền và phải “về vườn”, vào tháng 5/2016 ông Hải vẫn tìm cách “binh” cho con trai Lê Trương Hải Hiếu có được một suất trong Ban chấp hành đảng bộ thành phố (tức thành ủy viên), bất chấp việc trước đó ông Hiếu chỉ nhận được tỷ lệ phiếu khá thấp cho cái ghế chính trị kèm lợi ích này. Người dân đã phát hiện chính Lê Trương Hải Hiếu (người trong vòng đỏ) đã cùng với công an phá đám cuộc biểu tình chống Trung Quốc của Câu lạc bộ Nhà báo tự do. Hai người mặc áo trắng bên phải là Tạ Phong Tần và Điếu cày Nguyễn Văn Hải. Ảnh: Dân Làm Báo Chính người kế nhiệm Lê Thanh Hải là Đinh La Thăng đã hoàn tất câu chuyện “binh” ấy. Từ đầu năm 2016, Đinh La Thăng đã bất ngờ “nhảy” vào Bộ Chính trị và được điều động về làm bí thư thành ủy TP.HCM. Như vậy, “độ trễ” của Lê Trương Hải Hiếu so với Đinh La Thăng là đúng 1 năm, nếu tính từ thời đểm tháng 4/2017 khi ông Thăng phải nhận “án” kỷ luật ra khỏi Bộ Chính trị, và là 4 tháng nếu tính từ tháng 12/2017 khi ông Thăng chính thức tra tay vào còng. Những nước cờ tuần tự và có vẻ khá chắc chắn của Tổng bí thư Trọng đang áp sát cựu bí thư Lê Thanh Hải, tương tự những nước đi của ông Trọng đối với “gia tộc Nguyễn Tấn Dũng”. Chiến thuật trên đang khá tương hợp với đồn đoán trước tết nguyên đán 2018 về “từ sau tết đến Hội nghị trung ương 7, Lê Thanh Hải sẽ bị “đánh””. Tính đến nay đã có 2 trong số 3 người con của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị “lên thớt” là Nguyễn Thanh Phượng và Nguyễn Thanh Nghị. Còn “thòng lọng” siết cựu bí thư Lê Thanh Hải có lẽ cũng chẳng khác mấy, ứng với hai người thân của ông Hải là Lê Trương Hải Hiếu và Lê Tấn Hùng. Nhưng số phận của ông Lê Tấn Hùng có thể sẽ không “mềm” như Lê Trương Hải Hiếu. Vào tháng Ba năm 2018, ông Lê Tấn Hùng chỉ bị đảng “khiển trách” – một mức độ mà có thể cho phép ông Hùng vẫn tiếp tục tại vị hoặc “hạ cánh an toàn”. Song đến giữa tháng Tư năm 2018, độ rủi ro đối với người em trai của cựu bí thư Lê Thanh Hải đã tăng đột biến. Vụ việc “Lê Tấn Hùng chi khống 13,3 tỉ đồng” đang có triển vọng sang thẳng cơ quan điều tra của Công an TPHCM. Khi đó, số phận của ông Lê Tấn Hùng có thể coi như “xong” và chỉ còn chờ ngày bị truy tố và ra tòa lãnh án. Lê Tấn Hùng Cần nói thêm, Lê Tấn Hùng chính là quan chức đã ra lệnh cho lực lượng áo xanh (thanh niên xung phong) thẳng tay đàn áp hàng trăm người dân biểu tình vì môi trường và phản đối thảm họa xả thải của Formosa vào tháng Năm năm 2016. Nhiều người biểu tình đã bị thanh niên xung phong và công an trá hình đánh đập đến đổ máu. Tín hiệu sụp đổ ‘gia tộc Lê Thanh Hải’ Vào lúc này, không hiếm người hiểu là cựu bí thư Lê Thanh Hải đã chính thức bị “sờ gáy”. Ông Lê Thanh Hải từng được một số dư luận đồn đoán là “một trong những quan chức cộng sản giàu nhất Việt Nam”. Đặc biệt là mối quan hệ “đặc biệt” giữa ông Hải và bà Trương Mỹ Lan của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát. Từ đầu tháng 8/2016 đã bắt đầu tăng cường những dấu hiệu tấn công của một bộ phận trogn giới truền thông nhà nước vào Tập đoàn Vạn Thịnh Phát thuộc sở hữu của gia tộc họ Trương. Một trong số những bài viết trên báo nhà nước mang tựa đề “Đại gia Trương Mỹ Lan và ‘đế chế’ Vạn Thịnh Phát đang toan tính gì?”, cho rằng “Thâu tóm hàng loạt siêu dự án rồi để “trùm mền”, động cơ của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát trên thị trường địa ốc TP.HCM đang là một ẩn số vô cùng bí hiểm”. Sau đó, bắt đầu xuất hiện trên mạng xã hội một số bài viết mang tính móc xích về mối quan hệ “đặc biệt” giữa bà Trương Mỹ Lan với ông Lê Thanh Hải – Bí thư thành ủy TP.HCM từ năm 2015 trở về trước. Nhiều dư luận cho rằng nhờ có sự “bảo kê” của Bí thư Hải mà Vạn Thịnh Phát đã giành được nhiều khu đất vàng để kinh doanh bất động sản, mang lại một khoản lợi nhuận khổng lồ cho tập đoàn này… Giờ đây, ngay cả người được xem là “đệ tử ruột” của Lê Thanh Hải là Tất Thành Cang – Phó bí thư thường trực thành ủy TP.HCM – cũng không thể cứu được Lê Trương Hải Hiếu. Bản thân ông Tất Thành Cang có thể còn phải đối mặt với một nguy cơ khác. Trong những ngày gần đây, nhiều dư luận cho rằng ông Cang có thể phải chịu kỷ luật bởi một số sai phạm tại khu đô thị Thủ Thiêm vào thời ông Cang còn là Bí thư quận 2. Có lẽ “gia tộc Lê Thanh Hải” đang lộ ra những dấu hiệu đầu tiên về sự sụp đổ cho một ngày không còn xa nữa./.
......

43 năm sau 30/4, đất nước hiện ra sao?

Đây là câu hỏi rất quan trọng, mỗi công dân có trách nhiệm, từ quan chức đến phó thường dân, cần chung sức góp ý để đạt đồng thuận chung nhằm đưa đất nước khỏi bế tắc và lạc hậu hiển nhiên hiện nay. Không một ai có trách nhiệm có thể cho rằng từ sau ngày 30/4 gọi là ngày “Giải phóng miền Nam Thống nhất Tổ quốc”, đất nước ta đã phát triển mạnh mẽ, toàn dân đã được hưởng trọn vẹn độc lập, tự do dân chủ nhân quyền, bình đẳng và hạnh phúc. Hơn lúc nào hết mỗi người Việt hãy nhìn thẳng vào những sự thật hiển nhiên. Càng là bộ máy lãnh đạo đảng lại càng phải nhìn nhận chính xác chân thật. Điều cay đắng nhất là nền độc lập dân tộc giành được từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp, với hàng triệu con em người Việt của các bên bị hy sinh đã bị ban lãnh đạo Cộng Sản thay thế bằng chế độ «Bắc thuộc mới» qua cuộc mật đàm Thành Đô tháng 9/1990. Từ đó đến nay đất nước bị gặm nhấm có hệ thống, từ đất liền, vùng biển, hải đảo, người Trung Quốc hầu như tự do nhập vào biên giới, mang Nhân dân tệ hình Mao cùng mọi thứ hàng hóa, hàng giả, hàng dỏm, hàng cấm, hàng độc hại tràn ngập đất nước ta. Chúng có mặt khắp nơi, trồng rừng quy mô lớn; khai thác nhiệt điện, thủy điện, các mỏ quặng bô-xít phân đạm, tàn phá môi trường ven biển, lập phố xá, cửa hàng cửa hiệu như ở quê hương chúng. Không ít trong số ấy là tội phạm lưu manh bất lương đe dọa an ninh nhân dân ta. Bộ xậu lãnh đạo Việt Nam phải ngậm bồ hòn làm ngọt, coi bọn xâm lược láo xược hung hãn phương Bắc như bạn thân quý nhất, như ông chủ đáng kính sợ nhất. Nền độc lập dân tộc bị mất dần mòn là nguy cơ lớn nhất, là mối ô nhục lớn nhất của người Việt hiện nay, không một ai có thể cho qua. Trong khi lãnh đạo đảng Cộng sản trở nên hèn với giặc ác với dân, đàn áp không chút ngần ngại các chiến sĩ yêu nước kiên cường bất khuất chống bành trướng như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh… thì Đảng cũng đồng thời biến chất, càng chỉnh đốn lại càng đổ đốn, trở nên một kiểu mafia tội ác, tham nhũng tràn lan, đua nhau tàn phá chia chác mọi nguồn tài sản quốc gia, ăn cắp của nước của dân không chừa một thứ gì, từ nhà đất, ruộng vườn, rừng cây, lập nên những biệt thự, biệt phủ xa hoa giá trị hàng chục tỷ. Theo đà suy thoái của đảng, bộ máy Nhà Nước trở thành bộ máy tội ác, các công ty, Tổng công ty Quốc doanh, các hệ thống ngân hàng bị tước đoạt, phá sản hàng loạt, với hàng chục vụ đại án, hàng trăm tên bị cáo bị điều tra xét xử, trong đó có cả ủy viên Bộ chính trị, ủy viên TƯ, bí thư thành ủy, tỉnh ủy, hàng loạt thiếu tướng, trung tướng, thượng tướng chống tội phạm tự chuyển biến thành tội phạm với những bản án biển thủ cực lớn hàng nghìn tỷ đồng. Trong mấy chục năm suy thoái và tha hóa của Đảng và Nhà Nước, xã hội cũng bị ruỗng nát theo. Lực lượng an ninh lẽ ra là lá chắn bảo vệ dân, là thanh bảo kiếm trừng trị bọn gian ác lại trở thành thế lực đàn áp dân, đánh đập dân như gây thương tật cho cô Đoan Trang, gây nên hàng 30 người chết trong đồn công an trong năm qua. Công an là bọn kiêu binh nêu gương xấu mọi nơi. Công an có ngân sách thuê bọn du côn mất dạy theo dõi từng bước các chiến sĩ dân chủ không cho ra khỏi nhà, đi họp, đi biểu tình, khen thưởng chúng nếu chúng ra tay đàn áp, cứ mỗi lần lập công ở Hà Nội, Sài gòn, Đà Nẵng chúng được thưởng 500.000 đồng, ở các quận huyện mỗi tên được 300.000 đồng. Đến nay sự chính đốn toàn ngành Công an đã quá ư chậm trễ. Trong khi đó nền giáo dục bệ rạc, mất phương hướng, chạy theo mua bán bằng cấp, thầy cô giáo bắt học trò quỳ, phụ huynh học sinh là đảng viên xông vào nhà trường chửi bới cô giáo bắt quỳ đến mức gần xẩy thai! Đạo đức học đường lao dốc khi sinh viên học sinh chửi bới đâm chém cô giáo. Đạo đức gia đình thê thảm khi vợ chồng giết nhau, ông hiếp dâm cháu. Y đức không còn lương tâm khi bộ y tế buông lỏng quản lý thuốc men cho hàng độc dược tràn lan, bệnh viện chen chúc 2, 3 người bệnh chung một giường. Trên đây là bức tranh bi đát toàn cảnh đất nước ta 43 năm sau ngày “lịch sử 30/4”. Thành tích vĩ đại hay thất bại nặng nề? Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam hiện nay vẫn còn lạc hậu về nhiều mặt, tự do ngôn luận, tự do báo chí đứng thứ 175 trên 186 nước. Tự do tôn giáo ở trong số 60 nước bị mất tự do nặng nề nhất. Thu nhập bất công còn rất xa mới được như các nước Bắc Âu, nơi hầu như không có nạn tham nhũng. Không gì nhục bằng người Việt Nam có tỷ lệ phạm pháp cao nhất Đông Nam Á, ăn cắp vặt nhiều nhất ở các siêu thị Nhật Bản, Malaisia, Thái Lan, hộ chiếu ngoại giao Việt Nam bị kém giá trị nhất. Về thu nhập bình quân đầu người, Việt Nam còn cách xa Thái Lan và Indonesia, phải 8 năm mới ngang Thái Lan, phải 12 năm mới ngang Indonesia hiện nay. Nghĩ mà đau, nghĩ mà buồn, đất nước mình kỳ quá phải không anh? Bài thơ cô giáo Trần Thị Lam xoáy sâu vào tấm lòng quặn đau của mỗi công dân. Nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng rất đau đớn khi “nhìn tới đâu cũng phải kìm cơn mửa, Khi một thời bọn đểu đã lên ngôi”. Tất cả mọi nguyên nhân đều từ do đảng mà ra? Nguyên nhân của những nguyên nhân là đường lối chính trị sai lầm tận gốc; Là chủ nghĩa Mác – Lê đã bốc mùi, là chế độ toàn trị độc đảng theo luật rừng xanh, vô pháp, vô đạo, vô luân, là sự giả dối che dấu sự thật, lừa mỵ nhân dân, nói một đằng làm một nẻo. Nếu Bộ chính trị hãy còn có lương tâm và đạo đức, nhân dịp này, hãy mở một cuộc hội họp dân tộc, lắng nghe những người bất đồng chính kiến trong các tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài nước góp ý, phê bình, kiến nghị, đấu trí, đấu lòng yêu nước, thương dân lại để tìm ra con đường chính trị và các chính sách kinh tế, tài chính, văn hóa, quốc phòng, đối ngoại cho đất nước mình, cho nhân dân mình. Cuộc họp dân tộc này sẽ quan trọng hơn cuộc họp TƯ7, càng quan trọng hơn một phiên họp Quốc hội, nó sẽ là đôi đũa thần tạo nên cuộc hòa giải hòa hợp dân tộc tối cần thiết, mở đường cho kỷ nguyên tự do dân chủ của dân tộc ta gắn bó với thời đại mới từ trong năm 2018 này./. VOA
......

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

Chỉ hơn một tuần lễ, hơn 100 năm tù giam và hơn 30 năm quản chế cho các anh chị Đài, Tôn, Đức, Truyển, Hùng, Trội, Túc, Dũng, các chị Xuân và Thu Hà. Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi! (Lương Châu Từ) Bài thơ trên là một trong những bài tứ tuyệt nổi tiếng nhất của văn học Trung Quốc mà hầu như chẳng mấy ai yêu thơ Đường lại không biết đến. “Lương Châu Từ” có nghĩa là Khúc Hát Châu Lương, một địa danh thuộc vùng biên giới Tây Bắc nước Tàu tiếp giáp với Mông Cổ. Lương Châu Từ do Vương Hàn (687-726) làm ra năm 713 khi ông bị triều đình nhà Đường đày ra Lương Châu do tính bộc trực của mình. Bài thơ của Vương Hàn được dịch như sau: Bồ đào, rượu rót chén lưu ly Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi Bãi cát say nằm, chê cũng mặc Xưa nay chinh chiến mấy ai về. Người đọc Lương Châu từ, tùy theo mối cảm xúc riêng mà có những mức độ thưởng thức khác nhau, nhưng có lẽ cũng chung niềm cảm khái ở câu cuối: Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi (Xưa nay chinh chiến, mấy ai về). Và với những tâm tư của câu thơ này, tôi xin ghi lại những cảm nhận của mình với sự hy sinh của những người đang âm thầm đấu tranh cho dân chủ tại VN. Họ đang chịu một tai họa khủng khiếp đang giáng xuống đầu: chỉ hơn một tuần lễ, hơn 100 năm tù giam và hơn 30 năm quản chế cho 10 anh chị em trong số họ. Các anh Đài, Tôn, Đức, Truyển, Hùng, Trội, Túc, Dũng, các chị Xuân và Thu Hà. Tôi có cái may mắn được trò chuyện với hầu như tất cả 10 anh chị em này. Mỗi người một tính cách, mỗi người một tư duy, một thói quen hoặc một tật xấu. Nhưng tất cả có một điểm chung là lòng nhiệt huyết và suy nghĩ lạc quan, cho dù hình như chưa bao giờ tôi hỏi: “Động lực nào khiến bạn chọn con đưòng này”, hoặc “bạn có nghĩ đến ngày nào đó chúng ta sẽ thành công?”. Khi còn đứng trên bục giảng, tôi đã làm đủ mọi cách để “cạy miệng” lũ sinh viên kỹ thuật mà bản chất của chúng là thụ động, nên tôi đã khá thành công khi gợi chuyện để đón nhận những tâm tình của các anh chị đi đấu tranh, đặc biệt là 9 anh chị vừa bị kết án. Và chính những tâm tình bộc trực này đã để lại trong tôi một ấn tượng không bao giờ phai nhòa, mà tôi xin được nhắc lại, đó là lòng nhiệt huyết và sự lạc quan. “Chọn con đường này là mình phải chuẩn bị lên đường bất cứ lúc nào”. Lên đường ở đây có nghĩa là đi tù. Nên nhớ rằng tất cả 8 anh được nêu tên ở trên đều đã bị kết án tù trước đây, điều này có nghĩa là các anh đều đã ý thức được hiểm nguy đang rình rập mình mọi lúc mọi nơi nhưng vẫn sẵn sàng chấp nhận cuộc sống tù đày lần thứ hai. Đây là điều không phải ai cũng dám thực hiện. “Chọn con đường này là mình phải chuẩn bị lên đường bất cứ lúc nào”. Tôi còn nhớ khi nói câu này các anh không có phừng phừng sát khí hoặc đập bàn vỗ ghế, mà nói với một giọng chậm rãi và từ tốn ‒ như thể là đang vừa suy nghĩ vừa nói. Biểu hiện này thường thấy khi người ta đang trút hết nỗi lòng của mình ra vậy. Thường thường sau khi nói ra câu này, anh em chúng tôi đều im lặng. Im lặng bởi vì không có gì phải hỏi thêm, nhưng phần cũng để tâm hồn mình lắng đọng với bao câu hỏi đang quay trong đầu: “Trong hai đứa, đứa nào đi trước?”, “Liệu anh em có còn gặp lại nhau sau khi ra tù lần sau?”, – “Không biết bố mẹ, vợ (chồng) có còn hay mất?”, và thậm chí “Chính mình có còn sống được đến ngày mãn tù hay không?”. Xưa nay chinh chiến, mấy ai về! Vương Hàn đã viết ra câu ai oán này nghe nói để kể về thân phận những người lính dưới quyền đang gió sương ngoài biên ải và trong thời điểm đất nước Trung Hoa loạn lạc. Dù gì thì đây cũng là những người lính của triều đình, được phát lương và theo ý thơ thì trước khi xuất quân lên đường, họ thường đều được uống rượu nho thỏa thích và được tiễn đưa trọng thể. Còn những Đài, Tôn, Đức, Truyển, Hùng, Trội, Túc, Dũng, Xuân và Thu Hà; các anh chị ấy đi vào đấu tranh chỉ với con tim và khối óc. Không ai bắt buộc họ, có chăng là sự thôi thúc của lương tâm. Chẳng ai trả lương cho họ, có chăng chỉ là sự đóng góp khiêm tốn của những người đang được sống bình yên. Và họ cũng ý thức rằng con đường đấu tranh sẽ đầy rẫy chông gai chứ chẳng hề có “tiễn đưa trọng thể” hoặc “rượu nho thỏa thích”. Với tâm tư như thế, các anh hùng của chúng ta ngày hôm nay còn vĩ đại gấp bội lần những người lính của Vương Hàn thuở nào. FB Phạm Minh Hoàng
......

Từ Độc tài đến… diệt vong

Kết cục nào cho một độc tài? Năm 1989, khi bức tường Berlin sụp đổ – biểu tượng cho một thời đại chia rẽ, hận thù, và hệ thống Cộng sản chủ nghĩa thống trị một nửa thế giới sau hơn 70 năm tồn tại đã tan rã. Người ta tràn đầy hy vọng rằng thế giới đã bước sang một kỷ nguyên mới, với Hòa bình, Dân chủ và Nhân Quyền. Cảm hứng từ khoảnh khắc lãng mạn đó đã vút lên, ngân nga trong những giai điệu đẹp đẽ, mê đắm của Klaus Meine. Tượng Lenin bị giật sập tại Ukraine. Ảnh: NBC News Những lớp thanh niên ngất ngây với “Wind of Change” trong chuyến lưu diễn của Scorpion ở sân vận động Lenin năm 1989, có lẽ phải bàng hoàng chua xót khi nhận ra thực trạng cay đắng, sau 30 năm, họ vẫn đang phải cố gắng tồn tại trong một xã hội nhầy nhụa, với gông ách của độc tài cùng mối lo lắng cơ cực “cơm, áo, gạo, tiền”. Những gì mà chúng ta phải chứng kiến, lại là sự trở lại của những mô hình nhà nước toàn trị với những “Tần Thủy Hoàng” ở Trung Quốc hay “Sa hoàng” ở Nga. Đã có những thể chế độc tài sụp đổ, có những kết cục bi thảm dành cho những kẻ từng tột đỉnh quyền lực như Nicolae Ceaușescu, Saddam Hussein, Gadaffi hôm qua…, nhưng vẫn ngạo nghễ những Putin, Tập Cận Bình hay Kim Chính Ân hôm nay. Dù cho loài người đã nỗ lực suốt hàng ngàn năm qua để tiến hóa các mô hình xã hội, hướng đến Dân chủ hơn, Tự do hơn nhưng dường như một nửa của thế giới vẫn luôn có khuynh hướng quay ngược trở lại bóng tối thời Trung cổ, nơi mà quyền lực tối thượng quốc gia chỉ nằm trong tay các “Hoàng đế”. Có quá nhiều kẻ luôn muốn mình “muôn năm”, “vĩ đại”. Và câu hỏi được đặt ra là “Kết cục nào dành cho một độc tài?” Câu trả lời thật khó khăn vì những độc tài tàn ác nhất đã chết già trong những dinh thự và yên nghỉ ở những hầm mộ to lớn có người canh gác, xác được ướp tẩm và được trưng bày để người đời đến chiêm ngưỡng “dung nhan”. Những đoàn cừu vẫn xếp hàng để tỏ lòng tôn kính với kẻ đã từng giết hại hàng triệu người và đẩy quốc gia vào vòng lầm than. Những Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, cho đến ngày hôm nay, vẫn được rất nhiều người tôn sùng là Thánh nhân. Hẳn nhiên, các độc tài trên khắp thế giới luôn muốn được như vậy. Không ai trong số chúng muốn một kết cục như Gadaffi hay Saddam Hussein. Không kẻ nào muốn thấy những tượng đài của mình hôm nay, sẽ bị kéo đổ như của Lê Nin, Stalin và bị dân chúng đập đầu, phỉ báng. Dù vậy, mâu thuẫn giữa việc xây dựng những tượng đài “lãnh tụ” ngàn tỷ và bánh mì cho đám dân đen đói khát thường lại không được những thể chế độc tài quan tâm. Điều này, khiến cho “đám đông quần chúng” đến lúc nào đó phẫn uất vì không thể “ngắm tượng đài” để quên đi cơn cào xé của cái dạ dày trống rỗng, vào một ngày đẹp trời, thường lấy những biểu tượng đó để trút cơn căm giận khôn cùng. Thể chế độc tài nào vẫn duy trì được mức độ của “quan hệ biện chứng khách quan” đó trong vòng kiểm soát, vẫn còn đủ bánh mì cho đám dân nghèo khổ cầm hơi và đủ súng đạn, nhà tù để trấn áp. Chừng đó, những “lãnh tụ” vẫn “muôn năm” và “sáng ngời đạo đức cách mạng.” Với một câu trả lời như vậy, thật khó thuyết phục được nhiều người. Giờ đây, nếu những nhà độc tài nào trên thế giới thiếu bánh mì cho đám dân đen có thể vay tiền và mì ăn liền của Trung Quốc, nếu thiếu súng đạn thì có thể nhờ cậy Putin giúp đỡ. Những Maduro, Assad hay Kim Chính Ân vẫn có thể ung dung hưởng thụ “thành quả cách mạng” đó thôi? Tuy nhiên, còn sớm để mà nói đến kết cục của những độc tài “bé xinh” này, hay tương lai của những “Hoàng đế” và “Sa hoàng” ra sao, nhưng số phận của những dân tộc hay quốc gia có những “lãnh tụ vĩ đại” thì chẳng có gì sáng sủa hay an lành. Syria và bài học cho Việt Nam? Donald Trump đã lựa đúng ngày 13, Thứ 6, tháng 4 để gửi những món quà “đẹp, mới và thông minh” đến cho nhà cầm quyền Assad và Sa hoàng Putin. Hơn 100 quả phi đạn hành trình đã tấn công hàng loạt đến những căn cứ sản xuất hay chứa vũ khí hóa học. Có vẻ lời thề của Sa hoàng sẽ “giáng trả thích đáng” hay “bắn rơi tất cả các tên lửa và phá hủy các bệ phóng” của Mỹ đã rơi tõm vào hư không. Tổng thống Nga Putin (phải) và Tổng thống Syria Bashar Assad tại Căn cứ không quân Hmeimim tại Syria. Ảnh: AP Sức mạnh tàn phá hủy diệt của những vũ khí chiến tranh mà nước Mỹ trút cơn giận dữ xuống thể chế độc tài Assad và những kẻ đang chống lưng cho tên tội phạm nhân loại ở đất nước này đang làm rung động tới tận gan ruột những kẻ trước nay vẫn còn say cuồng sức mạnh của “nước Nga vĩ đại”, “Trung Hoa vĩ đại”. Tất nhiên, truyền thông lề Đảng sẽ ra rả điệp khúc lên án chiến tranh, những hình ảnh thương tâm, đổ nát sau những đợt oanh kích tràn ngập trên những mặt báo. Việt Nam sẽ lại đưa ra những đề nghị “giữ gìn hòa bình thế giới”, các bên bình tĩnh giải quyết bằng đàm phán… bla bla. Trò hề này dù đã cũ mèm nhưng vẫn sẽ tiếp tục vì không có kịch bản thay thế. Không ai có thể phủ nhận chiến tranh là một ác mộng tồi tệ nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến căn nguyên và những kẻ gây ra điều tệ hại đó. Những nhà độc tài thường luôn chuẩn bị một cuộc chiến thường trực với chính người dân của mình từ sớm và những quốc gia theo chủ nghĩa bá quyền thì thường ưa thích kiếm tìm những cuộc chiến để trở nên “vĩ đại” hơn. Hình ảnh những đứa trẻ Syria đang co giật, ngáp thở như những con cá bị vứt lên trên bờ cát nóng khi bị tấn công bởi chất độc hóa học thần kinh bởi quân đội Assad, khiến cho hàng triệu người chứng kiến phải đau nhói và giận dữ. Nó cho loài người thấy sự độc ác là không có giới hạn và tham vọng quyền lực là vô biên. Ở địa ngục Syria, tấn thảm kịch nhân đạo đang cướp đi sinh mệnh hàng trăm ngàn người dân vô tội. Một cuộc chiến khởi nguồn từ mâu thuẫn bùng phát giữa người dân yêu Dân chủ và Tự do bị nhà cầm quyền Assad đàn áp tàn bạo. Sự trỗi dậy của lực lượng Hồi giáo cực đoan IS ở các nước Trung Đông và sự tham gia của các cường quốc để duy trì bàn cờ địa chính trị, quân sự trong khu vực cũng như tìm kiếm nguồn tài nguyên dồi dào từ đất nước này đã đẩy Syria vào vòng xoáy không có lối thoát. Chiến tranh luôn là phương thức nhanh nhất để những chế độ độc tài dành được quyền lực và bảo vệ quyền lực như Mao Trạch Đông từng nói “Chính quyền đẻ ra từ họng súng”. Chiến tranh cũng là sự tiếp nối của chính trị dưới một phương thức khác – phương thức cuối cùng để con người quyết định cho mình sự Tôn nghiêm hoặc phỉ báng, Tự do hay Nô lệ. Đó là cách thức con người hủy diệt lẫn nhau cũng như tự bảo vệ cuộc sống, những giá trị và lý tưởng của mình trước kẻ thù. Muốn có Hòa bình, hãy chuẩn bị Chiến tranh – câu thành ngữ nổi tiếng này có thể được coi là định luật sinh tồn của các chủng tộc hay quốc gia. Và dù muốn hay không thì nó vẫn là yếu tố quyết định những ngả rẽ của lịch sử. Những kẻ khờ khạo, yếu hèn thì luôn nói “Tôi yêu hòa bình, tôi ghét chiến tranh, tôi muốn làm bạn với tất cả”. Nhưng vấn đề ở chỗ, một thế giới không có chiến tranh thì trên Thiên đường cũng không tồn tại. Số phận một dân tộc hay quốc gia tùy thuộc vào sự lựa chọn và chuẩn bị của cuộc chiến trong tương lai ra sao. Số phận của những nhà độc tài tùy thuộc vào sự lựa chọn kẻ thù của chúng là ai. Những nhà cầm quyền lựa chọn Nhân dân làm kẻ thù như chính quyền Assad, Kim Chính Ân hôm nay, kết cục của họ sẽ sớm được định đoạt bởi chính người dân của đất nước đó và những thế lực do Mỹ và Phương Tây hỗ trợ. Còn những “lãnh đạo” CSVN thì sao? Tân Phong, ngày 15.04.2018
......

Trí thức và mâm thịt chó

Ở Việt Nam có trí thức hay không? Trí thức Việt Nam đang ngồi chỗ nào trong câu chuyện chính sự? Đó là những câu hỏi nổi cộm hiện nay, khi mà số lượng giáo sư, tiến sĩ tại Việt Nam nhiều tựa lá mùa thu (*), trong khi đó, hầu hết các sách lược cho tương lai Việt Nam lại có nguy cơ rơi vào tắc tị. Có người ví von chính trường Việt Nam như một mâm thịt chó, và trí thức Việt Nam có người thèm thịt chó, có người ăn gượng gạo, có người không muốn ăn. Vậy vấn đề mâm thịt chó và trí thức Việt Nam diễn tiến ra sao? This image has been resized with Reshade. To find out more visit reshade.com Nói cho nhanh, chính trị Việt Nam hiện tại và nền chính trị các quốc gia độc tài có mô hình chính trị mâm thịt chó. Có nghĩa là khác xa với nền chính trị buffet của các quốc gia dân chủ mà ở đó, chính khách có thể chọn rượu vang đỏ, vang trắng, bia, rượu mạnh… Có thể chọn ăn bánh ngọt, bánh mặn, thịt heo xông khói, thịt bò hay cua biển… Và có thể đứng trò chuyện với nhau một cách thoải mái, cởi mở trong giai điệu du dương của một symphony… Thì, nền chính trị mâm thịt chó chỉ có độc nhất là chó! Thịt chó có thể biến thể thành bảy món, chín món, rượu có thể là rượu ngô Bắc Hà hay rượu nếp cốm hoa vàng hay Bàu Đá… Nhưng, chắc chắn một điều, trong mâm thịt chó, người ta chuộng ăn tạp, uống mạnh và ồn ào. Trong mâm thịt chó chỉ có rượu, lá mơ, củ sả, củ riềng, thịt chó, dồi chó, các món biến thể của chó nhưng tuyệt nhiên không có món thịt của bất kì con gì khác lọt vào mâm được. Và muốn ngồi chung chiếu chung mâm, người ta phải cùng tần số ăn uống, cùng tần số hưởng thụ. Điều này cũng thể hiện qua đẳng cấp mâm, nghĩa là người bình dân, kẻ tiện dân thì ngồi trong các quán bình dân, giá rẻ, chuyên bán chó đánh bả. Ngược lại, dân thịt chó hạng sang thì ngồi chiếu hoa, uống rượu ngon và mỗi phần thịt chó có giá tiền ít nhất là gấp đôi, gấp ba lần quán bình dân. Muốn ăn hạng sang, muốn nâng level, người hạng bình dân hay hạ tiền phải bằng cách này, cách khác lân la, hi sinh nhiều thứ và thậm chí nịnh nọt, chạy chọt để được làm quen với các mâm hạng sang mà tới. Đương nhiên, kẻ bình dân hay mạt hạng muốn đổi đời, trước đó hắn/y/thị phải có một cục tiền thật to (cũng có khi nhờ buôn chó, bắt trộm chó, đánh bả chó mà có được!). Và trong mâm thịt chó, dù là hạng sang hay hạng bình dân, hạng rượu gạo nát bét đi nữa thì vấn đề ăn và uống vẫn quan trọng nhất. Bởi không thể có chuyện vừa chấm mắm tôm, vừa nhai nhồm nhoàm lá mơ, thịt chó mà nói chuyện về âm nhạc, chính trị, văn hóa, văn chương hay triết học. Người ta ngại nói bởi nói sẽ văng mắm tôm sang người khác, văng vào mâm, sẽ gây khó chịu. Và nói cũng làm “mất năng suất” ăn uống, mất cảm giác ngon khi ăn, mất “tập trung dân chủ” khi ăn. Đến đây, có thể thấy rõ dần mối quan hệ giữa trí thức và mâm thịt chó chính trị Việt Nam. Một trí thức, dù muốn hay không muốn, khi bước vào nền chính trị mâm thịt chó thì phải chấp nhận luật chơi của mâm thịt chó nếu không muốn bị tống cổ ra khỏi mâm, khỏi chiếu. Thử xem lại, vấn đề gần gũi nhất, quan trọng nhất đối với người trí thức chính là Giáo Dục. Trí thức Việt Nam đã làm được gì cho nền giáo dục? Xin thưa là họ không những không làm được gì mà có nguy cơ trở thành những kẻ xôi thịt, những kẻ ăn bám hoặc những kẻ ù lì mang mầm mống phá hoại. Vì sao lại nói các trí thức Việt Nam có nguy cơ trở thành mầm mống phá hoại và nói như vậy khi đứng ở góc nhìn nào? Trước tiên, phải xét vấn đề tiếng nói của người trí thức trong mối tương quan chính trị Việt Nam, nói về sức nặng của trí thức trong mối tương quan đó. Thử nhìn lại suốt gần 50 năm, nền chính trị Việt Nam do ai quản lý, ai lãnh đạo và ai cai trị? Đương nhiên, trí thức Việt Nam không có mặt trong hệ thống quản lý, lãnh đạo và cai trị. Có chăng là tới thời điểm bây giờ có ông Nguyễn Phú Trọng với học hàm Giáo sư, học vị Tiến sĩ nhưng cái học hàm học vị của ông này không phải là học hàm học vị của trí thức, những thứ tri thức ông ta thụ đắc để có học hàm học vị không phải là tri thức quí của nhân loại mà là Mác, Lê, một loại “hoại tử tri thức”. Nghĩa là nền văn minh nhân loại đã vứt thứ tri thức ấy vào sọt rác rất lâu rồi, bởi nó có nguy cơ gây họa cho nhân loại. Và cái họa dễ nhận thấy nhất là hệ thống chính trị Việt Nam trở thành hệ thống biệt lập so với đà tiến triển của nhân loại. Thay vì cố gắng thiết lập một nền giáo dục tiến bộ, thiết lập một nền chính trị khoa học, dân chủ và cởi mở để thông qua đó, các vấn đề về y tế, giáo dục, kinh tế được minh bạch, sạch sẽ và văn minh… Thì nền chính trị Cộng sản xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam dường như lãnh đạo và lãnh đạo, đi theo một đường hướng chẳng liên quan gì mấy các lĩnh vực cấp thiết dân sinh. Nền chính trị quyền lợi mâm chén này nhanh chóng đẩy xã hội đến chỗ thực dục và cơ hội chưa từng có trong lịch sử. Một cử nhân sư phạm, muốn trở thành giáo viên, thay vì tốn công sức đầu tư cho kĩ năng, bản lĩnh và đạo đức sư phạm thì người ta tốn công sức để đào ra một khoản tiền đủ lớn để đút lót, hối lộ, kiếm chỗ đứng trên bục giảng. Để rồi sau đó, với mức lương thực nhận, phải tốn đền mười, mười lăm năm thì “nhà giáo” kia mới gỡ được vốn đã đầu tư cho chỗ đứng bục giảng. Thử hỏi, với kiểu đầu tư như vậy, liệu giáo viên có thể chịu đứng yên mà dạy học sinh cho tới nơi tới chốn, dạy một cách nhiệt tình? Hay là giáo viên kia phải ngồi trên lửa, phải phóng lao theo lao, phải chấp nhận chịu những cái nhục kế tiếp để mà giữ chỗ dạy, giữ cái hợp đồng, hi vọng biên chế? Và cái giá phải trả cho việc này là sinh quyển giáo dục vốn thiêng liêng, trong lành nhanh chóng bị biến thành hố rác văn hóa, hố rác lịch sử và ngành giáo dục vốn tĩnh lặng, trí tuệ trở thành cái chợ ồn ào, nhặng xị. Các nhóm ngành nghề khác từ y tế, truyền thông cho đến văn hóa, kinh tế đều không thoát khỏi tình trạng chạy chỗ, móc ngoặc, tham nhũng, đút lót, hối lộ mà ngành giáo dục đang dính chấu. Và với một quốc gia mà mọi thứ đều thực dục, đều qui ra tiền, đều chạy chọt, đều cá lớn nuốt cá bé, đều đội trên đạp dưới… Thì liệu sự nghiêm túc, sự tử tế, lòng tự trọng có tồn tại được không? Nói đến đây để thấy chỗ đứng của người trí thức trước mâm thịt chó chính trị Việt Nam, dường như trí thức không còn là trí thức một khi họ ngồi vào mâm thịt chó. Họ phải im mồm, nhìn trước ngó sau mà ăn để vừa không mất miếng ngon lại không gây mích lòng người khác vì đã gắp quá nhiều, gắp quá nhiệt tình. Và trong mâm thịt chó, mọi người đều đồng đẳng, đều uống rượu như nhau, đừng mang âm nhạc hay thơ ca, khoa học vào đây để nói. Bởi nói chỉ làm văng mắm tôm, ảnh hưởng đến bữa ngon của người khác. Muốn nói đến tri thức nhân loại, muốn hành xử như một trí thức, người trí thức phải tìm chỗ khác, phải nói chuyện đó trong buổi cà phê, trong buổi uống trà, những người cùng tiếng nói với nhau. Và đương nhiên, nói để mà nói, nói để giải bớt cái ấm ức không nói được lúc ăn thịt chó chứ không phải nói ra để thay bữa thịt chó bằng tiệc buffet hay bữa cà phê hay kêu gọi bỏ thịt chó. Bởi tất cả những hành động đó có thể khiến nhà trí thức tắm đầy mắm tôm trước khi bị tống ra khỏi mâm thịt chó và có thể là trước khi chết. Nói cho cùng thì nếu xét trong hệ thống chính trị Việt Nam, có thể khẳng định là không có nhà trí thức nào trong đó cho dù họ mang danh và có thực tài với học hàm, học vị của họ. Nhưng những thứ đó chỉ có giá trị khi họ đứng bên ngoài chính trị. Còn những gì họ phải dùng, phải sống trong hệ thống là nói và làm cho phù hợp với chỉ thị, với cương lĩnh đảng. Điều này cũng giống như trí thức ngồi vào mâm thịt chó, nguyên tắc bắt buộc là không được nói gì ngoài ăn thịt chó! Trí thức Việt Nam đang phải tham gia, tham dự và hưởng thụ một cái mâm thịt chó quá đa dạng, phong phú và ngon miệng, đừng trách vì sao họ chỉ biết nhồm nhoàm nhai. Bởi không nhai cũng chết!  
......

Những phiên tòa của "Phát xít Hitler" và "bọn đế quốc thực dân"

Quan sát những phiên tòa Cộng sản hôm nay, người ta nhớ lại và tiếc cho những phiên tòa của Đức Quốc xã của Hitler đã xử những người Cộng sản về tội "Đốt nhà Quốc hội Đức". Phiên tòa đó đã diễn ra ròng rã 3 tháng trời và cuối cùng Dimitrov và ba "đồng chí" của ông ta được tuyên trắng án, chỉ một người bị tuyên phạm tội. Người ta nói rằng: Giá như ngày đó, Đức Quốc xã biết cách "học tập và làm theo" tấm gương của nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam, thì có lẽ thế giới đã đỡ khốn nạn hơn vì chắc chắn Tòa Việt Nam cũng chỉ dành nửa ngày xét xử là có thể tuyên tử hình cả ổ. Và điều đó, có nghĩa là thế giới đã bớt đi một phần nào đó những tai họa cộng sản do chính những bị cáo này gây ra sau đó. Tiếc rằng, phiên tòa này đã diễn ra cách đây gần 100 năm, nên các quan tòa Đức Quốc xã phát xít đã không kịp sang Việt Nam mà "Học tập và làm theo". Người ta cũng nhớ lại phiên tòa ở Hong Kong bắt đầu vào ngày 31/7/1931 xét xử Tống Văn Sơ. Tống Văn Sơ thì tội đã rõ rành rành. Tài liệu của Đảng CSVN đã viết rất rõ như sau: "Mùa xuân 1930, sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị thống nhất các tổ chức Đảng tại Cửu Long, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đi Xiêm, Malaysia, Singapore rồi quay lại Thượng Hải hoạt động cách mạng. Ông ở tại ngôi nhà 186 phố Tam Lung, Cửu Long - Hương Cảng, và nơi đó trở thành trụ sở liên lạc bí mật giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí khác". Và: "Cuối tháng 4, Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Quốc tế cộng sản: “Tổng Bí thư Trần Phú đã bị bắt ngày 19 hoặc 20/4”, “mọi hoạt động ở địa phương đều bị lộ”, “nhiều tài liệu quan trọng rơi vào tay cảnh sát”, “đề nghị các tổ chức cách mạng của Quốc tế Cộng sản, nhất là Đảng Cộng sản Pháp tăng cường bảo vệ Đông Dương” Trước đó, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Đảng CS Đông Dương, một tổ chức chuyên cổ vũ bạo lực và manh động, lật đổ và cướp chính quyền. Với những hành động đó của Nguyễn Ái Quốc, nếu sống dưới "chế độ XHCN tươi đẹp" ngày nay, thì hẳn là bản án kết tội "Nhận tiền nước ngoài của các thế lực thù địch, lập đảng chống đối nhằm cướp chính quyền, làm tay sai, gián điệp cho nước ngoài..." chắc chắn sẽ được tuyên. Và mức án chắc chắn không chỉ là một lần tử hình. Thì đấy, Tòa án và côn an đã kết án Trần Thị Xuân 9 năm tù vì đã "nhận 170 triệu đồng" - Khoảng hơn 7.000 đôla - nhằm hoạt động lật đổ chính quyền gồm nhung nhúc công an, súng đạn, nhà tù... bằng cách cứu trợ dân nghèo là những nạn nhân của đảng mà lẽ ra đó phải là trách nhiệm của đảng. Thế nhưng, Tòa án của bọn Thực dân đã phải xét xử đến lần thứ 8 vào ngày 12/9/1931, và ngày 28/12/1932, sau khi vụ án được đưa lên đến Toà án Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh thì Tống Văn Sơ được trả tự do. Như vậy, với một tội danh rõ ràng và các hoạt động của Tống Văn Sơ là có tội rõ ràng trước Tòa án thực dân. Thế nhưng những phiên tòa kéo dài đến 16 tháng, Tống Văn Sơ được trả tự do. Điều mà Đảng CSVN ca ngợi ở phiên tòa này, là phiên tòa đã có các luật sư của bị cáo là Luật sư Loseby đã bào chữa xuất sắc cho Tống Văn Sơ từ có tội thành vô tội. Đọc lại tiến trình phiên tòa này, người ta thấy thật nực cười cái Tòa án Thực dân, đế quốc. Đó không phải là Tòa án Nhân dân như ở Việt Nam, khi xét xử đã không được "sự lãnh đạo sáng suốt và tuyệt đối" nào của đảng. Vì thế, đã không có một bản án bỏ túi nào được thi hành. Tại Tòa, ông Luật sư Loseby cứ cãi những điều rất vớ vẩn. Chẳng hạn như đòi quyền được xét xử trong vòng 14 ngày kể từ khi Tống Văn Sơ bị bắt, rồi tranh cãi chuyện bắt ngày 06/6 chứ không phải ngày 12/6 như quyết định của chính quyền Hong Kong đã ghi. Thế mà cái tòa án kia vẫn cứ nghe theo mới là chuyện lạ. Giá như ở Việt Nam, thì chuyện bắt giam bao lâu là tùy thích, luật là một chuyện, còn ý đảng là chuyện khác. Xưa nay, đảng có làm theo luật bao giờ. Bởi ngay cả Đảng CS cũng chỉ là một nhóm hoạt động ngoài vòng luật pháp. Chẳng hạn, Luật quy định việc tạm giam, tạm giữ dù được gia hạn cũng không quá 16 tháng, nếu không đưa ra xét xử thì phải đình chỉ điều tra. Nhưng Nguyễn Văn Đài và bạn bè ông bị bắt giam tận 28 tháng mới đưa ra xét xử. Thì đã sao? Chẳng hạn, nhà cầm quyền chặn bắt Trần Thị Xuân giữa đường, rồi sau đó mới có quyết định và cũng không cho thân nhân biết, khi xử án tuyệt đối không thông báo và lén lút xử kín. Thì đã sao? Thế mới là Tòa án XHCN. Nếu như, trong các phiên tòa ở Hong Kong, những điều bất hợp lý được các luật sư như Loseby tận dụng triệt để và tòa phải nghe họ. Thì ở Tòa Việt Nam, tất cả những điều luật sư có đưa ra hợp luật, hợp lý hợp đạo đức đến đâu, nhưng Tòa vẫn cứ tuyên theo tờ giấy đút túi. Bởi "tất cả những sai sót trên không ảnh hưởng đến quá trình xét xử". Thế là xong. Vì vậy, khi quan sát các phiên tòa hôm nay, người dân Việt Nam lại thấy tiếc một điều: Phải chi, cách đây gần trăm năm trước, "Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam" đã ra đời, thì Tòa án Hong Kong sẽ đến Hà Nội học cách xử án. Và như vậy, thì làm gì còn một Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, để ông ta rước cái mớ Chủ nghĩa Mác - Lenin vô thần và tàn bạo, hoang tưởng và manh động, độc tài và thuần phục ngoại bang vào làm điêu đứng đất nước này gần cả thế kỷ qua!
......

Tại sao Bộ Công An bị ‘phanh thây’?

Trong thời gian ngắn vừa qua, tình hình đốt lò của ông Trọng đã đổi chiều và đang hướng vào Bộ Công An với hai sự kiện đang tạo rất nhiều bất ngờ trong dư luận. Sự kiện thứ nhất là vụ công an Tỉnh Phú Thọ, chứ không phải Bộ Công An, đã triệt phá đường dây đánh bạc online trị giá hàng chục triệu Mỹ Kim, dẫn đến việc bắt giữ và truy tố hai Tướng Công An cao cấp. Đó là Trung Tướng Phan Văn Vĩnh, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hóa, nguyên Cục trưởng Cục Phòng chống tội phạm xử dụng công nghệ cao. Sự kiện thứ hai là Bộ Chính Trị ra Nghị quyết sắp xếp lại bộ máy của Bộ Công An, qua đó xóa bỏ 6 Tổng Cục và hai Bộ Tư lệnh theo khẩu hiệu được đưa ra là: Bộ tinh, Tỉnh mạnh, Huyện toàn diện, Xã bám cơ sở. Theo chủ trương này thì kể từ nay, nhân sự và cơ chế ở Trung ương bị cắt giảm, để tỏa quyền xuống cho các Tỉnh, Thành và nhất là vũ trang hóa bộ máy công an cấp xã để bảo vệ trật tự và an ninh. Những diễn biến nói trên đã không chỉ gây ra những thắc mắc của dư luận ở trong và ngoài nước mà còn tạo ra sự hoang mang ngay chính trong nội tình của Bộ Công An. Để trấn an dư luận, Bộ Công An một mặt giải thích rằng đây chỉ là đề án cải tổ mà Bộ đã tiến hành từ năm ngoái nhằm cắt giảm bớt nhân sự và tinh gọn bộ máy… Nhưng không ai tin. Vì thế mà ngày 6 tháng 4, Bộ Công An một lần nữa phải ra Công Điện mang số 795/BCA-V11, gửi hỏa tốc đến các đơn vị, địa phương để giải thích nội bộ vì sao phải cải tổ Bộ Công An. Đó là “để siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng ngừa sai phạm, suy thoái trong công an nhân dân.” Bộ Công An được coi là “thanh kiếm và lá chắn” của chế độ nên trong nội bộ của ngành công an mới lưu truyền câu nhật tụng cho mọi cấp: “còn đảng – còn mình”. Câu nhật tụng này cho thấy là mọi cán bộ an ninh phải chấp nhận mọi hy sinh bảo vệ đảng thì mới có thể sống còn. Với một cỗ máy được xây dựng bằng những con người được nhồi sọ việc “bảo vệ đảng là trên hết”, mà nay lại rơi vào tình trạng rối loạn kỷ luật, buông lỏng kỷ cương và nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… thì đây đúng là một nguy cơ mới. Tại sao nguy cơ lại xảy ra vào lúc này? Thứ nhất, rõ ràng có sự đấu đá trong nội bộ của Bộ Công An kể từ khi ông Trọng ngồi vào ban thường vụ của Đảng ủy Công an. Từ trước đến nay, Tổng bí thư đảng không dính đến công an, mà là nhiêm vụ chỉ đạo trực tiếp từ Thủ tướng chính phủ. Điều này cho thấy là ông Trọng muốn xây dựng một vây cánh riêng cho phe mình trong bộ máy công an. Muốn như vậy ông Trọng phải phá bỏ mọi cơ chế cũ, làm mới lại từ đầu thì mới có thể loại được những ảnh hưởng của phe nhóm khác. Cụ thể là ông Trọng phải cắt đi sự chi phối của phe Nguyễn Tấn Dũng, phe Lê Hồng Anh, phe Trần Đại Quang từng một thời chi phối các nhân sự trong Bộ Công An. Nói cách khác, ông Trọng phải thay máu mới ngay trong đầu não Bộ Công An, vì thế mới đưa đến việc giải tán 6 Tổng Cục (An ninh, Chính trị, Hậu cần – Kỹ thuật, Tình báo và Cảnh sát) vốn đã được thành lập (2009) và cải tổ (2014) dưới thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ Tướng (từ 2006 – 2016). Thứ hai, có sự cấu kết ăn chia và thao túng quyền lực giữa những băng nhóm trong các Tổng Cục khiến cho các hoạt động của Bộ Công An rơi vào tình trạng sứ quân. Sự kiện ông Nguyễn Phú Trọng sử dụng bộ máy công an Tỉnh Phú Thọ để truy bắt Thiếu tướng Nguyễn Thanh Hóa, Trung Tướng Phan Văn Vĩnh trong đường dây cờ bạc, mà không giao cho Tổng Cục Cảnh Sát hay một bộ phận nào khác của Bộ, cho thấy là ông Trọng sau hai năm ngồi vào ghế thường trực đảng ủy công an thấy rõ là các Tổng Cục đã bị chi phối bởi những thế lực có quỹ đen và bộ máy kinh tài riêng. Sự kiện Vũ Nhôm, cán bộ của Tổng Cục Tình Báo, bị bắt giữ và đang bị điều tra về nhiều tội liên quan đến kinh tài và rửa tiền cho cấp lãnh đạo trực tiếp là Thứ trưởng Công an Bùi Văn Thành, cho thấy tính chất sứ quân ở trong Bộ Công An vô cùng nghiêm trọng. Chính sự hoạt động theo kiểu sứ quân của các Tổng Cục đang làm cho kế hoạch đốt lò của ông Trọng bị khựng lại nên ông Trọng mới ra tay phá đổ. Nói cách khác, ông Trọng mà không triệt hạ các Tổng Cục thì có ngày chính những sứ quân này “bắt nhốt” những người của phe ông Trọng… cũng tội tham ô. Thứ ba, Bộ Chính trị CSVN cũng đang nhìn thấy làn sóng bất mãn của người dân đang tiệm tiến bùng phát vì ô nhiễm môi trường, bất công xã hội, đời sống khó khăn, thất nghiệp lan tràn…, ngày càng gia tăng đáng kể tại các địa phương. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc cải tổ bộ máy công an nhằm thu nhỏ quyền lực tập trung ở Bộ, mà tỏa xuống các Tỉnh, Huyện để có thể theo dõi và đối phó kịp thời những chống đối của người dân. Sự kiện tách Sở Phòng Cháy Chữa Cháy (PCC) ra khỏi Bộ Công An và đưa về trực thuộc các Tỉnh, Thành là một chỉ dấu cho thấy là các vụ cháy xảy ra gần đây không đơn giản là do thiên tai hay bất cẩn của con người, mà đến từ động lực bất mãn và chống đối ngầm của người dân. Vụ cháy ở Chung cư Carina mới đây là trường hợp điển hình với kết luận của cơ quan điều tra là một nửa hàng chục ngàn vụ cháy ở Việt Nam là do cố tình phá hoại chứ không phải do tai nạn. Nói cách khác, bộ máy tập quyền ở các Tổng Cục đã không chỉ là ô dù để cho các phe nhóm ở thượng tầng “ngáng cẳng” lẫn nhau, mà còn khiến cho Bộ Công An có nguy cơ mất khả năng đối phó khi xảy ra những biến động ở địa phương. Những chuyển biến này đã đẩy chiến dịch đốt lò chống tham nhũng của ông Trọng đi vào khoảnh khắc nguy hiểm. Hộp “giun tham nhũng” đã tung toé không chỉ ở những bộ phận kinh doanh mà còn nằm ngay trong cơ quan điều tra và truy tố tội phạm. Cái nguy hiểm là ở chỗ ông Trọng sẽ giải quyết vị trí cho hơn 100 cấp tướng, tá ở các Tổng Cục này ra sao? Nếu đẩy họ về địa phương, hoặc cho ngồi chơi chờ nghỉ hưu như Tướng Trương Giang Long (Phó tổng cục trưởng Tổng cục chính trị đã bị cho nghỉ chờ hưu sau khi video phát biểu ý kiến chống Trung Quốc bị lộ ra bên ngoài hồi tháng 3/2017) thì chẳng khác gì đang tạo ra những ngòi nổ chậm. Từ lâu nay, tham nhũng đã là cái bướu hoại sinh ngủ yên do sự thỏa hiệp để tồn tại giữa các phe nhóm. Nay phe ông Trọng muốn “trong sạch” đảng để củng cố quyền lực của phe nhóm mình, vô hình chung ông ta đang phá đổ nguyên tắc “thoả hiệp” này, kích hoạt bướu hoại sinh trổi dậy tấn công mọi tế bào trong guồng máy độc tài đầy tham nhũng và tham lam quyền lợi lẫn quyền lực. Không những ngai vàng mà có thể cả sinh mạng của ông Trọng đều bị đe dọa trầm trọng. Dường như giây phút hấp hối của chế độ đang điểm! Nguồn: Viettan.org
......

Phan Văn Vĩnh, tướng công an hay đại ca giang hồ?

Chỉ đến khi Phan Văn Vĩnh bị bắt, người ta mới để ý nhiều hơn đến những thành tích phá án của ông. Ông ta đã ghi tên tuổi trong nhiều vụ án lớn như vụ án Lê Văn Luyện, Nguyễn Thị Huyền Như, Bầu Kiên, thảm án Bình Phước… Báo chí ca ngợi ông, gọi đó là những chiến công nhưng ông nói “đây không phải là chiến công mà là hoàn thành trách nhiệm”. Lời nói khiêm tốn đó làm cho người ta nể nang ông hơn, cho dù đó là sự “khiêm tốn” của một người cao ngạo. Nhưng đọc đến bài viết “Cựu Trung tướng Phan Văn Vĩnh và những giai thoại phá án cực kỳ thông minh” (VTCnews) , tôi thấy hãi hùng về những mưu mẹo phá án của ông ta. Bài viết chỉ kể ra vài vụ trong số rất nhiều giai thoại “đếm không hết” về Phan Văn Vĩnh. Để điều tra về vụ mất 1 tấn thóc giống của hợp tác xã, ông ta cho đốt đống rơm nhà nghi phạm, lấy cớ chạy tài sản (là tang vật) ra khỏi nhà sợ đám cháy lan sang. Trong một vụ khác, ông ta bắt cóc nghi phạm bỏ vào túi vải rút dây lại, vác nghi phạm vắt ngang đường ray xe lửa cho tàu kẹp, nhét đá vào túi nghi phạm giả làm làm lựu đạn. Khủng bố tới mức ấy, gì mà nghi phạm chẳng khai. Luật sư Lê Công Định ngạc nhiên: “Những "nghiệp vụ" vừa phạm pháp nghiêm trọng, vừa xem thường nhân mạng như thế chẳng những không bị nghiêm cấm, mà người sử dụng chúng còn được khen là "phá án thông minh" và thăng cấp đến Trung tướng, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát”. Bài viết còn tiết lộ thêm thói quen xài luật rừng trong vụ diệt băng cướp tiệm vàng. Trong vụ này, Phan Văn Vĩnh chủ trương chỉ bắt một tên còn lại để chúng trốn chạy, đề phòng đường cùng, chúng sẽ chống trả liều lĩnh. Đấy là một cách tính toán khôn ngoan, nhưng để chúng trốn chạy rồi “bắt nguội sau” thì lại rõ thêm chất xã hội đen khi phá án của ông ta. (Về vụ này, một bài viết với lý lẽ khá thuyết phục trên facebook cho rằng thực chất là vụ giang hồ Thái Bình đến “nói chuyện” phải trái với chủ tiệm vàng do không giữ lời hứa chứ không phải là cướp tiệm vàng. Bạn đọc quan tâm có thể xem TẠI ĐÂY) Sợ thật. Chắc không chỉ mình Vĩnh có “biện pháp nghiệp vụ” ấy mà hẳn còn có rất nhiều vụ được phá án theo kiểu này. Vì ông ta làm tổng cục trưởng lại là anh hùng, được đảng trọng dụng, uy thế nghiêng ngả, gì mà cấp dưới của ông ta không lấy đó làm tấm gương mà noi theo. Hèn chi mà lắm án oan. Hèn chi mà trong giới hoạt động xã hội dân sự, đã xảy ra rất nhiều người bị đánh dọc đường, bị bắt cóc rồi bị đánh đập tơi tả. Tàn bạo nhất là cách hành xử với Mục sư Nguyễn Trung Tôn, người vừa bị kết án 12 năm tù hôm 5/4/2018 vừa rồi. Ngày 27/2/2017, ông bị bắt cóc rồi bị đánh vô cùng dã man, lột hết quần áo và đồ đạc ông mang theo rồi vứt ở một khu rừng hẻo lánh. Nếu pháp luật nghiêm minh thì những người phá án kiểu Phan Văn Vĩnh phải bị khởi tố trước cả nghi phạm. Tôi cứ nghĩ Phan Văn Vĩnh là đại ca giang hồ khét tiếng, chứ không phải là tướng công an… nhân dân vì cách điều tra của ông ta rặt chất xã hội đen. Nhưng đọc đến chuyện này thì tôi còn ngạc nhiên hơn. Xin trích: Có một giai thoại kể rằng, bên lề Hội nghị Công an Toàn quốc năm 1996, báo chí đã vậy quanh Trung tá Phan Văn Vĩnh với câu hỏi: nhờ đâu mà chỉ trong một thời gian ngắn giữ chức GĐ CA Nam Định, ông đã khiến giang hồ gần như biệt bóng ở xứ này, trong khi trước đó thành Nam khét tiếng đất dữ, thủ phủ giang hồ Bắc? Phan Văn Vĩnh đã trả lời: “Dễ lắm. Nhậm chức giám đốc xong, tôi hẹn hết 500 thằng đầu gấu giang hồ lại, phát cho mỗi đứa một cái phong bì. Tôi bảo: “Anh lên giám đốc, an hay nguy đất này giờ là trách nhiệm của anh. Các chú cầm lấy ít tiền, qua bên kia phà Tân Đệ, về Thái Bình, Hải Phòng… hay đi đâu đó mà làm ăn, để đây cho anh yên tí. Lỡ có “móm” thì về, anh lại cho một ít”. Chúng nó quý nên nghe tôi, kéo nhau bỏ đi hết. Vậy là Nam Định yên lành. Nào có bí quyết gì đâu”. Hết trích. Không hiểu sao, chuyện này cũng được đem ra báo cáo ở hội nghị toàn quốc cho các tỉnh học tập. Đây không thể gọi là dẹp giang hồ mà chỉ là động tác “đánh bùn sang ao”, ‘vứt rác sang nhà hàng xóm”. Đẩy tội phạm ở địa phương mình quản lý sang địa phương khác với cách cư xử và lời nói đầy khuyến khích là một kiểu chơi xấu, phi nguyên tắc. Hẳn là ngành công an hay bất cứ một ngành quản lý nào đều phải biết đến nguyên tắc không được vì lợi ích cục bộ mà ảnh hưởng xấu đến lợi ích toàn cục. Nếu tỉnh nào cũng học tập Vĩnh thì giang hồ chẳng cần cướp bóc gì vẫn có tiền để tiêu xài vì “Lỡ có ‘móm’ thì về, anh lại cho một ít”. Đó là sự dung dưỡng cho tội ác. Cách xưng hô anh anh, chú chú, dùng từ “móm” cũng toát lên chất giang hồ trong con người Phan Văn Vĩnh. Ấy là chưa nói đến tiền nuôi 500 giang hồ Vĩnh lấy ở đâu ra. Lương của Vĩnh sao đủ bao? Phải công nhận rằng, Phan Văn Vĩnh là một người can đảm, có bản lĩnh và thông minh nữa. Hành động ông ta trực tiếp quật ngã kẻ giang hồ (không đùn cho cấp dưới) để rồi mang biệt danh “Vĩnh Chột” là một ví dụ về điều đó. Vĩnh không vượt qua cám dỗ của vật chất và danh tiếng trong xã hội đen do chất đại ca đậm đặc trong người nên đã sa vào vòng lao lý. Tuy nhiên bài viết trên VTCnews gọi đó là những “giai thoại” nên mức độ chân thực không biết như thế nào nhưng nội dung cơ bản chắc có. “Ranh giới giữa một người anh hùng và một tội phạm gần như chẳng có gì để phân biệt. Thế giới ngầm luôn có từ rất lâu và nó được bảo kê bởi những ông trùm nhưng mang danh là những anh hùng vì bình yên giấc ngủ của nhân dân. Còn bao nhiêu những người anh hùng như vậy?” (facebooker Nguyễn Tuấn Anh) Việc tướng Nguyễn Thanh Hóa, rồi tướng Phan Văn Vĩnh không chỉ liên quan đến 2 ông tướng này. Hóa và Vĩnh hẳn phải có những kẻ cấp cao hơn chống lưng. Có thể còn những ông tướng khác, thậm chí cao hơn sẽ bị bắt. Một tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm lại bảo kê cho tội phạm trong vụ án đặc biệt nghiêm trọng; một cục trưởng Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao lại bảo kê cho tội phạm sử dụng công nghệ cao và những biểu hiện khác còn cho thấy ngành công an - ngành trước hết có chức năng bảo vệ pháp luật lại đứng trên pháp luật, vi phạm pháp luật nhiều nhất. Độ nghiêm trọng tới mức cần cải tổ ngành công an khi nó đã có nhiều dấu hiệu của một băng đảng xã hội đen. Và không chỉ ngành công an, mà còn các ngành kiểm sát, tòa án, giáo dục, y tế…, cả hệ thống chính trị đã mục ruỗng tới mức nhân dân không thể chịu đựng được nữa và chế độ không còn lý do gì để tồn tại. 8/4/2018
......

Nghĩ gì về bản án nặng nề dành cho những nhà đấu tranh trong hai năm gần đây?

Đầu tiên tôi phải nói, nghĩ ở đây là cá nhân tôi, không phải sự suy nghĩ của đa số đám đông. Rất buồn, phải thú nhận là vậy. Không thể tự ru mình bằng kiểu Võ Thị Thắm như cộng sản sống được bao lâu mà xử nặng vậy, cũng không thể lên gân rằng mọi người sẽ làm thế này, thế kia để đấu tranh cho những người bị bắt. Để rồi năm tháng cứ qua đi, mọi việc vẫn như vậy. Mọi người nói ông A vì đấu tranh đơn lẻ nên nó bắt, vì nó thấy bắt không ai lên tiếng, nó ở đây là chế độ cộng sản. Người khác nói các ông B bị bắt vì hoạt động có tổ chức, nếu đơn lẻ chắc chả sao. Rồi có người nói bà H vì đấu tranh thô lỗ, không ôn hoà nên bị bắt. Nhưng rồi chính cái người đấu tranh ôn hoà, lịch sự chỉ ấy cũng bị bắt nốt, án còn rất nặng nữa đằng khác. Tổng kết lại thì chế độ cộng sản bắt tuốt ôn hoà hay không ôn hoà, tổ chức hay không tổ chức, phụ nữ nuôi con hay trai trẻ chưa vợ, ông già sắp chết....chúng đều bắt tất tần tật. Đấu tranh xác định khăn gói vào tù, cái này nhiều người nói, tôi cũng công nhận, chả có cách nào khác cả. Đấu tranh chỉ không nguy hiểm khi anh là người đấu tranh giả dạng, anh phục vụ cho phe mạnh để nhắm vào phe yếu trong nội bộ đảng. Tuy nhiên ngày nào đó thế thời thay đổi, thế lực cộng sản khác nắm quyền, anh chưa chắc đã an toàn. Thế nên anh và chị là người đấu tranh cho tự do, nhân quyền của Việt Nam, chuyện vào tù là chuyện đã xác định. Nhưng ở đây có điều đáng phải bàn là. - Liệu những việc anh làm có hiệu quả gì không, nó có xứng đáng cho những năm tháng tù đầy của anh không? Hiệu quả ở đây không phải cho cá nhân anh chị, bởi là người dấn thân, anh chị không màng đến lợi ích cho bản thân mình. Các anh chị đấu tranh cho một lý tưởng muôn đời cao cả, đó là dân tộc và đất nước, đó là tự do và dân chủ, quyền con người, chủ quyền tổ quốc. Thế nên càng phải cần thấy nếu mình đi tù, có đạt được điều gì không? Sẽ có người nói đấu tranh cho lý tưởng thì không cần phải so đo, làm cho thỏa tâm mình. Công nhận là vậy, nhưng dù sao đạt được điều gì rõ ràng cũng hơn phải không? Tôi nói không có ý chê ai hy sinh mù quáng cả, thực sự có lần trong một cuộc gặp đông người, có người hỏi tôi rằng. - Các anh chị đấu tranh thế này, liệu có biết ngày thành công không? Tôi trả lời: - Tôi không phải là người đấu tranh, tôi không thể trả lời đại diện cho những người đấu tranh mà anh đề cập. Nhưng tôi nghĩ rằng những người đấu tranh họ không phải những nhà buôn, những nhà buôn như tôi hay như những nhà buôn khác hôm nay bỏ tiền ra đầu tư, họ xác định cuối năm thu về hơn số đó. Câu hỏi của anh như câu hỏi của các cổ đông dành cho một doanh nghiệp đang kêu gọi vốn, là doanh nghiệp họ có kế hoạch, có dự định, có phương án khả thi thành công thuyết phục anh bằng những con số doanh thu, mốc thời gian. Những người đấu tranh kia họ đang làm vì trái tim, trái tim họ thôi thúc họ đấu tranh với những sai trái, bất công. Họ không toan tính thành công hay không, vì nếu họ toan tính thế họ đã là nhà buôn. Không thể đem câu hỏi của một người kinh doanh để dành cho một người đấu tranh. Vâng, tôi đã từng trả lời khi nghĩ về những nhà đấu tranh như thế, đó là tôi nghĩ tâm thế của họ. Còn ở tâm thế của tôi, một con buôn thực dụng, tôi nghĩ nếu như tôi làm như họ, tôi đấu tranh vì lý tưởng như họ, tôi xác định phải gây được điều gì đó cho bõ những năm tháng tù của mình bị chúng đày đoạ. Có người hỏi tôi, nếu ra đường bị chúng giả dạng côn đồ đánh thì sao? Tôi trả lời. - Tôi sẽ xiên lại chết ít nhất một thằng. Người đó hỏi, chết thế uổng, mạng mình sao đánh đổi mạng nó? Tôi bảo. - À đó là mạng anh, chứ mạng tôi chả là cái đéo gì, tôi là thằng vô học, chả có địa vị gì trong xã hội. Chúng nó học an ninh, cảnh sát mấy năm, tương lai, tiền đồ nhiều. Mạng nó quý hơn mạng mình chứ. Nó không quý mạng nó thì thôi, chính nó mới phải nghĩ điều đó chứ không phải tôi. An ninh hỏi tôi trong một lần hỏi cung. - Anh cho biết nhận xét của anh về đấu tranh bất bạo động? - Tôi không biết gì về cái đó. - Anh vào mạng suốt ngày, sao không biết? - Ông biết tôi vào mạng xem cái đó suốt ngày à, tôi vào xem tỷ số bóng đá, kết quả sổ xố còn không đủ thời gian. - Thật sự anh không biết gì về đấu tranh bất bạo động? - Không luôn, nghe cái tên đã không muốn biết. - Vì sao anh nghe tên không muốn biết? - Vì đấu tranh đéo gì mà bất bạo động, ví dụ thằng nào hại tôi, chả lẽ tôi ngồi trước cửa nhà nó giơ cái biển phản đối à, rồi đi qua nó nhổ vào mặt, mình phải chịu để thể hiện sự ôn hoà. Nó hại nhà mình, bỏ tù oan uổng nó được thăng chức, mình thì ngồi phản đối, để nó tuyên truyền dân là mình bị thần kinh. Đm tôi là tôi rình nhà nó ăn cơm, cho một phát ầm một cái, thế là nhanh gọn. Đời đằng đéo nào chả chết. Ông cứ hỏi ông quản giáo cũ của tôi hồi xưa thì biết. Người an ninh phải bỏ câu hỏi ấy, anh ta không ghi vào biên bản. Anh ta hỏi câu khác. - Anh làm những việc này, đi tù thì vợ con anh ra sao? Tôi trả lời. - Đầy người bố chết, bố đi tù họ vẫn sống đó thôi. Vấn đề tôi nghĩ không phải vợ con mình ra sao, mà tôi nghĩ những thằng bắt bỏ tù tôi sẽ ra sao. Tôi tù về, đầu tiên tôi sẽ viết cuốn sách trong đó tôi miêu tả chi tiết tên tuổi những thằng bất nhân bỏ tù người ta oan uổng, chúng giam tôi được 5 năm, nhưng tôi giam cho chúng trong cuốn sách của tôi đời đời, con cháu chúng, họ hàng chúng sẽ đọc được điều đó. Tôi sẽ kể ví dụ như ông chẳng hạn. Sau đó thì tôi tính đến phương án không biết gì về đấu tranh bất bạo động. Người an ninh sửng cồ. - Phương án gì, sách truyện gì, đm cái loại ông vớ vẩn toàn nghĩ cái xỏ lá, ba que. Người ta làm công chức phải thực hiện nhiệm vụ, xã hội nào chả thế. Rút cục biên bản hỏi cung tôi chả có gì, nhiều điều tôi trả lời về động cơ, lý tưởng như thế anh ta không ghi. Liệu tôi có dám làm như điều tôi nói không, cái này thì chả chắc. Nhưng có một điều biên bản hỏi cung không rõ được động cơ, mục đích thì khó mà quy kết tội.Trả lời kiểu vô học thế này, ít ra cũng có được hiệu quả là hồ sơ chả đâu vào đâu, tuy rằng chế độ cộng sản muốn bắt thì chả cần hồ sơ hay chứng cứ gì. Tuy nhiên ít ra cũng không để chúng có cơ hội tuyên truyền. Tóm lại điều tôi muốn chia sẻ cảm nghĩ của mình, là người đấu tranh cần cân nhắc hiệu quả giữa những hy sinh của mình và hiệu quả mang lại. Nếu thấy không xứng thì không cần thiết phải câu nệ, như tôi chả cần thiết phải chứng mình với cơ quan an ninh hay dư luận rằng tôi có lý tưởng, có mục đích cao đẹp. Giá như sự chứng minh ấy thuyết phục được an ninh , được nhiều người dân thức tỉnh, tôi có thể trả lời bằng những lời lẽ đanh thép và hùng hồn. Đừng chờ cơm khi chưa có gạo, đừng chờ gạo khi chưa có tiền mua. Xã hội còn đang băng hoại, đạo đức xuống cấp, tranh nhau vì tiền. Sự hy sinh của những người đấu tranh qua những bản án tù, qua những lời lý tưởng cao đẹp chẳng mong đánh động được bao nhiêu đâu, sự thực là vậy. Nếu như chờ một xã hội như thế thức tỉnh bằng sự hy sinh của những người đấu tranh, chả khác gì chờ cơm khi không có gạo. Lý tưởng gì vào lúc xã hội thế này, lý tưởng của các cụ Phan à, có mà Phan Xích (xiềng) Long, hiến chương 77 à, có mà hiến chương 79 ( điều luật hình sự ). Đừng có tụ họp rồi đưa ra những lý tưởng, những hoạch định tốt đẹp, cao thượng làm gì vào lúc này. Hãy chia nhau ra, đi từng ngõ ngách, tìm những thông tin khiến cho đám dân chúng nháo nhào lo lợi ích bản thân kia, thấy được rằng con đường tranh thủ cho cá nhân họ chẳng đi đến đâu, có dẫm lên nhau chạy trước, kiếm được của nả tích cóp thì phía trước chỉ là sa mạc mênh mông, chỉ là cái bóng đêm đang chờ. Bọn kiếm được tiền ra nước ngoài, chỉ chiếm mấy phần trăm dân số thôi. Bọn trung lưu chiếm mấy chục phần trăm đi chẳng nổi, ở không xong mới là vấn đề. Phải tích cực đưa những tin cho chúng thấy, dù chúng kiếm được tiền, xây được căn nhà đủ tiện nghi, có bảo vệ, có lọc không khí. Nhưng con cái chúng ra đường không tránh được cảnh hít không khí ô nhiễm, không tránh khỏi xe ô tô đâm vì giao thông hỗn loạn, bị đâm chết vì câu nói bâng quơ. Chúng và gia đình chúng sẽ chết yểu như những người dân, có điều trong cái quan tài đẹp hơn vì chúng có tiền mua mà thôi. Song song với điều đó, cần phải khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ chúng, sự đấu đá quyền lực để tranh giành ăn chia vật chất. Đừng có ca ngợi đó là chống tham nhũng, trong sạch chính quyền để dân chúng hy vọng. Điều đó là không có thật, cộng sản đã vì dân chúng đã giải tán hoặc không bắt bỏ tù những người đòi tự do, dân chủ. Phải cho dân chúng thấy đến sự tuyệt vọng bằng những tin tức trong đời sống hàng ngày như giá cả tăng, con giết cha, thầy cô giáo đánh học sinh, học sinh đánh thầy cô giáo hay bác sĩ, công an, viên chức thoái hoá thế nào. Cứ nêu ra những hiện tượng có thật, đừng quy kết đó là lỗi của cộng sản, để cho dân chúng họ đọc và tự quy kết sẽ tốt hơn. Khi nào dân chúng thấy rõ sự bế tắc và tuyệt vọng tràn ngâp chung quanh đời sống hàng ngày, khi những tranh đua, toán tính để vượt hơn người khác rút cục chỉ chậm đến bờ vực thẳm hơn, lúc ấy tự họ sẽ có nhu cầu muốn thay đổi. Cùng với điều đó là sự đấu đá, tranh giành trong nội bộ cộng sản đến mức trầm trọng hơn, những kẻ yếu thế cần tìm lối thoát, nhưng kẻ chưa yếu thế cũng muốn tương lai như kẻ đang yếu thế. Chỉ khi ấy, khi sự bế tắc và tuyệt vọng đến tận cùng. Lúc đó những lý thuyết hay tư tưởng cao đẹp mới được chú ý. Hãy tận dụng truyền thông hữu hiệu và an toàn cho mình, đừng phung phí nó vào việc phổ biến những lý tưởng cao cả vào lúc này. Hãy tạo ra nhu cầu đói khát, trước khi quảng cáo nồi cơm dẻo thơm. ------------------------------------------------------------------------------- Cuối cùng thì tôi vẫn nói rằng, đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, suy nghĩ thiển cận của người ít học như tôi. Bày tỏ những điều mình nghĩ trong những giới hạn của một kẻ thiếu kiến thức về triết học và các học thuyết xã hội. Những suy nghĩ này không phản đối hay bác bỏ những tư tưởng cao cả mà những nhà đấu tranh hiện nay đang xây dựng và theo đuổi, phổ cập cho dân chúng. Xin mạn phép dành một vài dòng cuối cùng cho quảng cáo thương mại. Bán sách Từ Phất Lộc đến Weimar có ký tặng, giá bán 50 usd. Tất cả số tiền bán được sẽ dành tặng cho những người đấu tranh cho tự do, dân chủ đang bị cầm tù. Tất cả có nghĩa là nguyên vẹn 50 usd đó, không trừ tiền in, bản quyền, nhuận bút hay tiền gửi gì sất.
......

Làm gì khi không thể đấu tranh ôn hòa công khai?

Lần lượt các bản án càng lúc càng vô lý, vô nhân bủa xuống Mẹ Nấm, Chị Trần Thị Nga, Anh Hoàng Bình, và đặc biệt 6 anh chị Đài – Đức – Tôn – Truyển – Hà – Trội; và lần lượt các đòn phép trấn áp của nhà cầm quyền CSVN đối với Hội Anh Em Dân Chủ, Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm, nhóm  Giáo Chức Chu Văn An, nhóm vận động Văn Đoàn Độc Lập, nhóm nạn nhân Formosa,  v.v. đã dẫn chúng ta đến một kết luận khó chối cãi: cách đấu tranh ôn hòa và công khai  chưa áp dụng được lúc này tại VN. Điều cần nói ngay, không phải phương thức Đấu Tranh Bất Bạo Động (ĐT/BBĐ) sai hay không dùng được tại VN. Nếu đào sâu vào kinh nghiệm đấu tranh tại các nước đã thoát ách độc tài, ta sẽ thấy điều kiện tối thiểu để đấu tranh ôn hòa và công khai là khi những kẻ cầm quyền còn bị ràng buộc thực sự bởi luật pháp quốc gia và còn bị sức ép trừng phạt đến mức kiệt quệ của quốc tế. Hiện giờ giới cầm quyền CSVN không chỉ ngồi trên pháp luật mà còn dùng hệ thống tư pháp, bao gồm cả  tòa án và nhà tù, làm công cụ riêng để khủng bố. Và trong tình hình quốc tế hiện nay, đặc biệt với thái độ của Hoa Kỳ đối với nhân quyền trên thế giới, giới lãnh đạo đảng CSVN không những chẳng còn gì để ngán sợ mà còn tận dụng tình hình để càn quét đối kháng. Vậy chúng ta phải làm gì vào lúc này? Một lần nữa, nếu học hỏi kinh nghiệm của các dân tộc đã đi qua giai đoạn bị trấn áp tương tự, ta có thể cô đọng vào 3 nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc 1: KHÔNG NGƯNG HOẠT ĐỘNG, KHÔNG ĐỂ MÌNH XUỐNG TINH THẦN. Chúng ta có trách nhiệm, có món nợ tinh thần đối với các anh chị em đang ngồi tù. Phải tiếp tục hoạt động nhưng đổi cách làm cho phù hợp. Cùng lúc không quên bảo bọc gia đình các anh chị em trong tù. Nguyên tắc 2: Chuyển mọi hành động tuyển mộ, hỗ trợ, phát triển, kết nối TỪ CÔNG KHAI SANG KÍN ĐÁO để bảo toàn lực lượng và kéo dài hoạt động. Nguyên tắc 3: HOÀ VÀO QUẦN CHÚNG, hoạt động với tỉ số 5% CÁC NHÀ HOẠT ĐỘNG + 95% DÂN CHÚNG BỨC XÚC. Tiếp tục tận dụng các cách đánh Bất Bạo Động bằng số đông. Áp dụng vào thực tế, 3 nguyên tắc trên trở thành các nỗ lực sau đây: 1. Các nhà hoạt động tỏa vào những nơi dân chúng bức xúc nhiều và đang muốn hoặc đã tự đứng lên đòi quyền sống nhưng thiếu kinh nghiệm phản đối tập thể. 2. Các nhà hoạt động có thể giúp đỡ phương tiện và cố vấn cho bà con về – các cách liên lạc an toàn, – kiến thức luật pháp để đối phó với cán bộ địa phương và gia tăng tự tin, – cách chọn loại hành động ĐT/BBĐ nào hữu hiệu nhất, – kế hoạch tiến thoái nhịp nhàng, và – cách quảng bá hình ảnh, chứng cớ khi bà con bị bạo quyền đàn áp. 3. Anh chị em hoạt động sẽ không nổi bật ra như những người cầm đầu nhưng hoà lẫn vào số đông dân chúng và làm việc sát cánh với nhóm bà con dám đứng mũi chịu sào. 4. Giới hoạt động làm gạch nối kín đáo chia sẻ kinh nghiệm và phối hợp hỗ trợ nhau giữa các nhóm quần chúng đấu tranh. 5. Và quan tâm nhận diện, khuyến khích thêm số người dấn thân từ các nhóm quần chúng đấu tranh để gia tăng số nhà hoạt động. Chỉ khi nào các cuộc phản đối, đòi quyền sống của dân chúng nổi lên khắp nơi và những kẻ cầm quyền  phải đối phó với quá nhiều đám cháy thì lúc đó sợi xích trấn áp đang trói chặt giới hoạt động dân chủ như hiện nay mới bị bỏ rơi hay đứt đoạn. 18 tháng trước mặt nên là giai đoạn chúng ta cùng tạm để qua bên các mục tiêu đấu tranh đòi các quyền chính trị. Thay vào đó, hãy cùng tỏa ra, lan sâu vào những nơi đang có các cuộc nổi lên tự phát, tự nhiên để giúp bà con đòi quyền sống trước đã. Nguồn: Việt Tân
......

14 tổ chức nhân quyền lên tiếng trước phiên xử sáu thành viên Hội Anh Em Dân Chủ

Sáu Nhà Hoạt Động Bảo Vệ Nhân Quyền bị xét xử tại Hà Nội Nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho sáu nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền sắp bị đem ra xét xử vào ngày 5 tháng Tư, 2018. Sáu nhà hoạt động này, gồm có Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức, Nguyễn Bắc Truyển và Lê Thu Hà, là thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ, một tổ chức cổ xúy cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Ảnh: Từ trái sang phải: Bà Lê Thu Hà, Ký giả Trương Minh Đức, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Kỹ sư Phạm Văn Trội, Luật gia Nguyễn Bắc Truyển. Cả sáu người bị cáo buộc là có “những hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 của Bộ Luật Hình Sự 1999. Những cáo buộc dàn dựng này có thể dẫn đến án tù 12 đến 20 năm, tù chung thân hay tử hình nếu bị kết án. Nguyễn Văn Đài, một luật sư nhân quyền nổi tiếng, và đồng sự của ông, cô Lê Thu Hà, đã bị giam giữ tùy tiện hơn hai năm không được xét xử. Ông Đài trước đó đi khắp nơi ở Việt Nam để huấn luyện các sinh viên luật và các nhà bảo vệ nhân quyền về các phương cách tường trình vi phạm nhân quyền. Ủy Ban Điều Tra Về Bắt Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc (UNWGAD) đã ra phán quyết vào tháng 4 năm 2017 về việc bắt giữ ông Nguyễn Văn Đài là tùy tiện và khuyến cáo chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho ông và bồi thường chính đáng. Phán quyết của Ủy Ban xét rằng việc bắt giữ này là tùy tiện dựa trên bốn lý do, đó là: thiếu lý do pháp lý chính đáng để bắt giữ; bị tước đoạt tự do vì thực thi các quyền được bảo vệ; quyền được xét xử công bằng bị vi phạm trầm trọng đến độ biến việc bắt giữ thành tùy tiện; và việc tước đoạt tự do có chủ đích. Ủy Ban còn ghi nhận là việc bắt bớ giam cầm rộng khắp đối với các nhà hoạt động người Việt, không những vi phạm luật pháp quốc tế, mà còn có thể được xem là tội ác đối với nhân loại. Bốn người bị cáo kia – Phạm Văn Trội, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức, và Nguyễn Bắc Truyển – bị bắt giữ vào tháng Bảy 2017 trong đợt đàn áp bóp nghẹt quyền biểu đạt ôn hòa. Cả bốn người là ký giả dân báo và cựu tù nhân lương tâm. Hội Anh Em Dân Chủ được thành lập vào tháng 5 năm 2013 với mục tiêu nâng cao ý thức dân sự và thúc đẩy các quyền cơ bản. Các thành viên hoạt động khắp Việt Nam mở các lớp huấn luyện, hỗ trợ nạn nhân bị mất đất, cũng như các cư dân bị ảnh hưởng bởi thảm họa Formosa. Từ năm 2017 đến nay, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giữ hoặc truy nã hơn 40 nhà hoạt động và bloggers. Nhà cầm quyền tiếp tục mở các phiên tòa giả dối, kết án các nhà bảo vệ nhân quyền với những án tù dài hạn viện dẫn vào những điều luật an ninh quốc gia mơ hồ. Chúng tôi lên án việc bắt giữ sáu nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền này và kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho họ và rút lại các cáo buộc và trả tự do cho tất cả các nhà hoạt động ôn hòa và cổ xúy cho tự do biểu đạt đã bị bắt giữ tùy tiện. Đồng ký tên Action by Christians for the Abolition of Torture Hội Bầu Bí Tương Thân Khối 8406 Hội Anh Em Dân Chủ Hội Giáo Chức Chu Văn An Defend the Defenders Frontline Defenders Lawyers for Lawyers Lawyers’ Rights Watch Canada Media Legal Defence Initiative Nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền Phóng Viên Không Biên Giới Phong Trào Lao Động Việt Đảng Việt Tân http://viettan.org/14-to-chuc-nhan-quyen-len-tieng-truoc-phien-xu-sau-nh...
......

Giải thưởng 2017 của Văn Đoàn Độc Lập: “cứ làm việc mình cho là đúng”

Cuối tháng 3/2018, Văn Đoàn Độc Lập, một tổ chức tập hợp trí thức, thuần túy về văn học nghệ thuật đã tiến hành phát giải thưởng, lần thứ 3, kể từ khi thành lập đến nay. Theo thông báo, thì giải thưởng cho năm 2017 có những điều rất thú vị. Nhưng thú vị hơn cả là những cuộc ngăn chận thô bạo đối với những người cầm bút. Có người bị an ninh đe dọa phải quay trở về nhà, có người thì bị đâm lủng bánh xe, rồi có người thì bị lùng nhùng đeo đám – công khai đến trơ trẽn. Thậm chí ban tổ chức 3 lần đổi địa điểm phát giải, cả 3 lần lượt bị cúp điện, cúp nước… Nhưng rồi giải thưởng 2017 của Văn Đoàn Độc Lập vẫn tuyên bố xong. Dù ngay thời điểm đó, Ban Tuyên giáo công khai nói có ý định rút toàn bộ tác phẩm ra khỏi sách giáo khoa, với những ai là thành viên của Văn Đoàn Độc Lập. Ảnh: Nhà văn Hoàng Hưng, thành viên ban tổ chức giải của Văn Đoàn Độc Lập, có cho biết thêm về tình hình . —————– Thưa nhà thơ Hoàng Hưng, giải văn chương của Văn Đoàn Độc Lập 2017 có gì đáng chú ý, xin ông nói sơ qua cho mọi người được biết Các thành viên Hội đồng Giải Văn Việt năm nay nhất trí khá cao về chất lượng các tác phẩm đoạt giải. Nhất trí tuyệt đối đối với 3/5 tác phẩm đoạt Giải: tiểu thuyết “Những tháng năm cuồng nộ” của Khuất Đẩu, thơ Phapxa Chan, và dịch phẩm “1984” của Phạm Nguyên Trường (nguyên tác của G. Orwell). Phát hiện mới là tác giả đoạt giải Thơ, Phapxa Chan, một người rất trẻ, đang ở độ tuổi 20, mới cầm bút từ 2016. Anh đã gửi gắm cho Văn Việt những bài thơ đầu tay của mình, và ngay lập tức đã gây được ấn tượng mạnh vì chất lượng nghệ thuật và phong thái riêng biệt, mới mẻ; rồi tiếp tục với những chùm thơ cho thấy tiềm năng mở rộng, phát triển thế giới thơ của mình một cách đầy hứa hẹn. Thưa ông, đâu là sự khác biệt giữa tiêu chí của Văn Đoàn Độc Lập và hệ thống văn hóa chịu kiểm duyệt của nhà nước hiện tại, khi có người nói rằng hầu hết cũng là những tác phẩm không quá khác biệt với dòng văn chương được chấp nhận? Tiêu chí lựa chọn tác phẩm của chúng tôi là căn cứ hoàn toàn và chỉ căn cứ vào chất lượng nghệ thuật của tác phẩm, không có “định hướng” về quan điểm triết-mỹ học, tư tưởng chính trị xã hội. Chúng tôi từng trao giải cho các tác phẩm đã bị nhà nước thu hồi, nghiền thành bột giấy (Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn) hay không thể in ở bất cứ nhà xuất bản nào trong nước như Thời biến đổi gien của Bùi Ngọc Tấn, Cửu Long cạn dòng, Biển Đông cuộn sóng; Mekong, dòng sông nghẽn mạch của Ngô Thế Vinh, tản văn của Tuấn Khanh, tiểu thuyết Nhảy múa để chết của Nguyễn Viện. Trong 5 giải của năm nay, có 3 giải cho các tác phẩm không thể được hệ thống kiểm duyệt của nhà nước chấp nhận: tiểu thuyết và truyện ngắn của Khuất Đẩu, truyện ngắn của Mai Sơn, bản dịch tiểu thuyết “1984” của G. Orwell. Vậy chắc là khó nói rằng “hầu hết cũng là những tác phẩm không quá khác biệt với dòng văn chương được chấp nhận…” Với quan điểm cá nhân của mình, ông có đặc biệt muốn nhấn mạnh đến tác phẩm nào trong kỳ giải thưởng lần này? Thoả mãn cả nhu cầu thông điệp xã hội và sáng tạo nghệ thuật là điều rất khó thấy trong hiện tình văn chương tiếng Việt. Tiểu thuyết Những tháng năm cuồng nộ của Khuất Đẩu đã phần nào đạt được. Nó làm tôi cười ra nước mắt vì số phận người dân nước mình trong cuộc chiến kéo dài không chỉ 30 năm trên chiến trường từ 1945, mà còn đến tận bây giờ trong lòng người Việt khắp thế giới. Một số khách mời của Văn Đoàn độc lập trong giải thưởng lần ba như nhà văn Khuất Đẩu, nhà thơ Nguyễn Duy, nhà văn Dạ Ngân, nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà báo Lê Phú Khải, nhà thơ Đỗ Trung Quân, dịch giả Mai Sơn, nhà báo Sương Quỳnh… đều gặp những rắc rối khi có ý định đến tham dự. Còn về ban tổ chức thì như thế nào, ông có thể mô tả lại cho những người quan tâm? Nhiều thành viên Hội đồng Giải Văn Việt đã bị an ninh ngăn chặn thô bạo ngay trước cửa nhà. Nhà thơ Bùi Chát bị khoảng 15 người chặn ngay từ tối hôm trước ngày trao Giải. Nhà văn Kim Cúc, nhà thơ Ý Nhi lần đầu tiên trải nghiệm quyền tự do đi lại của mình bị tước đoạt. Nhà văn Đặng Văn Sinh năm nào cũng bị an ninh Hải Dương tới nhà đe doạ để không vào Sài Gòn dự trao Giải, đã phải bỏ vé máy bay khứ hồi đã mua. Ban tổ chức đã rất vất vả vì phải đổi địa điểm họp mặt tới 3 lần trong một buổi sáng vì bị cắt điện, cắt nước. Có đông an ninh bám sát ở cả 3 nơi, nhưng ghi nhận là họ không xông vào hành hung hay phá phách gì, chỉ ngồi gần quan sát và liên tục điện thoại báo cáo… Có chi tiết vui là một khách mời vừa “live stream” khen “nhà hàng rất kiên gan, vẫn cố gắng nấu ăn cho khách dù bị cúp điện” thì… 3 phút sau, nhân viên nhà hàng đến xin lỗi là “không còn cả nước để nấu”. 30 con người, nhiều bậc “lão thành cách mạng”, phải vác bụng đói meo đi tìm chỗ ăn tạm buổi trưa. Họ “chỉ đạo chiến dịch” sát sao từng phút, cả trên trận địa thực lẫn trận địa ảo! Riêng tôi đã bị châm 6 lỗ kim vào bánh xe, ông già 76 được dịp luyện công dắt chiếc xe xẹp bánh đi vài cây lô mếch giữa trưa nắng Sài Gòn mới thay được ruột xe. Chắc đó là lời cảnh cáo đầu tiên! Lần sau rất có thể là 1 cú tông xe, nhỉ! Về phần mình, ông lý giải như thế nào thái độ của nhà cầm quyền hết sức khắc nghiệt với một sinh hoạt văn chương bình thường như vậy? Ngay từ những ngày đầu ra đời Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, tôi đã có không ít lần “làm việc” hoặc “trò chuyện” với an ninh. Hỏi: “Văn Việt chỉ làm văn chương, đâu có đi sâu về chính trị mà các anh quan tâm thế?” Trả lời: “Vì các bác CÓ TỔ CHỨC”. Còn Hội Nhà văn VN và Tuyên huấn Đảng thì đã nhiều lần nêu quan điểm rõ ràng: không chấp nhận một tổ chức văn hoá đứng ngoài hệ thống, một tổ chức khác với Hội Nhà Văn do Đảng Cộng sản lãnh đạo và kiểm soát. Văn đoàn Độc lập cố xê dịch – nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – để tìm một không gian riêng trong xã hội độc tài, nhưng với hiện trạng thì ông nghĩ Văn đoàn đang tự cô lập mình trong xã hội, hay thành công trong việc nhẫn nhịn và chờ đợi một giai đoạn mới? Việc của nhà văn là sáng tác. Việc của Văn Việt là thúc đẩy sáng tác của nhà văn bằng một diễn đàn tự do công bố tác phẩm. Diễn đàn cho cả các nhà văn đang ở nước ngoài muốn đến với bạn đọc trong nước (hiện có khoảng 150 tác giả ở nước ngoài có mặt trên Văn Việt). Không kể các chuyên đề giới thiệu một cách hệ thống Văn học miền Nam trước 1975 (tới nay đã có gần 470 kỳ), Thơ Hải ngoại sau 1975 (53 tác giả), Truyện ngắn Hải ngoại (đã có 24 kỳ), và bắt đầu “Dòng nhạc kỷ niệm” (ca khúc miền Nam trước 1975). Chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục và mở rộng thêm những công việc như thế. Văn đoàn Độc lập đã có những bước liên kết xuất bản với các nhà xuất bản bên ngoài VN chưa? Đã liên kết xuất bản ở Mỹ 3 cuốn sách: Truyện ngắn Văn Việt 1 và 2, 40 năm Thơ Việt Hải ngoại (ra mắt tại báo Người Việt tháng 9/2017). Mới đây, ban Tuyên giáo có công khai ý định về việc khai trừ sự hiện diện của nhà văn Nguyên Ngọc và các thành viên Văn đoàn ĐL trong xã hội, qua việc muốn rút tên trong sách giáo khoa. Ông nghĩ sao về việc này? Đó có phải là một cách “tuyên chiến” với Văn đoàn Độc lập không? Ngay từ ban đầu, họ đã chỉ đạo vu khống Ban Vận động VDĐL là “phản động”, nhận tiền của bọn phản động từ nước ngoài, họ cấm tối đa việc các thành viên xuất hiện trên báo chí, truyền hình, không cho đi dự Đại hội Hội Nhà văn, sách nhiễu nhiều tác giả xuất hiện trên Văn Việt, kể cả phá việc làm ăn sinh sống… Cái mới lần này là có 1 văn bản chỉ thị giấy trắng mực đen được phơi bày trên mạng. Thế thôi! Hãy thử đặt mình vào vị trí của một người cộng sản từng cống hiến cả đời, và nay bị đối xử thô bạo như vậy với những hoạt động phát triển văn hóa ôn hòa, ông sẽ cảm nhận như thế nào, và ông nghĩ nhà văn Nguyên Ngọc sẽ như thế nào? Tôi may mắn chưa bao giờ là “người cộng sản”, nhưng rất cảm thông với nỗi đau của những người như nhà văn Nguyên Ngọc, luật gia Lê Hiếu Đằng, tướng Trần Độ… và cho rằng việc họ dứt bỏ các danh lợi mà Đảng ban cho thật đáng khâm phục, tương tự những trí thức, nhà giàu thời Pháp quay ra chống Pháp vậy. Hãy hình dung Văn đoàn Độc Lập vào năm tới, ông lạc quan hơn hay bi quan hơn bối cảnh hiện tại? Lạc quan cũng sai, bi quan cũng sai, chỉ “cứ làm việc mình cho là đúng” là đúng. Tuấn Khanh (ghi)
......

Tại sao cần lươn lẹo về lý do bắt Nguyễn Bắc Truyển?

Luật gia Nguyễn Bắc Truyển bị bắt ngày 30/07/2017 với cáo buộc "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân", cùng với một số thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ. Tại sao Nguyễn Bắc Truyển không bị bắt vì những hoạt động thật của ông như: - Là một là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và là người ra sức bảo vệ cho quyền tự do tôn giáo của tín đồ PGHH từ năm 2010, giúp đỡ cho nhiều tín đồ PGHH trong thời gian bị giam giữ cùng với họ, giúp đỡ cho thân nhân của các tù nhân, hỗ trợ khi họ gặp hoạn nạn hay khi họ đau ốm. - Cộng tác với các hoạt động xã hội và từ thiện của Văn phòng Công lý - Hòa Bình thuộc Dòng Chúa Cứu Thế? Là nhân viên chính thức của văn phòng, Nguyễn Bắc Truyển phụ trách điều hợp chương trình giúp đỡ cho khoảng 3.000 thương phế binh, khám bệnh, đưa đi làm chân tay giả, hay phát xe lăn. - Hay là người điều hành Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam, với tôn chỉ và mục đích thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái cho mọi tù nhân Chính trị, Lương tâm, và Tôn giáo đã từng bị giam cầm, giúp có công ăn việc làm để các cựu tù nhân ổn định đời sống, trợ giúp thuốc men và y tế, quan tâm đến đời sống,  bệnh tật, già yếu, quá vãng của họ, và còn trợ giúp ăn học cho con cái tù nhân chính trị đã chết trong tù hay sau khi ra tù. Nhà cầm quyền VN sợ cái gì? Là một cử nhân luật, Nguyễn Bắc Truyển khi gặp những trường hợp bất công trong xã hội đã tư vấn cho những người nghèo khổ, thấp cổ bé miệng, về các vấn đề pháp lý, kể cả những Dân oan, những người mất cả môi trường sống. Lẽ dĩ nhiên trong một xã hội đầy đố kỵ, chia rẽ, thì dễ cho nhà cầm quyền nắm tất cả trong tay, và một người như Nguyễn Bắc Truyển, luôn sẵn sàng chống mọi tham nhũng, bất công xã hội, và có một số lượng quen biết qúa rộng lớn, là một cái gai. Nhưng làm thế nào để đổ tội "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền"cho một cựu tù nhân đã trắng tay sau khi ra tù như Nguyễn Bắc Truyển (lại bị nhà cầm quyền trục xuất, cấm không cho cư trú trong căn nhà của vợ ông), với vài ngàn hay vài chục ngàn những "bạn" của ông là những người tàn tật và yếu thế, nghèo khổ nhất trong xã hội? Có phải "sống niềm tin tôn giáo bằng con tim và đôi bàn tay" là điều nhà cầm quyền CSVN sợ nhất? Không thể vu khống một tín đồ Phật giáo Hoà Hảo là theo một tôn giáo ngoại nhập rồi chịu ảnh hưởng của thế lực này nọ, nhưng có lẽ chính cách sống ý thức tự do trong tôn giáo của Nguyễn Bắc Truyển là niềm lo sợ của nhà cầm quyền VN: thể hiện được tự do tôn giáo căn bản nhất là sống và hành động hàng ngày theo lương tâm và niềm tin tôn giáo của mình, không cục bộ, không sợ hãi, không trừu tượng, mà thực hiện từng chuyện nhỏ nhặt trong đời sống hàng ngày, trong liên hệ giữa người với người, giữa người với vạn vật chung quanh. Những việc thường ngày của Nguyễn Bắc Truyển không có ranh giới xã hội hay ranh giới tôn giáo:  bế một người thương phế binh không còn chân đi khám bệnh, giúp thuê xe cho gia đình một đồng đạo Hoà Hảo đi đón người thân mới ra tù, ngừng tay viết đơn khiếu nại hộ một người Dân oan để lắng tâm nghe bài thánh ca thanh thoát, suy nghĩ so sánh về những câu giảng của Đức Hùynh Phú Sổ với những câu trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền... Con cá Nguyễn Bắc Truyển đang tung tăng như vậy, không bị ràng buộc bởi bất cứ biên giới chật hẹp nào, thì bị một âm mưu bắt bỏ lên thớt. Và nằm sẵn trên cái thớt là LS Nguyễn Văn Đài LS Nguyễn văn Đài bị bắt từ tháng 12 năm 2015 với cáo buộc vi phạm điều 88 “tuyên truyền chống nhà nước” nhưng không thể đem ra toà xét xử vì không chứng cớ, phải chờ tới khi mưu kế thành hình với cuộc truy bắt các bạn ông trong Hội Anh Em Dân Chủ (HAEDC) vào tháng 7/2017 (Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, và Trương Minh Đức) thì đã đủ vẽ vời để gom thành cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Một dịp thuận tiện để bắt Nguyễn Bắc Truyển mà có thể né tránh vấn đề tôn giáo và tạo hình dáng "Âm mưu lật đổ chính quyền" cho càng vững chắc. Mặc kệ cho gia đình của Nguyễn Bắc Truyển, những đồng đạo PGHH, văn phòng Công lý Hoà bình, lên tiếng đòi người, và chính HAEDC cũng công nhận Nguyễn Bắc Truyển không phải là thành viên của hội và chẳng hoạt động gì chung, ngoại trừ có tình thân anh em quen biết lâu ngày. Tóm lại, với Nguyễn văn Đài thì bắt trước, rồi hí hoáy vẽ tội sau. Còn với Nguyễn Bắc Truyển thì tô vẽ xong bình phong rồi mới bắt. Gom lại một khối để bắt lại càng không phải thú nhận sự đa diện của các hội Xã hội Dân sự hiện nay tại VN, mà còn có thể liên lẹo mô tả tất cả chỉ là tụ họp của vài kẻ phản động. Quốc tế đang quan sát Những tổ chức Nhân quyền hải ngoại đã làm công việc của họ: Tin luật sư Nguyễn văn Đài cùng các anh em HAEDC và luật gia Nguyễn Bắc Truyển sẽ xuất hiện cùng ngày 5/4/2018 trước toà án sơ thẩm Hà Nội, đang gây một làn sóng chú ý tối đa từ các toà đại sứ quốc tế, các tổ chức Nhân quyền quốc tế, các tổ chức Xã hội Dân sự quốc tế, các dân biểu Mỹ và Đức cũng như văn phòng của ông Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về Tự do Tôn Giáo, Tín ngưỡng. Ngày đó cũng có thể là cơ hội để mọi người Việt khắp nơi tại Việt Nam, đặc biệt tại Hà Nội, dùng một dấu hiệu chứng tỏ cho quốc tế biết là dân Việt rất lưu tâm đến các quyền dân sự và chính trị như đã ghi rõ trong bản Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, ICCPR) do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các quốc gia thành viên thông qua ngày 16 háng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976, Thí dụ, hãy vẽ hay buộc lên tay bạn một dải ruy băng vàng.  Thành phố của bạn sẽ lên màu và mất đi nét vô cảm./. TQ
......

TIẾNG KÊU KINH RỢN.

Văn chương Việt chỉ có hai tiếng kêu đáng giá. Một tiếng kêu đứt ruột mới trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Hai tiếng kêu đòi được lương thiện của nhân vật Chí Phèo bởi tài năng trẻ Nam Cao. Ảnh: Đinh La Thăng trước tòa. Trong hơn 10 ngày sống chay, giờ lắng mình để đăng stt đầu tiên chẳng hiểu sao cảm giác ớn rét cùng ập về. Một ớn rét sinh lý vì cảm. Hai ớn rét tâm lý bởi tiếng kêu giữa công đường : " Hãy đối xử với bị cáo như số phận một con người ". Một đảng viên cộng sản, từng ngồi vị trí phó bí thư, bộ trưởng, ủy viên BCT, bí thư thành phố lớn nhất nước nay, ngay giữa công đường trong lời nói cuối cùng đã kêu lên thương thiết, khẩn cầu như thế. Không mỉa mai sao, khi bao nhiêu năm ông ấy từng rao giảng về tính ưu việt của nền pháp chế XHCN!? Không đau đớn sao khi ước nguyện của một chính khách từng được tung hô, tụng ca như một ngôi sao trên bầu trời hoạn lộ nay chỉ nguyện cầu có thế!? Chưa bao giờ quyền đòi được làm số phận một con người lại vang lên chua, cay, đắng, chát, kinh, rợn như thế. Không chỉ còn là tiếng kêu công bằng, tiếng kêu công lý, dù vốn dĩ chỉ kêu công bằng, công lý cũng đủ xót xa, ai oán, uất hận rồi. Tiếng kêu xin được đối xử như số phận một con người là điều không văn nhân đất Việt nào tưởng tượng nỗi. Tiếng kêu ấy không phải của một tiện dân, một thảo dân, một lương dân mà oái oăm thay tiếng kêu ấy lại là của một người, từng rực sáng như một ngôi sao trên chính trường. Cơm áo, tiền tài, danh vọng rồi bao trò giải trí khác, rồi bao thứ khác chẳng đâu vào đâu đã làm cho tiếng kêu kinh rợn đáng quan tâm nhất của cõi người ấy trôi qua bên dòng đời Việt. Tức là thêm một lần ta thấy kinh rợn cho dải núi sông này. FB Kiều Hồng Sơn
......

Trump đánh Trung Cộng chưa đúng chỗ

Tổng Thống Trump nói một câu để đời: “Chiến tranh mậu dịch tốt, và đánh rất dễ thắng.” (Trade wars are good, and they are easy to win). Câu này sẽ được ghi vào lịch sử môn kinh tế học, khi người ta bàn về mậu dịch tự do. Bởi vì hầu hết những người nghiên cứu kinh tế nghĩ ngược lại.   Ông tổng thống Mỹ đã cho thổi kèn bắt đầu cuộc chiến tranh mậu dịch với chính phủ Cộng Sản Trung Quốc, và Bắc Kinh đã đáp lễ bằng những những tiếng kèn thúc quân của họ. Chính phủ Mỹ sẽ đánh thuế trên $60 tỷ đô la hàng nhập cảng từ nước Tàu. Trung Cộng dọa trả đũa trên hàng mua từ nước Mỹ, khoảng $6 tỷ đô la. Ai biết đọc con số cũng biết $6 tỷ chỉ lớn bằng một phần mười của $60 tỷ!   Ngay trong tiếng kèn thúc quân mở đầu trận đánh, Trung Cộng đã có vẻ “nhân nhượng!” Trong thực tế, Trung Cộng chỉ “có vẻ nhân nhượng” mà thôi. Vì đánh $6 tỷ mà đúng tử huyệt thì cũng đau không thua gì $60 tỷ không đúng chỗ hiểm. Để thấy những phát súng của chính phủ Mỹ đánh trên hàng nhập từ nước Tàu có thể “trật tiêu điểm” như thế nào, chúng ta thử coi một món hàng Tàu có thể bị Mỹ đánh thuế, là những dụng cụ thông tin điện tử. Chẳng hạn cái máy điện thoại di động gọi là “tinh khôn – smart” của hãng Apple: Cái iPhone. Viện nghiên cứu ADB Institute đã phân tích giá thành của một cái iPhone; những cái máy được “xuất cảng” từ Trung Quốc qua Mỹ loại rẻ, giá bán lẻ khoảng 500 đô la. Những máy iPhone này lắp ráp ở thị trấn Ðồng Quan (Dongguan) tỉnh Quảng Đông, trong một nhà máy do công ty Foxconn làm chủ. Công ty này là của Đài Loan. Khi chiếc iPhone được đưa từ nhà máy qua hải cảng Quảng Châu để chở qua Mỹ, trị giá của nó ghi trên sổ sách hải quan là 179 đô la Mỹ – chứ không phải 500. Nhưng trong giá trị 179 đô la này, lục địa Trung Hoa không được hưởng hết. Phần lớn những thứ “trị giá” trong chiếc điện thoại là các bộ phận điện tử mua từ nước khác, đem vô Trung Quốc. Những bộ phận này sản xuất từ Nhật Bản, Nam Hàn, Malaysia, và từ nước Mỹ. Trong trị giá 179 đô la Mỹ này, chỉ có 7 đô la được trả cho người Tàu lục địa, đó là công lắp ráp, cộng với các thứ thuế mà công ty Foxconn phải trả cho chính phủ Trung Cộng. Tất nhiên công ty Foxconn ở Đài Loan không qua lục địa làm việc phước thiện. Họ cũng phải ăn lời trong số 7 đô la đó. Nếu họ chỉ ăn 1 đô la mỗi cái phôn thì dân lục địa chỉ còn hưởng 6 trong số 7 đô la kể trên. Còn 172 đô la đã được trả cho những nước khác. Nhưng ngay trong các thứ có trị giá 172 đô la mà Nhật Bản, Nam Hàn, Malaysia, vân vân, được chia phần, các nước đó cũng không hưởng hết. Bởi vì họ được công ty Apple đặt làm các bộ phận này; họ cũng vẫn phải trả tiền bản quyền, còn gọi là “quyền sở hữu trí tuệ” cho công ty Apple ở nước Mỹ! Tóm lại, khi nước Mỹ “nhập” một cái iPhone từ Quảng Đông về Los Angeles chẳng hạn, trong sổ sách ghi rằng “Mỹ nhập cảng 179 đô la hàng từ nước Tàu;” nhưng trong thực tế nước Tàu hưởng chỉ có 6 đến 7 đô la mà thôi. Có lúc những cái điện thoại iPhone chiếm 8 phần trăm số hàng Mỹ “nhập cảng” từ Trung Quốc. Thay vì tính giá trị đúng là 6 đô la người ta coi nó có giá trị 179 đô la, khiến cho trị giá hàng Tàu nhập vào Mỹ lên rất cao – trong khi công ty Apple hưởng gần hết! Tất nhiên trong số 500 đô la giá bán, Apple phải chia phần cho các cửa hàng bán lẻ, chứ không thể một mình ăn hết! Nếu bây giờ chính phủ Mỹ đánh thuế nhập từ cuộc Tàu cao hơn, Apple chỉ việc chuyển công việc lắp ráp qua xứ khác, nhiều nơi đồng lương công nhân hiện còn rẻ hơn bên Tàu. Cho nên chính phủ Mỹ có thể “đánh lầm mục tiêu” khi tăng thuế quan trên nhiều món nhập cảng từ nước Tàu. Quả đạn “tăng thuế” này không làm Trung Cộng đau bao nhiêu, nhưng các nước chung quanh đang lo bị lãnh đạn. Thứ Bảy tuần trước, tôi tới Thái Lan, mở tờ báo ra đọc bản tin ông bộ trưởng thương mại nước Thái họp báo tuyên bố hàng xuất cảng của Thái Lan trong năm nay sẽ giảm, vì chính phủ Mỹ đánh thuế trên hàng Trung Quốc! Nếu nước Tàu phải giảm số bán hàng điện tử và thông tin qua Mỹ vì thuế tăng, thì họ cũng sẽ bớt không mua các bộ phận do các nhà máy ở Thái Lan cung cấp! Ông bộ trưởng Thái Lan phải họp báo để trấn an dân chúng trước mối nguy hiểm “Mỹ đánh Trung Quốc” trong trận chiến mậu dịch! Các chính phủ Nhật, Nam Hàn, Mã Lai, Đài Loan cũng đang chuẩn bị đối phó với cuộc chiến mậu dịch Mỹ-Trung! Không biết các ông bà đang cai trị Việt Nam có tính toán gì không, hay còn quá bận rộn lo rút các giàn khoan dầu ra khỏi những chỗ mà Trung Cộng xua đuổi!   Có thể nói rằng khi mở màn cuộc chiến tranh mậu dịch với Trung Cộng chính phủ Mỹ đã chọn lầm vũ khí, là tăng thuế nhập cảng trên hàng Tàu. Và với thứ vũ khí đó, lúc đầu họ đã chọn lầm mục tiêu để phát pháo, là thép và nhôm. Phát súng mở đầu là lời đe dọa đánh thuế nhập cảng trên thép và nhôm. Như đã trình bày trong mục này các kỳ trước, đánh thuế đó sẽ gây thiệt hại cho các nước đồng minh của Mỹ, chứ không đánh trúng nước Tàu. Vì thế, chính phủ Mỹ đã cho “rút quân,” cho Canada và Mexico được miễn, sau đó lại cho các nước Châu Âu được thoát không bị đánh. Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, chắc sẽ được miễn nữa. Trong thực tế, số thép Mỹ nhập cảng của Trung Quốc còn ít hơn số mua từ Đài Loan hay Việt Nam! Khi nêu ý định tấn công vào thép và nhôm của Trung Cộng, chính phủ Mỹ đã tấn công vào mấy thành trì mà đối phương đang muốn bỏ! Nếu vì bị đánh thuế mà Trung Cộng ngưng không bán gần một triệu tấn thép qua Mỹ nữa, thì con số giảm đó không đáng bao nhiêu so với số sản xuất mà chính phủ Trung Cộng đang muốn tự cắt bớt, hàng trăm triệu tấn thép năm năm sắp tới! Tấn công vào thép và nhôm là đánh vào những cái thành sắp bị bỏ trống. Vì Cộng Sản Trung Quốc đã muốn chuyển hướng nền kinh tế, ít nhất cũng từ năm, bảy năm qua, trước khi Tập Cận Bình lên nắm quyền. Họ đã học được bài học về những chiếc iPhone! Khi bắt đầu học làm kinh tế theo lối tư bản, Trung Cộng đã tập trung sức vào những hàng rẻ tiền để xuất cảng như quần áo, đồ chơi; và các ngành công nghiệp nặng như thép, nhôm. Tiến lên một bước, họ “sản xuất” những hàng “cao cấp” hơn, như đồ điện tử. Nhưng ngay cả khi bán iPhone, nước Tàu cũng chỉ được hưởng có 6 trong số 179 đô la “xuất cảng” và 500 đô la giá bán lẻ. Thấy bài học đó, Cộng Sản Trung Quốc đã chuyển hướng. Họ phát triển sản xuất trong những ngành mang lại giá trị cao hơn công việc lắp ráp những thứ như iPhone. Trung Cộng đã chuyển hướng từ hàng chục năm nay. Nhiều ngành sản xuất nhắm vào hàng tiêu thụ, từ máy móc dùng trong nhà cho đến đồ điện tử tự sáng chế. Nhiều ngành dịch vụ mới ra đời, từ bán lẻ trên mạng cho tới gửi tiền, chuyển tiền qua điện thoại. Đó là những ngành “công nghiệp mới” trong kinh tế Trung Quốc, dù đã là “cũ” đối với Mỹ hay Châu Âu. Nhưng Trung Cộng đã dứt khoát chuyển hướng kinh tế: Đổi các món xuất cảng, giảm bớt phần xuất cảng, nhắm gia tăng tiêu thụ trong nội địa. Trung Cộng đang xuất cảng nhiều món hàng có giá trị hơn việc lắp ráp iPhone. Họ đang bán đường xe lửa cao tốc (CRRC), bán các hệ thống truyền thông (Huawei), máy bay không người lái (DJI) và “pin điện” tối tân (BYD). Những món đó thường không bán qua Mỹ, cho nên khó tăng thuế nhập cảng! Cho nên tấn công vào ngành Trung Cộng xuất cảng qua Mỹ bây giờ là đánh vào những chỗ mà quân địch cũng đang muốn rút. Năm 2005, hàng xuất cảng còn chiếm 35% Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) Trung Quốc. Lúc đó, đánh vào hàng xuất cảng sẽ làm kinh tế nước Tàu lao đao. Ngày nay, xuất cảng chỉ còn chiếm 18% GDP nước Tàu. Trong khi đó, Trung Cộng có thể chọn những mục tiêu tấn công khi muốn đánh trả đũa chính phủ Mỹ. Đánh thuế nhập trên thịt bò, trên đậu nành, bắp, hạt hạnh nhân, vân vân, sẽ ảnh hưởng tới khối cử tri ủng hộ Tổng Thống Trump ở vùng Trung Tây. Bỏ không mua máy bay Boeing, mua của AirBus, sẽ làm chấn động Wall Street. Trung Cộng được lợi thế vì chọn mục tiêu dễ dàng, mà đánh vào đâu cũng biết trước gây ảnh hưởng rõ rệt. Hiện nay Bắc Kinh chưa nói chi tới đậu nành cũng như máy bay Boeing. Họ còn để đó chờ lúc nào cần leo thang sẽ leo. Không biết chính phủ Mỹ đang có kế hoạch nào để đối phó. Sự thật là chiến tranh mậu dịch có hại, cho cả hai bên lâm chiến và những nước chung quanh; và đánh rất khó thắng, có thể nói bên nào cũng thiệt hại nhiều hơn lợi. Đó là bài học mà nước Mỹ đã chiêm nghiệm một thế kỷ trước đây, và đã đem ra dạy cả thế giới!   Ngô Nhân Dụng
......

Bản Lên Tiếng: Về phiên xử các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ

  VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG Email: lienlac@viettan.org – Web: www.viettan.org – FB: facebook.com/viettan   Bản Lên Tiếng                                                 Về phiên xử các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ Đảng Việt Tân tố cáo trước công luận việc đưa 6 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ (HAEDC) ra tòa án sơ thẩm vào ngày 5 tháng 4 là hành động chà đạp nhân quyền và là thủ đoạn của chế độ độc tài CSVN nhằm triệt hạ tiềm lực của phong trào dân chủ Việt Nam. Dù chỉ có 5 năm hoạt động, HAEDC đã góp phần tạo dựng nền tảng cho phong trào qua các nỗ lực xây dựng xã hội dân sự, cổ võ cho dân quyền và nhất là luôn luôn sát cánh, đồng hành cùng với bà con dân oan, công nhân, ngư dân… trong mọi công tác khiếu kiện. HAEDC còn là chất keo nối kết sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các đoàn thể bạn cho những mục tiêu chung. Các hoạt động của HAEDC đã khiến cho chế độ Cộng sản Việt Nam lo sợ. Sự kiện Luật sư Nguyễn Văn Đài, Kỹ sư Phạm Văn Trội, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, nhà báo tự do Trương Minh Đức, ông Nguyễn Bắc Truyển và cô Lê Thu Hà đã bị truy tố theo điều 79 là cuộc tấn công trắng trợn của chế độ vào một trong những cột trụ quan trọng của phong trào. Khi một cột trụ bị tấn công, cả phong trào chắc chắn bị ảnh hưởng. Đây là thử thách chung của mọi người, mọi đoàn thể yêu nước ở trong và ngoài nước. Trong tinh thần đó, Đảng Việt Tân qua chiến dịch #NgưngNgayĐànÁp, tích cực tranh đấu vì công lý cho các thành viên HAEDC trong phiên tòa sắp tới đây, cũng như những phiên tòa bất công khác nhằm tấn công vào Phong Trào Dân Chủ với các nỗ lực:   Tiếp tục vận động các áp lực từ Liên Âu. Nghị quyết Quốc Hội Âu Châu liên quan đến Blogger Nguyễn Văn Hóa vào tháng 11, 2017 là cầu nối quan trọng để vận động các quốc gia EU đặt vấn đề nhân quyền mạnh mẽ hơn trong việc thông qua Hiệp định thương mại tự do EU-VN. Tố cáo vi phạm nhân quyền trong Hội nghị UPR. Hội Đồng Nhân Quyền LHQ sẽ rà soát tình hình nhân quyền tại Việt Nam qua cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR vào đầu năm 2019. UPR vào năm 2014 đã từng đặt vấn đề về điều 79 đối với Hà Nội nên phiên tòa vào ngày 5 tháng 4 sẽ là một trong những mối quan tâm của UPR lần này. Vận động áp dụng Đạo luật Magnitsky. Đây là đạo luật chế tài rất quan trọng nhằm trừng phạt lãnh đạo những chế độ độc tài đã nhúng tay vào các vụ đàn áp nhân quyền. Đạo luật này đã được chính quyền Hoa Kỳ thông qua vào tháng 12, 2017. Thúc đẩy và cổ vũ cho dân chủ đa đảng và tam quyền phân lập không phải là tội. Ngày 28 tháng 3 năm 2018 Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 202-596-7951   Ðối Ðầu Bất Bạo Ðộng để tháo gỡ độc tài – Xây Dựng Xã Hội Dân Sự để đặt nền dân chủ –Vận Ðộng Toàn Dân để canh tân đất nước
......

Giải thể chế độ CS hay không để tiến bộ?

Trên trang nhà BBC Việt Ngữ tuần lễ đầu tháng 3, 2018 vừa qua, Luật sư Ngô Ngọc Trai đã có một bài viết cho rằng muốn có dân chủ và đất nước cường thịnh không nhất thiết phải giải thể chế độ Cộng sản Việt Nam (CSVN) hiện nay vì nếu đặt lợi ích của người dân trong nước lên trên hết, thì phải thấy rằng: “... mục tiêu của những người dân chủ là đấu tranh cho dân chủ, cho đất nước được cường thịnh, thì đó cũng không khác mấy với những mục tiêu mà chính quyền cộng sản họ đang làm…” Luật sư Trai còn lập luận rằng: “... chỉ có khác về cách làm, một đằng thì muốn giải thể gạt bỏ chế độ hiện thời rồi mới xây dựng đất nước, một đằng thì muốn chính quyền hiện nay là người đem đến dân chủ và thịnh vượng cho người dân.” Theo Luật sư Trai thì nhà nước cộng sản hiện nay đã khác xa với mấy chục năm trước và dù họ vẫn còn mang những di sản của quá khứ và trấn áp tàn bạo nhưng theo Luật sư Trai thì: “họ đã thay đổi để thích ứng với xu thế thời đại. Đất nước đã hội nhập và phát triển kinh tế thị trường.” Trước hết không thể phủ nhận là đất nước Việt Nam nhìn chung hiện nay đã thay đổi rất nhiều nếu so với thời ngăn sống cấm chợ của 40 năm về trước. Và cũng có thể vì thế mà trong vài cuộc thăm dò gần đây của một số người ngoại quốc thực hiện đã biểu hiện chỉ số hạnh phúc thuộc hạng cao trên thế giới. Thực tế cho thấy, hạnh phúc chỉ là cái gì tương đối. Dân gian có bài vè Thằng Bờm có cái quạt mo, Phú Ông xin đổi ba bò chín trâu, Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu... Phú ông đổi đủ thứ cao sang Bờm vẫn không, khi Phú Ông xin đổi nắm xôi Bờm cười, vui vẻ nhận liền. Cái hạnh phúc vui vẻ mộc mạc của người nghèo khó là đi bộ rạc cả chân nay có được chiếc xe đạp, đâu cần biết cùng lúc đó thiên hạ đã đi xe hơi, máy bay! Cho nên câu hỏi đặt ra là sự thay đổi và tiến bộ của xã hội Việt Nam ngày nay là sự thăng tiến mang tính đồng bộ chung của thế giới loài người so với thế kỷ trước hay là sự tiến bộ vượt bực dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Để trả lời câu hỏi này ta phải so sánh nước ta hiện nay so với các nước cũng đã từng có hoàn cảnh như Việt Nam trước khi cất cánh cách nay nửa thế kỷ như Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Mã Lai hay Tân Gia Ba. Những quốc gia này vào thập niên 70 không hơn ta là bao nhiêu, mặc dù miền Nam Việt Nam đang cùng lúc đó phải đương đầu với cuộc chiến tranh tương tàn nhiều đổ vỡ trong khi họ được hoà bình tập trung xây dựng nước họ. Các nước nói trên hiện nay đã thuộc vào khối những quốc gia đã phát triển trong khi Việt Nam sau hơn 40 năm hòa bình, vẫn còn lẹt đẹt ở trong khối những quốc gia phát triển chậm, thậm chí còn có nguy cơ tụt hậu so với hai nước Miên Lào mà dân ta thường coi là đàn em. Câu hỏi đặt ra là do kỹ năng và trí tuệ của người Việt thua kém các dân tộc lân bang hay là do thể chế chính trị, nhất là dưới sự cai trị của đảng CSVN đã và đang làm cho đất nước ta tụt hậu so với đà phát triển của thế giới chung quanh? Nhà cầm quyền CSVN quả là có những thay đổi tích cực. Nhưng những thay đổi này được đặt trong vòng kiểm soát để duy trì sự nắm quyền độc tôn của đảng CSVN chứ không phải đế đất nước tiến bộ. Chính vì thế mà đảng CSVN đã không có một chiến lược phát triển toàn diện nhằm khơi động tiềm lực quốc gia một cách mạnh mẽ và đa dạng. Cái gọi là đổi mới phát triển theo kinh tế thị trường dưới định hướng XHCN thực ra chỉ là một hình thức thả lỏng dây trói để người dân có chút không gian tự do làm ăn hơn trước, và khi người dân tương đối có chút tự do làm ăn thì đương nhiên xã hội đã có một số thay đổi là điều tất yếu. Do đó, dưới định hướng XHCN, sự đổi mới chẳng khác gì thả bớt dây trói để người dân làm ăn nhằm tránh sự nổi loạn như Đông Âu và giúp cho đảng có một số phương tiện vật chất để tiếp tục duy trì sự cầm quyền. Kết quả của sự biến chiêu thả bớt dây trói cho người dân là dân có giàu thêm chút đỉnh nhưng giai cấp thống trị lại càng giàu hơn gấp trăm lần làm khoảng cách giàu nghèo càng ngày càng tăng. Cho nên chẳng phải là điều ngạc nhiên khi ta thấy Đảng CSVN vẫn muốn nắm chính quyền bằng mọi giá, vẫn muốn mình là kẻ đầu tàu dẫn dắt dân tộc phát triển sau lưng mình, phụ thuộc vào trình độ, năng lực và tầm khôn xây dựng đất nước của mình. Nếu Đảng và nhà nước CSVN thực sự đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, thì họ đã phải thấy chính họ đang là cái đầu tàu chậm lụt làm trì cản sự cất cánh của đất nước. Hãy nhìn cách quản lý các dự án kinh tế yếu kém thất thu lãng phí hàng tỷ đồng dưới sự lãnh đạo của họ đủ thấy là họ hoàn toàn là lũ ăn hại, tham ô. Khi tệ nạn tham ô đe dọa sự tồn vong của chế độ, họ bắt đầu lôi một vài con dê tế thần ra đổ tội và trừng phạt không che được rằng chính những con dê đó là thành phẩm của bản chất chế độ độc tài luôn đứng vững nhờ sự ban phát những đặc quyền đặc lợi cho thành phần trong bộ máy thống trị, và đặc quyền đặc lợi tất yếu đưa đến tham nhũng có hệ thống, đục khoét tài nguyên và kinh tế quốc gia. Ngoài ra, hãy xem cách họ trù dập những người muốn nói lên những khao khát muốn cho đất nước khá hơn khác với cách đảng CS muốn thay vì tìm cách đối thoại để cùng tìm phương cách tối ưu cho đất nước. Nếu thực sự đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, lãnh đạo CSVN phải tự làm một cuộc cách mạng bản chất, hoàn toàn cởi trói cho toàn dân vươn lên với hết cả tiềm lực của dân tộc qua một thể chế dân chủ thực sự không giả tạo hình thức, qua đó họ có cơ may được người dân tâm phục chọn lựa nếu họ thật sự xứng đáng./. Nguồn: Việt Tân
......

Pages