Nữ tù nhân lương tâm Việt Nam: Vẫn sẽ chọn con đường đã dấn thân

Hai nữ tù nhân chính trị Trần Thị Nga (bìa trái) và Nguyễn Đặng Minh Mẫn (bìa phải). Nhân ngày phụ nữ trên toàn cầu được vinh danh-Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, Đài RFA gửi đến tâm tình chia sẻ của các nữ tù nhân lương tâm tại Việt Nam trong phần sau. Bị đối xử “vô nhân đạo” Trong thông cáo báo chí phát đi vào ngày 7 tháng 3, Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) lên tiếng về tình trạng các nữ tù nhân trên khắp thế giới đang bị giam giữ trong những điều kiện được mô tả là khủng khiếp. Hai nữ tù nhân được RSF nhắc tên là Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Trần Thị Nga. Blogger Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị bắt giữ vào cuối tháng 7 năm 2011 với cáo buộc lật đổ chính quyền và bị kết án 8 năm tù giam cùng 5 năm quản chế,vì cô đã chụp ảnh biểu tình và các biểu ngữ Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam. RSF chỉ trích Chính quyền Việt Nam đối xử một cách tệ hại đối với nữ tù nhân chính trị Nguyễn Đặng Minh Mẫn trong suốt thời gian cầm tù cô. Gia đình của cô Minh Mẫn ở tỉnh Trà Vinh, miền Tây Nam Bộ, nhưng cô bị buộc phải thụ án tại trại giam ở Thanh Hóa, thuộc Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Hồi tháng 11 năm 2014, cô Minh Mẫn chỉ còn 35 kg sau những lần tuyệt thực để phản đối những bạo lực xảy ra đối với cô. Thân mẫu của Nguyễn Đặng Minh Mẫn, bà Đặng Thị Ngọc Minh, một cựu tù nhân lương tâm nhắc lại một trong các lần con gái của bà bị đưa đi biệt giam trong 10 ngày: “Có lần Minh Mẫn uống nước và tạt nước còn thừa qua cửa sổ mà nhỡ trúng vào người cán bộ, vì cán bộ đi tới mà Mẫn không biết. Cán bộ bảo Mẫn tạt nước tiểu ra ngoài và đưa Minh Mẫn đi kỷ luật 10 ngày. 10 ngày giam kỷ luật như vậy thì mình không được tắm rửa. Họ không cho mình ăn cơm với thức ăn của mình được đem vô. Hằng ngày họ chỉ cho ăn cơm trắng với muối.” Nữ tù nhân chính trị Nguyễn Đặng Minh Mẫn trong gần 8 năm qua thường xuyên bị các nữ tù nhân ở chung, được trại giam chỉ định làm nữ trực sinh sách nhiễu, gây xung đột và dẫn đến hậu quả là cô bị đưa đi kỷ luật nhiều ngày. Tuy nhiên, một nữ blogger bị đi tù lúc cô tròn 26 tuổi vẫn luôn mạnh mẽ đấu tranh không chỉ cho bản thân mình. Cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu, một phụ nữ nông thôn đấu tranh giữ đất tại Dương Nội, từng có thời gian bị giam chung với cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn ở Trại 5 Yên Định, Thanh Hóa nói với RFA về ký ức của bà khi nhớ đến nữ tù nhân Nguyễn Đặng Minh Mẫn: “Khi ở cùng với Minh Mẫn thì tôi thấy Minh Mẫn tuy là một người trẻ tuổi nhưng rất có tinh thần đấu tranh quyết liệt. Mặc dù bị giam giữ trong 4 bức tường, nhưng Minh Mẫn tìm mọi cách để đấu tranh để cải thiện mức sống trong nhà tù, đấu tranh để đem lại quyền lợi cho những người cùng chung chỗ với Minh Mẫn.” Trong thông cáo báo chí của RSF vừa phổ biến, tổ chức này còn nhắc đến trường hợp của nữ tù nhân chính trị Trần Thị Nga, mà RSFtố cáo bà Trần thị Nga được xếp vào nhóm những nữ tù nhân trên thế giới bị giam giữ trong những điều kiện “vô nhân đạo”. Nữ Blogger Trần Thị Nga, còn được biết đến với tên Thúy Nga là một nhà hoạt động bảo vệ cho quyền công nhân. Bà Trần Thị Nga bị bắt vào hạ tuần tháng 1 năm 2017, ngay trước tết cổ truyền và bị biệt giam cho đến ngày ra tòa sơ thẩm vào ngày 25/07/17. Trước phiên xét xử diễn ra, bà Trần Thị Nga chỉ được gặp gỡ với luật sư một lần duy nhất và bà cũng không được gọi điện thoại về cho gia đình cũng như không được thân nhân thăm nuôi gần 1 năm chỉ vì bà “không nhận tội”. Cả hai phiên sơ thẩm và phúc thẩm đều y án 9 năm tù giam đối với nhà hoạt động Trần Thị Nga. Hiện tại, bà Nga đang bị giam giữ ở trại tù Gia Trung, tỉnh Gia Lai. Cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu cho rằng một trong những hành động vô nhân đạo mà Chính quyền Việt Nam đối xử với tù nhân lương tâm là di chuyển họ đến các nhà giam xa gia đình: “Cuộc sống của những người từ vùng miền như chúng tôi từ miền Bắc bị chuyển vào nhà tù trong miền Nam thì xa xôi, cách trở và gia đình thăm nuôi không được thường xuyên khiến cho người tù bị rất thiệt thòi, tổn thất lớn khi phải ở xa quê nhà của mình.” Bà Cấn thị Thêu cũng từng ở qua trại giam Gia Trung, từng phải gánh chịu tình trạng bị đối xử khắc nghiệt nên bà khẳng định nữ tù nhân Trần Thị Nga còn có thể bị biệt đãi càng tồi tệ hơn. Bà Cấn Thị Thêu nói: ‘Vừa rồi mới đây nhất có một người ở cùng với Thúy Nga ra tù. Cô đấy nói rằng Thúy Nga ở trong đó phải chịu rất nhiều áp lực từ phía trại giam. Bởi vì Thúy Nga cũng là một người luôn luôn tranh đấu mặc dù trong môi trường tù tội.” Tổ chức phi chính phủ-Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam công bố nữ tù nhân chính trị Trần Thị Nga là một trong 3 nhân vật được chọn nhận Giải thưởng Nhân quyền năm 2018 của tổ chức này. Từ trong tù, bà Trần Thị Nga quyết định đem tặng 2/3 số tiền thưởng 3000 đô la Mỹ dành cho dân oan và các tù nhân lương tâm cùng với những cựu tù nhân lương tâm tại Việt Nam. Bên cạnh là một nhà hoạt động nữ vì dân chủ, nhân quyền Việt Nam được tổ chức nhân quyền vinh danh và được nhiều người cảm kích, bà Trần Thị Nga còn là một bà mẹ của hai đứa con trai thơ dại. Hình ảnh vạ vật của chúng cùng với cha mình trải qua hành trình dài từ Hà Nam vào Gia Lai thăm gặp mẹ khiến cho công luận phải chạnh lòng. Không ít người quan tâm tự hỏi phải chăng các nữ tù nhân lương tâm ở Việt Nam phải trả một cái giá quá đắt cho các việc làm của họ? Không bỏ cuộc Nhà hoạt động Huỳnh Thục Vy, thành viên của tổ chức xã hội dân sự độc lập-Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam chia sẻ trên trang Facebook cá nhân rằng cô rất yêu quý nữ tù nhân Trần Thị Nga và đó cũng là một tấm gương khích lệ tinh thần đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại Việt Nam, mà bản thân cô sẽ không bỏ cuộc. Cô Huỳnh Thục Vy vào ngày 30/11/18 bị tòa án tại Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk tuyên án 2 năm 9 tháng tù giam với cáo buộc “xúc phạm quốc kỳ” theo điều 276 Bộ Luật Hình Sự và bản án sẽ có hiệu lực khi con của cô tròn 3 tuổi; tuy nhiên hiện nay cô không được phép rời khỏi nơi cư trú. Cô Huỳnh Thục Vy bộc bạch với RFA nhân ngày Phụ nữ Quốc tế, 08/03/19: “Tất nhiên có con thì không ai muốn rời xa con để vào tù ngồi hết. Thời gian ở tù bao nhiêu thì mất thời gian bấy nhiêu ở bên con và chăm sóc cho con lớn lên thì đó là thời gian rất hoang phí. Nhưng mình không kháng án vì mình biết bản án vẫn như cũ do Chính quyền tỉnh Đăk Lăk cố tâm đưa một bản án tù giam cho mình, để ép mình rời khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, vợ chồng mình đang làm ăn và sinh sống tốt ở Việt Nam và có nhiều công việc liên quan đến việc bảo vệ nhân quyền nữa nên mình không muốn rời khỏi Việt Nam lúc này. Nhưng mà mình cũng không muốn ở tù. Cho nên mình có một vài dự tính. Nếu dự tính đó thành công thì mình sẽ không phải ở tù và cũng sẽ không phải đi đâu cả.” Trong khi đó, trả lời câu hỏi của Đài Á Châu Tự Do rằng qua những lần thăm gặp con gái là nữ tù nhân Nguyễn Đặng Minh Mẫn, có bao giờ cô chia sẻ là cảm thấy hối tiếc điều gì không khi phải trải qua bản án tù 8 năm dài như vậy, thân mẫu Đặng Thị Ngọc Minh khẳng định: “Chưa bao giờ Minh Mẫn nói với tôi là ‘Mẹ ơi, con ở tù, con khổ quá!’, hay là ‘Mẹ ơi, con nhớ nhà quá. Tới 8 năm dài đăng đẳng, con buồn quá!’…Không bao giờ có. Tinh thần của Minh Mẫn rất mạnh mẽ. Không bao giờ Minh Mẫn yếu đuối. Minh Mẫn còn nói ‘Nếu được làm lại từ đầu, tôi cũng vẫn nói ‘Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam’. Mẹ con chúng tôi không bao giờ hối tiếc. Mình chấp nhận con đường mình đã chọn và mình rất hãnh và mình rất hãnh diện là mình được góp một phần nhỏ bé của mình để thay đổi đất nước.” Còn nhà hoạt động nữ Huỳnh Thục Vy thì cho rằng một khi đã chọn con đường đấu tranh cho quốc gia Việt Nam được dân chủ và tiến bộ thì chuyện bị tù đày cũng là lẽ đương nhiên: “Mình không phân biệt đàn ông hay phụ nữ trong cuộc đấu tranh này. Trong cuộc đấu tranh cho dân chủ Việt Nam thì ai có chút sức lực nào thì góp sức bấy nhiêu đó thôi. Mình thấy điều này là bình thường. Ai đã lên tiếng chống lại chính quyền thì chính quyền ghét và bỏ tù thì cũng là điều bình thường luôn. Nếu họ không ghét, họ không bỏ tù thì chính quyền đó không phải là độc tài. Và nếu đó không phải là chính quyền độc tài thì mình cũng không phải đấu tranh cho nhân quyền gì cả.” Trong bài ghi nhận ngắn gọn của RFA về các nữ tù nhân lương tâm tại Việt Nam, chúng tôi không thể liệt kê được hết tất cả các hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên, điều cốt lõi mà Đài Á Châu Tự Do nhận thấy là tinh thần vững vàng của các nữ tù nhân lương tâm quyết theo đuổi con đường dấn thân mà họ đã chọn với mong cầu người dân Việt Nam trong tương lai, ít ra có họ và con cái của họ không còn bị rơi vào tình cảnh chia lìa do tù tội, chỉ vì họ cất lên tiếng nói lẽ phải cho quyền của công dân được bảo vệ và cho một xã hội công bằng, văn minh. https://www.rfa.org/…/women-conscienc-prisoners-in-vn-conti…  
......

Thực trạng và giải pháp cho lao động nữ tại Việt Nam

Ngày 8 tháng 3 hàng năm được Liên Hiệp Quốc từ năm 1977 chọn làm Ngày Quốc Tế Phụ Nữ, để vinh danh các giá trị của người phụ nữ đóng góp vào sự phát triển gia đình và xã hội, quyền được tôn trọng và đối xử bình đẳng, và nền hòa bình thế giới. Bài viết này đề cập đến thực trạng lao động nữ tại Việt Nam cần được quan tâm trên hai khía cạnh: sự bình đẳng giới tính và các quyền căn bản, khi mà tỷ lệ người phụ nữ Việt Nam tham gia vào lực lượng lao động là 72%, cao hơn mức trung bình thế giới (49%) và cả mức trung bình của châu Á. Tuy đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế trong 3 thập niên qua, nhưng người phụ nữ Việt Nam lại gặp rất nhiều sự đối xử bất bình đẳng trong việc làm và thu nhập. I- TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM Một cách tổng quát, vấn đề lao động – công nhân tại Việt Nam có 2 đặc điểm nổi bật: Đặc điểm thứ nhất là số người ở vào tuổi lao động đông nhất, nhưng phân bố không hiệu quả Theo Tổng Cục Thống Kê (2017), dân số Việt Nam hơn 95,54 triệu người, số người trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ 74,85%, được coi là quốc gia đang ở giai đoạn “dân số vàng”. Tuy nhiên theo thống kê 2018, số người thực sự làm việc ước tính 54,6 triệu người, thuộc 3 lãnh vực chính như sau: TỔNG SỐ LAO ĐỘNG 54,52 Triệu Lao Động có việc làm Nông nghiệp, Thủy sản, Khoáng sản 29,6 triệu người (37,7%) Công nghiệp, Xây dựng 14,6 triệu người (26,7% Dịch vụ 19,4 triệu (35,6%) Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp cũng được phân bố như sau: TỔNG SỐ LAO ĐỘNG 54,52 Triệu Lao Động có việc làm Đóng góp vào GDP Khu vực FDI   (công ty đầu tư nước ngoài) 4 Triệu người làm việc trực tiếp   6 Triệu người làm giám tiếp 18,1% Khu vực Doanh Nghiệp Nhà Nước 14,6 Triệu người 28,7% Khu vực Tư nhân, và cá thể 33 Triệu người 39,2% Căn cứ vào sự phân bố lao động nói trên, số lao động – công nhân tại Việt Nam hiện nay, đa số tập trung ở doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình, cá thể, nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP lại nhỏ hơn tổng số của FDI và doanh nghiệp nhà nước. Theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới, lao động trong khu vực tư nhân phải đóng góp từ 50% đến 60% GDP. Đặc điểm thứ hai là đa số lao động không qua đào tạo Trong một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2018) đã đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Ví dụ, trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo – là ngành chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa – chỉ chiếm 9% tổng số lao động trình độ cao, trong khi với các nước phát triển tỷ lệ này lên đến 40 – 60%. Nguyên do chỉ vì hệ thống giáo dục tại Việt Nam đã đặt sai mục tiêu đào tạo, chỉ nhắm vào bậc cao đẳng và đại học dẫn đến hệ quả “thừa thầy, thiếu thợ”. Trong một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan (TDRI) đã chỉ ra rằng hầu hết các kỹ năng mềm của người lao động Việt Nam nằm ở mức trung bình hoặc yếu, đặc biệt là kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng lãnh đạo. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Chính những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Theo Tổng Cục Thống Kê (2017), số lao động Việt Nam được đào tạo từ 3 tháng trở lên chỉ chiếm 21,60% tổng số lao động cả nước. Thực trạng này khiến chất lượng lao động Việt Nam thấp vì thiếu chuyên môn và dẫn đến hai hệ lụy: 1/ năng xuất lao động thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á; và 2/ không có khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Sự mâu thuẫn trong vấn đề giáo dục – đào tạo tại Việt Nam khi đang trên con đường phát triển công nghiệp hóa là: số người có trình độ Cao đẳng hay Trung cấp đáng lý phải cao hơn so với trình độ Đại học+trên Đại học, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại. LAO ĐỘNG CÓ BẰNG CHUYÊN MÔN 11, 8 Triệu ĐẠI HỌC/SAU ĐẠI HỌC 5,17 Triệu (43,8%) CAO ĐẲNG 1,75 Triệu (14,8%) TRUNG CẤP 2,96 Triệu (25,09%) SƠ CẤP 1,92 Triệu (16,27%) Tay nghề thấp đã khiến lương công nhân Việt Nam bị hạ thấp so với trung bình của khu vực Châu Á Thái Bình Dương Lương tháng trung bình của người lao động Việt Nam là 125 Mỹ Kim/tháng tại nông thôn và 280 Mỹ Kim/tháng tại thành thị. Theo khảo sát của Tổ Chức Manpower Group Solutions thì mức lương lao động Việt Nam thấp hơn 10 lần so với khu vực châu Á – Thái Bình Dương (2.648 Mỹ Kim/tháng). Trong một khảo sát gần đây của Tổ chức Navigos Group thì mức lương trung bình của người lao động – công nhân quanh khu vực Sài Gòn đã gia tăng lên tới ít nhất 10,3 triệu đồng, tương đương 468 Mỹ Kim/tháng. Nhưng để có được mức lương này, đa số người lao động – công nhân tại vùng Sài Gòn phải làm việc 60 đến 75 tiếng đồng hồ mỗi tuần. Nhiều sinh viên ra trường không tìm được việc làm. Ảnh: Internet Hệ thống giáo dục tại Việt Nam hiện nay không phù hợp với nhu cầu kiến thức và lao động cho sự phát triển của xã hội và nền kinh tế, khiến các sinh viên tốt nghiệp đại học bị thất nghiệp hoặc phải nhận một công việc không tương xứng, phải lao động chân tay và nhất là chạy chọt đi lao động xuất ngoại. Từ năm 2015 trở lại đây, mỗi năm có hơn 100 ngàn thanh niên có trình độ Đại học đi lao động nước ngoài. Đa số tập trung tại ba thị trường lao động mới nổi là Nhật Bản, Đài Loan, và Nam Hàn. Đây là hiện tượng “phí phạm chất xám”, đồng thời các sinh viên du học cũng không muốn trở về nước phục vụ – một hiện tượng “chảy máu chất xám.” Trong khi đó, thành phần lao động với tay nghề cao lại rất thiếu thốn trên thị trường. Điều này cho thấy là lực lượng lao động tại Việt Nam chưa được huy động đúng tiềm năng để đóng góp vào nhu cầu phát triển quốc gia. II- TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG NỮ TẠI VIỆT NAM Theo báo cáo của Mạng lưới hành động vì lao động di cư (Mnet), lao động nữ tại Việt Nam chiếm 70% lực lượng lao động của các ngành xuất khẩu chính như dệt may, da giày, điện tử và 64% lao động trong khu công nghiệp. Nói cách khác, các khu chế xuất FDI thu hút số lao động nữ đông nhất, tập trung tại các khu vực Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Thanh Hóa, Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Phòng. Vì làm việc trong những ngành nghề đa số dùng tay chân, nên lao động nữ chỉ được hưởng một phần rất nhỏ bé trong toàn bộ giá trị của chuỗi cung ứng toàn cầu. Ví dụ trong ngành may, chi phí lao động chỉ chiếm 2% giá bán, trong khi những phần khác thì hưởng tới 16% hoặc hơn lợi nhuận của một sản phẩm. Ngoài ra, do nhu cầu cạnh tranh, các sản phẩm vẫn thường xuyên gây áp lực giảm chi phí lao động, hệ quả là người lao động nữ tại Việt Nam đã phải làm việc trong khung cảnh bị áp lực liên tục, thời gian làm việc dài hơn với mức lương thực tế thấp hơn so với lao động nam. Theo khảo sát của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, nhiều nơi có tới 80% lao động nữ trên 35 tuổi làm việc trong các khu công nghiệp bị buộc phải nghỉ việc hoặc tự bỏ việc vì không chịu đựng nổi điều kiện làm việc khắc nghiệt. Cũng theo kết quả khảo sát này, sau khi bị sa thải, đa phần người lao động nữ kiếm sống bằng những nghề tự lập, buôn gánh bán bưng, làm ruộng hay nội trợ gia đình. Đặc biệt, đối với lao động nữ, tập trung phần lớn là bán hàng rong (82,6%), 12,1% làm việc vặt, làm thuê, làm mướn với công việc nặng nhọc, lương thấp và bất định. Một cách tổng quát, lao động nữ tại Việt Nam ngày nay, đối diện với những vấn nạn như sau: 1/ Đối xử bất bình đẳng Lao động nữ tại Việt Nam bị phân biệt đối xử khi đi xin việc, họ thường bị từ chối nhiều hơn nam giới, lương thấp hơn nam giới cho cùng một loại công việc, và đa số bị tuyển dụng vào các ngành lao động lương ít như giày da, may mặc, chế biến và sản xuất thực phẩm, gốm sứ và thủy tinh. Có tới 80% lao động nữ trên 35 tuổi làm việc trong các khu công nghiệp bị buộc phải nghỉ việc hoặc tự bỏ việc vì không chịu đựng nổi điều kiện làm việc khắc nghiệt. Ảnh: Internet Vị thế của lao động nữ hầu hết thấp hơn lao động nam trong các công ty, bất kể khả năng có vượt trội hơn hay không. Lao động nữ ít được đào tạo so với lao động nam, và dễ dàng bị sa thải hơn. Thống kê cho thấy lao động nữ chiếm đa số trong nhóm lao động thất nghiệp, gồm 57,3% nhóm lao động “chưa qua đào tạo” và 50,2% trong nhóm “đã được đào tạo nghề/chuyên nghiệp”. Đáng chú ý hơn là số lao động nữ trong nhóm thất nghiệp có trình độ đại học lên tới 55,4%. Điều này cho thấy là cơ hội tìm được việc làm đối với phụ nữ là cả một quá trình khó khăn và phức tạp so với nam giới. 2/ Thu nhập không đủ sống Trong khu vực lao động phi chính thức, lao động nữ hưởng mức lương thấp hơn nam giới 64%. Theo Ngân Hàng Thế Giới, thu nhập trung bình của lao động nữ ở Việt Nam vẫn còn quá thấp so với mức lương đủ sống, ước tính là 150 Mỹ Kim/Tháng. Thu nhập thấp chính là một nguyên nhân quan trọng khiến người phụ nữ phải chấp nhận những công việc có điều kiện làm việc tồi tệ hơn, thời gian làm việc dài hơn để nâng cao thu nhập. Do đó mà tỷ lệ lao động nữ trong khu vực phi chính thức phải làm công việc nguy hiểm lên tới 59,6%, cao hơn nhiều so với mức 31,8% của lao động nam trong khu vực phi chính thức. Mới đây, ngày 26 tháng 2 vừa qua, Tổ chức Oxfam đã công bố một báo cáo: tại Việt Nam hiện nay, có tới 99% công nhân may không được trả lương đủ sống căn cứ trên mức sàn lương châu Á là 8,9 triệu đồng/tháng và 74% không đủ sống căn cứ trên mức sàn lương toàn cầu 5,2 triệu đồng/tháng. Ước tính lương cơ bản trung bình của 2,5 triệu lao động trong 60.000 doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam chỉ có 3,7 triệu đồng/tháng. Trong khi những người lao động này phải làm việc mỗi tuần hơn 60 giờ, có người làm đến 115 giờ/tháng. Theo báo cáo Oxfam, 69% công nhân dệt may cho biết họ không có đủ tiền để trang trải nhu cầu sinh hoạt của mình; 28% công nhân nói rằng tiền lương không đủ để bảo đảm chi tiêu ăn uống cho gia đình trong cả tháng, trong đó 50% cho biết họ phải vay tiền để mua thức ăn; 53% không đủ khả năng điều trị khi ốm đau và có tới 94% công nhân không dám nghỉ ốm khi cần. 3/ Bấp bênh đời sống di cư Hiện nay, tỷ lệ lao động nữ di cư trong các khu công nghiệp – chế xuất lên tới 60%, tỷ lệ này càng ngày càng cao, tạo nên hiện tượng “nữ hóa” di cư. Theo một nghiên cứu vào năm 2015, Tổ chức Oxfam cho biết có tới 90% phụ nữ di cư và con cái họ gặp khó khăn trong việc được nhà nước giúp đỡ về y tế, giáo dục cho con em của mình. Một phần là do thiếu hiểu biết, không được hướng dẫn, nhưng phần lớn là bị các địa phương phân biệt đối xử. Cụ thể, có tới 71% người lao động di cư không được giúp đỡ về dịch vụ y tế công tại nơi đến. Và 21,2% trẻ trong độ tuổi từ 6 -14 tuổi theo cha mẹ lao động di cư không được đi học. Đây là con số đáng báo động về tình trạng trẻ em không tiếp cận được hệ thống giáo dục. Chỉ có 7,7% trẻ em di cư đi nhà trẻ công lập, và 12% trẻ em di cư đi học trường mẫu giáo công lập. Hầu hết các em phải tới những trung tâm mẫu giáo/giữ trẻ tư nhân. Một xóm trọ nghèo của người lao động. Ảnh: Internet Hiện nay lao động di cư từ miền trung chiếm một tỷ lệ lớn, dẫn đầu là Thanh Hóa 37,7%, Nghệ An 22,6%, Hà Tĩnh 14,1%… Theo các nhà chuyên môn, do xa nhà, không có người thân, các công nhân này phải ở nhà trọ trong điều kiện thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Ngoài ra, do xuất thân từ nông dân, trình độ nhận thức thấp do học vấn thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, tính tổ chức và kỷ luật chưa cao, cơ hội tìm bạn đời hạn hẹp, dễ trở thành nạn nhân của lừa đảo… Đây là vấn đề nghiêm trọng, nếu không giải quyết tốt, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường lao động cũng như các vấn đề an sinh xã hội. III- GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG NỮ Theo Luật Lao Động 2012 và Nghị định 85/2015/NĐ – CP dưới thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng, nhà cầm quyền CSVN đã quy định về chính sách đối với lao động nữ bao gồm: 1/ Bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ. Trong đó quy định người sử dụng lao động phải thực hiện quyền bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, tiền lương, khen thưởng,… 2/ Cải thiện điều kiện lao động đối với lao động nữ. Trong đó quy định người sử dụng lao động phải bảo đảm có đủ buồng tắm, buồng vệ sinh tại nơi làm việc; khuyến khích áp dụng chính sách làm việc theo lịch trình linh hoạt, phù hợp với nguyện vọng của lao động nữ. 3/ Chăm sóc sức khỏe đối với lao động nữ như khám sức khỏe định kỳ, khám chuyên khoa phụ sản… Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ 60 phút/ ngày để cho con bú, vắt sữa, trữ sữa, nghỉ ngơi; thời gian nghỉ hưởng nguyên lương. 4/ Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi… 5/ Người sử dụng lao động phải giúp đỡ, hỗ trợ nhân viên trong việc xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ, cho các em đi học… Những quy định nói trên rất lý tưởng và nhân bản. Nhưng trong đời sống thực tế, các tiêu chuẩn nói trên không thể áp dụng vì xã hội Việt Nam vẫn còn vận hành theo nền tảng XIN – CHO của bộ máy hành chánh độc tài độc đảng và tham nhũng. Mỗi cán bộ, đặc biệt là những cán bộ phụ trách về lao động, công đoàn, an sinh xã hội đều là những sứ quân và hành xử theo những quy luật riêng của từng địa phương. Chính vấn nạn hành chánh là rào cản đầu tiên khiến cho người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng đã không thể có một đời sống lao động lý tưởng như Luật Lao Động quy định. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là đa số giới lao động thiếu hiểu biết về quyền của mình, thiếu khả năng tiếp cận thông tin, từ đó người dân không hiểu biết và coi các vấn đề như thuế khóa, ngân sách, bảo hiểm xã hội là của chính quyền, và càng không phải là điều mà họ “có quyền tham gia đòi hỏi hay góp ý kiến.” Đặc biệt là đối với những người lao động di cư lại càng mù tịt đối với các vấn đề chung quanh, khiến họ gặp nhiều khó khăn hơn khi tiếp cận các dịch vụ căn bản như y tế, trường học cho con em và các bảo trợ xã hội. Ngay cả những tổ chức, cơ quan quốc tế hay tư nhân độc lập được lập ra để theo dõi, hướng dẫn người lao động cũng chỉ đưa ra những khuyến cáo chung chung, không có khả năng cải sửa hay giải quyết các yêu cầu của người lao động để giúp họ có một đời sống khá hơn. Ba vấn nạn lớn nhất đối với lao động nữ hiện nay chính là sự đối xử bất bình đẳng, thu nhập không đủ sống và nhất là đời sống di cư (chiếm đến 60% tổng số lao động nữ). Do đó, để giải quyết rốt ráo các vấn nạn này, phải để cho chính người lao động trực tiếp giải quyết bên cạnh sự hỗ trợ của bộ máy công quyền. Thứ nhất là chấp nhận việc hình thành những công đoàn độc lập do chính người lao động thành lập, nhất là trong các công ty chế xuất FDI, mà không lệ thuộc hoặc bị chi phối bởi Công đoàn. Trong thực tế, Công đoàn không bảo vệ hay giúp gì cho lao động nữ mà còn tạo ra những rào cản phi lý, chỉ vì Công đoàn đứng ra bênh vực những quyền lợi của các chủ nhân công ty nước ngoài, thay vì bênh vực quyền lợi của công nhân. Thứ hai là tạo điều kiện giúp cho người lao động đứng ra thành lập những Nhóm Lao Động Tương Trợ, để bảo bọc và giúp nhau trong cuộc sống. Lý do là với những nhóm tương trợ của công nhân, người lao động sẽ nhìn ra những nhu cầu của chính họ, và qua đó có thể vận động chính quyền hay những cá nhân, đoàn thể xã hội độc lập giúp đỡ. Tựu trung, Nhóm Lao Động Tương Trợ sẽ có một số nỗ lực thực tiễn: a/ Tương trợ lẫn nhau trong tình con người; b/ Cùng nhau chia xẻ kinh nghiệm trong đời sống; c/ Giúp nhau cải sửa nhân cách để hướng thiện; d/ Cùng nhau học hỏi trau dồi công việc làm. Thứ ba: Áp dụng ngay 5 điều khoản trong Nghị định 85/2015/NĐ – CP đối với các công ty quốc doanh, kế đến là hợp doanh và FDI trên căn bản thưởng/phạt, tức là công ty sẽ bị trừng phạt hay mất quyền lợi kinh doanh nếu vi phạm. Thứ tư: Quảng bá rộng rãi 5 điều khoản trong Nghị định 85/2015/NĐ – CP để gia tăng sự hiểu biết về quyền lợi của người công nhân. Thứ năm: Giáo dục quảng đại quần chúng và ngay từ lớp mẫu giáo những lợi ích và cần thiết của sự bình đẳng trong xã hội nói chung, và bình đẳng giới tính nói riêng. IV- KẾT LUẬN Trong 30 năm qua, Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu đã đạt được tăng trưởng kinh tế cao, nhờ mở cửa thu hút đầu tư ngoại quốc. Đóng góp vào nỗ lực này phải nói là lực lượng lao động Việt Nam giữ một vai trò rất quan trọng. Nhưng có hai vấn đề cần quan tâm. 1/ Theo đánh giá của Ngân Hàng Thế Giới thì chất lượng của nguồn năng lực lao động Việt Nam còn quá thấp, chỉ đạt 3,79 điểm (trong thang điểm 10) xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được khảo sát ở Á Châu. Trong khi Nam Hàn đạt 6,91 điểm, Ấn Độ đạt 5,76 điểm, Malaysia đạt 5,59 điểm. Nguồn nhân lực của Việt Nam nói chung là yếu về chất lượng, thiếu năng động và cung cách ứng xử trong lao động. 2/ Theo báo cáo năm 2016 của Tổng cục Thống kê, mặc dù nông nghiệp chỉ đóng góp có 16,3% GDP của Việt Nam nhưng có đến 41,9% lực lượng lao động tham gia vào sản xuất nông nghiệp. Ở nông thôn, tỷ lệ phụ nữ làm việc trong nông nghiệp có đến 63,4%. Nhưng với nhu cầu hiện đại hóa nông thôn, máy móc dần thay thế nhân lực và phụ nữ là thành phần bị mất việc trước nam giới. Phụ nữ nông thôn tìm cách xin việc ở các khu chế xuất, nhưng phần lớn các doanh nghiệp lại không nhận lao động trên 30 tuổi. Nếu có được nhận thì làm việc với mức lương rất thấp và chịu rất nhiều nghịch lý như đã phân tích bên trên. Nguồn năng lực lao động của Việt Nam còn quá thấp so với nhiều quốc gia khác trong vùng. Ảnh: TTXVN Hai vấn đề nói trên không chỉ là quan tâm riêng của nhà cầm quyền mà phải là bài toán chung của toàn xã hội. Giải quyết được hai khâu nói trên – năng lực và bình đẳng cơ hội – sẽ giúp rất lớn cho lao động nữ tại Việt Nam tìm được cơ hội để thăng tiến. Muốn như vậy, chính quyền Việt Nam cũng như các nhóm xã hội dân sự cần hợp tác giải quyết ba nỗ lực: Một, tổ chức những chương trình huấn nghệ, đào tạo tay nghề đáp ứng những nhu cầu thực tế của xã hội. Hai, thực hiện chương trình tuyển lựa lao động công bằng, trong sạch và không đút lót/tham nhũng. Ba, đẩy mạnh giáo dục về nhu cầu bình đẳng trong xã hội – giáo dục quần chúng cũng như trong học đường, nhằm thay đổi tư duy lỗi thời. https://viettan.org/thuc-trang-va-giai-phap-cho-lao-dong-nu-tai-viet-nam/
......

Một bông hồng cho Nguyễn Đặng Minh Mẫn

Ngày Quốc Tế Phụ Nữ mồng 8 Tháng 3 năm nay, tôi muốn chia sẻ đôi điều để nhớ đến một người con gái Việt, cùng với nhiều những người con gái Việt khác, là biểu tượng của tinh thần Trưng Triệu thời nay. Vượt lên trên những bất công xã hội đối với phụ nữ mà ngày 8 Tháng 3 nhắc nhở chúng ta phải cố gắng san bằng, bốn chữ Nguyễn Đặng Minh Mẫn gợi lên sự yêu mến, kính trọng, thán phục, tinh thần trách nhiệm và sự biết ơn của cá nhân tôi và của người dân Việt đối với người phụ nữ Việt Nam, và đối với Nguyễn Đặng Minh Mẫn nói riêng. Sử sách không ghi rõ tuổi của Hai Bà Trưng vào năm 39 khi dấy quân khởi nghĩa chống giặc Đông Hán, giết Tô Định, chiếm 65 huyện thành, đuổi giặc Hán ra khỏi bờ cõi, chấm dứt thời kỳ Bắc Thuộc lần thứ nhất kéo dài 246 năm, nhưng có thể ước đoán rằng tuổi của Hai Bà Trưng cũng sấp sỉ tuổi 25 của Nguyễn Đặng Minh Mẫn khi Minh Mẫn dấn thân vào cuộc “khởi nghĩa” chống giặc Trung Cộng khi đi thu thập những giòng chữ HS-TS-VN (Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam), thu thập những bằng chứng về tham nhũng của nhà nước CSVN, và tham gia những cuộc biểu tình chống giặc Tàu Cộng xâm lấn biển đảo và đất đai của tổ tiên vào năm 2010. Nước Việt Nam đã trải qua 4 lần Bắc Thuộc, bị Trung Hoa đô hộ tổng cộng 1081 năm. Vẫn chưa ai giải thích được rõ ràng sự kỳ diệu hay phép lạ của giòng giống Việt, vì đâu mà giữ được tinh thần, bản chất Việt để có thể vùng lên đuổi giặc ra khỏi bờ cõi tới 4 lần sau bao thế kỷ bị đô hộ bởi một kẻ thù vừa lớn mạnh, vừa tàn bạo với quyết tâm đồng hoá chúng ta. “Lòng dân” quyết tâm đuổi giặc vào năm 39 đó đã giúp Hai Bà Trưng thành công. Quân dân một lòng đánh đuổi giặc. Nguyễn Đặng Minh Mẫn và những người phụ nữ hôm nay không được cái may mắn đó. Họ phải đối đầu cùng lúc với giặc ngoại xâm Trung Cộng và tay sai là giặc nội xâm Việt Cộng. Vào ngày 31/7/2011, CSVN bắt giam Minh Mẫn, mẹ của Cô (bà Đặng Ngọc Minh) và người anh (Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc) và sau 17 tháng giam giữ không xét xử, vào 2 ngày 8-9/1/2013 CSVN kết án Minh Mẫn 9 năm tù giam (sau giảm xuống còn 8 năm) cộng 5 năm quản chế với tội danh tham gia Đảng Việt Tân và “âm mưu lật đổ chính quyền” theo Điều 79 Bộ Luật Hình Sự trong phiên toà xử 14 thanh niên Công Giáo với những bản án lên tới 13 năm. Trong tù, Minh Mẫn đã bị đối xử khắc nghiệt, bị cách ly, bị bức bách lao động cực nhọc, bị đe dọa khiến Cô đã nhiều lần tuyệt thực để phản đối với một cơ thể chỉ còn 35 ký. Tuy thế, mọi thông tin hiếm hoi nhận được từ lao tù luôn cho thấy một Minh Mẫn luôn có nụ cười trên môi với một quyết tâm và ý chí sắt đá về lý tưởng và chính nghĩa của việc mình làm. Khi bản án 9 năm giáng xuống đầu Minh Mẫn, người ta đã được nghe những nhận định như “9 năm hay mấy thì cũng kệ, Việt Cộng đâu còn sống tới lúc đó!” Sau hơn 6 năm nhìn lại, xem ra lòng dân và tình thế không lạc quan như vậy! Nhớ lại Vua Tự Đức đã có lời nói được ghi lại trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục như sau: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm!” Nhiều người Việt Nam hôm nay rất bi quan khi nghĩ về đất nước, cho rằng thay đổi tình hình đất nước, chấm dứt cộng sản, chấm dứt độc tài, ngăn chận ngoại xâm là điều khó. Đấy là cách nhìn mà người viết không chia sẻ. Chỉ “khó” thôi sao? Nếu nhớ lại thời điểm ngay sau 1975 thì có thể nói là chẳng mấy ai người “nghĩ” đến chuyện thay đổi; buông xuôi là tâm trạng chung vào thời điểm đó. Ngày hôm nay, 44 năm sau, điều “không dám nghĩ đến” đã dần trở thành “có thể”, rồi “có hy vọng”, rồi “nhiều hy vọng”,… và đến ngày hôm nay thì những ai quan tâm đến thời cuộc đều đồng ý với nhau là chuyện cộng sản sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian. Nhưng bao lâu nữa thì tùy thuộc vào chúng ta. Đó chính là vấn đề. “Cứu người như cứu hỏa!” Đảng CSVN đã đẩy đất nước xuống đáy vực. Tất cả mọi lãnh vực đều cần “cứu”. Từ chủ quyền đất nước, đất đai biển đảo của tổ tiên, chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, thực phẩm, đạo đức,… trẻ em, phụ nữ, người già, thương phế binh,… tất cả đều cần phải cứu. Thấu hiểu những điều đó, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, và những người phụ nữ Việt khác, cùng những nhà đấu tranh dân chủ, đã không còn thấy khó, và không thể chờ đợi. Và họ đã hiến thân mình làm những viên đá lót đường trên con đường chấm dứt độc tài để cứu nước và canh tân đất nước. Nguyễn Đặng Minh Mẫn và nhiều những người như Minh Mẫn đã làm quá bổn phận của họ để mở ra con đường, và chắc họ không mong mỏi gì hơn là được biết mỗi người, mọi người trong chúng ta đứng dậy và bước đi. Đỗ Đăng Liêu Ngày 8/3/2019 Thực trạng và giải pháp cho lao động nữ tại Việt Nam Nhân quyền của phụ nữ Việt Nam  
......

VIỆT TÂN, GIŨA NAIL, BA SỌC, PHẢN ĐỘNG : CÁC NGƯỜI LÀ AI.

Nguyễn Hiền - Việt Nam Thời Báo Ba đầu sáu tay! - Xuống đường phản đối Formosa gây ô nhiễm môi trường biển, hủy hoại sinh kế ngư dân bị gán mác là ‘Việt Tân, phản động’. - Xuống đường tưởng niệm các anh hùng đã chết trong trận chiến Hoàng Sa, cuộc chiến Biên giới với Trung Quốc bị gán mác ‘phản động, ba sọc, Việt Tân’. - Phản đối việc nhấn chìm chất thải xuống biển, chặt hạ cây xanh số lượng lớn với sự mù mờ trong đề án bị gán mác là ‘phản động, chân tay ba sọc’. - Phản đối BOT bẩn, tiến hành kiểm đếm thủ công lưu lượng xe qua BOT để giúp cho nhà nước không bị thất thu thuế bị gán mác ‘phản động, bọn ba sọc, chân tay Việt Tân’. - Lên tiếng về hiện tình quốc gia, về quyền con người khi bị xâm phạm, đòi hỏi lợi quyền cho giai cấp công nhân bị gán mác là ‘giũa nail, bọn phản động’. - Lên tiếng phản đối những quan chức tham nhũng, lạm dụng quyền lực, bị gán mác là ‘bọn giũa nail, ba sọc’. ‘Việt Tân, giũa nail, ba sọc, phản động’ là ai mà có sức mạnh ghê gớm đến như vậy, vượt qua cả chế độ 'công an và hộ khẩu' để len lỏi vào sâu trong tiềm thức, biến đổi hành vi của người dân trong xã hội (dù họ là lao động tự do hay là một người tầng lớp tinh hoa của dân tộc). ‘Việt Tân, giũa nail, ba sọc, phản động’ là ai mà có thể buộc một người lên tiếng về kỷ niệm lịch sử vốn dĩ bị im lặng trong hàng chục năm trời, lên tiếng về những vấn đề kinh tế - xã hội thiếu minh bạch như vậy?. Nhiều người cho rằng, ‘Việt Tân, giũa nail, ba sọc, phản động’ là bí danh của một tổ chức rất kinh khủng, mà nơi đó nó chi phối hàng vạn con người Việt Nam bắt họ từ ‘dân thường’ trở thành ‘phản động’, buộc họ từ ‘thờ ơ’ sang ‘sống có trách nhiệm với cộng đồng’. Người khác lại cho rằng, Việt Tân chính là vị tướng công an đã bị khởi tố theo tội danh ‘Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng’ vì liên quan đến tham nhũng của Vũ Nhôm. Dù lý giải theo cách nào, thì bất cứ điều gì thể hiện quyền làm người, thể hiện sự tâm huyết với quốc gia, dân tộc đều bị Nhà nước và một bộ phận không nhỏ các ‘đồng chí’ của Nhà nước chụp mũ, nhẹ thì bị bêu rếu, nhục mạ danh dự nhân phẩm, nặng thì các án tù có liên quan đến an ninh quốc gia. Nhưng ngoại trừ tướng Việt Tân liên quan đến vấn đề tham nhũng, gián tiếp gây thiệt hại lớn cho công sản nhà nước thì chưa thấy Việt Tân nào tạo tham nhũng tại Việt Nam, ăn tiền thuế cho của dân, lạm dụng quyền lực với dân. ‘Bọn phản động’ cũng vậy, ‘bọn phản động’ chưa từng tham nhũng một cắc thuế nào của nhân dân hay bòn rút ngân sách nhà nước, ‘bọn phản động’ cũng không dùng tiền có từ phi vụ ‘lợi ích nhóm’ để mua nhà ở nước ngoài hay cho con cháu du học, ‘bọn phản động’ cũng chưa từng hủy hoại rừng phòng hộ, rừng nguyên sinh để tư lợi cá nhân, hay cổ đông thành lập BOT để ‘hút máu dân và nhà nước’ theo nhiều cách khác nhau. ‘Ba sọc’ là thực thể đã biến mất tại Việt Nam gần nửa thế kỷ, ‘ba sọc’ không khiến cho dân Việt Nam ăn bobo, không gây ra cái chết vô cớ ở đồn công an, cũng không phát hành hàng trăm thứ thuế phí vô lý; ‘ba sọc’ cũng không đánh những người dân khi họ đòi minh bạch môi trường, minh bạch dự án trồng cây xanh, minh bạch BOT,… Còn những người ‘giũa nail’, họ sống bằng chính sức lao động của họ, không vơ vét của nhà nước một đồng nào, không ‘buôn chổi đót, chạy xe ôm xây biệt phủ’, mà lao động bằng nghề chân tay, hưởng thành quả và tạo ra thế hệ F1, F2 với những nghề nghiệp tinh hoa và cận tinh hoa ở nước ngoài. Trong khi đó, những người chửi bới cuồng nhiệt nhất, gán mác ‘phản động, ba sọc, giũa nail, Việt Tân’ lại là những người đang trực tiếp hít thở khí bẩn (bụi mịn) tại những thành phố lớn, chứng kiến môi trường thiên nhiên bị hủy hoại, ăn thức ăn độc hại, đang chịu hàng trăm thứ thuế vô lý, đang ‘bôi trơn’ trong mối quan hệ với công quyền, chịu đựng trong những bệnh viện chật cứng người và thậm chí là đang cam cảnh xuất khẩu lao động ở nước ngoài vì trong nước đã không còn quá nhiều việc để ổn định cuộc sống. Cái khác của nhóm người này với ‘Việt Tân, giũa nail, phản động, ba sọc’ là một tư duy bảo thủ và lạc hậu, được hệ thống hóa bằng sự nô lệ có tính truyền thống. Họ vui mừng, hớn hở, giễu nhạo những ‘ba sọc, Việt Tân, phản động, giũa nail’ bị đánh đập, bắt giam, khởi tố và phạt tù,… Nhưng họ không nhận thức được rằng, khi một người bị họ gán mác phải chịu bất lợi thì chính họ và con cháu họ đang bị tước dần tương lai, và thịnh vượng. "Ba sọc, Việt Tân, phản động, giũa nail" không làm cho đất nước nghèo đi, mà chính những kẻ gán mác "giũa nail, phản động, Việt Tân, ba sọc" đã khiến đất nước không chỉ nghèo đi, mà con hèn đi trông thấy. Những kẻ chết hèn, chết mòn trong chính tư duy nô lệ của mình.  
......

Nhân quyền của phụ nữ Việt Nam

Thắng Bùi International Women’s Day hay Ngày Quốc Tế Phụ Nữ (8/3) hàng năm cho chúng ta cơ hội tôn vinh những đóng góp của người phụ nữ từ văn hóa, chính trị đến giáo dục, kinh tế và xã hội vì mục tiêu phục vụ nhân loại. Ngày này còn mang ý nghĩa  quan trọng nữa là nhắc chúng ta hãy tôn trọng quyền con người, chống phân biệt giới tính, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em cần được bảo vệ và yêu thương. Những đóng góp tích cực và quan trọng của người phụ nữ trong xã hội ngày nay đã không chỉ góp phần đưa xã hội tiến bộ và xác định các giá trị nhân bản, đặc biệt là ở những nước có dân chủ và nhân quyền, mà còn khuyến khích sự lớn mạnh của những phong trào chống lại bất công, kỷ thị và áp bức tại những xã hội độc tài, độc đảng. Nhân ngày Quốc Tế Phụ Nữ, chúng ta cùng nhìn lại vị thế cùa người phụ nữ Việt Nam, họ có được đối xử công bằng và được luật pháp bảo vệ? Khi thế giới văn minh và nhân loại có những bước tiến quan trọng trong việc chống bạo hành, chống phân biệt đối xử về giới tính, chống bất công cũng như bảo vệ quyền lợi, khuyến khích, giúp đỡ, cổ võ cho phụ nữ luôn được đề cao, nhất là những người phụ nữ đấu tranh cho quyền bình đẳng, lên tiếng cho bất công trong xã hội v.v…, họ cần được xã hội ủng hộ và quan tâm một cách tối đa cả về vật chất và tinh thần. Ngược lại ở đất nước Việt Nam của chúng ta nhưng do Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền và lãnh đạo, cho nên nhân quyền con người không có, và bị tước đoạt một cách trắng trợn. Nhân quyền, tự do, bình đẳng chỉ nằm trên giấy, trong luật mà thôi. Bất công trong xã hội tràn lan, người dân lại sợ lên tiếng vì cốt lõi của vấn đề là do sự cai trị hà khắc của chế độ, gieo rắc sự an phận cùng nỗi sợ hãi vào quần chúng nhân dân. Mà nếu có ai đó dám đứng về phía công lý và sự thật thì sẽ bị nhà cầm quyền đàn áp, sách nhiễu, cùng với đó là những bản án nặng nề. Những tù nhân lương tâm can đảm tại Việt Nam ngày nay, mà không ít trong số họ là những phụ nữ, là những con người sống có trách nhiệm với xã hội, muốn có một Việt Nam thật sự có nhân quyền, bình đẳng, muốn cho các em trẻ có cơ hội biến những ước mơ đẹp thành hiện thực… mà can đảm, tự nguyện dấn thân. Những người vợ, người mẹ, người chị đó là Trần Thị Nga, Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh), em Nguyễn Đặng Minh Mẫn, chị Huỳnh Thục Vy… Chị Nga người Hà Nam, từng có thời gian đi lao động xuất khẩu ở Đài Loan. Trong thời gian làm việc tại đây, chị bị tai nạn và phải nằm viện hơn một năm nhưng công ty ký hợp đồng lao động đưa chị qua Đài Loan lại không trả khoản tiền, bồi thường bảo hiểm an toàn lao động mà chị đáng được hưởng. Từ đó chị tìm hiểu và tham gia đấu tranh khi quay lại Việt Nam. Chị tham gia vào nhiều hoạt động đòi công bằng, chống oan sai, tuần hành bảo vệ môi trường… tất cả những việc làm của chị đều mong muốn có một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lại cho rằng chị chống đối nhà nước. Một người phụ nữ thì lấy gì chống lại một nhà nước? Để thỏa mãn việc đàn áp người dân, nhà cầm quyền đã bắt và tuyên một bản án hết sức nặng nề 9 năm tù và 5 năm quản chế, trong một phiên toà chóng vánh vào ngày 25/7/2017 cho bà mẹ 2 con nhỏ, với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88 Bộ Luật Hình Sự Việt Nam 1999 (nay là điều 117 Bộ Luật Hình Sự 2015). Với bản án dành cho chị Trần Thị Nga, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã nhận rất nhiều chỉ trích từ nhiều tổ chức và cá nhân trong giới đấu tranh vì nhân quyền. Một điều nữa là Việt Nam đã ký hầu hết những công ước quốc tế về nhân quyền nhưng lại phớt lờ, không thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ. Nhưng đó chỉ là một phần trong muôn vàn bất công mà phụ nữ Việt Nam đã và đang phải đối diện. Bất công và oan trái sẽ còn được nhắc đến nhiều khi chế độ Cộng Sản còn ngự trị trên đất nước Việt Nam.    
......

Những bông hồng cho đời

Từ trong trại tù khắc nghiệt, những bông hồng tươi rói được gửi ra cho những người bên ngoài nhà tù lớn là một sáng kiến tuyệt vời. Nó được chính tay, chính tâm hồn tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa vun trồng, chăm bón, biểu hiện một sức sống cùng hoa thơm cho đời từ chính con người, chính cuộc đời làm chứng cho sự thật, công lý và lòng yêu nước nồng nàn của chàng trai trẻ này. Trên Facebook của nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh cho biết về tình trạng của Hóa: “Nguyễn Văn Hoá đang tuyệt thực ngày thứ 12 tại trại giam An Điềm, Quảng Nam. Hoá tuyệt thực phản đối việc trại giam không cho Hoá gửi đơn tố cáo việc bị đánh đập khi tạm giam ở Hà Tĩnh, và tuỳ tiện vào phòng quay phim chụp hình Hoá tại phòng giam An Điềm.” Thông tin về Hóa tuyệt thực đến ngày thứ 12 mà ít ai biết đến, hoặc thoáng qua đâu đó trong thế giới huyễn hoặc này. Có thể, mà chắc chắn rằng, những người tù nhân lương tâm luôn nghĩ về gia đình, thân nhân, nghĩ về bằng hữu, bè bạn, nghĩ cho tha nhân, xã hội và đất nước. Chả thế có lời nhắn nhủ từ Hóa: “Gửi những bông hồng do mình tự trồng tặng tất cả các cô, dì, chị, em gái nhân ngày 8/3”. Quả thật khó để khẳng định có một mẫu mực nào đó cho mối tương quan mang chiều kích thiện ích giữa người với người trong xã hội ngày nay, nhất là trong xã hội cộng sản. Mặc dù bản chất tự nhiên của con người là sự liên đới mang tính phổ quát. Qua Facebook của nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh, chúng ta được biết đến một người có cái tên Trần Văn No, quê tận xứ Đồng Tháp miền Tây xa xôi nhưng hiện tại lại bị cộng sản lưu đày tại trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam thuộc miền Bắc. Đọc những thông tin về No mà thấy xót xa nhói đau trong lòng: “No chưa có vợ, cha mẹ già lại nghèo, đường thì xa, nên đành bỏ mặc không thể thăm nuôi con”.  Lòng cộng sản độc, tâm cộng sản ác, trí cộng sản tàn. Vậy nên, cũng chẳng lạ gì khi chúng ra tay đọa đày bá tánh nước Việt một cách điên cuồng và man rợ như vậy. Khi được kêu tên để được thăm gặp gia đình thì “Trần Văn No đã sững sờ khi nghe gọi tên mình ra gặp người nhà, “chắc có sự nhầm lẫn”, No không tin đó là thật”. Tôi thấu hiểu được nỗi lòng của No. Đó là tâm trạng vừa hạnh phúc, ấm áp khi được gặp thân nhân sau bao ngày đơn côi trong chốn ngục tù lạnh lẽo, đó cũng là tâm trạng của những người biết rằng mình không có quà nhưng lại được tặng quà. Trần Văn No không có bông hồng như Nguyễn Văn Hóa gửi tặng cho cha, cho mẹ, cho anh em bằng hữu. Tuy vậy, từ trong ngục tù  “No tha thiết nhắn người nhà nói lên công luận rằng mình vô tội, mình bị oan”. Đúng thật, dưới chế độ độc tài cộng sản đã biến đất nước Việt Nam ngày nay có đến hàng ngàn tù nhân lương tâm vô tội, bị hàm oan. Trong một xã hội bị phơi nhiễm sặc mùi vô cảm, thờ ơ trước nỗi đau của đồng loại. Lòng tự kháng dân tộc bị hạ bệ một cách rẻ rúng trước hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Thế nhưng, trong sa mạc cằn cỗi đó lại có những trồi non với sức sống mạnh mẽ vươn mình về phía ánh sáng của tự do. Cần phải minh định thật rõ ràng với những gì chúng ta đang thấy về hành trình tìm kiếm tự do của thế hệ thanh niên, sinh viên, trí thức trẻ Việt Nam ngày hôm nay như đang bén rễ sâu vào lòng đất. Lý tưởng về tự do, lòng yêu nước trong tuổi trẻ có sức sống mãnh liệt như loài cỏ cây. Nó như lan tỏa khắp mặt đất, dù có bị nhổ bỏ, chà đạp, tiêu diệt nhưng vẫn không chết đi được. Có biết bao nam thanh nữ tú đã và đang dâng hiến tuổi thanh xuân ngọt ngào cho quê hương đất nước, họ là những đóa hồng thắm đượm một tình yêu của lứa đôi xuân thì phơi phới, của lý tưởng tuổi trẻ dành cho quê hương đất nước đang độ sực ngát hương thơm. 05/3/2018 Paulus Lê Sơn  
......

TRẢ GIÁ

Theo con số thống kê đăng trên báo Tài Chính ngày 29/12/2018 thì Việt Nam có 5 thị trường xuất khẩu chính. Trong năm 2018 Việt Nam đã xuất sang 5 thị trường này tổng giá trị 175,6 tỷ USD, cụ thể như sau: thứ nhất, là thị trường Mỹ trị giá 47,5 tỷ USD; thứ nhì thị trường EU 42,5 tỷ USD; thứ 3 là thị trường Trung Quốc 41,9 tỷ USD; thứ tư là thị trường ASEAN 24,7 tỷ USD; và thứ 5 là thị trường Nhật 19 tỷ USD. Trong đó Mỹ, EU và Nhật Bản là 3 thị trường khó tính. Chính nó là kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam. Nếu vào thị trường này thì nền sản xuất Việt Nam khẳng định vị thế. Nhưng đấy là bề nổi, còn thực chất thì sao? Trong cả năm 2018, Việt Nam xuất đi nước ngoài hết 244,2 tỷ USD, nhưng giá trị của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) đã chiếm đến 175,52 tỷ USD chiếm 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Vậy sức mạnh kinh tế Việt Nam ở đâu? Ở các doanh nghiệp nước FDI chứ không phải ở các doanh nghiệp trong nước. Thêm nữa, 3 thị trường khó tính nhất thế giới gồm Mỹ, EU và Nhật Bản đã có đến 109 tỷ USD, họ nhập chủ yếu là sản phẩm của FDI chứ nhập sản phẩm Việt Nam không nhiều, vì sản phẩm của doanh nghiệp trong nước làm ra khó mà đáp ứng được tiêu chuẩn của 3 thị trường này. Ví dụ, như Nike Mỹ sẽ nhập sản phẩm của Nike từ Việt Nam, Sony Nhật, nhập sản phẩm Sony Việt Nam vv… Như vậy câu hỏi đặt ra là, nếu EU và Mỹ siết chặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam thì điều gì xảy ra? Thì chắc chắn, những doanh nghiệp FDI tìm nơi đầu tư khác và nhả Việt Nam dần. Ví dụ, Samsung thấy, hàng hóa xuất sang EU trở nên khó khăn, họ sẽ thu hẹp sản xuất, hoặc ít nhất họ không mở rộng quy mô sản xuất, để dành khoản đầu tư ấy họ đầu tư sang Bắc Hàn. Như vậy Việt Nam vốn đã khó khăn lại càng khó khăn. Nếu Samsung làm thế thì Sony cũng có thể làm thế và Toyota cũng vậy vv..cũng có thể làm thế nếu các thị trường khó tính siết chặt hàng hóa xuất từ Việt Nam. Từ vấn đề kinh tế mới sinh ra vấn đề đối ngoại. Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh năm 2017 tại Berlin đã làm Đức tức giận và EU đã hoãn vô thời hạn việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam EU (EVFTA). Điều đó đồng nghĩa với việc, cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU gặp khó khăn. Thị trường EU rất lớn, với giá trị xuất khẩu năm 2019 của Việt Nam chỉ có 42,5 tỷ USD là rất nhỏ, còn rất nhiều cơ hội lớn để Việt Nam xâm nhập vào thị trường này. Thế nhưng chính Nguyễn Phú Trọng đã đóng sập nó lại. Một hành động dại dột của người đứng đầu đảng đã đưa chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vào thế khó xử. Từ khi bắt cóc đến nay đã gần 2 năm, chính phủ đã cử Phạm Bình Minh sang Đức năn nỉ nhưng không ăn thua. Vì sự cố chấp mà không chịu rút kinh nghiệm, ông Nguyễn Phú Trọng đã lập lại sai lầm ngoại giao như thế một lần nữa. Trong thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều, ông Trọng đã cho tàu chở dầu Viet Tin 01 chở dầu thô sang cảng NamPo Bắc Hàn để viện trợ cho người anh em XHCN. Điều này đã vi phạm lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc. Mà ai là kẻ chủ trương cấm vận Bắc Hàn? Là Mỹ. Liên Hiệp Quốc chẳng qua truyền đạt chủ trương của Mỹ mà thôi. Nếu chuyện này làm rùm beng, Trump siết luôn hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam vào Mỹ thì sao? Tổng thống Trump đã đập cho Tập một gậy và Tập phải xuống nước, Nguyễn Phú Trọng làm thế quả là rất thiếu khôn ngoan. Cho nên nói quản trị một quốc gia không thể để một con mọt sách Mác Lê quyết định là vậy. Làm người lãnh đạo thì phải có tầm nhìn. Phải biết nhìn vào các sự tác động của những quyết định trong chính sách ngoại giao ảnh hưởng đến kinh tế thế nào chứ? Làm một nhà quản trị đất nước thì không có chỗ cho những cái đầu ngu si bảo thủ. Với những gì mà ông Nguyễn Phú Trọng đang làm, ông ta chỉ biết cai trị, hoàn toàn không có khả năng quản trị. Dân Việt cứ mãi chấp nhận những con người kiểu như này cai trị thì đất nước này, dân tộc này cứ mãi trả giá cho sự ngu muội của họ. Ngóc đầu sao nổi? Đỗ Văn Ngà Fb    
......

SOS TNLT Nguyễn Văn Hóa đã tuyệt thực ngày thứ 12.

Tổ chức Freedom Now lên tiếng cho Nguyễn Văn Hóa RFA Cập nhật tin tù chính trị Nguyễn Văn Hóa sau chuyến thăm mới nhất của gia đình   Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa tuyệt thực đến ngày thứ 12. Bà Nguyễn Thị Huệ, chị gái của tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa có chuyến thăm em trai mình vào sáng ngày 5 tháng 3 tại trại giam An Điềm, tỉnh Quảng Nam.   Trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do vào chiều cùng ngày, bà Huệ cho biết đã khuyên bảo em mình và cho biết tình trạng của anh Nguyễn Văn Hóa hiện nay:   Tình hình sức khỏe của em thì nó vẫn yếu vì tuyệt thực đến ngày 12 mà. Sắc mặt rất nhợt nhạt và gầy đi rất nhiều. Ngày hôm nay thì hy vọng ngày mai Hóa sẽ suy nghĩ và sẽ ngừng. Tôi cũng đã nói rõ và hy vọng là lần tới đi thăm vào đầu tháng 4 thì mọi chuyện sẽ trở lại bình thường. Hóa nói Hóa hứa với chị.   Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa đã bắt đầu tuyệt thực từ ngày 22/2/2019 để phản đối cách hành xử của cán bộ trại giam An Điềm cũng như yêu cầu điều tra những người đánh đập anh này không được đáp ứng.   Trong thư cầu cứu của bà Nguyễn Thị Huệ viết ngày 26/2 cho biết 3 lý do tuyệt thực của anh Hóa là: thứ nhất vì trại giam không cho Hóa gửi đơn tố cáo việc mình bị công an bắt cóc, đánh đập, ép cung; thứ nhì là vì một trung úy có thái độ quát tháo lớn tiếng để đội trại giam áp dụng luật pháp tùy tiện và độc đoán; và thứ ba là một cán bộ trại giam tự ý xâm phạm vào buồng giam quay phim mà không có quyết định của tại giam.   Chị Huệ chia sẻ với chúng tôi thêm những điều anh Nguyễn Văn Hóa đã nói với chị vào sáng nay:   Sáng hôm nay là ngày 5 tháng 3 thì có một đồng chí vẫn còn xông vào phòng giam của Hóa quay phim, chụp hình bình thường. Hóa cũng nói em sẽ suy nghĩ những vấn đề mọi người quan tâm, động viên, thăm hỏi thì em sẽ ngừng. Nhưng vấn đề liên quan đến đơn kiện tố ở trại giam 800 nếu họ không chuyển đơn đi thì Hóa cũng sẽ tiếp tục làm đơn khiếu nại, khởi kiện bình thường.   Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa năm nay 24 tuổi, từng là một nhà hoạt động xã hội ngụ tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Anh là người đầu tiên cho phát hình trực tiếp các cuộc biểu tình của người dân Hà Tĩnh phản đối Nhà máy Formosa gây ô nhiễm biển ở bốn tỉnh miền Trung Việt Nam vào giữa năm 2016.   Anh Nguyễn Văn Hóa bị bắt vào ngày 11/1/2017 mà theo anh này là bị công an bắt cóc, sau đó bị tống lên xe thùng đưa ra thị xã Hồng Lĩnh giam giữ trong vòng 9 ngày. Trong thời gian này, anh Hóa nói đã có 8 công an đánh đập, ép cung anh bằng cách buộc dây trói 2 tay lên và tát nước vào mặt.   Trong phiên xử nhà hoạt động Lê Đình Lượng vào ngày 16/8/2018, anh Nguyễn Văn Hóa xuất hiện trong một video với vai trò là nhân chứng buộc tội ông Lê Đình Lượng. Tuy nhiên, tại tòa anh Hóa phản cung cho rằng những lời khai trước đây về ông Lượng là vì bị đánh đập và bức ép.   Ngày 6/11/2018, Hai tổ chức Freedom Now và Công ty luật toàn cầu Dechert LLP thay mặt gửi đến Nhóm Làm việc của Liên Hiệp Quốc về Bắt giữ tùy tiện và yêu cầu có hành động ngay lập tức về trường hợp Nguyễn Văn Hóa.   Freedom Now nêu rõ Việt Nam tiếp tục giam giữ anh Nguyễn Văn Hóa là vi phạm Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cũng như Tuyên Ngôn Nhân quyền Quốc Tế.   Hôm 18/1/2019, Freedom Now cũng đề cử anh Nguyễn Văn Hóa cho giải thưởng Tự do báo chí 2019 của UNESCO.   https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/update-political-prisoner-nguyen-van-hoa-03052019075515.html    
......

Lực lượng cùng khổ

Không có tư duy về đấu tranh đòi quyền sống và các điều kiện sống công bằng và chất lượng hơn. Sống trong hoàn cảnh thế nào cũng chịu đựng, đó không là tâm thức nô lệ thì là gì, và như thế thì làm sao có thể đòi làm chủ được chính cuộc sống của mình chứ chưa nói gì đến đất nước. Giai cấp nòng cốt và tiên phong của đảng cộng sản, nhưng sống vật vờ và tạm bợ, quá nghèo khổ và thiếu thốn, từ nhà ở, tiền lương, chế độ bảo hiểm, điều kiện lao động, việc chấm dứt hợp đồng, ăn uống thiếu thốn, thời giờ nghỉ ngơi không có, bị bóc lột ngược đãi mọi kiểu và hầu như không ai bảo vệ họ. Với các vấn đề đó thì người công nhân không thể đủ các điều kiện tối thiểu đê tái phục hồi sức lao động. Nhưng cam chịu và chấp nhận mọi loại điều kiện sống bị áp đặt chính là một đặc trưng của đa số dân xứ Việt. Và chỉ khi quá khổ cực, bị dồn đến đường cùng mới vùng lên đấu tranh và chỉ để giải quyết những quyền lợi của bản thân và gia đình chứ không mấy để tâm đến việc thiết lập và xây dựng một thể chế khoa học, văn minh để có thể đảm bảo sự phát triển an toàn cho tương lai. Không chỉ chính họ đã phải sống dưới những điều kiện như vậy, mà người thân và con cái họ cũng vì thế không thể thoát khỏi những cảnh bần cùng và cơ cực. Với một môi trường ô nhiễm và những vấn đề xã hội bất ổn, nạn bạo hành và xâm hại tình dục ở trường đối với trẻ em, các khoản đóng góp cho học hành, viện phí, thuế, xăng, vật giá đều tăng, tội phạm hoành hành. Mà họ là những đối tượng yếu thế trong xã hội, họ làm thế nào để bảo vệ mình và con cái, người thân? Có lẽ chỉ có bỏ việc đi làm xe ôm, buôn chổi đói, bán lá chít, cạo đầu làm thầy tu đi buôn thần bán thánh hoặc cấu kết với đám có quyền lực nào đó làm cái dự án đầu tư để bán đất là nhanh giàu nhất. Một đời sống mà phần nhiều những con người lao động không đủ sống thì đất nước và xã hội đó làm sao có thể nói về điều tử tế đúng nghĩa, trong đó hẳn phải có trách nhiệm lớn lao từ chính quyền đầu tiên trong những tệ trạng này. Nhưng dù theo mọi lẽ, chính họ phải là những con người cảm thụ về dân chủ và tự do theo đúng nghĩa của nó để có nhận thức và sự đấu tranh, nếu không thì họ sẽ buộc phải chấp nhận về những sự ban phát quyền lợi và thành phẩm từ những kẻ khác./.  
......

EVFTA và vũng lầy của ‘đội tiên phong của giai cấp công nhân’

Số phận của những người công nhân như được đặt trong một ván cờ. Ở đó, họ không có tiếng nói và sự lựa chọn. Trưa mùng Bảy Tết, tôi gặp Hưng khi đang chờ xe đò cùng vợ anh ở một cây xăng ven Quốc lộ 1A, tỉnh Sóc Trăng. Chuyến xe sẽ đưa hai vợ chồng và những người đang đứng gần đó trở lại những nhà máy ở Bình Dương. Trong nhiều năm qua, người miền Tây đi làm công nhân ở Bình Dương đã trở thành một cuộc di cư không ngừng. Trước đó, người ta không nghĩ phải đi đến một nơi xa như thế để làm việc nhưng giờ đây nó lại trở nên phổ biến hơn bao giờ hết – có những xóm chỉ còn lại người già và trẻ con. Câu chuyện của Hưng có vẻ tương đồng với những người miền Tây khác mà tôi từng tiếp xúc. Hơn một năm trước, Hưng phải bỏ nghề đi biển để tìm một khác vì thu nhập không đủ sống dù gia đình anh ở khu vực nông thôn. Không được đào tạo nghề cũng chưa học hết phổ thông nên “đi Bình Dương” là thứ anh nghĩ đến đầu tiên. Phải mất hơn sáu tiếng đi xe đò từ quê anh (Trần Đề, Sóc Trăng) đến Bình Dương, tức là là cả hai vợ chồng không thể thường xuyên về thăm con nhưng họ không có lựa chọn. Những lần nổ máy ra khơi trước đây nay đã trở thành những ca làm việc trong nhà máy sản xuất đồ gỗ của chủ người Trung Quốc. Hưng làm việc ở xưởng phun sơn. Vợ anh làm ở xưởng chà nhám. Trung bình hai vợ chồng được trả từ 3-4 triệu đồng/người. Trong suốt ba tháng trước Tết, cả hai đã tăng ca liên tục từ 7 giờ sáng đến 10 giờ đêm thì được thêm khoảng 2,5 – 3 triệu đồng/người. Điều này là trái với quy định của Bộ luật Lao động là số giờ làm thêm không quá 30 giờ trong một tháng. Làm thêm quá số giờ quy định đã trở thành chuyện bình thường trong các nhà máy. Phóng sự điều tra của tờ Danwatch (Đan Mạch) đã cho thấy công nhân làm việc đến 17 tiếng đồng hồ/ngày trong các nhà máy chế biển thuỷ sản ở miền Tây, và trung bình khoảng 83 tiếng/tuần. Hậu quả của việc lao động quá giờ là các bệnh mãn tính do làm việc kéo dài trong môi trường sử dụng nhiều hoá chất tẩy rửa. Công ty mà Hưng làm việc còn ăn gian thời gian nghỉ ngơi của hai vợ chồng sau nhiều tháng tăng ca. Theo Bộ luật Lao động, sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng thì công ty phải bố trí thời gian để người lao động được nghỉ bù, trong khi đó, công ty đã dùng các ngày nghỉ Tết để thay thế cho thời gian nghỉ bù đó. Hưng không biết rất nhiều thứ hoặc là anh không muốn biết vì cũng chẳng có tiếng nói. Anh không biết công đoàn là gì, không biết số tiền lương tăng ca được tính như thế nào, không biết mình có bao nhiêu ngày nghỉ, không biết bảo hiểm xã hội là gì và anh cũng không chắc mình có được đóng bảo hiểm y tế hay không. Chính phủ chưa bao giờ chủ động cải cách luật pháp về lao động theo hướng có lợi cho người lao động, trừ khi có những áp lực từ các hiệp định thương mại. Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EVFTA) sẽ không chỉ mang lại lợi ích lớn về kinh tế mà còn là động lực hiếm có để cải thiện quyền của người lao động. Tuy nhiên, quá trình phê chuẩn EVFTA đang cho thấy những nhà lãnh đạo Việt Nam đang mắc vào vũng lầy do chính họ tạo ra. Trong nhiều năm qua, nhà nước đã hạ thấp các tiêu chuẩn lao động nhằm tạo lợi thế cạnh tranh. Bộ luật Lao động của Việt Nam vẫn tỏ ra bảo vệ quyền lợi của người lao động nhưng trong thực tế là đứng về phía các nhà đầu tư. Điều này cũng đủ để cám dỗ các nhà đầu tư cần số lượng lớn công nhân trong các ngành như chế biến, may mặc, da giày… trong đó có các công ty bằng mọi giá để tối ưu lợi nhuận đến từ Trung Quốc và Đài Loan. Thay vì cho phép các công đoàn độc lập phát triển để tạo sự tham vấn và hợp tác tốt hơn với giới chủ nhằm giảm số lượng các cuộc đình công thì nhà nước lại cấm tuyệt đối sự manh nha của những công đoàn này. Theo ông Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ông lo ngại việc cho phép các công đoàn độc lập hoạt động sẽ hình thành nên các “công đoàn vàng” (những công đoàn được thành lập và đứng sau là giới chủ), hoặc sẽ trở thành các công đoàn hoạt động với mục tiêu chính trị nhưng với vỏ bọc là bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong thực tế, trước sự cám dỗ của tiền đầu tư và quyền lực, các công đoàn của nhà nước đã chuyển từ đấu tranh cho giai cấp công nhân sang bảo vệ lợi ích của giới chủ và đảng Cộng sản. Đối với đảng Cộng sản, các công đoàn là cánh tay nối dài của đảng để kiểm soát giới công nhân và hơn hết là không để một tập hợp tự phát nào của người lao động được hình thành. Còn đối với giới chủ, các công đoàn đảm bảo sẽ giải quyết ổn thoả những cuộc đình công tự phát, đảm bảo lực lượng lao động cho các nhà máy. Sự cám dỗ từ đầu tư đang khiến chính quyền rơi vào thế kẹt. Chính phủ buộc phải cải thiện các chính sách về quyền của người lao động để phía châu Âu có thể phê chuẩn EVFTA nhưng đồng thời vẫn giữ chân được các nhà đầu tư đã đến Việt Nam vì những tiêu chuẩn lao động hiện tại. Các nhà đầu tư sẽ không còn đủ động lực để ở lại Việt Nam nếu việc nâng cao các tiêu chuẩn làm họ tốn kém hơn. Nếu họ chịu ở lại thì chính quyền phải cho họ những đặc quyền khác để bù đắp. Một trong những lý do khiến EVFTA chưa được phê chuẩn như dự kiến là Việt Nam chưa thông qua ba công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế (Công ước số 87 về quyền Tổ chức và Thương lượng tập thể; Công ước số 98 về quyền Tự do Hiệp hội và Bảo vệ quyền được tổ chức; Công ước số 105 về xoá bỏ lao động cưỡng bức). Đảng Cộng sản, với tuyên ngôn là chính đảng của giai cấp công nhân từ khi thành lập, nhưng đến nay vẫn chưa phê chuẩn ba công ước này để bảo vệ quyền lợi của giai cấp mà đảng đã tranh đấu. Sự gián đoạn trong tiến trình phê chuẩn EVFTA còn cho các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rằng: quyền con người là không thể phân chia và phụ thuộc lẫn nhau, mọi sự giới hạn của quyền này đều có thể ảnh hưởng đến những quyền khác. Trong lá thư của 32 vị nghị sĩ của Nghị viện châu Âu gửi đến gửi tới bà Cecilia Malmström, Ủy viên Thương mại, và bà Frederick Mogherini, đại diện cấp cao của EU, họ không chỉ cảnh báo Việt Nam phải nâng cao những tiêu chuẩn về lao động để EVFTA được phê chuẩn mà còn cải thiện hàng loạt các vấn đề khác về tình hình nhân quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình, quyền tự do hiệp hội, quyền tự do báo chí, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng và trả tự do cho những tù nhân lương tâm. Sự quan tâm về tình hình nhân quyền hay những cuộc biểu tình của công nhân như phong trào phản đối Quốc hội thông qua dự luật an ninh mạng vào giữa năm ngoái là hoàn toàn có lý. Những vi phạm nặng nề về quyền con người của chính quyền Việt Nam trong những năm qua đã khiến việc phê chuẩn EVFTA bị gián đoạn nên cơ hội cải thiện quyền lợi của hàng triệu công nhân cũng bị đình trệ. Việc quan tâm về một người bất đồng chính kiến bị bắt hay hay thông qua một dự luật vi phạm nhân quyền luôn luôn là cần thiết, bởi bằng cách nào đó quyền lợi của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng như những người công nhân bị ảnh hưởng từ vũng lầy của chính quyền. Lúc tôi rời đi, chuyến xe của Hưng và những người khác vẫn chưa đến. Cho dù lên được xe thì hành trình của họ vẫn còn rất dài.  
......

Bộ Công thương – Formosa: ‘Quan sát trực quan’ hay báo cáo láo?

Báo chí đưa tin, với phương pháp kiểm tra “quan sát bằng trực quan” từ các vị trí an toàn theo quy định của Formosa Hà Tĩnh, Bộ Công Thương cho biết, 4/5 hạng mục công trình được thi công theo thiết kế và các thiết kế điều chỉnh đã được chủ đầu tư chấp thuận/phê duyệt.   “Kết quả kiểm tra hiện trường bằng phương pháp quan sát trực quan, Đoàn kiểm tra đánh giá chất lượng của các hạng mục công trình đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của chủ đầu tư đã phê duyệt, công trình ở trạng thái ổn định, chưa phát hiện các dấu hiệu bất thường cũng như không đảm bảo an toàn”. Báo Dân Trí tường thuật về buổi kiểm tra Formosa Hà Tĩnh của Bộ Công thương.   Bà Phạm Thúy Loan, tiến sĩ Hóa, chuyên ngành xử lý làm nguội lò phản ứng hạt nhân, đã trao đổi với người viết quanh câu hỏi liệu bằng “quan sát trực quan” có thể dùng đó để làm kết luận cho một biên bản nghiệm thu?   * Đã là đoàn kiểm tra, chắc chắn các vị trong đoàn phải có học vị, học hàm chuyên môn và họ phải có cái lý gì đó khi đưa ra kết luận từ quan sát trực quan. Ý kiến bà thế nào?   * Bà Phạm Thúy Loan: Quan sát trực quan là một quan sát cảm tính. Kết quả của quan sát này ra sao còn tùy thuộc vào trình độ nhìn và hiểu biết đến đâu của người quan sát. Tôi không được tiếp cận các dữ liệu, nhưng chỉ nhìn bằng mắt thường những cột khói xả thải ở Formosa Hà Tĩnh, tôi nghĩ rằng ô nhiễm nơi đây vẫn còn nghiêm trọng.   Đến lúc này tôi chỉ có thể chắc chắn một điều là với công nghệ xử lý làm nguội cốc ướt của Formosa Hà Tĩnh, tất yếu dẫn đến ô nhiễm như vụ thảm họa môi trường biển vừa qua. Làm nguội bằng phương pháp cốc ướt đã được thế giới thay thế bằng phương pháp cốc khô.   Tôi có đọc báo mô tả việc kiểm tra này, là phía Bộ Công Thương đã ra yêu cầu Formosa Hà Tĩnh chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lý, hợp lệ của các văn bản, tài liệu trong hồ sơ hoàn thành công trình đã cung cấp cho đoàn kiểm tra. Tôi nghĩ rằng yêu cầu đó với Formosa Hà Tĩnh là cần xem xét lại. Ngay lúc ban đầu phía Formosa đã tự tiện thay đổi công nghệ luyện cốc, gây hậu quả quá nghiêm trọng khi họ hủy diệt môi sinh biển. Đó là chưa kể phần khí thải. Không thể tin họ được, nhất là với công nghệ cốc ướt hiện tại của Formosa Hà Tĩnh.     Là nhà khoa học, cần luôn có đôi mắt ngờ vực, phải đòi hỏi bằng thực chứng chứ không phải chỉ là cảm nhận. Bởi cảm nhận của một học hàm tiến sĩ không trải nghiệm bằng kinh nghiệm thực tế, mà chỉ là tháp ngà, họ sẽ quên mất rằng Formosa còn giỏi dùng đồng tiền để mua cả quan chức cấp cao để nhằm phục vụ lợi nhuận làm ăn của họ.   * Bà nghĩ sao về yếu tố đồng bộ công nghệ khi phía Việt Nam chỉ yêu cầu Formosa thay đổi việc xử lý làm nguội cốc? Vấn đề ô nhiễm ở cốc khô như thế nào?   * Bà Phạm Thúy Loan: Tôi nghĩ câu hỏi của nhà báo đã được nhiều nhà khoa học cảnh báo với chính phủ Việt Nam rồi. Tôi xin được nhắc lại, nhìn vào cột khói xả thải vào ban đêm ở nhà máy Formosa Hà Tĩnh, cá nhân tôi tin chắc rằng ô nhiễm không khí ở địa phương Hà Tĩnh đang ở mức báo động.   Trong khí thì có SO, CO, NO, dyoxit, toàn chất nếu để ra môi trường đều có hại cả.   Kể cả cốc khô người ta cũng phải có một bộ phận hóa cốc, tức là các chất hóa học đó, người ta phải làm ra những sản phẩm hóa, phải có một nhà máy đi kèm với nhà máy cốc để xử lý. Dĩ nhiên việc có một nhà máy hóa cốc là rất tốn kém, nên tôi ngờ rằng phía Formosa Hà Tĩnh đã cắt bỏ công đoạn quan trọng này đi. Lúc đó ô nhiễm không khí còn nghiêm trọng hơn, tuy không gây hậu quả ngay lập tức. Cũng không thể trách họ, trong làm ăn, nhà đầu tư nào chẳng muốn thu lãi nhiều nhất.   Tính đồng bộ mà nhà báo đặt ra, xin trả lời nhanh là phương án luyện khô chất thải chảy ra phần lớn là dạng bụi, tan vào không khí. Nếu không xử lý tốt, không ứng dụng lò đốt đứng cao, chắt hơi nước khói bụi, thu lại dạng thô cứng, mà cho tản đi, kết tủa rơi xuống thì cũng không kém phần nguy hại. Các thông tin này tôi không thấy báo chí mô tả ra sao ở bản tin về đoàn kiểm tra của Bộ Công thương như nói ở trên.   * Bằng ‘trực quan’, bà có tin vào những gì mà Formosa đã hứa hẹn với chính phủ Việt Nam?   * Bà Phạm Thúy Loan: Tôi không tin. Khi lập dự án ban đầu trình các cơ quan chức năng của Việt Nam, tôi nghĩ sự gian lận đã có chủ đích và họ hiểu cần bôi trơn ra sao. Phía quản lý Việt Nam ký duyệt, có lẽ họ không được đào tạo chuyên môn trong lãnh vực luyện thép, nên họ không thực sự để tâm vào công nghệ.   Khi xảy ra hậu quả từ xả thải bằng đường ống chôn ngầm dưới đáy biển của Formosa, lẽ ra cần xử lý bằng các tội danh hình sự, đàng này phía Việt Nam chỉ xé biên lai phạt hành chánh, và sau đó đẩy chuyện công nghệ cốc ướt làm chủ đề chính cho đòi hỏi gói tiền đền bù 500 triệu đô la.   Formosa đã có thể mua sự yên ổn làm ăn tại Việt Nam bằng tiền. Họ sẽ tìm mọi cách để kiếm lại khoản tiền đã chi đó. Tôi nói ngay như luyện cốc khô không có công nghệ hiện đại cũng ô nhiễm lắm, ra khói bụi, đối tượng là con người, mà con người Việt Nam vốn sức chịu đựng chất độc rất giỏi, nên cần thời gian lâu dài mới phát bệnh. Khi ấy, xem ra Formosa Hà Tĩnh đã quá lời và giấy phép đầu tư của họ ở Việt Nam cũng kết thúc./.  
......

Thủ tướng và sự chỉ đạo từ ông Tổng

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm việc với 27 chuyên gia kinh tế hàng đầu nhằm tổng hợp hóa góp ý vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm tới và định hướng phát triển xa hơn.   Trong buổi làm việc, ông Nguyễn Xuân Phúc đã ‘đề nghị các chuyên gia kinh tế có các ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nêu cả những khiếm khuyết, tồn tại phải tháo gỡ và tầm nhìn phát triển kinh tế xã hội thời gian tới’.   Trí thức ở Việt Nam có rất là nhiều, và chuyên gia nhiều như lá mùa đông… Và cái Việt Nam đang thiếu, không phải là ‘chuyên gia, trí thức’, hay là sự góp ý thẳng thắn và tâm huyết, mà chính là sự lắng nghe và ghi nhận của tầng lớp lãnh đạo cao cấp Hà Nội.   Và khi ông Nguyễn Xuân Phúc thao thao bất tuyệt về cuộc cách mạng 4.0, hay những cải cách thể chế, hóa rồng hay cô gái đẹp bừng tỉnh sau giấc mộng dài,… thì hiện thực là không gì cả, khi ve áo ông vẫn còn chiếc huy hiệu Đảng, và đằng sau ông là sự chỉ đạo toàn diện – tuyệt đối của cụ Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHXHCNVN.   Những người Cộng sản, với sự kiêu ngạo và tự tôn về gây dựng chính quyền, gìn giữ chinh quyền bằng nòng súng chưa bao giờ coi trí thức (hay chuyên gia) thực sự tâm huyết là một nguồn tin để lắng nghe và học hỏi. Họ coi đó là một đối tượng cứng đầu, phản động khi góp ý đụng chạm đến quyền lực của chính đảng, nơi mà giới lãnh đạo cao cấp luôn mang trên ve áo một huy hiệu cờ đỏ búa liềm.   Góp ý Hiến pháp 2013 cho đến những sự kiện gần đây của giới trí thức đòi quyền con người, góp ý thẳng thắn về các vấn đề tư hữu ruộng đất, phi chính trị hóa quân đội, ra luật về đảng đều bị vị Tổng bí thư (nay kiêm thêm chức danh Chủ tịch nước) điểm mặt chỉ tên: thành phần bất hảo. Và kể từ khi người đứng dầu một đảng độc tôn quyền lực tại Việt Nam dán nhãn như thế, thì mọi góp ý dù là hữu hảo nhất cũng đều là những góp ý ác ý từ phía chính quyền.   Khi góp ý không được thẳng thắn, không được chạm vào các ngõ ngách, thì góp ý đó trở thành một thứ văn vẻ, hoa lá tô điểm cho cái gọi là ‘sự lắng nghe của chính quyền trước tâm tư, nguyện vọng của giới trí thức’. Một tưởng chừng rất dân chủ nhưng đầy tính huyễn hoặc của dân chủ.   Nguyễn Trung, một nhà ngoại giao, cựu Đại sứ Việt Nam ở một số nước, cộng tác viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng cũng phải thừa nhận trong một lá thư ngày 9.8.2015 rằng: lập trường kiên định “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”, “xây dựng Hiến pháp 2013 phải thể hiện Cương lĩnh của Đảng”, “quân đội và công an phải trung thành với Đảng”, xếp tất cả những ý kiến trái chiều trong nhân dân vào “các thế lực thù địch” để trấn áp.   Và thực tế, hiện nay, khi Luật an ninh mạng 2018 đã tiếp tục khẳng định tính chất ‘trấn áp’ đó dưới thời quyền lực của ông Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.   Hãy xem lá thư ngày 9.8.1995 của ông Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt), một người có tư tưởng cấp tiến và đổi mới, một người chịu khó lắng nghe giới trí thức và có tầm nhìn về hòa giải dân tộc viết gì.   ‘Trên chặng đường mới này của đất nước, hơn bao giờ hết là đảng cầm quyền, Đảng ta cần giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ…’.   Thế nhưng, thay vì giương cao ngọn cờ dân tộc và dân tộc, dưới thời đại của ông Nguyễn Phú Trọng, Đảng cầm quyền đã giương cao lá cờ Đảng, và xếp tất cả mọi yếu tố ‘dân chủ’ thành một thể loại cần phải loại bỏ.   Trong một tư duy đơn giản, nếu coi Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một người có tư duy đổi mới, thì những người chống lại quan điểm của ông phải là ‘thủ cựu, giáo điều’. Và ông Nguyễn Phú Trọng xứng đáng được xếp vào danh sách dài đó…   Nhưng gì ông Nguyễn Phú Trọng phủ bóng, bằng quyền lực chuyên chính của mình đã khiến cho các nỗ lực cải cách trong Bộ máy Nhà nước bị kìm hãm,… Giá trị của sự ‘lắng nghe trí thức’ từ phía nội các Chính phủ bị mờ nhạt. Tái lặp lại câu chuyện ‘nói rất nhiều, nhưng làm không được bao nhiều’, vì bởi lẽ Đảng đang lãnh đạo toàn diện.   Khi mà sự ‘lắng nghe trí thức’ chỉ dừng mức hình thức, thì khi đó, các ý kiến ‘tâm huyết, thẳng thắn’ hoặc chỉ dừng ở mức khép nép, hoặc chỉ dừng ở trong cuộc họp đó. Sự cải cách dựa trên thuộc tính khép nép của góp ý nếu có chỉ chắp vá một bộ quần áo rác rưới của chế độ. Nhưng chừng đó cũng đủ đánh lừa không ít vị… nhân sĩ trí thức.   Củng cố xây dựng Đảng với sự tập trung quyền lực của hai chức vụ có thể hoàn tất trong vòng 1 nhiệm kỳ, nhưng nắm bắt vận hội cho cả một dân tộc có thể đánh mất trong một thời gian ngắn hơn thế, có thể là 1 ngày, 1 tháng, 1 năm… Hoặc đơn thuần là bằng một luật định, một chỉ đạo ‘hà khắc, định kiến’ đối với nhu cầu mở rộng tự do, dân chủ trong dân chúng.   Do vậy, khi nhìn thấy các tin tức về nội các Nguyễn Xuân Phúc, thể hiện sự tâm huyết, người viết luôn nghi ngờ giá trị thực đằng sau đó, bởi lẽ, người đứng đầu Đảng dù xuất phát từ một văn sĩ thuộc trường đại học bậc nhất miền Bắc, nhưng ông ta lại tỏ ra ‘đố kỵ’ trước trí thức bởi sự đam mê quyền lực và mộng tưởng giữ trọn quyền lực trong đảng.   Và khi ông Nguyễn Xuân Phúc thao thao bất tuyệt về cuộc cách mạng 4.0, hay những cải cách thể chế, hóa rồng hay cô gái đẹp bừng tỉnh sau giấc mộng dài,… thì hiện thực là không gì cả, khi ve áo ông vẫn còn chiếc huy hiệu Đảng, và đằng sau ông là sự chỉ đạo toàn diện – tuyệt đối của cụ Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHXHCNVN.   Giấc mộng ‘hóa rồng’ vững chắc từ cải cách thể chế, mở rộng dân chủ là giấc mộng còn xa vời, không chỉ đối với di sản của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, mà còn là nhiều người nhân sĩ trí thức huyết lòng và thực tâm với dân tộc khác…  
......

PHẢI GIỮ VỮNG NIỀM TIN và CHÍNH NGHĨA - ĐẤU TRANH KHÔNG BAO GIỜ CHẤP NHẬN THÁI ĐỘ ĐI HÀNG HAI !

Paul Pham ”...Ông ta hiện đang là tổng thống nước Mỹ, chúng ta “hình như” KHÔNG THỂ đứng lên để biểu tình chống đối cũng như lên án ông ta như đã từng chống đối và lên án Trần Trường, Đàm Vĩnh Hưng hoặc Hùng Cửu Long được, nhưng KHÔNG VÌ THẾ CHÚNG TA LẠI VẪN CỨ COI ÔNG TA LÀ THẦN TƯỢNG...” Từ ngày mất nước đến nay, người Việt Hải Ngoại Luôn Trân Quý và Yêu Lá Cờ Vàng. Chúng ta rất căm ghét bè lũ tay sai của Cộng Sản và đã từng Đồng Loạt Rủ Nhau Xuống Đường Nhất Quyết Tiêu Diệt Bọn Mang Lá Cờ Đỏ Sao Vàng. Bằng chứng là: 1- Ngày 16 tháng 1 năm 1999 ông Trần Trường chủ tiệm băng Video Hitek ở phố Bolsa, sau khi treo lá Cờ Máu và hình Hồ Chí Minh, đã bị hơn 20 ngàn người Việt xuống đường bao vây tiệm, chống đối dữ dội suốt 55 ngày đêm, mà báo chí sau này đặt tên cho cuộc đấu tranh này là: TRẬN CHIẾN 55 NGÀY ĐÊM HITEK. 2- Từ năm 2012 trở đi, người Việt Hải Ngoại ở Canada và ở nhiều nơi trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ đã đồng loạt xuống đường trong suốt hơn 3 năm dài, chống đối tên Văn Công Đàm Vĩnh Hưng vì đã dám lên sân khấu ở Hải Ngoại hát những bản nhạc của Cộng Sản và vẫy Lá Cờ Máu trên sân khấu. Tưởng cũng cần nhắc lại, Đàm Vĩnh Hưng đã từng bị Lý Tống “tát” ngay trên sân khấu trong một buổi trình diễn. 3- Ngày 20 tháng 11 năm 2016 Hùng Cửu Long dám giỡn mặt thách thức cộng đồng Người Việt Hải Ngoại qua việc mặc áo in hình Cờ Máu ở khu Phước Lộc Thọ, đã khiến dân chúng ở đây nóng giận và bị một số người Việt Hải Ngoại “đập cho te tua” đến nỗi cảnh sát Westminster phải can thiệp bằng cách còng tay dẫn giải về sở cảnh sát. Đó chỉ là một vài thí dụ để nói lên Quan Điểm Chống Cộng của người Việt Hải Ngoại ở những nơi có đông người Việt sinh sống, như ở khu Little Sài Gòn, thành phố San Jose, thành phố Houston, Texas, Thủ Phủ D.C cũng như Virginia, người Việt Hải Ngoại xem Lá Cờ Đỏ như kẻ thù. Chúng ta xưa nay CHƯA BAO GIỜ và SẼ KHÔNG BAO GIỜ CHẤP NHẬN BẤT KỲ TÊN TAY SAI nào, phỉ báng và làm nhục những người tỵ nạn chúng ta với cái Lá Cờ Máu đó. LẦN NÀY CŨNG KHÔNG THỂ KHÁC. Nếu chúng ta không cùng đứng lên vạch mặt và phản đối bọn tay sai của Cộng Sản thì còn gì là Chính Nghĩa, còn gì là Công Đạo. Và cho dù người đó là ai đi chăng nữa, khi họ giương cao Lá Cờ Máu là HỌ ĐÃ ĐỨNG VỀ VỚI PHE KẺ THÙ của Người Việt Tỵ Nạn. DONALD TRUMP HÔM 27 VỪA QUA ĐÃ PHẤT LÁ CỜ MÁU TRONG NIỀM HOAN HỈ HÃNH DIỆN KHÔNG MÀNG ĐẾN NỖI ĐAU CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN. Đừng Ngụy Biện cho rằng Ngoại Giao Thì Phải Thế, vì Bill Clinton, George W. Bush và Barrack Obama trước đây ĐÃ KHÔNG LÀM THẾ, và nhất là KHÔNG AI CHỐNG CỘNG LẠI GIƯƠNG CAO LÁ CỜ CỘNG SẢN BAO GIỜ. Ông ta hiện đang là tổng thống nước Mỹ, chúng ta “hình như” KHÔNG THỂ đứng lên để biểu tình chống đối cũng như lên án ông ta như đã từng chống đối và lên án Trần Trường, Đàm Vĩnh Hưng hoặc Hùng Cửu Long được, nhưng KHÔNG VÌ THẾ CHÚNG TA LẠI VẪN CỨ COI ÔNG TA LÀ THẦN TƯỢNG. Bằng không sau này, tổ chức nào của người Việt Hải Ngoại, còn lý do gì để chống đối một Trần Trường, một Đàm Vĩnh Hưng hoặc một Hùng Cửu Long nào khác, khi chúng đem Lá Cờ Máu đến giương cao ở các khu Người Việt Tỵ Nạn đang sinh sống? Tôi chỉ muốn kêu gọi, bằng lời thành thật, là nếu đã là Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, cho dù Không Thể Làm Gì Được Để Phản Đối Ông Trump, nhưng Việc Tối Thiểu mà mọi người Việt Tỵ Nạn vẫn có thể làm, để Giữ Công Đạo, để Bảo Vệ Chính Nghĩa là hãy: TẨY CHAY DONALD TRUMP và HÃY NGƯNG VIỆC CA TỤNG ÔNG TA, VÌ THÁI ĐỘ CỦA ÔNG TA ĐÃ QUÁ RÕ RÀNG – bằng không, xin lỗi quý vị - TÔI KHINH - vì cái Bản Chất Thượng Đội Hạ Đạp và Tôn Thờ Lãnh Tụ Của Quý Vị, Không Đáng để Tự Nhận Mình Là Người Tỵ Nạn Cộng Sản Vì Đã Đánh Mất Đi Chính Nghĩa. Nếu tôi nói sai, hãy vạch ra cái sai của tôi. Chân thành cám ơn.  
......

Việt Nam được gì sau thượng đỉnh Mỹ-Triều

Dù cuộc họp thượng đỉnh Mỹ và Bắc Triều Tiên hôm 28 tháng 2 vừa qua không mang lại một kết quả nào, nhưng qua sự kiện ông Donald Trump trở lại Việt Nam lần thứ hai và nhất là lãnh tụ Kim Chính Ân đã vượt hơn 4 ngàn cây số đường sắt để đến Hà Nội, giúp tô đậm thêm sự “ly kỳ” cho cuộc gặp gỡ lần thứ hai này tại Hà Nội. Không những thế, sự hứa hẹn của ông Trump sẽ giúp Bắc Hàn phát triển kinh tế như Việt Nam ngày nay, nếu Kim Chính Ân từ bỏ việc sở hữu vũ khí hạt nhân, bỗng chốc “mô hình phát triển” của Việt Nam đã trở thành một vấn đề thời sự quốc tế. So với Hội nghị thượng đỉnh lần một mang lại cho Singapore số lợi nhuận trên 500 triệu Mỹ Kim từ lượng du khách gia tăng đáng kể sau tháng 6 năm 2018, có lẽ Việt Nam sẽ không thu hút lượng du khách đông bằng vì nhiều lý do; nhưng sau hội nghị lần 2 này, mang lại cho CSVN một số điều thuận lợi trên các mặt ngoại giao, kinh nghiệm tổ chức Hội nghị quốc tế và hình ảnh các lãnh tụ CSVN được những cơ quan truyền thông quốc tế đưa tin rộng rãi mà không tốn nhiều chi phí. Điều cần lưu ý thêm là với hai nhân vật có nhiều góc cạnh nhất của thế giới – Donald Trump và Kim Chính Ân, thì dù Hội nghị được tổ chức ở bất cứ đâu cũng sẽ làm dậy sóng dư luận. Do đó, Hà Nội đã trở thành sức hút của giới truyền thông quốc tế với những bài viết ca ngợi Việt Nam trong các ngày qua, thì đó cũng là lẽ bình thường. Nhưng lãnh đạo CSVN thì cao vọng hơn như thế. Ông Nguyễn Xuân Phúc thì muốn qua hội nghị Mỹ-Triều, Việt Nam là cầu nối cho tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và nhất là trở thành đối tác kiến tạo hòa bình trên bán đảo Triều Tiên và khu vực. Chính cao vọng này mà tờ Thanh Niên đã trở thành lố bịch khi giật tít: “Việt Nam, trung tâm hòa giải xung đột quốc tế”. Trong vài năm vừa qua, Việt Nam tuy được cộng đồng quốc tế chú ý về mức tăng trưởng kinh tế nhờ thu hút đầu tư nước ngoài, và những lần tổ chức các Hội nghị quốc tế của khối ASEAN, APEC; nhưng vị thế chính trị của Việt Nam nói chung còn rất thấp, chưa xứng tầm của một đất nước có gần 100 triệu dân. Đó là lãnh đạo CSVN không có “trách nhiệm đối với quốc dân”. Đất nước Việt Nam đang điều hành bởi một tập đoàn độc tài đảng trị, dựa trên quyền lợi của một thiểu số quyền lực. Họ sợ mất quyền và bị người dân truất phế nên ôm chặt quyền lực độc tôn và dùng bộ máy bạo lực trấn áp mọi tiếng nói của những người yêu nước. Đàn áp và lạm dụng đằng sau dáng vẻ hòa bình của Việt Nam Trong những ngày xảy ra Hội nghị thượng đỉnh, CSVN đã huy động một lực lượng công an canh gác và không cho những nhà dân chủ ra khỏi nhà. Sự trấn áp này cho thấy là CSVN rất sợ giới truyền thông quốc tế tiếp cận với các nhà đối kháng, để biết về những sự thật tồi tệ bên trong xã hội Việt Nam, cũng như những bất ổn xã hội do chính sách cai trị sai lầm của họ qua vụ Vườn Rau Lộc Hưng, Đồng Tâm, Formosa Hà Tĩnh, vân vân… Một tập thể lãnh đạo mị dân như vậy làm sao có đủ khả năng để trở thành “trung tâm hòa giải xung đột quốc tế”, khi mà chính họ không “hòa giải” được với người dân đang khát vọng thay đổi. Nói tóm lại, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều có giúp cho hình ảnh chế độ CSVN lan rộng nhiều nơi, thu hút khách du lịch; nhưng kết quả này chắc chắn không làm cho Việt Nam sớm có dân chủ, tự do và xã hội công bằng hơn. Lý Thái Hùng Vì sao Hội nghị thượng đỉnh Trump – Un lần 2 thất bại Donald Trump không hiểu Kim Jong-un https://viettan.org/viet-nam-duoc-gi-sau-thuong-dinh-my-trieu/
......

FDI, vũng bùn của một nền kinh tế.

Nguyễn Việt Nam Trung Quốc, một quốc gia đã đi trước Việt Nam về thu hút FDI. Một con hổ giấy kinh tế đã hình thành. Ta thấy tưởng chừng như nó rất mạnh nhưng nó đã bị thui vàng ươm chỉ với vài đòn kinh tế của ông Trump. Chúng ta đều nhìn thấy rõ sự te tua của nền kinh tế Trung Quốc thời gian qua. Thất nghiệp, GDP giảm đến mức chính phủ phải báo cáo láo, các doanh nghiệp FDI phải tháo chạy khỏi nước này để né đạn. Chính các doanh nghiệp của Trung Quốc cũng phải xê dịch sang nước thứ ba để lánh nạn. Việt Nam cũng đã làm việc này nhiều năm nay nhưng thua Trung Quốc khoản ép chuyển giao công nghệ. Ông đã lười phát minh, cải tiến lại còn giở trò lưu manh ăn cướp trí tuệ của người khác thì cái giá phải trả hãy nhìn sang Trung Quốc là thấy. Việt Nam được gì từ FDI? Chúng ta đã nói quá nhiều về điều này. Đơn giản chỉ là bãi chiến trường mà thôi. Luật pháp bị nới lỏng, ô nhiễm, bẫy lao động giá rẻ, thất thoát tài nguyên, méo mó nền kinh tế để đổi lấy điều gì? Tất cả chỉ đổi lấy con số tăng trưởng ảo, kim ngạch ảo, đồng lương rẻ mạt, một chút ăn theo chuỗi sản phẩm. Chỉ có vậy thôi và nền kinh tế lao vào vòng phụ thuộc. Kể cả có thu hút FDI chất lượng cao hay FDI 4.0 đi chăng nữa thì hậu quả vẫn vậy thôi. Chuyển giao công nghệ: Không một thằng nào điên đến mức đi chuyển giao hoàn toàn công nghệ sản xuất mà mình đã dày công xây dựng để thằng khác làm ra sản phẩm nhằm cạnh tranh với chính mình trong khi nó có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn mình. Nó chỉ cho ông công nghệ ở một vài khâu nào đó để ông làn thuê cho nó mà thôi chứ đừng mơ làm chủ được công nghệ. Cái bài ép chuyển giao công nghệ đã thành công ở Trung Quốc nhưng nó đã phải trả giá bởi đòn đánh của nước Mỹ. Việt Nam liệu có dám làm theo không? Xin thưa là không. Bởi vì Mỹ chưa thả bom vụ thâm hụt thương mại với Việt Nam mà bên Việt Nam đã phải bỏ đến 21 tỷ USD để mua hàng của Mỹ nhằm xoa dịu thâm hụt thì tuổi gì mà dám bố láo theo kiểu Trung Quốc nữa. Vậy nên giấc mơ lưu manh là lười động não nhưng vẫn có công nghệ của Việt Nam sẽ không bao giờ thành công. Điều này đồng nghĩa sẽ mãi là nước làm thuê mà thôi. Tăng cường phát triển doanh nghiệp trong nước: Cái đầu tiên ta phải xét đến là trình độ sản xuất của ta lạc hậu hơn thế giới rất nhiều. Điều này dẫn đến năng lực cạnh tranh kém. Một điều nữa là khi còn đang lạc hậu mà lại bước vào các sân chơi lớn như CPTPP với các đối thủ có sức cạnh tranh lớn hơn thì hậu quả còn khốc liệt hơn rất nhiều. Liệu rằng ông có phát triển được không và mất bao nhiêu lâu trong khi đã bước vào sân chơi lớn rồi? Họ đã đến còn ta chưa chuẩn bị gì để ứng phó. Chúng ta sẽ mất cả thị trường trong nước lẫn quốc tế bởi sức cạnh tranh quá yếu. Làm sao có thể thắng được chỉ với một số mặt hàng chủ lực như da giày, may mặc hay một số nông sản ít ỏi? Ta đánh đổi quá nhiều để chỉ có được thế thôi ư? Tôi nói đơn giản như dệt may là một ngành rất mạnh của Việt Nam. Nhưng vẫn chỉ là may gia công. Thêm nữa bây giờ vào CPTPP nó có cái truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Nguyên liệu đầu vào cho ngành này thì ta vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu, nhất là từ Trung Quốc. Ngành dệt trong nước thì chưa có gì gọi là phát triển và đáp ứng. Nam nhớ không nhầm thì tối thiểu 55% tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm thì mới được hưởng ưu đãi thuế. Đây là bế tắc rất lớn cho Việt Nam và là kẽ hở để một số nước trục lợi CPTPP qua Việt Nam. Việt Nam đã quá sa lầy vào vũng bùn này. Ngày trước để có được những khoản vốn ODA khổng lồ thì Việt Nam đã phải chấp nhận nhiều điều kiện ưu đãi từ các chủ nợ, nhất là Hàn Quốc, Nhật Bản và trong đó có cả Trung Quốc. Một trong những điều kiện đó là thả cửa để doanh nghiệp của họ vào làm ăn. Hội nhập, mở cửa là tốt nhưng cách làm như thế nào mới là quan trọng. Năng lực bản thân hay nói cách khác là sức cạnh tranh phải mạnh thì mới đối đầu được chứ mục tiêu hội nhập chỉ đơn giản là để vay tiền, lấy thành tích ảo, để tạo các khoản kiếm chác cho nhà nước...trong khi đó năng lực không chịu nâng cao thì vứt đi. Và câu hỏi là FDI ra đi thì Việt Nam còn lại gì? FDI rất nhạy cảm. Chỉ một biến cố nguy hiểm là họ đi liền. Biển Đông đang là chảo lửa quân sự, tranh chấp. Chỉ cần súng nổ ở đó thì 70% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sẽ có nguy cơ ra đi. Nó kéo theo sự sụp đổ của một chuỗi mạng kinh tế sụp đổ theo hiệu ứng Domino. Lúc đó thì đúng là te tua hơn cả chị Dậu luôn. Hay đơn giản như nếu Triều Tiên mở cửa chẳng hạn. FDI của Hàn Quốc và một số nước khác sẽ sang đó hưởng lợi, Việt Nam còn lại gì? Chỉ một Samsung thôi ra đi là nền kinh tế Việt Nam sẽ bét nhè ngay. Thất nghiệp tràn lan, rồi tất cả lại hưởng ứng phong trào "xuất khẩu lao động là mục tiêu chính trị của đảng và nhà nước ", vì dân giàu nước mạnh ư? Người dân được gì từ FDI? Vẫn chỉ là làm thuê giá rẻ. Thu nhập bình quân vẫn chỉ có 2500 USD, bằng 1/10 so với mặt bằng chung của nhiều nước. Một số dịch vụ ăn theo phạm vi doanh nghiệp như ăn, ở, tiêu dùng, nhà đất hay cùng lắm là vận tải. Haizzz. Tất cả là nhờ ơn đảng và nhà nước. Nhưng đây cũng là tín hiệu vui mừng. FDI chính là tử huyệt của nền kinh tế mà cộng sản đã dựng lên. Nó cũng là một điểm rất cần chú ý để chúng ta nhắm đến nếu muốn lật đổ chế độ này. Cũng như lần trước Nam đã nói, nếu công nhân gom được tiền đủ ăn tiêu một tháng xong ở nhà ăn chơi hàng loạt thì cộng sản sẽ đái ra quần đó. Không ai đến nhà đánh bạn, xích bạn phải đi làm cả. Chuyện là vậy đó. Đình công, ở nhà ăn chơi thôi chứ chẳng cần phải lao ra đường để chúng nó đánh làm gì cho khổ ra.
......

Giáo sư Chu Hảo: Quĩ Phan Chu Trinh ngưng hoạt động không từ một sức ép nào cả

Giáo sư Chu Hảo, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Tri thức, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học Quĩ Phan Chu Trinh. Ảnh chụp 2010. Kính Hòa RFA Cuối tháng 2/2019, trên các trang mạng xã hội có lan truyền một bức thư được cho là của bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước Việt Nam, Chủ tịch Quĩ văn hóa Phan Chu Trinh, ký về việc ngưng hoạt động của tổ chức này. Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ Việt Nam, Phó chủ tịch hội đồng khoa học Quĩ Văn hóa Phan Chu Trinh, xác nhận với đài RFA rằng lá thư của bà Bình là có thật, và ông cho RFA cuộc phỏng vấn sau đây. Kính Hòa RFA: Trong lá thư của bà Nguyễn Thị Bình, thưa giáo sư tại sao không thấy đưa lý do tại sao Quĩ Phan Chu Trinh được cho ngưng hoạt động? Giáo sư Chu Hảo: Cái lý do chủ yếu mà chúng tôi nói rằng là vì những điều kiện khách quan đấy, là sức khỏe của bà Nguyễn Thị Bình. Bà ấy năm nay đã trên 90 tuổi. Gần đây sức khỏe của bà rất là giảm sút. Thành ra bà rất là muốn từ nhiệm chức chủ tịch Quĩ văn hóa Phan Chu Trinh. Và bà đã đề nghị phải có người thay thế. Thế nhưng trong thời gian vừa qua, hội đồng của chúng tôi có họp lại thì không tìm được người thay thế. Không ai có đủ điều kiện, tư cách và điều kiện, trong thời điểm hiện nay. Mà bà Bình thì cương quyết xin rút, cho nên chúng tôi tuyên bố ngưng hoạt động. Cũng có một số bạn bè trong và ngoài nước, có hỏi chúng tôi là có bị sức ép gì không. Chúng tôi xin khẳng định là việc này chúng tôi làm hoàn toàn tự nguyện tự giác, trên cái cơ sở, điều kiện là không có người thay thế bà Bình, chứ không chịu sức ép của bất kỳ chính quyền hay ai cả. Kính Hòa RFA: Thông thường nếu như chưa tìm được người thay thế thì cũng có thể có người tạm quyền được chứ ạ? Giáo sư Chu Hảo: Người có thể tạm quyền trước hết là bác Nguyên Ngọc, với tư cách Chủ tịch hội đồng khoa học của Quĩ, và tôi với tư cách Phó chủ tịch. Cả hai chúng tôi đều ở trong hoàn cảnh không thể tiếp tục được. Những thành viên khác trong hội đồng thì tự mọi người thấy rằng chưa đủ uy tín xã hội, không có thời gian, v.v… nên không ai dám nhận cả. Kính Hòa RFA: Thưa giáo sư việc dừng hoạt động của Quĩ với một lý do nhân sự như vậy thì giáo sư có thấy là đáng tiếc không? Giáo sư Chu Hảo: Rất là đáng tiếc. Nhưng mà trong cái lời tuyên bố ở cuối thông báo mà bà Bình ký, thì chúng tôi thấy rằng là sau đây, những hoạt động như thế, với tiêu chí văn hóa như thế của Quĩ Văn hóa Phan Chu Trinh, sẽ được tiếp tục bằng những hoạt động, hình thức khác nhau để tiếp tục sự nghiệp đó. Kính Hòa RFA: Giáo sư có thể tóm tắt sơ lược những gì Quĩ Văn hóa phan Chu Trinh đã làm được trong thời gian tồn tại của nó không ạ? Giáo sư Chu Hảo: Trong 11 năm tồn tại thì Quĩ đã có nhiều hoạt động, tuy nhiên những hoạt động đấy chưa xứng với tiêu chí, hay những việc ban đầu mà chúng tôi đặt ra. Nó có nhiều khó khăn, mà một trong những khó khăn đấy là vấn đề tài chính. Cho đến năm vừa qua thì Quĩ Phan Chu Trinh có những hoạt động thế này; Một là phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức để xây dựng Tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới, để mà tuyên truyền quảng bá những giá trị phổ quát của nhân loại, thông qua tủ sách đó, bằng cách xuất bản, bằng cách dịch, phát hành những cuốn đó trong toàn quốc. Đồng thời là tổ chức những buổi hội thảo, tọa đàm, để mà giới thiệu những cuốn sách đó trong giới học thuật, cũng như giới trẻ nói chung. Thứ hai, là Quĩ đã kiên trì thực hiện việc trao giải Văn hóa Phan Chu Trinh cho bốn hạng mục là dịch thuật, nghiên cứu, vì sự nghiệp văn hóa xã hội, và Việt Nam học. Hàng năm chúng tôi chọn ra những nhân vật, những tổ chức, mà có rất nhiều những đóng góp, cho văn hóa và giáo dục Việt Nam, nhưng mà những hoạt động và nghiên cứu đó không nằm trong chương trình và kế hoạch nghiên cứu của nhà nước, nên nhà nước ít có điều kiện để bao quát được hết. Thì Quĩ văn hóa Phan Chu Trinh đã làm những nhiệm vụ bổ sung vào hoạt động, tôn vinh những giá trị văn hóa và giáo dục của những tác giả, tác phẩm đã tồn tại ở Việt Nam trong mấy chục năm qua. Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch Quĩ Phan Chu Trinh, nguyên Phó chủ tịch nước, tại một buổi tiếp tân ở Kolkatka, Ấn Độ. 2007. AFP Việc đó không có mâu thuẫn gì với tiêu chí chung của việc phát triển văn hóa của đất nước, mà nó chỉ bổ sung thêm vào những mảng mà nhà nước chưa có điều kiện quan tâm tới. Thứ nữa là trong ba bốn năm gần đây, chúng tôi mở thêm hạng mục là tôn vinh văn hóa Việt Nam thời hiện đại. Tức là những danh nhân văn hóa có những đóng góp hết sức quan trọng cho nền văn hóa chữ quốc ngữ Việt Nam từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ thứ 20. Bắt đầu từ ông Trương Minh Ký, rồi những nhân vật khác nữa mà chúng tôi sẽ tôn vinh. Đấy không phải là giải thưởng mà là sự tôn vinh của xã hội đối với những người có công lao rất là kiệt xuất, trong cái giai đoạn đó, mà trước đó là văn hóa Hán Nôm. Trong giai đoạn đó nhà nước đã làm tốt như là đối với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi,… Còn trong giai đoạn mà từ sau năm 45 trở lại đây, thì nhà nước cũng đã có những tuyên dương hết sức là xứng đáng với những người có công trong việc phát triển văn hóa của Việt Nam. Nhưng mà cái giai đoạn từ giữa thế kỷ 19, có thể nói từ khi xuất hiện tờ Gia Định báo, cho đến năm 45, vì nhiều lý do khác nhau, hoàn cảnh lịch sử, cho nên một số nhân vật chưa được tôn vinh cũng như thừa nhận một cách thõa đáng, cũng như tuyên bố sự nghiệp của họ. Thì Quĩ Văn hóa Phan Chu Trinh cũng tham gia vào việc bổ sung những hoạt động văn hóa, nên chúng tôi lập ra cái hạng mục đó. Chúng tôi tôn vinh cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Khôi, cụ Nguyễn Văn Vĩnh, còn năm ngoái là cụ Phạm Quỳnh. Những nhân vật đó thì dần dần từng bước, trong chính quyền và xã hội đã có những thùa nhận. Thế nhưng mà công khai tuyên bố như là những danh nhân văn hóa thì là sáng kiến của chúng tôi. Chúng tôi chịu trách nhiệm trước xã hội về công việc đó, vì nếu chúng tôi không làm, thì về sau này thế hệ trẻ sẽ rất khó, ít điều kiện để tập hợp lại được, những nhà khoa học, những tập thể học thuật, có đủ trình độ để mà đánh giá, tôn vinh những con người đó. Tuy nhiên ý kiến trong xã hội vẫn chưa thật là hoàn toàn thống nhất. Ví dụ như có một lực lượng rất là chống đối việc chúng tôi tôn vinh những người như là Trương Vĩnh Ký, hay như khi chúng tôi tôn vinh cụ Nguyễn Văn Vĩnh, cụ Phạm Quỳnh. Những nhân vật ấy có vẻ như nổi trội trong giai đoạn lịch sử ấy, với những ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng chúng tôi kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình, và chúng tôi công bố với tư cách là một đoàn thể xã hội dân sự chịu trách nhiệm trước xã hội, về ý kiến của mình. Chúng tôi sẵn sàng trao đổi lại về những ý kiến có tinh thần khoa học, không chụp mũ, không qui kết, để mà thảo luận với nhau. Còn những ai mà chúng tôi nhận thấy rằng quá khích, chụp mũ và qui kết thì chúng tôi cũng không muốn mở ra tranh luận cho nó mất thời gian. Ngoài ra Quĩ còn rất muốn có một khoản kinh phí để hỗ trợ việc nghiên cứu văn hóa mà nó không thuộc trong chương trình cấp nhà nước, mà là sáng kiến từng cá nhân hay tổ chức. Chúng tôi cũng muốn có một quĩ học bỗng để hỗ trợ cho sinh viên, hay những nhà nghiên cứu. Thế nhưng trong mươi năm vùa qua thì nguồn kinh phí của chúng tôi rất là hạn hẹp, cho nên cái mảng đấy chúng tôi không làm được. Đấy cũng rất là đáng tiếc. Kính Hòa RFA: Sắp tới đây giáo sư và những người cùng chí hướng có nghĩ ra cái gì để thay thế, tiếp nối con đường mà Quĩ Phan Chu Trinh để lại không ạ? Giáo sư Chu Hảo: Hiện tại thì chúng tôi có Tủ sách tinh hoa tri thức thế giới, vẫn còn nhà xuất bản Tri Thức. Với sự khuyến khích và hỗ trợ của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam. Mặc dù tôi không còn làm giám đốc nữa nhưng đã bổ nhiệm một người mới, vẫn theo những tiêu chí cũ, vẫn tiếp tục thực hiện chương trình xây dựng tủ sách tinh hoa tri thức thế giới. "Có một lực lượng rất là chống đối việc chúng tôi tôn vinh những người như là Trương Vĩnh Ký, hay như khi chúng tôi tôn vinh cụ Nguyễn Văn Vĩnh, cụ Phạm Quỳnh. -Giáo sư Chu Hảo " Ngoài ra thì cách đây gần hai năm, chúng tôi đã thành lập Viện Phan Chu Trinh. Đây là một viện tư nhân, hoạt động theo luật khoa học công nghệ của Việt Nam. Viện này đăng ký hoạt động tại Quảng Nam, trụ sở ở Hội An. Hiện tại viện đó vẫn do tôi làm viện trưởng, ông Nguyên Ngọc, tức là nhà văn Nguyên Ngọc, là Chủ tịch Hội đồng viện, kiêm Chủ tịch Hội đồng khoa học. Sắp tới Viện Phan Chu Trinh đó sẽ có một chương trình hoạt động, bước đầu đã có kết quả. Chúng tôi sẽ mở rộng hoạt động của Viện Phan Chu Trinh, để kế tiếp một phần công việc của Quĩ Phan Chu Trinh. Sắp tới viện đó cũng có thể có những thay đổi về mặt tổ chức, nhưng mà phương hướng phát triển, điều lệ hoạt động đã đăng ký với nhà nước, thì chúng tôi vẫn cứ tiếp tục. Kính Hòa: Rất cám ơn giáo sư Chu Hảo đã trả lời phỏng vấn Đài Á châu tự do.  
......

Vì sao Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh chấm dứt hoạt động?

Chủ tịch Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh, bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước) vừa ký Thông báo về việc chấm dứt hoạt động của Quỹ. Thứ Bảy, ngày 23/2, mạng xã hội Facebook lan truyền một thông báo được cho là của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh về việc Quỹ này chấm dứt hoạt động. Thông báo được đề ngày 20/2 với chữ ký của bà Nguyễn Thị Bình, chủ tịch của Quỹ, nguyên Phó Chủ tịch nước. Trong số các trang lan truyền thông báo này có trang cá nhân của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên[1] và fanpage Salon Văn hóa Cà phê thứ Bảy.[2] Điều lạ thường là một thông báo như vậy lại chưa được công bố trên website của Quỹ (quyphanchautrinh.org), tính đến 6 giờ tối ngày 23/2. Truy nguyên nguồn gốc của thông báo, người viết thấy rằng nơi đăng tải thông báo sớm nhất có lẽ là trang viet-studies.net của TS. Trần Hữu Dũng (ngày 22/2).[3] Dù thông báo chưa được công bố trên website của Quỹ, song theo một số nguồn đáng tin cậy, thông báo cũng như việc Quỹ chấm dứt hoạt động là có thật. Điều này càng được khẳng định khi Tuổi Trẻ và sau đó là nhiều báo khác đưa tin, tuy muộn hơn mạng xã hội.[4] Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh là một tổ chức phi chính phủ và vô vị lợi ra đời vào năm 2008, mà tiền thân là Quỹ Dịch thuật Phan Châu Trinh, ra đời vào năm 2006.[5] Sứ mệnh của Quỹ là "góp phần phục hưng, du nhập, khởi phát, gìn giữ và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa nhằm phục vụ công cuộc canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 21",[6] xuất phát từ con đường "Khai Dân trí – Chấn Dân khí – Hậu Dân sinh" mà nhà yêu nước, nhà cách mạng Phan Châu Trinh đã đưa ra cách đây hơn một thế kỷ. Thông báo ghi rằng qua 11 năm hoạt động, Quỹ đã luôn trung thành với sứ mệnh trên đây, đã giới thiệu nhiều tác phẩm tinh hoa của văn hóa thế giới, đã tổ chức nhiều buổi hội thảo, và đáng kể nhất là giữ gìn và lan tỏa những giá trị tinh hoa qua Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh hàng năm, v.v. Lý do chấm dứt hoạt động, như thông báo cho biết, là "một số điều kiện khách quan". Không rõ một số điều kiện khách quan ở đây là gì, song khi thông báo không nêu ra, nó khiến người đọc đặt câu hỏi về một số điều kiện khách quan đó. Có thể đó là những khó khăn về các phương diện như nhân lực, tài chính (Quỹ có ít người trẻ và hạn chế về tài chính), như GS. Chu Hảo, Phó Chủ tịch của Quỹ, đã có lần chia sẻ trong một chương trình truyền hình của VTV1 về văn hóa và giáo dục Việt Nam,[7] song liệu ngoài các điều kiện khách quan, có hay không các điều kiện chủ quan? Trong bối cảnh mà tự do học thuật ngày càng bị thắt chặt, nhất là sau sự kiện GS. Chu Hảo bị kỷ luật đảng vì NXB Tri Thức – nơi ông làm giám đốc kiêm tổng biên tập – đã xuất bản một số cuốn sách "có nội dung trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, vi phạm Luật Xuất bản",[8] liệu sự chấm dứt hoạt động của Quỹ còn vì áp lực của hệ thống chính trị? Nếu câu trả lời là 'Đúng', rõ ràng thông báo này còn là kết quả của sự lùi bước của Quỹ trước áp lực nêu trên. Nói cách khác, nó là kết quả của sự thoái trào của quyết tâm của những người đứng đầu, nhất là bà Nguyễn Thị Bình, trong việc thực hiện sứ mệnh mà bà và những người sáng lập đã đặt ra cho Quỹ vào 11 năm trước. Nếu câu trả lời là 'Đúng', nó cho thấy cam kết của họ đã không đủ mạnh, bản lĩnh của họ đã không đủ vững, hay ý chí của họ đã không đủ cao, và do vậy mà họ không thể duy trì hoạt động của Quỹ lâu dài, như lẽ ra phải thế. (Cần nói thêm rằng bà Nguyễn Thị Bình đã không hề lên tiếng trước sự kiện GS. Chu Hảo bị kỷ luật đảng vì hoạt động nêu trên, vốn có liên quan đến Quỹ.) Sự chấm dứt hoạt động của Quỹ gây nên nỗi buồn chán cho một số người, và mang lại tiếng thở dài cho một số người khác, nhất là những người trong giới sách vở và học thuật. Các hoạt động về sách vở và học thuật từ nay sẽ thêm phần khó khăn. Dẫu vậy, có lẽ những người quan sát, kể cả những người đang buồn chán và thở dài, cần có một thái độ tích cực hơn rằng, nếu những người sáng lập Quỹ đã không thể đi tiếp con đường, dù vì lý do gì, thì những người khác – đặc biệt là những người trẻ – sẽ đi những con đường tương tự, song sẽ phải bền chí và kiên gan hơn, bới đó là những con đường phải đi, và việc đi trên chúng là đòi hỏi khách quan của công cuộc canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 21. Chú thích: [1] Thông báo trên facebook của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên https://www.facebook.com/profile.php?id=100001402346694 [2] Thông báo trên fanpage Salon Văn hóa Cà phê thứ Bảy https://www.facebook.com/caphethubay/posts/1197476703751223 [3] Thông báo trên trang viet-studies.net của TS. Trần Hữu Dũng http://www.viet-studies.net/ThongBaoQuyPCT.JPG [4] Tin về sự kiện trên báo Tuổi Trẻ https://tuoitre.vn/quy-van-hoa-phan-chau-trinh-ngung-hoat-dong-201902231... [5] Thông báo ghi rằng Quỹ ra đời vào năm 2007, nhưng website của Quỹ ghi rằng Quỹ ra đời vào năm 2008 theo Quyết định số 1063 ngày 3 tháng 10 năm 2008 của UBND TP. Hà Nội. [6] Giới thiệu tổng quan về Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh http://quyphanchautrinh.org/gioi-thieu/22 [7] GS. Chu Hảo nói về thực trạng văn hóa và giáo dục Việt Nam trên VTV1 https://www.facebook.com/chuhaosupporters/videos/291786734771471 [8] Xem xét thi hành kỷ luật nguyên Thứ trưởng Bộ KH và CN Chu Hảo https://vov.vn/chinh-tri/xem-xet-thi-hanh-ky-luat-nguyen-thu-truong-bo-k... RFA https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/pct-cul-fu-clo-02232019092621.html
......

Đàn áp và lạm dụng đằng sau dáng vẻ hòa bình của Việt Nam

Trong khi các nhà lãnh đạo Việt Nam kêu gọi hòa bình và hoà giải tại hội nghị thượng đỉnh Kim-Trump, thì các nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền phải đối mặt với sự quấy rối và quản thúc tại gia. Trong khi chờ gặp một nhà hoạt động Việt Nam trong một quán bar kín đáo ở trung tâm thành phố Hà Nội, người phóng viên này đã nhận được một tin nhắn qua WhatsApp: “Tôi bị an ninh theo dõi”. Vài giờ sau đó tại một địa điểm khác – cách xa trung tâm thành phố, ông Nguyễn Chí Tuyến, một nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng, có tên “Anh Chí” trên mạng xã hội, đã giải thích rằng các cơ quan an ninh đã tăng cường giám sát các nhà hoạt động và các nhà vận động Việt Nam như ông, ngay trước Hội nghị thượng đỉnh của Tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un. Ông Tuyến cho biết ông đã được chính quyền ra lệnh là không được đi vào trung tâm Hà Nội vào ban ngày, và một nhóm công an mặc thường phục đã “đóng chốt” bên ngoài nhà của ông. Ông dự đoán là các nhân viên an ninh sẽ tiếp tục theo dõi sự đi lại của ông và các nhà hoạt động khác cho đến khi hội nghị thượng đỉnh kết thúc. Ông Tuyến không phải là người duy nhất phải đối mặt với sự quấy nhiễu của nhà nước trong lúc Việt Nam rình rang tổ chức hội nghị thượng đỉnh Kim-Trump. Các nhà hoạt động nhân quyền trên cả nước đã đăng lên Facebook hình ảnh các nhân viên an ninh canh gác trước nhà của họ; có người đã đăng video thâu các cuộc tranh cãi với những an ninh canh chừng họ. Cả những người ở TP.HCM, trung tâm tài chính phía nam nằm cách Hà Nội hơn 1.700 km, cũng bị theo dõi và quấy nhiễu. Một nhà vận động dân chủ yêu cầu giấu tên cho biết: “Nhiều nhà hoạt động bị cấm đi ra khỏi nhà, thậm chí là để đi làm kiếm sống; Nhiều người bị an ninh hộ tống khi đi mua sắm hoặc đưa con đến trường”. Cơ quan truyền thông Tiếng nói của Hoa Kỳ, phiên bản tiếng Việt (VOA) cũng đã đưa tin rằng một số nhà vận động cho biết họ hiện đang bị quản thúc tại gia trong suốt thời gian diễn ra hội nghị. Trong khi thế giới theo dõi các cuộc đàm phán hòa bình Mỹ – Bắc Triều Tiên diễn ra ở thủ đô Việt Nam, các phương tiện truyền thông quốc tế, với khoảng 3.000 nhà báo, phần lớn đã bỏ qua sự việc phong trào dân chủ Việt Nam bị đàn áp. Các thông điệp gởi ra từ hội nghị thượng đỉnh chủ yếu nói về Việt Nam như là một “phép màu kinh tế” mà một ngày nào đó Bắc Triều Tiên cũng có thể được như vậy, hoặc như là một điều mới lạ đối với nhiều phóng viên chưa từng đến thăm đất nước này. Nhưng sự kìm kẹp bằng bàn tay sắt bạo lực của Đảng Cộng sản cầm quyền và hồ sơ nhân quyền vô cùng tồi tệ không khó để nhìn thấy. Truyền thông Việt Nam gần như hoàn toàn là của nhà nước, trong khi các blogger độc lập chỉ trích chế độ thường xuyên bị bắt hoặc bị đe dọa. Trong những năm gần đây, các tổ chức xã hội dân sự bắt đầu xây dựng các chi nhánh địa phương trên toàn quốc nhưng đã bị nhà nước triệt tiêu. Trong đợt đàn áp giới bất đồng chính kiến gần đây nhà cầm quyền đã bỏ tù hơn 100 nhà hoạt động cho dân quyền, với một số người bị kết án lên đến 20 năm tù, chỉ vì đã chỉ trích Đảng Cộng sản trong các thông điệp đăng trên mạng xã hội. Chính quyền cũng đã bắt đầu sử dụng nhiều công an mặc thường phục hơn và thuê những tên côn đồ trộm cướp để đe dọa các nhà hoạt động, các tổ chức bảo vệ nhân quyền cho biết. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Human Rights Watch, một tổ chức giám sát nhân quyền, đã dẫn chứng hàng chục trường hợp các nhà vận động bị đánh đập tàn nhẫn trong khi mua sắm hoặc đưa con đến trường. Ngày nay, có nhiều nhà vận động dân chủ phải đối mặt với việc bị bắt giữ và có thể phải ngồi tù sau khi chính phủ đưa ra luật an ninh mạng mới, có hiệu lực từ đầu năm nay, mở rộng phạm vi các hoạt động trên mạng bị coi là bất hợp pháp. Ông Tuyến nói rằng những kỹ thuật giám sát, quấy nhiễu mà các nhà hoạt động phải đối mặt không có gì là mới. Bản thân ông đã từng phải đối mặt với sự quấy nhiễu của công an vì những bình luận chỉ trích chính sách đàn áp của Đảng cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, lực lượng an ninh thường xuyên hạn chế việc đi lại và các hoạt động của các nhà vận động nổi tiếng trong thời gian diễn ra các hội nghị quốc tế. Nhiều nhà hoạt động nói rằng, đúng ra họ đã phải đối mặt với nhiều đàn áp hơn trong tuần này, nhưng vì chính phủ Việt Nam chỉ mới được biết vào đầu tháng này là họ sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh Trump-Kim, nên việc tổ chức canh chừng các nhà vận động đã không được chặt chẽ như những lần hội nghị quốc tế trước đây, bao gồm cả chuyến thăm Việt Nam năm 2017 của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Cho đến nay, gần như không có một đề cập nào đến các điều kiện nhân quyền trong nước từ ông Trump hoặc các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ, kể từ khi họ đến Hà Nội vào hôm thứ ba. Trong các cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào thứ Tư, ông Trump đã chỉ có những lời khen ngợi dành cho chủ nhà. “Việt Nam đang nỗ lực để giúp cho Tổng thống Trump và chính phủ Hoa Kỳ, và cho đến nay việc tổ chức hội nghị thượng đỉnh này có lẽ là món quà lớn nhất. Đổi lại là Washington tiếp tục im lặng về hồ sơ nhân quyền tồi tệ của Hà Nội”, ông Phil Robertson, phó giám đốc của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đặc trách Châu Á, nói. “Chắc chắn là Đảng Cộng sản Việt Nam hy vọng rằng việc thu hút được sự ủng hộ lớn hơn trong cộng đồng quốc tế sẽ cho phép Việt Nam đàn áp các nhà hoạt động dân quyền và dân chủ mà không bị can thiệp hay chỉ trích”, ông nói thêm. “Các nhà lãnh đạo và các nhà ngoại giao của Việt Nam rất mưu mô và hiện nay họ đã hướng được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế theo ý họ muốn”. Các nhà hoạt động ở Việt Nam nói, hy vọng trước đó, rằng Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy cho tự do nhiều hơn ở Việt Nam, đã tiêu tan khi các chính quyền Hoa Kỳ ưu tiên các quan hệ thương mại và an ninh, hơn việc thúc đẩy nhân quyền và dân chủ. “Về phương diện dư luận, Việt Nam là một trong những quốc gia yêu chuộng Hoa Kỳ nhất trên thế giới, ngay cả trong thời đại Trump. Người Việt Nam trông mong ở Hoa Kỳ, chứ không phải Trung Quốc hay Nga, như một ngọn hải đăng của hy vọng và tiến bộ”, ông Hoàng Tứ Duy, , phát ngôn nhân của Việt Tân, nói. Việt Tân là tập hợp của những người Việt Nam khắp nơi trên thế giới đấu tranh cho dân chủ, mà Hà Nội coi là một tổ chức bất hợp pháp. “Hoa Kỳ sẽ bỏ lỡ một cơ hội, nếu Hoa Kỳ định nghĩa ‘Việt Nam’ một cách hạn hẹp chỉ là giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thúc đẩy nhân quyền và tự do chính trị tại Việt Nam sẽ mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ trong dài hạn”, ông Hoàng Tứ Duy nói thêm. Chính phủ Việt Nam rất muốn sử dụng hội nghị thượng đỉnh trong tuần này như một công cụ tuyên truyền quan trọng. Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội vào hôm thứ Tư đã kêu gọi cư dân thành phố phải thể hiện thái độ cư xử tốt nhất và cho thế giới thấy người Việt Nam là “những người văn minh, thanh lịch, thân thiện và hiếu khách”. Mặc dù đã gia tăng sự kiểm soát, nhưng chính quyền Việt Nam cũng nhận ra rằng hầu hết các nhà báo nước ngoài đến Hà Nội là những người theo dõi về tình hình Bắc Triều Tiên, với ít quan tâm đến các vấn đề trong nước của Việt Nam. Thẻ báo chí được trao cho các nhà báo ngoại quốc với quy định rõ ràng cấm mọi tường trình bên ngoài những vấn đề liên quan với hội nghị thượng đỉnh. Tuy nhiên, các blogger độc lập Việt Nam nhấn mạnh rằng các phóng viên ngoại quốc không nên quên rằng Việt Nam vẫn là một quốc gia độc đảng và là một trong những chế độ vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất của Châu Á. Vào tuần trước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng hội nghị thượng đỉnh sẽ cho phép Việt Nam chứng minh với toàn thế giới rằng đây là một đất nước hòa bình, thân thiện và trật tự. Đáp lại, tạp chí trực tuyến độc lập The Vietnamese đã khẳng định rằng “cái giá phải trả cho một hình ảnh như vậy là tự do của những người dám thực thi quyền lập hiến của họ”. “Việt Nam đã lật ngược tình thế với một nền kinh tế phát triển nhưng đầy dẫy tham nhũng dưới sự bảo trợ của chế độ độc tài đảng trị chà đạp nhân quyền, và Hoa Kỳ quá háo hức đón nhận họ,” ông Phil Robertson của Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền, HRW, nói. “Những người bị thua thiệt nhiều nhất là người dân Việt Nam, vì nhân quyền của họ sẽ ngày càng bị chính quyền của họ chà đạp”. Hà Nội, 28 tháng 2 năm 2019 David Hutt Nguồn: Asia Times  
......

Thủ đoạn sàng lọc đảng viên của ông Trọng

Phạm Nhật Bình| Trải qua nhiều kỳ hội nghị Trung ương, đảng CSVN đã thừa nhận và nhắc đi nhắc lại nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Nhưng gần đây, tự diễn biến nội bộ không còn là nguy cơ mà trở thành chuyện đe dọa trực tiếp cho sự tồn vong của chế độ bình nhưỡng… “Một số đảng viên có biểu hiện giao động, hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.” Đó là những gì được đảng đề cập công khai và cũng là mối ưu tư của các lãnh đạo cộng sản hiện nay khi họ muốn duy trì địa vị độc tôn của đảng cộng sản trước những trào lưu đòi thay đổi hướng về dân chủ của người dân Việt. Hiện nay không khó để nhìn thấy bộ máy cai trị của đảng ngày càng chìm sâu trong nạn tham nhũng, cửa quyền và sự xa lánh của quần chúng bị trị. Vì thế, xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh luôn luôn là chuyện hàng đầu của nhóm lãnh đạo. Qua chỉ thị số 28 của Ban Bí thư ban hành ngày 21/1/2019 về việc sàng lọc đảng viên cho thấy mục tiêu của họ là muốn nâng cao chất lượng đảng viên, lấy lại niềm tin… để có thể tiếp tục duy trì sự sống còn của đảng. Thế nhưng trong thời buổi cả đảng đang suy thoái trầm trọng, đại đa số đảng viên chạy theo con đường làm giàu bất chính và mâu thuẫn đấu đá nhau vì ăn chia không đồng đều, nên việc Ban Bí thư muốn sàng lọc để giữ lại những viên ngọc quý “vừa hồng vừa chuyên” không khác chuyện mò kim đáy biển. Đây là chuyện mà đảng đã ra sức làm nhưng không làm nổi và thỉnh thoảng được nhắc đi nhắc lại như phương pháp chữa trị ngoài da cho một con bệnh đã lờn thuốc. Nếu chỉ tính từ năm 1975 sau khi đảng nắm quyền trên cả nước, tình trạng số lượng đảng viên ngày càng tăng cao là điều dễ hiểu. Vì lúc ấy đảng đang trong tình trạng độc chiếm quyền lực, một mình một chợ, không chia xẻ với ai và không ai có khả năng tranh giành với mình. Như Nguyễn Phú Trọng đã từng tự hào “thực tế ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài đảng CSVN có đủ bản lĩnh…và khả năng lãnh đạo đất nước.” Có đảng tịch là có quyền lợi đi theo và quyền lợi đảng viên tương xứng với chức vụ là điều thật quyến rũ, nên vào đảng là miếng mồi béo bở đối với nhiều người. Còn lý tưởng cộng sản ngày nay là chuyện chỉ còn trên lý thuyết. Dắt tay nhau trên con đường làm giàu, đảng viên cộng sản chẳng những chia nhau quyền lực chính trị mà còn ăn chia quyền lợi vật chất để cùng tồn tại. Nhưng nguồn lợi do kinh tế thị trường mang lại ngày càng tập trung thành con số khổng lồ, làm nảy sinh ra tình trạng cạnh tranh do chia chác không đồng đều. Nhìn vào thực tế, ngày nay động cơ vào đảng không phải để đi theo một lý tưởng cao siêu nào đó hay tạo ra môi trường đóng góp tài năng của mình để xây dựng đất nước. Nó hoàn toàn nhắm vào lợi nhuận sẽ kiếm được do chia chác lẫn nhau. Móc ngoặc ăn chia là hình thức thường thấy trong hệ thống cai trị độc quyền mang danh nghĩa xã hội chủ nghĩa này. Hiện tượng đấu đá, suy thoái tư tưởng cũng bắt đầu từ đây. Với trên 4 triệu đảng viên các cấp, việc sàng lọc theo lệnh Ban Bí thư cũng có nghĩa là loại ra những thành phần không cùng phe nhóm đang cầm quyền và bị gán cho là suy thoái, tham nhũng, biến chất. Cuối cùng chỉ giữ lại những cục sạn lớn cũng là những tay tham nhũng gộc nhưng cùng phe nhóm. Trước khi bước vào nhiệm kỳ 13 (2021-2026), vấn đề nhân sự được Nguyễn Phú Trọng và toàn ban ráo riết chuẩn bị. Mục đích để củng cố thế lực và giữ vững được vây cánh của mình, bảo đảm cho sự độc chiếm diễn đàn trung ương. Vì thế đích thân Nguyễn Phú Trọng nắm luôn 2 Tiểu ban văn kiện và Tiểu ban nhân sự là tiểu ban quan trọng nhất để điều động, giới thiệu cán bộ “chiến lược” vào bộ máy đảng. Như vậy từ việc “dựng lò đốt tham nhũng” cho đến chỉ thị “sàng lọc đảng viên” gần đây, được coi như màn cuối cùng mà ông Trọng và phe cánh muốn loại hết đàn em Nguyễn Tấn Dũng còn rơi rớt sau đại hội 12. Ngày 23/2 tức một tháng sau khi Trần Quốc Vượng ký ban hành chỉ thị 28, vụ bắt giữ Trương Minh Tuấn và Nguyễn Bắc Son như phát pháo lệnh mở màn cho chiến dịch sàng lọc đảng viên. Cho dù được nói là cánh tay đắc lực của Nguyễn Phú Trọng trong đại hội 12, lần này Trọng không thể không hy sinh Trương Minh Tuấn để hoá giải những luồng chỉ trích bất lợi cho mình từ trong nội bộ. Mặt khác cũng có thể coi đây như lời cảnh báo rõ ràng nhất trực tiếp gởi đến phe nhóm Lê Thanh Hải đang ngồi trên đống lửa trong vụ án Thủ Thiêm. Thông điệp mang ý nghĩa là đảng viên ở bất cứ cấp nào cũng không có thể đứng ngoài cuộc sàng lọc lần này. Nói cách khác, sàng lọc đảng viên chỉ là một cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng mà thôi. Nhưng nếu làm không khéo chỉ e nó biến thành hai phe đấu đá một mất một còn, trong khi vận may của đảng chẳng còn bao nhiêu thời gian. https://viettan.org/thu-doan-sang-loc-dang-vien-cua-ong-trong/  
......

Tự hào nên dành cho dịp khác

Nguyễn Anh Tuấn - RFA | Không có gì bất ngờ trước niềm phấn khích của nhiều người Việt Nam với Hội nghị Thượng định Trump-Kim được tổ chức ở Hà Nội lần này vì đã lâu rồi Việt Nam mới có chút gì đó đóng góp để giải quyết những vấn đề quốc tế. Cảm xúc này của công chúng đáng được trân trọng bởi lẽ sâu xa nó phản ánh khát vọng của một dân tộc muốn thoát dần ra khỏi thân phận tầm gửi luôn dựa vào sự giúp đỡ của quốc tế để vươn lên có một địa vị nào đó trên trường quốc tế và đóng góp cho quốc tế. Hân hoan một chút như thế cũng tốt, nhưng dĩ nhiên không nên để cảm xúc dẫn chúng ta đi xa quá. Nhất là khi nhìn vào lý do mà Việt Nam được chọn đăng cai hội nghị lần này. Bên cạnh việc thuận tiện về hậu cần đi lại, còn có một hậu ý chính trị mà cả đôi bên, Hoa Kỳ và Triều Tiên đều không hề giấu giếm. Với Triều Tiên, Việt Nam mặc dù đã cải tổ kinh tế song đảng Cộng Sản vẫn giữ được địa vị thống lĩnh xã hội. Với Mỹ và cộng đồng quốc tế, việc Bắc Hàn trở thành một Việt Nam thứ hai không phải là lựa chọn tồi, nếu không muốn nói là khá lý tưởng, bởi thế giới bớt được một nỗi lo hạt nhân, bù lại bằng việc cho phép Triều Tiên hội nhập, mở mang kinh tế. Tóm lại Việt Nam được chọn như một tấm gương cho Bắc Hàn noi theo. Nhưng không phải lúc nào được chọn làm gương cũng đáng tự hào. Câu hỏi đặt ra là vì sao Việt Nam không được chọn làm gương cho các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, hay ngay cả là Cambodia, Myanmar, mà chỉ là cho Bắc Hàn – một thảm họa cả về kinh tế lẫn nhân quyền? Phải chăng Bắc Hàn như một đứa bé ngỗ nghịch vừa quậy nhà mình vừa phá nhà hàng xóm khiến cộng đồng quốc tế không mong gì hơn là đứa bé ấy thành một Việt Nam thứ hai, vẫn còn ngỗ nghịch nhưng khi được cho kẹo thì chỉ quậy nhà mình thôi để hàng xóm làng giếng được yên thân? Mà nếu thế thì liệu có gì đáng tự hào? Chỉ khi nào kinh tế phát triển vượt bậc đi kèm với pháp trị được củng cố, dân chủ được thúc đẩy, nhân quyền được tôn trọng, như những gì được chứng kiến ở Nhật Bản (Sự Thần kỳ Nhật Bản), Hàn Quốc (Kỳ tích sông Hán), hay Đài Loan (Kỳ tích Đài Loan) thì chúng ta mới có nhiều lý do hơn để tự hào. Nguyễn Anh Tuấn
......

Một sự chào đón tởm lợm

......

NGƯU TẦM NGƯA, MÃ TẦM MÃ

JB Nguyễn Hữu Vinh | Cả nước chộn rộn, quan chức chạy ngược chạy xuôi, học sinh phải nghỉ học, chợ búa phải đóng cửa, xe cộ bị cấm lưu thông, cờ quạt búa xua, công an như muỗi, người dân bị canh cửa bằng côn đồ và công an...   Nửa nước phía Bắc bị tê liệt một phần, tiền dân đổ ra như nước lã, như giấy vụn mang đi đốt.   Tất cả chỉ để chi đống tiền ra đón một tên oắt con được mệnh danh là "Côn đồ quốc tế".   Chính hắn và cha ông hắn đã và đang đày đọa hàng chục triệu người Bắc Triều Tiên hàng mấy chục năm nay. Nhiều triệu người bị chết đói, nhiều trẻ em bị suy kiệt cho đến chết.   Chính hắn đã không ngần ngại giết cả anh trai hắn bằng biện pháp dã man.    Phải  Kim Jong Un đã ra lệnh giết anh là  Kim Jong Nam (trái)   Chính hắn đã ra lệnh giết chú, dượng và những người thân thích cũng như hàng vạn đồng chí của hắn đã nâng đỡ cha con, ông cháu hắn.   Khi mà một con người làm điều thất nhân đức, có thể là do một cá tính.   Nhưng khi cả ba thế hệ nhà hắn đều như thế, nghĩa là máu côn đồ, máu lạnh và sự bất nhân, tính thú vật đã thuộc vào giòng giống nhà hắn xưa nay.   Đó là quái vật chứ không phải con người.   Khi mà chính hắn không thể trừ sự tàn bạo, dã man cho chính anh em ruột của hắn, của thân thuộc, họ hàng nhà hắn, thì không có điều gì hắn không dám làm.   Huống chi mấy đám dân cuồng cộng chỉ là cái rác không đến gần để làm bẩn được chân hắn mà chỉ chịu rét cầm cờ đứng từ xa vẫy vẫy.   Và Cha ông hắn, cũng như hắn đã sống một cuộc sống vương giả ngoài sức tưởng tượng của những bậc vua chúa.   Ngay cả việc hắn đến họp nhờ nhà người ta mà hoạnh họe đủ trò, cũng đã nói lên tính cách của hắn ra sao.   Chính hắn đã cho người móc nối với một công dân Việt Nam đưa vào một tội ác tày trời.   Chính ông cha hắn và tiếp nối hà hơi tiếp sức cho bọn Polpot thọc dao sau lưng người dân Việt Nam bằng những cuộc tàn sát đẫm máu ở biên giới Tây Nam.   Chính cha ông hắn đã là đồng minh theo đuôi Trung Cộng trong cuộc chiến xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979.   Và hắn đã và đang thể hiện vai trò "côn đồ quốc tế" bắt người dân nhịn đói để lao theo vú khí nguyên tử, đem dọa thế giới kiếm ăn.   Hắn là một Chí Phèo thời nay còn sót lại trên thế giới.   Và hắn được Bá Kiến của làng Vũ Đại mời sang nhà chơi, ăn uống và đón tiếp nhiệt tình..   Cái ngu, là dân làng Vũ Đại vẫn có những đứa hớn hở đón hắn. Dù hắn và Bá Kiến chỉ lo bắt đám dân đó vẫy cờ, dẹp đường, nhịn đói hoan hô.   Một cái xương từ trong bàn ăn của chúng rơi ra, cũng sẽ không đến đám dân làng Vũ Đại ấy.   Dân làng Vũ Đại ấy, chỉ được lo chuẩn bị những đồng sưu thuế để cho bọn Bá Kiến đủ tiền thù tiếp côn đồ cho hợp với câu ngạn ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".   26/2/2019    
......

Những khó khăn của Việt Nam hiện nay

Sự kiện nhân dân Venezuela nổi dậy cùng với Đảng Dân Ý của ông Juan Guiado lật đổ chế độ độc tài Maduro mấy ngày qua đang là sự kiện nóng hổi lôi kéo sự chú ý cả toàn thế giới. Dù là chính phủ lâm thời của ông Juan Guiado vẫn chưa được ổn định vì sẽ còn đối mặt rất nhiều khó khăn trước mắt, nguy cơ khó khăn nhất là sự "giãy chết'' của cựu Tổng thống độc tài Maduro, chắc chắn là Maduro sẽ tìm mọi cách gây biến động và Chính phủ ông Juan Guiado phải đối phó mọi mặt, nhưng bù lại, họ có sự trợ giúp từ Quốc Tế, cụ thể là Hoa Kỳ. Khó khăn kế tiếp là Juan Guiado tiếp nhận một đất nước đã bị tàn phá về kinh tế nặng nề, việc sắp xếp các phe phái chính trị và kiến thiết lại quốc gia sẽ không dễ dàng cho ông. Nhưng dù sao, kiến thiết quốc gia vẫn sẽ dễ dàng hơn là quá trình lật đổ cả một chế độ độc tài, những khó khăn đó họ còn vượt qua được thì việc kiến thiết quốc gia họ sẽ cùng nhau xây dựng lại nhanh chóng mà thôi. Tuy chưa chính thức nhưng chúng ta vẫn chúc mừng cho Venezuela sẽ có một tương lai tươi sáng. VIỆT NAM THÌ SAO? Rất nhiều người nhìn về Venezuela rồi tự nhiên so sánh với Việt Nam, sự so sánh hiển nhiên bởi vì trong mỗi con người Việt Nam, họ khao khát điều đó, khao khát tự do, dân chủ. Ở đây, chúng ta nhìn thấy sự khó khăn của Việt Nam so với Venezuela thế nào? Nhìn bề ngoài, có lẽ đa số sẽ nghĩ hiện tình ở Việt Nam dù sao cũng tốt hơn Venezuela, ít nhất kinh tế Việt Nam vẫn chưa kiệt quệ đến nỗi người dân phải bới thùng rác tìm thức ăn, ít nhất Chính trị Việt Nam vẫn chưa xảy ra bạo lực khắp nơi, ít nhất Việt Nam vẫn chưa xảy ra tình trạng hàng triệu người phải di dân sang các nước lân cận,... Đúng vậy, nhìn bề ngoài thì như thế, có vẻ Việt Nam chưa khánh kiệt như Venezuela. Thế nhưng, người viết nói rằng, Việt Nam so với Venezuela sẽ khó khăn nghiêm trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều thì quý vị nghĩ sao? Và tại sao như vậy? Muốn hiểu rõ những điều này, chúng ta hãy nhìn vào cơ chế chính trị của hai quốc gia. Thứ nhất, đối với Venezuela, mặc dù suốt gần hai trăm năm kể từ khi độc lập, đã trải qua các chế độ chính trị không thật sự là dân chủ nhưng họ vẫn duy trì được đa đảng, vẫn duy trì đảng đối lập, mặc dù đảng cầm quyền độc tài, nhưng ít nhất, người dân của họ cũng đã có ý thức về dân chủ, có ý thức đấu tranh chống độc tài. Còn ở Việt Nam, Miền Bắc đã trải qua hơn 73 năm và Miền Nam hơn 43 năm dưới ách cai trị của cộng sản, chỉ có độc đảng cầm quyền, lại bị tuyên truyền, nhồi nhét ý thức hệ của cộng sản, mặt khác, phong trào đấu tranh dân chủ bị đàn áp triệt để cho nên hầu như người dân Việt Nam đã muốn tê liệt và mất ý chí đấu tranh. Đây là yếu tố quan trọng nhất làm cho công cuộc đấu tranh ở Việt Nam rất khó khăn. Thứ hai, sự tê liệt của Venezuela chủ yếu là do tê liệt về kinh tế hơn là về chính trị. Bởi vì đảng cầm quyền Venezuela độc tài và tham tàn, cho nên họ duy trì chính sách thâu tóm quyền lợi kinh tế, bóp nghẹt sự phát triển kinh tế tư nhân, nạn tham nhũng tràn lan làm cho kinh tế lâm vào khủng hoảng, thời kỳ thịnh vượng của họ chẳng qua phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ rất lớn. Venezuela duy trì đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa và kết cục chúng ta đã thấy. Còn Việt Nam, về kinh tế, cũng duy trì đường lối độc tài, thâu tóm quyền lợi kinh tế quốc gia về cho đảng cầm quyền, lại thêm sự độc tài toàn trị về chính trị làm cho nhân dân Việt Nam phải chịu nhiều tầng áp bức, nghèo nàn về kinh tế, ngạt thở về chính trị làm cho sự nhận thức u tối đi. Thứ ba, ý thức và tư tưởng rất quan trọng cho sự phát triển và phát huy tiềm năng của con người, thế nhưng dưới chế độ cộng sản, ý thức và tư tưởng hầu như bị triệt tiêu, chúng giáo dục công dân đi theo một đường lối duy nhất do chúng đưa ra, nhồi nhét công dân trở nên u tối, có lẽ công dân venezuela vẫn còn may mắn hơn công dân Việt Nam vì họ không bị nhồi sọ để trở nên vô cảm, thờ ơ với chính trị. Thứ tư, Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma, và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Chúng ta có thể thấy, gần 100% công dân các quốc gia này có tôn giáo rất phát triển, vậy nên công dân họ được giáo dục tốt, có đức tin và đạo đức cũng sẽ không suy thoái như cộng sản chủ trương vô thần. Đạo đức là một đức tính quan trọng để chấn hưng Nhân Khí cho mỗi quốc gia. Thứ năm, một yếu tố cực kỳ nguy hiểm mà Venezuela không bị như Việt Nam đó là sự xâm lược, muốn đồng hóa giống nòi của Trung cộng. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ dã tâm chiếm lấy và đồng hóa Việt Nam vì chúng cho rằng Việt Nam là một phần của chúng và Việt Nam phải thu về mẫu quốc. Đây là dã tâm muốn diệt tận gốc giống nòi Lạc Việt và đồng hóa trở thành Hán Trung. Người viết đã khóc khi đọc qua những tài liệu lịch sử ghi chép về sự dã tâm của Trung Quốc muốn diệt chủng nòi Việt của chúng ta. Nếu quý vị có tinh thần Dân Tộc, quý vị sẽ thấy, sự nghèo đói, sự ô nhiễm môi trường, sự đàn áp cướp bóc, ...tất cả điều gây đau khổ cho nhân dân, nhưng tất cả những điều đó nó không là gì so với sự diệt chủng giống nòi Lạc Việt của chúng ta. Và Trung Quốc vẫn đang làm điều đó dưới sự tiếp tay ngu dốt của ĐCS. Vậy nên, tình hình của chúng ta nguy cấp hơn so với các quốc gia khác. Quý vị có thể nhìn thấy, Việt Nam thật sự đang đối mặt khó khăn hơn bất cứ quốc gia cộng sản nào, thế nhưng có thể nói tinh thần đấu tranh của người Việt Nam lại kém cỏi nhất. Bởi vì tầng lớp đáy tầng chiếm hơn 70% dân số nhưng kiến thức chính trị của họ rất thấp, bởi vì nghèo nàn làm họ phải bươn chải kiếm sống, lại thêm sự nhồi nhét đường lối của CS làm cho họ thờ ơ tìm hiểu về chính trị. Tầng lớp trung lưu trí thức chiếm tỷ lệ ít hơn (khoảng 20%) có tư tưởng tìm hiểu chính trị nhưng họ cũng chưa dứt khoát bày tỏ quan điểm của họ. Còn lại là đảng viên đảng CS. Việt Nam ví như con sóng ngầm dữ dội đang bị kiềm nén chứ không phải yên bình như bề ngoài giả tạo của nó. Những khó khăn là vậy, hiểu được nó để xác định được chúng ta cần làm gì là chính yếu, và làm như thế nào. Vạn sự điều có lối đi, mọi con đường đều sẽ đến La Mã. Muốn bớt gian nan thì tìm đường thuận lợi mà đi, không tìm được thì phải đi con đường khó khăn hơn, còn nếu không muốn đi thì mọi con đường sẽ đóng lại. Không có gì cao xa cả, vạn vật trong vũ trụ đều có quy luật vận hành của nó, quan trọng là thấy được nó, hiểu được nó và muốn đi theo sự vận hành của nó hay không là do chúng ta! January 26, 2019.” Bác sĩ Diệu Hằng
......

Phải chăng rủa sả là để tự vệ?

Cánh Cò -  RFA | Tượng đài Đức thánh Trần những ngày này bỗng dưng được người dân quan tâm đặc biệt sau sự cố “cẩu lư” vào ngày 17 tháng 2 vừa qua. Chưa bao giờ không gian mạng lại bận rộn chỉ tập trung vào một đề tài như thế. Mở ra bất cứ trang nào cũng thấy người chủ trang chăm chú nhìn vào việc này, nhất là sau khi nghe tin bà Nguyễn Thị Thu, Phó chủ tịch UBND thành phố qua đời ba ngày sau khi chiếc lư trước tượng đài bị câu đi. Trăm nơi như một, người ta hân hoan cho rằng bà Thu bị thánh thần xử phạt vì đã phạm vào tội bất kính với tiền nhân. Người ta vạch ra bằng chứng là trong tư cách là Phó chủ tịch phụ trách lĩnh vực văn hóa – xã hội bà Thu đã ký một văn bản “phạm thượng” cho phép di dời chiếc lư hương từ chỗ cũ của nó về đền thờ Đức Thánh Trần ở số 36 Võ Thị Sáu. Quyết định được bà Thu ký ngày 15 tháng 1 năm 2019 và một tháng sau thì bà qua đời. Có hàng ngàn nhận xét về hiện tượng này nhưng chung quy nhắm tới luật nhân quả cho người nào xem việc tàn phá văn hóa tâm linh hay báng bổ thần thánh đều bị trừng phạt. Sự trừng phạt ấy nếu xảy ra nhanh chóng như trường hợp bà Thu có lẽ là điều hiếm khi xảy ra, nhưng khi nó xảy ra thì niềm tin vào sự trừng phạt của thánh thần được nhân lên gấp bội, bất kể việc này chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người ta không muốn nghe hai từ ngẫu nhiên bởi sự tin tưởng vào thế giới huyền bí khó giải thích hơn là sự giải thích theo cách khoa học. Nhất là khi niềm tin ấy đính kèm lòng hả hê vì sự tàn bạo của một chính quyền chỉ biết tham lam phá hoại. Rất nhiều người dân không biết tại sao chính quyền có quyết định “cưỡng chế” chiếc lư hương trước tượng đài Trần Hưng Đạo tại sông Sài gòn. Họ không có khái niệm về việc chiếc lư hương được cho là vật giúp người có lòng dạ với đất nước trước họa diệt vong của Trung Quốc làm nơi lưu giữ chút hương khói dâng lên Đức Thánh Trần. Sự căm giận của người dân trong vụ này được bộc lộ. Họ không thù oán hay có định kiến với bà Nguyễn Thị Thu nhưng khi nghe tin bà chết là họ ùn ùn reo hò bằng những từ ngữ xúc xiểm tệ hại nhất. Phải chăng đó là dịp để người dân đánh trả thói quen xem thường dân chúng của chính quyền các cấp? Họ đã sống dưới sự kềm kẹp, chà đạp lẫn khinh bỉ quá lâu đủ để lòng căm giận chế độ lên men sau nhiều năm được ủ. Tâm lý hả hê không giấu giếm đã làm một số người bất mãn, cho rằng như vậy là tàn ác đối với người đã mất. Đáp lại sự lên án ấy là những câu chữ không kém phần thuyết phục. Bà Thu bị ghét bỏ như vậy vì chính tay bà đã ký một quyết định báng bổ thần thánh. Bất cứ vì lý do gì kể cả lý do chế độ lo sợ người biểu tình thì cũng phải suy xét cặn kẽ trước một quyết định mất lòng dân như vậy. Mạo phạm một hình tượng uy vũ như Trần Hưng Đạo không khác gì lấy cây thọc vào tượng Chúa hay bôi bẩn lên khuôn mặt Đức Phật Thích Ca. Nguồn cơn tại bà phụ trách văn hóa nhưng lại không hiểu chút gì về văn hóa tâm linh của người dân nên bà bị rủa sả. Nhưng xét cho cùng, văn hóa Việt Nam từ ngàn xưa vốn hiền lành, tha thứ không chấp nê, sao lại đưa đẩy tới chốn thị phi nghiệt ngã như hôm nay, khi con người sẵn lòng nguyển rủa một người vừa nằm xuống chưa kịp tẩm liệm? Đây là câu hỏi mà đảng Cộng sản Việt Nam phải ngồi lại với nhau tìm câu trả lời thỏa đáng. Có phải vì họ đã quá hà khắc với dân để lòng căm thù ngày một lớn và vô phương hóa giải? Có phải vì họ xem dân là cỏ rác khiến lòng tự trọng của dân bị thương tổn tạo ra phản ứng trả thù đối với người đã chết? Có phải cứ là đảng viên là bị người dân căm ghét vì đảng đã lợi dụng quyền lực của mình để bao che cho những thành phần này khiến người dân trở thành thứ phẩm, chỉ biết tuân lệnh và không được phản ứng? Còn nhiều câu hỏi khác để giải mã cho phản ứng trả thù với xác chết nhưng câu trả lời dễ chấp nhận nhất là người dân phản ứng vì tự vệ. Họ đang dùng sự nguyền rủa đề cảnh tỉnh đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu còn tỉnh táo thì đảng phải ngay lập tức dừng lại mọi hành vi chà đạp người dân dưới bất cứ hình thức nào. Đừng nghĩ rằng họ không biết đảng đang đu giây với Trung Quốc nhằm tìm sự yên lành cho đảng bằng cách áp bức người yêu nước trước các hành vi sai trái, nhu nhược và hèn hạ mà đảng hành xử trong những năm qua. Nếu còn những suy nghĩ là đảng đủ mạnh để có thể làm bất cứ việc gì đảng muốn thì người dân cũng sẽ còn nhiều cơ hội để rủa sả ngay cả những kẻ chưa chết nhưng trái tim thì đã héo khô hai chữ Việt Nam. Sự nguyền rủa ở số ít thì có thể cho là tàn nhẫn, nhưng khi cả nước đã nguyền rủa  thì đảng nào sống sót cho nổi trước lòng căm thù tập thể của những con người cơ cực chịu đựng sự giày vò của một đảng cầm quyền trong suốt gần một thế kỷ?  
......

KHÔNG ĐƯỢC KHÓC

Nguyễn Thúy Hạnh Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, những cái tên đã đi vào lịch sử đình công của công nhân Việt Nam với hơn 10 ngàn người tham gia ở Trà Vinh năm 2010. Và tất yếu họ bị trừng phạt bởi nhà cầm quyền với tổng cộng 23 năm tù cho 3 người. Nhân sự kiện Nguyễn Hoàng Quốc Hùng người cuối cùng trong nhóm họ mãn hạn 9 năm tù cộng sản hôm nay, tôi nhớ lại một câu chuyện mà Minh Hạnh kể cho tôi khi mới ra tù. Minh Hạnh tham gia phong trào công nhân từ năm 18 tuổi, Chương và Hùng hơn Hạnh 4 tuổi. Họ coi nhau như anh em, ăn ở lăn lộn cùng công nhân để gây dựng phong trào, tâm hồn phơi phới niềm tin và nhiệt huyết. Giữa họ với nhau có một giao hẹn: “TRONG MỌI TÌNH HUỐNG KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC KHÓC”. Minh Hạnh và Quốc Hùng đã trở thành người yêu, chung một mối tình, lý tưởng, mối quan tâm. Rồi cuộc đình công nổ ra, cả ba anh em đều lần lượt bị bắt. Hai người anh muốn Minh Hạnh thoát, nhưng Minh Hạnh kiên quyết không đầu hàng, quyết chung lưng cùng các anh. Họ bị giam cách biệt nhau suốt 8 tháng cho đến khi ra toà. Hôm đó trên đường áp giải từ xe tù ra thì Hạnh gặp Hùng cũng bị áp giải qua đó. Thấy Hùng, Hạnh sững sờ mới đầu không nhận ra. Có ai ngờ Quốc to cao vạm vỡ trước kia giờ gầy như cái que. Xót xa thương Hùng quá, Hạnh đã bật khóc. Nhưng ngay lúc đó Hùng nghiêm mặt nhắc lại lời thề: “KHÔNG ĐƯỢC KHÓC”. Hạnh đã gần như ngất đi vì xúc động và thương Hùng, nhưng em đã không khóc nữa. Và sau đó là một phiên toà hào hùng của những người thanh niên quả cảm. Ba anh em đứa 9 năm, đứa 7 năm tù, không hề run sợ hối tiếc, không xin xỏ. Lúc tuyên án họ còn hát vang, tin tưởng vào ngày mai bóng tối sẽ bị xua tan. Vô cùng khâm phục và yêu quý ba anh em: Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh.
......

BẢN CHẤT

Đỗ Văn Ngà Công an vốn là một lực lượng chấp pháp, nhưng chính họ giờ đang trở thành một lực lượng đáng sợ nhất đối với nhân dân. Hiện nay, ngành này không còn muốn làm cho xã hội bình yên nữa, mà ngược lại, họ muốn xã hội bất an để họ kiếm chác. Cờ bạc nhiều thì họ có thêm thu nhập bảo kê, ma tuý nhiều thì họ có cơ hội khoe thành tích vv.. Mà bất nhân nhất là hiện tượng nuôi án khá phổ biến trong lực lượng này. Chấp pháp là nhiệm vụ của họ, nhưng chấp pháp thì lấy gì sống? Mà thi hành nhiệm vụ thì chỉ được nhận lương thôi, không thưởng gì cả, cho nên họ phải bảo kê tội phạm để mà sống. Điều đó cũng có nghĩa là họ đã đánh mất hoàn toàn hình ảnh bảo vệ an ninh cho dân. Họ là hiện thân của sự bất an. Như bài trước đã nói, công an Cộng Sản luôn nuôi án để nó mang lại cho họ nhiều cái lợi. Chưa có một xã hội nào công an lại thả cho xã hội bất an để hưởng lợi như Việt Nam. Rõ ràng nuôi án thì nó sẽ thúc đẩy tệ nạn ngày càng nghiêm trọng, tội ác ngày một man rợ hơn. Mà tệ nạn ngày một nghiêm trọng thì tiền chi cho công an làm nhiệm vụ bảo kê ngày một cao. Nghĩa là tệ nạn càng cao thì công an càng giàu. Chuyên bảo kê cho tệ nạn kiếm tiền chưa đủ, nay họ lại nhảy sang bảo kê cho BOT bẩn để kiếm tiền. Đốn mạt đến mức, họ trút bỏ quân phục, bịt khẩu trang kín mặt để bảo kê cho BOT bẩn như bọn đầu gấu chuyên nghiệp để kiếm chút tiền bẩn bỏ vào mồm. Vậy thì họ tìm đâu ra hình ảnh đẹp? Trong mắt nhân dân, hình ảnh chấp pháp của ngành công an không còn nữa. Giờ họ hoàn toàn bế tắc, không biết làm cách nào để lấy lại hình ảnh đơn giản ấy trong mắt nhân dân nữa. Chính vì thế nên họ đã bày ra đủ trò để tìm cách cứu vãn hình ảnh, nhưng thật thảm hại, họ bày ra bao nhiêu trò đều bị dân lật tẩy bấy nhiêu trò. Cho nên hình ảnh không những không được cứu vãn mà con bị rớt thảm hại. Không thực hiện nhiệm vụ mà họ lại lo tổ chức buổi đi nhặt rác rồi quay phim quảng bá hình ảnh. Màn kịch bị dân bóc mẽ, hình ảnh ngành rớt thê thảm. Như con bạc say máu, càng thua nó càng đánh đậm hơn nữa để gỡ, thì công an cũng thế, những màn kịch này bị thất bại thì họ dựng màn kịch khác để gỡ lại hình ảnh. Trò hề quét rác bị lật tẩy, họ lại tự dựng hình ảnh nhặt tiền trả lại người khác rồi quay phim chụp ảnh và nhờ hệ thống báo chí nô bộc tung hô. Nhưng thảm hại thay, họ lại bị dân lật tẩy, uy tín lại không những không cải thiện mà còn tụt dốc thảm hại hơn. Thực tế ngành công an quá thiếu vắng đạo đức và trách nhiệm, thì các lãnh đạo CS cũng khác sao? Cũng thiếu vắng nốt. Tham nhũng, bất tài, gian manh, độc ác, phá hoại vv.. Đấy là hình ảnh lãnh đạo CSVN. Giờ dân nhìn họ với một cặp mắt vừa khinh bỉ, vừa hận, vừa căm ghét. Chính vì thế họ cũng như công an, đang khác khao được xã hội thừa nhận họ như một người công chính. Họ rất cần, nên khi có một sự kiện nào là họ cũng muốn ăn theo để tỏ vẻ "có trách nhiệm với nhân dân". Khi Công an Điện Biên bắt 5 hung thủ vụ án cô gái giao gà đêm 30 tết, thì lập lức ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhảy vào ăn hôi hình ảnh này. Ông ta nhảy vào chỉ đạo thế này, chỉ đạo thế kia như là không có ông ta thì bộ máy nhà nước không làm gì được với vụ án này vậy. Mà nói thẳng ra, trong vụ trong án này, để xảy ra cảnh hiếp dâm giết người như vậy, tội của công an Điện Biên rất lớn, việc bắt 5 hung thủ là trách nhiệm họ phải làm chứ chẳng có công lao gì cả. Hình ảnh công an không truy tìm nạn nhân sớm để xảy ra hậu quả thương tâm này là một hình ảnh rất xấu của công an Đện Biên chứ chả đẹp đẽ gì, nhưng trong bối cũng chẳng có hình ảnh nào khá hơn, thì cả công an và thủ tướng đều giành giật cái hình ảnh ấy để phết lên khuôn mặt toàn lọ nghẹ của họ một vết sơn "đẹp". Rõ ràng trong ĐCS, hiện giờ đã khô cạn đạo đức con người và tinh thần trách nhiệm cũng vắng bóng. Thế nhưng họ lại không tự sửa tốt hơn để "hữu xạ tự nhiên hương" mà ngược lại, họ cố mót vét những hành động chấp pháp hiếm hoi để tô vẽ cho mình một hình ảnh lãnh đạo "vì dân" và "có trách nhiệm". Khổ nỗi trên khuôn mặt lãnh đạo nào cũng đen xì lọ nồi, họ cố chấm lên ấy một vài vết sơn sặc sỡ thì khuôn mặt cũng chẳng sáng hơn, mà ngược lại, nhìn nó lại còn lem luốc hơn cả màu đen của nhọ.  
......

‘Đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng’: Lại dối trá!

Lần đầu tiên kể từ khi Nhà nước Đức cáo buộc bị mật vụ Việt Nam sang tận Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017 và gây ra cơn địa chấn khủng hoảng ngoại giao quan hệ Đức - Việt, đến nay một ít tờ báo nhà nước Việt Nam mới dám hé lộ sự thật về ‘khôi phục quan hệ Việt - Đức’.   Tờ báo mà gần đây được xem là ‘thân đảng’ như Thanh Niên, với tựa đề “Đức muốn 'làm mới' quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam” - là một trong số tờ báo hiếm hoi trên mà có lẽ đã quá chán ngán cái cảnh ‘đảng và nhà nước ta’ phủ áo lên mặt cố che giấu một sự thật đã từ lâu rành rành trong dư luận xã hội.   Nhưng nhiều tờ báo đảng vẫn dối trá không biết liêm sỉ: “Đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng”, hay ‘Thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược với Đức’…   Vậy ‘đối tác chiến lược’ ấy thực chất ra sao?   2 tháng sau khi ra thông báo phản đối Việt Nam về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Nhà nước Đức đã tuyên bố tạm ngừng vô thời hạn vào tháng 9 năm 2017. Tháng tiếp theo, Đức hoãn thêm một hiệp định về miễn thị thực cho cán bộ Việt Nam đi công tác ở Đức. Cùng lúc , hàng loạt chương trình viện trợ kinh tế - xã hội của Đức cho Việt Nam cũng bị đình hoãn.   Hơn một năm rưỡi qua, trong lúc phía Việt Nam vẫn chưa chịu trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và ‘xin lỗi, cam kết không tái phạm’ về vụ này, quan hệ Đức - Việt đã hầu như đóng băng, khiến giá trị giao thương song phương giữa hai nước có phần sút giảm, đặc biệt là hàng Việt Nam khó khăn hơn khi vào thị trường Đức - thị trường mà nhờ đó hàng năm Việt Nam xuất siêu được đến 5 tỷ Euro.   Vào tháng 11 năm 2017, lần đầu tiên phía Đức bắn tiếng ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược’, cùng lúc với quá trình đàm phán vụ Trịnh Xuân Thanh tưởng đâu đã có lối ra. Nhưng sau đó phía Việt Nam lại ngậm miệng và tất cả chìm vào bóng tối.    Còn vào lần này, tháng 2 năm 2019 - lần đầu tiên mà cấp bộ trưởng ngoại giao như Phạm Bình Minh công cán đến Đức kể từ vụ khủng hoảng Trịnh Xuân Thanh, những điều kiện cho triển vọng phục hồi đối tác chiến lược đã không còn dễ thở như năm 2017.   “Trong thời gian qua đã có những khác biệt có thể nhận thấy rõ rệt giữa Đức và Việt Nam – đặc biệt là vì vụ bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh ở Berlin. Hôm nay chúng tôi đã trao đổi với nhau về việc chúng tôi có thể điều chỉnh lại mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức như thế nào và làm sao có thực chất trở lại. Theo quan điểm của chúng tôi, một quan hệ đối tác chiến lược cũng bao gồm sự tôn trọng các giá trị chung, đặc biệt là tôn trọng nhân quyền phổ quát” - một thông cáo báo chí cho biết như thế sau cuộc họp của Ngoại trưởng Đức Heiko Maas với Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tại Berlin.   Một từ ngữ đặc biệt mà Ngoại trưởng Đức Heiko Maas dùng là ‘điều chỉnh’ trong quan hệ đối tác chiến lược, nếu quan hệ này được phục hồi. Điều đó có nghĩa là sẽ có những thay đổi, thậm chí là thay đổi đáng kể về nội dung quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.   Hoàn toàn có thể hiểu rằng kể từ nay trở đi và chỉ sau khi Trịnh Xuân Thanh được trao trả lại cho Đức, quan hệ đối tác chiến lược mới được đàm phán lại, nhưng sẽ được bổ sung vào đó ít nhất nội dung nhân quyền.   Còn nếu chính quyền Việt Nam vẫn không chịu trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và không có bất kỳ cải thiện nào về nhân quyền, cái gọi là ‘đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng’ trên mặt báo đảng Việt Nam sẽ biến thành một vết đen đúa không cách nào tẩy xóa được khi quan hệ đối tác chiến lược này sẽ bị người Đức thẳng tay hủy bỏ.  
......

Đức Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ đang bị đe dọa ‘áp giải’ về Thái Bình?

 Một nguồn tin cho biết, trong những ngày tới đây, nhân dịp có một phái đoàn chư tăng của chùa Vĩnh Nghiêm đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ, sẽ có một vài nhân vật dân sự tháp tùng, và họ sẽ tìm mọi cách để ép đưa ngài Thích Quảng Độ về lại Thái Bình như một hình thức ‘an trí’ thời Pháp thuộc.   Kể từ khi Đức Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất rời quê nhà Thái Bình để về lại Sài Gòn vào cuối năm 2018, đến nay đã có ít nhất ba lần, vị Hòa thượng 91 tuổi này đã bị đe dọa ‘áp giải’ về lại Thái Bình. Chuẩn bị lần thứ tư đe dọa ‘áp giải’? Phật tử Diệu Thường kể rằng sau khi cô cháu gái của Đức Tăng thống đưa Ngài từ Thái Bình về lại Sài Gòn theo ý chỉ của Ngài, và chọn chùa Từ Hiếu ở quận 8 là nơi gửi trọn phần đời còn lại, thì cách đây hơn một tháng, ông Định – người cháu gọi Ngài theo thứ bậc dòng tộc là 'chú', đã đến tận chùa Từ Hiếu dự tính dùng vũ lực để ép Đức Tăng Thống về lại Thái Bình. Sau khi nghe Phật tử Diệu Thường thuật lại câu chuyện, Hòa thượng Thích Nguyên Lý, trụ trì chùa Từ Hiếu đã hỏi ý Đức Tăng Thống: “Ông Định, cháu của Ngài muốn đưa Ôn Ngài về lại Thái Bình, Ôn Ngài nghĩ sao?”. Ngài nói: “Tôi đã phải rời bỏ Thái Bình về đây vì ở đó tôi rất bất an, không sống nổi, giờ còn về lại đó làm gì? Đó là nhà của anh chị tôi năm xưa. Tôi là người tu thì phải ở chùa chứ sao lại ở nhà”. Đức Tăng thống ( X), Hòa thượng Thích Nguyên Lý (XX) cùng một số chư tăng chùa Từ Hiếu, mồng 1 Tết Kỷ Hợi. Vài hôm sau đó, trong lễ tang vị Hòa thượng trụ trì Thiền viện Thanh Minh, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, ông Định cùng 'nhóm người nào đó' tìm mọi cách để buộc Đức Tăng Thống rời chùa Từ Hiếu, bằng việc cho người đến cung thỉnh Đức Tăng Thống về Thiền viện Thanh Minh để làm chủ các nghi thức tang lễ, gọi là Trưởng ban lễ tang. Sau đó nhân cớ này sẽ tiếp tục đưa ngài về lại Thái Bình. Hòa thượng Thích Nguyên Lý nói rằng đó là buổi trưa ngày 18-01-2019, khi thỉnh Ôn Ngài đi viếng Hòa thượng Thanh Minh, Ngài bảo: “Tôi đã vào thăm Hòa thượng Thanh Minh trong bệnh viện Pháp Việt rồi, giờ tôi yếu không muốn đến chỗ đông người, tình nghĩa giữa chúng tôi như vậy là đã trọn vẹn lắm rồi”. Hòa thượng Thích Nguyên Lý kể về lần đe dọa thứ ba: “Chiều 18-01-2019, vợ chồng ông Định đến chùa xin gặp Ôn Ngài để mời Ngài về nhà đám giỗ bà nội. Tôi có kể lại việc hôm 17-01-2019 (12 tháng chạp) có thưa với Ôn Ngài về ngày giỗ của thân mẫu Ôn. Ngài nói: “Mẹ tôi qua đời đã lâu rồi, vả lại sau 49 ngày là mẹ tôi đã về cảnh giới của bà; đến ngày giỗ mẹ, tôi chỉ tưởng niệm trong tâm. Thầy chỉ cần hoa quả xôi chè tưởng niệm ngày mất của mẹ tôi là đủ. Còn ở gia đình các cháu muốn làm gì thì cứ tùy ý mà làm, sao cho thanh tịnh và đơn giản, cốt là tưởng nhớ ân đức của tổ tiên ông bà…”. Tôi không cho ông Định gặp Ôn Ngài, vì các lý do sau: thứ nhứt, ngày 11-01-2019, khi ông tới chùa , trước mặt Hòa thượng Quảng Độ và tôi, ông đã nhào tới đòi đánh cô Diệu Thân là người chăm sóc Ôn Ngài, khi cô ấy không muốn rời khỏi phòng khách. Cô Thiên Hương phải ra tay ngăn cản. Thứ hai, ngày 16-01-2019, khi tôi đang làm từ thiện ở Phú Yên, ông Định đã dẫn đoàn 7 người đến chùa Từ Hiếu mượn cớ thỉnh Ôn Ngài về Thanh Minh Thiền Viện thắp nhang cho Hòa thượng Thanh Minh, nhưng thực ra là sau đó ông áp giải Ôn Ngài về lại miền Bắc. Âm mưu này đã được một Phật tử cho hay trước khi phái đoàn của ông Định đến chùa Từ Hiếu. Vì vậy các Thầy trong chùa đóng cửa phòng Ôn Ngài theo lệnh của tôi điện về, không cho phái đoàn tiếp xúc Ôn Ngài. Ông Định đã đập phá cửa phòng ngay cầu thang phòng Ngài ở làm cho Ôn Ngài hốt hoảng bất an suốt ngày hôm đó. Thứ ba, ông Định đã gọi điện cho em gái ở Thái Bình tuyên bố sẽ “chém chết cô Diệu Thân rồi chấp nhận vô tù”. Vì ba lý do trên, từ nay tôi không cho ông gặp Ôn Ngài. Sau đó, ông Định bước ra sân la lối và dọa sẽ kiện thầy Nguyên Lý ra tòa”. Một nguồn tin được xác nhận, vào tối ngày rằm tháng Giêng Kỷ Hợi, từ Thái Bình, ông Định đã quay trở lại Sài Gòn với toan tính sẽ cùng đoàn chư tăng chùa Vĩnh Nghiêm đến thỉnh an Đức Tăng thống trong vài ngày tới. Liệu đây sẽ là lần đe dọa thứ tư cho ‘áp giải’ Đức Tăng thống về lại Thái Bình? Hòa thượng Thích Quảng Độ: biểu tượng của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Với nhiều người dân miền Nam, Hòa thượng Thích Quảng Độ là biểu tượng của một nhà hoạt động vì quyền tự do tôn giáo. Sau tháng 4 năm 1975, Hòa thượng được chính quyền Hà Nội xem là một nhân vật bất đồng chính kiến cần phải cô lập. Ngài đã trải qua nhiều năm tháng tù đày, sách nhiễu. Ngài nhiều lần được chính giới quốc tế đề cử giải Nobel Hòa Bình vì đã dành cả cuộc đời tranh đấu bất bạo động cho công lý, hoà bình, nhân quyền, dân chủ. Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto vinh danh các nhà hoạt động nhân quyền năm 2006. Cùng năm, Ngài được nhận giải Can Đảm vì Dân Chủ do Phong Trào Dân Chủ Thế Giới trao tặng. Trước đó, năm 2003, Ngài từng lãnh giải thưởng nhân quyền quốc tế Homo Homini cùng với  Hòa thượng Thích Huyền Quang và linh mục Nguyễn Văn Lý. Năm 1995, Ngài bị bắt giam và bị phạt 5 năm tù và 5 năm quản chế với cáo buộc “phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”. Dưới áp lực của Hoa Kỳ, Ngài được trả tự do năm 1998 và đến tá túc tại Thanh Minh Thiền viện, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, trong tình trạng bị quản thúc dài hạn. Giữa tháng chín năm ngoái, Ngài bị buộc phải hồi hương quê nhà Thái Bình, nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó, Ngài đã quay lại Sài Gòn. Hòa thượng Thích Quảng Độ từng là giảng sư đại học, một nhà văn, một dịch giả với một kho tác phẩm rất đáng kính nể: Kinh Mục Liên Sám Pháp; Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân; Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962 (truyện dịch từ Hán văn của Tinh Vân); Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962 (truyện); Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964; Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận; Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận; Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận; Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập); Phật Quang Đại Từ điển (9 tập); Chiến tranh và bất bạo động; Thơ trong tù (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 Mậu Ngọ); Thơ lưu đày (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến tháng 2 năm Nhâm Thân)…  
......

Đảng CSVN: Cái mụn nhọt cuối cùng!

Việt Tân Trước và sau Công Nguyên, gần như toàn cõi Châu Âu nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc La Mã, một đế quốc kéo dài cả chục thế kỷ và bao trùm khoảng một phần năm (1/5) diện tích thế giới. Sức mạnh quân sự, và ngay cả nền văn minh La Mã thời bấy giờ bao trùm cả một cõi. Gót giày của những đoàn quân La Mã, với thiên tài điều binh của các danh tướng sẵn sàng dẫm nát bất cứ một sự kháng cự nào. Một đế quốc hùng mạnh và vĩ đại như vậy, tưởng chừng như không gì có thể lay chuyển được, nhưng rồi cũng sụp đổ. Khoảng 6 thế kỷ sau, tại Á Châu, xuất hiện một đế quốc khác là Đế Quốc Mông Cổ, kéo dài hơn 1 thế kỷ (thứ 13 và 14) với diện tích rộng lớn gấp 4 lần Đế Quốc La Mã. Người Mông Cổ là dân du mục, cả đời ngồi trên lưng ngựa, và quân đội hùng mạnh, đánh đâu thắng đó khiến người đời gán cho họ câu nói nổi tiếng là “Quân Mông Cổ bách chiến bách thắng, vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó.” Một đế quốc vĩ đại và hùng mạnh như vậy, tưởng chừng như không gì có thể lay chuyển được, rồi cũng sụp đổ. Đầu thế kỷ 20 lại xuất hiện một “đế quốc” mới. Đó là “Đế Quốc Cộng Sản”! Bản chất của “đế quốc” này rất đặc biệt, khác xa với những đế quốc trước đó. Tuy không mang quân đi chinh phạt và chiếm đất nhưng thực tế lại chiếm được nhiều đất và làm chết nhiều người gấp cả trăm lần các đế quốc trước đó. Vũ khí của họ là sự tàn bạo kết hợp với dối trá, biến cả thế giới cộng sản thành một địa ngục trần gian. Nhưng, một lần nữa, đế quốc đỏ này tưởng chừng như có sức mạnh vĩnh cửu, nhưng lại mau chóng sụp đổ không đầy một thế kỷ sau đó. Nếu ngày xưa nước Việt Nam may mắn vì ở xa không nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc La Mã. Và nhất là ngày xưa, nhờ tiền nhân với các anh thư anh hùng tài giỏi yêu nước thương dân mà Việt Nam đã không nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc Mông Cổ. Thì Việt Nam ngày nay, với những hậu duệ vong bản đớn hèn, vừa tham lam vừa tàn bạo, bán nước buôn dân, đã đưa cả đất nước vào vòng thống trị của Đế Quốc Cộng Sản, đến nay đã gần 1 thế kỷ và làm hao tổn sinh mạng của nhiều triệu con dân vì mớ chủ nghiã hão huyền của nó. Nhắc lại 3 cái đế quốc ở trên là để nói đến cái điểm chung của chúng. Đó là lòng tham của con người, được nuôi dưỡng trong những bộ óc hoang tưởng tự đại, gặp lúc gặp thời sinh ra những đế quốc giết người, chỉ để phục vụ cho lòng tham, lợi ích của một số cá nhân và đi ngược lại quyền lợi của nhân loại với bao nhiêu tỉ con người. Theo số liệu của (Tổ Chức Tưởng Nhớ Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation), thì đã có hơn 100 triệu (riêng Trung Cộng 65 triệu, Liên Xô 30 triệu) người chết vì bị Cộng Sản giết hại qua đấu tố, thanh trừng, giết trực tiếp, thủ tiêu, đói chết… không kể hàng bao nhiêu triệu người khác chết trong những cuộc chiến do chủ nghiã cộng sản gây ra. Thật khủng khiếp và kinh hoàng! Julius Caesar, nhà chính trị và quân sự đại tài và nổi tiếng nhất của Đế Quốc La Mã, sau một chiến thắng quân sự đã cao hứng để lại cho đời một phát ngôn nổi tiếng: “Veni, vidi, vici” có nghiã là “Tôi đến, tôi thấy, tôi chinh phục”. Cho dù câu nói của Caesar có chứng tỏ tài năng của Caesar cách mấy thì đó cũng chỉ là của Caesar, chẳng ích lợi gì cho ai. Khi toàn thể đất nước Việt Nam rơi vào vòng thống trị của cộng sản thì cũng đã có nhiều con tim yêu nước, ngay từ trong quốc nội cũng như từ khắp các nẻo đường thế giới hải ngoại cất bước lên đường. Họ “đã đến, đã thấy”. Họ không đến để chinh phục với tham vọng dựng nên một đế quốc. Họ lên đường đơn giản chỉ vì tấm lòng yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương. Họ đến với ước vọng đập tan đi cái đế quốc đang nghiền nát cuộc sống và cướp đi sinh mạng của hàng triệu triệu đồng bào thương yêu của họ. Rất nhiều người đã nằm xuống, nhiều người khác vẫn đang quằn quại trong lao tù khổ ải. Đó là những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, những Nguyễn Văn Lý, Thích Quảng Độ, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Thị Nga, Lê Đình Lượng, … và rất nhiều những anh hùng anh thư khác thời nay. Họ là những viên đá lót đường cho những người kế tiếp bước đi vì tương lai dân tộc đã rất gần. Noi gương những người đi trước, Châu Văn Khảm cũng đã lên đường để góp phần bé nhỏ của mình cho công cuộc chung. Anh cũng “đã đến”! Nhưng Châu Văn Khảm không cần phải đến tận nơi để “thấy” vì bản thân là một người tị nạn vượt thoát chế độ Anh thừa hiểu rõ thế nào là “độc lập”, thế nào là “tự do dân chủ”, và thế nào là “nhân quyền” của cộng sản. Anh đến là để hoà mình cùng những người con yêu khác của Tổ Quốc và để nói cho đồng bào của Anh, cho cả thế giới, và cho những người cộng sản biết rằng qua việc bắt giam cá nhân Anh, chính những người cộng sản là những người đang sợ và ngày tàn của chế độ đang được đếm từng ngày. Người ta vẫn nói là “cộng sản chỉ phá thì giỏi”! Xem ra rất đúng! Cộng sản không chỉ còn phá đất nước, phá đối phương, mà phá cả chính họ với hàng loạt những lỗi lầm chết người, khi liên tục tự bắn vào chân mình. Người Việt Nam đang sống những ngày tháng cuối cùng của cái đế quốc thối nát này và sắp chứng kiến sự sụp đổ toàn diện của nó tại Việt Nam. Lịch sử cho thấy bất cứ cường quyền nào cũng sụp đổ, khi dân tộc đó đứng dậy. Vì thế, ta có thể ví đảng CSVN cũng chỉ là cái mụn nhọt cuối cùng trên thân thể Việt Nam mà những người Việt Nam yêu nước đang nỗ lực cắt bỏ.
......

Dân biểu Úc Luke Donnellan: Ông Châu Văn Khảm và Ông Nguyễn Văn Viễn phải được trả tự do

Việt Tân Thêm một tiếng nói từ chính trường Úc đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn. Dân Biểu Luke Donnellan là một chính trị gia thuộc Đảng Lao Động Tiểu Bang Victoria, Úc Châu, và là một gương mặt quen thuộc đối với cộng đồng người Việt tại Úc Châu nói chung. Ông luôn quan tâm về tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN và luôn lên tiếng can thiệp khi cần. Trước đây cá nhân Ông đã từng đến Việt Nam để tìm hiểu và tự trải nghiệm về tình trạng đàn áp dân chủ, bóp nghẹt tự do phát biểu của nhà cầm quyền CSVN. Nay, một lần nữa, Ông lại lên tiếng về việc ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn bị bắt giam phi pháp qua việc gửi thư cho Chủ Tịch Nước CHXHCN Việt Nam là ông Nguyễn Phú Trọng đòi Việt Nam phải trả tự do tức khắc cho hai nhà hoạt động nhân quyền này. Dưới đây, chúng tôi xin gửi đến quý vị bản dịch và phóng ảnh lá thư của Dân Biểu Luke Donnellan — Kính gởi: Chủ Tịch Nước Việt Nam Ông Nguyễn Phú Trọng 16 Đường Lê Hồng Phong Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam Ngày 14/2/2019 Thưa Ông Nguyễn Phú Trọng V/V: MỘT ĐẢNG VIÊN ĐẢNG VIỆT TÂN TẠI ÚC CHÂU BỊ GIAM GIỮ Ở VIỆT NAM Tôi viết thư này liên quan đến ông Châu Văn Khảm, một công dân Úc Đại Lợi, và là một thành viên nổi tiếng của cộng đồng người Việt tại Sydney. Tôi được biết ông Châu Văn Khảm đã bị bắt giữ vào ngày 13/1/2019 khi tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Viễn, một công dân Việt Nam và thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ. Đến nay, đã hơn 2 tuần lễ, ông Khảm đã hoàn toàn bị mất liên lạc và không được tiếp xúc với Lãnh Sự Quán Úc cũng như ông Nguyễn Văn Viễn. Ông Châu Văn Khảm từ lâu đã là một nhà hoạt động dân chủ, làm việc cùng với xã hội dân sự tại Việt Nam cũng như vận động nhân quyền với chính giới tại Canberra. Gần đây, vào đầu tháng Giêng, qua ngả Cao Miên, Ông trở về Việt Nam trong một chuyến đi tìm hiểu về nhân quyền. Đảng Việt Tân và gia đình ông Châu Văn Khảm có liên lạc chặt chẽ với Bộ Ngoại Giao và các Dân Biểu Quốc Hội Úc, và tôi kêu gọi việc trả tự do tức khắc cho ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn. Trân trọng, Luke A Donnellan MP Dân Biểu vùng Narre Warren North Bộ Trưởng Bộ Bảo Vệ Trẻ Em Bộ Trưởng Bộ Khiếm Tật, Cao Niên & Người Chăm Sóc. — Phóng ảnh bức thư của DB Luke Donnellan:
......

Dân Biểu Liên Bang Úc Châu Anne Aly lên tiếng đòi tự do cho ông Châu Văn Khảm

Việt Tân   “Ông Châu Văn Khảm phải được trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện” Việc nhà cầm quyền CSVN vô cớ bắt giam ông Châu Văn Khảm, một công dân Úc gốc Việt, một nhà hoạt động dân chủ ôn hoà, tiếp tục dấy động sự bất bình của dư luận tại Úc Châu và cộng đồng người Việt khắp nơi. Tiếp tiếng nói của một số chính trị gia Úc, Tiến Sĩ Anne Aly, một dân biểu Quốc Hội Liên Bang Úc Châu, vừa gửi thư cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Úc là Thượng Nghị Sĩ Marise Payne để yêu cầu nước Úc can thiệp để bảo đảm sức khoẻ và sự an toàn của ông Khảm, và đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải lập tức trả tự do vô điều kiện cho ông Khảm. Tiến Sĩ Anne Aly là nữ dân biểu Quốc Hội Liên Bang Úc Châu đầu tiên theo Đạo Hồi. Bà cũng là một chuyên gia từng làm việc trong lãnh vực chống khủng bố. Dưới đây là thư của Tiến Sĩ Anne ALy. BBT Web Việt Tân * Tiến Sĩ Anne Aly Dân Biểu Liên Bang địa hạt Cowan Kính gửi Thượng Nghị Sĩ Marise Payne Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao PO Box 6100 Senate, Parliament CANBERRA ACT 2600 VỀ VIỆC: CÔNG DÂN ÚC BỊ GIAM GIỮ TẠI VIỆT NAM Tôi viết thư để bày tỏ mối quan tâm của tôi về tình hình của ông Châu, một công dân Úc hiện đang bị giam giữ tại Việt Nam. Tôi đã được một thành viên của Việt Tân thông báo rằng ông Châu − năm nay 69 tuổi − là một người đấu tranh cho dân chủ, đã bị bắt tại Sài Gòn vào ngày 13/1/2019 và các điều kiện giam giữ có thể đang ảnh hưởng đến sức khỏe của ông. Ông Châu đã bị bắt trong khi gặp một nhà hoạt động xã hội dân sự Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cáo buộc ông ta đã phạm tội và vì thế ông đã không được phép tiếp xúc với luật sư. Tôi cảm thông với những lo lắng của gia đình ông Châu về các vấn đề sức khỏe của ông trong thời gian bị giam giữ này. Chính vì thế, tôi mong bà − trong phạm vi có thể − quan tâm đến những việc như sau: − những hành động mà Bộ Ngoại giao và Thương mại (DFAT) đang thực hiện để bảo đảm việc trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho ông Châu. − những hành động mà DFAT đang thực hiện để bảo đảm sức khỏe và quyền lợi cho ông Châu trong thời gian bị giam giữ. − rộng hơn, những hành động mà chính phủ Úc đang thực hiện để bảo đảm sự an toàn và sức khỏe của tất cả công dân Úc tại Việt Nam. Tôi ước mong bà dành thời gian để xem xét vấn đề này và mong chờ phản hồi của Bộ Trưởng. Trân trọng Tiến Sĩ Anne Aly Dân Biểu Liên Bang 19/2/2019 * Lá thư của Dân Biểu Anne bằng Anh ngữ: Dr Anne Aly MP Federal Member for Cowan Shop 3 168 Wanneroo Road Madeley WA 6065 PO Box 219 Kingsway WA 6065 T: (08) 9409 4517 Senator the Hon Marise Payne Minister for Foreign Affairs PO Box 6100 Senate, Parliament House CANBERRA ACT 2600 Dear Minister RE: AUSTRALIAN CITIZEN DETAINED IN VIETNAM I am writing to express my concerns about the situation of Mr Chau Van Kham, an Australian citizen who is currently detained in Vietnam. I have been advised by members of Viet Tan that Mr Chau, a 69-year-old democracy advocate, was arrested in Saigon on 13 January 2019 and that the conditions of his detention may not adequately address his health concerns. I understand that Mr Chau was arrested while meeting with a Vietnamese civil society activist, and has subsequently been denied access to legal representation due to the nature of the crimes that the Vietnamese Government alleges he has committed. I further understand that Mr Chau’s family has concerns about whether his health issues can be adequately managed during this period of detention. With this in mind, I request that you advise, to the extent possible, as to: the actions that the Department of Foreign Affairs and Trade (DFAT) is taking to secure the immediate and unconditional release of Mr Chau; the actions that DFAT is taking to ensure Mr Chau’s health and wellbeing during his detention; and more broadly, the actions that the Australian Government is taking to ensure the safety and health of all Australian citizens in Vietnam. I appreciate your taking the time to consider this matter and look forward to your response. Yours sincerely Dr Anne Aly MP Federal Member for Cowan 19 FEB ZUS
......

Chính quyền Tp HCM phải trả lư hương về vị trí cũ

Nguyễn Tường Thụy - RFA Không phải ngẫu nhiên mà vào đúng ngày kỷ niệm 40 năm Trung Cộng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam, Quận 1 Tp HCM cho xe rác vây quanh tượng đài Trần Hưng Đạo ở phường Bến Nghé, sực mùi xú uế, dùng vật chắn, dây dợ vây quanh tượng đài, đặt biển báo công trường đang thi công để ngăn chặn người dân đến thắp hương. Sự phẫn nộ của dư luận đang dâng lên từng giờ thì táo tợn hơn, cùng ngày, quận này lại cho cẩu lư hương đi chỗ khác, đẩy sự giận dữ trong công chúng lên ngùn ngụt. Mọi lời giải thích từ nhà chức trách Quận 1 không có lý do nào thuyết phục, rằng đặt lư hương ở nơi công cộng không phù hợp với tâm linh của người Việt, rằng cẩu đi để đặt lư hương vào đúng vị trí thờ phụng. Ngay lập tức, cư dân mạng không khó để tìm ra rất nhiều tượng đài kèm lư hương đặt ở nhiều nơi. Đó là Tượng đài Trần Hưng Đạo ở Nha Trang, Quy Nhơn, Vũng Tàu, đảo Nam Yết, đảo Song Tử Tây, Hải Dương. Tượng Hồ Chí Minh kèm lư hương còn nhiều hơn, hầu như tỉnh thành nào cũng có. Có người chỉ nhoằng một cái đã kê ra ảnh một loạt tượng đài Hồ Chí Minh kèm lư hương ở Công an tỉnh Ninh Bình, ở quảng trường TP. Cam Ranh, TP Vũng Tàu, ở khuôn viên Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội, ở Kho 205 Bộ Quốc phòng... Xin hỏi lãnh đạo Tp HCM và Quận 1, phải chăng, những lư hương kèm theo các tượng đài này đều đặt không phù hợp và cần di dời? Phải chăng, lư hương trước những tượng đài như thế này đặt không đúng vị trí, cần phải di dời? Từ khi xây dựng năm 1967 đến nay, tượng đài Trần Hưng Đạo nói trên đã trở thành thiêng liêng, gắn với tâm linh người dân Sài Gòn, là biểu tượng cho tinh thần chống ngoại xâm của cha ông ta. Thế mà chỉ có vài người mà dám bàn nhau cẩu lư hương đi như thể mang đi một thứ đồ gốm. Đây là một sự hỗn láo, xấc xược với tiền nhân, không thể dung thứ. * Có thật là tượng đài Trần Hưng Đạo đặt không đúng chỗ nên phải di dời cho đúng vị trí? Trước ngày 17/2, Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng thông báo sẽ đến tượng đài Trần Hưng Đạo thắp hương tưởng niệm liệt sĩ đã hy sinh trong chiến đấu chống quân TQ xâm lược nhân kỷ niệm 40 năm chiến tranh Trung - Việt. Ngày 17/2, nhiều người trong Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng bị canh giữ không cho đến nơi tưởng niệm, một số người đến được tượng đài lập tức bị áp giải trở về. Nơi đây cũng là địa điểm mà các tổ chức xã hội dân sự thường đến thắp hương tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Cộng hàng năm hoặc làm nơi hẹn mỗi khi kêu gọi biểu tình. Vì vậy, có thể khu vực tượng đài Trần Hưng Đạo có ấn tượng không thiện cảm đối với nhà cầm quyền. Việc dỡ bỏ lư hương phải chăng xuất phát từ việc ngăn chặn bọn “phản động” đến thắp hương cho liệt sĩ chống Tàu và cha ông đã từng đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, làm mếch lòng anh bạn vàng Trung Quốc? Phải chăng, do Trần Hưng Đạo là vị tướng tài ba lỗi lạc, đã từng đánh cho quân Nguyên không còn mảnh giáp, Thoát Hoan phải chui ống đồng tháo chạy, để lại nỗi nhục nhã muôn đời cho kẻ thù xâm lược? Luận điệu cẩu lư hương đi để đưa về đúng vị trí thờ phụng là không thể chấp nhận. Có phải hàng trăm lư hương đặt kèm tượng đài ở khắp nơi đều “không phù hợp” cần phải dỡ bỏ đưa về “đúng vị trí”? Có người còn lo rồi đây, các quận huyện khác học theo quận 1, các tỉnh thành khác học theo Tp HCM dẫn đến một cuộc càn quét lư hương ở các tượng đài nơi công cộng. Liên quan đến việc cẩu lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo, một trang báo cho biết, “ngày 15-1-2019, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thị Thu đã có văn bản giao UBND quận 1 thực hiện việc tu sửa, tôn tạo công trình tượng đài Trần Hưng Đạo và tượng đài Thánh Gióng".  Hôm nay, sau 3 ngày văn bản này được thực thi, báo chí đồng loạt đưa tin bà Nguyễn Thị Thu từ trần. Dư luận đang xôn xao cho rằng 2 sự việc có liên quan đến nhau, là hậu quả của việc báng bổ thánh thần. Tôi không khẳng định trường hợp này nhưng tin rằng quả báo là có thật. Lựa chọn khôn ngoan nhất cho chính quyền quận 1 và Tp HCM là xin lỗi nhân dân, trả lư hương về vị trí cũ và thắp hương ăn năn trước Đức Thánh Trần./.
......

Cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979: Tội ác của đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc

Nguyễn Văn Đài – RFA Khi xem xét và nghiên cứu các tài liệu lịch sử thì cho chúng ta thấy rất rõ ràng là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc kể từ năm 1950 cho tới nay về bản chất cũng như thực chất là quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ). Và cuộc xâm lược biên giới phía Bắc của Việt Nam vào năm 1979 thực chất là cuộc chiến tranh giữa đảng CSVN và đảng CSTQ, mà Nhân dân và bộ đội của hai nước vừa là công cụ và là nạn nhân của sự điên rồ của hai đảng CSVN và CSTQ. Lúc đó bộ máy tuyên truyền của CSVN gọi CSTQ là bọn bành trướng, bá quyền. Còn CSTQ gọi CSVN là bọn tiểu bá vì lúc đó CSVN tấn công cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ). Tại sao tôi lại nói đó là cuộc chiến tranh giữa CSVN và CSTQ? Cả Việt Nam và Trung Quốc đều bị cai trị bởi sự độc đoán và chuyên quyền của đảng CSVN và đảng CSTQ. Nhân dân hai nước bị hai đảng CS tước đoạt tất cả các quyền tự do và dân chủ. Nhân dân hai nước không có quyền để tham gia lựa chọn hay quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như thể chế chính trị, kinh tế, quan hệ đối nội, đối ngoại, chiến tranh hay hòa bình,… Đảng CSVN và đảng CSTQ quyết định và định đoạt mọi công việc, mọi chính sách trong nước cũng như quan hệ quốc tế theo những cuồng vọng điên rồ của họ mà họ chẳng cần quan tâm đến sự an nguy hay mong muốn của Nhân dân. Nhân dân chỉ có nghĩa vụ phục tùng và làm theo. Ai phản đối hay chống đối thì bị vu cho là “phản động” và bị bắt cầm tù. Thời điểm đó giữa CS Liên Xô và CS Trung Quốc đã trở mặt từ bạn thành thù được gần 20 năm. Hai đảng CSLX và CSTQ đang cạnh tranh ảnh hưởng gay gắt với nhau trên bình diện quốc tế. Khi đảng CSVN chọn CS Liên Xô làm bạn, và coi đảng CSTQ là kẻ thù. Đảng CSVN quyết định dùng quân đội tấn công CS Campuchia đã tạo nên một phần lý do dẫn tới việc đảng CSTQ dùng quân đội xâm lược Việt Nam. Và theo tuyên truyền của đảng CSTQ và cũng là thực chất của cuộc chiến đó là “đảng CSTQ dạy cho bọn tiểu bá CSVN một bài học.” Và hiển nhiên Nhân dân và đất nước Việt Nam trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của bài học mà đảng CSTQ muốn dạy đảng CSVN. Hậu quả của cuộc chiến tranh ngắn ngủi đó là khoảng 30 ngàn dân thường và binh lính Việt Nam thiệt mạng, tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn, cơ sở hạ tầng của 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam bị phá hủy hoàn toàn. Chưa kể trong hơn 10 năm CSVN chiếm đóng tại Campuchia, đã có khoảng 200 ngàn binh lính Việt Nam hy sinh tại đó, hàng trăm ngàn binh lính bị thương tật vĩnh viễn. Nền kinh tế và nguồn lực của Việt Nam bị vắt kiệt trong suốt thời kỳ đó. Nhân dân đói khổ lầm than. Trong các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, tất cả đều do mâu thuẫn giữa các đảng CSVN với đảng CSTQ. Rất nhiều các cựu quan chức ngoại giao của CSVN và các nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra nhận định rằng đất nước và Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể tránh được cả hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc nếu sau 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản VN lúc đó không ngông cuồng và ngạo mạn, đồng thời lựa chọn cho đất nước và dân tộc Việt Nam một thể chế chính trị dân chủ và có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp với phương Tây. Nhưng bản chất của CSVN là vậy, dùng bạo lực để cướp chính quyền bằng mọi giá, khi đã cướp được chính quyền thì tước đoạt mọi quyền lực của Nhân dân và áp đặt sự cai trị chuyên chế, tiêu diệt và triệt tiêu mọi thành phần đối kháng trong xã hội. Để kết thúc bài viết này, một lần nữa tôi khẳng định rằng cuộc xâm lược của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam năm 1979 thực chất là cuộc chiến của đảng CSVN và đảng CSTQ. Trong đó quân đội và Nhân dân hai nước vừa là công cụ vừa là nạn nhân của cuộc chiến tranh đó. Những mất mát, hy sinh của quân đội và Nhân dân hai nước là do tội ác của đảng Cộng sản VN và đảng CSTQ gây ra./.  
......

Việt Nam “ghim” Đài Á Châu Tự Do

Libby Liu - The Wall Street Journal Việt Nam đang thắt chặt sự kiểm soát những người bất đồng chính kiến và nhắm vào các ký giả. Khi tới Hà Nội vào tuần tới để họp thượng đỉnh với Lãnh Tụ Bắc Hàn, Tổng Thống Trump cần nêu lên với gia chủ về số phận của hai ký giả người Việt đang cộng tác với Đài Á Châu Tự Do (RFA), là một cơ quan truyền thông được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, do tôi điều hành. Blogger nổi tiếng Trương Duy Nhất đã mất tích từ hơn 3 tuần nay kể từ ngày ông ta rời nhà ở Đà Nẵng, Việt Nam, đào thoát sang tị nạn tại nước láng giềng Thái Lan. Chúng tôi quan ngại rằng ông Nhất đã bị bắt cóc mang về Việt Nam để giam giữ và tra hỏi. Ông Nhất, 55 tuổi, đã từng bị nhà nước chú ý. Ông bị bắt vào năm 2013 và đã ở tù 2 năm vì những bài viết chỉ trích các lãnh đạo Đảng Cộng Sản cầm quyền. Khi được thả vào năm 2015 Ông bắt đầu cộng tác với Đài Á Châu Tự Do, phát thanh và phổ biến qua 9 ngôn ngữ đến 6 quốc gia Á Châu nơi thiếu tự do phát biểu. Theo những nhà hoạt động dân chủ Việt Nam thì ông Nhất đã lo ngại là bị các nhân viên an ninh Việt Nam theo dõi vì nghi ngờ ông Nhất nắm giữ thông tin bất lợi đối với Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc. Nguồn tin cho biết ông Nhất đã xin tị nạn vào ngày 25/1 với Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Bangkok. Tuy nhiên, chính phủ Thái Lan nói họ không có hồ sơ liên quan đến việc ông Nhất vào Thái Lan, và ông Nhất biệt tăm kể từ ngày 26/1. “Không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam giữ im lặng liên quan đến trường hợp này. Việt Nam đang giam giữ nhiều tù nhân chính trị”, ông Nguyễn Kim Bình thuộc Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại California nói. “Một trong những tù nhân là ông Nguyễn Văn Hoá thuộc Đài Á Châu Tự Do.” Ông Hoá, năm nay 23 tuổi, đã phá vỡ bức màn bưng bít thông tin vào năm 2016 khi tường trình về những cuộc biểu tình liên quan đến việc xả thải chất độc ô nhiễm. Ông Hoá bị bắt vào Tháng 1, 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống phá nhà nước” và bị tuyên án 7 năm tù giam mà hiện ông đang thụ án. Trong một lá thư ông Hoá đã tiết lộ với gia đình là Ông bị đánh đập liên tục trong tù và bị ép thú nhận những điều không có thật mà nhà cầm quyền Việt Nam dùng để kết tội một nhà hoạt động môi trường khác. Ông Hoá đã rút lại lời khai tại một phiên toà vào Tháng 8 vừa qua, việc làm có xác suất khiến ông phải chịu những đợt tra tấn mới. Một thông điệp mạnh mẽ từ ông Trump tại Hà Nội về số phận ngặt nghèo của các ký giả Đài Á Châu Tự Do kể trên sẽ là tiếng vang ở cả trong và ngoài Việt Nam. Đó là một thông điệp cần được nghe; chính phủ các quốc gia trong vùng đang sử dụng những phương thức trấn áp để hăm dọa chúng tôi. Đài Á Châu Tự Do đã phải đóng cửa Văn Phòng tại Cao Miên vào năm 2017 sau một đợt trấn áp giới truyền thông độc lập. Hai phóng viên của chúng tôi đã bị vu cáo tội gián điệp và đã bị tù giam 9 tháng với bản án vẫn còn treo trên đầu. Ở Trung Quốc, hàng mấy chục thân nhân gần của các phóng viên của Đài Á Châu Tự Do Dịch Vụ Duy Ngô Nhĩ hiện đang bị giam giữ trong các trại tại Xinjiang (Tân Cương), nơi chúng tôi đã làm phóng sự tường trình về tình trạng đàn áp người thiểu số Hồi Giáo. Trong bối cảnh u ám này, đây là cơ hội để ông Trump cho những quốc gia độc tài ở Châu Á biết là Hoa Kỳ sẽ bảo vệ quyền tự do truyền thông và bênh vực quyền tự do phát biểu. Bà Libby Liu là Chủ Tịch của Đài Á Châu Tự Do Nguyên bản Anh ngữ đăng trên The Wall Street Journal ngày 19/2/2019: https://www.wsj.com/articles/vietnam-takes-aim-at-radio-free-asia-11550619921  
......

Sổ tay thường dân Tưởng Năng Tiến – Đi & về

Việt Nam nuôi dưỡng các bạn thanh niên như người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn. Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam. (T.T. Nguyễn Xuân Phúc) Chiều về trên xứ lạ Cười nụ cười Anglais Buồn qua hơi thuốc Thái Thèm một phin cà phê Chiều về trên xứ lạ Xe ngược xuôi trăm đường Trăm ngàn khuôn mặt lạ Mong một người đồng hương Tôi viết những câu thơ trên khi đến thủ đô Bangkok lần đầu, vào một chiều hè, năm 1980. Mấy mươi năm sau tôi trở lại nơi này với nụ cười Anglais cố hữu nhưng thuốc lá Thái đã biến mất khỏi thị trường, và “người đồng hương” thì xuất hiện (hơi nhiều) khắp mọi nơi. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Lan (Học Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á – The Institute of Southeast Asian Studies) có hơn năm trăm ngàn lao động Việt Nam ở nước ngoài, trong số này khoảng 50 ngàn người đang làm việc tại Thái Lan. Phần lớn đều “làm chui,” và được gọi một cách lịch sự là những công nhân không có giấy tờ – undocumented workers. Họ lầm lũi đẩy những chiếc xe bán nước dừa, hay bán trái cây trên đường phố. Họ tất bật quét dọn, lau chùi, bưng bê trong những quán ăn bình dân chật chội và nóng bức. Họ nhễ nhại mồ hôi giữa những công trường bề bộn. Tất cả đều rất cần cù, nhẫn nại, chắt chiu và (vô cùng) chịu thương, chịu khó. Tuy thế, gần như không ai kiếm được quá năm trăm Mỹ Kim mỗi tháng nhưng ai cũng dành dụm phân nửa (hoặc hơn) số tiền nhỏ nhoi này để gửi về quê cho gia đình, hay chòm xóm, ở một làng quê nào đó thuộc Nghệ An hay Hà Tĩnh. Bên thủ đô Vientiane cũng thế, theo lời của thông tín viên (RFA) Anh Vũ: “Đất nước Lào nhỏ bé chỉ với 7 triệu dân, song lại là nơi có rất đông người Việt Nam tìm đến để cư trú và làm việc trong điều kiện là lao động bất hợp pháp… Hiện nay số người lao động VN sang Lào làm việc có khoảng chừng 40 ngàn. Họ thường làm các nghề trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất chế biến đồ gỗ, bán hàng rong, làm thuê, sửa xe …” Nhóm Phóng Viên Tường Trình Từ Việt Nam cho biết thêm: “Hầu hết những người trốn sang đất Lào để làm thuê đang độ tuổi lao động hoặc đang tuổi học sinh phổ thông trung học, nhiều em đã bỏ ngang việc học để tìm đường dây trốn sang Lào làm thuê… Hầu hết những người trốn sang đất Lào để làm thuê đang độ tuổi lao động hoặc đang tuổi học sinh phổ thông trung học, nhiều em đã bỏ ngang việc học để tìm đường dây trốn sang Lào làm thuê.” Tuần rồi, tôi tình cờ gặp gỡ một người đồng hương tại đền thờ Phap Tha Luan. Em mời mua kem nhưng khi thấy mặt tôi ngớ ra vì không hiểu tiếng Lào nên liền gặn hỏi: – Chú người Việt à? – Yes! Tuy tôi bất giác trả lời một cách ngớ ngẩn bằng tiếng Anh nhưng vẫn được đáp nhận bằng một nụ cười tươi vui, hớn hở. Thái độ thân thiện của em cũng khiến tôi cảm thấy ấm lòng, và nhẹ nhõm. Sau đôi ba câu thăm hỏi thân tình, sợ em bận bán hàng, tôi ngỏ ý mời em ăn tối để có dịp trò chuyện nhiều hơn. Phap Tha Luan, Vientiane 2019 Chúng tôi hẹn nhau ở quán ăn Việt Nam, Bê Thui Sài Gòn. Em đến rất đúng giờ cùng vợ với một bé trai. Quê hai em ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Chỉ sau một chuyến “tham quan” nước Lào là vợ chồng quyết định từ bỏ xứ Việt luôn. – Ở bên này thoải mái, và dễ chịu hơn nhiều chú ạ. Vì con chưa đến tuổi đến trường, cháu gái na thằng bé theo khi đi quanh quẩn cắt móng chân và móng tay dạo mỗi ngày trong Khu Chợ Sáng (Morning Market) trên đường Lane Xang. Cũng kiếm đủ tiền ăn và tiền trọ. Còn lợi tức nhờ bán kem thì dành dụm với dự tính sẽ thuê được một nơi tươm tất để mở tiệm làm móng tại nhà. Ước vọng gần nhất là cả nhà sẽ đi du lịch Myanmar một chuyến. Xa xôi hơn là giấc mơ lớn, khi có điều kiện, sẽ trở về quê hương để làm việc từ thiện ở những bản làng miền núi. Khi tôi hỏi sao không về luôn thì cả hai đều lắc đầu quầy quậy, với một nụ cười buồn. Tôi chưa bao giờ có cơ hội đặt chân đến Hải Phòng, chỉ được biết vài nhân vật nổi tiếng ở nơi đây vì những nỗi gian truân của họ với chế độ hiện hành: Vũ Cao Quận, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Thị Hoài Thanh, Lê Chí Quang, Phạm Thanh Nghiên, Lê Trí Tuệ, Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúi … Tuy thế, tôi tin là mình hiểu tâm cảm và quyết định của hai em vì chính tôi cũng rời bỏ đất nước khi tóc hãy còn xanh và chưa bao giờ trở lại. Chiều hôm sau tôi được mời cơm tại nhà, với thực đơn đặt sẵn: đậu phụ rán mỡ hành, rau muống luộc dầm cà chua, chấm với nước mắm chanh và ớt. Đó là những món thức ăn mà theo tôi là … ngon tuyệt cú mèo, nếu có chút rượu đi kèm. Hai thanh niên trong nhóm công nhân đến từ Thừa Thiên Huế làm phụ hồ tại công trường Đại học ChămPasack, bên Lào. Ảnh & chú thích lấy từ RFA Dù đã sống qua nhiều thứ trại ̣(trại lính, trại tù, trại tị nạn …) tôi vẫn cảm thấy hơi ái ngại khi bước vào nơi cư trú của đôi vợ chồng trẻ măng này. Cứ y như cảnh sống trong thơ của Lưu Quang Vũ: Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi Đêm nằm mơ, em quờ tay là chạm phải thùng gạo Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình Hai em giúp cho tôi hiểu và thêm tin tưởng rằng hạnh phúc hay đau khổ của chúng ta tuỳ thuộc rất nhiều vào nhận thức, và nhận thức luôn luôn là nhận thức về cái tương đối. Sinh sống như thế mà cả hai cứ suýt xoa mãi là mình may mắn, may là tìm được kế sinh nhai nơi xứ lạ và công việc lại không quá nặng nhọc. Mà sự thực thì đúng vậy nếu so với nhiều người đồng cảnh khác. Tính hồn nhiên và đôn hậu của hai em khiến tôi thốt nhớ đến tâm sự của một nhà văn, cũng từ Thành Phố Cảng: “Thế hệ nào cũng có người đáng yêu, tài năng, tâm huyết. Sự cảm thông giữa con người, giữa các thế hệ là rất lớn, là tuyệt đối. Sự cảm thông ấy vượt qua mọi khoảng cách địa lý, khoảng cách thời gian. Càng ngày tôi càng thấm thía bài học ấy. Nó làm tôi an tâm hơn khi tuổi già đang đến, khi tôi nghĩ đến lúc mình vĩnh biệt cõi đời này. Người xấu rất nhiều nhưng người tốt cũng rất nhiều. Không ai có thể tiêu diệt hết những người tốt trên đời. (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương, Fall Church, VA: 2014). Tôi tận tình chia sẻ với niềm tin lạc quan của tác giả đoạn văn thượng dẫn, và không khỏi phiền lòng khi vừa nghe kỳ vọng (hão huyền) của một vị lãnh đạo tối cao của đất nước (T.T. Nguyễn Xuân Phúc) như sau: “Việt Nam nuôi dưỡng các bạn thanh niên như người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn. Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam.” Ảnh internet Có người mẹ nào đủ nhẫn tâm đến độ đẩy cả bầy con cái vào con đường tha phương cầu thực, và còn khốn nạn đến nỗi mong mỏi chúng mang được cả “thế giới về” nhà. Tôi không tin rằng ông Phúc hoàn toàn không biết gì về hiện trạng thê thảm hiện nay của tuổi trẻ VN. Ông ấy chỉ tự dối mình, và dối người cho qua khỏi nhiệm kỳ thôi. Tưởng Năng Tiến Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
......

Buồn ngủ gặp chiếu manh

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân Giờ này năm ngoái, màn trao đổi qua lại bằng những “lời xỉ vả” hiếm có giữa hai lãnh đạo Mỹ và Bắc Hàn chung quanh các vụ thử hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân liên tiếp của Bình Nhưỡng, hoà bình thế giới có vẻ đang đứng trên bờ vực thẳm. Nhưng cuối cùng ngày 12/6/2018, Tổng thống Trump và Chủ tịch Kim Jong-un cũng được dàn xếp gặp nhau tay bắt mặt mừng ở Singapore để gọi là “xúc tiến hoà bình”. Cuộc họp được cả thế giới mong đợi, tưởng chừng hoà bình sắp ló dạng trên bán đảo Triều Tiên sau nhiều thập niên căng thẳng, dù cuộc chiến tranh Triều Tiên đã chấm dứt bằng một thoả hiệp ngưng bắn tạm thời từ năm 1953. Thế nhưng cuộc gặp gỡ của Trump và Kim ở Singapore đã không mang lại những kết quả như người ta trông chờ. Ngoài những lời trao đổi, hứa hẹn hào nhoáng, dư luận đánh giá đó chỉ là những màn kịch xã giao quốc tế mà phía sau còn ẩn chứa nhiều bất đồng sâu sắc. Khả năng biến những lời hứa hẹn giữa hai bên thành hiện thực tốt đẹp thật ra chỉ đáng khuyên con số không. Đầu năm 2019, tức gần 8 tháng trôi qua, sau những chuyến đi con thoi dàn xếp giữa Hoa Thịnh Đốn và Bình Nhưỡng của các viên chức cao cấp đôi bên, Tổng thống Trump loan báo cuộc gặp thượng đỉnh lần hai với lãnh tụ Kim Jong-un sẽ diễn ra tại Hà Nội, Việt Nam trong 2 ngày 27 và 28/2, thay vì Đà Nẵng như lời đồn đại trước đó. Tự dưng Hà Nội lại trở nên nổi tiếng. Việt Nam trở thành địa điểm tổ chức cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa hai nhân vật có vẻ như đang nắm chìa khoá của nền hoà bình thế giới. Hãy còn quá sớm để nói đến một kết quả nào đó mang tính thực chất, nhưng ít ra trên bề nổi sự kiện hai phía chấp nhận ngồi lại lần thứ hai là một tin tức đáng quan tâm. Trước hết, việc chọn Việt Nam để gặp nhau là điều dư luận chung có thể hiểu. Vì lẽ ngoài Singapore, ông Kim Chính Ân chỉ có thể đến Hà Nội hoặc Bắc Kinh là nơi tương đối an toàn cho tính mạng mình. Còn những địa điểm khác như Bangkok, Manila, Kuala Lumpur hay Tapei của các quốc gia Á Châu, không có thủ đô nào an toàn cho lãnh tụ Bắc Hàn. Mà nếu chọn Nga hay các quốc gia Âu Châu thì lại không tiện cho ông Trump và có thể ông Kim cũng không muốn cho lắm. Vì thế, Hà Nội là địa điểm dù không muốn hai người cũng phải đến, nếu không muốn ghé Tân Gia Ba một lần nữa. Nhưng từ lúc đầu, họ đã có dự tính gặp nhau ở Đà Nẵng vì đây là nơi thuận tiện nhất bàn chuyện riêng tư giữa Mỹ và Bắc Hàn. Đà Nẵng đã từng là địa điểm tổ chức Hội nghị APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương) tương đối suôn sẻ vào cuối năm 2017 mà ông Trump đã đến tham dự cùng với 20 lãnh đạo các quốc gia thành viên. Ngoài ra trong thâm tâm, Trump cũng nghĩ rằng tới Đà Nẵng lần này mình khỏi phải bận tâm chào hỏi xã giao các lãnh đạo Hà Nội. Nhưng cuối cùng, chính ông Kim lại muốn cuộc họp diễn ra tại Hà Nội, để có thể sau đó làm một chuyến công du Việt Nam. Không để cơ hội thượng đỉnh lần hai bất thành, ông Trump phải chìu theo ý Kim để thúc đẩy tiến trình hoà bình như mong muốn của cả hai bên. Đó là lý do cắt nghĩa vì sao nói Hà Nội đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Bởi vì ngay sau khi có tin Hà Nội được chọn làm địa điểm cho cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã vội vàng đăng đàn chỉ thị thành phố Hà Nội phải giúp tổ chức hội nghị thành công lớn. Tức là Hà Nội phải chịu chi ra nhiều triệu đô-la trong công tác tổ chức, vẽ vời hoa lá cành để có được một dịp chia chác lẫn nhau mà đáng lý ra Đà Nẵng được hưởng. Hà Nội phải vừa có tiếng vừa có miếng, mà phải là miếng ngon. Trong khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng vội nhào qua Bắc Triều Tiên gọi là thăm hữu nghị theo lời mời, cũng như với lý do để phối hợp chuẩn bị cho chuyến công du của lãnh tụ Kim. Trước đó Phạm Bình Minh còn khoe khoang lố bịch là để giúp Triều Tiên chuyển hóa nền kinh tế theo gương Việt Nam. Đúng là ngành ngoại giao cũng “tranh thủ” trước Ban Tuyên giáo, lợi dụng cơ hội để tuyên truyền đánh bóng mình. Chìm đắm trong nợ nần, kinh tế quốc doanh lụn bại trầm trọng, hoạt động công quyền thiếu hiệu quả, tình trạng nhân quyền bị chà đạp, nạn tham nhũng nằm ngay trong cơ quan chống tham nhũng thì Việt Nam còn mong gì để giúp Bắc Hàn chuyển hoá kinh tế? Hầu như dư luận đều có chung một cảm nhận là cuộc hội đàm tay đôi này rồi cũng chẳng đi tới đâu. Bởi người ta thấy ước mơ của Hoa Kỳ và Bắc Hàn vẫn còn là điều mơ ước của riêng hai nhà lãnh đạo, chứ không phải là một kế hoạch được tiến hành sau những bàn thảo hoặc có ủng hộ từ các quốc gia liên hệ trong vùng. Phi hạt nhân hoá bán đảo Triều Tiên khó trở thành hiện thực khi Tập Cận Bình vẫn còn đang ấp ủ “Giấc Mộng Trung Hoa”, vẫn muốn qua mặt Mỹ để lãnh đạo thế giới ngay trong thế kỷ 21 này. Vậy làm sao Tập có thể để Bắc Hàn tiến tới với Trump. Mặt khác, đối với Bắc Hàn, tham vọng hạt nhân của họ đã kéo dài từ đời ông đến đời cha mà mãi đến nay đời cháu Kim Chính Ân mới đạt được ước mơ. Với biết bao công sức, tiền của bỏ ra, Bắc Hàn không dễ gì từ bỏ tham vọng của mình khi đã bắt đầu đặt chân được vào ngôi nhà của những quốc gia sở hữu vũ khí nguyên tử. Nếu không đạt được những điều kiện thuận lợi và có sự bảo đảm minh bạch sự sống còn cốt lõi của đất nước từ Mỹ và Tây Phương nói chung, việc giải trừ vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn sẽ còn treo lâu dài giữa những bàn hội nghị vô bổ. Nói cách khác, thời gian này chưa phải là lúc giải quyết vấn đề an ninh của bán đảo Triều Tiên hay nói rộng ra là hoà bình thế giới. Con chim hoà bình vẫn đang đau nặng khi Hoa Kỳ và Nga trước sau rút khỏi Hiệp ước về vũ khí nguyên tử tầm trung (INF Treaty – Intermediate-Range Nuclear Forces), trong khi ở Trung Đông Iran tiếp tục thủ đắc và thí nghiệm hoả tiễn loại mới nhất. Đây là lúc mà cuộc xung đột Mỹ – Trung phải được ngã giá cho xong trên mọi lãnh vực của tham vọng bành trướng trong thế kỷ này của Bắc Kinh. Đó có thể coi như những mặt trận đối đầu gay cấn từ chính trị, lãnh thổ, kinh tế đến thương mại, văn hoá. Tuy nhiên mong muốn đạt được một Hiệp định thương mại song phương với Bắc kinh vẫn là mục tiêu trước mắt của Hoa Kỳ. Trong trường hợp này, trên bàn cờ thế giới các nhà ngoại giao mới có thể tính tiếp cho một nền hoà bình lâu dài tại bán đảo Triều Tiên. Bởi lẽ đó, bất cứ một thượng đỉnh nào khác trong tương lai, bắt buộc phải có mặt Nhật Bản, Nam Hàn, Nga, Trung Cộng đã từng tham dự các hội nghị giải quyết tình hình bán đảo Triều Tiên mà không chỉ Mỹ nói chuyện tay đôi với Bắc Hàn.    
......

NHỮNG KẺ VÔ LOÀI

Luân Lê Dân tộc bị động long mạch huyết mạch hay sao mà đúng ngày tưởng niệm cuộc chiến vệ quốc bảo vệ đất nước khỏi kẻ xâm lược bá quyền Trung Quốc năm 1979 thì có một số kẻ lại đi di chuyển Đỉnh lư hương dưới chân tượng đài Đức thánh Trần Hưng Đạo tại TP.HCM vào trưa nay? Chúng làm vậy để ngăn chặn những người dân đến thắp hương tưởng niệm các chiến sỹ hy sinh mà không được nhắc đến suốt 40 năm qua trong sử sách. Vậy chúng lấy quyền gì để ngăn trở người dân bày tỏ lòng yêu nước cũng như là quyền thiêng liêng của mỗi con người? Trên chương trình truyền hình VTV phát trên toàn quốc thì không dám gọi tên kẻ địch trong cuộc chiến hào hùng này là ai. Có lịch sử nào là lịch sử chiến tranh mà không có kẻ địch để chiến đấu hay không? Đối phương bên kia biên giới và biên giới phía Bắc là ngôn từ kiểu gì? Không chỉ là hèn mạt, mà là đắc tội với tiền nhân đã đổ xương máu xuống trong lịch sử. Cuộc chiến phải có tên gọi, phải có kẻ thù, như thế mới đúng tính chất cuộc chiến chính nghĩa bảo vệ tổ quốc. Không nói lên đúng tiếng lòng của lịch sử và của nhân dân. Đó chính là kiểu yêu nước theo định hướng và được sự cho phép là như thế đấy. Phụ lòng nhân dân và mang tội với những người chiến đấu bảo vệ tổ quốc và làm sai lạc đi bản chất cuộc chiến vệ quốc của dân tộc gần nửa thế kỷ trước. Chúng định lên kế hoạch cho lòng yêu nước và chúng có toàn quyền sắp xếp tinh thần yêu nước và lịch sử theo ý chúng? Chúng sẵn sàng làm nhục tiền nhân và phỉ báng vào những hình ảnh anh hùng dân tộc, những chiến công vệ quốc vĩ đại trong lịch sử. Những kẻ vô giáo dục và mất gốc, không có giá trị và nhận thức của một con người bình thường nữa. Vua Hùng dựng nước còn chúng bảo vệ tổ quốc bằng cung cách tệ mạt như vậy hay sao? Đến lúc cần, nhân dân mới là người lên đường chiến đấu, chứ không phải cái đám đi phá hoại những giá trị thiêng liêng và cao quý của dân tộc kia. Vẫn còn né tránh, hèn nhược với lịch sử cũng chính là cách để người khác đánh giá về phẩm cách một quốc gia. Khi mà họ sẵn sàng im lặng đến cả gần nửa thế kỷ và khi được phép mở miệng để nhắc tới thì vẫn một mực tránh né gọi tên bản chất của sự kiện. Truyền hình quốc gia mà thể hiện một sự bạc nhược không thể nào tưởng tượng nổi. Họ dường như không phải người của dân tộc này, đất nước này và được sống nhờ vào xương máu của những người đã hy sinh? Đức thánh Trần Hưng Đạo sẽ đau đớn và tủi nhục với đám con cháu mất dạy đang lấy đi Đỉnh lư hương ngay dưới chân mình mà là nơi người dân vẫn thường xuyên thắp hương tưởng niệm các sự kiện lịch sử suốt bao năm qua.  
......

NGHE HƠI NỒI CHÕ.

Pham Nguyen Truong Xem mấy người chửi bới Trần Lệ Xuân sau khi VTV giới thiệu áo dài mà bà ta mặc (hay là cách tân, từ lâu mình đã không xem VTV) làm mình nhớ lại câu chyện với AN ngay sau khi cụ Võ Nguyên Giáp chết. AN: Anh đánh giá các nhà lãnh đạo VN như thế nào? Trả lời: Tôi có ở gần họ đâu mà biết. Nghe người khác nói/viết về họ rồi phán thì chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Tôi không thể đánh giá họ một cách trực tiếp, tôi chỉ có thể đánh giá một cách gián tiếp. AN: Thế nào là đánh giá trực tiếp, thế nào là gián tiếp? Trả lời: Trực tiếp là, ví dụ, một người học cùng lớp với tôi, tôi có thể nói anh có giỏi không, có thông minh hay không. Còn người học lớp khác thì tôi không thể đánh giá được, nhận xét của tôi về người đó chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Các nhà lãnh đạo thì cũng thế. Muốn đánh giá người lãnh đạo thì tôi phải là phó của ông ta. Tôi có thông tin như hoặc gần như ông ta. Sau đó, dựa vào số phương án hành động của tôi và ông ta, bao nhiêu phương án giống nhau, bao nhiêu phương án khác nhau, trong những phương án khác nhau này, bao nhiêu phương án của tôi đúng, bao nhiêu phương án của ông ta đúng. Nếu ông ta đúng nhiều hơn tôi thì tôi cho là ông ta giỏi. Còn nói theo sách báo thì cũng chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Nhưng tôi có thể đánh giá một cách gián tiếp. AN: Đánh giá gián tiếp là thề nào? Trả lời: Ví dụ, so sánh các nhà lãnh đạo của ta với lãnh đạo Thái Lan hay Malaysia. Người của họ sang ta học nhiều hơn hay người của họ sang ta học nhiều hơn; người của họ sang ta cạo mủ cao su và làm điếm nhiều hơn hay người của ta sang nước họ cạo mủ cao su và làm điếm nhiều hơn. Mình cho rằng đa số những người hiện nay nói về đức hạnh của Trần Lệ Xuân cũng là nghe hơi nồi chõ mà thôi. Hơn nữa, khi VTV giới thiệu mà ấy mặc áo dài thì ta chỉ nên khen chê cái áo và người mặc có hợp hay không. Áo dài đẹp hay không đẹp, người mặc đẹp hay không đẹp liên quan gì tới đức hạnh hay chính trị?  
......

KỲ TÍCH

Đỗ Văn Ngà Một lần, tên cướp đột nhập vào gia đình nọ. Để giam vợ chồng chủ này ấy, tên cướp nghĩ ra cách thế này, hắn ta vẽ một vòng tròn và bảo "cả 2 ngươi đứng yên trong vòng tròn này, đứa nào bước ra tao bắn bể sọ". Cả 2 mặt xanh lét và gật đầu tỏ ra vâng lời.   Nhờ giam được 2 vợ chồng trong vòng tròn mà tên trộm rảnh tay khoắng sạch tài sản rồi bỏ đi, để lại 2 vợ chồng nọ đứng im trong cái "nhà tù kiên cố" ấy. Hồi sau khi thấy an toàn, cô vợ òa khóc vì tiếc của, còn anh chồng thì cười khúc khích. Cô vợ ngạc nhiên hỏi "sao anh cười?". Anh ta đáp "Thằng cướp ngu, mải lấy vàng, lúc đó anh thò chân ra ngoài mà nó không biết, hì hì"   Vâng, đấy là mẩu chuyện vui, tôi cũng nghe từ nhỏ, chỉ là truyền miệng, nhưng nó có ý nghĩa của nó. Mẩu chuyện dân gian tuy ngắn nhưng bài học của nó ẩn chứa trong đó cũng tựa như AQ Chính Truyện của Lỗ Tấn. Cả 2 đều nói lên ý nghĩa là sự tự hài lòng với những chuyện cỏn con, thậm chí là những chuyện tự suy diễn một cách ngược ngạo. Đó, tính cách đó người ta gọi là Phép Thắng Lợi Tinh Thần AQ. Họ lấy theo tên nhân vật chính trong truyện của nhà văn Lỗ Tấn.   Cái đáng sợ nhất của một dân tộc là sự tự hài lòng với một vấn đề cỏn con để an ủi mình. Chính phép thắng lợi kiểu này nó đã làm cho một dân tộc tự gò mình chịu sống ngột ngạt trong cái khuôn khổ chật hẹp của kẻ cai trị. Chính Lỗ Tấn đã nhìn thấy dân tộc Trung Hoa của ông cũng mang cái tinh thần nguy hiểm ấy, nên ông đã viết tác phẩm AQ Chính Truyện để cảnh tỉnh người dân nước ông rằng, đó là một tính cách của một dân tộc nô lệ.  Có thằng cướp nào mà không thích cướp những nạn nhận AQ? Có kẻ cai trị nào mà không muốn kẻ bị trị như AQ?   Nay đã thế kỷ 21, mà dân tộc Việt Nam cũng mang cái tinh thần AQ quái quỷ ấy. Chuyện nhỏ nhặt thì tung hô vạn tuế, chuyện to lớn thì mù đui câm điếc. Như ta biết, việc gọi cái tên VNCH thay cho "Ngụy Quân Ngụy Quyền" rất đơn giản, thế mà phải mất đến 43 năm CS mới gọi khe khẽ. Thế nhưng không ít những người tên tuổi lên báo mừng rỡ ra mặt và xem đó là kỳ tích. Còn vấn đề phi dân chủ, vấn đề đưa đất nước vào vòng nô lệ của Trung Cộng thì không dám đá động. Chỉ thế thôi là hài lòng rồi, là vui rồi, là kỳ tích rồi.   Hay như mấy ngày vừa qua, Cộng Sản bật đen xanh cho báo chí nói về cuộc xâm lược của quân Trung Cộng cách đây 40 năm có gì là to tác nhỉ? Đó là điều cỏn con thì có gì là kì tích. Chính quyền Cộng Sản họ đã trao một huân chương chống quân Tàu cứu nước bao giờ chưa? Họ đã cho nhân dân công khai tưởng nhiệm các anh hùng vị quốc vong thân vào năm đó chưa? Vấn đề biển đảo, vấn đề trao đổi thương mai bất công giữa Việt Nam - Trung Hoa thì không dám đá động.   Muốn thay đổi, trong lòng dân tộc phải có sự mãnh liệt, phải có sự sáng suốt. Một xã hội cứ thấy lợi ích nhỏ thì hài lòng và quên những thiệt lớn thì dân tộc đó vẫn chưa sáng suốt, chưa đủ minh mẫn để tự quyết cho số phận của mình. Thế mới đau!      
......

40 NĂM CUỘC CHIẾN VIỆT – TRUNG

......

40 năm sau cuộc chiến 1979, VN đang trở thành gì của Trung quốc?

Việt Nam là thuộc địa Trung Quốc? Không phải. Là chư hầu? Không đúng. Là quốc gia vệ tinh? Cũng sai. Vậy Việt Nam đang là gì với Trung Quốc? Khó có thể định nghĩa chính xác tính chất mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc kể từ sau khi hai nước bang giao bình thường sau cuộc chiến biên giới 1979. Có điều ai cũng thấy Việt Nam đang bị nhuộm đỏ trước hiểm họa “ngoại xâm mềm” bằng con đường kinh tế, từ Trung Quốc.   Từng ngày từng giờ, cơn sóng thủy triều đỏ Trung Quốc lan rộng và phủ kín Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau (chính xác là 54/63 tỉnh-thành). Theo Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, nếu như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng 12-1999), Trung Quốc có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư là 120 triệu USD, thì 10 năm sau, đã có 657 dự án với tổng số vốn hơn 2,6 tỷ USD. Riêng về FDI (đầu tư nước ngoài trực tiếp), từ cuối năm 1991 đến nay, FDI Trung Quốc đổ vào Việt Nam liên tục tăng và tăng mạnh 10 năm trở lại đây, từ 572,5 triệu USD năm 2007 lên 2,17 tỷ USD năm 2017, trở thành nước thứ tư trong số các quốc gia có vốn FDI đăng ký tại Việt Nam (tạp chí Tài Chính 1-1-2019).   Trung Quốc hiện diện khắp nơi, đến mức gần như ngành nghề nào cũng có mặt, từ kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp ở Hải Phòng; kinh doanh bất động sản ở Tiền Giang; sản xuất giày ở Đồng Nai; luyện-cán thép ở Thái Bình; sản xuất tinh bột wolfram ở Quảng Ninh; linh kiện điện tử ở Đà Nẵng; ván ép ở Long An; đến gia công in phun, đồ họa, sản phẩm quảng cáo, dịch vụ quảng cáo ở Sài Gòn; và đặc biệt công nghiệp điện than… Trung Quốc còn thâm nhập dữ dội vào thị trường bất động sản. Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang… chỗ nào cũng có mặt giới đầu tư bất động sản Trung Quốc, đặc biệt các dự án chung cư thuộc khu “đất vàng”.   Đầu tư và du lịch giúp kinh tế tăng trưởng mà sao phải lo? Bởi vì, không như giới đầu tư các nước khác, sự có mặt Trung Quốc kéo theo nhiều điều không bình thường… Điều rất không bình thường, so với quan hệ kinh tế với các nước khác, là cách thức quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hãy đọc một đoạn trong bài viết “Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua” của tiến sĩ Nguyễn Phương Hoa (người hồi tháng 6-2018 đã được bổ nhiệm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc kiêm Phó Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc):   “Cùng với tăng cường xây dựng niềm tin chính trị, lãnh đạo hai nước luôn chú trọng đến xây dựng mối quan hệ kinh tế hiệu quả, thiết thực và đang được cụ thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “Hai hành lang, một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc bộ mở rộng”; hướng đến cân bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam...”. Cách viết này, của một “chuyên gia” thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, cho thấy một điều: quan hệ kinh tế Việt Nam với Trung Quốc còn được “hòa tan” vào quan hệ chính trị, liên quan đến vấn đề thể chế và chính sách đối ngoại “đặc biệt”. Nó giúp phần nào giải thích được những bất thường nói ở trên.   Cần nhắc lại, cách đây chỉ vài tháng, vào tháng 9-2018, khi tiếp Triệu Lạc Tế - Ủy viên Bộ Chính trị-Trưởng ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng quan hệ Việt-Trung “đang ở thời điểm tốt đẹp nhất trong lịch sử”! Trước đó, tháng 1-2017, trong chuyến công du Trung Quốc sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, Nguyễn Phú Trọng cùng Tập Cận Bình cũng đã ra thông cáo chung, xác định hai quốc gia “đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung”; khẳng định quan điểm hai bên là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trên tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.   Bắc Kinh có là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” của Việt Nam? Chắc chắn là không. Hà Nội đang trở thành gì đối với Trung Quốc? Dựa vào các phát biểu và tuyên bố chung chỉ có thể định tính được phần nào mối quan hệ hai nước, nhưng dựa vào những con số cụ thể thì có thể thấy rõ, Việt Nam đang lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc. 40 năm sau khi thâm nhập biên giới Việt Nam bằng quân sự, Trung Quốc đang đổ bộ kín mít đất nước Việt Nam bằng những đoàn quân kinh tế hùng hậu. 40 năm sau khi Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam vẫn rất khó khăn tấn công sâu vào lãnh thổ nước này bằng con đường kinh thương. Việt Nam liên tục nhập siêu từ Trung Quốc. Con số mới nhất (11 tháng đầu năm 2018) là 21,6 tỷ USD (xuất sang Trung Quốc 38,1 tỷ USD trong khi nhập lại 59,7 tỷ USD).   Năm 1979, Hà Nội đã có thể dạy lại Bắc Kinh bài học mà Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam, nhưng sau 40 năm, Hà Nội dường như chẳng học được thêm gì cả, ngoài việc trở thành “đồng chí tốt” của kẻ thù. Sau 40 năm, Việt Nam chẳng là gì so với sức mạnh kinh tế lẫn quân sự mà Trung Quốc đang sở hữu. Biển Đông đang bị gặm nhấm lần mòn. Chủ quyền biên cương đang bị đe dọa. Cả “chủ quyền” kinh tế cũng bị thao túng. Thật chẳng tự hào gì khi Việt Nam đang là con nợ của Bắc Kinh. Trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (3-9-2018), tác giả Vũ Quang Việt cho biết, ước tính nợ Việt Nam đối với Trung Quốc, tính đến năm 2018, (có thể) là hơn 6 tỷ USD. Bắc Kinh đang nắm Hà Nội trong lòng bàn tay? Riêng với cái nhìn của người dân Việt Nam, có vẻ như Hà Nội chẳng nắm được gì của Bắc Kinh cả! Với thực trạng này, ước vọng thoát Trung của người dân Việt xem ra là rất xa vời. Điều này có đáng để nghĩ và lo lắng cho số phận quốc gia?  
......

NHÌN LẠI TRẬN CHIẾN BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979

Nếu như ông Lê Duẩn không đưa quân vào xứ Chùa Tháp, lật đổ chính quyền Pol Pot và đưa Heng Samrin và Hun Sen lên thay thế vào đầu năm 1979, thì liệu ông Đặng Tiểu Bình có đưa 600 ngàn quân tổng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 hay không? Nếu như sau khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, lãnh đạo CSVN tiếp tục chính sách đu dây giữa Liên Xô và Trung Cộng, và không có tham vọng khống chế hai đàn em Lào và Campuchia để thành lập Liên Bang Đông Dương, thì liệu Trung Cộng có lấy lý cớ “khiêu khích vũ trang và thù nghịch” tại các khu vực biên giới, để xâm lược Việt Nam vào năm 1979 hay không? Lịch sử không có chữ nếu. Tuy nhiên, khi đặt vấn đề nói trên người ta phải hiểu rằng cuộc chiến tranh biên giới xảy ra cách nay 40 năm, chỉ là hệ quả của những xung đột quyền lực giữa lãnh đạo CSVN và Trung Cộng vào lúc đó. Dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa chỉ là nạn nhân của những tham vọng tranh giành quyền lực của hai tập đoàn lãnh đạo này mà thôi. Thật vậy, nhìn lại bối cảnh lịch sử của CSVN và Trung Cộng trong giai đoạn từ 1975 đến 1980 người ta thấy rõ ý đồ tranh bá của lãnh đạo hai phía. Về phía Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình vừa mới củng cố được quyền lực của mình, sau nhiều năm bị đấu tố và mất hết chức vụ trong thời kỳ cách mạng văn hóa (1966-1976). Sau Hội nghị lần thứ 3 Trung ương đảng khóa XI vào cuối năm 1978, họ Đặng đã trở thành nhân vật có quyền lực lớn nhất ở trong đảng. Dù chỉ giữ bí thư quân ủy Trung ương, nhưng các chủ trương và tiếng nói của họ Đặng ảnh hưởng rất lớn lên các chính sách của Trung Cộng vào lúc đó. Chủ trương của Đặng là bắt tay với Mỹ để hiện đại hóa Trung Quốc và nuôi Khờ Me Đỏ để kiềm chân CSVN. Sau khi Liên Xô và CSVN ký hiệp ước hữu nghị, hợp tác và gia nhập vào Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) của các nước xã hội chủ nghĩa thì Trung Cộng cắt toàn bộ viện trợ cho CSVN từ năm 1978. Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với CSVN về việc xây dựng và khai thác căn cứ tại Cam Ranh trong 25 năm. Liên Xô lúc đó gọi CSVN là “tiền đồn đáng tin cậy của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”, càng khiến cho họ Đặng tin rằng, CSVN đang cùng với Liên Xô đe dọa an ninh Trung Quốc. Khi CSVN bắt đầu đưa quân sang chiếm Campuchia, đuổi lực lượng Khờ Me Đỏ ra khỏi Nam Vang vào đầu năm 1979, đã như giọt nước tràn ly, khiến cho họ Đặng không còn có thể chịu đựng được nữa nên đã phát động cuộc chiến gọi là “trừng phạt” tiểu bá CSVN. Về phía CSVN, “say men” chiến thắng miền Nam vào tháng 4 năm 1975, lãnh đạo CSVN đã ngạo mạn tự coi mình “đứng trên đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Đường lối đối ngoại của CSVN vào lúc đó là “tăng cường mối quan hệ mật thiết với các nước XHCN anh em, thực hiện nghĩa vụ vô sản quốc tế, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.” Đường lối này cho thấy là CSVN không còn đu dây nữa mà ngã hẳn vào Liên Xô. Dựa vào sự hậu thuẫn này, CSVN bắt đầu tiến hành tham vọng xây dựng Liên Bang Đông Dương bằng cách khống chế Lào và Campuchia. Điều trớ trêu là Khờ Me Đỏ đã được Bắc Kinh nuôi từ sau năm 1975, nên không những không quy phục mà còn khiêu khích CSVN bằng cách mở những cuộc tấn công ở biên giới phía Nam trong các năm 1977, 1978. Từ cuối năm 1978, CSVN đã tiến hành hai nỗ lực: 1/ Thành lập Hội đồng cách mạng Campuchia do Heng Samrin và Hun Sen lãnh đạo để chuẩn bị tiếp thu Nam Vang khi Khờ Me Đỏ bỏ chạy; 2/ Huy động một lực lượng hùng hậu tấn công lực lượng Khờ Me Đỏ ngay trên xứ Chùa Tháp. Ngày 9/1/1979, lực lượng CSVN đã chiếm được thủ đô Nam Vang và đưa Heng Samrin xuất hiện với tư thế là chủ tịch hội đồng cách mạng. Ngày 18/1 Heng Samrin đã thay mặt hội đồng này ký một hiệp ước với CSVN, hợp thức hóa sự hiện diện của 180 ngàn quân đội CSVN do Tướng Lê Đức Anh chỉ huy trên đất Campuchia. Ngay sau đó, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, một hội nghị của Ngoại trưởng ba nước Việt – Miên – Lào đã diễn ra tại Thủ đô Vạn Tượng để hình thành Liên Minh Hữu Nghị Ba Nước Việt – Miên – Lào. Những diễn tiến lịch sử nói trên cho thấy, cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979 là cuộc đọ sức giữa “tiểu bá” CSVN đang muốn hình thành Liên Minh Đông Dương, để bành trướng ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á và một bên là “đại bá” Trung Cộng đang bắt tay với Mỹ để bành trướng ảnh hưởng ra khu vực Á Châu sau những năm bị rối loạn nội bộ. CSVN đã gọi cuộc chiến tranh này là cuộc chiến xâm lược và Trung Cộng là kẻ thù số một của Việt Nam vào lúc đó. Bắc Kinh thì biện minh rằng việc xâm nhập của họ vào khu vực phía Bắc Việt Nam là cuộc hành quân tự vệ (sic) được tiến hành bởi binh lính phòng vệ biên giới để dạy cho Việt Nam một bài học. Sự mâu thuẫn trong cách gọi tên cuộc chiến đã bộc lộ rõ thêm ý đồ tranh bá của hai nhân vật Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình. Đó là nhằm thỏa mãn tham vọng quyền lực cá nhân hơn là vì quyền lợi tối thượng của đất nước và dân tộc Việt Nam hay Trung Hoa. Sau gần 10 năm xung đột từ cuộc chiến phi lý này (1979 – 1989), và trận tấn công biên giới đẫm máu được mệnh danh là “27 ngày địa ngục” khiến hàng trăm ngàn binh sĩ của cả hai phía bị hy sinh, cả CSVN và Trung Cộng đều phải tìm cách đối thoại, dẫn đến Hội Nghị Thành Đô vào tháng 9 năm 1990. Nhưng điều thắc mắc của dư luận là sau nhiều năm cấm đề cập đến cuộc chiến biên giới và những sự tàn ác của quân xâm lược Trung Cộng từ sau Hội nghị Thành Đô nói trên, bỗng dưng năm nay, Ban Tuyên Giáo CSVN lại cho phép báo đài tập trung viết về cuộc chiến biên giới và tô đậm hình ảnh xâm lược của Trung Cộng qua cuộc chiến này. Đây là ý đồ gian manh của phe nhóm Nguyễn Phú Trọng nhằm trút hết trách nhiệm cuộc chiến biên giới cho Đặng Tiểu Bình và nhóm lãnh đạo cũ, để cho thấy sự “không can dự” của phe nhóm Tập Cận Bình mà Nguyễn Phú Trọng đang dựa vào. Nói cách khác, việc cho báo chí kể tội xâm lược nhân 40 năm cuộc chiến biên giới là một âm mưu tuyên truyền vừa ra vẻ ta đây yêu nước và chống hành vi xâm lược của nhóm Đặng Tiểu Bình, vừa biện minh cho thái độ thân thiện của Trọng với Tập Cận Bình mà không bị mang tiếng là thân với kẻ thù. Nhưng trò tiểu xảo này đã không qua mặt đàn anh Trung Cộng. Mới đây, Ban Tuyên Giáo CSVN đã phải cấp tốc ra chỉ thị mới yêu cầu các báo là khi đề cập đến cuộc chiến biên giới, không nêu đích danh Đặng Tiểu Bình và nhất là không dùng chữ xâm lược đối với Trung Cộng. Tóm lại, khi nói về cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 mà không nói đến tham vọng tranh bá của Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình, trên bàn cờ Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung, sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc là chưa đúng với bản chất của cuộc chiến này. Những kiến thức lịch sử cũng giúp chúng ta soi sáng các hệ lụy và mưu mô bán nước của tập đoàn CSVN từ sau Hội nghị Thành Đô, để hiểu là tại sao chế độ chọn thế “bám Trung” thay vì “thoát Trung.” Những ký kết trong Hội nghị Thành Đô là gì khiến chế độ Hà Nội phải vướng mãi trong vòng Kim Cô của tập đoàn Bắc Kinh, dù đó là Đặng Tiểu Bình hay Tập Cận Bình?  
......

BUÔN THẦN BÁN THÁNH ĐÚNG QUY TRÌNH.

Luan Le Quang Phải công nhận những người cs thông minh và biết tính toán thật. Tuy là vô thần nhưng rất biết xây chỗ để lợi dụng Thần Thánh kinh doanh, móc túi thiên hạ, móc túi lẫn nhau rất đúng quy trình. Với mô hình xây dựng quần thể khép kín gồm có ngôi chùa lớn nhất thế giới đi với những nhà hàng, khách sạn, khu biệt thự, sân golf và casino ở Hà Nam và một số tỉnh khác ở phía Bắc, thì đất nước này cơ bản đã xây dựng thành công thiên đường XHCN ở khu vực đó con mẹ nó rồi. Với siêu dự án tâm xờ linh tiêu tốn hàng ngàn héc ta đất của quốc gia trải dài tại các vị trí tuyệt đẹp ở các tỉnh phía Bắc mà công ty Xây Dựng Xuân Trường được Chính Phủ ưu ái cấp trong suốt 13 năm qua, và với lượng người móc tiền mua vé để được vào lễ Phật tại các ngôi chùa này lên đến hơn 200.000 người trong mấy ngày Tết năm nay, có thể khẳng định rằng đảng đã xây dựng thành công con người XHCN ở miền Bắc. Những con người sẵn sàng chen lấn, chà đạp lên nhau, thậm chí chấp nhận mẻ đầu vêu trán để giành cho được Ấn đền Trần hoặc sẵn sàng tốn tiền để được các sư quốc doanh cúng sao giải hạn. Với tâm thức tin vào sự lo lót, cúng bái các đấng Thánh Thần thì cuộc sống sẽ sung túc, sẽ thăng quan tiến chức nhanh như gió để tha hồ đục khoét vơ vét của công, thì rõ ràng những kẻ vô thần đã dẫn dắt những người dân u mê ở đây tìm ra đấng cứu thế của cuộc đời họ. Tuy nhiên, có lẽ thành công nhất của những lãnh đạo thiên tài cs là ở chỗ họ đã biến những đồng tiền không rõ nguồn gốc của họ thành những giá trị vật chất mang tính tâm linh mà bất kể những ai đến đây cũng phải cúi đầu dâng lễ và không quên móc hầu bao của mình để thành kính tự nguyện cống nộp. Nói điều này ra là bởi vì một ông chủ dự án Nguyễn Văn Trường, sinh năm 1963 tại Hoa Lư, Ninh Bình, tiền ở đâu mà lắm thế. Chỗ nào cũng được CP ưu ái cấp hàng ngàn héc ta đất. Vị trí nào cũng bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng khu quần thể tâm xờ linh? Vậy là hiểu rồi ha? Vừa có nguồn thu, vừa có chỗ để các quan đến đây xả stress. Vậy thì thành công ngoài sức mong đợi chứ còn gì nữa phải không ạ? Kể nghe chơi nha? Đứa khi cạp đất ăn xong thì vừa no vừa mệt. Thằng thì suốt ngày ngồi đếm tiền mãi lộ qua các trạm BOT riết mỏi tay...vậy là có chỗ để xả stress ngay. Đó là vô casino đánh bạc. Đánh bạc xui, thua tiền nhiều quá thì vô thuê khách sạn gần đó xả xui. Xả xui xong bước vô Chùa kế bên đốt nhang cắm đầu chổng đít khấn Phật xin cho con ăn bạc. Khấn vái xong lại bước vô casino chiến tiếp. Úi trời! Ngôi Chùa vĩ đại nhất thế giới này thì chỉ có bọn quan chức cs và bọn đại gia sân sau lắm tiền nhiều của vào chơi chứ dân đen thì tiền  đâu mà có cửa vào? Mà nếu có vào thì cũng chỉ nhân dịp Lễ, Tết thôi. Còn khách nước ngoài đi du lịch tâm linh thì nhìn thấy cái khu Chùa kiểu này thì chắc là họ không vào rồi, trừ đám khách chịu ăn chơi. Như vậy thì chỉ có bọn tư bản đỏ nhà sản có chỗ tha hồ rửa tiền rồi móc túi lẫn nhau thôi. Chơi chán, nếu thằng đại gia Khựa hay nước ngoài nào ưng cái bụng, thì bán. Ba cái dự án này thì chỉ cần giá trị đất thôi đã lời to rồi kể chi đến giá trị trên đất nhễ? Khiếp thặc! Tại hạ Cóc Tía xin bái phục! Cóc Tía https://news.zing.vn/chu-dau-tu-ngoi-chua-lon-nhat-the-gioi…  
......

Kỷ niệm 17-2: “Nhà cầm quyền nghiêng về chiêu trò hơn là thực tâm với đất nước”.

Năm 2019 có một sự kiện rất đặc biệt, là Hà Nội đã cho phép báo chí, dư luận được lên tiếng tố cáo cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc năm 1979. Những chồng tư liệu, tin tức về cuộc chiến này tưởng chừng bị xếp xó trong mối hữu nghị quái gỡ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, nay lại được tung ra để cho dân chúng nhẹ lòng vào thời điểm kỷ niệm 40 của cuộc chiến. Nhưng điều đó, không có nghĩa là mọi thứ dễ dãi. Trước một tuần ngày 17-2-2019, tất cả các phương án chặn người, gác nhà… của giới an ninh toàn quốc đã được bàn thảo và lên lịch. Có nghĩa là sẽ không có ai được tự do xuống đường tuần hành kỷ niệm ngày này, hoặc sẽ có danh sách dài những người bị giữ chặt để không tham gia được được một cuộc họp mặt, biểu tình nào đó được tổ chức trong vòng kiểm soát. Nhân 40 năm sự kiện đau thương và bi hùng này, nhà tranh đấu và cựu chiến binh Trần Bang đã bày tỏ vài suy nghĩ của ông.   Năm nay, có không ít người bất ngờ trước việc ban Tuyên giáo Trung Ương bật đèn xanh, cho phép nói và chỉ trích Trung Cộng về cuộc chiến tranh biên giới 17-2-1979, anh nghĩ sao về điều này? Nhà cầm quyền làm gì thì cũng thường có lý do ẩn sau bề mặt. Lần này, tôi nghĩ có vài nguyên nhân. Kỷ niệm 40 năm cuộc chiến Việt Trung là một dịp quan trọng khó có thể làm ngơ, mà vốn trước đây giới Xã hội dân sự đã lên tiếng rất nhiều, đòi hỏi lịch sử phải công bằng trong ghi nhận trong cuộc chiến phía Bắc lẫn biên giới Tây Nam. Chống Polpot ở Tây Nam, nhìn rõ sự kiện, cũng là chống Trung Quốc thôi. Sau khi yểm trợ cho Khmer Đỏ thất bại thì Trung Quốc mới mở thêm mặt trận chiến tranh phía Bắc Việt Nam. Nhân 40 năm kỷ niệm thì lại càng không thể bịt miệng nhân dân được nữa. Nhìn về hướng tích cực thì có không ít người tham gia cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược vẫn còn nằm trong bộ máy chính quyền, thậm chí là có chức quyền. Họ cũng không thể nào chịu được việc mình bị bỏ quên, mà chỉ nghe suốt ngày tuyên truyền về các cuộc chiến chống Mỹ, chống Pháp. Họ cũng muốn được nói đến sự kiện xâm lược này. Một điều nữa, tôi nghĩ rất gần với thời sự, là trong cuộc gặp giữa tổng thống Mỹ và chủ tịch Kim Jong Un tại Việt Nam, việc phát lên một thông điệp không gần gũi với Trung Quốc là một cách Hà Nội giới thiệu mình với Mỹ, trong bối cảnh biển Đông ngày càng căng thẳng. Cơ hội này cũng là một cách để giới bình luận có thể suy đoán về một bước đi ngoại giao mới của Việt Nam, trong việc giữ gìn ổn định trên biển Đông.   Nhưng đây có là một cách lợi dụng sức mạnh dư luận quần chúng của Hà Nội, vốn là có tiếng giỏi cách thao túng dư luận xã hội và lợi dụng truyền thông cho những mục đích khác của mình? Tôi cũng nghĩ vậy. Bởi vì, đảng Cộng sản Việt Nam có tiếng là ma lanh. Họ tận dụng mọi sức mạnh để bảo vệ sức mạnh độc tài của họ. Đây cũng là cách mà họ lợi dụng quần chúng, lợi dụng báo chí. Ai cũng biết báo chí trong nước hiện nay chỉ là cái loa của nhà cầm quyền. Việc chủ trương cho phép báo chí nói mạnh và nói nhiều về sự kiện chiến tranh biên giới 1979 cũng chỉ là một cách xoa dịu sự tức giận của quần chúng vốn đã kìm nén lâu nay về việc nhà cầm quyền luôn đàn áp các tiếng nói đòi phải minh bạch lịch sử, minh bạch kẻ thù đã xâm lược với các thế hệ người Việt. Vừa lấy lòng được quần chúng, vừa nói được ý mình muốn trong bối cảnh căng thẳng trong quan hệ Việt Trung, thì họ sẽ làm ngay. Mà lâu nay, mọi thứ vẫn vậy chứ không có gì mới mẻ.   Có người nói rằng, cho phép nói thật về lịch sử, về giặc Trung Quốc xâm lược không quan trọng bằng phải có chương trình trả tự do cho những người yêu nước, xuống đường chống trung Quốc và bị bỏ tù, thậm chí là phải có cách nói tử tế và chính danh về cuộc chiến 1979 trong sách giáo khoa lịch sử? Tôi vẫn thấy câu chuyện này còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Lúc này, tôi nghĩ nhà cầm quyền đang nghiêng về chiêu trò nhiều hơn là chuyện thực tâm với đất nước, con người. Tôi tin là trong bộ máy cầm quyền, vẫn có những người nghĩ đến chuyện phải trả tự do cho những ai chống Trung Quốc xâm lược mà lại bị cầm tù quá oan tức như hiện nay. Nhưng đây là một câu chuyện dài và phức tạp vì lâu nay các vụ án xử người yêu nước, nhà cầm quyền Cộng sản không bao giờ có đủ dũng khí để gọi tên án chống Trung Quốc, mà chỉ xử về tội tụ tập rối, kiểu gắp lửa bỏ tay người, mánh khóe chụp mũ, đổi tội danh. Trong số 20 người đi tù ở Đồng Nai vừa rồi, vì đã xuống đường biểu tình chống luật đặc khu giao đất 99 năm cho Trung Cộng, có bao giờ quan tòa hay Viện kiểm sát dám gọi tên là tội biểu tình chống Trung Quốc đâu? Còn trong sách giáo khoa, họ cũng đã nhỏ giọt thông tin, nhưng chắc là sẽ còn lâu lắm mới có đủ những lượng thông tin tương ứng và xác đáng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979.   Là một sinh viên được động viên, trở thành quân nhân trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Anh và những người đã đổ máu cho đất nước nghĩ gì về thái độ và hành động của nhà cầm quyền Cộng sản hôm nay? Tôi hay ai đã trãi qua một phần của cuộc chiến 1979 đều thấy đó là một điều bất công. Dù có cho báo chí nói nhiều, nói mạnh một lần như lúc này cũng là bất công với hiện thực. Nhà cầm quyền chỉ vì quyền lãnh đạo mà đi theo một loại chủ thuyết, ôm chân giặc Tàu. Tôi đã viết rằng số người hy sinh ở chiến trường Campuchia – họ vẫn nói úp mở là chiến trường K – và những số người hy sinh ở chiến trường phía Bắc, kể cả dân binh và những người trực chiến, cộng lại còn lớn hơn cả hơn số người chết vì chống Pháp hay chống Mỹ. Đó là tôi không tính chuyện nội chiến Bắc Nam. Thì với con số người chết như vậy mà chỉ hô hào chống Mỹ, chống Pháp rồi để cho có ít dòng – lại mới chỉ đưa vào vài năm gần đây – trong sách giáo khoa lịch sử là điều không thể chấp nhận được. Tôi luôn luôn phản đối và đòi sự công bằng về lịch sử, về những mất mát của dân tộc Việt Nam.  
......

Có một cuộc xâm lược khác

Mặc Lâm Kỷ niệm 40 năm ngày chiến tranh biên giới xảy ra năm nay báo chí được tháo cái rọ bút để lên tiếng về cuộc chiến mà từ nhiều năm trước câu chuyện tang thương này gần như biến mất trên báo chí truyền thông nhà nước. Hơn nữa nó còn bị cắt xén, tối giản đếm mức cả cuộc chiến tranh với tổn thất nặng nề chỉ gói gọn lại vài dòng trong sách giáo khoa mà kẻ thù từng giết dân quân miền Bắc được khoác cho một cái tên mới là “nước ngoài”. Cuộc chiến tranh xâm lược ấy từng được tuyên truyền trong suốt thời kỳ Lê Duẩn cầm quyền cho đến khi Hội nghị Thành Đô thành hình năm 1991 thì bỗng dưng im bặt. Các cơ quan nhà nước trở nên im lặng một cách khó hiểu về cách ứng xử với Trung Quốc, mọi thù hằn không những biến mất mà trái lại ai nhắc nhở tới chúng cũng đều bị chụp cái mũ phá hoại tình hữu nghị hai nước. Và cái tình hữu nghị ấy càng kéo dài thì sự uất ức của người dân càng tăng cao vì họ hiểu thái độ này chỉ là mặt trái của lòng thần phục. Với sự nhạy bén của những kẻ cơ hội, tình hình có vẻ đã đổi chiều khi cuộc chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ trở nên căng thẳng. Mỹ chẳng những tỏ ra cứng rắn một cách bất ngờ, chính sách về Biển Đông của Washington rõ ràng hơn, nó liên tiếp đưa ra những thông điệp đến với Bắc Kinh rằng sự lấn áp của họ đối với vùng biển quan trọng này không thể nhận được sự im lặng của Mỹ, mà trái lại nó đang thử thách sức mạnh của một siêu cường dẫn đầu bởi một chính phủ đã thấy rõ dã tâm của một tập đoàn đang làm cho thế giới biến dạng. Và việc thả lỏng cho báo chí viết về cuộc chiến tranh biên giới 1979 là thông điệp gửi đến cho Mỹ: Chúng tôi không còn lưỡng lự nữa. Chỗ dựa của Việt Nam không hẳn là Mỹ, nhưng thái độ cứng rắn liên tục trong những sự việc xảy ra hồi gần đây cho thấy ít ra Việt Nam cũng đã có một quyết định tuy còn rụt rè nhưng Trung Quốc đã nhận ra họ không thể áp dụng chính sách cũ nữa và họ phải thay đổi, sự thay đổi này có làm Việt Nam dịu giọng hay không lại tùy vào thái độ của Mỹ. Điều quan trọng đối với Trung Quốc bây giờ là kế hoạch xâm lược bằng kinh tế, chính trị cửa sau hay phá hoại Việt Nam từ bấy lâu nay không bị phá sản sau nhiều năm ròng rã thực hiện và đã thành công. Những kế sách buộc Việt Nam vĩnh viễn sống trong vòng vây kinh tế của Trung Quốc tỏ ra hiệu quả do sự yếu kém về năng lực của cấp lãnh đạo Việt Nam một phần, một phần khác do lòng tham không đáy của các quan chức nhà nước có thẩm quyền trong việc phê duyệt các hợp đồng mà kết quả là luôn luôn bị Trung Quốc dẫn dắt theo hướng có lợi cho họ. Kế hoạch khai thác tài nguyên khoán sản của Việt Nam với giá rẻ mạt đã được Bắc Kinh thực hiện thông qua các đời Tổng bí thư cho đến nay vẫn còn ám ảnh nền kinh tế của Việt Nam. Bauxite Tây nguyên đã thua lỗ đối với Việt Nam nhưng với Trung Quốc nó chỉ là một con tép nhỏ bé dùng vào việc xâm lăng sức lao động của công nhân Trung Quốc. Các mỏ than tại Quảng Ninh tiếp tục mất trắng bởi giá cả bán than chưa tinh chế cho Trung Quốc và nhập lại than đã luyện với giá đắt gấp nhiều lần hơn. Đây là kết quả của chính sách khai thác bừa bãi, thiếu khoa học do Trung Quốc chỉ đạo để kết quả ngày hôm nay không còn lựa chọn nào khác. Từ năm 2012, Chính phủ Trung Quốc đã công bố danh sách hàng ngàn nhà máy, dây chuyền lạc hậu phải loại bỏ và để giải quyết số của nợ đó Việt Nam được nhắm tới như một bãi chứa rác nhưng lại kiếm ra tiền nhờ tư duy ham rẻ của người bạn phương Nam. Kết quả là sau khi mua những nhà máy, dây chuyền ấy về, Việt Nam lăn lộn trong đống sắt vụn và người bán có thêm cơ hội làm cố vấn để bán cho nạn nhân thêm những phụ kiện khác để thay thế. Không một thống kê nào nêu lên sự thiệt hại của doanh nghiệp trong cơn lên đồng mua máy móc phế thải Trung Quốc, vì vậy không ít doanh nghiệp thiếu thông tin tiếp tục làm cừu cho Bắc Kinh xẻ thịt. Về kinh tế, Trung Quốc là bậc thầy của thế giới về đấu thầu. Chính sách của Bắc Kinh luôn nâng đỡ cho doanh nghiệp có làm ăn tại Việt Nam bằng cách bơm tiền từ các ngân hàng nhà nước nếu doanh nghiệp có yêu cầu. Việt Nam thiếu vốn nhưng các công ty quốc doanh lại có nhu cầu thực hiện các dự án nhiều khi không cần thiết cho đất nước nhưng lại cần thiết cho bề ngoài hào nhoáng của chế độ. Một dự án được phê duyệt là bộ máy tham nhũng chuyển động. Các công ty đấu thầu của Trung Quốc được rỉ tai và kết quả thường thấy là 95% dự án được Trung Quốc lãnh thầu sau khi vốn vay được chính Trung Quốc bảo lãnh. Theo báo chí thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư từng nêu lên nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhà thầu Trung Quốc trúng thầu là những dự án sử dụng vốn vay của Trung Quốc, mà để vay vốn Trung Quốc thì Việt Nam phải chấp nhận nhà thầu Trung Quốc thực hiện gói thầu như một điều kiện vay. Cũng theo phát hiện của báo chí thì “với 552 triệu đôla tiền vay ODA Trung Quốc để thực hiện dự án Cát Linh - Hà Đông và với lãi vay thương mại ưu đãi trung bình 3%/năm, nhiều chuyên gia cho rằng, mỗi năm phía Việt Nam phải trả khoảng 240 tỷ đồng tiền lãi (tương đương 600 triệu đồng/ngày). Còn với khoản lãi vay tăng thêm do dự án bị đội giá, Việt Nam phải trả nợ trong vòng 9 năm cho ngân hàng China EximBank của Trung Quốc. Cộng cả hai khoản vay, mặc dù dự án chưa hoàn thành, nhưng mỗi ngày phía Việt Nam đang phải trả cho Trung Quốc cả lãi lẫn gốc khoảng 2,4 tỷ đồng.” Kết quà luôn luôn là phần thiệt hại vào tay Việt Nam. Dự án bị đội vốn, nhà thầu làm việc tắc trách, phẩm chất dự án luôn là số âm và trách nhiệm đối với những chữ ký hay bút phê từ cấp trên không bao giờ được vạch ra trước công luận. Phần thiệt hại ấy tính vào nợ công và người dân oằn lưng đóng thuế để chi trả khoản nợ nước ngoài mà họ không hề hay biết. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Từ Thuý Anh và Tiến sĩ Nguyễn Bình Dương thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VEPR thì “sự áp đảo của các nhà thầu Trung Quốc trong các dự án lớn ở Việt Nam đã làm cho thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao. Có đến 90% dự án công nghiệp nặng như các công trình điện, khai khoáng, dầu khi, luyện kim, hoá chất… của Việt Nam đều do Trung Quốc đảm nhiệm, với giá trị trúng thầu hàng trăm triệu cho đến hàng tỷ USD mỗi dự án”. Chẳng những vậy rất nhiều dự án dang dở sau khi nhà thầu Trung Quốc làm việc do thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu hay những lý đo khác mà các công trình như dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên, dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình, dự án cải tạo, mở rộng nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc hay dự án thủy điện Thượng Kon Tum đều có những lý do khiến nhà nước không tài nào đối phó. Cơn phá sản của các công trình ngày càng nhiều chứng tỏ Trung Quốc rất thành công trong nổ lực xâm lăng Việt Nam thông qua con đường kinh tế. Doanh nghiệp lớn của Trung Quốc được chính phủ của họ tạo điều kiện xâm thực cơ cấu kinh tế vĩ mô của Việt Nam thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại tấn công Việt Nam ở những chiến trường khác, mà chiến thắng của họ căn cứ trên sự thiếu kiềm soát của cơ quan chức năng Việt Nam, cộng với tham nhũng, móc ngoặc của cán bộ các cấp lại được sự tham gia nồng nhiệt của đa số người dân vì ham rẻ, ham kiếm lời nhanh chóng bất kể sản phẩm của mình tạo ra có làm nguy hại đến người khác. Bên cạnh các mặt hàng gia dụng có tẩm các chất phụ gia độc hại, nhiều loại rau củ quả Trung Quốc hiện nay cũng xuất hiện tràn lan trên thị trường được bày bán tràn lan đều được đóng nhãn mác Việt Nam hoặc hàng Thái Lan, Mỹ, hay New Zealand để đánh lừa người tiêu dùng. Nhiều lô hàng trái cây Trung Quốc, nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai vượt mức từ 3 tới 5 lần dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật cho phép. Cuộc xâm lược kinh tế Việt Nam tuy được che đậy bằng lợi nhuận ít ỏi mà người dân Việt Nam kiếm được nhưng tác hại của nó vô cùng to lớn cho tương lai đất nước. Truyền thông Việt Nam tuy hứng khởi với sự cho phép tạm thời việc kỷ niệm 40 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới nhưng một cuộc chiến khác đang xảy ra nếu không được cảnh giác một cách có hệ thống thì đất nước sẽ không khác gì bãi chiến trường như các tỉnh phía Bắc 40 năm trước. Chỉ khác một điều sự phá hoại của cuộc xâm lược lần này nằm trên từng con người Việt Nam khắp ba miền. Nó tác hại lên sức khỏe, niềm tin, sức sáng tạo cũng như năng lực làm việc của người dân. Nó biểu hiện sự ù lì, vô cảm, và nhất là tính chiến đấu bị mài mòn do sự tiếp tay của bọn nằm vùng lãnh lương từ những đồng nhân dân tệ được hóa phép thành những tờ giấy xanh nổi tiếng./.    
......

‘Bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’?

Lần đầu tiên kể từ năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’, đảng CSVN bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, đồng nghĩa với cơ chế mặc nhiên chấp nhận nhiều ca khúc mà trước đó bị xem là ‘nhạc vàng’, ‘nhạc ngụy’ và ‘ca khúc phản động’, cũng đồng nghĩa với tương lai Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) mất mát một giấy phép con chủ chốt và do đó ‘mất ăn’. Cục Nghệ thuật biểu diễn tự ‘bỏ ăn’? Vào ngày đầu tiên sau tết nguyên đán 2019, báo chí nhà nước đưa tin “Chính phủ đã đồng ý với một số đề xuất xây dựng dự thảo nghị định mới thay thế nghị định 79, như bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, chỉ đưa ra quy định những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức, đi ngược lại lợi ích quần chúng thì sẽ bị cấm”. Theo Quyền cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Quang Vinh: “Bỏ cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau 1975 đều như nhau”. Một động thái ‘lạ’. Lại ‘hòa hợp hòa giải’ chăng? Trong lịch sử tồn tại của mình, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã nhiều lần ‘quản không được thì cấm’ và ‘vẽ’ ra nhiều thủ tục bắt các doanh nghiệp phát hành ca khúc trước 1975 phải xin phép cục này. Quá nhiều dư luận đã phát sinh đầy bức bối về cách ‘làm tiền’ lộ liễu và trơ trẽn của cơ quan này nhân danh công cuộc bảo vệ ý thức hệ cộng sản và ‘bài trừ tàn dư văn hóa Mỹ - ngụy’. Vào đầu năm 2017, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã gây ra một scandal thuộc loại rất vớ vẩn và tạp nham khi ra thông báo tạm thời dừng lưu hành 5 bài hát sáng tác trước 1975 “để xem xét, xác minh, thẩm định trên cơ sở đối chiếu về ca từ với bản nhạc gốc”. Đó là các ca khúc: Cánh thiệp đầu xuân của tác giả Lê Dinh - Minh Kỳ, Rừng xưa và Chuyện buồn ngày xuân của tác giả Lam Phương, Đừng gọi anh bằng chú của tác giả Diên An, và Con đường xưa em đi của tác giả Châu Kỳ - Hồ Đình Phương. Lý do: vi phạm tác quyền, thay đổi nội dung so với bản gốc, nhầm tên tác giả. Nhưng đến tháng 4/2017, vì sức ép từ dư luận và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn lúc đó là ông Nguyễn Đăng Chương đã phải ký văn bản thu hồi quyết định tạm dừng 5 ca khúc trên. Còn giờ đây, kế hoạch ‘bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’ của chính quyền Việt Nam lại đang gây ra mối nghi ngờ lớn về tính thành thật của nó. Vì sao Cục Nghệ thuật biểu diễn lại tự ‘bỏ ăn’, trong khi cấp phép ca khúc là một thủ tục hành chính đầy ‘màu’ mà đã giúp nuôi sống nhiều quan chức? Liệu đây chỉ là động tác ‘đơn giản hóa thủ tục hành chính’ nằm trong chủ trương tiết giảm giấy phép con của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của Thủ tướng Phúc, hay còn nhắm đến một ý đồ nào khác - đặc biệt là ý đồ chính trị? Liệu chủ trương hay ý đồ này có được Cục Nghệ thuật biểu diễn thực hiện nghiêm, hay cơ quan này vẫn tiếp tục dựa vào quy định “những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức” sẽ bị cấm để tiếp tục trò ‘hành là chính’ và ‘làm tiền’ đối với các công ty phát hành băng đĩa? Vắt chanh bỏ vỏ Vào tết nguyên đán năm 2019, người ta vẫn thấy giới chóp bu Việt Nam phân công nhau đi chúc tụng Ủy ban người Việt ở nước ngoài và những Việt kiều được xem là ‘đại diện’ cho cộng đồng hơn 4 triệu người Việt hải ngoại, vẫn một lần nữa ‘đồng ca’ không mỏi miệng về ‘nghị quyết 36’ của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và những lợi ích mà nghị quyết này đã làm được cho ‘khúc ruột ngàn dặm’. Nhưng gặp ‘kiều bào’ xong thì đâu vẫn vào đó. Cho tới nay chính quyền Việt Nam vẫn chẳng chứng minh được một trường hợp ‘trí thức kiều bào’ nào đã được đảng tạo điều kiện làm việc một cách thực chất, đặc biệt là nhiều trí thức hải ngoại ở Mỹ về nước đã bị các cơ quan và giới quan chức chính quyền từ trung ương xuống các địa phương - nhẹ nhàng thì tiếp đón đãi bôi rồi gạt sang một bên, nặng nề hơn thì soi mói về gốc gác ‘Việt Nam Cộng Hòa’, còn trầm trọng nhất thì chỉ thị cho công an gọi hỏi, triệu tập và răn đe về ‘hành vi chống phá’… Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu - một trường hợp hiếm hoi được chính quyền tặng căn hộ và bố trí cho ông Châu phụ trách một viện đào tạo toán học, chỉ vì lấp ló tư tưởng và hành động phản biện về bản hiến pháp Việt Nam mà đã bị giới dư luận viên vô giáo dục của chính quyền lồng lộn chửi bới bằng đủ các từ tục tĩu và xúc phạm nhân phẩm. Tình trạng trên cũng chính là nguồn cơn sâu cay khiến ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ bị phá sản đến hai lần vào năm 2017. Vì sao ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ thất bại? Kế hoạch tổ chức ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ được đề xuất bởi nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và là quan chức được xem làm ‘ngoan hiền dễ bảo’ của đảng cầm quyền nên đã được đảng cho ngồi yên ấm trên ghế chủ tịch này đến 4 khóa, bất chấp ông Thỉnh đã gần tám chục tuổi. Vào đầu năm 2017, Hữu Thỉnh đã bất ngờ công bố một kế hoạch chưa từng có tiền lệ trong lịch sử tồn tại của đảng: Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người từng cầm bút phục vụ chế độ cũ (VNCH), về dự “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”. Nhưng ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học,” khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính “cuội.” Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị quyết 36 của Bộ Chính Trị về “công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài” đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể “chiêu dụ người Việt hải ngoại” như thế? Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan “đảng quang vinh” về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến “khúc ruột ngàn dặm” nhằm hút đô la “làm giàu cho đất nước” càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại. Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của “khúc ruột ngàn dặm” được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,” vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để “cống hiến,” nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi “vòng tay của đảng.” Về thực chất, nếu chính quyền Việt Nam không quá ‘nô lệ’ cho nhu cầu kiều hối đô la, “khúc ruột ngàn dặm” đã chẳng có gì khác hơn là “ruột dư” Làm sao để đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’? Hẳn nhiên, kiều hối là một nguồn quan trọng đã giúp duy trì “máu” để chính quyền Việt Nam vẫn có thể tạm ung dung về “đà tăng trưởng kinh tế không ngừng”, đồng thời khi cần thiết có thể gia tăng in tiền mặt để “gom” USD trôi nổi từ dân chúng, đặc biệt từ các gia đình ở Sài Gòn được thân nhân ở nước ngoài gửi ngoại tệ về, giúp bổ sung kho dự trữ ngoại hối và có thêm ngoại tệ để dễ bề trả số nợ nước ngoài đang lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm. Chính vào thời gian này, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết. Sau mức đỉnh 13,2 tỷ USD của năm 2015, số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 rất có thể đã giảm thê thảm, chỉ còn khoảng 7-8 tỷ USD, bổ túc thêm nỗi căng thẳng thường trực của giới chóp bu Việt Nam phải đào bới bằng được những nguồn ngoại tệ còn lại để trả nợ cho nước ngoài và chi xài cho bộ máy khổng lồ nhưng đậm đặc chất ăn bám của đảng và chính quyền. Khi kiều hối về Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong vài ba năm tới, ngân sách sẽ không biết tìm đâu ra ngoại tệ mạnh để thanh toán các khoản đến hạn với quốc tế, trong bối cảnh dải đất hình chữ S đã chìm trong cơn suy thoái kinh tế năm thứ 10 liên tiếp, tràn ngập bất ổn xã hội và bất ổn chính trị, và nhiều nguy cơ sắp rơi vào cuộc khủng hoảng không lối thoát. Một nguồn giấu tên cho biết ngân sách Việt Nam sẽ sớm rơi vào cạn kiệt ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Thời điểm cạn kiệt gần nhất là vào cuối năm 2019. Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng “cải cách”. Trong những “cải cách” đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về “lấy lòng người Việt hải ngoại” - mà “bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975” là một minh họa mang tính nửa vời và còn quá ít ỏi để khiến những đồng đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’ - theo cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã bày đặt trường hợp Trịnh Xuân Thanh ‘không bị bắt cóc’. Phạm Chí Dũng
......

Điểm lại lịch sử

Mối bất hoà giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu từ năm 1962, đến năm 1969 là coi nhau như thù địch. Cũng từ lúc đó trở về sau, CSVN đứng giữa 2 chọn lựa, theo anh hai Liên Xô hay theo anh ba Trung Cộng? Ngay từ lúc đấy, CSVN chẳng muốn bỏ ai, nên thực hiện trò chơi đu dây giữa 2 thằng anh Cộng Sản này. Trong chiến tranh Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Cộng đều viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Nhưng mỗi thằng có một dụng ý khác nhau. Thằng anh Liên Xô đang chạy đua vũ trang với Mỹ nhưng cả Mỹ và Liên Xô đều không muốn nổ ra chiến tranh, nên Liên Xô viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Tức trong bàn cờ Chiến Tranh Lạnh 2 con tướng xúi 2 con tốt phân cao thấp thôi, chứ 2 tướng không đánh trực diện. Còn riêng Trung Cộng viện trợ Hà Nội nhằm mục đích gì? Trung Cộng thích làm ăn hơn thích thể hiện, nên Trung Cộng viện trợ là để đưa Hà Nội vào vòng phụ thuộc mình. Mục đích là để làm gì? Mục đích là từ các khoản nợ đó, Trung Cộng sẽ thu hồi giang sơn Việt Nam để cấn nợ. Dùng những món nợ ấy để nuốt dần Việt Nam như trăn nuốt mồi. Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng chính là khoản trả nợ của Hà Nội với "ơn nghĩa" Trung Cộng. Riêng CSVN thì được 2 thằng hùng mạnh nhất nhì khối CS viện trợ, được hậu thuẫn quá mạnh, Hà Nội hăng máu tràn vào Miền Nam tắm máu đồng bào. Kết quả họ nướng 3 triệu đồng bào thành đống xương tàn để có được "mùa xuân đại thắng" cho ĐCSVN. Kể từ năm 1972, Trung Cộng bắt tay Mỹ để tranh thủ làm ăn kinh tế, lúc đó Liên Xô và Trung Cộng càng mâu thuẫn hơn nữa. Đến năm 1978, Trung Cộng mở cửa đón Mỹ vào làm ăn, từ đó mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng đẩy lên cực độ. Giờ khoảng cách giữ Liên Xô và Trung Cộng quá xa, Việt Nam không thể đu dây được nữa, nếu tiếp tục đu, thì dây đứt CSVN sẽ chết. Cho nên, đến thời điểm này buộc CSVN phải chọn lựa 1 trong 2. Và Việt Nam đã chọn theo anh hai bỏ anh ba, thế là thằng Trung Cộng tức lồng lộn. Vậy là bao công sức tiền của của Trung Cộng đổ ra nuôi Việt Cộng để nhằm mục đích thu nợ bằng lãnh thổ Việt Nam giờ tan thành mây khói. Điên tiết vì mất cả chì lẫn chài, nên ngày 17/02/1979 Đặng Tiểu Bình xua hơn nửa triệu quân sang "dạy cho Việt Nam một bài học". Sau 1 tháng Trung Cộng tàn sát nhân dân Việt Nam và phá hủy 6 tỉnh biên giới miền Bắc thành bình địa, Việt Nam đánh bật quân cướp nước ra khỏi biên giới. Kể từ sau năm 1979, thằng em út Việt Nam có anh hai Liên Xô làm chỗ dựa, nên Hà Nội không việc gì phải hòa thuận với Trung Cộng. Thế nhưng, đến năm 1990, Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Cộng bơ vơ, nên nhóm Linh - Mười - Anh mang chiếu sang Thành Đô lót gối quỳ lạy tạ lỗi với anh ba vì đã lỡ dại phản anh ba theo anh hai trong quá khứ. Giờ anh hai chết rồi, nay thằng em út xin làm trâu ngựa để nghe anh ba sai bảo, đang mồ côi nên em quỳ lạy anh ba che chở dùm. Mà một khi đã tự mình xin làm nô lệ, thì những kế hoạch mà anh ba định làm dang dở trước đó phải được phục hồi lại hoàn toàn. Như vậy kế hoạch dang dở của Trung Cộng với Việt Nam là gì? Như đã nói phần đầu, đó là làm cho Việt Nam nợ ngập đầu và tiến hành cấn trừ bằng lãnh thổ. Cho nên, từ năm 1990 đến nay, CSVN liên tục nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để trả hết món nợ cũ. Đó là cái giá mà CSVN theo đuổi chủ thuyết CS để bảo vệ sự độc tài cai trị. Và tất nhiên, khi trả nợ cũ thì Trung Cộng cũng tròng thêm nợ mới trên đầu Việt Nam bằng thứ bẫy nợ mà Trung Cộng đã và đang áp dụng. Một khi CSVN đã gắn kết với Trung Cộng thì rứt không ra được, vì những món nợ đáng kinh tởm cứ lớn dần, và bắt buộc CSVN phải tìm cách nào đấy để giải quyết với dân nhằm thực hiện tiến trình nhượng địa cấn nợ. Và cứ như thế Trung Cộng tứ từ từ tùng xẻo lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang mất dần lãnh thổ về tay Trung Cộng, nhân dân đang phẫn uất. Thêm vào đó, là sự hèn hạ của ĐCSVN trước sự lấn tới của Trung Cộng làm lòng dân vốn đã căm phẫn lại càng căm phẫn. Chưa hết, đầu năm 2019, XHCN Venezuela đang lâm vào đường cùng, sợ phẫn uất của dân cộng hưởng với biến động Venezuela làm dân tràn xuống đường, thế nên ngày 17/02 năm nay, Đảng bật đèn xanh cho Ban Tuyên Giáo mở lệnh cấm, cho phép báo viết về chiến tranh biên giới 1979. Đây là hình thức xả van để giảm nhiệt tức giận của dân mà thôi. Chẳng có gì đáng mừng, mọi thứ đều không thay đổi. Tất cả đều nằm trong kế sách trị dân của ĐCS./. Đỗ Văn Ngà  
......

CSVN muốn thoát Tàu?

Nguyễn Bình Trung Theo ông Hữu Thịnh, Chủ tịch hội nhà báo Việt Nam cho biết là giữa tháng 12/2018, Trung ương CSVN cho phép tổ chức tưởng niệm 40 năm trận chiến biên giới phía Bắc với Trung Cộng bằng văn thơ. Tức là cho dùng văn thơ để ca ngợi cuộc chiến biên giới xảy ra vào tháng 2 năm 1979 cách nay 40 năm. Qua sự “bật đèn xanh” này, ta thấy trên các báo đài của CSVN, đã có nhiều bài mạnh dạn hơn nói về lịch sử đánh Tàu của dân Việt. Bắt đầu là những bài viết đề cập đến một cách chính thức trận hải chiến Hoàng Sa của hải quân VNCH nhân kỷ niệm trận chiến này vào tháng Giêng vừa qua trong khi đề cao người chiến sĩ VNCH vốn là điều CSVN vẫn cấm kỵ từ trước đến nay. Mới đây, báo chí lại bắt đầu đăng nhiều kỳ “hồi ức” của ông Vũ Mão về cuộc chiến biên giới và những tàn ác của quân đội Trung Cộng. Những loại bài viết như thế này không còn xuất hiện trên báo chí đảng từ hơn 10 năm qua. Lý do là CSVN sợ Tàu Cộng khó chịu. Ngay cả những địa danh đụng độ ác liệt với quân Tàu Cộng và những tấm bia nói lên tội ác Tàu cộng lập hồi năm 1979 – 1980 cũng bị CSVN phá. Vậy mà năm nay ban tuyên giáo thay đổi chủ trương cho kể tội xâm lược của Đặng Tiểu Bình và làm lễ kỷ niệm 40 năm trận chiến biên giới này. Theo hãng tin Reuters, khi coi được bản dự thảo thương thuyết của khối ASEAN về quy tắc ứng xử trên Biển Đông, thì thấy Hà Nội có vẻ mạnh dạn nhất trong khối thúc đẩy những điều khoản có thể làm phật lòng Bắc Kinh như hạn chế các vùng nhận diện phòng không, phi pháp hoá việc xây đảo nhân tạo, phong toả vùng biển và triển khai vũ khí tấn công. Đầu tháng Giêng năm nay, CSVN cũng nhanh nhẩu lên tiếng cổ võ tự do hải hành trên Biển Đông ngay sau khi chiến hạm USS McCampbell của Mỹ tuần tra sát gần Hoàng Sa trước sự phản đối của Tàu Cộng. Những động thái trên của Hà Nội có thể tạo ấn tượng cho người ta nghĩ rằng CSVN nay cũng đang muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Tàu Cộng? Giả thuyết này không phải là không tưởng. Bản chất của CSVN là không có sự chung thuỷ tuyệt đối với ai ngoài sự chung thuỷ trước sau với mục tiêu duy nhất là cướp và nắm giữ chính quyền bằng mọi giá. Lịch sử đã cho thấy người CS đã thanh trừng tàn sát chính những đồng chí anh em của mình để tranh giành quyền lực củng cố ghế ngồi trên của mình. Trong mục đích bám giữ quyền lực ta thấy lãnh đạo CSVN luôn đi tìm thế lực mạnh để chống lưng dựa vào, như đã lệ thuộc vào khối CS quốc tế để chiếm miền Nam, lệ thuộc vào Liên Xô đến nỗi Đặng Tiểu Bình của Tàu Cộng nổi giận muốn dạy cho bài học trong cuộc chiến biên giới 1979, và khi Liên Sô sụp đổ thì lại quay sang khấu tấu Tàu Cộng. Cho nên không phải là điều ngạc nhiên khi Tàu Cộng có dấu hiệu gặp khó khăn về kinh tế trong trận chiến thương mại với Mỹ, khi sự hung hăng của Tập Cận Bình khiến quốc tế lo ngại bắt đầu muốn cô lập kềm chế Tàu thì CSVN cũng bắt đầu muốn thủ cẳng chuẩn bị đi tìm một chỗ dựa khác và đang dọn mình vào thế đu dây giữa việc lệ thuộc Tàu và việc treo giá để bán mình cho đàn anh nào khác. Nhưng nếu quả thật như thế liệu CSVN có thể thoát Tàu được không? Tàu Cộng là thầy của CSVN và hơn ai hết cùng là cộng sản với nhau thì hiểu bản chất của nhau hơn ai hết, nhất là khi Tàu Cộng đã từng tin rằng CSVN đã ăn cháo đá bát phản bội mình để đi với Liên Xô trước kia. Cho nên Tàu Cộng đã thủ trước và đã gài lãnh đạo CSVN vào vòng kim cô khó thoát khỏi. Theo Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an Nhân dân và Giám đốc Học viện Chính trị Công An Nhân dân nay đã bị cho về hưu non, thì Trung Quốc đã cài cắm sâu người trong nội bộ đảng CSVN. Tàu Cộng cũng đã nắm kiểm soát được các địa điểm chiến lược về kinh tế và quân sự của Việt Nam. Tàu Cộng cũng là vua mua tham nhũng, nên giới cầm quyền CSVN vốn toàn quan tham đã dễ dàng bị mua chuộc để bị khống chế hoàn toàn. Ta cũng thấy Nguyễn Phú Trọng đã và đang hành xử rập khuôn theo Tập Cận Bình về việc nhất thể nắm Đảng và nhà nước, đốt củi nướng lò theo đuôi “đả hổ diệt ruồi”. Cho nên dù CSVN có muốn hay không, khả năng thoát Tàu của Hà Nội hầu như vô vọng khi mà CSVN vẫn còn cầm quyền trên đầu dân Việt. Một lý giải thực tế hơn, là những động thái có vẻ thoát Tàu kể trên chỉ là hình thức. Mục tiêu của Hà Nội là chiêu dụ Mỹ và các nước đang lo ngại Tàu để họ o bế mình hơn. Đồng thời qua đó lãnh đạo CSVN xoa dịu và ru ngủ tinh thần kháng Tàu trong nội bộ đảng và một số người dân nhẹ dạ, để tránh những cuộc biểu tình chống Tàu đe dọa sự sống còn của chế độ như vụ biểu tình ngày 10 tháng 6 xảy ra 12 tỉnh thành chống dự luật về đặc khu. Nói cách khác, Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm cho diễn trò chống Tàu trên mặt báo đảng chỉ là thủ thuật nhằm làm giảm áp suất của quần chúng ghét Tàu cộng trước sự căng thẳng của cuộc chiến mậu dịch Mỹ-Trung và nhất là che đậy âm mưu bán nước qua việc cho tư bản Tàu ào ạt đầu tư tại Việt Nam để tránh áp thuế của Hoa Kỳ gần đây. Tóm lại, quan hệ giữa CSVN với Tàu cộng đã kéo dài hơn nửa thế kỷ. Cái gọi là “tình hữu nghị” của hai đảng đã từng được ví là “răng môi” thì làm sao CSVN dám buông Trung Quốc. Đất nước Việt Nam chỉ thoát được cái bóng Tàu cộng khi nào Việt Nam có một thể chế thật sự do người dân bầu ra và đặt quyền lợi Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết. https://viettan.org/csvn-muon-thoat-tau/  
......

Sẽ có khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’?

Phạm Chí Dũng – VOA Một năm rưỡi sau vụ Nhà nước Đức tố cáo Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ Việt Nam tổ chức bắt cóc ngay tại Berlin, vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ - nổ ra vào những ngày giáp tết nguyên đán năm 2019 - đang hứa hẹn sẽ trở thành một vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Vẫn là ‘kẻ tử thù của chế độ’ Điểm trùng hợp ngẫu nhiên và cứ như thể một thứ điềm báo dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam là trong khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc vào thời gian cuối tháng 4 năm 2017 và chưa đầy một tuần sau đó báo chí Việt ngữ ở Đức và cả báo chí Đức đã đưa tin về vụ này, thì vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ xảy ra vào những ngày cuối tháng 1 năm 2019 cũng được phát tin khoảng một tuần sau đó bởi báo chí quốc tế. Nhưng đặc biệt nhất là được phát tin một cách rất chi tiết bởi một blogger - người bị xem là ‘kẻ tử thù của chế độ cộng sản Việt Nam’: Người Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu, hiện đang sống ở Đức. Trong khi một số tờ báo nước ngoài, trong đó có báo Thái Lan, bắt đầu đề cập vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ một cách thận trọng và tỏ ý nghi ngờ có sự nhúng tay của phía Việt Nam, thì blogger Người Buôn Gió đã huỵch toẹt: blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc bởi Tổng cục 2 tình báo (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) theo chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, kèm theo nhiều chi tiết khá cụ thể về vụ bắt cóc này: lực lượng bắt cóc khoảng 10 người, trong đó có 2 người biết tiếng Thái, lên đường đến Thái Lan vào ngày 23/1; trước khi bị bắt, Trương Duy Nhất đã nhận số máy lạ có đuôi 6521; ngày Trương Duy Nhất bị bắt là 26/1; Trương Duy Nhất bị bắt tại siêu thị FuturePark; khi bị bắt, Trương Duy Nhất còn xin thay áo; một số hình ảnh về Trương Duy Nhất tại Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Bangkok…. Những chi tiết quá cụ thể này khiến độc giả không thể không nghĩ rằng tác giả Người Buôn Gió, nếu không phải do hoang tưởng, đã nhận được những nguồn tin cực mật từ chính nội bộ đảng CSVN, hay cụ thể hơn là từ nội bộ của giới công an Việt Nam, hoặc từ chính người nằm trong ‘lực lượng bắt cóc’. Trong bài viết mô tả vụ bắt cóc Trương Duy Nhất, blogger Người Buôn Gió còn gửi đi một thông điệp vừa ẩn ý vừa lộ liễu: “Tôi biết nhiều hơn những gì tôi viết, những điều tôi biết là những bằng chứng chứ không phải là những suy đoán, trong vụ này cũng như trong nhiều vụ khác cũng vậy”. Đây là lần thứ hai Người Buôn Gió làm cho chính quyền Việt Nam điên đầu và có thể sẽ rơi vào trạng thái lúng túng cao độ như tình trạng hậu cuộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Tuy nhiên, những thông tin mà blogger Người Buôn Gió cung cấp trong loạt bài viết về Trương Duy Nhất cho đến nay chỉ thuộc về tác giả mà chưa thể kiểm chứng được. Nhưng khách quan mà xét, nếu nhìn lại vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc và loạt bài viết của Người Buôn Gió về vụ này, có thể nhận ra một số chi tiết mà Người Buôn Gió nêu ra là phù hợp với thực tế vụ bắt cóc này và kết quả điều tra đã được công bố của cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Công tố Đức. Nếu những cáo buộc chi tiết và như thể trong ruột mà Người Buôn Gió nhắm tới Tổng cục 2 quân đội là đúng, hoặc ít ra có một số cơ sở xác thực, vụ blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc tại Bangkok gần như chắc chắn sẽ trở thành vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Nhưng lần này, ‘tác giả’ không phải là Bộ Công an mà lại là Bộ Quốc phòng với vai trò Bí thư quân ủy trung ương là ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng. Liệu có ‘thỏa thuận ngầm’? Chính quyền Việt Nam đã im lặng trước tết nguyên đán khi xuất hiện tin tức Trương Duy nhất bị mất tích hay bị bắt cóc. Đó là khoảng thời gian mà có thể ‘thông cảm’ được: giới quan chức còn phải ăn tết. Nhưng sau cái tết nguyên đán đầy cảnh ‘lót tay’, chúc tụng đãi bôi và ăn nhậu xả láng thì lại là chuyện khác: thông tin lan rộng và đầy tính nghi ngờ trên một số tờ báo quốc tế về vụ Trương Duy Nhất sẽ khiến chính quyền Việt Nam không thể nhắm mắt che tai. Do đó, nhiều khả năng là sau tết nguyên đán 2019, chính quyền Việt Nam sẽ phải có thông báo về vụ này, trong đó hoặc phủ nhận việc chính quyền này ra lệnh bắt cóc Trương Duy Nhất, hoặc chính thức xác nhận Trương Duy Nhất đã bị bắt nhưng là ‘tự nguyện về nước đầu thú’ do hành vi phạm pháp - tương tự cái cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đồng thanh tương ứng ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’ vào đầu tháng 8 năm 2017. Điều an ủi mà có thể khiến chính quyền Việt Nam tạm thời yên tâm để đưa ra một thông báo theo kiểu trên là khác với lời tố cáo mạnh mẽ của nhà nước Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh, chính quyền Thái Lan sẽ khó mà lên án chính quyền Việt Nam tổ chức bắt cóc người một cách bất hợp pháp trên đất Thái do một ‘thỏa thuận ngầm’ nào đó (nếu có) giữa hai bên, cộng thêm mối quan hệ Việt - Thái được xem là ‘ngày càng tốt đẹp’, và chế độ của Thủ tướng Prayuth Chan-ocha chẳng ưa gì tự do báo chí. Củng cố cho khả năng này là động thái mới nhất của lãnh đạo Cục Di trú Thái Lan thông tin rằng họ đã không có hồ sơ về việc Trương Duy Nhất nhập cảnh vào Thái Lan - một vấn đề có thể được hiểu là ông Nhất đã vào đất Thái theo cách không hợp pháp và do vậy các cơ quan Thái có thể sẽ cho rằng họ không liên can đến vụ việc này. Nhưng còn sức ép của các tổ chức nhân quyền quốc tế và truyền thông quốc tế đòi hỏi trách nhiệm của người Thái phải tìm ra tung tích của Trương Duy Nhất? Chắc chắn chính quyền Thái Lan sẽ phải tiến hành một số động tác nào đó, dù chỉ cho có, để có cơ sở hồi âm cho quốc tế về vụ việc này. Nội dung hồi âm này lại có thể có độ chênh, thậm chí là chênh biệt đáng kể, với một thông báo mà phía Việt Nam phải nêu ra sau tết nguyên đán 2019 về vụ Trương Duy Nhất. Khi đó, sự thật sẽ lộ dần ra. Song mối lo sợ và nguy hiểm lớn nhất của chính quyền Việt Nam, và của cả chính quyền Thái Lan, sẽ đến từ… Người Buôn Gió. Sẽ có bằng chứng? Bởi khi Người Buôn Gió dám khẳng định là anh ta có những bằng chứng về vụ Trương Duy Nhất bị bắt cóc mà không phải là suy đoán, toàn bộ những ai quan tâm đến vụ này đều ngóng cổ trông chờ Người Buôn Gió tung ra những bằng chứng đó để xem tính xác thực đến đâu. Còn chính quyền Việt Nam, đặc biệt là thủ tướng Phúc và Tổng cục 2, có lẽ sẽ sống trong nỗi hồi hộp mòn mỏi. Nếu Người Buôn Gió không thể cung cấp những bằng chứng trên? Nhiều quan chức Việt Nam sẽ thở phào và tổ chức phản đòn để cho quốc tế thấy ‘chính nghĩa Việt Nam’. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu trong những ngày tới một số bằng chứng, và nếu đúng là bằng chứng có tính xác thực, được công bố theo đúng cái cách mà Người Buôn Gió thường làm là rỉ rả giết dần giết mòn sức chịu đựng của địch thủ? Chỉ có thể là những cơn đau tim, thống phong và… xơ gan cổ trướng. Hoặc cả ba. Và nếu quả thực vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ sẽ nổ ra như một cuộc khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’, đó sẽ là điềm báo ‘rông cả năm’ hoặc còn lâu hơn thế dành cho tương lai toàn màu tối của chính thể độc trị ở Việt Nam.  
......

Ngày đầu năm: Bàn chuyện cúng bái của dân và mồ mả của lãnh đạo CSVN

Tác giả: Quê Hương Những ngày đầu năm là những ngày người dân Việt đổ đi khắp chốn để cầu khấn lễ bái để cả năm được an lành, sức khỏe và thịnh vượng. Khắp các chùa chiền từ Yên Tử, Chùa Hương đến Bái Đính rồi đền Trần, đâu đâu cũng đông nghịt người, chen lấn xô đẩy nhau đến ngất xỉu, rồi nạn “chặt chém khách” diễn ra nhan nhản. Dân biết, quan biết, Đảng biết mà không thể hoặc không làm gì để mọi việc trở nên tốt đẹp hơn. Rồi hết năm này qua năm khác, đến hẹn lại lên, nạn “hội hè chùa chiền” khiến nhức nhối dư luận và tạo ra một hình ảnh vô cùng xấu xí mông muội về Việt Nam đối với thế giới văn minh. Tại sao lại như vậy nhỉ? Quyền thờ phụng, hành hương là quyền của dân và là tự do của dân. Nhưng dân thì không thể nào đứng ra tổ chức các lễ hội, các nghi thức chùa triền, phân bổ luồng giao thông, thu phí, đảm bảo trật tự được. Đó là công việc của chính quyền và chỉ của chính quyền mà thôi. Ở một đất nước chỉ đề cao tính chính danh của Đảng Cộng Sản, đề cao vai trò của Hồ Chí Minh như một vị thần thánh của dân tộc và tôn thờ chủ nghĩa vô thần thì tại sao, chính quyền lại để người dân mông muội thờ cúng rồi hành hương theo kiểu này, khiến tốn kém cho nhân dân, chưa kể mất mạng người vì các tai nạn khác nhau.   Vấn đề là Đảng có lợi từ những hoạt động thờ cúng mông muội ấy. Bởi họ thu được rất nhiều thuế và phí. Từ phí thu tiền tàu xe trên đường, đến phí thăm quan du lịch, phí bán sớ ấn lệnh đến tiền cho thuê ki ốt bán hàng, tiền cho thuê bãi trông giữ xe, tiền cho phép đăng kí các loại dịch vụ tàu thuyền … Dân các địa phương cũng có chút tiền dịch vụ kiếm sống nhưng số tiền đó chỉ là muỗi so với tiền mà chính quyền và các công ty sân sau của các quan chức chính quyền kiếm chác được. Thiệt hại nhất vẫn chính là người dân. Thay vì được đi hành hương một cách văn minh và có tổ chức, họ phải tham gia vào những hành trình hành xác và nhiều lúc tiền mất tật mang. Nhưng chẳng biết kêu ai. Một phần của nạn chùa chiền đầu năm cũng chính tại bản chất nói một đằng làm một nẻo của chính quyền cộng sản Việt Nam. Điều này khiến cho người dân mất lòng tin và chỉ biết trông chờ vào một thế lực siêu nhiên nào đó để che chở cho mình. Một Đảng luôn đề cao sự lãnh đạo của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng các quan chức cao nhất Việt Nam lại xây cho mình những lăng mộ to gấp hàng chục, hàng trăm lần các vua chúa thời phong kiến để thờ cùng thì bảo sao dân tin vào chủ nghĩa cộng sản lừa dối ấy. Nếu như trước đây, các lãnh đạo cộng sản Việt Nam trừ Hồ Chí Minh, đều được đưa vào chôn tại nghĩa trang Mai Dịch thì nay kể từ năm 2013 khi Võ Nguyên Giáp chết, ông chọn khu vực ven biển Vũng Chùa, Đảo Yến rộng tới 10 hecta làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình. Ông Nguyễn Bá Thanh được an táng tại quê nhà xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, Quảng Nam cũng vài ngàn mét vuông, gần đây nhất là trường hợp của chủ tịch nước Trần Đại Quang với khu lăng mộ cũng 3 – 4 hécta ở quê nhà tại Ninh Bình. Đấy là chưa kể hồi tháng 5/2017, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cho phê duyệt quy hoạch chi tiết nghĩa trang dành cho cán bộ cấp cao của ĐCS VN rộng 120 ha tại xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, Hà Nội với kinh phí khủng là 1400 tỷ đồng. Ở một đất nước mà Đảng Cộng Sản luôn ủng hộ sự vô thần, tôn thờ chủ nghĩa duy vật biện chứng hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội thì các lãnh đạo Cộng sản cần gì phải chăm chút cho mộ phần của mình (để thờ cúng) để làm gì, sao không hỏa táng như dân thường vẫn làm??? Trong khi đấy, dân đen ở nhiều nơi còn bị cướp đất, không có đất trồng trọt sinh sống, chứ nói gì đến chuyện có đất mà chôn mới cất. Nói như thế mới thấy cái lăng của ông Hồ Chí Minh thật là khốn nạn. Chỉ vì noi gương và học tập theo ông ấy mà lăng tẩm đền đài của các quan chức lớn nhỏ cứ mọc lên như nấm ở khắp mọi nơi. Và có lẽ cũng chỉ vì nó mà dân cứ phải đi thắp hương cúng bái tứ tung mọi nơi mà giờ này Việt Nam vẫn như con tàu mất lái đi mãi mà chả biết bến bờ Chủ Nghĩa Xã Hội nằm ở đâu. Và đã đến lúc phải phá bỏ thứ Chủ Nghĩa Xã Hội điên rồ này cùng với Chủ Nghĩa Lăng Mộ cổ hủ, đã làm khổ dân ta mấy chục năm qua!
......

Pages