Dân biểu Đức bị từ chối không cho thăm Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh

Những ngày trung tuần tháng 6 vừa qua, hai dân biểu liên bang Đức là ông Martin Patzelt và ông Philipp Lengsfeld đã sang Việt Nam với tư cách thành viên của Ủy ban Nhân quyền và Cứu trợ Nhân đạo của Quốc hội Liên bang Đức. Chuyến đi này của hai vị dân biểu do Quốc hội Liên bang Đức hỗ trợ trong khuôn khổ chương trình "Dân biểu bảo vệ Dân biểu", một chương trình đã được mở rộng để bảo vệ cho cả cho những Người Bảo vệ Nhân quyền trên thế giới chứ không riêng gì cho các vị dân cử. Trọng tâm của chuyến đi là tiếp tục tìm hiểu và thâu thập thông tin về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam cũng như thăm Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh trong tù, như ông Patzelt đã tuyên bố hồi tháng 4 năm ngoái. Nhà cầm quyền cộng sản đã từ chối không cho hai vị dân biểu thăm blogger Nguyễn Hữu Vinh trong tù, chẳng những thế còn dùng nhiều mánh khóe gây trở ngại khiến chuyến đi của hai vị dân biểu gặp khá nhiều khó khăn. Nhưng dân biểu Patzelt vốn xuất thân từ Cộng hòa Dân chủ Đức thời cộng sản cai trị nên nên ông thừa hiểu các thủ đoạn tiểu xảo của CSVN. Trở về Đức, dân biểu Martin Patzelt đã lên tiếng: "tôi phải nói lên nỗi bất bình của tôi trước những yếu kém vẫn còn lớn về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Thật đáng tiếc là tôi đã không được phép thăm gặp blogger Nguyễn Hữu Vinh đang bị giam tù". ***************** Sau đây là ghi nhận của ông Martin Patzelt sau chuyến thăm Việt Nam vừa qua do Trần Việt chuyển dịch: Với sự hỗ trợ của Quốc hội Liên bang Đức và trong tư cách là đại diện của Ủy ban Nhân quyền và Cứu trợ Nhân đạo, tôi cùng dân biểu đồng nghiệp Philipp Lengsfeld đến thăm Việt Nam tháng 6 năm 2017. Trọng tâm là để ủng hộ các nhà tranh đầu nhân quyền, những người mà chúng tôi hỗ trợ và bày tỏ tình đoàn kết trong khuôn khổ chương trình "Dân biểu bảo vệ dân biểu" của Quốc hội Liên bang Đức. Đồng nghiệp Lengsfeld hỗ trợ luật sư Lê Quốc Quân, người đã được thả khỏi nhà giam nhưng trước sau vẫn bị áp lực của nhà chức trách. Tôi yểm trợ blogger Nguyễn Hữu Vinh, người vẫn còn bị giam tù. Trong chuyến thăm này chúng tôi đã đến thăm trại giam nơi Nguyễn Hữu Vinh đang ngồi tù, điều rất quan trọng đối với tôi. Trong cuộc trao đổi với ban quản lý nhà tù, chúng tôi đã nhấn mạnh sự cần thiết đối xử bình đẳng giữa tù nhân "thường phạm" và tù nhân chính trị. Cơ quan chức năng Việt Nam đã không cho phép gặp tù nhân chúng tôi muốn gặp. Việc tiếp xúc với thân nhân của những người bị cầm tù chỉ thực hiện được một phần. Ở Việt Nam, gia đình của tù nhân chính trị bị áp lực nặng nề từ cơ quan chức năng cũng như của bọn gọi là "dân phòng" hay "côn đồ". Trong dịp tiếp xúc với đại diện các cộng đồng tôn giáo và đại diện xã hội dân sự cũng như trong chuyến viếng thăm một nữ tu viện, chúng tôi nhận được thông tin về tình hình nhân quyền ở Việt Nam nói chung. Ở đây vấn đề được nêu ra là về các trường hợp tra tấn và tử vong không rõ nguyên nhân khi bị giam giữ, và tình hình của những cộng đồng tôn giáo không đăng ký chính thức. Các cuộc trao đổi cho thấy rõ ràng một lần nữa rằng xã hội mất đi những đóng góp quý giá khi bị chính phủ ngăn chặn vì lo sợ những đóng góp đó. Philipp Lengsfeld và tôi cảm ơn Chính phủ Việt Nam và các cơ quan hữu trách đã cho cơ hội thăm nhà tù và các tỉnh bị thiệt hại bởi các thảm họa môi trường. Đồng thời tôi phải nói lên nỗi bất bình của tôi trước những yếu kém vẫn còn lớn về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Thật đáng tiếc là tôi đã không được phép thăm gặp blogger Nguyễn Hữu Vinh đang bị giam tù. Nguồn: Forum Vietnam 21 Bản tiếng Đức:http://www.martin-patzelt.de/lokal_1_1_348_Vietnam-verweigerte-Besuch-bei-inhaftiertem-Menschenrechtler.html
......

Nước Anh tan nát sau cơn bão chính trị

Gần một tuần từ sau ngày bầu cử đầy chấn động, những cơn sóng ngầm vẫn tiếp tục làm chao đảo chính trường Luân Đôn trong bối cảnh tuần sau Anh Quốc chính thức bắt đầu đàm phán với Liên Hiệp Châu Âu về thủ tục Brexit. Hầu như tất cả các báo Anh, từ những tờ bình dân như Metro cho đến những tờ cao cấp như Financial Times đều gọi nữ thủ tướng Theresa May là "xác chết biết đi". Phóng viên nào cứ hễ gặp nghị sĩ của đảng Bảo Thủ đều hỏi xem họ có còn tin tưởng lãnh đạo của mình hay không. Thủ tướng Anh đã phải xin lỗi các đảng viên đã tổ chức bầu cử trước thời hạn, khiến họ mất ghế. Bà May tuyên bố chỉ ngồi ghế chủ tịch đảng khi nào các đảng viên còn tín nhiệm mà thôi. Lẽ ra tuần sau là nữ hoàng Anh phải có bài phát biểu khai mạc Quốc Hội theo thông lệ, nhưng cho tới giờ này, nhiều tin tức cho rằng việc đó có thể bị hoãn lại. Đây là một dấu hiệu cho thấy những bất ổn bên trong nội bộ của đảng cầm quyền. Dù rằng bộ trưởng Ngoại Giao Boris Johnson phủ nhận các tin đồn, nhưng theo báo chí ông có thể là người chuẩn bị thay thế vị trí lãnh đạo của bà Theresa May. Nhưng bất kể ai sẽ làm thủ tướng thì đảng Bảo thủ cầm quyền đều sẽ gặp khó khăn khi phải đối mặt với phe đối lập đang được giới trẻ ủng hộ. Lãnh đạo Công Đảng Jeremy Corbyn, theo báo chí, đang đầy tự tin sau thắng lợi chủ yếu nhờ vào số cử tri trẻ tuổi, hăng hái tham gia làm tăng tỷ lệ người đi bỏ phiếu lần này. Cứ theo đà này thì chính phủ nhiệm kỳ sau sẽ thuộc về Công Đảng. Trong bối cảnh như vậy, bất kỳ ai ngồi vào ghế lãnh đạo nước Anh hiện nay đều sẽ rất bất an và luôn trong tâm bão chính trị. Anh yếu thế trước hai đầu tàu Liên Hiệp Châu Âu là Pháp và Đức Thứ Hai tuần sau, 19/06/2017 nước Anh bắt đầu đàm phán để rút khỏi Liên Hiệp Châu Âu, đúng thời điểm kết quả cuộc bầu cử Quốc Hội Pháp đem lại chiến thắng áp đảo cho lực lượng mới của tổng thống Macron. Tân lãnh đạo Pháp thì đang kiên quyết bảo vệ mô hình liên minh, vốn là ý tưởng của nước Pháp. Sau nước Đức giờ lại tới nước Pháp lạnh lùng không thương xót quyết sẽ "không để lại gì" cho nước Anh đã trót ra quyết định rời bỏ con tàu châu Âu. Bên kia bờ Đại Tây Dương, bàn tay của tổng thống Hoa Kỳ mới ngày nào trấn an thủ tướng Anh nay lại ngỏ ý sẽ không sang Anh vào tháng 7/2017 để tránh những cuộc biểu tình rầm rộ của dân chúng. Thủ tướng May hôm nay phải bay sang Bắc Ai Len để gặp lãnh đạo Đảng Dân Chủ Liên Hiệp- DUP nhỏ bé với chỉ vỏn vẹn 10 nghị sĩ trong Quốc Hội. Đảng này có lẽ là người bạn duy nhất của chính phủ Anh trong hoàn cảnh này. DUP không hoàn toàn vô tư mà kèm theo là rất nhiều điều kiện về quyền lợi kinh tế. Trong khi đó, đầu tàu kinh tế là Luân Đôn thì hầu như đều nằm trong tay của phe Công Đảng bên đối lập. Thị trưởng Luân Đôn cũng đòi một qui chế riêng cho thành phố này trong cuộc đàm phán Brexit. Có thể thấy rất rõ ràng là nước Anh đang có nguy cơ tan rã thành nhiều mảnh ngay khi mới chỉ chuẩn bị bước ra khỏi mối quan hệ liên kết với Liên Hiệp Châu Âu. Thủ tướng Anh vận động tranh cử với khẩu hiệu muốn nước Anh "vững mạnh và ổn định", nhưng rõ ràng là cử tri không mặn mà gì lắm với hướng đi đó. Kịch bản Brexit "cứng" hay "mềm" ? Như vậy, cuộc sống của công dân châu Âu đang làm việc ở Anh sẽ ra sao ? Bất kể đảng nào cầm quyền thì Luân Đôn đều đã khởi động điều khoản 50 và sẽ phải đàm phán từ tuần sau để ra khỏi Liên Hiệp. Vấn đề là người dân bỏ phiếu Brexit trong cuộc trưng cầu dân ý, nhưng không ai định nghĩa rõ ràng Brexit nghĩa là như thế nào. Bản thân mỗi nước thành viên châu Âu đều có điều kiện khác nhau trong mối liên kết, ví dụ như Hungary và Ba Lan vẫn dùng tiền riêng, còn nước Anh không hề mở cửa biên giới như hiệp ước Schengen. Bây giờ là lúc nước Anh đưa ra các điều kiện cụ thể xem muốn rút chân ra khỏi hiệp ước cụ thể nào, và thủ tướng Theresa May trước đây muốn ngưng việc phải tuân thủ theo phán quyết của tòa châu Âu, nhưng vẫn giữ nguyên tư cách trong khối thị trường chung châu Âu, quyết tâm không nhân nhượng với các đòi hỏi của Bruxelles. Bây giờ bước tường châu Âu cao thêm rất nhiều sau kết quả bầu cử Pháp. Còn vị thế của thủ tướng Anh kém đi rất nhiều sau thất bại chính trị vừa qua. Chính phủ mới sẽ khó dám đưa ra đòi hỏi gì quá đáng. Lãnh đạo Công Đảng đã tuyên bố ngay sau ngày thắng cử là sẽ bảo đảm cuộc sống cho những công dân châu Âu hiện đang làm việc ở Anh, theo hiệp ước tự do cư trú của Liên Hiệp Châu Âu. Chính điều này là một trong số các tâm điểm tạo ra tranh cãi trong cuộc trưng cầu dân ý về Brexit, vì người ta cho rằng công dân từ châu Âu sang Anh làm việc tạo ra gánh nặng cho hệ thống y tế và an sinh xã hội. Trong bối cảnh tình hình chính trị nội bộ phân rã có thể nói là tối đa, nước Anh sẽ khó đàm phán rời Liên Hiệp Châu Âu theo kiểu trọn gói, mà cũng sẽ rã rời theo từng mảnh một. Ví dụ như đảng Dân Chủ Liên Hiệp trong liên minh cầm quyền muốn vẫn duy trì đường biên giới mềm với Ai Len, tức là một nước trong khối Liên Hiệp Châu Âu, cho nên chắc chắn sẽ đòi một ngoại lệ. Mà nhìn quanh nước Anh thì ai cũng muốn được ngoại lệ như vậy và có thế mạnh riêng để đòi, như là thái độ thân Âu của xứ Scotland và quyền lợi kinh tế hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào châu Âu như thủ đô Luân Đôn. Cho nên, có vẻ như nước Anh sẽ bước vào bàn đàm phán bằng một bản kế hoạch rời vụn, chắp vá và hoàn toàn yếu thế từ đủ mọi phía. Dư luận Anh "bừng tỉnh" sau khi bỏ phiếu Brexit Cuối tháng 6/2017, các lãnh đạo Liên Hiệp Châu Âu họp thượng đỉnh mà không có mặt nước Anh, để bàn về các vấn đề như di dân, an ninh, việc làm và đặc biệt nhất là kế hoạch đàm phán để đối phó với đồng minh cũ là nước Anh. Đây là một hình ảnh rõ ràng nhất để dân chúng người Anh thấy là họ không còn ở trong khối nữa. Tính ra đã gần đúng một năm kể từ tháng 6/2016 khi nước Anh bỏ phiếu và ra quyết định rời khỏi Liên Hiệp Châu Âu, nhưng có vẻ như là người dân và kể cả báo chí Anh vẫn còn "ngủ nướng" trong giấc mơ tranh cãi xem có nên Brexit hay không, chứ chưa chịu thức giấc để đặt chân xuống mảnh đất mà giờ đây đã bắt đầu tách khỏi gia đình châu Âu vì thủ tướng đã chính thức khởi động điều 50 để bắt đầu qui trình đó. Nhiều người Anh có lẽ bây giờ đang ngơ ngác tự hỏi vậy thì họ sẽ làm gì nếu không có Liên Hiệp Châu Âu bên cạnh nữa. Có lẽ đó cũng chính là điều khiến giới trẻ nước Anh thức giấc và bỏ phiếu cho bên phía đối lập. Chính họ sẽ là người phải trả cái giá sau này cho những sai lầm hiện nay, mà gánh nặng kinh tế sẽ khiến họ bất lợi so với bạn bè bên châu Âu. Sinh viên Anh bây giờ phải trả tiền học, trợ cấp và an sinh xã hội không còn dễ dàng thoải mái như trước, mà tương lai thì có nguy cơ phải thắt lưng buộc bụng để trả phí cho những sai lầm của đảng cầm quyền. Với lá phiếu cho phe đối lập vào giờ chót như vừa qua, ít nhất họ hi vọng có được tiếng nói trong giai đoạn khó khăn này. Hiện tượng này cho phép nhìn nhận rằng xã hội nước Anh đã có một thay đổi rất lớn ở bên trong và xu hướng này có thể cứu vãn được phần nào mối quan hệ đã tan rã giữa nước Anh và Liên Hiệp Châu Âu. Nguồn: RFI
......

Các tổ chức nhân quyền và an ninh số kêu gọi trả tự do cho ký giả phim ảnh Nguyễn Văn Hóa

Ngày 3 tháng Năm, 2017 Vào dịp kỷ niệm Ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới, nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do ngay cho anh Nguyễn Văn Hóa, một ký giả phim ảnh bị bắt giữ từ tháng Giêng. Anh Hóa là một huấn luyện viên về an ninh số, một ký giả dân báo và cộng tác viên của Đài Á Châu Tự Do. Anh tường trình tin tức liên quan đến thảm họa môi trường do công ty Formosa gây ra hàng loạt cá chết dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam. Anh Hóa, 22 tuổi, là người đầu tiên dùng máy ảnh gắn trên drone để phát hình trực tiếp cuộc biểu tình trước cổng nhà máy thép Formosa. Trong tháng Mười năm ngoái, những hình ảnh và video của anh thực hiện về cuộc biểu tình trên 10 ngàn người ôn hòa đã được nhiều hãng thông tấn đưa tin và lan truyền trên mạng. Trước khi bị bắt, anh Hóa đã mở lớp để dạy về căn bản bảo mật máy tính tại các vùng nông thôn Việt Nam. Anh Hóa bị bắt giữ vào ngày 11 tháng Giêng, 2017 và bị cáo buộc tội “lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích nhà nước” theo Điều 258 Bộ luật hình sự. Anh bị biệt giam nhiều tuần lễ trước khi gia đình được thông báo. Theo gia đình cho biết thì nhà cầm quyền đã thay đổi cáo buộc anh sang tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88. Nhà cầm quyền Việt Nam gần đây đã tung ra một video của anh Hóa “xin lỗi” về việc đưa tin biểu tình nhằm mục đích can ngăn quần chúng tham gia vào các sinh hoạt dân sự ôn hòa và làm phóng sự dân báo. Việc bắt giữ anh Nguyễn Văn Hóa diễn ra trong thời điểm nhà cầm quyền Việt Nam mở cuộc đàn áp các ký giả dân báo, các nhà hoạt động mạng và các nhà họat động bảo vệ nhân quyền. Hai blogger Nguyễn Văn Oai và Trần Thị Nga cũng bị bắt giữ sau anh Hóa vài ngày. Trước tình trạng gia tăng các vấn nạn xã hội và môi trường, chính quyền Việt Nam nên hoan nghênh những nỗ lực đối thoại ôn hòa và minh bạch. Đàn áp các ký giả dân báo chẳng những vi phạm nhân quyền mà còn là một rào cản lớn cho ước vọng của Việt Nam muốn trở thành một tụ điểm công nghệ và sáng tạo. Đồng ký tên Access Now ASL19 Aspiration Brave New Software China Digital Times Inc. Digital Rights Foundation Electronic Frontier Foundation eQualit.ie Freya Labs Front Line Defenders Give ’N Get Nigeria GreatFire.org Guardian Project Human Rights in China Internet Without Borders Netblocks Open Observatory of Network Interference (OONI) Reporters Sans Frontieres Security First Sinar Project Suara Rakyat Malaysia (SUARAM) Taiwan Association for Human Rights Thai Netizen Network The 88 Project The Serval Project Tibet Action Institute Usuarios Digitales Việt Tân  
......

Cologne không có chỗ đứng cho hận thù

Người Đức ai cũng biết ngày 20.4 là một ngày không yên, đó là ngày sinh Hitler. Các tổ chức cực hữu thường lấy ngày này để tổ chức các sự kiện nhằm khơi lại tư tưởng quốc xã. Kẻ thù nguy hiểm nhất của nền dân chủ Đức hiện naylà đảng cánh hữu AfD (Sự lựa chọn của nước Đức), với các cương lĩnh bài ngoại (tức là bài các bạn và tôi), chống EU giống FN bên Pháp. Mặc dù ban lãnh đạo đảng dân túy thiên hữu AfD luôn khẳng định là họ không theo đuổi chủ nghĩa chủng tộc, nhưng việc AfD định lấy ngày 20.4 để tổ chức đại hội Đảng lại nói lên sự thật khác. Thành phố Cologne của tôi ở được chọn làm nơi 600 đại biểu AfD về dự đại hội cũng không phải là điều ngẫu nhiên. Cả thế giới đã từng phẫn nộ vì trong hai đêm giao thừa liên tiếp2015-2016 và 2016-2017, hàng ngàn thanh niên hồi giáo đã kéo về đây để quấy rối các thiếu nữ Đức. Khái niệm „Kölner Silvester“ (đêm giao thừa Cologne) đựợc coi là một biểu tượng của xung đột tôn giáo và văn hóa tại Đức sau cuộc khủng hoảng tỵ nạn 2015. Các chính khách AfD thường gặp khó khăn trong việc tổ chức các sự kiện lớn, vì nhiều chủ nhân các phòng họp hoặc các tòa thị chính đã khước từ việc cho AfD sử dụng địa bàn của mình để truyền bá các tư tưởng bài châu Âu, bài ngoại quốc. Do vậy AfD hy vọng dân Cologne sẽ đón chào hoặc chí ít cũng không ra mặt phản đối đại hội đảng của họ. Là một thành phố tự do (weltoffene Stadt) do người La-Mã cổ đại xây dựng cách đây 2.000 năm, thành phố Cologne đã không cấm hoặc tìm cách phá rối đại hội đảng AfD. Nhưng người dân Cologne cũng quyết tâm lên tiếng phản đối sự có mặt của các tư tưởng bài ngoại, bảo vệ sự đa dạng văn hóa của thành phố. Từ 20.4 đến nay, trung tâm thành phố đã được 4.000 cảnh sát cùng hàng trăm xe đặc chủng bảo vệ như một pháo đài. Chính quyền sợ nhất là sẽ có một cuộc xung đột giữa các phần tử cực tả và cực hữu, giữa các nhóm hồi giáo và cánh hữu. Cách đây 4 hôm, một bức thư nặc danh mang dấu ấn phát xít đã dọa đánh bom phá cuộc biểu tình này. Theo dự tính sẽ có khoảng 50.000 người biểu tình phản đối AfD sáng nay 22.4 tại Cologne và tôi là một trong số đó. Vì tàu điện đi vào thành phố bị cảnh sát dừng lại cách trung tâm 4km, mọi người phải xuống đi xe bus tiếp tục thêm 2km nữa vào đến vùng rìa của „tâm bão“. Sau đó chỉ còn cách cuốc bộ gần 2km để đến quảng trường Heumarkt, đối diện với khách sạn Maritim, nơi đại hội đảng AfD diễn ra. Trước khi đoàn biểu tình khởi hành, quảng trường Heumark là một biển người bao quanh khách sạn Maritim. Thanh niên, phụ nữ, người già vui vẻ đánh trống, ca hát, hô khẩu hiệu phản đối AfD. Một số hội Carneval cũng đã mặc đồ hóa trang đến tham gia. Họ nói, lễ hội Carneval chỉ có ý nghĩa trong một xã hội cởi mở, nhân đạo. Nhiều chính khách tên tuổi của các đảng dân chủ đã lên tiếng kêu gọi bảo vệ nền dân chủ và xã hội cởi mở. Hàng trăm cảnh sát đứng dày đặc thành bức tường bảo vệ khách sạn. Các đại biểu AfD được cảnh sát hộ tống hai bên đi vào khách sạn Một số đảng viên AfD trèo lên tường khách sạn phất cao biểu ngữ „Cảm ơn cảnh sát“. Sau 11:30h cuộc tuần hành bắt đầu. Để đảm báo cho cuộc tuần hành được diễn ra trôi chảy, thành phố đã cấm tất cả xe cộ và tàu điện trên tuyến đường đoàn đi qua. Vì vậy dòng người được phép đi trên cả hai chiều đường và cả trên đường ray tầu điện. Sẽ không có ai vì xuống đường bảo vệ chính kiến mà bị phạt vì tội „cản trở giao thông“.  
......

Bầu cử gay go. Nước Pháp đi về đâu ?

Ít khi một cuộc bầu cử ở Pháp được dư luận quốc tế chú ý và theo dõi như cuộc bầu cử Tổng Thống Pháp trong ba tuần lễ tới. Cuộc bầu cử này không còn là một sinh hoạt chính trị nội bộ của nước Pháp, mà có thể sẽ làm đảo lộn khuôn mặt chính trị ở Âu Châu. Phe cực hữu đang đứng đầu trong những cuộc thăm dò dư luận. Nếu Cực Hữu thắng cử, Liên Hiệp Âu Châu có thể đi tới tan rã, đồng Euros lung lay, đưa tới khủng hoảng kinh tế Âu Châu, và từ đó đe dọa kinh tế thế giới, bởi vì Âu Châu, cùng với Hoa Kỳ và Trung Hoa, là một trong ba trọng tâm kinh tế thế giới.  Người ta nhìn về Paris, hồi hộp, lo ngại. Đảng cực hữu FN ( Front National , Mặt Trận Quốc Gia ) theo chủ nghĩa quốc gia quá khích, chống kinh tế thị trường, chống thế giới hoá, chủ trương bế quan toả cảng, đóng cửa biên giới, ra khỏi Liên Hiệp Âu Châu, ra khỏi khối tiền tệ Euros. Sau Brexit ( Nước Anh ra khỏi Liên Hiệp Âu Châu gần đây ), nếu nước Pháp rút , Âu Châu sẽ tan rã, sớm hay muộn, vì nước Pháp, cùng với Đức, là hai nước chủ chốt của Âu Châu. Hai cái chân của Âu Châu. Một cái chân què, Âu Châu sẽ  khập khiễng trước khi té. Nhất là hiện nay, luồng gió quốc gia chủ nghĩa đang thổi mạnh ở các nước Âu Châu, từ Anh, tới Áo, Hung, Hoà Lan , Pháp , sau khi đã gây bão tố ở Hoa Kỳ với hiện tương Donald Trump. Với hiện tượng Trump, các nước dân chủ Tây Phương đang đi vào một cơn khủng hoảng chính trị nghiêm trọng. Người dân không còn tin tưởng các đảng phái, các hệ thống, các nhân vật đã thay nhau lãnh đạo từ mấy chục năm nay. Nếu thế giới hóa , nói chung, đã nâng cao đời sống của người dân ở nhiều nước, cũng đã đưa tới bất công, đã gạt ra lề đường những người không kịp thích ứng với thời đại mới, đã làm dân nhiều nước Tây Phương thấy tương lai của mình mù mịt. Nhất là thấy mình mất chỗ đứng, bơ vơ ngay trên đất nước mình. Thấy Tây Phương bị đe dọa tứ bề. Đe dọa bởi hàng hóa nhập cảng. Đe dọa bởi phong trào di dân. Đe dọa bởi khủng bố Hồi Giáo. Người Tây phương cảm thấy họ không còn làm chủ vận mệnh của mình. Người dân lại càng bất mãn hơn, muốn lật đổ tất cả hệ thống cũ, khi thấy các chính khách bất lực, vì quyền lực thực sự không còn nằm trong tay các nguyên thủ quốc gia, đã rơi vào tay các thế lực tài phiệt quốc tế, những Exxon, Google, Mosanto, Amazon, Goldman Sachs…Phong trào gọi là dân túy ( populisme, populism ) , đúng hơn là mị dân, lợi dụng không khí bất mãn đó, trở thành những lực lượng chính trị chủ yếu. TẢ VÀ HỮU Nước Pháp không tránh khỏi hiện tượng đó. Đảng cực hữu FN, Front National, trước đây chỉ là một nhóm chính trị bên lề, ngày nay trở thành đảng số 1. Trước đây, người ta bầu cho FN một cách lén lút, để phản kháng, không dám công khai nhận mình là cử tri của FN , được coi là một nhóm kỳ thị chủng tộc, quá khích, cực đoan. Ngày nay, người ta hãnh diện vận động tranh cử cho FN, coi đó như một hành động ái quốc, kể cả giới trẻ, nạn nhân của nền kinh tế tụt hậu của Pháp. Kỳ bầu cử năm nay, khuôn mặt chính tri Pháp hoàn toàn đảo lộn, ra khỏi mọi dự đoán của những chuyên viên chính trị. Người ta theo dõi bầu cử như theo dõi một cuốn phim gay cấn, vì mỗi ngày có một hiện tương mới, một biến chuyển mới, không ai biết đâu mà mò. Sau cuôc bầu cử này, sinh hoạt chính trị, đảng phái ở Pháp chắc chắn sẽ lật sang một trang khác. Trước đây, ít nhất từ thời De Gaulle ( Tổng thống Pháp 1959-1969 ), chính trị Pháp tương đối đơn giản. Nước Pháp chia làm hai : gần một nửa nước theo phe tả , gần một nửa phe hữu,  một thiểu số đứng giữa. Nhóm lừng khừng này đứng về phe nào phe đó thắng. Tả hữu thay nhau cầm quyền. Chán nhà cầm quyền phe hữu, người ta bầu cho phe tả. Hay ngược lại. Chính quyền trong tay một số chính khách chuyên nghiệp, làm chính trị suốt đời, những khuôn mặt trẻ, những luồng gió mới rất hiếm. Định nghĩa khuynh hướng tả hữu rất phức tạp, vì thay đổi với thời đại. Đại khái, phe hữu, tin vào khả năng và sáng kiến cá nhân. Nếu mỗi cá nhân cố gắng thăng tiến, xã hội sẽ phát triển. Phe tả nghĩ nhà nước phải can thiệp để tránh lạm dụng, cá lớn nuốt cá bé, để xây dựng công bằng xã hội. Về mặt kinh tế, phe hữu theo khuynh hướng tự do, phe tả có khuynh hướng nhà nước điều khiển, hay ít nhất can thiệp. Về mặt xã hội, ngược lại, phe hữu có khuynh hướng bảo thủ, muốn giữ những giá trị cũ, phe tả cởi mở hơn, đi tiên phong trong những phong trào như kết hôn giữa người cùng phái, bảo vệ người đồng tính luyến ái, bãi bỏ án tử hình…Phe nào cũng có ưu và khuyết điểm. Nếu kinh tế hoàn toàn tự do, bất công xã hội sẽ chồng chất. Nếu can thiệp quá đáng, cá nhân bị bóp nghẹt, xã hội sẽ cằn cỗi. Nếu không có hệ thống an sinh xã hội, sẽ có nghèo đói, ngược lại, nếu giúp đỡ, trợ cấp quá đáng, sẽ đưa tới lười biếng, ỷ lại.. Phe hữu của Pháp ngày nay là Đảng Cộng Hòa, LR ( Les Républicains )  sau khi đã đổi tên nhiều lần. Khi có tai tiếng, hay không ăn khách nữa, người ta đổi tên, mở cửa hàng mới, nhưng hàng hóa và cô bán hàng vẫn như cũ. Nói ‘’ cô bán hàng ‘’ cho vui, thực sự chính trường Pháp rất thiếu bóng phụ nữ. Ở Bắc Âu, phụ nữ chiếm 50% trong quốc hội, trong nội các, trong ban lãnh đạo các xí nghiệp. Quốc hội Pháp không quá 10% phụ nữ, mặc dù luật Pháp phạt nặng những đảng chính trị không tôn trọng nguyên tắc lựa số đàn bà, đàn ông ngang nhau ra ứng cử quốc hội hay hội đồng tỉnh . Các chính đảng sẵn sàng nộp phạt để giữ chỗ cho đàn ông. Phe tả là đảng Xã Hội ( Parti Socialiste ). Bên cạnh đảng Xã Hội có đảng Cộng Sản ( PCF ) , nhưng đảng này, trước đây là một trong hai chính đảng lớn nhất, làm mưa làm gió, ngày nay là một bóng ma. De Gaulle nói : giữa chúng tôi và PCF , không có ai cả. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, sau khi Nga Xô Viết tan rã, Đảng Cộng Sản dần dần tàn rụi, trở thành một nhóm bỏ túi, ngày nay không tới 2% phiếu bầu.  Người  Việt nghe  đảng Xã Hội hơi ớn, vì chữ Xã Hội khiến liên tưởng tới cái vụ Xếp Hàng Cả Ngày ; sự thực đảng Xã Hội Pháp là một đảng tôn trọng dân chủ như những chính đảng khác. Những tiến bộ xã hội từ đệ nhị thế chiến , như hạn chế giờ làm việc, trả lương ngày nghỉ hè, an sinh và bảo hiểm sức khoẻ cho mọi người, đều là những thành quả của đảng Xã hội. Vấn đề của đảng này là họ không thích ứng kịp với thời đại mới, với kinh tế mới, họ mơ tưởng một xã hội không có thực. Và chế độ cấp dưỡng trở thành khó khăn trong một quốc gia gần như phá sản, vì kỹ nghệ bị cạnh tranh, thất nghiệp cao ( trên 10 % ), nợ nần chồng chất. Một đứa trẻ vừa mở mắt chào đời ở Pháp đã mang nợ 30 ngàn euros. Thuế lợi tức chỉ đủ trả tiền lời của những món nợ khổng lồ, càng ngày càng chồng chất. TỪ FILLON TỚI MACRON Trong vài tuần nữa, nhiệm kỳ của tổng thống Francois Holland, thuộc đảng Xã Hội sẽ chấm dứt. Sau 5 năm cầm quyền, ông Holland đã gây bất mãn, thất vọng, đến độ ông không dám ra tái tranh cử, chuyện chưa hề xẩy ra trong chính trường Pháp. Ngân quỹ quốc gia kiệt quệ, khiến chính quyền không thể phân phát vung vít như thông lệ. Ông ta cũng không nắm nổi đa số ngay trong đảng của mình để có thể thực hiện những cải tổ cần thiết. Đảng Xã Hội coi như chính quyền sẽ vượt khỏi tay mình. Theo dự đoán, chính quyền từ tháng tới sẽ lọt vào tay đảng Cộng Hòa, đảng hữu phái quan trọng nhất. Cách đây hai tháng, Ứng cử viên của đảng này, François Fillon, cựu Thủ Tướng,  coi như việc trở thành Tổng Thống là một chuyện đương nhiên. Chỉ việc ngồi chờ sung rụng.Nước Pháp bầu cử hai vòng, vòng đầu để lựa hai người vào chung kết, vòng hai, ứng cử viên nào có số phìếu cao nhất sẽ đắc cử. Đảng Xã Hội coi như bị loại, François Fillon sẽ vào vòng hai với lãnh tụ cực hữu FN, bà Marine Le Pen. Có thể bà Le Pen sẽ dẫn đầu vòng đầu, nhưng , như những cuộc bầu cử trước đây, vào vòng hai sẽ bị loại, vì tất cả các ứng cử viên khác ( lần này có …11 ứng cử viên) sẽ kêu gọi bỏ phiếu chống FN để tránh cho nước Pháp một cuộc phiêu lưu với hậu quả không lường được. Đó là kịch bản đã diễn ra từ trước tới nay. Lần này, mọi chuyện xẩy ra khác hẳn mọi dự đoán. Sau khi Ông Fillon được chọn đại diện cho đảng Cộng Hoà, báo chí khám phá ra ông đã dính líu tới rất nhiều chuyện lem nhem về tiền bạc. Trong kỳ bầu cử sơ bộ để lựa ứng cử viên của phe hữu, Fillon thắng vẻ vang, vì ông ra tranh cử với danh nghĩa một chính khách trong sạch, liêm khiết, quyết tâm cải tổ nước Pháp, sẵn sàng đòi ‘’ mồ hội, nước mắt ‘’ của dân để cứu nước, một chuyện chưa có chính khách nào dám làm, ở một nước người dân chỉ đòi quyền lợi hơn là bỏn phận. Fillon, the right man in the right place Đùng một cái, người ta khám phá ra một ông Fillon rất lem nhem. Mỗi ngày báo chí khui một vụ tai tiếng. Ông ta, khi là dân biểu, đã lấy tiền của Quốc Hội trả lương cho bà xã. Mỗi dân biểu, ngoài tiền lương, được cấp 9500 euros ( trên 10.000 dollars ) mỗi tháng để trả lương cho thư ký, phụ tá. Thay vì tuyển mộ 2, hay 3, phụ tá, Fillon đem hết số tiền trả lương cho vợ, mặc dù bà này không làm gì, chỉ lãnh luơng ngồi chơi xơi nước. Ông ta làm cố vấn lãnh thù lao cho các sở tư, là chuyện cấm kỵ đối với một người làm dân biểu, bộ trưởng, thủ tướng. Ông ta nhận quà đắt tiền của các tay tài phiệt : đồng hồ hàng chục ngàn euros, quần áo 6, 7 ngàn Euros một bộ, tổng cộng 38 ngàn euros quần áo. Tòa án, cảnh sát mở cuộc điều tra khẩn cấp. Đó cũng là chuyện hoàn toàn mới ở nước Pháp, nơi những chuyện mờ ám của các chính khách tai to mặt lớn thường thường bị ỉm đi, dần dần rơi vào quên lãng. Nước Pháp không có một trình độ dân chủ kiểu mẫu như các nước Bắc Âu. Ở Thụy Điển, nhận một món quà trên 20 dollars, chính khách không được giữ làm của riêng, phải trao cho quốc hội, toà thị chính hay chính phủ. Fillon không biết là ông ta đang sống trong một cơn bão chính trị, cử tri ngày nay không chấp nhận những chuyện lem nhem nữa. Ông ta tuyên bố nếu bị truy tố, sẽ rút lui . Vài tuần sau, cả Ông và Bà bị truy tố, ông ta tuyên bố sẽ tiếp tục tranh cử, nói là nạn nhân của các quan tòa do Hollande dựt giây. Uy tín của Fillon sút giảm, đa số những người ủng hộ bỏ đi , ngay cả những phần tử thân cận nhất. Tới giờ này,theo những cuộc thăm dò, từ số một, ông ta tụt xuống hàng thứ ba. Hai người đứng đầu là bà Marine LE PEN, cực hữu ;  Emmanuel MACRON, không đảng phái, mỗi người trên dưới 25% số phiếu ; François FILLON, đảng Cộng Hoà  18% ; Jean Luc MELENCHON, cực tả ;  15%, Benoît HAMON, Đảng Xã hội, 10% , những ứng cử viên khác không đạt tới 5% số phiếu ( nếu đạt 5% số phiếu, tất cả chi phí tranh cử sẽ được nhà nước hoàn lại cho ứng cử viên ). BÀN CỜ CHÍNH TRỊ ĐẢO LỘN Kết quả thăm dò sẽ thay đổi mỗi ngày, nhưng những con số trên, cho thấy một cơn bão đã thay đổi hoàn toàn khuôn mặt chính trị cuả nước Pháp : -Lần đầu tiên, hai đảng lớn, Đảng Cộng Hoà, phe hữu, và Đảng Xã Hội, phe tả, thi nhau cầm quyền từ mấy thập niên sẽ không có mặt trong vòng hai. -Lần đầu tiên, Đảng Xã Hội thua nặng, vì chia rẽ trầm trọng. Sau ngày bầu cử, Đảng này sẽ hoặc tan rã, hoặc chia thành hai, một bên là những người tả phái suy nghĩ, hành động như ngày xưa, một bên là những người muốn cải tổ, để thích ứng với xã hội mới . Đảng Xã Hội của Jean Jaurès , Léon Blum, đã tạo một khuôn mặt nhân bản cho xã hội Pháp, với chế độ an sinh gương mẫu, ngày nay bất lực trước nạn thất nghiệp, trước vấn đề di dân, trước những thử thách của một thế giới mới. -Đảng Cộng Hoà cũng sẽ chia rẽ trầm trọng, một bên là những người chủ trương cứng rắn để tranh phiếu của FN, một bên là những người ôn hòa, muốn một cánh hữu với khuôn mặt nhân bản -Lần đầu tiên một người trẻ, không đảng phái, một Kennedy Tây, Emmanuel Macron, có thể sẽ thành Tổng Thống Từ trái sang phải. François Fillon, Marine Le Pen, Emmanuel Macron und Jean-Luc Mélenchon (Foto: AFP) Tới giờ này, hai người được coi là sẽ vào vòng hai là bà Le Pen và Macron. Người ta nghĩ Le Pen có thể đứng đầu, nhưng  vào vòng hai sẽ bị Macron đánh bại. Trong những cuộc bầu cử cấp vùng, cấp tỉnh trước đây, đảng cực hữu thắng lớn vòng đầu, nhưng vào vòng hai đều thua nặng, vì dân Pháp vẫn không tin một nhóm quá khích có thể cấm quyền. Trong cuộc bầu cử tổng thống, Le Pen còn thêm một chướng ngại nữa : bà ta chủ trương rút khỏi Âu Châu, ra khỏi hệ thống tiền tệ Euros. Dân Pháp, mặc dù chỉ trích Âu Châu, nhưng đại đa số không muốn theo bà ta trong cuộc phiêu lưu đó. Ngửi thấy điều đó, Le Pen hứa nếu đắc cử, sẽ tổ chức trưng cầu dân ý về chuyện Âu Châu, đi hay ở. Nhưng đề nghị trưng cầu dân ý chứng tỏ đương sự không có bản lãnh, không dám quyết định. Và trong tất cả những cuộc trưng cầu dân ý, trừ ở Thụy Sĩ là nước ổn định, giầu có, người dân bao giờ cũng dùng lá phiếu để chống chính quyền. Chính quyền vận động YES, dân bầu NO, hay ngưọc lại. Le Pen lên như diều nhờ chính sách chống di dân, chống Hồi Giáo, nhưng những biện pháp về kinh tế của bà ta tào lao, không khác gì nhóm cực tả, đại khái sẽ  giảm thuế, tăng lương cho mọi người, về hưu năm 60 tuổi, ưu tiên mọi chuyện cho người Pháp, giống như trò ‘’ America first ‘’ của Trump Cho tới hôm nay, 05/04 , người ta tiên đoán Le Pen và Macron sẽ vào vòng hai, và Macron sẽ là tổng thống của Pháp từ đầu tháng Năm. Dân Pháp bầu tổng thống vòng đầu ngày 23 tháng Tư, và hai tuần sau, ngày 07 tháng Năm, vòng chung kết. Nhưng đó là dự đoán, có thể chắc chắn trong ‘’thời bình ‘’, khi đất nước chưa ‘’ nổi cơn gió bụi ‘’. Ngày nay, không ai dám quả quyết. Gần đây, không ai tiên đoán Trump đắc cử, không ai đánh cá phe Brexit  về ngược. Cử tri ngày nay  đổi ý mỗi ngày. Khoảng 30 % cử tri Pháp cho hay sẽ không đi bầu, 40%  chưa biết sẽ bầu cho ai. Không như trước, ai phe hữu bầu cho phe hữu, phe tả bầu phe tả, ít anh nào loạng quạng chạy qua chạy lại.Kết quả lần này sẽ thay đổi nếu số ngưới tham dự ít hay nhiều hơn dự đoán, những biến chuyển thời sự khiến ngày bỏ phiếu người ta ngả về ông này hay bà kia. Đảng Cộng Hoà vẫn hy vọng mặc dù gặp khó khăn vì những vụ lem nhem, tai tiếng , Fillon sẽ lọt vào vòng hai, vì cử tri đã chán phe tả, muốn thay đổi, cuối cùng sẽ bầu Fillon, vì Le Pen quá khích, Macron không có kinh nghiệm. Đó là chưa kể Mélenchon, cực tả, với chương trình đòi đạp đổ hết để làm cách mạng, đáng lẽ chỉ khiến người ta mỉm cười, nhưng càng ngày càng đông người theo, vì ông ta có tài ăn nói, nắm vững kỹ thuật truyền thông, trước đây là một tay lỗ mãng, gây gổ với cả nước, ngày nay đóng vai một chính khách rất từ tốn, lễ độ. MACRON, KENNEDY PHÁP Nếu Macron đắc cử, ông ta sẽ là Tổng thống trẻ nhất ( 40 tuổi ),  tổng thống đầu tiên không thuộc đảng nào. Cách đây 4 năm, không ai biết tên Macron. Ông ta còn là một nhân viên ngân hàng cao cấp, sản phẩm ưu tú của hệ thống giáo dục Pháp, tốt nghiệp Sciences Po và ENA, là những đại học có uy tín, nơi xuất thân của những người thay nhau lãnh đạo nước Pháp. Đệ tử của một triết gia nổi tiếng, Paul Ricoeur, Macron là một trí thức, ngoài khả năng chuyên môn. Thông thạo Anh ngữ, rất am tường tin học, mê văn chương, thi phú, Macron là người của thời đại mới , cởi mở, thực tiễn, coi việc hữu hiệu quan trọng hơn là ý thức hệ. Vấn đề của Macron là những người trẻ có trình độ văn hóa thấp, những người ở vùng quê, hay các khu lao động, cảm thấy xa lạ. Năm 2012, Macron theo lời mời của Hollande, bỏ ngân hàng, nhận chức phó giám đốc văn phòng Phủ Tổng Thống. Được bổ nhiệm là Bộ trương Kinh tế sau đó, Macron từ chức năm ngoái, vì thấy hệ thống chính trị, hành chánh của Pháp cứng nhắc, không thể hoạt động hữu hiệu, nếu không thay đổi toàn diện. Ông ta lập phong trào ‘En Marche ( Lên Đường ), quy tụ những người có thiện chí, thuộc phe hữu hay phe tả, hay chưa từng hoạt động chính trị , muốn cải thiện xã hội Pháp. Giới chính trị coi thường, nghĩ đó cũng chỉ là một phong trào bỏ túi, ồn ào vài tháng rồi biến mất. Nhưng En Marche…lên đường thiệt, càng ngày càng đông người theo. Những buổi meetings của Macron không đủ chỗ cho người kéo tới tham dự, đa số là lớp trẻ. Macron trở thành một thứ pop star, biến các chính khách khác trở thành các cụ già mệt mỏi. Trong đời tư, Macron chứng tỏ ông ta có cá tính mạnh, biết mình muốn gì. Ông ta kết hôn với bà giáo dạy văn chương trung học, lớn hơn ông …20 tuổi, đã có 3 con, ngang tuổi với ông dượng. Bà Macron nói đùa : Emmanuel phải đắc cử kỳ này, vì năm năm nữa, mặt mũi tôi sẽ trở thành vấn đề cho anh. Nếu Macron đắc cử, ông ta sẽ cải cách nước Pháp một cách ôn hòa. Ông ta chủ trương mở cửa, cải tiến để bắt kịp thế giới đang thay đổi, nhưng không dùng những biện pháp mạnh như Fillon, không đòi mồ hôi, nước mắt. Vấn đề của Macron là ông ta muốn là người không đảng phái, lấy phiếu của cả cánh tả, lẫn cánh hữu, những biện pháp ông ta đề nghi có vẻ nửa chừng xuân. Phe tả chỉ trích ông ta phản động như phe hữu, phe hữu kết án ông ta tiếp tục chính sách của phe tả đã làm lụn bại nước Pháp. Cả hai phe quả quyết Macron là tay mơ, không có hệ thống đảng phái mạnh đứng hỗ trợ, không có kinh nghiệm, sẽ đưa nước Pháp vào tình trạng hỗn loạn. Ủng hộ Macron mạnh nhất là… các nước láng giềng. Trong số 11 ứng cử viên, Macron là người ủng hộ Liên Hiệp Âu Châu tích cực nhất , vô điều kiện. Theo Macron, tương lai nước Pháp nằm trong khối Âu Châu. Nước Pháp quá nhỏ để có thẻ đứng một mình, đương đầu với Hoa Kỳ, với Á Châu. Ra khỏi Âu Châu, một thị trường lớn nhất thế giới, 500 triệu dân, là một cách tự sát đối với một quốc gia 66 triệu người đang gặp khó khăn về mọi phương diện. Một vấn đề nữa, quan trọng hơn cả, mà ít người nêu ra : Tổng Thống mới sẽ có đa số ở Quốc Hội hay không ? Sau bầu cử Tổng thống, sẽ tới bầu cử qốc hội một tháng sau. Không ai tưởng tượng nổi khuôn mặt mới của quốc hội Pháp. Các Đảng lớn tan rã, đảng cực hữu của Le Pen hiện chỉ có hai dân biểu và hai thương nghị sĩ, phong trào En Marche của Macron đưa người ra tranh cử lần đầu. Quốc Hội sẽ là những mảnh vụn. Đối với những nước khác, như Đức hay Hoà Lan, đó là chuyện thường. Các nhóm sẽ thương lượng, thoả thuận với nhau để tạo một khối đa số. Người Pháp chưa có thói quen đó. Ở Pháp, cho tới nay, phe nào thắng, nắm hết, phe nào thua về đuổi gà cho vợ, chờ 5 năm, ra tay chiếm lại chính quyền. NƯỚC PHÁP ĐI VỀ ĐÂU ? Dù tổng thống tên là Le Pen, Fillon, hay Macron, tương lai nước Pháp trong những ngày tới không có gì rực rỡ. Với Le Pen, một cuộc phiêu lưu không tiền khoáng hậu bắt đầu. Hoa Kỳ là một cường quốc,  có thị trường nội địa lớn, có khả năng tự túc về nhiên liệu, dầu khí, có đồng dollars mạnh, có thể bầu Donald Trump dỡn chơi 4 năm. Pháp không đủ phương tiện để chơi trò chơi đó.  Fillon là người có chính sách can đảm nhất để cải cách, nhưng với những vụ lem nhem bị khám phá mỗi ngày, ông ta liệu có đủ uy tín để đòi dân đổ mồ hội và nước mắt ? Macron là một khuôn mặt mới, trẻ trung, tích cực, nhưng không ai biết vai ông ta có đủ mạnh để gánh vác những gánh nặng lớn lao ? Nước Pháp có dư khả năng, có tài nguyên, có chất xám để cải cách, đóng lại vai trò một cường quốc. Chỉ thiếu một, hai yếu tố, nhưng cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu : sự quyết tâm và trách nhiệm công dân. Người Pháp nào cũng nghĩ phải thay đỏi, hy sinh để cải cách nước Pháp, nhưng người phải thay đổi là tất cả những người khác, trừ tôi. Cách đây 20 năm, Đức bị coi là phần tử bệnh hoạn của Âu Châu ( the sick man of Europe ), thua Pháp về mọi mặt. Cựu thủ tướng Gerhard Schröder, đảng Dân chủ Xã hội SPD , quyết định phải cải cách , đòi hỏi cả nước hy sinh,  chấm dứt những biện pháp mị dân, chế độ bao cấp. Ông Schröder sau đó đã thất cử, nhưng chính sách can đảm của ông đã đặt nền móng cho một nước Đức mới. Ngày nay Đức trở thành cường quốc kinh tế số một ở Âu Châu, cán cân xuất nhập và ngân sách thặng dư, thất nghiệp 4% , Pháp trở thành phần tử bệnh hoạn, với 2100 tỷ tiền nợ, thất nghiệp trên 10 phần trăm ( 24 % trong giới trẻ ), ngân sách lạm chi quá giới hạn đã cam kết với Liên Hiệp Âu Châu. Người Pháp không có tinh thần trach nhiệm của người Đức. Nước Pháp không có chính trị gia can đảm như Schröder. Trò chơi phổ thông của dân Pháp là khi gặp khó khăn là đổ ra đường biểu tình, đình công, bãi thị, làm tê liệt cả nước. Và chính quyền, tả hay hữu, mỗi lần có đám đông phản đối, không có thái độ gì khác hơn là ký ngân biếu, tặng nhóm này vài chục triệu, giúp nhóm kia vài chục triệu. Người Pháp gọi là ‘’ Acheter la paix sociale ‘’ , lấy tiền nhà nước tung ra để mua sự bình yên, để được an thân. Chuyện cải cách xếp một xó, để hậu tính. Con bệnh nằm chờ từ năm này qua năm khác, người ta chỉ vực dậy trong những ngày bầu cử. Nhưng lần này, có nhiều dấu hiệu cho thấy là người Pháp đã nổi giận, muốn thay đổi thực sự.
......

82 Thành phố Nga nổi dậy chống tham nhũng

Đáp lời kêu gọi của lãnh đạo phe đối lập Alexei Navalny bất chấp mọi đe dọa bạo lực của chế độ Putin, nhiều chục ngàn người Nga đã xuống đường khắp nước để phản đối tham nhũng và yêu cầu Thủ tướng Dmitry Medvedev từ chức. Biểu tình ở Moscow, Nga, ngày 26 tháng Ba, 2017. Ảnh: REUTERS Các cuộc biểu tình với khoảng 60,000 người nổ ra tại 82 thành phố hôm Chủ nhật 26 tháng Ba, 2017, được coi là lớn nhất kể từ các cuộc biểu tình chống bầu cử gian lận của Putin năm 2011-2012. Đài radio độc lập Echo của Moscow cho biết đông nhất là tại thủ đô Moscow và thành phố St. Petersburg với khoảng 10,000 người mỗi nơi. Đa số là những thanh niên thiếu nữ trẻ tuổi. Ảnh: CNN Lực lượng công an và cảnh sát cơ động vũ khí đầy mình đã đàn áp thô bạo những người biểu tình ôn hòa. Hơn 1,000 người đã bị bắt tại Moscow, chưa kể nhiều người tại các tỉnh khác. Trong số bị bắt, có cả ông Navalny. Bên cạnh biểu ngữ chống tham nhũng, người biểu tình còn trưng ra những đôi giày chạy bộ và các con vịt nhựa để mỉa mai thói đam mê mua sắm hàng loạt trên mạng lưới của Medvedev – mua 73 áo thung và 20 đôi giày trong vòng 3 tháng, và trong số những tài sản đồ sộ bị lật tẩy của nhân vật thứ hai trong hệ thống độc tài tham nhũng này, có một ngôi nhà hình con vịt xây giữa một hồ nước. Thủ lĩnh đối lập Alexei Navalny bị bắt tại thủ đô Moscow ngày 26 tháng Ba, 2017. Ảnh: REUTERS Theo tố cáo của nhà đối lập Navalny với nhiều bằng chứng,  ông Medvedev là chủ nhân của cả “một đế chế bất động sản”, gồm nhiều biệt thự, du thuyền và trang trại rộng lớn nằm trá hình trong một mạng lưới các tổ chức phi lợi nhuận. Cuộc điều tra của ông Nalvany được chuyển thành phim tiết lộ công khai hồi đầu tháng, đã được 11 triệu lượt truy cập trên mạng Youtube. Ông Navalny kêu gọi biểu tình chống tham nhũng và tuyên bố sẽ có 99 thành phố của Nga nhập cuộc, nhưng 72 thành phố đã bị các chính quyền địa phương ngăn chặn và chính quyền trung ương đe dọa sẽ trừng phạt nặng nề. Một số trường đại học tổ chức các buổi thi để cản trở sinh viên tham gia biểu tình. Tuy nhiên số người tham gia biểu tình đã tràn ngập đường phố, nhất là giới trẻ. Một phụ nữ chất vấn cảnh sát, được bố trí để ngăn chặn biểu tình tại Moscow hôm 26 tháng Ba, 2017. Ảnh: REUTERS/Sergei Karpukhin Người biểu tình chia sẻ: “Dân chúng đã quá mệt với những lời dối trá, cần phải hành động.” Vị luật sư kiêm nhà hoạt động Alexei Nalvany được coi là nhà đối lập hàng đầu của chế độ Putin hiện nay sau khi Tổng thống độc tài Vladimir Putin ra lệnh ám sát nhiều thủ lãnh đối lập, những tiếng nói và ngòi bút chống đối nền độc tài Putin – do viên cựu trung tá tình báo KGB của cộng sản này dựng lên sau khi đế chế Liên Sô sụp đổ nào năm 1991. Putin đã thao túng nền chính trị Nga, đổi hiến pháp để trở thành tổng thống Nga vĩnh viễn từ 15 năm qua. Từ nhiều năm nay, ông Nalvany đã can đảm liên tục lên án nạn tham nhũng tại Nga trên trang blog cá nhân. Năm 2013, ông từng được 27,2% cử tri ủng hộ trong một cuộc bầu cử cấp thành phố tại Moscow. Theo https://chantroimoimedia.com  
......

Ba Lan tìm ra chỉ huy SS Đức Quốc Xã trốn ở Minnesota

WARSAW, Ba Lan (AP) – Chính phủ Ba Lan sẽ đòi Mỹ bắt giữ và dẫn độ một người đàn ông ở tiểu bang Minnesota sau khi xác nhận người này chính là chỉ huy một đơn vị SS của Đức Quốc Xã, từng đốt phá làng mạc và giết thường dân ở Ba Lan thời Đệ Nhị Thế Chiến. Công tố viên Robert Janicki cho hay kết quả cuộc điều tra kéo dài nhiều năm về một công dân Mỹ, tên Michael Karkoc, 98 tuổi. cho thấy người này rõ ràng từng chỉ huy một đơn vị SS. Hình chụp hồi Tháng Năm 2014 cho thấy Michael Karkoc đang làm vườn tại nhà ở thành phố Minneapolis, tiểu bang Minesota. Karkoc, nay 98 tuổi, bị Ba Lan đòi dẫn độ vì phạm tội ác chiến tranh thời Đức Quốc Xã. (Hình: Richard Sennott/Star Tribune via AP) Quyết định đòi bắt giữ và dẫn độ Karkoc về lại Ba Lan xảy ra bốn năm sau khi có cuộc điều tra của hãng thông tấn AP về nhân vật này. Gia đình ông Karkoc luôn bác bỏ các cáo buộc cho rằng ông là thành phần tội phạm chiến tranh. Con trai của ông Karkoc bày tỏ sự nghi ngờ về tính chất xác thực của các bằng chứng đưa ra để cáo buộc. Tại Ba Lan, công tố viên Andrzej Pozorski cho hay Karkoc sẽ có nhiều cơ hội để trình bày về phía mình. Các công tố viên thuộc Viện Tưởng Nhớ Quốc Gia , có nhiệm vụ điều tra các tội ác thời Đức Quốc Xã và Cộng Sản nhắm vào người dân Ba Lan, đã yêu cầu một tòa án ở Lublin ra án lệnh bắt giữ Karkoc. Đơn vị do Karkoc chỉ huy bị cáo buộc là từng hạ sát hơn 40 người, cả đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ tại làng Chlaniow, để trả thù cho một thiếu tá SS bị ám sát nơi đây. (V.Giang) Nguồn: http://www.nguoi-viet.com
......

Châu Âu: 25 năm hiệp định Maastricht, thành công hay thất bại ?

Cách nay đúng 25 năm, 12 thành viên trong gia đình châu Âu đặt bút ký hiệp định Maastricht. Từng được xem là một bước tiến mới trên con đường hội nhập, một phần tư thế kỷ sau, hiệp định Maastricht trở thành biểu tượng của một khối châu Âu bị chia rẽ. Liên minh kinh tế và tiền tệ bị chỉ trích mạnh mẽ. Tinh thần bài châu Âu ngày càng gia tăng. Đâu là những « sai lầm » của Maastricht ? Ngày 07/02/1992 Cộng Đồng Châu Âu đổi tên thành Liên Hiệp Châu Âu. Với 12 thành viên ban đầu, gồm Anh, Ai Len, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Đan Mạch, Pháp, Hà Lan, Hy Lạp, Luxembourg, Tây Ban Nha và Ý, Liên Hiệp đã từng bước kết nạp thêm những nước mới (Áo, Phần Lan, Thụy Điển, Chypre, Estonia, Hongary, Litva, Latvia, Malta, Ba lan, Cộng Hòa Séc, Slovenia, Sovakia , Bulgari, Rumani và Croatia) để trở thành một khối vững mạnh với hơn 504 triệu dân. Hiệp định Maastricht là nền tảng chung để 10 năm sau ngày được ký kết, một đồng tiền chung châu Âu ra đời. Đến nay, 19 trong số 28 nước trong Liên Hiệp cùng sử dụng đồng euro. Nền tảng lung lay của Liên minh kinh tế và tiền tệ Trên thực tế, tham vọng xây dựng một liên hiệp vững mạnh trên Lục Địa Già đã bị chựng lại từ sau khủng hoảng tài chính 2008 từ Hoa Kỳ thổi sang châu Âu. Đồng euro tưởng chừng là một lá chắn bảo vệ khu vực đồng tiền chung châu Âu trước những cơn bão tiền tệ, nhưng cuối cùng, vì những quy định bó buộc của một đồng tiên chung, nhiều thành viên rơi vào cảnh lao đao. Hy Lạp, Ai Len, Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha và trong một chừng mực nào đó là Pháp hay Ý đã bị trói tay trước những nguyên tắc cứng nhắc của hiệp định Maastricht : không thể tăng ngân sách công để kích cầu, mất đòn bẩy tiền tệ để bơm thêm tiền vào cỗ máy kinh tế, vì chính sách tiền tệ của các nước trong khu vực đồng euro thuộc thẩm quyền của Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu BCE, trụ sở tại Frankfurt-Đức. Hai trong số những nguyên tắc của hiệp định bị chỉ trích nhiều nhất gồm các điều khoản đòi thành viên eurozone phải giữ bội chi ngân sách dưới 3 % tổng sản phẩm nội địa và tổng nợ công tối đa chỉ bằng 60 % so với GDP. Trả lời báo Le Monde số ra ngày 07/02/2017, chuyên gia Grégory Clayes, thuộc viện nghiên cứu về châu Âu Brugel -Bỉ, lưu ý : cả hai ngưỡng quy định về thâm hụt ngân sách Nhà nước và nợ công, « đều đã được các nhà kỹ trị ở Bruxelles quyết định một cách tùy tiện ». Các nhà lãnh đạo châu Âu năm 1992 đã nghĩ rằng hai ngưỡng 3 % và 60 % GDP ấy là chiếc đũa thần xua tan mọi đe dọa khủng hoảng tiến gần tới châu Âu. Vậy hiệp định Maastricht đã thành công hay thất bại trong mục tiêu xây dựng liên minh kinh tế và tiền tệ ? Kinh tế gia Eric Dor trường quản trị kinh doanh IESEC - Lille cho rằng khá « phức tạp » để trả lời câu hỏi này. Điểm son của hiệp định được ký kết cách nay đúng 25 năm là đã cho phép đồng tiền chung châu Âu ra đời. Dù bị chỉ trích tứ bề, người châu Âu vẫn gắn bó với đồng euro. Tuy nhiên khi đi sâu vào chi tiết, hiệp định Maastricht có nhiều khuyết điểm : Thứ nhất, là ngay từ đầu, nhiều thành viên châu Âu – trong đó có cả Đức và Pháp, đã không tuân thủ hai ngưỡng quy định về nợ công và bội chi ngân sách vừa nêu. Thứ hai cho dù những quy định cơ bản của hiệp định có được áp dụng một cách nghiêm chỉnh đi chăng nữa, theo nhà nghiên cứu Grégory Clayes, những « quả bóng địa ốc vẫn được thổi lên ». Đây là trường hợp đã xảy ra tại Tây Ban Nha đầu những năm 2000 cho dù Madrid luôn được xem là thi hành khá nghiêm chỉnh những tiêu chuẩn của Maastricht. Trong trường hợp của Bồ Đào Nha, và Ai Len, việc kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công cộng, giới hạn nợ công hay thu hẹp bội chi ngân sách đã đẩy mức mức nợ của các hộ gia đình, nợ doanh nghiệp lên cao. Năm 2008, cùng với khủng hoảng toàn cầu, hai nền kinh tế này là những nước đầu tiên bị dồn vào chân tường. Trong mắt Patrick Artus, kinh tế trưởng thuộc ngân hàng Pháp Natixis, một trong những thiếu sót lớn nhất là hiệp định Maastricht đã không dự trù những điều khoản trong trường hợp một thành viên lâm nạn như kinh nghiệm của Hy Lạp năm 2010, thì phải làm gì. Sai lầm ngay từ ban ban đầu Trong bài nhận định “chúng ta trả giá cho những sai lầm của năm 1992”, giám đốc điều hành trung tâm nghiên cứu về quan hệ quốc tế, André Grejebine, giảng dậy tại trường Khoa Học Chính Trị Paris- Sciences Po, cho rằng sai lầm đầu tiên của hiệp định đầy tham vọng này là mọi người quên mất rằng một đồng tiền chung chỉ có thể hoạt động đúng theo nghĩa của nó trong một khu vực kinh tế không có quá nhiều khác biệt giữa những thành viên. Năm 1992 cũng như ở thời điểm hiện tại, eurozone “không phải là một khối kinh tế hài hòa”. Maastricht đã “quên hẳn những biện pháp cho phép thu hẹp những cách biệt quá lớn về mặt kinh tế và xã hội giữa những nước cùng chia sẻ chung một đồng tiền. Khủng hoảng tài chính xuất phát từ Hoa Kỳ năm 2008-2009 chứng minh rằng, cùng sử dụng đồng euro không có nghĩa là các nền kinh tế trong khối có khả năng đối phó như nhau”. Thêm vào đó, để một “liên minh tiền tệ” hoạt động hiệu quả, châu Âu cần có một ngân sách chung, một chính sách tiền tệ chung. Chính sách tiền tệ chung của eurozone do Berlin áp đặt, không phù hợp với tất cả các nền kinh tế trong khu vực. Ngân sách chung tới nay vẫn còn là rất xa vời. Cốc nước nửa đầy hay nửa vơi ? Nhờ có hiệp định Maastricht mà đồng euro đã được chào đời. Cũng với văn bản này, mà châu Âu từ 25 năm qua không phải lo lắng về lạm phát. Được 340 triệu dân tại 19 nước thành viên trong Liên Hiệp Châu Âu sử dụng, đồng euro đã tránh được tất cả mọi rủi ro về tỷ giá hối đoái. Do vậy theo giáo sư kinh tế học viện Genève, Charles Wyplosz, đồng euro là một thành công lớn của châu Âu. Ngược lại hiệp định Maastricht thất bại vì ba yếu tố : Một là như đã nói hai ngưỡng quy định về bội chi ngân sách và nợ công so với GDP đã chẳng được quy định trên bất kỳ một cơ sở vững chắc nào. Kế tới, áp dụng chính sách “khắc khổ” vào lúc mà kinh tế bị suy thoái lại càng gây thêm khó khăn cho các nước gặp nạn. Sau cùng theo giáo sư Wyplosz, học viện Genève, hiệp định Maastricht tước đoạt quyền sử dụng ngân sách Nhà nước của mỗi quốc gia để kích cầu khi cần thiết. Đòn bẩy tiền tệ thì trong tay Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu -BCE. Từ năm 2008 tới nay eurozone đã phải đối mặt với hai cuộc khủng hoảng : một do tín dụng địa ốc subprime của Mỹ và một do chính mình tự đánh mất những đòn bẩy để vực dậy kinh tế. Đáng buồn hơn nữa là châu Âu đòi hỏi người dân phải hy sinh, bắt các thành viên liên tục giảm ngân sách, giảm chi tiêu công cộng nhưng tỷ lệ nợ công so với GDP thì vẫn tăng cao. Berlin và thất bại chính trị của hiệp định Maastricht Hậu quả chính trị tai hại kèm theo, là công luận tại những nước như Hy Lạp và cả nhiều nơi khác cảm thấy là quyền tự định đoạt lấy tương lai của họ bị Bruxelles tước đoạt. Cựu giám đốc Phòng Công Nghiệp và Thương Mại Paris, Emanuel Devaud, không vòng vo quy trách nhiệm cho Đức trước thất bại chính trị này. Theo ông, liên minh tiền tệ châu Âu “đi từ thất bại này đến thất bại khác, dân châu Âu cũng đi từ thất vọng này đến thất vọng khác”. Kinh tế đình đốn, nạn thất nghiệp tràn làn, mức sống của người dân sa sút, cả một phần trong xã hội bị đẩy vào cảnh bần cùng, guồng máy sản xuất bị tê liệt, chảy máu chất xám, thất thoát tư bản … vậy mà theo ông Devaud, cựu giám đốc Phòng Công Nghiệp và Thương Mại Paris, Berlin vẫn kiên quyết đòi áp dụng chính sách khắc khổ. Thủ tướng Merkel và bộ trưởng Tài Chính Wolfgang Schäuble quên mất rằng, Đức là quốc gia hưởng lợi nhất nhờ đồng euro và nhờ những nền tảng dù không hoàn hảo của một hiệp định đã được ký kết vừa đúng cách nay 25 năm. Nguồn: RFI
......

Vai trò toàn cầu mới của Đức

Trong hai thập niên qua, vai trò của Đức trên thế giới đã trải qua một sự biến đổi đáng kể. Sau sự thống nhất hòa bình năm 1990, Đức đã trên đà trở thành người khổng lồ kinh tế với chính sách đối ngoại không có gì đáng nói. Tuy nhiên, nước Đức ngày nay là một cường quốc châu Âu thu hút không ít lời khen tiếng chê. Điều này đúng cả về cách nước Đức ứng phó với lượng người tị nạn tăng vọt gần đây – nước này đã đón nhận hơn một triệu người trong năm ngoái – lẫn việc xử lý khủng hoảng đồng euro. Khi sức mạnh gia tăng, Đức càng có nhu cầu để giải thích chính sách đối ngoại một cách rõ ràng hơn. Lịch sử gần đây của nước Đức là chìa khóa để hiểu cách Đức nhìn nhận vị thế của mình trên thế giới. Từ năm 1998, tôi đã phục vụ đất nước với tư cách là thành viên của bốn nội các và lãnh đạo phe đối lập trong Quốc hội. Trong suốt thời gian đó, Đức không hề tìm kiếm vai trò mới trên trường quốc tế. Thay vào đó, Đức nổi lên như một chủ thể trung tâm bằng việc duy trì sự ổn định trong khi thế giới xung quanh nó biến đổi. Khi Hoa Kỳ choáng váng từ những ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Iraq và EU vật lộn trong một loạt các cuộc khủng hoảng, Đức vẫn giữ vững vị trí của mình. Tự vực dậy từ khó khăn kinh tế, Đức giờ đây đang gánh trên vai trách nhiệm của nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Về mặt ngoại giao, Đức cũng góp phần đem đến giải pháp hòa bình cho nhiều cuộc xung đột trên toàn cầu: tiêu biểu nhất là ở Iran và ở Ukraine, ngoài ra còn ở Colombia, Iraq, Libya, Mali, Syria, và các nước Balkan. Những động thái này buộc Đức phải diễn giải lại các nguyên tắc định hướng chính sách đối ngoại của mình trong hơn nửa thế kỷ. Nhưng Đức là một cường quốc không ngừng suy ngẫm: ngay cả khi đang thích nghi, niềm tin vào tầm quan trọng của sự kiềm chế, cân nhắc, và đàm phán hòa bình cũng sẽ tiếp tục chỉ đường dẫn lối cho những tương tác của Đức với phần còn lại của thế giới. Ông lớn của châu Âu Ngày nay, cả Mỹ lẫn châu Âu đang vật lộn nhằm thực hiện vai trò lãnh đạo toàn cầu. Cuộc xâm lược Iraq năm 2003 đã làm tổn hại vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới. Sau khi lật đổ tổng thống Saddam Hussein, bạo lực giáo phái đã chia cắt Iraq, và sức mạnh của Hoa Kỳ trong khu vực bắt đầu suy yếu. Chính quyền George W. Bush không chỉ không tái lập được trật tự khu vực bằng vũ lực, mà các chi phí chính trị, kinh tế, và quyền lực mềm của cuộc phiêu lưu này còn làm suy yếu vị thế tổng thể của Hoa Kỳ. Ảo tưởng về một thế giới đơn cực đã phai mờ. Khi nhậm chức năm 2009, Tổng thống Barack Obama bắt đầu nghĩ lại rộng hơn về cam kết của Hoa Kỳ đối với Trung Đông và với toàn cầu. Phe chỉ trích ông cho rằng Obama đã tạo ra khoảng trống quyền lực mà các chủ thể khác, trong đó có Iran và Nga, luôn sẵn sàng lấp đầy. Những người ủng hộ ông, trong đó có tôi, phản bác rằng Obama đã ứng phó một cách khôn ngoan trước một trật tự thế giới đang thay đổi và bản chất đang biến đổi của sức mạnh Hoa Kỳ. Ông đang tìm cách điều chỉnh các phương tiện và mục tiêu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cho phù hợp với năng lực của đất nước và những thách thức mới mà nước này phải đối mặt. Trong khi đó, EU đang vật lộn với các cuộc đấu tranh của chính mình. Năm 2004, nó kết nạp thêm 10 quốc gia thành viên mới, cuối cùng cũng chào đón các nước cộng sản Đông Âu trước đây. Nhưng ngay cả khi mở rộng, nó vẫn bị mất đà trong những nỗ lực làm sâu sắc thêm những nền tảng chính trị của một liên minh chính trị. Cùng năm đó, nó đã trình bày với các thành viên một bản dự thảo hiến pháp đầy tham vọng, biên soạn bởi một nhóm dẫn đầu là cựu Tổng thống Pháp Valéry Giscard d’Estaing . Nhưng khi cử tri Pháp và Hà Lan, hai trong số các quốc gia sáng lập EU, bác bỏ dự thảo, cuộc khủng hoảng theo sau đã thôi thúc người dân châu Âu đặt câu hỏi về sự cần thiết của một “liên minh ngày một gắn kết hơn.” Kể từ đó nhóm này đã dần lớn mạnh hơn, trong khi những người theo chủ trương tăng cường hội nhập đã rút lui. Ngày nay, trật tự quốc tế mà Hoa Kỳ và châu Âu góp phần tạo ra và duy trì sau Thế chiến II – một trật tự tạo ra tự do, hòa bình, và thịnh vượng ở phần lớn thế giới – đang phải chịu áp lực. Một số quốc gia ngày một yếu đi – và, trong một số trường hợp, sụp đổ hoàn toàn – đã làm mất ổn định toàn bộ khu vực, đặc biệt là châu Phi và Trung Đông, khơi mào xung đột bạo lực, và gây ra những làn sóng di cư hàng loạt với quy mô lớn hơn bao giờ hết. Đồng thời, các chủ thể nhà nước và phi nhà nước đang ngày càng bất chấp hệ thống đa phương dựa trên luật lệ vốn gìn giữ hòa bình và ổn định từ trước tới nay. Sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ tạo ra các trung tâm quyền lực mới đang làm thay đổi cục diện quan hệ quốc tế. Việc Nga sáp nhập Crimea đã gây ra rạn nứt nghiêm trọng với châu Âu và Hoa Kỳ. Cuộc đối đầu giữa Iran và Ả-rập Xê-út ngày càng thống trị Trung Đông, khi trật tự nhà nước ở khu vực xói mòn và Nhà nước Hồi giáo, hay ISIS, đang ra sức hủy diệt hoàn toàn mọi biên giới. Trong bối cảnh ấy, nước Đức vẫn vô cùng ổn định. Đây là thành tựu không hề nhỏ, nếu xem xét vị thế của đất nước này năm 2003, khi những rắc rối của Hoa Kỳ và EU chỉ mới manh nha. Ở thời điểm đó, nhiều người gọi Đức là “người bệnh của châu Âu”: tỷ lệ thất nghiệp lên đến đỉnh điểm ở mức trên 12%, nền kinh tế trì trệ, các hệ thống xã hội quá tải, và lập trường phản đối cuộc chiến của Mỹ ở Iraq đã thách thức ý chí quyết tâm của nước này và gây phẫn nộ tại Washington. Tháng 3 năm đó, Thủ tướng Đức Gerhard Schröder đã có bài phát biểu trước Bundestag, Quốc hội Đức, với nhan đề “Can đảm vì hòa bình và can đảm để thay đổi,” trong đó ông kêu gọi các cuộc cải cách kinh tế lớn. Mặc dù đủ dũng khí để phản đối chiến tranh Iraq, các thành viên đảng Dân chủ Xã hội của ông hầu như không có khao khát đổi thay. Các cải cách của Schröder về thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội được Quốc hội Đức thông qua, nhưng bản thân ông phải trả một cái giá chính trị rất đắt: ông thất bại trong các cuộc bầu cử sớm vào năm 2005. Nhưng chính những cải cách đó đã đặt nền móng cho sự trở lại của sức mạnh kinh tế Đức, một sức mạnh kéo dài cho đến tận ngày nay. Và phản ứng của Đức trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 thực chất đã củng cố chỗ đứng kinh tế của nước này. Các doanh nghiệp Đức tập trung vào lợi thế của mình trong ngành chế tạo và đã nhanh chóng khai thác những cơ hội lớn tại các thị trường mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc. Giới công nhân Đức đã sáng suốt ủng hộ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Nhưng người Đức không nên thổi phồng sự tiến bộ của đất nước họ. Đức chưa trở thành một siêu cường kinh tế, và thị phần xuất khẩu thế giới trong năm 2014 của nó đã thấp hơn so với năm 2004 – và thậm chí còn thấp hơn thời điểm thống nhất nước Đức. Đức chỉ đơn giản là giữ vững vị thế của mình tốt hơn so với hầu hết các nước ngang hàng khi cạnh tranh gia tăng. Cường quốc hòa bình của châu Âu Sức mạnh kinh tế tương đối của Đức là một thế mạnh rõ ràng. Nhưng một số nhà phê bình cho rằng sự kiềm chế quân sự của Đức là một điểm yếu. Dưới thời Thủ tướng Schröder, Đức đã phải chiến đấu trong hai cuộc chiến tranh (ở Kosovo và Afghanistan) và kiên quyết phản đối phát động cuộc chiến thứ ba (ở Iraq). Sự can dự quân sự ở Kosovo và Afghanistan đánh dấu một bước tiến lịch sử của quốc gia từng tìm cách cấm hoàn toàn từ “chiến tranh” khỏi ngữ vựng của mình. Tuy nhiên, Đức mạnh lên bởi nó coi trọng trách nhiệm của mình đối với sự ổn định của châu Âu và liên minh với Hoa Kỳ. Trước đây cũng như bây giờ, các quan chức Đức có chung một niềm tin sâu sắc rằng an ninh của Đức gắn bó chặt chẽ với an ninh của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hầu hết đều phản đối việc Mỹ xâm lược Iraq, bởi họ coi đó là cuộc chiến có thể tránh được, với tính chính đáng đáng ngờ và rất có khả năng châm ngòi cho những cuộc xung đột khác. Ở Đức, sự phản đối này vẫn được nhiều người coi là một thành tựu lớn – thậm chí còn nhận được sự đồng tình của cả một số rất ít những người ủng hộ chính sách của Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Trong những năm sau đó, các nhà lãnh đạo của Đức luôn cẩn trọng cân nhắc xem có nên can dự vào các cuộc xung đột tiếp theo, giám sát những quyết định đó ở một mức độ kỹ lưỡng đến mức thường xuyên khiến các đồng minh nổi giận. Ví dụ, mùa hè năm 2006, tôi đã giúp trung gian cho một lệnh ngừng bắn ở Li-băng nhằm chấm dứt cuộc chiến giữa Israel và Hezbollah. Tôi tin Đức phải ủng hộ thỏa thuận này thông qua sức mạnh quân sự nếu cần thiết, dù tôi biết quá khứ của chúng tôi, thủ phạm của cuộc diệt chủng Holocaust, sẽ khiến việc triển khai lính Đức trên biên giới Israel trở thành một vấn đề hết sức tế nhị. Trước khi lựa chọn phương án quân sự, tôi đã mời ba ngoại trưởng tiền nhiệm gần đây nhất đến Berlin để được tư vấn. Họ đã cùng nhau mở lòng chia sẻ 31 năm kinh nghiệm của mình. Lịch sử nước Đức đè nặng nhất lên người cao tuổi nhất trong chúng tôi, Hans-Dietrich Genscher, một cựu chiến binh Thế chiến II, người phản đối đề xuất này. Tuy nhiên, hai người tiền nhiệm trẻ tuổi hơn đã tán thành với tôi, và đến nay, các tàu chiến của Đức đã tuần tra trên bờ Địa Trung Hải nhằm kiểm soát việc chở vũ khí tới Li-băng với tư cách là một phần của Lực lượng Lâm thời Liên Hợp Quốc tại Li-băng – một sự dàn xếp được Israel chấp thuận và hậu thuẫn. Con đường trở nên quyết đoán hơn về mặt quân sự của Đức chưa và sẽ không bao giờ suôn sẻ. Đức không tin rằng thảo luận tại hội nghị bàn tròn sẽ giải quyết mọi vấn đề, và việc nổ súng cũng vậy. Các biện pháp can thiệp quân sự ở nước ngoài thành có bại có trong 20 năm qua là một lý do để thận trọng. Trên tất cả, Đức có một niềm tin sâu sắc bắt nguồn từ lịch sử rằng đất nước họ nên sử dụng năng lượng chính trị và tài nguyên để củng cố pháp quyền trong các vấn đề quốc tế. Kinh nghiệm lịch sử của chúng tôi đã phá vỡ niềm tin vào chủ nghĩa biệt lệ quốc gia – của bất kỳ quốc gia nào. Bất cứ khi nào có thể, chúng tôi cũng lựa chọn luật pháp (Recht) thay vì quyền lực (Macht). Kết quả là, Đức đã nhấn mạnh sự cần thiết của tính chính danh trong việc đưa ra quyết định ở cấp độ trên quốc gia và đầu tư vào chủ nghĩa đa phương do Liên Hợp Quốc dẫn đầu. Mỗi lần triển khai quân đội, Đức phải chịu sự giám sát nghiêm ngặt của công chúng và phải nhận được sự chấp thuận của Quốc hội. Đức luôn tìm cách cân bằng trách nhiệm bảo vệ những nước yếu với trách nhiệm kiềm chế. Nếu các đối tác và đồng minh của Đức tăng cường nỗ lực ngoại giao và đàm phán, người Đức muốn chính phủ của họ gắng sức gấp đôi, đôi khi trong sự thất vọng của các đối tác. Điều đó không có nghĩa là Đức đang sửa chữa sai lầm cho quá khứ hiếu chiến của mình một cách thái quá. Đúng hơn, là một cường quốc luôn suy tư, Đức đang đấu tranh để hòa giải những bài học của lịch sử với những thách thức của ngày nay. Đức sẽ tiếp tục đóng khung lập trường quốc tế của mình chủ yếu về mặt dân sự và ngoại giao và sẽ chỉ viện đến can thiệp quân sự sau khi đã cân nhắc mọi rủi ro và phương án khả thi. Tiếp nhận vai trò toàn cầu Sức mạnh kinh tế tương đối và cách tiếp cận thận trọng trong việc sử dụng vũ lực của Đức vẫn luôn được duy trì do môi trường khu vực và toàn cầu đã trải qua những thay đổi triệt để. Quan hệ đối tác của Đức với Hoa Kỳ và việc hội nhập vào EU là trụ cột trong chính sách đối ngoại của nước này. Nhưng khi Hoa Kỳ và EU vấp ngã, Đức vẫn giữ vững lập trường của mình và nổi lên như một cường quốc, nhưng phần lớn là do các cường quốc khác gặp trở ngại. Trong vai trò này, Đức đã nhận ra nó không thể thoát khỏi trách nhiệm của mình. Do Đức nằm ở trung tâm châu Âu, cô lập hay đối đầu đều không phải là một lựa chọn chính sách thận trọng. Thay vào đó, Đức cố gắng sử dụng đối thoại và hợp tác để thúc đẩy hòa bình và chấm dứt xung đột. Hãy xem xét vai trò mới của Đức ở Trung Đông. Trong nhiều thập niên, cuộc xung đột Ảrập-Israel đã thống trị cục diện chính trị khu vực. Trong những thập niên sau Thế chiến II, Đức cố ý né tránh vai trò đi đầu trong các nỗ lực ngoại giao nhằm giải quyết bế tắc. Nhưng ngày nay, khi các cuộc xung đột lan rộng, Đức đang can dự ở phạm vi rộng hơn trên toàn khu vực. Kể từ năm 2003, khi những nỗ lực đa phương nhằm ngăn cản Iran chế tạo bom hạt nhân bắt đầu, Đức đã đóng một vai trò trung tâm, và là một trong những nước ký kết thỏa thuận đạt được vào năm 2015. Đức cũng can dự sâu vào việc tìm kiếm một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột ở Syria. Đức cũng không né tránh trách nhiệm giúp xây dựng một cấu trúc an ninh mới trong khu vực – một tiến trình mà rất có thể thỏa thuận với Iran là sự khởi đầu. Lịch sử của châu Âu đã để lại một số bài học bổ ích. Hội nghị Helsinki năm 1975 đã giúp khắc phục những chia rẽ Chiến tranh Lạnh của lục địa này thông qua việc thành lập Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Nếu các chủ thể khu vực chọn cách xem xét ví dụ này, họ sẽ tìm thấy những bài học hữu ích có thể hỗ trợ họ trong việc giải quyết những cuộc xung đột hiện tại. Đôi khi người Đức chúng tôi cũng cần những người khác nhắc nhở về tính hữu dụng của lịch sử. Ví dụ, năm ngoái tôi đã có một cuộc trò chuyện đầy cảm hứng với một nhóm trí thức nhỏ ở Jeddah, Ả-rập Xê-út. Một trong số họ nhận xét, “Chúng tôi cần một nền hòa bình kiểu Westphalia cho khu vực của mình. Thỏa thuận mà các nhà ngoại giao ở Münster và Osnabrück thảo luận vào năm 1648 với mục đích ngăn cách tôn giáo khỏi sức mạnh quân sự đã truyền cảm hứng cho các nhà tư tưởng ở Trung Đông cho đến ngày nay; đối với một người Westphalia bản địa như tôi, có lẽ không có lời nhắc nhở nào tốt hơn chính sức mạnh giáo dục của quá khứ. Đối mặt với thách thức Ngay gần Đức thôi, cuộc khủng hoảng Ukraine đã thử thách vai trò lãnh đạo và các kỹ năng ngoại giao của Đức. Kể từ khi chế độ của tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych sụp đổ và Nga sáp nhập Crimea đầu năm 2014, Đức và Pháp đã đi đầu trong những nỗ lực quốc tế nhằm kiềm chế và cuối cùng là giải quyết cuộc khủng hoảng quân sự và chính trị này. Khi chính phủ Hoa Kỳ tập trung vào những thách thức khác, Đức và Pháp đã đảm nhận vai trò là những nước đối thoại chính với Nga về những vấn đề liên quan đến an ninh châu Âu và sự sống còn của nhà nước Ukraine. Đức không tự ép mình vào vị trí đó, và cũng không có ai chỉ định Đức vào vai trò đó. Mối quan hệ kinh tế và chính trị bền chặt với Nga và Ukraine khiến Đức theo lẽ tự nhiên trở thành trung gian cho cả hai bên, bất chấp sự ủng hộ rõ ràng của Berlin đối với các nạn nhân của sự hung hăng của Moskva. Cuộc tranh luận chính trị căng thẳng diễn ra ở Đức về việc làm thế nào để ứng phó với thách thức này chỉ làm tăng uy tín của Berlin, bằng cách cho thế giới thấy chính phủ Đức không hề xem nhẹ các quyết định của mình. Thỏa thuận Minsk mà Đức và Pháp làm trung gian vào tháng 2 năm 2015 nhằm ngăn chặn những hiềm khích chưa thể coi là hoàn hảo, nhưng chắc chắn một điều là nếu không có nó, cuộc xung đột có thể đã sớm vượt khỏi tầm kiểm soát và lan rộng ra ngoài khu vực Donbas của Ukraine. Tiếp đến, Đức sẽ tiếp tục làm những gì có thể để ngăn chặn căng thẳng leo thang thành một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Trong khi đó, trong cuộc khủng hoảng đồng euro, Đức buộc phải đối đầu với sự nguy hiểm gây ra bởi mức nợ quá đáng của một số quốc gia EU vùng Địa Trung Hải. Đa số các thành viên của khu vực đồng euro và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ủng hộ các kế hoạch yêu cầu những nước như Hy Lạp áp đặt kiểm soát ngân sách và những cải cách kinh tế và xã hội vốn gian nan nhưng không thể tránh khỏi nhằm đảm bảo tính đồng đều về lâu dài của các nền kinh tế trong khu vực đồng euro. Nhưng thay vì đặt trách nhiệm tạo ra những thay đổi đó vào tầng lớp tinh hoa của các nước này, nhiều người châu Âu lại muốn đổ lỗi cho Đức vì cho là nước này đã đẩy nhiều khu vực ở Nam Âu vào cảnh nghèo đói, phục tùng, và sụp đổ. Đức cũng chịu chỉ trích tương tự trong cuộc khủng hoảng người tị nạn đang diễn ra. Mùa thu năm ngoái, Đức đã mở cửa biên giới đón người tị nạn, chủ yếu là từ Iraq và Syria. Chính phủ các nước Cộng hòa Séc, Hungary và Slovakia lo ngại rằng động thái này sẽ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng bằng cách khuyến khích thêm nhiều người tị nạn tràn vào đất nước họ với hy vọng sau này sẽ vượt biên được sang Đức. Tuy nhiên, cho đến nay, những lo ngại như vậy vẫn tỏ ra vô căn cứ. Vẫn chưa rõ châu Âu sẽ giải quyết cuộc khủng hoảng này khi nào và ra sao. Tuy nhiên, điều rõ ràng là ngay cả một quốc gia tương đối mạnh như Đức cũng không thể làm điều đó một mình. Chúng tôi không thể nhượng bộ cho những mong muốn ngày càng mạnh mẽ của một số nhóm cử tri nhất định để đưa ra phương án ứng phó chỉ ở phạm vi quốc gia, bằng cách đặt ra những giới hạn tuỳ tiện về việc chấp nhận người tị nạn chẳng hạn. Đức không thể và sẽ không lấy các giải pháp hứa hẹn sửa chữa nhanh chóng, nhưng trong thực tế là phản tác dụng, bất luận là xây tường hay gây chiến, làm căn cứ cho chính sách đối ngoại của mình. Một chính sách đối ngoại cân đối đòi hỏi liên tục cân nhắc kỹ càng những lựa chọn khó khăn. Nó cũng đòi hỏi sự linh hoạt. Hãy xem xét thỏa thuận tị nạn gần đây mà Đức đã giúp EU đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ. Theo thỏa thuận này, EU sẽ trả lại Thổ Nhĩ Kỳ bất kỳ người di cư nào đến Hy Lạp bất hợp pháp và đổi lại sẽ mở ra một con đường hợp pháp cho người Syria để họ có thể sang EU trực tiếp từ Thổ Nhĩ Kỳ. Thỏa thuận này cũng bao gồm các điều khoản về hợp tác sâu hơn giữa EU và Thổ Nhĩ Kỳ. Bất chấp những diễn biến gây tranh cãi tại Thổ Nhĩ Kỳ, chẳng hạn như sự leo thang bạo lực ở các khu vực người Kurd và việc quấy rối các phương tiện truyền thông và phe đối lập ngày càng gia tăng, Đức vẫn công nhận rằng Thổ Nhĩ Kỳ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc khủng hoảng và sẽ không có bất cứ tiến triển bền vững nào nếu không có Thổ Nhĩ Kỳ. Giờ đây không ai có thể nói trước liệu mối quan hệ mới này về lâu dài có được phát huy nữa hay không. Nhưng sẽ không có sự quản lý nhân đạo hay bất cứ tiến bộ nào về biên giới ngoài EU trừ khi các nhà lãnh đạo châu Âu làm việc nghiêm túc với những người đồng cấp Thổ Nhĩ Kỳ của họ. Một số chính trị gia, như cựu Ngoại trưởng Ba Lan Radek Sikorski, đã mô tả Đức là “một quốc gia không thể thiếu” của châu Âu. Đức không tham vọng đạt tới vị thế đó. Nhưng hoàn cảnh đã buộc Đức phải đảm nhận một vai trò chủ chốt. Có lẽ không một quốc gia châu Âu nào lại có số phận liên quan mật thiết đến sự tồn tại và thành công của EU đến thế. Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Đức sống trong hòa bình và hữu nghị với Pháp, Ba Lan, và phần còn lại của châu lục. Điều này phần lớn là nhờ vào sự từ bỏ chủ quyền hoàn toàn và sự chia sẻ tài nguyên mà EU đã khuyến khích trong gần 60 năm nay. Bởi vậy, giữ vững liên minh đó và chia sẻ gánh nặng lãnh đạo là những ưu tiên hàng đầu của Đức. Cho đến khi EU xây dựng được khả năng đóng một vai trò mạnh mẽ hơn trên thế giới, Đức sẽ cố gắng hết sức để giữ lập trường của mình – vì lợi ích của cả châu Âu. Đức sẽ là một nhà lãnh đạo có trách nhiệm, biết kiềm chế, và không ngừng suy ngẫm, được chỉ dẫn chủ yếu bởi những bản năng châu Âu của mình. Biên dịch: Vũ Thành Nam & Vũ Hồng Trang | Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng Nguồn: Frank-Walter Steinmeier, “Germany’s New Global Role,” Foreign Affairs, 13/06/2016. http://nghiencuuquocte.org/2017/02/02/vai-tro-toan-cau-moi-cua-duc/  
......

Đức : Cựu chủ tịch Nghị viện châu Âu Martin Schulz ra tranh cử lập pháp và chỉ trích phe dân túy

Hôm 29/01/2017, tại Berlin, trong diễn văn đầu tiên với tư cách là ứng viên của đảng Xã Hội Dân Chủ, ông Martin Schulz, nguyên là chủ tịch Nghị viện châu Âu, đã hứa hẹn tái lập công bằng xã hội và chỉ trích mạnh mẽ đảng dân túy AfD. Từ thủ đô Đức, thông tín viên Nathalie Versieux gửi về bài tường trình : « Các cuộc thăm dò dư luận thật đáng khích lệ đối với ông Martin Schulz. Kể từ khi ông cho biết sẽ ra tranh cử, hôm thứ Ba, 24/01, tỷ lệ cử tri có thể bỏ phiếu cho đảng Xã Hội Dân Chủ đã tăng thêm 4 điểm, đạt mức 24%. Quyết tâm tận dụng đà tiến này, ứng viên đảng Xã Hội Dân Chủ trong cuộc bầu cử lập pháp được tổ chức vào tháng Chín tới đây đã hứa sẽ bảo vệ các tầng lớp bình dân và những lo âu thường nhật của họ. Ông hướng tới cơ sở của đảng Xã Hội Dân Chủ. Tại Đức, cũng như ở châu Âu, tầng lớp này có xu hướng quay sang đảng dân túy AfD. Trong bài diễn văn hôm qua, 29/01, ông Martin Schulz đã tấn công mạnh mẽ xu hướng dân túy, chỉ trích đảng AfD mà ông coi là một sự hổ thẹn của nền cộng hòa. Ứng viên đảng Xã Hội Dân Chủ cũng phê phán Donald Trump, tố cáo nguyên thủ Mỹ có dự án chống nhập cư. Ông cảnh báo là tại Đức, người ta đã biết là chủ nghĩa quốc xã mù quáng có thể dẫn đến hậu quả ra sao. Ông Martin Schulz có tỷ lệ được lòng dân cao gần bằng bà Angela Merkel. Thế nhưng, trong các cuộc thăm dò dư luận thì đảng CDU của thủ tướng Merkel tiếp tục dẫn đầu, bỏ xa đảng SPD ». Nguồn:rfi.fr
......

Đức: Thành phố quê nội từ chối phong công dân danh dự cho Donald Trump

(DPA27/01/2017) Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ không thể trở thành công dân danh dự của ngôi làng nhỏ bé ở Đức, nơi từ đó ông bà nội của ông đã di cư sang Hoa Kỳ. Thị trưởng Thomas Jaworek sau cuộc họp hội đồng địa phương hôm 26/01/2017 cho biết như trên. Hội đồng thành phố Kallstadt, khu vực chuyên sản xuất rượu của vùng Rheinland miền tây nước Đức, quê cha đất tổ của Donald Trump, đã họp lại để đánh giá đề nghị tặng danh hiệu công dân danh dự cho tân tổng thống Mỹ. Các thành viên hội đồng đã tái khẳng định rằng thành phố không chấp nhận trao danh hiệu này cho ông Trump. Đảng Cộng Hòa Đức, một đảng nhỏ cùng chia sẻ các giá trị mang tính bảo thủ của đảng Cộng Hòa Mỹ, đã đưa ra đề nghị này, đồng thời đòi đặt tên Donald Trump cho một con đường hay một quảng trường tại Kallstadt. Nhưng thị trưởng Jaworek nói rằng : « Không có đảng cầm quyền nào hiện nay ủng hộ đề nghị trên ». Ông nội của nhà tỉ phú là Friedrich, sau đó đổi thành Frederick theo tiếng Anh, đã rời nước Đức sang New York lập nghiệp vào cuối những năm 1800 và sau đó sang Alaska sinh sống theo làn sóng những người tìm vàng. Trở nên giàu có, ông Friedrich có gởi một ít tiền cho những người bà con sống ở Đức, trong đó có một số hiện vẫn cư ngụ ở Kallstadt. http://www.lalibre.be/actu/international/une-ville-allemande-refuse-la-c...  
......

Tuần đầu tiên của Tổng thống Trump - đầy kịch tính & chao đảo

(Bản tin tổng hợp) Ông Trump đã chính thức trở thành tổng thống thứ 45th của Hoa Kỳ vào trưa ngày 20-1-2017 tại thủ đô Washington D.C. Sau buổi lễ nhậm chức diễn ra trọng thể như truyền thống thường thấy dành cho các vị tổng thống Hoa Kỳ, tân Tổng thống Trump đã bắt đầu giai đoạn “trị vì” bằng nhiều sắc lệnh và các tuyên bố làm “dậy sóng” dư luận, không khác gì thời tranh cử, chỉ khác là kỳ này những điều ông làm hay nói đều có ảnh hưởng thực sự tới đời sống của người dân Hoa Kỳ và có thể làm đảo lộn trật tự, an ninh thế giới. Những diễn biến xảy ra trong những ngày trị vì đầu tiên của TT Trump đều mang tính chất “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử Hoa Kỳ, và những tuyên bố cũng như sắc lệnh của ông đã khẳng định thêm những đặc điểm về con người cũng như các chủ trương/chính sách của ông, bao gồm: cai trị bằng những dữ kiện hoang tưởng/bịa đặt, bằng sự đe dọa/bạo lực/và chao đảo, đảo ngược lại mọi chính sách theo chiều hướng khác thường/bất ổn, phá tan mọi tương quan với đồng minh và trật tự quốc tế, đồng thời tạo thêm mối hiềm khích với thế giới Ả Rập, thách đố thay vì lắng nghe những tiếng nói khác biệt, cao ngạo và hành xử độc tài, chính sách theo ngẫu hứng nhất thời của cá nhân chứ không phải là một việc làm chính chắn đúc kết từ thảo luận, nghiên cứu và rút tỉa kinh nghiệm ... Hai điểm đáng nói nhất là: a/tân TT Trump đã phải đối mặt với gần 5 triệu người biểu tình chống ông trên khắp thế giới, một diễn biến đồng bộ và cùng một mục tiêu chưa từng xảy ra, và số lượng người biểu tình tại Hoa Kỳ cũng lớn nhất lịch sử, b/Ông Trump đang bị cơ quan giám sát về đạo đức kiện tội vi phạm hiến phá -điều luật “nhận quà của chính phủ ngoại bang;”và c/Những người thân tín của ông đang bị Quốc hội Hoa Kỳ mở cuộc điều tra vì thông đồng với Putin và Nga nhằm phá hoại cuộc bầu cử 2016 của Hoa Kỳ. Cả hai Ủy ban Tình báo của Thượng viện và Hạ viện đã vào cuộc điều tra. Các diễn biến lớn trong tuần qua liên quan tới tân TT Donald Trump bao gồm: 1. Điều đầu tiên là ông Trump chọn tranh cãi về một chuyện rất cỏn con, đó là số người tham dự lễ nhậm chức của ông lớn hơn chứ không thể thua số người tới tham dự lễ nhậm chức của TT Obama năm 2009. Ông thậm xưng là ông có con số kỷ lục, trong khi mọi dữ kiện đều cho thấy số người đến tham dự năm nay thua xa năm 2009, ước tính khoảng 250.000 tới 600.000 so với con số 1,8 triệu người năm 2009. 2. Ông Trump vẫn cay đắng vì thua tới gần 3 triệu phiếu phổ thông đối với bà Hillary Clinton, do đó ông tiếp tục nói dối là đã có từ 3 triệu tới 5 triệu người bỏ phiếu bất hợp pháp tại Hoa Kỳ khiến ông bị thua. Trong khi đó, các chính giới lưỡng đảng và các chuyên gia cho biết không hề có một chứng cớ gì về gian lận bầu cử lớn như vậy (Viện nghiên cứu Pew cho biết chỉ có 31 trường hợp trong số 1 tỷ phiếu bầu). 3. Ông Trump và nhân viên thân tín vẫn tiếp tục gây chiến với truyền thông, đưa ra những câu chuyện hoang tưởng theo thuyết âm mưu (consipracy theory), những con số giả - mà họ dùng mỹ từ là “dữ kiện thay thế (alternative facts).” Ba nhân vật đại diện cao cấp của ông Trump luôn giúp ông Trump tuyên truyền và bênh vực những điều dối trá, đó là bà Kellyanne Conway, ông Sean Spicer and Reince Priebus. 4. Ông Trump đề nghị Hoa Kỳ nên cướp dầu của Iraq trong buổi đến thăm cơ quan CIA (21-1-2017) và lập lại điều này trong buổi phỏng vấn với đài ABC (25-1-2017). Ông đã từng nêu điều này trong lúc tranh cử, nhưng lập lại trong cương vị tổng thống, ông Trump đã đặt đất nước Hoa Kỳ vào tình trạng rất nguy hiểm (xem bài chi tiết bên dưới). Lấy tài nguyên của một quốc gia khác là hành động của tội phạm chiến tranh, vi phạm trầm trọng hiệp ước Geneva. Tại buổi thăm viếng cơ quan CIA, ông đã bị chỉ trích nặng nề vì thiếu sự tôn kính đối với những người đã hy sinh cho tổ quốc. Hầu hết thời gian nói chuyện với 400 nhân viên CIA, ông Trump chỉ khoe cái tôi, huyênh hoang, tự đại, khoe được lên trang bìa của Times Magazine 15 lần(?), lượng người tới tham dự lễ nhậm chức của ông lên tới 1-1.5 triệu (?), khoe mình thông minh ... Ông còn đem theo một đội ngũ 40 nhân viên tới để vỗ tay và hò reo tán thưởng mình. Những nhân viên CIA có mặt rất bất mãn, và cựu Giám đốc CIA Brennan đã phê bình: “Thái độ tự cao, tự đại của ông Trump thật đáng khinh. Ông Trump nên tự biết xấu hổ!” 5. Ký những sắc lệnh mang tính tranh cãi liên quan tới môi trường, xây bức tường ngăn di dân Mễ, chống di dân và ngưng visa đối với các quốc gia Hồi giáo, đuổi di dân bất hợp pháp và dọa cắt ngân khoản đối với những thành phố đòi chấp chứa di dân không cư trú hợp lệ, bắt đầu hủy bỏ Obamacare, hủy tài trợ giúp phụ nữ ngăn ngừa mang thai và phá thai trên thế giới, ủng hộ việc tra tấn tù nhân và mở ra các trung tâm tra tấn, cho phép xây ống dẫn dầu Keystone XL & Dakota Access, bỏ hiệp định thương mại TPP và xét lại NAFTA, cấm nhân viên của nhiều cơ quan chính phủ ngưng việc thông tin với báo chí và quần chúng. 6. Chỉ 1 ngày sau khi nhậm chức, tân Tổng thống Trump bị người dân biểu tình chống đối khắp Hoa Kỳ và thế giới, với con số kỷ lục là hơn 670 cuộc biểu tình và số người biểu tình trong một ngày 21-1-2017 ước lượng gần 5 triệu người, kể cả những quốc gia nhỏ bé ở Phi Châu, Á Châu, các cường quốc, và ngay cả các tiểu bang Hoa Kỳ đã bầu cho ông Trump. Riêng tại Hoa Kỳ, các cuộc biểu tình ngày 21-1-2017 đã được coi là đông nhất lịch sử Hoa Kỳ. Hiện các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục rải rác khắp nơi trong những ngày qua, với số lượng trung bình khá đông. Họ tập trung cả ở quốc hội tiểu bang lẫn văn phòng các vị dân cử để làm áp lực chống lại những đạo luật của TT Trump. Một banner RESIST được 7 nhà hoạt động môi trường treo trước Tòa Bạch Ốc ngày 25-1-2017 7.   Khu vực nghỉ mát Mar-a-Lago của ông Trump tại Palm Beach đã tăng tiền lệ phí tham gia ban đầu lên gấp đôi kể từ ngày 1-1-2017, từ $100.,000 lên tới $200.000. Năm 2012, họ phải giảm từ $200.000 xuống $100.000 vì ế ẩm. Ngoài số tiền ban đầu, các thành viên của khu nghỉ mát còn phải đóng thêm $14,000 lệ phí hàng năm và cả tiền thuế. 8. Chỉ trong vòng 24 tiếng sau khi TT Trump ký sắc lệnh dọa cúp tài trợ liên bang cho nơi nào chấp chứa di dân bất hợp pháp, 39 thành phố và 364 quận hạt toàn quốc đã lên tiếng chống đối, và hứa sẽ bảo vệ người dân khỏi lệnh trục xuất. Thị trưởng Boston còn mạnh mẽ thách thức là “nếu cần, chúng tôi sẽ mở cửa tòa thị chính để đồng bào trú ngụ.” Các thượng nghị sĩ tiểu bang California đã thách thức sẽ đưa ông Trump ra tòa vì tội vi hiến khi cưỡng bách tiểu bang phải làm theo điều mà họ không muốn. Xin xem tiếp qua trang nhà theo link bên trên những bản tin chi tiết sau: Tân tổng thống bị kiện vì ‘nhận quà của ngoại bang là vi hiến’ Ông Trump tuyên bố không bằng chứng: có 3-5 triệu phiếu gian lận TT Trump ký sắc lệnh xây tường biên giới & cấm cửa người Hồi giáo Tân Tổng thống Mỹ Trump đảo ngược chính sách phá thai Ông Trump cấm nhân viên không được liên lạc và tiết lộ thông tin Các khoa học gia ‘nổi dậy’ chống Trump Trump đề nghị Hoa Kỳ nên lấy dầu của Iraq Tiểu thuyết ‘1984’ bán chạy sau ngày ông Trump nhậm chức  
......

Khi dân số Hồi Giáo gia tăng, bạo lực và khủng bố cũng vậy

Người Hồi Giáo có ôn hòa như chúng ta nghĩa không? Theo thống kê thì cho thấy không. Khi số người Hồi Giáo càng tăng thì nạn bạo lực và khủng bố cũng tăng theo. Hồi Giáo không phải chỉ là một tôn giáo mà nó là một hệ thống toàn trị. Hồi Giáo có những yếu tố tôn giáo, luật pháp, chính trị, kinh tế và quân sự. Phần tín ngưỡng là phần chính che giấu tất cả những phần khác. Quá trình Hồi Giáo Hóa xảy ra khi có đủ dân số người Hồi Giáo trong một đất nước để thúc đẩy một làn sóng phẫn nộ để nới rộng tầm ảnh hưởng của Hồi Giáo. Khi những xã hội vốn yêu thích sự ôn hòa và phải đạo chính trị như các nước Phương Tây đồng ý chấp nhận những yêu cầu của những người Hồi Giáo ví lý do “tôn giáo,” họ đang chung tay giúp đỡ người Hồi Giáo đạt được mục đích “Hồi Giáo Hóa” đất nước đó. Quá trình đó diễn ra như sau, các con số về dân số được trích từ trang CIA năm 2007. Khi dân số Hồi Giáo chỉ ở dưới mức 1% của bất cứ đất nước nào họ sẽ được xem là một thiểu số yêu hòa bình, ôn hòa và không phải là mối đe dọa cho bất cứ ai. Thậm chí, họ có thể sẽ được quảng bá trong báo chí và phim anh vì những sự phong phú và đặc trưng của họ: Mỹ — Người Hồi Giáo 1.0% (của dân số quốc gia) Úc — Người Hồi Giáo 1.5% Canada — Người Hồi Giáo 1.9% Trung Quốc — Người Hồi Giáo 1%-2% Ý — Người Hồi Giáo 1.5% Na Uy — Người Hồi Giáo 1.8% Ở mức 2% và 3% dân Hồi Giáo bắt đầu giảng và chuyển đạo người từ những nhóm thiểu số và bất đồng chính kiến khác với sự tập trung vào những tổ chức băng đảng và trong nhà tù: Đan Mạch — Người Hồi Giáo 2% Đức — Người Hồi Giáo 3.7% Anh — Người Hồi Giáo 2.7% Tây Ban Nha — Người Hồi Giáo 4% Thái Lan — Người Hồi Giáo 4.6% Từ mức dân số 5% trở lên họ bắt đầu thực hiện tầm ảnh hưởng của họ trên dân số còn lại. Họ sẽ thúc đầy cho sự giới thiệu của đồ ăn theo chuẩn Halal (đồ ăn phải được chuẩn theo chuẩn Hồi Giáo bởi người Hồi Giáo) để bắt đầu quá trình tách riêng ra khỏi dân số địa phương. Họ sẽ gia tăng áp lực lên những chuỗi siêu thị và ẩm thực để chứa đồ ăn Halal trong kho. Họ sẽ đe dọa mọi người để đạt được yêu cầu đó. Pháp — Người Hồi Giáo 8% Philippines — Người Hồi Giáo 5% Thụy Điển — Người Hồi Giáo 5% Thụy Sĩ — Người Hồi Giáo 4.3% Hà Lan — Người Hồi Giáo 5.5% Trinidad &Tobago — Người Hồi Giáo 5.8% Đến mức này, họ sẽ hoạt động để thúc đẩy chính phủ cho phép họ tự cai trị bản thân dưới luật Sharia hoặc luật Hồi Giáo. Nếu có xung đột giữa lập quốc gia và Hồi Giáo, họ sẽ yêu cầu luật Hồi Giáo được áp dụng trên luật quốc gia. Mục đích tối cao của Hồi Giáo không phải là thuyết phục những người ngoại đạo mà để cai trị họ và cả thế giới dưới Hồi Giáo. Khi dân số Hồi Giáo đạt đến mức 10% của quốc gia, họ sẽ gia tăng sự vô trật tự và luật pháp như một phương pháp để phàn nàn về điều kiện sống hiện tại của họ (như những vụ đốt xe ở Paris, Pháp). Bất cứ hành động chống đối hay chỉ trích Hồi Giáo nào sẽ được xem là xâm phạm tự do và tôn giáo. Hệ lụy là họ sẽ gia tăng bạo lực, đe dọa và mức độ bạo động. Họ sẽ trả thù bất cứ ai chống đối họ một cách công khai (như vụ biểu tình hình vẽ Muhammad của nhà xuất bản Đan Mạch). Những quốc gia có dân số Hồi Giáo trên 10% sẽ chứng kiến những vụ xung đột của Hồi Giáo một cách thường xuyên và điều đó trở thành lẽ thường, trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày. Guyana — Người Hồi Giáo 10% Ấn Độ — Người Hồi Giáo 13.4% Israel — Người Hồi Giáo 16% Kenya — Người Hồi Giáo 10% Nga — Người Hồi Giáo 10-15% Sau khi dân sô Hồi Giáo đạt đến mức 20% của quốc gia thì sẽ có những vụ bạo động ở quy mô lớn. Sẽ có những tổ chức thánh chiến và bán quân sự ở địa phương. Sẽ có những vụ thảm sát danh dự và những vụ giết người ngoại đạo. Các nhà thờ Thiên Chúa và Do Thái sẽ bị đốt. Người Do Thái và Thiên Chúa sẽ thường xuyên bị đánh đập. Sẽ có những khu vực Hồi Giáo mà người ngoại đạo bị cấm vào, nơi đó luật pháp quốc gia không được áp dụng. Luật Hồi Giáo sẽ trở thành ngang ngửa với luật quốc gia. Ethiopia — Người Hồi Giáo 32.8% Với dân số Hồi Giáo ở mức 40% bạn sẽ chứng kiến nhiều vụ thảm sát, tấn công khủng bố và chiến tranh một cách thường xuyên. Bosnia — Người Hồi Giáo 40% Chad — Người Hồi Giáo 53.1% Lebanon — Người Hồi Giáo 59.7% Từ mức 60% trở nên bạn có thể sẽ thấy những vụ đàn áp của những người ngoại đạo và những chủng tộc khác. Sẽ có những vụ diệt chủng nhẹ. Luật Sharia sẽ được dùng như một vũ khí để lấy tiền từ người ngoại đạo. Người Hồi Giáo bắt đầu quá trình cai trị người ngoại đạo. Albania — Người Hồi Giáo 70% Mã Lai — Người Hồi Giáo 60.4% Qatar — Người Hồi Giáo 77.5% Sudan — Người Hồi Giáo 70% Từ mức 80% trở lên, nhà nước Hồi Giáo sẽ thi hành chính sách diệt chủng người ngoại đạo. Bangladesh — Người Hồi Giáo 83% Ai Cập — Người Hồi Giáo 90% Gaza — Người Hồi Giáo 98.7% Indonesia — Người Hồi Giáo 86.1% Iran — Người Hồi Giáo 98% Iraq — Người Hồi Giáo 97% Jordan — Người Hồi Giáo 92% Morocco — Người Hồi Giáo 98.7% Pakistan — Người Hồi Giáo 97% Palestine — Người Hồi Giáo 99% Syria — Người Hồi Giáo 90% Tajikistan — Người Hồi Giáo 90% Thổ Nhĩ Kỳ — Người Hồi Giáo 99.8% United Arab Emirates — Người Hồi Giáo 96% Ở mức 100%, người Hồi Giáo sẽ thi hành ‘Dar-es-Salaam’, hoặc sự hòa bình trong Hồi Giáo. Vì sao lại là hòa bình? Vì tất cả mọi người đều là người Hồi Giáo và cả đất nước khuất phục dưới Allah. Afghanistan — Người Hồi Giáo 100% Saudi Arabia — Người Hồi Giáo 100% Somalia — Người Hồi Giáo 100% Yemen — Người Hồi Giáo 99.9% Đương nhiên, không chỉ thế thôi đâu. Để thỏa mãn nhu cầu của họ, người Hồi Giáo sẽ bắt đầu chém giết lần nhau để tranh quyền lực. Trước khi tôi 9 tuổi tôi đã học cuộc chiến hàng ngày trong đời sống Arab. Đó chính là chống lại anh em tôi; anh em tôi và tôi chống lại cha tôi; bộ lạc chống lại bộ lạc; và cả giới Hồi Giáo chống lại giói ngoại đạo. – Leon Uris, The Haj Một điều đáng nhớ là ở rất rất nhiều quốc gia, như Pháp, dân số Hồi Giáo được tập trung ở những khu phố nghèo và sống tách biệt khỏi dân số bản xứ. Người Hồi Giáo không hội nhập với cộng động nói chung. Vì vậy, họ và luật Hồi Giáo được thi hành ngoài luật lệ quốc gia. Hồi Giáo không hề và chưa bao giờ là một tôn giáo ôn hòa. Người Hồi Giáo chỉ ôn hòa khi họ là một thiểu số. Một khi họ đã có đầy đủ số lượng để gây áp lực và thúc đẩy sự thay đổi, họ sẽ làm vậy. Và một khi họ trở thành đại đa số trong quốc gia đó, quốc gia đó sẽ trở thành một quốc gia Hồi Giáo bị cai trị theo luật Sharia. Hồi Giáo ôn hòa? Đó là một nghịch lý./. Nguồn: cafekubua.com
......

Nghi phạm vụ khủng bố Berlin bị cảnh sát Ý bắn hạ tại Milano

Hãng tin Reuters dẫn nguồn tin an ninh Ý hôm nay 23/12/2016 cho biết, nghi phạm chính trong vụ dùng xe tải tấn công khu chợ Noel Berlin đã bị bắn hạ sau cuộc đấu súng với cảnh sát tại thành phố Milano, miền bắc nước Ý. Theo nguồn tin trên, kiểm tra dấu vân tay của đối tượng bị cảnh sát Ý bắn hạ cho thấy đó chính là Anis Amri, người Tunisia, nghi phạm chính của vụ tấn công khủng bố bằng xe tải tại Berlin hôm 19/12, đang bị truy nã khắp châu Âu. Sáng nay, tại Roma, bộ Nội Vụ Ý đã tổ chức họp báo xác nhận thông tin trên. Theo hãng tin Ý ANSA, nghi phạm bị bắn hạ lúc khoảng 3 giờ sáng sau khi bị cảnh sát kiểm tra giấy tờ gần một nhà ga ở ngoại ô thành phố Milano. Đối tượng đã bỏ chạy và nổ súng làm bị thương một cảnh sát, trước khi bị bắn hạ. Tại Berlin, phát ngôn viên của Viện Công Tố Liên bang cho biết các cơ quan chức năng của Đức đã liên hệ với các đồng nghiệp Ý về vụ việc này. Asnis Amri bị bắn chết tại Milan -Ý Asnis Amri đã đến châu Âu hồi tháng 2/2011 qua ngả nước Ý. Đối tượng này đã từng bị ngồi tù tại Ý trong 4 năm cho tới năm 2015 thì tới Đức. Cảnh sát Đức đã tìm thấy dấu vân tay và một thẻ căn cước đối tượng người Tunisia có tên Anis Amri trên chiếc xe tải đâm vào chợ Noel ở Berlin làm 12 người chết và 48 người bị thương hôm 19/12. Ngay sau đó nghi phạm bị truy nã toàn châu châu Âu. Trong khi đó tại Đức, hôm nay 23/12/2016 cảnh sát thông báo đã bắt giữ hai đối tượng là anh em bị tình nghi đang chuẩn bị kế hoạch tấn công một trong những trung tâm thương mại lớn nhất nước. Theo AFP, nhận được tin của tình báo, cảnh sát Đức tối khuya hôm qua, đã triển khai lực lượng xung quanh trung tâm thương mại Oberhausen (phía tây) và khu chợ Noel ở gần đó. Đến rạng sáng ngày hôm nay, an ninh Đức đã bắt giữ được hai đối tượng bị tình nghi đang chuẩn bị một vụ khủng bố. Đó là hai anh em người gốc Kosovo, 28 và 31 tuổi. Các nhà điều tra đang cố gắng xác định âm mưu tấn công trung tâm thương mại trên đang ở giai đoạn nào và còn có ai tòng phạm trong kế hoạch này. Nguồn: http://vi.rfi.fr/quoc-te/20161223-nghi-pham-vu-khung-bo-berlin-canh-sat-...
......

Tác giả “Chết bởi Trung Quốc” sẽ cố vấn kinh tế cho Tổng thống Trump?

Một trong những vị cố vấn kinh tế cho Tổng thống đắc cử Donald Trump là giáo sư Peter Navarro, ông cũng là tác giả cuốn sách Death by China (Chết bởi Trung Quốc) mà chính ông Trump từng nói là rất thích. Liệu nếu được tiếp tục chọn trong vai trò cố vấn kinh tế GS Navarro có thể giúp gì cho Tổng thống đắc cử Trump trong chính sách với Trung Quốc? Mặc Lâm phỏng vấn TS kinh tế Trần Diệu Chân người dịch tác phẩm Chết bởi Trung Quốc của GS Navarro và có cơ hội làm việc rất gần gũi với ông để biết thêm về một góc quan điểm nào đó của vị GS khá được người Việt yêu mến này. Hình: giáo sư Peter Navarro Chính sách với Trung Quốc sẽ như thế nào? Mặc Lâm: Thưa TS, nếu GS Peter Navarro được TT đắc cử Donald Trump chọn vào Ủy ban tư vấn kinh tế cho Nhà trắng thì chính sách đối với Trung Quốc sẽ khác với chính phủ của TT Obama hay không và khác ở điểm nào? Tổng thống Tân cử của Hoa Kỳ là ông Donald Trump tại New York hôm 22/11/2016. Chính sách mậu dịch của ông Trump đối với Trung Quốc chắc chắn là không thân thiện và cởi mở bằng chính sách hiện nay của TT Obama, thí dụ quan thuế đánh trên các mặt hàng nhập cảng từ Trung Quốc sẽ cao hơn. -TS Trần Diệu Chân TS. Trần Diệu Chân dịch giả, ra mắt sách Chết Bởi Trung Quốc. Ảnh Việt Báo   TS Trần Diệu Chân: Trước hết, xin cám ơn anh và đài đã cho tôi cơ hội chia sẻ về GS Peter Navarro, tác giả cuốn sách “Death by China” mà tôi đã dịch ra tiếng Việt năm 2012 với sự cho phép của tác giả. Không ngờ, ông lại trở thành cố vấn kinh tế cho ứng viên tổng thống - và bây giờ là Tổng Thống Đắc Cử Donald Trump. GS Navarro, ông Lawrence Kudlow và Stephen Moore là ba nhà cố vấn kinh tế có ảnh hưởng nhất trong một ủy ban 14 người, mà theo các nhà bình luận thì GS Navarro, người duy nhất có bằng tiến sĩ kinh tế, có vẻ được ông Trump lắng nghe nhất về quan điểm bảo hộ mậu dịch và chống Trung Cộng gay gắt của ông. Do đó, có xác suất cao là GS Navarro sẽ trở thành cố vấn tối cao về kinh tế trong nội các của TT Đắc Cử Donald Trump. Những điều mà tôi biết về GS Navarro qua quyển sách “Chết bởi Trung Quốc”, thì đúng là ông đã có ảnh hưởng lớn, nếu không nói là chính và toàn bộ lên ông Trump khi lên án Trung Quốc nặng nề vì đã cướp đi công ăn việc làm của người Mỹ và thao túng tiền tệ. Điều thú vị mà tôi được biết là chính ông Trump cũng tiết lộ ông rất thích quyển Death by China. Chính sách mậu dịch của ông Trump đối với Trung Quốc chắc chắn là không thân thiện và cởi mở bằng chính sách hiện nay của TT Obama, thí dụ quan thuế đánh trên các mặt hàng nhập cảng từ Trung Quốc sẽ cao hơn, đặc biệt thuế chống phá giá trên một số các mặt hàng. Tuy nhiên, có hai điểm về vị TT Đắc Cử của Hoa Kỳ mà chúng ta cần ghi nhớ, đó là trong lúc ông tranh cử thì có rất nhiều tuyên bố mạnh mẽ, tới độ gay gắt, cực đoan, nhưng sau khi đắc cử thì đã bắt đầu dịu giọng trong nhiều vấn đề, có những chính sách mà ông tuyên bố hùng hồn trước khi đắc cử, nay đã xoay ngược180 độ. Thực tế ra sao, phải đợi một thời gian mới rõ. Nhưng một điều chắc chắn là một thương gia thành công và nổi tiếng là thích thương lượng, thì ông Trump chắc sẽ không ngần ngại ký kết những thỏa ước có lợi cho Hoa Kỳ bất kể những tuyên bố chống đối nẩy lửa thời tranh cử. Mặc Lâm: Với cái nhìn của bà thì kinh nghiệm về Trung Quốc của GS Navarro sẽ ảnh hưởng tới vấn đề gì mà nước Mỹ quan tâm nhất trong chính sách đối với Trung Quốc? TS Trần Diệu Chân: GS Navarro và ông Trump cho rằng: Toàn cầu hóa và mậu dịch là căn nguyên của những khó khăn kinh tế tại Hoa Kỳ, khiến người dân mất công ăn việc làm khi sản xuất bị đưa ra ngoại quốc – outsourcing tới những quốc gia có giá nhân công rẻ như Trung Quốc, Mễ Tây Cơ và các quốc gia Á Châu như Việt Nam, Philippines, Cam Bốt ... Đặc biệt Trung Quốc vừa là trung tâm thu hút công ăn việc làm của người Mỹ, vừa là một đối tác mậu dịch xấu, không tôn trọng luật chơi công bằng, thao túng tiền tệ và đưa đến tình trạng thâm thủng mậu dịch nặng nề cho Hoa Kỳ. Với cái nhìn này, ông Trump đã chủ trương chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm giữ chặt công việc ở lại Hoa Kỳ qua phương thức áp đặt thuế xuất nhập khẩu cao đối với các mặt hàng sản xuất ở hải ngoại rồi nhập lại vào bán tại Hoa Kỳ. Ông Trump cũng dọa áp dụng mức thuế quan 45% - cao gấp 10 lần mức hiện tại - đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc. Hoa Kỳ hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của nước này. Do đó, lời đe dọa của ông Trump đã tạo ra sự quan ngại to lớn cho đối tác Trung Quốc, nhất là trong giai đoạn họ đang phải đương đầu với thời kỳ khó khăn kinh tế. Thêm vào đó, chính sách bảo hộ mậu dịch của ông Trump cũng tạo ra sự quan ngại cho toàn vùng Á Châu lẫn Âu Châu về những ảnh hưởng kinh tế và chính trị dây chuyền trên thế giới. Tuy nhiên, điều mà nước Mỹ quan tâm nhất đối với Trung Quốc trong chính sách kinh tế là đem lại công ăn việc làm cho những thành phần cử tri ủng hộ cho ông Trump đang bị thiệt thòi về kinh tế trong những vùng Rust Belt như Illinois, Indiana, Michigan, Ohio, Pennsylvania, thì theo tôi, chưa hẳn là do những chính sách kinh tế đối với Trung Quốc, mà có khi lại đạt được nhờ tình hình kinh tế đang phát triển hiện nay, do TT Obama để lại và TT Trump được thừa hưởng. Tương tự như thời kỳ chuyển tiếp từ TT Bush cha sang TT Clinton, miễn là phải tạo được sự ổn định trong xã hội, trong guồng máy kinh tế và niềm tin của người dân. Hiểm họa “con rồng đỏ tim đen Trung Cộng” Mặc Lâm: Trong lúc chuyển ngữ cuốn “Chết bởi Trung Quốc” bà có thời gian tiếp xúc và bàn bạc với GS Navarro rất nhiều, theo bà thì ông ấy quan tâm tới vấn đề nào nhất trong tất cả các nguy cơ mà GS đã chỉ ra trong cuốn sách này? TS Trần Diệu Chân: Trong những dịp đàm đạo với GS Navarro và tham gia những buổi chiếu phim-hội thảo về cuốn sách cùng ông với Tiến Sĩ Greg Audry, đồng tác giả cuốn “Chết bởi Trung Quốc,” tôi thấy hai vị tác giả này đều là những người lý tưởng, có lòng, quan tâm đến đời sống khốn cùng của người dân Trung Hoa dưới ách thống trị hà khắc của tập đoàn đảng trị cộng sản Trung Quốc. Hai học giả tuy là giáo sư kinh tế, nhưng tôi tìm thấy ở họ một điểm chung lớn đó là trái tim của một nhà hoạt động, quan tâm đến nhân loại, nhân quyền, công lý, an toàn thực phẩm, bảo trì trái đất và chống lại những thế lực đen tham lam với dã tâm bành trướng như Trung Cộng. Quan tâm về công ăn việc làm của người Mỹ chỉ là thứ yếu trong toàn bộ những quan tâm của tác giả. Hai ông đã cho chúng ta thấy rõ được sự đe dọa tiềm tàng của một con quái vật đang trổi dậy thực hiện mộng bá chủ, sẵn sàng xâm lăng thế giới bằng đủ mọi hình thức, từ kinh tế, chính trị, tới gián điệp, quân sự, giáo dục, tôn giáo... -TS Trần Diệu Chân Hai ông đã viết quyển sách Death by China để báo động cho chúng ta về hiểm họa “con rồng đỏ tim đen Trung Cộng.” Với tài mô tả linh động và dữ kiện thuyết phục, hai ông đã cho chúng ta thấy rõ được sự đe dọa tiềm tàng của một con quái vật đang trổi dậy thực hiện mộng bá chủ, sẵn sàng xâm lăng thế giới bằng đủ mọi hình thức, từ kinh tế, chính trị, tới gián điệp, quân sự, giáo dục, tôn giáo v...v... Và tôi rất biết ơn hai ông, vì nhờ đọc quyển sách Chết bởi Trung Quốc mà tôi nhận ra chân tướng nguy hiểm của chế độ này, và đã tình nguyện dịch quyển sách ra cho đồng bào chúng ta cùng rõ. Mặc Lâm: Cá nhân của GS Navarro có quan tâm đến Việt Nam hay không và theo bà ông ấy sẽ cố vấn thế nào về vấn đề nhân quyền với chính phủ Trump đi kèm với những thỏa thuận kinh tế mà ông Trump có khuynh hướng co cụm lại thay vì mở ra với thế giới qua chính sách bảo hộ mậu dịch? TS Trần Diệu Chân: Tuy GS Navarro không nói đến Việt Nam trong cuốn Death by China, nhưng tôi tin là ông rất quan tâm đến đất nước chúng ta, vì ông rất hiểu các chế độ cộng sản, và vì thế mà ông đã vui vẻ cho phép tôi dịch quyển sách của ông để loan tải không hề tính bản quyền, và đã mời tôi cùng sinh hoạt trong những buổi chiếu phim. Tôi cũng chưa có dịp liên lạc lại với GS Navarro để chúc mừng ông trong vị trí cố vấn kinh tế cho ứng viên TT Donald Trump. Tuy nhiên, nếu có dịp sau này, tôi sẽ chia sẻ hai quan tâm của tôi về chính sách bảo hộ mậu dịch của TT Đắc cử Donald Trump, đặc biệt có liên quan đến tình hình Việt Nam của chúng ta. Thứ hai, chính vì những quan tâm về nhân quyền và công lý, Hoa Kỳ cần phải tham gia hơn nữa vào các hoạt động chung của thế giới, không thể tạo ra khoảng trống chính trị và kinh tế trong khu vực Á Châu để Trung Quốc tự do tung hoành. Khi Hoa Kỳ rút ra khỏi TPP, thu mình lại, giảm can thiệp là cơ hội cho những thế lực đen như Trung Quốc và Nga vùng dậy. Mặc Lâm: Xin cám ơn Tiến sĩ. http://www.rfa.org/…/the-author-death-by-cn-ll-be-in-donald…
......

Angela Merkel, lãnh đạo nước Đức và thế giới tự do ?

Trong cuộc họp báo ngày 20/11/2016 tại Berlin, thủ tướng Đức Angela Merkel cho biết bà sẽ ra tranh cử nhiệm kỳ thứ tư nhân bầu cử Quốc hội vào năm tới. Sau 11 năm cầm quyền, bà hãnh diện được 55% dân chúng mong muốn tiếp tục lãnh đạo. Công luận bên kia bờ Đại Tây Dương cũng tin tưởng. Trong bối cảnh châu Âu đối đầu với nhiều bất trắc và khủng hoảng, bên trong lẫn bên ngoài biên giới, Angela Merkel được đa số dân Đức xem là biểu tượng của ổn định. Tại Hoa Kỳ, một phần công luận Mỹ lo ngại chính sách co cụm của Donald Trump đã trao cho bà nhiệm vụ «lãnh đạo Thế Giới Tự Do », một danh hiệu đã chìm vào quên lãng từ khi Liên Xô sụp đổ. Trong khi đó thì đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của Đức bị chia rẽ vì chính sách đón tiếp di dân ồ ạt. Nước Đức còn là nạn nhân của phong trào cực hữu, bài ngoại, co cụm từ khi tiếp nhận một triệu tị nạn này. Giáo sư Michèle Weinachter, đại học khoa học chính trị Sciences Po Saint Germain en Lhaye, chuyên gia về nước Đức hiện đại, phân tích căn nguyên nguồn cội. Cuộc phỏng vấn do chương trình « Décriptage » của RFI tiếng Pháp thực hiện. Tại sao dân Đức vẫn còn ủng hộ bà Angela Merkel sau 11 năm cầm quyền ? Tình hình kinh tế là yếu tố cơ bản nhất. 75% dân Đức hài lòng với tình hình hinh tế quốc gia. Trong 11 năm qua, tỷ lệ thất nghiệp giảm đến 50% chỉ còn 5,8%. Chúng ta không nên quên rằng là 10 năm trước, Cộng Hoà Liên Bang Đức rơi xuống tận cùng đáy vực. Tất cả châu Âu đều nói Đức là con bệnh của châu lục. Bà Angela Merkel trong nỗ lực đưa nước Đức đi lên đã có những thành công và thất bại. Nhưng với 75% dân chúng hài lòng thỏa mãn thì yếu tố kinh tế đóng vai trò rất quan trọng. Thứ đến, Angela Merkel được dân chúng xem là một nhà lãnh đạo vững chắc và giàu kinh nghiệm. Trong một thế giới nhiều bất trắc thì hình ảnh một nhà lãnh đạo vững vàng, mang lại thành quả kinh tế thì phải được dân tín nhiệm. Nhưng phải nói rõ là từ nay cho đến năm sau sẽ có nhiều thay đổi ai biết được ngày mai ra sao. Nếu bầu cử diễn ra vào ngày mai thì chắc chắn Angela Merkel lại chiến thắng vẻ vang nhưng năm tới thì khó đóan. Tuy nhiên, có nhiều khả năng liên minh cầm quyền CDU và SPD sẽ được bầu lại. Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo sẽ tiếp tục cùng với đảng Dân Chủ Xã Hội điều hành nước Đức. Kinh tế phất lên nhưng nước Đức không tránh được ảnh hưởng của cực hữu, cơn ác mộng của một dân tộc từng bị Hitler lôi vào thế chiến. Đây là thất bại của Angela Merkel ? Chúng ta có thể nói như thế nhưng cũng phải tương đối hóa vấn đề. Đảng AFD bài ngoại thành lập năm 2012, qua năm sau giành được gần 5% phiếu, không đủ điều kiện để vào Quốc hội liên bang, nhưng kết quả như thế là khá tốt cho một tổ chức mới. Lúc đó, AFD chỉ là một phong trào chống châu Âu và lý do kinh tế là nguyên nhân chính. Thế rồi, sau đó có một cuộc « đảo chính » trong nội bộ. Phe cực hữu lật đổ sáng lập viên chủ tịch và từ đó các luận điểm cực đoan, kỳ thị chủng tộc bắt đầu được tung ra không khác chi khẩu hiệu của nhóm tân phát-xít NPD. Theo thăm dò ý kiến ngày 12/11/2016 thì AFD được 12% cử tri tín nhiệm. Đây là một tỷ lệ cao trong chính trường Đức nhưng so với uy thế của các tổ chức cực hữu khác tại châu Âu thì có thấm gì. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là cực hữu Đức rất thô bạo. Do vậy, bà Angela Merkel đã báo trước là chiến dịch vận động tranh cử vào năm 2017 sẽ được lèo lái với một « thái độ dân chủ». Tuyên bố này rất quan trọng vì Angela Merkel không để cho các chính trị gia cực đoan lôi kéo tranh luận chính trị vào võ đài mị dân. Bối cảnh chính trị khó khăn không riêng gì cho nước Đức mà nó xảy ra trên toàn cầu : khủng hoảng vùng euro, Anh Quốc rút chân khỏi châu Âu, Donald Trump vào Nhà Trắng… đây là những bất trắc đặc biệt đối với Berlin vì kinh tế Đức là kinh tế mở. Nếu Mỹ co cụm, phong trào cực hữu co cụm ở châu Âu cũng thừa thế bùng lên thì Đức rất mệt. Trăm dâu đổ đầu tằm ? Bà Angela Merkel bị nhiều nhà chính trị châu Âu và đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Đức chỉ trích phạm sai lầm trong chính sách nhân đạo tiếp đón di dân tị nạn. Phe cực hữu tố bà mở cửa cho khủng bố trà trộn xâm nhập nước Đức. Hư thực ra sao ? Bà Angela Merkel không tuyên bố mở cửa biên giới đón tất cả mọi di dân tị nạn. Thế nhưng chính những người trong đảng lại công kích bà kịch liệt. Trong khi đó thì đảng Dân Chủ Xã Hội và nhiều đảng đối lập trong đó có đảng cực tả, đảng Xanh bảo vệ môi trường ủng hộ các biện pháp nhân đạo của thủ tướng. Tình hình lúc đó phải nói là « khẩn cấp ». Vào ngày 15/08/2015, bộ Nội Vụ báo động đang có hơn 800.000 tị nạn đang tiến về biên giới nước Đức. Đoàn người mượn con đường Balkan mỗi ngày mỗi đông. Thế mà thủ tướng Hungari, Viktor Orban để cho di dân tị nạn lâm vào hoàn cảnh cực kỳ bất nhân. Bà Angela Merkel lớn lên trong chế độ độc tài Đông Đức nên bà rất ghét hàng rào kẽm gai và tường chận. Do vậy, không phải bà tuyên bố mở toang biên giới cho di dân mà chính xác là « không nên đóng cửa trước thảm cảnh nhân đạo và cần đối xử với người bất hạnh sao cho xứng đáng với tình người ». Angela Merkel đạt thành quả đáng khen vì trong nước, bà thực hiện một chính sách nhập cư rất năng nổ, ổn định đời sống của một triệu di dân, siết chặt luật di trú và bên ngoài biên giới châu Âu, bà thuyết phục được Thổ Nhĩ Kỳ hợp tác tiếp đón nạn nhân chiến cuộc Syria ». Thay thế vai trò nước Mỹ của Donald Trump ? Ngày 20/11/2016, khi thông báo quyết định ra tranh cử nhiệm kỳ thứ tư vào năm 2017, thủ tướng Đức nhấn mạnh một mình bà không thể bảo vệ an ninh cho cả châu Âu mà phải có nhiều người hợp tác. Biện pháp hiệu quả nhất để củng cố nền an ninh chung là nước Đức và thế giới cần phải rộng mở chứ không thể co cụm mạnh ai nấy lo thân. Lời tuyên bố khiêm tốn này của bà Angela Merkel được xem là thông điệp vừa để khuyến cáo tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump, vừa đáp lại lời khen của báo chí Mỹ, điển hình là New York Times, xem nữ thủ tướng Đức từ nay là người thay thế Hoa Kỳ lãnh đạo « Thế Giới Tự Do ». Vì lý do gì, bối cảnh quốc tế hay bản lĩnh con người, mà công luận Mỹ đặt tin tưởng vào một nhà chính trị châu Âu. Từ Washington nhà báo Phạm Trần tóm lược quan điểm báo chí Mỹ : Đây là lập trường của nhiều tờ báo Mỹ. Không riêng gì New York Times. New York Times nhìn thấy những thành tích của bà Angela merkel sau 11 năm cầm quyền có lập trường cứng rắn đối với Putin … khi chúc mừng ông Trump, bà Merkel cảnh giác là sự hợp tác giữa Đức và Hoa Kỳ đặt trên tiêu chuẩn cơ bản không thay đổi đó là dân chủ, tự do và tôn trọng nhân phẩm con người. Đó cũng là nguyên lý cơ bản của châu Âu, của Mỹ nói chung và của Đức nói riêng. Trong khi người ta lo âu vì những lời tuyên bố của ông Trump lúc tranh cử có thể gây mếch lòng, làm đồng minh cật ruột của Mỹ không còn giữ vững một khối như từ trước đến bây giờ. Đó là lý do tại sao người ta nhìn thấy bà Merkel là ngọn đuốc đứng vững chèo lái lý tưởng tự do dân chủ. http://vi.rfi.fr/quoc-te/20161201-angela-merkel-lanh-dao-nuoc-duc-va-the...  
......

Dân Biểu Úc lên tiếng trước Quốc Hội về tình trạng 3 nhà hoạt động nhân quyền VN

Dân Biểu Chris Hayes hôm 24 Tháng 11, 2016 đã bày tỏ mối quan ngại trước Quốc Hội Úc Châu về trường hợp ba nhà hoạt động nhân quyền là Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Bà Cấn Thị Thêu. Trong bài phát biểu, ông Hayes đã cập nhật thông tin về những bất công mà ba nhà hoạt động này đang gánh chịu trong lao tù như không được gặp luật sư, gặp gia đình hay chăm sóc sức khỏe. Ông cho rằng loạt bắt giữ Bà Như Quỳnh, Luật Sư Đài và Bà Thêu cùng với những trường hợp bắt bớ khác chỉ vì họ thực thi quyền con người là “chỉ dấu của một chính quyền đang xiết chặt quyền tự do của người dân”. Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Bà Cấn Thị Thêu *** Sau đây là nguyên văn bài phát biểu của Dân Biểu Chris Hayes: Phát biểu của Dân Biểu Chris Hayes trước Quốc Hội Úc về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam 24 Tháng 11, 2016 Tôi xin phép được trình bày trước Quốc hội về một loạt vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trong việc bắt giữ ba người hoạt động và blogger nổi tiếng: Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Ông Nguyễn Văn Đài, và Bà Cấn Thị Thêu. Tôi được thông tin là bà Quỳnh bị bắt giữ vào ngày 10 Tháng 10 vừa qua vì lên tiếng bảo vệ các nạn nhân của thảm họa môi trường gây ra nạn cá chết hàng loạt vào đầu năm nay. Những biểu ngữ hỗ trợ cho nạn nhân được nhà cầm quyền địa phương dùng làm bằng chứng để buộc tội bà là tuyên truyền chống phá nhà nước theo Điều 88 của Bộ Luật Hình Sự. Bà Quỳnh là người đồng sáng lập Mạng Lưới Bloggers Việt Nam, và là một blogger nổi tiếng với bút danh Mẹ Nấm và thường đăng tải những bài viết về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Trong suốt năm nay, bà đã viết nhiều về vụ nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh thải chất độc ra biển làm cá chết hàng loạt trong bốn tỉnh miền Trung. Bà Quỳnh hiện đang bị giam giữ và không được phép gặp luật sự, gặp gia đình hay được chăm sóc sức khoẻ. Báo nhà nước đưa tin là bà sẽ bị khởi tố về việc dùng Facebook để loan tải và chia sẻ bài vở chỉ trích nhà nước. Về vấn đề của luật sư nhân quyền nổi tiếng Nguyễn Văn Đài, tôi được biết là ông vẫn chưa có ngày xét xử mặc dầu bị bắt giữ hồi Tháng 12 năm ngoái. Ông Đài cũng bị buộc tội tương tự với Điều 88. Tôi có dịp tiếp xúc với vợ của ông, Bà Vũ Minh Khánh khi bà đến thăm nước Úc hồi đầu năm nay. Bà đã không được phép gặp chồng kể từ khi ông bị bắt, và ông Đài cũng không được gặp luật sư. Bà Khánh cũng bị giữ lại ở phi trường Nội Bài, Hà Nội, khi bà quay trở lại Việt Nam. Ông Đài bị bắt giữ khi trên đường đến gặp phái đoàn Liên Minh Châu Âu có mặt tại Việt Nam để dự cuộc đối thoại nhân quyền song phương trong ngày hôm trước. Ông đã từng bị cầm tù bốn năm vì những hoạt động nhân quyền và đã thực hiện nhiều buổi huấn luyện tại Việt Nam về Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và luật hiến pháp. Là người đồng sáng lập Hội Anh Em Dân Chủ và Trung Tâm Nhân Quyền Việt Nam, ông bị hành hung vào tuần lễ trước khi bị bắt khi thực hiện các khóa nhân quyền tại Nghệ An. Người đồng sự với ông là cô Lê Thu Hà cũng bị bắt giữ và thẩm vấn cùng với ông. Gần đây nhất, tôi được tin là một nhà hoạt động dân oan được nhiều người biết, bà Cấn Thị Thêu, bị kết án tù 20 tháng với tội danh gây rối trật tự công cộng theo Điều 245 của luật hình sự. Bà Thêu tích cực hỗ trợ cho giới phụ nữ ở vùng nông thôn và lên tiếng phản đối thảm họa môi trường do Formosa gây ra và việc bắt giữ luật sư Nguyễn Văn Đài. Đây là lần thứ nhì bà bị bắt giữ vì những hoạt động cho dân oan. Trước đó bà bị án tù 15 tháng vào năm 2014. Trong phiên xử, con trai của bà là Trịnh Bá Phương và những người hỗ trợ khác bị công an đuổi ra khỏi tòa. Sức khỏe của bà Thêu hiện là mối quan tâm, nhất là sau khi bà tuyệt thực nhiều lần từ sau khi bị bắt. Ông Phương, con trai của bà, không được trại tù cho phép gửi thuốc men vào cho mẹ. Bà không được gặp gia đình kể từ khi bị bắt vào Tháng 6 năm nay. Tôi được tin là phiên tòa phúc thẩm sẽ diễn ra vào ngày 30 Tháng 11 sắp tới. Tôi kêu gọi nhà chức trách hãy thả ngay và vô điều kiện nhà hoạt động nhân quyền này. Loạt bắt giữ tùy tiện này, cùng với trường hợp những người khác bị bắt giữ chỉ vì thực thi quyền làm người căn bản, là chỉ dấu của một chính quyền đang xiết chặt quyền tự do của người dân. Sắp đến Ngày Quốc Tế Nhân Quyền và với bổn phận của nước Úc với các hiệp ước nhân quyền quốc tế, tôi cho rằng chúng ta có trách nhiệm về mặt đạo đức để lên tiếng phản đối những vi phạm nhân quyền xảy ra ở bất cứ nơi đâu.
......

Reuters: Hoa Kỳ không coi Việt Tân là tổ chức khủng bố

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mới lên tiếng nói rằng Việt Tân "không nằm trong danh sách các tổ chức khủng bố theo luật của Mỹ". Trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ ở thủ đô Washington DC. Hình VOA Reuters hôm 8/10 dẫn lời bà Katina Adams, nữ phát ngôn viên của Văn phòng Đông Nam Á của Bộ Ngoại giao Mỹ, còn đề nghị hãng tin này liên hệ với chính phủ Việt Nam để có thêm thông tin về việc coi Việt Tân là tổ chức khủng bố. Tới tối 9/10, trong danh sách các tổ chức khủng bố quốc tế mà Văn phòng Chống khủng bố của Bộ này đăng tải trên trang web không có tên của Việt Tân. Tuần trước, Bộ Công an Việt Nam ra cáo buộc đảng đặt trụ sở ở Mỹ là một tổ chức “đã và đang tiến hành hoạt động khủng bố”. Thông cáo của Bộ này còn cảnh báo “người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của Việt Tân, tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do Việt Tân tổ chức, hoạt động theo sự chỉ đạo của Việt Tân…” sẽ bị coi là “đồng phạm tội khủng bố” và sẽ bị “xử lý theo luật pháp Việt Nam”. Sau đó, Đảng Việt Tân đã lên tiếng bác bỏ cáo buộc, đồng thời chỉ trích chính quyền Hà Nội “dùng tiểu xảo đánh lạc hướng công luận khỏi thảm họa Formosa”. Thông cáo hôm 8/10 của Đảng này có đoạn: “Chủ trương và quá trình hoạt động đã minh chứng Đảng Việt Tân là một tổ chức có mục tiêu đấu tranh cho dân chủ Việt Nam và quyền con người bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động”. “Trước thảm họa do Formosa gây ra, nhà cầm quyền CSVN không những cho phép sự hiện diện của tập đoàn này mà vẫn tiếp tục nhân nhượng các vi phạm khác về xả thải thể rắn và những công trình phá hủy môi trường quy mô ở nhiều nơi”, thông cáo viết tiếp. Hồi tháng Năm, chính quyền Việt Nam thông qua báo chí nhà nước nói rằng đã phát hiện “hai đối tượng là thành viên của các tổ chức như Con Đường Việt Nam và Việt Tân” đã “giật dây” các cuộc biểu tình rầm rộ vì môi trường biển ở miền trung. Về cáo buộc này, ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân, từng nói với VOA Việt Ngữ rằng các cuộc tuần hành vì môi trường ở Việt Nam “là quyền và nghĩa vụ chung của mọi người”. Ông nói thêm: “Trên tinh thần đó, nhiều người, anh chị em đảng Việt Tân ở trong nước cũng tham gia vào cùng với đồng bào để đi biểu tình”. Ông Điềm cho biết đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam “lôi chúng tôi vào” vì Việt Tân “gây khó khăn, tạo sự khó chịu” cho Hà Nội vì “từ nhiều năm qua, Việt Tân đã tham gia các cuộc biểu tình và hoạt động đấu tranh như thế.” Chính quyền Việt Nam, thông qua báo chí nhà nước, nhiều năm qua gọi Việt Tân là “tổ chức khủng bố”, nhưng tổ chức bị cấm hoạt động ở trong nước luôn bác cáo buộc này. http://www.voatiengviet.com/a/bo-ngoai-giao-my-noi-viet-tan-khong-trong-... *** Vietnam declares California-based group terrorist http://www.reuters.com/article/us-vietnam-security-idUSKCN1271HZ
......

Nạn cá chết: Bờ biển Việt Nam bị ô nhiểm diện rộng

Không hề có giải pháp làm sạch môi sinh Một vu cá chết diện rộng ở Việt Nam từ tháng 4 năm nay đã gây bàng hoàng. Dọc theo bờ biển dài hơn 200 cây số, trải qua các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, tổng số 277 tấn cá chết từ ngoài khơi, từ đáy biển và từ các trại nuôi cá đã được xác định. Cuối tháng sáu vừa qua nhà máy thép Formosa đã bị xác định là thủ phạm. Do một sự cố mất điện kéo dài vài ngày nên hệ thống lọc nước thải đã không hoạt động nghiêm chỉnh, điều này được công bố trong một cuộc họp báo. Theo truyền thông Việt Nam, nước thải không tinh lọc đã làm nước biển nhiểm độc Phenol, Cyanid và Hydroxit sắt. Điều tra không đầy đủ Chính phủ Việt Nam đã nhờ một số chuyên gia quốc tế tư vấn cho quá trình điều tra thảm họa môi sinh này. Nhưng đáng tiếc nhiệm vụ của họ lại chỉ hạn chế trong việc đọc và góp ý kiến cho bản báo cáo của một số nhà khoa học trong nước thuộc Viện hàn lâm Khoa học Việt Nam (VAST) đưa ra, cũng như một chuyến thăm quan cưỡi ngựa xem hoa (oberflächlich) tai chỗ, như chuyên gia Đức, Tiến sỹ Friedhelm Schroeder cho biết. Nhà hóa học từng có 25 năm thâm niên tại trung tâm nghiên cứu Helmholtz Geesthacht, hiện là cố vấn khoa học của viện này lấy làm tiếc là ý nguyện được tự lấy mẫu (mang về Đức) đã không được chấp thuận. Hủy hoại môi trường ít nhất 50 năm nữa Các nhà khoa học Việt Nam cho rằng, cần phải ít nhất 50 năm nữa thì hệ sinh thái bị phá hủy dọc theo bờ biển mới có thể phục hồi được. Tiến sỹ Schroeder cũng không loại trừ một thời gian hồi phục dài như vậy, ít ra là cho các vỉa san hô ngầm. Có điều ông không coi đây là nguyên nhân duy nhất của thảm họa hiện nay, mà phải nói đến chính sách bảo vệ môi trường trong thực tế là không hoạt động ở Việt Nam. „Toàn bộ vùng bờ biển bị ảnh hưởng bao gồm vô số nhà máy mà hầu hết đều thải thẳng nước không lọc xuống biển“ ông giải thích và đồng thời phê phán rằng, trong quá trình điều tra, người ta đã bỏ qua tất cả các thủ phạm tiềm năng khác. Ngoài ra cũng có thể tưởng tượng được rằng, hệ miễn dịch của cá đã bị suy giảm nhiều bởi môi trường độc hại kéo dài, nay chỉ gặp một „tác nhân nhỏ“ là chúng chết hàng loạt Vấn đề cơ bản „Ở Việt Nam, nước thải công nghiệp và đô thị phần lớn được đổ thẳng vào môi trường không qua tinh lọc. Phần lớn sông hồ bị nhiểm độc nặng bởi chất độc và thực phẩm thải“. Đó là kết luận buồn rầu của nhà khoa học Đức. Không có hệ thống lọc hoặc có nhưng không hiệu quả, đó chẳng phải là chuyện hãn hữu ở Việt Nam. Thực tế phổ biến là có hai đường nước thải, một đường để giới thiệu khi kiểm tra định kỳ và một đường cho hoạt động hàng ngày, khi không sợ bị kiểm tra, như Michael Zschiesche, cán bộ Viên nghiên cứu độc lâp về Môi trường đã viết trong chuyên khảo „Bảo vệ môi trường ở Việt Nam 2012“*. Tuy hiên nay đã có nhiều quy định về bảo vệ môi trường, nhưng viêc thực thi thì rất lỏng lẻo. Đường nước thải để giới thiệu khi kiểm tra định kỳ & Đường nước thải cho hoạt động hàng ngày, khi không sợ bị kiểm tra Liệu Formosa có làm như vậy không? Trong khi một số bạn Việt Nam sống ở Đức, những người đang liên hệ với chúng tôi, cho biết là Formosa Steel hiện đang đổ nước thải không lọc qua một hệ thống đường ống dài 2km cách bờ biển, ở độ sâu 17m thì Tiến sỹ Schroeder cho biết ông tận mắt được xem một hệ thống lọc nước thải rất hiện đại, có cả máy đo tự động. Tuyên bố cứu trợ và bồi thường ? Theo truyền thông thì bên cạnh việc tuyên bố sẽ đầu tư thêm vào thiết bị môi trường và tăng sự minh bạch, Formosa cũng hứa sẽ bồi thường khoảng 500 triệu USD cho việc cứu trợ dân chúng và để làm sạch môi trường Chính phủ Việt Nam cũng hứa giúp đỡ những người bị ảnh hưởng bằng biện pháp hướng nghiệp và tạo công ăn việc làm mới. Nhưng đáng tiếc vẫn còn mối lo rằng, những người cùng đường vẫn phải tiếp tục kiếm ăn bằng cá nhiễm độc, chừng nào các biện pháp cứu trợ cụ thể chưa đem lại kết quả. Điều hành thảm họa một cách thảm họa Đáng lẽ phải thông tin cho công luận về thảm họa môi sinh và cảnh báo dân chúng về các mối đe dọa sức khỏe, chính phủ Việt Nam lại đàn áp các cuộc phản kháng, có nơi rất tàn bạo, và bắt giữ những người biểu tình. Nhẽ ra phải coi trọng việc bảo vệ môi sinh và con người, cũng như tìm cách áp dụng nghiêm túc các điều luật hiện hành thì hiện nay các biện pháp nửa vời đang được tìm kiếm. Theo Tiến sỹ Schroeder thì vấn đề hiện tại không thể giải quyết nhanh được, vì muốn vậy thì trước tiên phải tìm ra nguyên nhân thực. „Không có các số liệu đo đạc tiếp theo thì việc đi tìm nguyên nhân chỉ là chuyện đoán mò“, ông than phiền. Bởi vì các giải pháp làm sạch chỉ có ý nghĩa, khi người ta tìm ra đúng nguyên nhân. Dù sao trong tháng 6 vừa qua, người ta đã thống nhất lập ra một hệ thống theo dõi (Monitoring-System) dọc theo bờ biển để thường xuyên cập nhật số liệu môi trường Thay đổi tư duy triệt để là điều cần thiết Để bảo vệ được môi trường và nhân dân, các cá nhân và cơ quan hữu trách cần phải thay đổi cách suy nghĩ một cách triệt để (radicaly). Do vậy chúng tôi yêu cầu chính phủ Việt Nam: – Điều tra chi tiết sự vụ này với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế. – Tiến hành các biện pháp làm sạch biển trên cơ sở các kết quả điều tra. – Trừng phạt thủ phạm. – Bồi thường thích đáng cho người dân bị ảnh hưởng. – Áp đặt các hệ thống lọc nước thải hiện đại trong toàn quốc. – Kiểm tra nghiêm ngặt các quy định về môi trường và xử phạt các vi phạm. Juli 2016 Fb. Tho Nguyen Nguyên bản tiếng Đức: http://www.stiftung-meeresschutz.org/themen/verschmutzung-muell/103-fischsterben-vietnamesische-kueste-grossflaechig-verseucht
......

Biển Đông: Tòa Án Trọng Tài bác bỏ bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc

Hôm nay, 12/0/2016, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực ở La Haye đã ra phán quyết về vụ kiện Biển Đông giữa Philippines với Trung Quốc và tuyên bố rằng “không có cơ sở pháp lý” cho việc Trung Quốc đòi hỏi quyền lịch sử trên những tài nguyên tại các vùng nằm trong bản đồ đường chín đoạn, còn được gọi là bản đồ “đường lưỡi bò”. Biểu hiệu của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực La Haye Trong phán quyết, Tòa ghi rõ “mặc dù các ngư dân và nhà hàng hải của Trung Quốc, cũng như của những nước khác, trong lịch sử đã từng sử dụng các "đảo" ở Biển Đông, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc trong lịch sử đã từng độc quyền kiểm soát các vùng biển và các nguồn tài nguyên tại đây.” Về quy chế của các thực thể, Tòa cũng phán quyết rằng không một thực thể nào của quần đảo Trường Sa “có thể tạo các vùng biển mở rộng”, không một thực thể mà Trung Quốc đòi chủ quyền “có thể tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế”. Do vậy, Tòa tuyên bố - tuy không xác định ranh giới - rằng một số khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì những khu vực này không chồng lấn với bất cứ khu vực nào của Trung Quốc. Liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp của Trung Quốc tại Biển Đông, phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực cho rằng Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Philippines ở vùng đặc quyền kinh tế của nước này, vì đã cản trở việc thăm dò dầu khí và đánh cá của Philippines, xây dựng các đảo nhân tạo, cũng như đã không ngăn cản ngư dân Trung Quốc đến đánh cá trái phép ở vùng này. Tòa còn phán quyết rằng các ngư dân Philippines ( cũng như ngư dân Trung Quốc ) có quyền đánh cá truyền thống ở vùng bãi cạn Scarborough và Bắc Kinh đã cản trở việc thực thi các quyền đó khi hạn chế việc đi vào vùng này. Cũng theo Tòa án Trọng tài Thường trực các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã hành xử trái phép khi họ dùng tàu cản đường các tàu Philippines gây nguy cơ đụng tàu nghiêm trọng. Về môi truờng biển, Tòa nhận định là các hoạt động bồi đắp, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trong thời gian gần đây đã làm tổn hại nghiêm trọng đến môi trường bãi san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo về môi trường sinh thái biển. Cuối cùng, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực còn cho rằng các hành động bồi đắp, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc không phù hợp với nghĩa vụ của một Nhà nước trong tiến trình giải quyết tranh chấp, gây ra những tổn hại không thể khắc phục được đối với môi trường biển, xây dựng các đảo nhân tạo trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, tàn phá môi trường tự nhiên của các thực thể ở Biển Đông. Xin nhắc lại là phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực không phán quyết về chủ quyền biển đảo, mà chỉ xác định là những thực thể nào trên biển có thể tạo ra chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển xung quanh chiếu theo luật quốc tế. Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố là không chấp nhận và cũng không tham gia vào vụ kiện “đơn phương” của Philippines. Tuy nhiên, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực cho rằng, việc Bắc Kinh từ chối tham gia không ảnh hưởng gì đến thẩm quyền xét xử của tòa và việc Philipines đơn phương kiện không phải là một hành động vi phạm các thủ tục giải quyết tranh chấp theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Nguồn: RFI
......

Các NGO đòi Formosa phải công bố kết quả điều tra ô nhiễm

ĐÀI BẮC – Một liên minh bao gồm các tổ chức bảo vệ môi trường, quyền lợi người công nhân và chính trị gia hôm 2 Tháng 7 đã cho ra một tuyên bố kêu gọi công ty Formosa Plastics công bố kết quả điều tra về tai họa ô nhiễm tại Việt Nam vào tháng Tư làm cá chết hàng loạt. Lời kêu gọi đến từ Hiệp Hội Luật Gia Môi Trường (Environmental Jurists Association), Văn Phòng Hỗ Trợ Pháp Lý cho Công Nhân và Cô Dâu Việt tại Đài Loan (Vietnamese Migrant Workers and Brides Office), Hiệp Hội Nhân Quyền Đài Loan (Taiwan Association for Human Rights), và Giám Sát Công Ước (Covenants Watch). Bản tuyên bố viết: “Mặc dầu Formosa Plastics nhận trách nhiệm đã gây ô nhiễm, họ nên công bố bản điều tra của chính quyền Việt Nam, dữ kiện giám sát ô nhiễm của nhà máy và danh sách 384 tấn hóa chất dùng trong ống thải để xác định rõ nguyên nhân gây ô nhiễm.” Tờ Taipei Times cho biết Dân biểu Wu Kun-yuh của Đảng Dân Chủ Tiến Bộ tán đồng với bản tuyên bố này và nói rằng nguyên nhân thật sự gây ra ô nhiễm vẫn chưa được biết. Ông Wu nói thêm là chính quyền Đài Loan phải chỉ thị cho các công ty Đài Loan nhận trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường và công nhân khi hoạt động tại nước ngoài, nếu không, các quốc gia Đông Nam Á sẽ không tin tưởng vào lề lối kinh doanh của Đài Loan, khiến “chính sách xuôi nam” của chính quyền bị cản trở. Tổng thư ký của Hiệp Hội Luật Gia Môi Trường, Bà Lin Jen-hui, nói “Chúng tôi nhắm đến Formosa Plastics không phải là không có lý do. Công ty này mang tiếng xấu tại nhiều quốc gia, như việc gây ô nhiễm của một công ty lọc dầu tại Texas, Hoa Kỳ và công ty sản xuất hóa chất tại quận hạt Yunlin, nhưng họ lại không muốn giải quyết ổn thỏa với tình trạng ô nhiễm do họ gây ra.” Về việc công ty Formosa Plastics dùng các khe hở trong hệ thống pháp lý để tránh né trách nhiệm về ô nhiễm do họ gây ra, bà Lin cho rằng: “Formosa Plastics thỏa thuận với chính quyền Việt Nam về điều kiện đền bù mà không phải qua tiến trình pháp lý. Tuy nhiên, công ty này biết cách lợi dụng các khe hở trong hệ thống pháp lý Đài Loan để tránh né trách nhiệm về ô nhiễm họ gây ra, và họ lại còn thưa kiện một học giả mà nghiên cứu cho thấy ô nhiễm do các nhà máy của công ty này gây ra.” Bà Lin cũng tiết lộ rằng, mặc dù công ty Formosa chưa hồi âm về yêu cầu của các nhóm, nhưng tại buổi họp hàng năm của các cổ đông trong tháng vừa qua, một viên chức của công ty tuyên bố là Formosa Plastics sẽ công bố kết quả điều tra về vụ ô nhiễm tại Việt Nam. Công ty Thép Formosa Hà Tĩnh là công ty con của Formosa Plastics, hôm 30 Tháng 6, 2016 thừa nhận họ chịu trách nhiệm về thảm họa cá chết hàng loạt tại các tỉnh miền trung và đưa ra lời xin lỗi cùng với số tiền bồi thường 500 triệu Mỹ Kim cho những người bị ảnh hưởng bởi tai họa này. Sự đồng thuận của nhà cầm quyền Việt Nam về số tiền bồi thường cũng như sự chậm trễ gần 3 tháng qua trong việc công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra vụ cá chết tiếp tục làm người dân phẫn nộ. Hiện nay nhiều dân cư mạng đòi Bộ Trưởng Tài Nguyên – Môi Trường cùng một số lãnh đạo liên quan đến thảm họa môi trường từ chức, cũng như công ty Formosa Hà Tĩnh phải ngưng hoạt động và bị đưa ra tòa. Nguồn: Chân Trời Mới Media
......

Bằng cách nào mà Thổ Nhĩ Kỳ lại trở thành một nhà nước độc tài?

Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Davutoglu bị buộc phải từ chức chỉ vì một lý do duy nhất: Tổng thống Erdoga hoàn toàn chìm đắm trong sự ham muốn quyền lực của riêng mình, sẽ không bao giờ tha thứ cho bất kỳ ai trong bộ sậu của ông đối đầu và gây ảnh hưởng đến vị trí chính trị của mình. Vì vậy, Thủ tướng Davutoglu cũng không ngoại lệ. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ đã trao toàn bộ quyền hành cho Thủ tướng, trong khi đó, chỉ để lại vai trò của Tổng thống, phần lớn là theo nghi thức. Đây không phải là những gì mà Tổng thống Erdogan muốn chấp nhận. Vì vào cái thời mà ông Davutoglu còn làm Ngoại trưởng, đã có lần ông Erdogan yêu cầu ông Davutoglu cần phải tiến hành thành lập chính phủ mới, sau đợt bầu cử cuối cùng. Tham vọng và sự hiếu chiến của ông Erdogan trong việc sử dụng các thành tích Hồi giáo mạnh mẽ của mình là những gì đã được xác định sau mỗi động thái chính trị mà ông đã thực hiện. Nỗ lực buộc hiến pháp phải chuyển giao quyền điều hành đất nước cho Tổng thống là bước đi cuối cùng để hướng tới việc củng cố quyền lực của mình một cách hợp pháp, mặc dù ông đã thực thi quyền lực đó vào cái thời mà ông còn làm Thủ tướng trong vòng 11 năm. Đã hơn 15 năm, Davutoglu luôn tỏ lòng trung thành tuyệt đối và cúc cung tận tụy với Erdogan. Đầu tiên Davutoglu giữ vị trí cố vấn chính sách đối ngoại hàng đầu cho Erdogan, sau đó ông trở thành Bộ trưởng Ngoại giao, và là Thủ tướng đáng tin cậy nhất của Erdogan trong 2 năm vừa qua. Erdogan đã cực kỳ chính xác khi chọn Davutoglu làm Thủ tướng, vì Erdogan luôn mong đợi rằng Davutoglu sẽ tiếp tục vâng lời mình, với câu cửa miệng “Dạ, thưa Sếp”. Vì giữ chức Thủ tướng, nên Davutoglu được xem là ứng cử viên sáng giá nắm giữ vai trò lãnh đạo Đảng Công lý và Phát triển. Và hiện nay, vì vai trò của Tổng thống phần lớn là theo nghi thức nên Erdogan mong muốn Davutoglu sẽ thúc đẩy việc thay đổi hiến pháp để tập trung mọi quyền lực vào tay Tổng thống ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, Davutoglu vẫn bàng quan, dửng dưng nên Erdogan lo ngại rằng nếu hiến pháp vẫn chưa sửa đổi thì sẽ còn làm giảm bớt rất nhiều quyền hạn của mình. Chẳng có gì phải ngạc nhiên, vì ngay khi Erdogan lên làm Tổng thống, ông ta vẫn tiếp tục chủ trì các cuộc họp nội các và thậm chí thành lập một nội các không công khai chỉ với một số ít các nhà tư vấn đáng tin cậy. Ông thẳng thừng cho Thủ tướng Davutoglu ra rìa. Riêng Davutoglu thì luôn im lặng chịu đựng để mặc cho Erdogan tiếm quyền đảm nhận luôn vai trò và trách nhiệm của Thủ tướng như thể là chẳng có gì xảy ra. Chứ vụ Thủ tướng giớ trở thành chữ vụ của nghi thức và chứ vụ Tổng thống vốn là của nghi thức giờ lại trở thành toàn quyền mà không cần có văn bản tu chỉnh hiến pháp chính thức nào được sửa đổi để cấp cho Erdogan về mặt pháp lý nhằm tập hợp tất cả quyền lực vào tay mình như điều ông ta đang thực thi. Tôi biết Davutoglu từ cái thời ông còn làm cố vấn trưởng cho Erdogan, và tôi thấy ông ấy là một người đàn ông chính trực và có tầm nhìn, luôn thể hiện khí chất mạnh mẽ khi cam kết sẽ làm cho Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một cường quốc ổn định tại khu vực Trung Đông, và là một đối thủ đáng gờm trên đấu trường quốc tế. Tôi đã có nhiều cơ hội để nói chuyện trực tiếp với Davutoglu để thảo luận về những mối quan hệ giữa Israel và Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì, đằng sau hậu trường, tôi đã tích cực tham gia vào việc giảm thiểu sự xung đột khi mối quan hệ giữa 2 nước bị rạn nứt sau sự cố Mavi Marmara (một đội biệt động Israel đã tấn công tàu cứu trợ Mavi Marmara của Thổ Nhĩ Kỳ trên đường tới Gaza làm nhiều người thiệt mạng vào năm 2010). Trong một dịp khác, tôi đã sắp xếp để những cuộc đàm phán hòa bình giữa Israel và Syria được diễn ra dưới sự hòa giải của Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi cảm thấy rằng, Davutoglu không những tạo được sự gần gũi và xây dựng mối quan hệ tốt với cả Syria lẫn Israel (tại thời điểm đó), mà còn chứng tỏ rằng ông rất giỏi về mặt đối thoại. Hơn nữa, bằng cách đóng một vai trò tích cực như vậy, nên những cam kết của Davutoglu luôn tạo cho người ta sự tin cậy và họ hiểu ra ngay triết lý chính trị của ông là “Không có vấn đề với các nước láng giêng”. Và ngay từ ban đầu, triết lý chính trị này đã giúp cho Thổ Nhĩ Kỳ xây dựng được những mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với hầu hết các nước láng giềng. Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đang phát biểu trong một sự kiện mang tên “Đường lối đối nội và đối ngoại trong lịch sử chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ” tại Trung tâm Hội nghị ATO thuộc thủ đô Ankara, vào ngày 12 tháng 5 năm 2016 (Adem Altan / AFP / Getty Images) Tổng thống Erdogan rất tham vọng khi muốn trở thành ông trùm của khu vực Trung Đông thông qua cách tiếp cận chính trị đầy trơ tráo của mình. Tuy nhiên, ông ta chẳng làm được gì nhiều, ngoài việc chỉ tạo thêm rất nhiều vấn đề rắc rối với tất cả các nước láng giềng. Một cựu quan chức hàng đầu của Thổ Nhĩ Kỳ đã nói với tôi rằng, Thủ tướng Davutoglu luôn được đánh giá cao về sự linh hoạt khi triển khai những chính sách đối ngoại của mình, nên đến ngày hôm nay, thứ hạng của Thổ Nhĩ Kỳ tại khu vực Trung Đông đã hoàn toàn khác xa. Tuy nhiên, trong 2 năm qua, những cuộc xung đột giữa 2 người đã bắt đầu thể hiện ra trên bề mặt. Trong khi Thủ tướng Davutoglu tìm cách nối lại đàm phán hòa bình với Đảng Công nhân người Kurd (PKK) để đưa ra một giải pháp mới, thì Tổng thống Erdogan không những từ chối, mà còn tuyên bố sẽ tiến hành các hoạt động quân sự cho đến khi nào các phiến quân PKK cuối cùng bị tiêu diệt mới thôi. Ngoài ra, dù không công khai lên tiếng về việc tấn công có hệ thống vào lĩnh vực tự do báo chí, bỏ tù các nhà báo, đến những vi phạm nhân quyền khác của Tổng thống Erdogan; nhưng Thủ tướng Davutoglu đã rất bất mãn với những biện pháp bất hợp pháp này. Tuy nhiên, Thủ tướng đã thất bại trong nỗ lực của riêng mình mỗi khi ông lặng lẽ thuyết phục Tổng thống Erdogan giảm bớt áp lực cho giới báo chí. Erdogan khăng khăng trấn áp bất cứ một lời chỉ trích nào, và vẫn kiên định trong việc tháo dỡ những gì còn sót lại của nền dân chủ Thổ Nhĩ Kỳ. Xét về cơ bản, nền dân chủ này đang bị thu hẹp dần (trái với những gì mà Erdogan đang công khai phát biểu). Và ông ta cũng làm giảm đi rất nhiều triển vọng giúp cho Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu. Riêng đối với Thủ tướng Davutoglu, ông rất nhiệt tình và kỳ vọng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là thành viên của Liên minh Châu Âu. Hơn hết, hiện nay Erdogan đang tìm cách tước đi quyền lập pháp của người Kurd, hạn chế sức ảnh hưởng về mặt chính trị của họ nhằm tạo tính khả thi cho việc buộc tội họ có cùng đường lối với PKK trong việc đấu tranh cho luật bán tự trị. Tuy nhiên, hành động này của Erdogan đã bị Davutoglu âm thầm phản đối. Và giờ đây, một người mới sắp đảm nhận cương vị thủ tướng để tiếp tục duy trì những âm mưu bất hợp pháp này nhằm thỏa mãn tư tưởng hà khắc của Erdogan. Cuối cùng, trong khi Thủ tướng Davutoglu đã nỗ lực hết mình để đạt được một thỏa thuận với Liên minh Châu Âu nhằm trục xuất dòng người di cư bất hợp pháp, và miễn thị thực đi lại cho công dân Thổ Nhĩ Kỳ tại các nước trong khu vực Schengen, thì Tổng thống Erdogan lại công khai xem thường những nỗ lực này bằng cách tước hết mọi lợi ích chính trị và chiếm đoạt những thành công của Thủ tướng Davutoglu. Ông Kemal Kilicdaroglu – lãnh đạo phe đối lập chính thuộc Đảng Nhân dân Cộng hòa – lên án cái cách mà Davutoglu đã bị buộc phải từ chức, nói rằng “Việc từ chức của ông Davutoglu không nên được xem nhẹ. Tất cả những người ủng hộ dân chủ phải chống lại cuộc lật đổ giành quyền lực này”. Điều thú vị là, trong nội dung bài phát biểu thông báo từ chức gửi đến Quốc hội, Davutoglu đã tuyên bố rằng: “Không có bất kỳ ai nghe được một từ ngữ nào chống lại Tổng thống của chúng ta từ miệng, lưỡi và tâm trí của tôi. Và chắc chắn sẽ không có ai nghe được điều này cả”. Nhưng đối với tôi và nhiều nhà quan sát khác, những lời phát biều của Davutoglu thì hoàn toàn ngược lại với những gì chúng tôi mong đợi ông phải nói thẳng ra: rằng là, Tổng thống Erdogan còn vượt quá cả những gì bị chỉ trích. Ai cũng biết rằng, sẽ không có kết quả nào tốt đẹp dành cho bất kỳ nhà ngoại giao nào dám đưa vụ việc ra ánh sáng, nên Davutoglu sợ rằng mình sẽ bị Erdogan buộc tội phản quốc. Chuyện này vẫn thường xảy ra cho bất cứ ai dám đối đầu và chống lại các vị trí chính trị của Tổng thống Erdogan trên hầu hết mọi phương diện. Do Trung Đông đang tràn ngập trong tình trạng hỗn loạn chưa từng có, cùng với hàng triệu người tị nạn Syria, và cuộc chiến chống lại tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo ISIS, nên vai trò của Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở nên quan trọng hơn. Hoa Kỳ cùng với Liên minh Châu Âu đã quá chán chường và mệt mỏi với những hành vi phi lý của Erdogan, họ cảm thấy miễn cưỡng khi phải xử lý ông ta, tuy vậy hẳn là họ cũng đã khó chịu lắm rồi. Tuy nhiên, dù có khó chịu nhưng rồi họ sẽ đạt được thành công. Tất nhiên, cứ để mặc cho Erdogan bòn rút từng giá trị của quyền lực phương Tây để phục vụ cho nghị trình riêng của ông ta. Khi hiến pháp được sử dụng như một công cụ để thâu tóm quyến lực, khi những giả thuyết đầy mưu mô đang biện minh cho một cuộc săn đuổi độc ác, khi người dân không dám công khai bàn về chính trị, khi nhiều nhà báo đang bị giam giữ không qua xét xử, khi cộng đồng các học giả uyên bác thường xuyên bị tấn công, khi nhân quyền đang bị vi phạm trắng trợn, và khi các nguyên tắc dân chủ đang bị chà đạp, thì Thổ Nhĩ Kỳ không còn là một bức tranh biếm họa nữa, nó chính là một bi kịch đã và đang diễn ra tại quốc gia này. Vì sự ra đi của Thủ tướng Davutoglu, cùng với một quốc hội bù nhìn do Đảng Công lý và Phát triển lãnh đạo, xét trên thực tế, thì Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một nhà nước độc tài. Và hiện nay không còn ai có thể chống lại đường lối cầm quyền của Tổng thống Erdogan. Vì sự ra đi của Thủ tướng Davutoglu, cùng với một quốc hội bù nhìn do Đảng Công lý và Phát triển lãnh đạo, xét trên thực tế, thì Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một nhà nước độc tài. Và hiện nay không còn ai có thể chống lại đường lối cầm quyền của Tổng thống Erdogan. Đây là một ngày đáng buồn cho người dân Thổ Nhĩ Kỳ, khi đất nước đang bị chi phối bởi một nhà độc tài tàn nhẫn không có các biện pháp kiểm soát và đối trọng quyền lực lẫn nhau, không có trách nhiệm, và không có bất kỳ triển vọng nào để thay đổi sao cho tốt hơn, khi mà Tổng thống Erdogan vẫn đang cố gắng duy trì quyền lực của riêng mình. Một lần nữa, người dân Thổ Nhĩ Kỳ nên xuống đường biểu tình. Nhưng lần này, họ phải tiếp tục kiên trì việc biểu tình cho đến khi nào Tổng thống Erdogan biết khoan nhượng hoặc từ chức mới thôi. Nếu không, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ nhanh chóng tiếp tục đối diện với một tương lai ảm đạm hơn bao giờ hết. Và tự do sẽ là một điều gì đó của quá khứ. Đồng thời, họ sẽ đối diện với một nhà lãnh đạo rất tàn nhẫn đã và đang thiết lập một chế độ quá độc tài. Tiến sĩ Alon Ben-Meir là một Giáo sư về quan hệ quốc tế tại Trung tâm các vấn đề toàn cầuthuộc trường Đại học New York. Ông dạy các khóa học về đàm phán quốc tế và nghiên cứu Trung Đông. Tham khảo website: AlonBen-Meir.com http://vietdaikynguyen.com/v3/100047-bang-cach-nao-ma-tho-nhi-ky-lai-tro...  
......

Việt Nam: Người biểu tình ôn hòa vì môi trường bị đàn áp

(New York, ngày 18 tháng Năm năm 2016) – Hôm nay Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam cần lập tức chấm dứt mọi hình thức sách nhiễu, đe dọa và trả đũa các nhà hoạt động vì môi trường. Chính quyền cần tôn trọng quyền biểu tình của người dân và phóng thích tất cả những người đang bị giữ trái luật. Liên tiếp trong ba Chủ nhật vừa qua – các ngày mồng 1, mồng 8 và 15 tháng Năm – hàng ngàn người ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Huế và Nghệ An đã biểu tình công khai để yêu cầu chính phủ điều tra minh bạch về hiện tượng cá chết hàng loạt ở bờ biển Hà Tĩnh trong thời gian gần đây. Cuộc tuần hành ngày mồng 1 tháng Năm chỉ bị chính quyền can thiệp nhẹ, nhưng trong hai ngày Chủ nhật tiếp theo, công an và các lực lượng an ninh đã sử dụng vũ lực không cần thiết và quá mức để dẹp biểu tình. “Chính quyền Việt Nam cố tình quên rằng biểu tình ôn hòa là một quyền cơ bản được bảo đảm trong Hiến pháp Việt Nam và trong luật nhân quyền quốc tế,” ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Đáng lẽ đi tìm cách xử lý thảm họa môi trường, thì chính quyền lại tập trung nỗ lực vào việc giải tán các cuộc biểu tình và trừng phạt những người lên tiếng yêu cầu giải trình trách nhiệm.” Các cuộc biểu tình bùng phát sau khi chính phủ phản ứng quá chậm trước hiện tượng hàng trăm ngàn xác cá chết đột ngột xuất hiện dọc bờ biển khu kinh tế Vũng Áng ở tỉnh Hà Tĩnh. Các nhóm biểu tình ở một số thành phố mang theo biểu ngữ tự tạo kêu gọi “nước sạch, chính quyền sạch và minh bạch” tập trung tại các địa điểm công cộng để bày tỏ mối quan ngại của mình. Theo các nguồn tin trên mạng xã hội và các đoạn video trên trang Youtube, mọi cuộc biểu tình đều ôn hòa và tập trung vào các hành động như tọa kháng, hô khẩu hiệu, hát và tuần hành mang theo các biểu ngữ và khẩu hiệu. Ngày mồng 8 tháng Năm, chính quyền đối phó với biểu tình bằng một chiến dịch có thể nói là tinh vi, phức hợp, huy động các lực lượng công an và dân phòng để triển khai các chiến thuật đa dạng. Hàng chục nhà hoạt động thông báo trên mạng xã hội về việc họ bị các lực lượng an ninh quản chế tại nhà trong sáng Chủ nhật, trước giờ dự kiến có biểu tình. Nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Lân Thắng và nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng Đỗ Trung Quân cho biết bị côn đồ tạt sơn đỏ hoặc/và mắm tôm hôi vào nhà. Công an cũng khống chế ngay trên phố những người bị nghi là ủng hộ biểu tình, và câu lưu những người này hàng giờ để đảm bảo rằng họ không thể tham gia tuần hành. Trong thời gian có biểu tình, công an và các lực lượng trật tự, dân phòng chặn đóng nhiều tuyến phố với hình ảnh phô trương sức mạnh rầm rộ. Khi các cuộc biểu tình diễn ra ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nhân viên an ninh dùng vũ lực cô lập nhiều người ra khỏi đoàn, cưỡng chế thô bạo, bắt giữ và đưa họ về các đồn công an địa phương. Khi một số nhà hoạt động đến bên ngoài đồn công an để phản đối bắt giữ người, họ cũng bị nhân viên an ninh tấn công. Nếu vào ngày mồng 8 tháng Năm, chính quyền dùng vũ lực để giải tán các cuộc biểu tình, thì đến Chủ nhật tuần tiếp theo, ngày 15 tháng Năm, chính quyền đã vận dụng hàng loạt biện pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn biểu tình đông người nổ ra ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Khi những người biểu tình hình thành các nhóm nhỏ hơn, thay vì tập trung số đông, họ bị lực lượng công an hùng hậu hơn gấp nhiều lần giải tán. Đường truy cập mạng Facebook thông thường bị chặn gần hết ngày hôm đó. Có nhiều thông báo khả tín trên mạng xã hội cho biết một số người bị bắt giữ đã bị đưa về một trung tâm hỗ trợ xã hội, nơi quản chế và giáo dục các đối tượng “lầm lạc.” Một số người vẫn còn đang bị giam giữ, tính đến thời điểm viết thông cáo này. Một số người khác bị báo chí nhà nước công kích, kết tội họ nhận tiền và làm theo sự điều khiển của các nhóm “phản động” nước ngoài. Quyền tự do ngôn luận và nhóm họp ôn hòa được bảo đảm trong Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự Và Chính trị, đã được Việt Nam thông qua năm 1982. Theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, vũ lực chỉ được sử dụng trong các tình huống thực sự cần thiết. Các Nguyên tắc Cơ bản về Sử dụng Vũ lực và Vũ khí của Liên Hiệp Quốc quy định các nhân viên công lực chỉ được sử dụng vũ lực khi mọi phương tiện khác không có hiệu quả hay không đảm bảo mang lại kết quả đã định. Khi sử dụng vũ lực, nhân viên công lực phải kiềm chế và hành động tương xứng với mức độ nguy hiểm của sự vi phạm và với mục đích hợp pháp. “Lẽ ra cần để cho những người biểu tình ôn hòa thể hiện ý kiến, nhưng hình như chính quyền đã khiến cho mọi việc căng thẳng hơn khi sử dụng vũ lực,” ông Robertson nói. “Chính quyền Hà Nội cần có biện pháp để cải thiện tình hình tồi tệ này.”
......

Vụ đánh bom ở Brussels phơi trần khủng hoảng bản sắc của Châu Âu

Với 3 vụ đánh bom tại Brussels vừa rồi gây thiệt mạng cho hơn 30 người mà nhóm Hồi giáo cực đoan ISIS tự nhận là gây ra, việc tranh luận tại Châu Âu về việc có nên đón nhận hàng ngàn người tỵ nạn chiến tranh trở nên rắc rối thêm. Nhiều người dân Châu Âu sợ khủng bố (và vì thế sợ lây nhóm di dân Hồi giáo) hơn là thông cảm với những người tỵ nạn liều chết để đến bến bờ tự do. Điều đó phơi trần cơn khủng hoảng bản sắc của chính trị Châu Âu. Quyết định đón nhận ai và loại trừ ai là một bài tập để xác định dân tộc “chúng ta” là ai. Và đó là một câu hỏi luân lý về những nguyên tắc đạo đức cơ bản. Châu Âu sẽ chọn con đường luân lý nào đây? Trong quyển sách mới xuất bản của giáo sư Peter O’Brien, Câu hỏi về người Hồi giáo tại Châu Âu: Những Tranh Cãi Chính Trị và Triết Lý Chung, tác giả xem xét các tranh luận chính trị về việc có nên và như thế nào để xã hội Châu Âu hội nhập người Hồi giáo. Cuộc tranh luận này cho thấy sự giằng co đang tiếp diễn giữa ba trường phái luân lý để xác định và hướng dẫn chính quyền. Ba trường phái này là “chủ nghĩa tự do”, “chủ nghĩa quốc gia”, và “chủ nghĩa hậu hiện đại.”   Chủ nghĩa Tự Do Chủ  nghĩa Tự Do khẳng định sự bình đẳng cố hữu của con người ở khắp mọi nơi. Mỗi người đều có quyền bất khả xâm phạm về tư tưởng, thờ phượng, làm việc, và sinh sống theo ý hướng của họ miễn sao họ không ngăn cản những quyền này đối với người khác. Triết lý này đối xử với người tỵ nạn thế nào? Những ai lánh nạn hay tránh đàn áp đều đáng được cưu mang, ngày nào mà mối đe dọa đó vẫn còn. Hiện thời người bảo vệ nguyên tắc này mạnh mẽ nhất là Thủ tướng Đức Angela Merket, bà nhất quyết không chịu giới hạn lượng người tỵ nạn mà nước Đức sẽ đón nhận. Hiện nay đã lên quá 1 triệu trong 2015. Nhiều người tỵ nạn và giới hỗ trợ cũng bày tỏ cùng quan niệm này khi họ dùng những khẩu hiệu như “Chúng tôi là con người chứ không phải là hộ chiếu” hay “Không có con người nào bất hợp pháp.” Bà Merkel có gặp sự chống đối, kể cả ngay trong đảng của bà là Liên Minh Dân Chủ Kitô Giáo (CDU). Đảng CDU bị thua phiếu trong các cuộc bầu cử vùng hồi 13 tháng Ba, mà người ta cho là vì chính sách mở rộng cửa. Bà Merkel thì phản hồi lại rằng trong các vùng này, đa số cử tri hậu thuẫn các đảng phái hỗ trợ chính sách của bà. Nhưng nhiều người dân và chính quyền tại Châu Âu chống đối chính sách tỵ nạn mở rộng cửa này. Slovakia, Ba Lan, Hungary và Tiệp từ chối không nhận những người tỵ nạn gốc Hồi giáo. Hungary, Slovenia và Macedonia thậm chí còn dựng lên hàng rào kẽm gai để ngăn người tỵ nạn đi xuyên qua từ phía Hy Lạp. Pháp thì tuyên bố chỉ nhận 24 ngàn người cho đến năm 2017, và Anh thông báo chỉ nhận 20 ngàn cho đến 2020. Ngay cả những quốc gia từng rộng lượng trước đây, kể cả Áo và Thụy Điển, cũng ra chỉ tiêu giới hạn cho 2016. Vào ngày 18 tháng Ba, Merkel dẫn đầu phái đoàn Liên Hiệp Âu để thỏa thuận với Thổ Nhĩ Kỳ nhận lại người tỵ nạn từ Hy Lạp – để đánh đổi viện trợ 6.6 tỉ đô la và người Thổ vào Châu Âu không cần visa.   Chủ Nghĩa Quốc Gia Chủ nghĩa quốc gia thoát thai từ việc chống đối lại chủ nghĩa tự do phổ quát. Trường phái này bác bỏ việc con người mang cùng bản chất phổ quát chung. Thay vào đó, trường phái này cho rằng con người căn bản có sự khác biệt và sự khác biệt không thể xóa được này đến từ các quốc gia khác nhau. Mỗi quốc gia được cho là có một đặc tính riêng biệt – hình thành từ lịch sử lâu đời, ngôn ngữ, đất đai, phong tục, tập quán, sở thích. Chủ nghĩa quốc gia cho rằng, người dân trong một quốc gia có cùng ý hướng và hy vọng là quốc gia của họ sẽ trường tồn và thịnh vượng trong tương lai để con cháu đời sau có thể thừa hưởng, tôn vinh và đóng góp vào nền văn hóa và những thành tựu chung của quốc gia. Chủ nghĩa quốc gia còn dạy thêm rằng để phát triển vững mạnh, mỗi quốc gia phải duy trì một mức độ nào đó tính đồng nhất và đoàn kết (“giềng mối xã hội”). Từ quan điểm này, khi có một số lượng lớn người ngoại quốc đến sẽ đe dọa tính đồng nhất đó – đặc biệt là nếu nhóm mới đến không hội nhập nhanh chóng vào nhóm văn hóa chính của quốc gia. Chủ nghĩa quốc gia do đó xem những di dân và người tỵ nạn là mối đe dọa cho sự sống còn của quốc gia: những người này phạm pháp, tước lấy công ăn việc làm, là gánh nặng của hệ thống an ninh xã hội và làm cho người bản xứ cảm thấy là “người ngoại quốc trong chính xứ sở mình”.   Chủ nghĩa Hậu Hiện Đại Trường phái đạo đức thứ ba trong cuộc tranh luận hiện thời về di dân là hậu hiện đại. Chủ thuyết hậu hiện đại, xuất phát từ triết gia Friedrich Nietzsche, phủ nhận có cái gọi là chân lý tuyệt đối. Chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng chúng ta chỉ có thể biết được góc nhìn thiên vị, tùy thuộc của chúng ta mà chúng lại dựa vào thông tin không đầy đủ và do đó không là sự thật. Thúc đẩy quan điểm của chúng ta là một ý muốn tiềm ẩn sâu xa, một sự thôi thúc tâm lý vô thức muốn chế ngự người khác bằng cách buộc họ tuân theo cách diễn giải của chính chúng ta về cái thế giới này. Chủ thuyết hậu hiện đại thấm sâu vào văn hóa chính trị của chúng ta. Nó thể hiện qua ý niệm chân lý là bất cứ điều gì người ta cho là chân lý, và cử tri có thể bị lừa và lôi kéo dễ dàng bằng những luận điệu xảo trá được quảng bá khéo léo. Luận điệu bài bác Hồi giáo của Châu Âu là một thí dụ điển hình của chiến lược hậu hiện đại này. Dân Hồi giáo bị gán cho là lấn át, ngay cả “Hồi giáo hóa” Châu Âu, nhưng thật ra họ chỉ chiếm có 4 phần trăm dân số Châu Âu. Dân Hồi giáo bị gán cho hình ảnh có khuynh hướng bạo động, nhất là khủng bố, trong khi đó theo báo cáo của Europol (Cảnh sát Liên Âu) thì những cuộc tấn công có dính dáng đến các thành phần Hồi giáo cực đoan chỉ chiếm có 3 phần trăm tổng số các cuộc khủng bố diễn ra, bị chặn đứng, hay thất bại trong năm. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2007, nhà hoạt động phụ nữ người Hà Lan, Ayaan Hirsi Ali cho là “bạo động đi liền với Hồi giáo. Đạo này là một giáo phái của chết chóc, phá hủy, tận diệt. Đạo này hợp thức hóa giết người.” Trong quyển sách bán chạy có tựa đề Londonistan, tác giả Melanie Phillips đoan chắc là “việc chinh phục Tây Phương đã xong được phân nửa” và được thực hiện bởi những nhóm khủng bố có liên hệ đến al-Qaeda tại Châu Âu. Những thông tin méo mó này đến với hàng triệu người qua nhiều trang web thù ghét Hồi giáo như Islam Watch (quan sát Hồi giáo) hay Stop the Islamization of Europe (Ngưng việc Hồi giáo hóa Châu Âu).   Vậy trường phái nào thắng thế? Không trường phái triết lý nào đủ sức đánh bại hai trường phái kia. Mỗi trường phái đều được diễn đạt đầy thuyết phục, được biện minh và quảng bá để đại khối dân Châu Âu, nhìn chung, không thể chọn cái nào. Nhiều người lo rằng các thế lực loại trừ đang gia tăng, sẵn sàng để dựng lên một “Thành lũy Châu Âu”, vô cảm với những thống khổ của con người bên kia biên giới. Chắc chắn là vụ đánh bom tại Brussels trong tuần này sẽ giúp thêm cho nỗ lực này. Tuy nhiên chủ nghĩa tự do vẫn còn rất nhiều ảnh hưởng và không để cho Châu Âu đóng cửa hoàn toàn. Nhưng sự nhân bản của chủ nghĩa tự do không thể đánh bạt hoàn toàn chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa hậu hiện đại. Cả ba trường phái sẽ tiếp tục bóp méo và thao túng “sự kiện”. Châu Âu sẽ đối diện với những chính sách trái ngược (nhận người tỵ nạn hôm nay, mai lại đuổi), dựa vào thông tin hoàn toàn không chính xác. Peter O’Brien là giáo sư về chính trị học tại Đại học Trinity và tác giả quyển sách Câu hỏi về người Hồi giáo tại Châu Âu: Những Tranh Cãi Chính Trị và Triết Lý Chung, và quyển Nhận Thức của Châu Âu về Hồi giáo và Hoa Kỳ từ Saladin đến George W. Bush: Tiết Lộ Cái Tôi Mỏng Manh Của Châu Âu. https://chantroimoimedia.com/2016/03/26/vu-danh-bom-o-brussels-phoi-tran...
......

Việt Nam: Hãy hủy bỏ mọi cáo buộc đối với các Blogger nổi tiếng

Quyền tự do ngôn luận dưới sức ép đang gia tăng trở lại (New York, Ngày 22 tháng Ba năm 2016) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam cần phóng thích và hủy bỏ mọi cáo buộc đối với hai blogger nổi tiếng. Phiên tòa xử Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy được ấn định sẽ diễn ra vào ngày 23 tháng Ba năm 2016 tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội. Hai người đã bị truy tố theo điều 258 của bộ luật hình sự về tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước.” Họ đã bị bắt giam từ tháng Năm năm 2014. Phiên tòa xử hai người lúc đầu được dự kiến vào ngày 19 tháng Giêng, nhưng rồi bị hoãn lại trước thềm Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam, được tổ chức định kỳ năm năm một lần. “Hai blogger Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy đã bị giam giữ gần hai năm chỉ vì đã lên tiếng phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam và những người lãnh đạo, trong khi chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn các văn bản luật về nhân quyền có nội dung hiển nhiên bảo vệ các hành vi của họ,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Nhân quyền phát biểu. “Chính quyền cần ngay lập tức phóng thích hai blogger và bồi thường về thời gian họ bị giam giữ oan.” Nguyễn Hữu Vinh (bút danh Anh Ba Sàm), nguyên là sỹ quan công an và đảng viên, khởi xướng blog Ba Sàm từ năm 2007, với ý định giáo dục độc giả Việt Nam bằng cách dẫn các đường link liên kết với tin tức từ nhiều góc nhìn khác nhau. Phần lớn các đường liên kết được dẫn từ báo chí nhà nước. Blog của ông còn đăng tải các bài báo, xã luận về các vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa Việt Nam. Blog cũng đăng các bài chuyển ngữ từ các bài báo tiếng Anh, tiếng Pháp và trích đoạn một số cuốn sách. Blogger Nguyễn Hữu Vinh Trong sáu năm hoạt động tính đến ngày hai người bị bắt, trang Ba Sàm đã thu hút được hàng triệu độc giả trong và ngoài nước Việt Nam. Theo bản cáo trạng, một blog trên website này, tên là Dân Quyền (được thành lập từ tháng Chín năm 2013) đã “đăng 2014 bài viết, 38.574 phản hồi và có 3.243.330 lượt người truy cập.” Bản cáo trạng cũng nói rằng một blog khác, tên là Chép Sử Việt (thành lập từ tháng Giêng năm 2014), “đã đăng 383 bài viết, 3.401 phản hồi và có 480.353 lượt người truy cập.” Bản cáo trạng liệt kê 12 bài viết đã đăng tải trên Dân Quyền và 12 bài trên Chép Sử Việt “có nội dung sai sự thật, không có căn cứ, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng uy tín của cơ quan, tổ chức; đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng làm ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo đất nước của Đảng, Chính phủ, Quốc Hội và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.” Một trong số 24 bài báo nêu trên là bài “Chuyện kể Năm 2000, Cuốn tiểu thuyết về thân phận con người trong cái ác cộng sản” do một cựu đảng viên, Phạm Đình Trọng viết. Bài viết phê phán chính quyền cộng sản về chuỗi lịch sử từ thập niên 1960 đến nay của chính sách tùy tiện bỏ tù và đầy đọa các tiếng nói bất đồng. Bài báo viết, “ Làm sao (đảng cộng sản) có thể giam cầm được sự thật, giam cầm được lẽ phải. Làm sao có thể giam cầm được tâm hồn, trí tuệ và khí phách.” Một bài báo khác được “vạch mặt chỉ tên” trong bản cáo trạng là bài “Tòa xử Trương Duy Nhất, các bị hại sẽ lủi đi đâu” của một tác giả ẩn danh. Bài báo tiên liệu rằng trong phiên xử một blogger nổi tiếng khác, Trương Duy Nhất, trong tháng Ba năm 2014, sẽ không có mặt những người gọi là nạn nhân của hành vi viết blog của Trương Duy Nhất, trong đó có tổng bí thư đảng cộng sản Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Bài báo nhận định rằng “Dư luận trong nước và quốc tế cũng lại có một cơ hội để đo đếm về nội tình ban lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam và những hứa hẹn “nhân quyền” của nó sau chiếc ghế thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ và trước TPP (Hiệp ước Thương mại Xuyên Thái Bình Dương).” Một bài khác nữa bị điểm danh trong cáo trạng là bài “‘Ông trời con’ Hoàng Kông Tư vs. BBC Việt ngữ” của các blogger nổi tiếng Phạm Đoan Trang, Trịnh Hữu Long và Nguyễn Anh Tuấn. Bài báo nói rằng một ông tướng công an, Hoàng Kông Tư, “hành xử như ông trời con” vì ông này đe truy tố một tác giả trong Ban Việt ngữ Đài BBC, người đã viết bài báo về một vụ án tham nhũng ở Việt Nam. Báo chí nhà nước đưa tin rằng các quan chức Bộ Công an, trong đó có một thứ trưởng không rõ tên, đã cố thuyết phục ông Nguyễn Hữu Vinh ngừng đăng các bài “chống Đảng, chống Nhà nước,” nhưng không có tác dụng. Vợ ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Lê Thị Minh Hà, nói rằng sức khỏe ông Vinh đã giảm sút nghiêm trọng trong thời gian giam giữ. Trong lần đi thăm ông vào tháng Mười năm 2015, chồng bà cho biết bị nổi các nốt mẩn đỏ khắp người. Bà đã gửi đơn kêu cứu khẩn cấp tới nhiều quan chức chính quyền, kể cả Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang; Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Trương Hòa Bình đề nghị cho phép ông Nguyễn Hữu Vinh được khám chữa bệnh đầy đủ. Bà Lê Thị Minh Hà cũng đã nhiều lần nộp đơn khiến nại phản đối việc bắt giữ tùy tiện chồng mình, nhưng các lá đơn của bà đều bị lờ đi. Việt Nam là một quốc gia thành viên của Hiệp ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, có nội dung bảo vệ hành vi bày tỏ chính kiến ôn hòa, bao gồm cả ý kiến phê phán chính phủ và lãnh đạo. Nhưng Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy không phải là những blogger duy nhất bị bắt giữ vì đã bày tỏ quan điểm trái ý chính quyền. “Các đối tác và nhà tài trợ của Việt Nam cần công khai lên tiếng phản đối cáo buộc vô lý nhằm vào Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy,” ông Adams nói. “Các bên cần yêu cầu chính quyền phóng thích tất cả các tù nhân chính trị và hủy bỏ mọi cáo buộc hiện có nhằm vào các tiếng nói bất đồng chính kiến.” HRW  
......

Cử tri bỏ phiếu chống chính sách di dân của chính phủ Đức

Một đảng có chủ trương dân tộc chủ nghĩa, chống di dân đã giành được ghế trong ba cuộc bầu cử khu vực của Đức, một kết quả được coi như một sự phản đối lớn đối với chính sách nhập cư rộng cửa của Thủ tướng Angela Merkel. Đảng Lựa Chọn Khác Cho Nước Đức (AfD) giành được đại biểu ở những tiểu bang Baden-Wuerttemberg và Rheinland-Pfalz ở vùng tây nam trù phú của Đức, và ở Sachen-Anhalt, một vùng kinh tế yếu kém ở phía đông đất nước, theo kết quả cuộc bỏ phiếu và thăm dò ngoài phòng phiếu phát sóng trên truyền hình quốc gia Đức. Những cuộc bầu cử này là phép thử chính trị lớn đầu tiên kể từ khi Đức đăng ký gần 1,1 triệu người xin bảo hộ tị nạn vào năm ngoái. Đảng AfD giành được 15 phần trăm số phiếu ở bang Baden-Wuerttemberg và gần 13 phần trăm ở Rheinland-Pfalz, theo kết quả chính thức. Đảng này về nhì ở Sachen-Anhalt với 24 phần trăm, theo dự đoán của đài truyền hình ARD và ZDF, với hầu hết các quận đã được kiểm phiếu. "Chỉ có một con đường, con đường thống nhất của Merkel, và người dân muốn một lựa chọn khác, họ muốn có một sự chống đối thực sự và chúng tôi muốn đảm đương nhiệm vụ đó," Andre Poggenburg, lãnh đạo đảng AfD ở Sachen-Anhalt thuộc Đông Đức cũ, nói với hãng tin Reuters sau khi bỏ phiếu. Nhà khoa học chính trị Jens Walther của Đại học Duesseldorf nói với hãng tin AFP của Pháp rằng, "Những cuộc bầu cử này rất quan trọng ... vì chúng sẽ đóng vai trò như là một phép thử cho chính sách gây tranh cãi của chính phủ" về người tị nạn. Thất bại này được xem là một cú giáng mạnh vào Thủ tướng Merkel, trong khi bà đang cố gắng sử dụng địa vị của mình là nhà lãnh đạo quyền lực nhất châu Âu để đạt được một thỏa thuận giữa Liên minh châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ nhằm ngăn chặn dòng di dân. Bà Merkel đang chịu áp lực ngày càng tăng đòi đóng cửa không cho di dân vào Đức - nhiều người trong số họ là người Syria, và những người khác, lánh chiến tranh - nhưng bà đã từ chối áp đặt một giới hạn về số lượng người đổ đến. Thông qua EU, bà đang thúc đẩy một hành động trên phạm vi toàn châu Âu kêu gọi phân bổ người tị nạn khắp khối bao gồm 28 nước thành viên này theo tỉ lệ. http://www.voatiengviet.com/content/cu-tri-bo-phieu-chong-chinh-sach-di-...
......

Uỷ hội Liên Âu bị tố cáo sai phạm nhân quyền trong hồ sơ thương thảo Hiệp ước Tự do Mậu dịch Liên Âu – Việt Nam

PARIS – BRUXELLES, ngày 3.3.2016 (FIDH & UBBVQLNVN) — Hôm 26 tháng 2 vừa qua, Bà OReilly, Thanh tra Liên Âu, nhận xét rằng việc từ chối tiến hành nghiên cứu tác động Nhân quyền là một hành động sai phạm tồi tệ trong vấn đề quản lý. Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt nam (VCHR) hoan nghênh quyết định lịch sử của bà Thanh tra sau khi thụ lý hồ sơ khiếu kiện của Liên Đoàn và Uỷ ban chống cách quản lý hồ sơ thương thảo Hiệp ước Tự do Mậu dịch Liên Âu – Việt Nam của Uỷ hội Châu Âu. Bà Emily O'Reilly, Thanh tra Liên Âu Quốc hội Châu Âu phải phê chuẩn phán quyết của bà Thanh tra, nên đã mời Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền và bà OReilly phát biểu hôm nay về sự vụ sai phạm của Liên Âu. Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam cùng kêu gọi các vị Dân biểu Quốc hội Châu Âu đảm lãnh trách nhiệm để bảo đảm rằng Hiệp ước phải tôn trọng những nghĩa vụ của Liên Âu trong vấn đề nhân quyền. “Quyết định của bà Thanh tra là bước tiến cụ thể đúng lối nhằm bảo đảm chính sách mậu dịch và đầu tư của Liên Âu khế hợp với nhân quyền. Điều này phải được các vị Dân biểu Quốc hội Châu Âu chịu trách nhiệm và hậu thuẫn”, ông Karim Lahidji, Chủ tịch Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền nhấn mạnh. Bà Thanh tra Liên Âu đã giải thích rõ tác động nhân quyền phải được thực hiện trước khi Hiệp ước kết thúc để có thể ảnh hưởng trong các cuộc thương thuyết nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về nhân quyền. Trong bản quyết định, bà Thanh tra đã đặc biệt quy chiếu Đường hướng chỉ đạo trong sự phân tích các tác động nhân quyền nhằm lượng giá tác động trên chính sách mậu dịch được thông qua tháng 7 năm 2015. Bà Thanh tra nhấn mạnh, là Liên Âu phải tìm cách ngăn chận những hiệu ứng tiêu cực của các Hiệp ước mậu dịch và đầu tư khi thay đổi một số các quy định đặc thù nếu thấy cần thiết, cũng như lấy quyết định cho những biện pháp giảm thiểu các hiệu ứng tiêu cực trước khi kết thúc Hiệp ước. Một cách trọng thể, bà Thanh tra Liên Âu bác bỏ các lý lẽ Uỷ hội Châu Âu đưa ra khi nói rằng đã có một điều khoản về Nhân quyền trong Hiệp ước Tự do Mậu dịch (FTA), và rằng các công cụ như đối thoại nhân quyền hàng năm và hợp tác qua lĩnh vực phát triển đã quá đủ để ứng hợp với các nghĩa vụ của Liên Âu trên lĩnh vực nhân quyền. Đặc biệt bà nhấn mạnh rằng bà “tin chắc chưa đủ thấm vào đâu việc phát triển một loạt chính sách và và các công cụ tổng quát sẽ làm thăng tiến sự ứng hợp nhân quyền trong cùng thời gian kết thúc Hiệp ước Tự do Mậu dịch, mà thực tế là chẳng ứng hợp với các đòi hỏi nhân quyền”. Ông Võ Văn Ái, Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam, phát biểu rằng : “Quyết định của bà Thanh tra Liên Âu là một tiền lệ quan trọng mà Quốc hội Châu Âu phải sử dụng để thúc đẩy mạnh mẽ các bảo đảm nhân quyền trước khi ký kết Hiệp ước Tự do Mậu dịch. Liên Âu cần nghiên cứu tác động nhân quyền như một đòi hỏi cần thiết bắt buộc phải có trước mọi Hiệp ước mậu dịch và đầu tư, để cho các quốc gia muốn có quan hệ mậu dịch với Liên Âu sẽ không thể nào hưởng các quyền lợi mậu dịch và đầu tư nếu vi phạm các quyền cơ bản của người công dân nước họ”. Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam nhận định qua quyết định của bà Thanh tra Liên Âu là sự thừa nhận Nhân quyền chính yếu trong các chính sách mậu dịch. Không thể nào trao nhân quyền cho nền ngoại giao mềm yếu, cho các cố vấn kỹ thuật hay những kẻ cấp phát tiền. Điều này kêu gọi sự xét lại các hiệp ước, và củng cố các cơ chế bảo vệ nhân quyền. Dự án Hiệp ước Tự do Mậu dịch trình Quốc hội Châu Âu xin phê chuẩn, chỉ nhắc tới nhân quyền trong lời mào đầu, nhưng không bó buộc các đối tác và đầu tư phải tôn trọng các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Thế là chẳng khứng hợp chút nào với các nghĩa vụ chính quy của Liên Âu trên lĩnh vực nhân quyền. Liên Âu phải tức khắc trang bằng sự thiếu sót này, và đặt để các cơ chế kiểm soát cũng như thu nhận các khiếu kiện mang lại lợi ích cho nhân dân về các quyền cơ bản mà các nhà đầu tư hay hiệp ước mậu dịch làm mất đi. Trong khi cuộc thảo luận xẩy ra tại Quốc hội Châu Âu, thì những vi phạm nhân quyền gia tăng một cách báo động tại Việt Nam. Nếu năm 2015, thời gian thương thuyết Hiệp ước Tự do Mậu dịch, nhà cầm quyền gia giảm một số truy kích hình sự các người hoạt động bảo vệ nhân quyền để tránh bớt sự chỉ trích quốc tế, thì cùng lúc ấy, công an tăng cường việc hành hung, đánh đập các nhà hoạt động, sách nhiễu và đàn áp những người bảo vệ nhân quyền. Hàng chục bloggers, các nhà hoạt động công đoàn, hay Dân oan bị cướp đất, các tín đồ tôn giáo, các dân tộc ít người… vẫn tiếp tục bị tù đày. Tự do tư tưởng, ngôn luận, lập hội, hôi họp cũng như tự do tôn giáo bị kiểm soát và giới hạn trầm trọng. Việt Nam cũng đang thông qua các dự luật hạn chế các quyền này, như dự thảo Luật tôn giáo, tín ngưỡng, tiếp cận thông tin, lập hội hay luật biểu tình. Bộ Luật Hình sự sửa đổi năm 2015 càng tỏ ra trầm trọng hơn đối với những hình phạt dành cho các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền, cũng như duy trì các điều khoản mơ hồ về “an ninh quốc gia”, vi phạm các công ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam ký kết. Cho đến nay, vẫn chưa có nền báo chí độc lập của tư nhân, cũng chẳng có các Công đoàn tự do và những tổ chức dân sự bị thẳng tay trừng trị. Theo Quê Mẹ  
......

Đức đang "phá sản" đặc biệt

Khi nói về phá sản, chúng ta thường nghĩ về sự cạn kiệt tiền tài. Đó là loại phá sản chúng ta thường thấy trên báo chí hay nghe bạn bè nói đến. Phá sản kinh tế tài chánh là một thảm cảnh không ai muốn mình lâm phải. Có một loại phá sản khác, cũng là thảm cảnh nhưng ở tầm vóc to lớn hơn nhiều. Đó là phá sản chủng tộc. Khi phá sản tài chánh, một sáng nào đó người ta thức dậy nhìn chung quanh không còn thấy tiền bạc, của cải gì của mình nữa. Khi phá sản chủng tộc, một ngày nào đó người ta mở mắt nhìn chung quanh không còn thấy ai cùng chung sắc dân, cùng chung ngôn ngữ, cùng chung văn hóa, cùng chung lịch sử, cùng chung quê hương xứ sở như mình nữa. Và tương tự như phá sản tài chánh, người bị phá sản chủng tộc cũng không còn tương lai. Phá sản chủng tộc ít khi xảy ra đột ngột một sáng một chiều. Nó xảy ra dần dần nên nhiều khi người ta không để ý là họ đang trôi dần xuống con dốc phá sản. Thế thì dấu hiệu gì có thể giúp chúng ta nhận ra là mình đang nằm trên con đường phá sản chủng tộc? Chúng ta thường biết mình đang trên đà phá sản tài chánh khi chúng ta nhìn thấy mình càng lúc càng có ít tiền bạc, của cải. Khi trên đà phá sản chủng tộc, chúng ta nhìn chung quanh sẽ thấy càng lúc càng ít… trẻ con cùng chủng tộc của mình. Lấy Đức làm thí dụ tiêu biểu cho một số nước Âu Châu như Đan Mạch, Thụy Điển, v.v. Mức độ sinh sản trung bình của mỗi cặp vợ chồng ở Đức là 1,3 con. Có nghĩa là không khác gì trong mấy chế độ giới hạn sinh đẻ 1 con của Trung Quốc trước đây. Toàn bộ hệ thống an sinh xã hội của Đức dựa trên nguyên tắc thế hệ trẻ làm việc sinh lợi tức để nuôi các thế hệ lớn tuổi hơn. Nếu chỉ lấy 1,3 người để thay thế 2 người thì hệ thống nầy không thể hoạt động lâu dài được. Trong tương lai không xa lắm, lợi tức quốc gia sẽ không còn đủ để nuôi sống một dân số ngày càng già yếu đi chớ đừng nói chi đủ sức phát triển để kịp theo bước tiến thế giới. Trung Quốc ngày nay cũng đã hủy bỏ chế độ 1 con vì lý do nầy. Trong điều kiện lý tưởng, hệ thống an sinh xã hội của các nước như Đức phải giống như một mô hình kim tự tháp: thế hệ trẻ chiếm đa số nằm phía dưới nhất, lên dần bên trên là các thế hệ cao niên hơn, đến thế hệ lão niên đã về hưu chiếm dân số nhỏ nhất nằm trên đỉnh. Hệ thống dạng nầy dùng lực lượng lao động trẻ làm nguyên liệu xây dựng nền móng kinh tế lớn vững nâng đỡ các thế hệ lớn tuổi hơn phía trên. Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội ở các quốc gia trên bắt đầu giống một mô hình kim tự tháp nằm ngược đầu: nền móng phía dưới ngày càng nhỏ hẹp trong khi phần đỉnh ngày to lớn nặng nề hơn. Một xã hội với cấu trúc nầy sẽ sụp đổ một ngày không xa. Vấn đề là người dân Đức nói riêng và nhiều dân tộc Âu Châu nói chung không thích sinh đẻ nhiều. Vì một số lý do khác nhau, mức độ sinh sản của Âu Châu, và Bắc Mỹ cũng như Úc Châu, rất thấp. Càng ngày càng thấp. So với Á Châu. So với Phi Châu. So với Trung Đông. Nói về phá sản chủng tộc, các quốc gia trên đang trên đà lao xuống cái hố thẳm đó. Phá sản chủng tộc sẽ dẫn liền theo phá sản kinh tế. Và Đức là một nước đứng đầu. Và họ cũng nhận thấy điều đó. Thế thì nước Đức làm gì? Giới lãnh đạo Đức đã nảy ra một sáng kiến thần kỳ: nếu cần nhiều người trẻ để làm nền tảng cho cái kim tự tháp an sinh xã hội mà không sản xuất trong xứ được thì chúng ta cứ nhập cảng họ vào từ nước ngoài. Và vì đó Đức đã mở rộng vòng tay đón nhận hàng triệu di dân Hồi Giáo vào trong nhiều đợt từ những năm 1960. Di dân Hồi Giáo nổi tiếng sinh sản nhiều. Như vậy không bao lâu sau, theo kế hoạch trên, nước Đức sẽ có đầy đủ lực lượng trẻ để làm việc cho nền kinh tế Đức. Và những người cao niên trong xứ sẽ không còn bị bắt buột phải làm việc khi già yếu nữa vì hệ thống an sinh xã hội quốc gia sẽ bảo trợ cho họ đến khi họ nhắm mắt. Tuy nhiên, sáng kiến trên có một lỗ hổng lớn. Ngay cả nếu không nói gì đến vấn đề an ninh liên quan đến khủng bố, hay vấn đề văn hóa Hồi Giáo cực đoan như luật lệ Sharia, sáng kiến nầy chỉ hiệu nghiệm nếu những người di dân đến Đức quan tâm đến việc tìm kiếm việc làm và chịu đi làm việc. Vấn đề là không có gì bảo đảm rằng những người di dân hiện nay đang tràn ngập qua biên giới Đức sẽ đóng góp sức lao động của họ vào nền kinh tế Đức. Thật ra có nhiều bằng chứng cho thấy chuyện nầy sẽ không xảy ra như giới lãnh đạo Đức dự tính. Nếu nhìn vào những di dân Hồi Giáo hiện đã sinh sống ở Đức, cũng như ở các nước Âu Châu lân cận, thì sẽ thấy. Tỉ lệ thất nghiệp trung bình trong các cộng đồng di dân Hồi Giáo là 30-40%. Riêng giới trẻ di dân Hồi Giáo, tỉ lệ thất nghiệp ở khoảng 50-60%. Có nghĩa là chưa đến 2 di dân Hồi Giáo trong tuổi lao động là có một người không làm việc, và ở nhà lãnh trợ cấp xã hội. Nhiều người cho rằng những người di dân Hồi Giáo không tìm được việc làm là vì họ chưa thích ứng được với nền văn hóa xa lạ Âu Châu. Hoặc là vì họ không được cung cấp đầy đủ điều kiện huấn luyện nghề nghiệp. Hoặc là vì họ không được dân bản xứ cho cơ hội làm việc. Một thiểu số di dân Hồi Giáo có học vấn cao đã rất thành công khi đến nhập cư ở các nước Âu Châu. Họ chịu khó đi tìm việc làm và chịu khó làm việc. Họ chịu khó trong việc hòa nhập vào xã hội Tây Phương. Họ trở thành những người có công ăn việc làm ổn định, kể cả các nghành nghề có địa vị trong xã hội. Trong khi đó phần lớn lại không kiếm được việc làm và do đó không có đủ lợi tức để nuôi thân. Lý do chính là vì phần đông những người nầy đã không hề có cơ hội ở xứ sở họ để đạt đến một trình độ học vấn cần thiết cho việc hòa nhập vào đời sống trong các nước Tây Phương. Cộng đồng di dân Somali chẳng hạn là một thí dụ rõ rệt nhất. Chỉ có khoảng 18% trẻ em trai và 15% trẻ em gái ở Somali được đi học đến bậc tiểu học. Thật ra là còn một lý do khác nữa, liên quan đến vấn đề văn hóa. Nhiều di dân Hồi Giáo đến từ những xứ sở mà con người bóc lột nhau ở đủ mọi phương diện. Phần lớn họ nằm trong thành phần bị bóc lột từ thế hệ nầy đến thế hệ khác. Họ đã phải suốt đời lao động cực nhọc để phục vụ giai cấp chủ nhân của họ. Họ chỉ có thể phản kháng bằng cách tránh né việc làm khi nào họ có thể. Họ không hề có khái niệm gì về đóng góp xây dựng xã hội. Bây giờ nếu tránh khỏi cần đi làm mà vẫn được có tiền trợ cấp để sống thì tại sao họ phải bận tâm? Suốt đời họ đã là những người bị lợi dụng nên bây giờ nếu có thể lợi dụng được người khác thì họ sẽ không ngần ngại gì cả. Theo thống kê quốc gia năm 2011, tổng số di dân Hồi Giáo ở Đức khoảng 1,5 triệu người (tức là 1,9% tổng dân số Đức). Tuy nhiên, con số nầy được xem là không chính xác vì rất nhiều người không kê khai tôn giáo của họ trong các cuộc thống kê dạng nầy. Năm 2009, người ta dùng các dữ kiện xã hội khác để ước đoán con số di dân Hồi Giáo ở Đức thật ra là 4,3 triệu (tức là 5,4% tổng dân số). Hiện nay con số nầy ước lượng khoảng 5,8 triệu. Theo tài liệu mới được tiết lộ, Đức hiện đang trù tính sẽ nhận vào hơn một triệu người tị nạn Hồi Giáo mỗi năm bắt đầu từ 2016. Nếu tính đến chính sách bảo lãnh đoàn tụ gia đình, mỗi cá nhân sẽ bảo lãnh mang vào Đức thêm trung bình 4 đến 6 thân nhân nữa. Có nghĩa là các con số di dân Hồi Giáo ở Đức sẽ gia tăng cấp lũy thừa trong vòng vài thập niên tới. Ông Uwe Brandl, Chủ Tịch của Hội Đồng Hành Chánh Bavarian (Bayern), ước đoán đến năm 2020 nước Đức sẽ có tổng cộng không dưới 20 triệu di dân Hồi Giáo. Số lượng nầy sẽ thay đổi bộ mặt xã hội của Đức toàn diện và vĩnh viễn. Ông Brandl cho biết nếu không kiềm chế mức độ thu nhận người tị nạn Hồi Giáo vào Đức ngay bây giờ thì sẽ xảy ra tình trạng rối loạn xã hội không cứu chữa được. Mỗi gia đình tị nạn có 4 người hiện nay được lãnh trợ cấp khoảng 1200 euro mỗi tháng, chưa kể phụ cấp nhà cửa và thực phẩm. Tiền trợ cấp của một gia đình bản xứ người Đức về hưu sau khi đã bỏ công sức làm việc 30 năm cũng chỉ hơn con số đó rất ít. Thêm vào đó, chế độ bảo hiểm sức khỏe của hai gia đình trên đều giống y nhau. Điều nầy sẽ nảy sinh nhiều câu hỏi về sự công bằng trong quyền lợi xã hội. Có nhiều phe nhóm trong người bản xứ Đức hiện đang rất quan tâm về vấn đề nầy ở nhiều mức độ và bằng nhiều phương cách khác nhau. Những người nầy cho rằng chính sách nhập cư thả cửa của Nữ Thủ Tướng Angela Merkel hiện nay sẽ dẫn đến một bất ổn chính trị trầm trọng. Nếu đại đa số những di dân Hồi Giáo đã đến sinh sống ở Đức từ bao năm qua vẫn tiếp tục tự cô lập trong những cộng đồng riêng biệt của họ thì không có hy vọng gì để thấy hàng triệu người tị nạn Hồi Giáo sắp đến sẽ chịu hòa nhập với người bản xứ Đức. Nhiều người cũng lo lắng về vấn đề an ninh quốc phòng. Một số chính khách cao cấp cho rằng chính sách di dân thả cửa đang nhập vào Đức các thành phần Hồi Giáo cực đoan và các mầm móng khủng bố. Những cơ quan an ninh Đức cũng nhìn nhận hiện nay họ không có khả năng kiểm soát và gạn lọc các thành phần nầy. Hơn nữa, sự khác biệt về văn hóa lẫn mức hiểu biết về luật pháp quốc gia sẽ gây ra xung khắc lớn về quan điểm chính trị lẫn quyền lợi xã hội giữa những phe nhóm khác nhau trong nước. Các phe nhóm trên, ủng hộ hay phản đối việc di dân, sẽ phản ứng bằng cách nầy hay cách khác. Các vụ tấn công tình dục tập thể ở Cologne (Köln) trong đêm Giao Thừa 2015-16 vừa qua làm cho tình thế thêm căng thẳng. Tất cả những sự việc trên sẽ làm đời sống người dân Đức bất an và tệ hại hơn. Ngay Phó Thủ Tướng Sigma Gabriel và Bộ Trưởng Ngoại Vụ Frank-Walter Steinmeier sau nhiều tháng bênh vực chính sách di dân của bà Angela Merkel mới đây cũng đã thố lộ nỗi lo âu của họ. Họ thú nhận rằng chính sách nầy đang gây chia rẽ xã hội Đức trầm trọng. Họ nói Đức rõ ràng không thể tiếp tục thu nhận số lượng di dân như thế nầy nữa. Bộ Trưởng Tài Chính Markus Soder (Tiểu bang Bayern) cũng cho biết Đức cần phải giới hạn số lượng di dân và số người tị nạn hiện đang ùa qua biên giới Đức chỉ có thể ngưng lại nếu chính quyền Đức đóng cửa biên giới lập tức và loan báo rõ ràng rằng không phải bất cứ ai cũng có thể tự tiện xâm nhập vào lãnh thổ Đức. Cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Hans-Peter Friedrich chỉ trích chính sách di dân của bà Merkel là một “lỗi lầm chính trị to lớn chưa từng thấy” và nó sẽ “mang đến những hậu quả thảm hại lâu dài”. Ông kết luận về làn sóng tị nạn hiện nay, “Chúng ta đã hoàn toàn mất kiểm soát.” Vào tháng Mười vừa qua, hơn 200 thị trưởng của vùng North-Rhine Westphalia (NRW) đã đồng ký kiến nghị đến Thủ Tướng Merkel. Họ cảnh báo rằng họ không còn sức thu nhận người tị nạn nữa. Bức kiến nghị nầy bày tỏ sự hết sức lo lắng của họ cho những thành phố, những tỉnh lỵ, những thôn làng trong vùng về số lượng người tị nạn khổng lồ đang tiếp tục tràn ngập vào vô giới hạn. Các chính quyền địa phương không còn chỗ cho người tị nạn ở nữa. Tất cả nhà cửa có thể dùng làm nơi cư ngụ, lều trại và ngay cả các kiện hàng tàu chế biến lại, đều đã cạn kiệt. Các thị trưởng cho biết địa phương họ đang trong tình trạng khủng hoảng. Họ đang dồn hết tài nguyên để cố giải quyết vấn đề di dân nầy và không còn khả năng để làm việc gì khác nữa cả. Cũng trong tháng Mười vừa qua, Thủ Tướng Hungary ông Viktor Orban đã cảnh báo rằng toàn thể Âu Châu đang đứng trước một thảm họa vĩ đại. Vấn đề di dân hiện nay có thể làm lung lay nền móng chính quyền của một số quốc gia. Ông nói luồng sóng di dân chúng ta đang thấy hiện nay không chỉ là những người tị nạn chiến tranh mà còn là vô số người tị nạn kinh tế lẫn những phiến quân quá khích đang trà trộn trong đó. Số người di dân nầy ngày càng đang lớn hơn. Không những chỉ từ Syria mà bây giờ còn từ Iraq, Pakistan, A Phú Hãn và các nước Phi Châu nữa. Hiện nay, số người tị nạn đang trên đường tiến vào các thị trấn ven biên Đức là khoảng 10 ngàn người mỗi ngày. Theo ông, số lượng và thành phần của làn sóng di dân nầy đã đạt đến một mức độ nguy hiểm cho sự sống còn không những của Đức mà còn của toàn Âu Châu. Ông Orban đồng ý rằng bổn phận của chúng ta là phải giúp đỡ những người tị nạn chiến tranh và tị nạn chính trị. Đó là một nghĩa cử nhân đạo đáng được ủng hộ. Giải pháp trước mắt là cung cấp nơi tạm trú và thực phẩm cho họ. Tuy nhiên, nơi họ tạm trú sẽ được tổ chức chặt chẽ và riêng biệt với dân bản xứ. Và chúng ta phải có hoạch định rõ rệt rằng chúng ta sẽ đưa trả những người tị nạn lại quê hương, quốc gia của họ. Chúng ta làm điều đó bằng cách đồng hợp sức giúp họ lấy lại đất nước và xứ sở của họ để họ có thể trở về đó sinh sống lại như trước. Đó là một giải pháp lâu dài thích đáng nhất. Những người tị nạn nầy không cần phải trở thành thường trú nhân, hay công dân, của Âu Châu. Chúng ta không thể, và không có bổn phận phải cung ứng cho họ một đời sống mới ở Âu Châu. Người dân bản xứ ở Đức, Áo, Hungary, v.v. đã từ bao nhiêu thế hệ đóng góp vào việc xây dựng đời sống tốt đẹp mà chúng ta hiện có ở Âu Châu. Những người nầy có chủ quyền của cuộc sống đó. Các chính phủ Âu Châu có trách nhiệm và bổn phận bảo vệ quyền lợi của người dân trong nước. Những hành động cẩu thả, thí dụ như chính sách di dân tự do đang thấy ở Đức, xâm phạm và hủy hoại quyền lợi cơ bản lẫn sự an toàn trong cuộc sống của người dân bản xứ, và do đó cần phải chấm dứt lập tức. Ông Orban kêu gọi báo chí hãy tường thuật chính xác những gì đang xảy ra. Chúng ta thấy trên các bản tin của các đài truyền hình những hình ảnh đàn bà trẻ nít nheo nhóc lũ lượt lội bộ hàng trăm cây số tìm nơi tạm trú. Trên thực tế, trong làn sóng tị nạn hiện nay có đến 70% toàn là thanh niên trai tráng mạnh khỏe. Những người nầy xông xáo vào các thị trấn ven biên của Đức với thái độ hung hãn của những đoàn quân xâm chiếm chớ không phải với tư cách của những người tị nạn đang tìm nơi tạm trú. Đoạn phim ngắn sau đây cho thấy những gì ông Orban diễn tả ở trên. Một điều cần nhận biết là phần lớn những người di dân Hồi Giáo vừa đến Đức gần đây, và các quốc gia lân cận, thật ra không phải là người tị nạn chiến tranh. Ít nhất là trên mặt pháp lý. Trước hết, không phải tất cả những người nầy đang bỏ chạy khỏi chiến trường Syria. Phần lớn họ xuất phát từ những vùng tuy đói nghèo nhưng không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi chiến tranh. Một số không nhỏ từ các nước khác như Thổ Nhĩ Kỳ lợi dụng thời cơ cỡi theo làn sóng tị nạn để di dân bất hợp pháp sang Âu Châu. Đây chỉ là những người tị nạn kinh tế. Còn những người thật sự đang chạy loạn vì chiến tranh ở Syria, những người nầy đã không đến Đức trực tiếp từ Syria. Hầu hết họ đã vượt qua biên giới Syria vào đến lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ hay Jordan. Ở Thổ Nhĩ Kỳ và ở Jordan không có chiến tranh. Nếu họ dừng chân đó thì họ là những người tị nạn chiến tranh. Tuy vậy, chế độ an sinh xã hội ở 2 nước nầy rất thấp kém so với ở các nước Âu Châu như Đức, Đan Mạch, Thụy Điển, v.v. Vì vậy những người nầy không chịu dừng lại ở Thổ Nhĩ Kỳ và Jordan. Họ đã không dừng lại ở đó sau khi đã đến nơi an toàn xa khỏi xứ sở chiến tranh Syria của họ. Họ biết ở Đức họ sẽ có một đời sống dễ dàng hơn. Họ biết tiền trợ cấp xã hội ở Đức sẽ nhiều hơn. Vì thế họ quyết tâm và cố tình rời bỏ nơi tạm trú an toàn ở Thổ Nhĩ Kỳ và Jordan để tiếp tục đi đến Đức. Và làm như thế theo định nghĩa họ đã tự biến thành những người tị nạn kinh tế chớ không còn là tị nạn chiến tranh nữa. Trở lại vấn đề phá sản chủng tộc, thống kê cho thấy các cộng đồng Hồi Giáo người Somalis chẳng hạn khi vào định cư ở Thụy Điển có tốc độ sinh sản gấp 4 lần người bản xứ Thụy Điển. Tên Mohammed chiếm số đông nhất trong những tên hiện nay của toàn dân số nước Anh. Điều quan trọng hơn nữa là số lượng trẻ con Hồi Giáo dưới 4 tuổi ở Anh hiện chiếm khoảng hơn 9%.Tương tự ở Na Uy, tên Mohammed chiếm 10% trong trẻ con trong nước nầy. Ở Đức, ít nhất 10% trẻ mới sinh ra có cha mẹ là người Hồi Giáo. Khi nói đến sự sống còn của một chủng tộc, nhóm dân số quan trọng nhất theo thứ tự từ thấp đến cao là những nhóm dưới 30 tuổi, dưới 20 tuổi, và kế đó là dưới 4 tuổi. Nhóm dân số ở tuổi trung niên và thanh thiếu niên tuy giữ phần sản xuất xây dựng kinh tế hiện tại, nhóm trẻ con mới chính là tương lai của dân tộc. Thành phần trẻ con nào lớn nhất trong một nước sẽ định đoạt bộ mặt xã hội và văn hóa của nước đó trong tương lai. Ở Mỹ Châu và Úc Châu cũng không miễn nhiễm về vấn đề phá sản chủng tộc. Tuy với các số lượng di dân nhỏ hơn, tốc độ sinh sản của cộng đồng Hồi Giáo ở các quốc gia nầy vẫn không kém gì ở Âu Châu. Ở Mỹ, kể từ ngày 11 tháng Chín 2001 đến nay, dân số Hồi Giáo đã tăng lên thêm hơn 67%. Hiện nay lứa tuổi trung bình của dân bản xứ Đức là 46 tuổi trong khi lứa tuổi trung bình của cộng đồng Hồi Giáo ở Đức chỉ là 34 tuổi. Càng nhiều thanh niên trai trẻ di dân gia nhập thêm vào các cộng đồng Hồi Giáo ở Âu Châu thì các cộng đồng nầy sẽ càng trẻ hơn nữa so với các cộng đồng dân bản xứ ngày càng già nua đi. Trong một dân tộc, cộng đồng nào có dân số trẻ nhất sớm muộn gì cũng sẽ chiếm giữ vị thế nhân chủng mạnh nhất trong dân tộc đó. Trong một quốc gia dân chủ, cộng đồng nào sinh sản mạnh nhất sớm muộn gì cũng sẽ chiếm giữ quyền lực chính trị của quốc gia đó. Một cộng đồng lớn mạnh nhất về mặt nhân chủng lẫn chính trị trong một quốc gia nắm chủ quyền của quốc gia đó. Nói cách khác với tình hình Âu Châu hiện tại, nếu không có biện pháp cứu vãn thích hợp nào được áp dụng nhanh chóng và cứng rắn thì trong tương lai không xa lắm Âu Châu sẽ là một lục địa với đại đa số dân cư là người Hồi Giáo gốc Trung Đông và Phi Châu. Sẽ có một thay đổi rất lớn về văn hóa và chủ quyền của các quốc gia trong lục địa nầy. Đó có lẽ sẽ là một trong những cuộc phá sản chủng tộc đáng nhớ nhất trong lịch sử nhân loại. Đáng nhớ, cho đến một ngày nào đó khi không còn ai quan tâm để nhớ đến nó nữa. http://vietbf.com/forum/showthread.php?p=2919222
......

Kinh tế bất ổn, nhà giàu Trung Quốc vội tuồn tiền ra nước ngoài

Khi nền kinh tế Trung Quốc sẩy chân, nhiều gia đình giàu có ở nước này phải gấp rút tìm cách đưa một lượng lớn tiền ra nước ngoài vì lo ngại đồng nhân dân tệ sẽ tiếp tục mất giá. Để lách các biện pháp kiểm soát việc đưa tiền ra nước ngoài, những người giàu ở Trung Quốc có thể nhờ cậy đến bạn bè và bà con, mỗi người chuyển 50.000 USD, mức chuyển ngoại tệ ra nước ngoài tối đa hàng năm được luật cho phép đối với mỗi công dân Trung Quốc. Bằng cách này, một nhóm 100 người có thể dễ dàng chuyển tới 5 triệu USD, theo New York Times. Chiêu thức chia nhỏ giao dịch tài chính để lách luật chỉ là một trong hàng loạt phương pháp mà giới nhà giàu Trung Quốc đang sử dụng để đưa dòng vốn tháo chạy khỏi đất nước. Hành động này góp phần khiến triển vọng kinh tế Trung Quốc càng trở nên ảm đạm, đồng thời làm chao đảo thị trường toàn cầu. Trong năm qua, các công ty và cá nhân ở Trung Quốc ước tính chuyển gần 1.000 tỷ USD ra nước ngoài. Nhà chức trách Trung Quốc năm ngoái còn bắt quả tang một phụ nữ tìm cách rời đất nước với số tiền 250.000 USD nhét trong áo ngực, kẹp ở bắp đùi và giấu dưới giày. Chuyên gia đánh giá, nếu không thể kiểm soát hiện tượng trên, tương lai nền kinh tế Trung Quốc sẽ rất mờ mịt. Việc dòng tiền chảy khỏi đất nước ngày một nhiều là yếu tố gây bất ổn, đe dọa làm xói mòn niềm tin của người dân cũng như các nhà đầu tư, đồng thời ảnh hưởng xấu tới hệ thống ngân hàng đang chật vật ứng phó với hậu quả của hoạt động cho vay tiền vô tội vạ tồn tại nhiều năm qua. Việc dòng vốn rời khỏi đất nước mặt khác cũng gây áp lực lớn cho đồng nhân dân tệ. Chính phủ đang tìm cách ngăn chặn cú rơi tự do của đồng nội tệ bằng cách can thiệp vào thị trường, bán ra lượng ngoại tệ dự trữ lớn nhằm củng cố đồng tiền của Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu dự trữ ngoại tệ bị hao hụt quá sâu, điều này có thể châm ngòi cho một làn sóng tháo chạy vốn mạnh hơn, từ đó gây hỗn loạn thị trường. Một vụ chuyển tiền lậu bị bắt giữ tại Trung Quốc. Ảnh: Reuters   Đe dọa ổn định kinh tế Trung Quốc đang cố gắng ngăn chặn dòng vốn chảy ra nước ngoài bằng cách siết chặt kiểm soát các mối liên kết giữa nước này với hệ thống tài chính toàn cầu. Chính phủ Trung Quốc mới đây ban hành một quy định nhằm hạn chế người dân dùng thẻ ngân hàng để mua các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở nước ngoài. Dù vậy, những động thái kiểu như thế cũng mang đến một số hệ quả nhất định. Chúng phần nào khiến người dân cảm thấy bất an vì lo ngại rằng chính quyền đang muốn thoái lui khỏi các nỗ lực cải cách mà nước này cần để duy trì mức tăng trưởng cao trong những thập niên tới. "Đồng nhân dân tệ đã trở thành mối đe dọa ngắn hạn đối với sự ổn định tài chính của Trung Quốc", Charlene Chu, chuyên gia kinh tế từ công ty nghiên cứu tín dụng và cổ phiếu Autonomous Research, trụ sở ở London, nhận định. Trung Quốc nhiều năm qua thu hút được lượng tiền đầu tư khổng lồ của thế giới khi nền kinh tế tăng trưởng hàng năm ở mức hai con số. Một hệ thống tài chính đóng kín giúp tiền bị giữ lại trong nước. Nhưng ngay khi tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chững lại, dòng tiền lập tức chảy nhanh khỏi Trung Quốc, một phần xuất phát từ việc chính phủ nới lỏng kiểm soát, gỡ bỏ một số hạn chế đối với tiền tệ để mở cửa nền kinh tế. "Các công ty và cá nhân đều không muốn giữ đồng nhân dân tệ", chuyên gia tài chính Shaun Rein, người sáng lập Nhóm nghiên cứu Thị trường Trung Quốc, nhận xét. "Trong một thời gian dài, giữ đồng nhân dân tệ được xem là một sự bảo đảm, nhưng giờ đây điều này không còn đúng nữa". Giới quan sát cho rằng vấn đề trên là một bài toàn hóc búa mà chính phủ Trung Quốc phải giải quyết. Trung Quốc 8 tháng đầu năm ngoái đột ngột giảm giá đồng nhân dân tệ xuống 4%. Đây được xem như một phần của nỗ lực hướng tới một phương pháp quản lý mang tính thị trường hơn, đồng thời hỗ trợ các nhà xuất khẩu trong nước. Song, động thái gây bất ngờ này lại là nguyên nhân dẫn tới những đợt lao dốc mạnh của thị trường chứng khoán. Chính phủ Trung Quốc sau đó điều chỉnh để đồng nhân dân tệ giảm với tốc độ chậm hơn. Kết quả là trong vòng 5 tuần tính đến đầu tháng 1/2016, đồng nhân dân tệ giảm thêm 2,8%. Tuy nhiên, động thái kín đáo này vẫn dẫn đến làn sóng bán tháo cổ phiếu bởi tâm lý lo lắng của giới đầu tư toàn cầu. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đang cố gắng chống đỡ áp lực giảm giá của đồng nội tệ bằng cách mua vào nhân dân tệ, bán ra USD từ kho dự trữ ngoại hối. Chỉ trong tháng 12/2015 và tháng 1/2016, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc lần lượt giảm 108 tỷ USD và 99 tỷ USD, còn 3.230 tỷ USD. Cách đây một năm rưỡi, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc còn ở mức 4.000 tỷ USD. Đồng nhân dân tệ gặp khó Theo NYTimes, đồng nhân dân tệ Trung Quốc hiện vẫn phải đối mặt với nhiều cản lực. Chính phủ nước này gần đây nhiều lần cắt giảm lãi suất để kích thích kinh tế, khiến việc gửi tiết kiệm ở ngân hàng trở nên kém hấp dẫn. Trong khi đó, lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng dần "teo nhỏ" một phần vì Trung Quốc hiện có quá nhiều nhà máy dư thừa, ví dụ như nhà máy sản xuất thép hay ôtô. Giới đầu tư vì thế phải tìm nguồn lợi nhuận tốt hơn ở những nơi khác. Ronald Wan, nhà quản lý quỹ đầu tư ở Hong Kong đang nắm giữ ghế hội đồng quản trị của nhiều công ty nhà nước Trung Quốc, đánh giá tâm lý bi quan đã trở nên phổ biến trong xã hội. "Trong các công ty mà tôi có mối quan hệ, tất cả đều ấp ủ ý định chuyển tiền ra khỏi đất nước", Wan nói. Nhiều ngân hàng và các nhà kinh tế dự đoán đồng nhân dân tệ sẽ trải qua một đợt giảm giá mạnh nữa vào mùa xuân này. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc đã lên tiếng chỉ trích những đánh giá kiểu như vậy. TờPeople's Daily cuối tháng trước còn đăng bài lên án tỷ phú George Soros vì có ý nghi ngờ chính sách của Trung Quốc. Ông Soros là nhà đầu tư nổi tiếng với những phi vụ bán khống tiền tệ thành công nhờ dự đoán đúng xu hướng giảm giá. Theo quan sát viên Keith Bradsher, chính sách kinh tế trong tương lai của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào việc nước này có ngăn chặn hay ít nhất là hạn chế dòng vốn chảy ra nước ngoài được hay không. Theo quy định, một cá nhân được phép chuyển tối đa 50.000 USD mỗi năm ra khỏi biên giới Trung Quốc. Doanh nghiệp và các nhà đầu tư lớn thì có thể chuyển lượng vốn lớn hơn thông qua việc thâu tóm những công ty quốc tế. Ngoài ra, những phương thức chuyển vốn không chính thống cũng rất phong phú. Điển hình như một số công ty có thể xuất hóa đơn thương mại với giá trị sai lệch để giữ được nhiều lợi nhuận bên ngoài Trung Quốc hơn. Nhằm hạn chế dòng vốn chảy ra nước ngoài, chính phủ Trung Quốc đang tìm cách vô hiệu hóa một số phương thức chuyển tiền. Cách đây hai năm, Trung Quốc cho phép các công ty bảo hiểm trong nước đầu tư 15% giá trị tài sản ở nước ngoài. Nhưng theo các chuyên gia tài chính Hong Kong, chính phủ Trung Quốc gần đây đã yêu cầu các công ty bảo hiểm ngừng kế hoạch đầu tư ở nước ngoài. Nhà chức trách cũng yêu cầu người dân hạn chế rút nhân dân tệ tại chi nhánh của các ngân hàng Trung Quốc ở nước ngoài. Ở Thâm Quyến, ngân hàng còn yêu cầu khách hàng phải đăng ký trước một tuần nếu muốn đổi nhân dân tệ sang USD đối với các khoản tiền có giá trị trên 10.000 USD. Zou Tai, nhân viên làm việc tại một bệnh viện ở Trung Quốc, tháng trước đáp máy bay sang Hong Kong để mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trị giá 50.000 USD. Nhiều người Trung Quốc hiện nay cũng áp dụng chiêu thức tương tự để chuyển tiền ra khỏi đất nước bởi hợp đồng bảo hiểm có thể được mua bằng nhân dân tệ và chi trả bằng USD. "Sức mua của nhân dân tệ liên tục giảm", Zou nói. "Tôi cảm thấy các lãnh đạo Trung Quốc không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phá giá tiếp đồng nội tệ". Zou cho hay ông phải hành động thật nhanh chóng vì chính phủ đang nỗ lực thực hiện các biện pháp hạn chế hoạt động chuyển tiền ra nước ngoài. Hồng Vân Nguồn:vnexpress.net
......

Amnesty lo ngại sức khỏe của Tù Nhân Lương Tâm Trần Thị Thúy

Tổ chức nhân quyền đặt trụ sở ở London, Ân xá Quốc tế (Amnesty International), ngày 19/2 kêu gọi hành động khẩn cấp cho trường hợp của tù nhân TNLT Trần Thị Thúy ở Việt Nam. Bà Thúy bị bắt tháng 8/2010 và bị kết án tám năm tù theo điều 79 vì tội mưu toan lật đổ chính quyền, trong một phiên toà vào tháng 5/2011. Ân xá Quốc tế nói bà đang bị từ chối điều trị y tế khi đang thi hành án tại trại giam tỉnh An Phước. Bà được chuẩn đoán mang khối u bướu trong tử cung, chịu nhiều đau đớn và không thể đi đứng nếu không có người dìu. Theo báo cáo của tổ chức này, bà Trần Thị Thúy sẽ không được phép nhận điều trị trong tù khi chưa ‘thú nhận tội danh’. ‘Vi phạm Công ước chống tra tấn’ Tổ chức này cũng kêu gọi gửi lời kiến nghị đến Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, Cục trưởng Cục quản lý trại giam – Đại tá Phạm Đức Chấn và Giám thị trại giam An Phước. Cùng với lời kêu gọi, thư riêng đính kèm được gửi cho Giám thị trại giam An Phước, Đại tá Phan Đình Hoàn, tại phân trại số 2, về việc tù nhân này đang trong tình trạng sức khỏe đáng báo động. "Việc bị từ chối điều trị y tế, cũng như cố tình gây đau đớn và thương tổn với mục đích lấy lời thú nhận, cấu thành hành động tra tấn đã vi phạm Công ước chống tra tấn, vốn đã có hiệu lực tại Việt Nam từ tháng Hai năm 2015," trích trong thư gửi Đại tá Hoàn. "Chúng tôi thúc giục giới chức tại nhà tù trong khi Trần Thị Thúy còn bị giam giữ vẫn phải cung cấp các chăm sóc y tế thích hợp, bao gồm cả điều trị tại bệnh viện nếu cần thiết." Ân xã quốc tế yêu cầu giới chức trách thả Trần Thị Thúy ngay lập tức vì các hoạt động bảo vệ nhân quyền một cách bất bạo động. Trần Thị Thúy là một tiểu thương, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, được biết đến với những công việc liên quan đến tranh chấp đất đai giữa người dân và chính quyền. Bà bị bắt vào tháng 8 năm 2010, hiện đang thụ án 8 năm tù giam, 5 năm quản chế theo khoản 2 điều 79 của Bộ Luật Hình Sự với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/02/160219_amnesty_tran_thi_thuy
......

Vietnam Airlines đội sổ về mặt an toàn

Hãng chuyên khảo sát về tai nạn máy bay tại Hamburg – Đức quốc Jet Airliner Crash Data Evaluation Centre viết tắt là JACDEC hôm 15 tháng Hai, 2016 đã công bố bảng liệt kê những hãng hàng không thiếu an toàn nhất. Trong 10 hãng cuối bảng của 60 hãng hàng không lớn trên thế giới được đánh giá ở mức thấp nhất về độ an toàn có 3 hãng hàng không của Nam Mỹ và 5 của Châu Á. Trong đó Việt Nam Airlines đội sổ. Kể từ năm 2013, mỗi năm JACDEC đều công bố bảng xếp hạng mức độ an toàn của các đường bay thương mại. Công ty nổi tiếng thế giới với ngân hàng dữ liệu toàn cầu cộng tác với những cơ quan hàng không hàng đầu thế giới. Tất cả 60 hãng hàng không lớn nhất được đưa vào bảng xếp hạng. Hãng hàng không được đánh giá kém nhất là Vietnam Airlines, có trụ sở tại Hà Nội, sau đó là hãng Lion Air (Indonesia) und China Air (Taiwan). Hãng Airline Avianca Colombia cũng như TAM Airlines và GOL Transportes Aereos (cả hai của Brasil) là 3 hãng Nam Mỹ trong Top Ten không có tiếng.http://www.travelbook.de/service/jacdec-ranking-das-sind-die-unsicherste... JACDEC đánh giá mức độ an toàn của một hãng hàng không bằng cách kiểm tra xem trong thời gian 30 năm có bao nhiêu trường hợp tai nạn xảy ra. Trong đó từ việc máy bay bị thiệt hại hoàn toàn đến các sự cố nghiêm trọng đều được ghi lại. Các tình huống nguy hiểm cũng đi vào bảng đánh giá. Thời gian xảy ra sự cố càng xa trong quá khứ thì chỉ số an toàn của JACDEC càng giảm. Ngoài ra mức độ minh bạch của hãng hàng không và chính phủ sở tại và mức độ tự do thông tin đến quần chúng cũng là những yếu tố quan trọng được tính điểm xếp hạng vì ít bị tham nhũng chi phối. Mỹ, Anh, Canada, Pháp, Úc, Đức, các quốc gia Bắc Âu, Nam Phi và cả Kolombia đều có chỉ số minh bạch cao. Ngược lại, các nước Á Châu như Trung Quốc, Mã Lai, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ thì không được minh bạch. Bảng xếp hạng 15 hãng hàng không an toàn nhất trên thế giới: http://www.travelbook.de/service/jacdec-sicherheitsrating-airlines-flugl...  
......

Trung Quốc hoảng hốt với lời tiên tri của tỷ phú Mỹ, George Soros

Có vẻ như những dự đoán bi quan của nhà tỷ phú đầu cơ nổi tiếng George Soros tại diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos về tương lai của kinh tế Trung Quốc đang dần trở thành sự thực. Nhà đầu cơ nổi tiếng thế giới này đã dự đoán kinh tế Trung Quốc sẽ có một cú hạ cánh cứng và không loại trừ khả năng rơi vào một cuộc khủng hoảng, mà chìa khóa chính là tỷ giá của đồng nhân dân tệ. Nhưng khi mà cả thế giới vẫn còn đang bán tín bán nghi trước nhận định này của Soros thì chính phủ Trung Quốc lại tự biến nó thành một câu chuyện ngày càng đáng tin, khi hàng loạt các tờ báo lớn như Tân hoa xã hay thời báo Hoàn cầu chỉ trích Soros âm mưu chống lại kinh tế Trung Quốc thông qua việc công kích đồng nhân dân tệ. Sự việc này đang cho thấy Trung Quốc đang thiếu tự tin hơn bao giờ hết về vận mệnh đồng nội tệ của mình, khi mà nước này đang nối gót Nga đối mặt với nguy cơ khủng hoảng. Ở thời điểm hiện tại, nền kinh tế Trung Quốc đang có rất nhiều điểm tương đồng với kinh tế Nga cách đây hơn 1 năm, khi các lệnh trừng phạt kinh tế được các nước phương Tây đưa ra sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea hồi đầu năm 2014. Các quan hệ kinh tế và thương mại giữa Nga và các nước phương Tây gồm Mỹ và EU nhanh chóng bị cắt đứt, dẫn đến việc các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút hết vốn khỏi thị trường Nga để chuyển về nước. Việc một lượng lớn USD bị rút khỏi thị trường trong một thời gian ngắn đẩy Nga rơi vào cảnh lạm phát phi mã, hệ thống kinh tế bị đình đốn do quan hệ kinh tế với Mỹ và EU bị đứt đoạn, tiêu dùng giảm sút và tăng trưởng thì rơi vào trì trệ. Trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, chính phủ Nga còn tiếp tục đổ USD từ quỹ dự trữ ngoại tệ ra thị trường để bình ổn tỷ giá đồng Rup; nhưng khi mà đồng nội tệ này mất giá quá mạnh, có lúc sụt giảm lên đến hơn 50% so với đồng USD, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quỹ dự trữ ngoại tệ của Nga, thì Ngân hàng trung ương Nga không còn cách nào khác ngoài việc cưỡng bách tăng lãi suất lên mức rất cao để kiểm soát lạm phát, từ 10,5% lên 17%. Cuộc khủng hoảng kinh tế chấm dứt, nhưng cái giá mà Nga phải trả là suy giảm tăng trưởng lên đến 3,8% trong năm 2015, tức một năm sau khi tăng lãi suất. Trung Quốc ở thời điểm hiện tại cũng đang trải qua tình trạng tương tự. Theo thống kê, hơn 1000 tỷ USD đã được các nhà đầu tư rút khỏi thị trường Trung Quốc trong năm 2015. Chủ yếu là do nền kinh tế nước này đã tăng trưởng chậm lại, tổng cầu thị trường nội địa giảm trong khi chi phí nhân công thì đã tăng lên quá cao, gấp khoảng 3 lần so với các nước láng giềng như Việt Nam hay Myanmar, khiến các nhà đầu tư rút vốn và tìm địa điểm đầu tư mới. Cùng với đó là việc ngày càng có nhiều người Trung Quốc chuyển tiền ra khỏi nước này vì nhiều lý do, từ lý do đầu tư kinh doanh ra nước ngoài cho đến chuyển tiền không lý do và bất hợp pháp. Thống kê chính thức thì có khoảng 61 tỷ USD được các công ty Trung Quốc bỏ ra để thực hiện các dự án đầu tư ở nước ngoài trong năm 2015, còn con số chuyển tiền bất hợp pháp của người dân thì không thể tính toán được. Việc một lượng quá lớn USD bốc hơi khỏi thị trường Trung Quốc chỉ trong vòng một năm đang đẩy nền kinh tế số hai thế giới lâm vào tình cảnh tương tự như Nga hồi cuối năm 2014. Áp lực tỷ giá đối với đồng nhân dân tệ thời điểm hiện tại đang lớn hơn bao giờ hết, khi nó liên tục mất giá kể từ khi được quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chọn vào giỏ tiền tệ dự trữ hồi tháng 12.2015. Tổng cộng đến giờ đồng tiền này đã mất giá hơn 5% kể từ giữa tháng 12, và đang được dự báo sẽ còn tiếp tục sụt giá trong thời gian tới. Điều này đang tạo ra tác động ngược vào thị trường chứng khoán (TTCK) nước này, khiến chỉ số CSI 300 liên tục sụt giảm kể từ những ngày đầu năm 2016. Tình hình hiện tại căng thẳng đến mức, thống đốc ngân hàng trung ương Nhật Bản là ông Haruhiko Kuroda đã buộc phải lên tiếng cảnh báo Trung Quốc, cần phải tìm mọi biện pháp để kiểm soát dòng vốn. Một phần vì sự sa sút không phanh của nền kinh tế và TTCK Trung Quốc do sự tháo chạy của dòng vốn đang ảnh hưởng đến kinh tế và TTCK của Nhật Bản. Và gần nhất chính phủ Trung Quốc đã tung ra một gói các giải pháp nhằm kiểm soát dòng vốn trên thị trường, từ việc hạn chế người dân gửi ngoại tệ ra nước, cho đến các doanh nghiệp hạn chế mua hàng và nhập khẩu bằng đồng USD, tăng cường kiểm soát việc thanh toán qua thẻ UnionPay hay triệt phá các ngân hàng ngầm trong hệ thống tài chính. Ở thời điểm hiện tại, mỗi người dân Trung Quốc được phép mang khoảng 50.000 USD theo người ra nước ngoài, và theo tính toán thì chỉ cần khoảng 5% dân số nước này mang chừng đó tiền theo người ra nước ngoài là đủ để bào mòn toàn bộ quỹ dự trữ ngoại tệ hiện tại của Trung Quốc. Tính đến hiện tại, những dự đoán bi quan của George Soros về tương lai kinh tế Trung Quốc đang ngày càng có vẻ là chính xác. Tốc độ bơm tiền vào nền kinh tế để duy trì sự ổn định của thị trường và ngăn chặn đà sụt giá của đồng nhân dân tệ của chính phủ Trung Quốc đang ngày càng gia tăng, với một mức lũy tiến đáng báo động. Cho đến giờ, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã có tổng cộng 3 lần bơm tiền ra thị trường chỉ trong tháng 1.2016. Lần thứ nhất vào ngày 20.1 với con số khoảng 60 tỷ USD, lần thứ hai vào ngày 26.1 với mức 67 tỷ USD, và lần thứ ba vào ngày 28.1 với mức 52 tỷ USD. Lý do chính thức được Trung Quốc đưa ra là để giải quyết nhu cầu tiền mặt gia tăng đột biến trong dịp Tết nguyên đán ở nước này, nhưng lý do chủ yếu được dự đoán là để giải quyết áp lực liên quan đến tỷ giá đồng nhân dân tệ và sự ổn định của nền kinh tế. Việc tăng tốc độ bơm tiền để ổn định thị trường đang cho thấy Trung Quốc đang chịu những sức ép rất lớn để ổn định thị trường, thậm chí vượt ra khỏi dự đoán của các nhà kinh tế. Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế, quỹ dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc sẽ chỉ còn khoảng 3.000 tỷ USD vào cuối năm nay từ mức 3.300 tỷ USD hồi đầu năm, nghĩa là nước này sẽ chỉ phải chi khoảng 300 tỷ USD trong cả năm 2016 để ổn định kinh tế. Nhưng khi mà Bắc Kinh đã bơm tới quá nửa con số dự kiến cả năm đó chỉ trong vòng 1 tháng đầu năm, thì áp lực đó có lẽ là lớn hơn dự đoán rất nhiều. Tình trạng này cũng tương tự như Nga trong giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng, khi nước này liên tục bơm tiền từ quỹ dự trữ vào thị trường để ổn định tỷ giá đồng Rup, nhưng khi nó đe dọa bào mòn quỹ dự trữ đáng kể thì Nga buộc phải tăng lãi suất lên rất cao để kiềm chế, buộc phải chấp nhận hậu quả là suy giảm tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc hiện nay cũng có thể rơi vào tình trạng tương tự. Sẽ không có chuyện nước này dùng hết 3.300 tỷ USD còn lại (đã sụt mất hơn 700 tỷ USD từ tháng 8.2015) để ổn định tỷ giá đồng nội tệ. Nếu đồng nhân dân tệ tiếp tục mất giá, sẽ đến lúc chính phủ nước này phải học theo cách của Nga là tăng lãi suất. Và điều này thì cũng đồng nghĩa với việc kinh tế Trung Quốc sẽ suy giảm nặng nề, giống như Nga. Có lẽ, cú hạ cánh cứng của Trung Quốc mà George Soros nói tới chính là kịch bản này. Nhàn Đàm (theo Bloomberg/CafeF) Nguồn: http://motthegioi.vn/ho-so-phan-tich/trung-quoc-hoang-hot-voi-loi-tien-t...
......

Bàng hoàng khi phát hiện gel lạ trong tôm Trung Quốc

Bà Dương ở thành phố cảng Quảng Châu phía nam Trung Quốc đã mua được 6 con tôm sú với giá $66 vào tháng 10 năm 2015, mua được món hời như thế khiến bà rất vui, cho đến khi bà tìm thấy gel bên trong đầu của những con tôm này. Thường thì không thể phát hiện ra chất gel như thế nếu chỉ kiểm tra bề mặt. Đây là loại gel được tiêm vào trong khoảng thời gian từ sau khi tôm vừa được đánh bắt và trước khi chuẩn bị đem ra bán, nhằm mục đích tăng thêm trọng lượng và do đó kiếm được một khoản lợi nhuận lớn hơn. Tôm sống không bị tiêm gel, bởi vì tiêm gel sẽ giết chết chúng. Theo các cuộc phỏng vấn và tin tức báo cáo, giới chức trách trong ngành thực phẩm Trung Quốc đặc biệt thờ ơ trước những sự việc xảy ra trước mắt, và thậm chí cơ quan này còn không có một sự nhất quán về khâu nào trong dây chuyền sản xuất đã thực hiện việc này. Trung Quốc là nước xuất khẩu hải sản lớn thứ ba vào Hoa Kỳ, xuất khẩu một lượng đáng kể tôm và cá tra, đại diện cho 2 trong số 10 sản phẩm thủy sản tiêu thụ nhiều nhất tại Hoa Kỳ. Theo số liệu thống kê của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, lượng tôm được nhập khẩu từ Trung Quốc vào Hoa Kỳ 10 tháng đầu năm 2015 có tổng trị giá gần 150 triệu USD. Vấn đề giả mạo tôm vẫn tồn tại dai dẳng trong hơn một thập kỷ qua, dù cho báo chí vẫn đều đặn phanh phui thêm những vụ việc mới. Lần đầu tiên tôm sú Trung Quốc bị phát hiện tiêm gel lạ là vào năm 2005, cùng năm đó chính quyền thành phố Thiên Tân đã triển khai phát động một chiến dịch trấn áp đối với tôm bị tiêm. Báo cáo đề cập đến chiến dịch này không đưa ra chi tiết về bao nhiêu nghi phạm đã bị bắt giữ, hay những quy trình bơm tiêm gel lạ vào tôm sú đã bị triệt phá hay chưa. Hiện chưa rõ có bao nhiêu con tôm bị tiêm gel đã tìm đường ra khỏi nội địa, nhưng các chuyên gia an toàn thực phẩm cho biết có lý do để lo ngại. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã ban hành một cảnh báo cho ngành nhập khẩu vào ngày 11 tháng 12 năm 2015 về “sự có mặt của những loại dược phẩm mới hay các chất phụ gia thực phẩm không an toàn được tiêm vào động vật” được phát hiện trong hải sản nhập khẩu từ Trung Quốc, trong đó có tôm sú. Một chủ cửa hàng bán tôm và tôm sú tại chợ nước Bắc Kinh ngày 19 tháng 7, 2007. (Teh Eng Koon/Getty Images) Gel bổ sung Trong một số trường hợp đã được kiểm tra (không phải luôn luôn là một nhiệm vụ dễ dàng ở Trung Quốc) gel tìm thấy trong tôm là không độc hại, ăn được. Nó thường được chiết xuất từ da và xương động vật và thành phần chủ yếu là collagen. Nhưng bởi vì các hoạt động bơm tiêm này là bất hợp pháp và không có sự giám sát của giới chuyên môn, không có gì đảm bảo liệu sắp tới gel tiêm vào tôm có còn là xuất xứ công nghiệp hay không. Wu Wenhui, một giáo sư tại Đại học Hải Dương Thượng Hải, nói trong một cuộc phỏng vấn trên báo chí Trung Quốc rằng khách hàng nên thận trọng về gel công nghiệp được tiêm ở trong tôm, vì chúng rẻ hơn so với loại gel ăn được. “Gel công nghiệp được sử dụng cho đồ nội thất, in ấn, và chứa nhiều kim loại nặng như chì và thủy ngân, gây hại cho gan và máu, và thậm chí là gây ung thư”. “Thậm chí nếu những gì đã được tiêm là gel ăn được, có thể bản thân nó không có hại, nhưng ai có thể đảm bảo rằng quá trình này là vô trùng?”, Liu Huiping, một thành viên của ủy ban điều hành Hiệp hội thủy sản Thiên Tân nói trong một cuộc phỏng vấn với tờ Tin tức Bắc Kinh. Ông Zhang, một thương gia thủy sản ở tỉnh Sơn Đông nói với truyền thông Trung Quốc, ông cho rằng loại tôm lớn như tôm he và tôm sú, trong đó phần lớn được nhập từ Đông Nam Á, là đối tượng để bơm tiêm vì kích thước của chúng. “Giá loại tôm này cao và sẽ thu được nhiều tiền hơn nếu có thể [bơm tiêm để] tăng trọng lượng của nó”. Tại sao việc bơm gel lạ vẫn tiếp tục như thế Vụ bê bối bơm tiêm gel lạ vào tôm đã được biết đến, và đã kéo dài cứ thế trong hơn một thập kỷ qua. Nhiều bài bình luận trên tờ Nhật báo Thanh niên Bắc Kinh chỉ ra rằng vụ bê bối này cho thấy sự thiếu hiệu quả của hệ thống quy chuẩn an toàn thực phẩm của Trung Quốc. Theo những bài viết, hệ thống này có quá nhiều phòng ban và bộ phận nhưng lại không có sự phân công trách nhiệm lao động rõ ràng. Sự hợp tác nghèo nàn giữa các phòng ban dễ làm nảy sinh các lỗ hổng trong các quy định. Ngay cả khi Trung Quốc tái cơ cấu lại Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm trong nước vào năm 2013, tình hình vẫn không được cải thiện. Dường như họ không muốn giải quyết triệt để vấn đề này, theo tiết lộ từ một cuộc điều tra bởi tờ Tin tức Bắc Kinh. Cui Hongtao, phó giám đốc cục công thương tại cảng biển Thiên Tân, nói với Tin tức Bắc Kinh rằng cục công thương chỉ chấp nhận điều tra những sản phẩm không qua được kiểm nghiệm của Sở nông nghiệp. Các phóng viên sau đó đã lấy tôm có chứa gel tới một số phòng ban của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, và nhận được câu trả lời rằng việc kiểm nghiệm không thể được tiến hành nếu không có một mục tiêu rõ ràng, nếu không họ “không biết bắt đầu từ đâu”. Nhưng việc kiểm tra tôm bị tiêm gel không hề phức tạp. Cui Chunming, Phó Cục trưởng Cục Giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm Thiên Tân nói với Tin tức Bắc Kinh rằng: “Cần gì phải kiểm tra, bởi vì chỉ cần nhìn là biết tôm có được tiêm gì hay không. Bất kể là tôm được bơm vào thứ gì thì đều không được phép, và bơm tiêm là hành vi bất hợp pháp”. Một số người bán tôm tại các chợ ở Trung Quốc nói với truyền thông trong nước rằng họ đã mua tôm bị tiêm gel từ những người bán sỉ. Trong một trường hợp năm 2012, một người bán tôm từng kể rằng: “Đây là loại tôm đã được bày bán trong một thời gian dài. Bắt đầu từ năm năm trước, các nhà bán sỉ đã cung cấp loại tôm như thế này”. Vụ việc này đại diện cho một bức tranh u tối trong đó lòng tham lấn át cả luân thường đạo lý, còn bộ máy quản lý nhà nước thì phản ứng kém hiệu quả hoặc tệ hơn thế nữa. Bán buôn hay bán lẻ đều nhìn thấy cơ hội kiếm lời trước mắt của họ bằng cách tiêm gel lạ vào tôm, sẵn sàng lừa đảo dù cho có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của người tiêu dùng. Ngay cả khi các nhà bán lẻ không tham gia vào tiêm chích tôm, họ vẫn biết được bản thân họ đang nhận hàng pha trộn từ các nhà bán sỉ về để bán cho người tiêu dùng. Nhưng họ vẫn nhận chúng và bán cho khách hàng. Còn nhà quản lý thực phẩm của Trung Quốc thì không thể hoặc không muốn đặt dấu chấm hết cho tất cả hành vi gây hại này. Sự chọn lựa của Mỹ Patty Lovera, trợ lý giám đốc của tổ chức Food & Water Watch, có trụ sở tại Mỹ, cho rằng khách hàng Mỹ phải cảnh giác với tôm từ Trung Quốc, “Chúng ta đều biết rằng Trung Quốc đang đau đầu với các quy định về an toàn thực phẩm, và liên tục có những câu chuyện viết về vấn đề an toàn thực phẩm”, Lovera trong một cuộc phỏng vấn điện thoại cho biết. “Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm của chúng ta có một văn phòng ở Trung Quốc, nhưng họ không thể thanh tra được gì nhiều. Vài trăm cuộc kiểm tra trong một năm thì chẳng là gì so với bao nhiêu hoạt động thực phẩm đang diễn ra ở đó”. Lovera cũng đề cập đến sự thiếu nhân lực của FDA trong việc kiểm tra thực phẩm nhập khẩu. “Họ không có nhiều thanh tra tại hải quan khi hàng nhập khẩu cập bến. Họ sẽ kiểm tra thử ít hơn 2% trong tổng số hàng cập bến, do đó đôi khi các nhà nhập khẩu sẽ nhân cơ hội… có thể thử gửi đi một thứ gì đó không ổn”. http://vietdaikynguyen.com/v3/88587-bang-hoang-khi-phat-hien-gel-la-tron...
......

Các tổ chức dân chủ và xã hội dân sự Miến Điện và Việt Nam cùng kêu gọi trả tự do cho Luật sư Nguyễn Văn Đài

Ngày 22 tháng 1 năm 2016 Trong khi Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt đầu cuộc họp Đại Hội Đảng lần thứ 12 thì nhiều nhà đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam vẫn còn bị giam cầm. Trước việc này chúng tôi khẳng định rằng chế độ độc tài độc đảng không có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam hay trên thế giới. Trong tinh thần đoàn kết trong vùng, các tổ chức dân chủ và xã hội dân sự Miến Điện và Việt Nam cùng nhau kêu gọi thả ngay lập tức Luật sư nhân quyền và blogger Nguyễn Văn Đài cùng cộng sự của ông là cô Lê Thu Hà. Luật sư Nguyễn Văn Đài là một nhà đấu tranh cho tự do dân chủ đa đảng lâu năm tại Việt Nam. Trong một bài quan điểm gửi cho BBC, ông viết rằng “việc xây dựng chế độ dân chủ đa đảng ở Việt Nam là cần thiết, là xu thế tất yếu của quá trình phát triển xã hội và cải cách dân chủ. Đa đảng sẽ tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực, chống lại độc tài độc đoán.” Ls Nguyễn Văn Đài thành lập Trung Tâm Nhân Quyền Việt Nam để thúc đẩy xây dựng xã hội dân sự với những chương trình nhằm mở rộng mạng lưới pháp lý và xây lực cho giới hoạt động bảo vệ nhân quyền. Vào tháng Năm 2013, Ls Đài sáng lập Hội Anh Em Dân Chủ, bao gồm nhiều cựu tù nhân lương tâm và nhà hoạt động để phối hợp các nỗ lực đấu tranh ôn hòa khắp nơi tại Việt Nam. Ls Nguyễn Văn Đài và cô Lê Thu Hà bị bắt vào ngày 16 tháng 12 năm 2015 về tội cáo buộc “tuyên truyền chống phá nhà nước” và hiện đang bị biệt giam tại nhà giam B14 ở Hà Nội. Cả hai đều bị tước quyền gặp luật sư và người thân. Trước khi bị bắt, Ls Đài bị theo dõi thường xuyên và nhiều lần bị hành hung tàn bạo. Trước đó Ls Đài từng bị bắt giữ vào năm 2007, bị cáo buộc  với cùng tội danh và bị án tù bốn năm. Hoạt động của Luật sư Nguyễn Văn Đài được sự đồng tình của nhiều người Việt và Miến Điện, khi tin rằng các quyền căn bản như tự do ngôn luận và lập hội phải được chính quyền của họ tôn trọng. Chúng tôi, những tổ chức ký tên dưới đây, kêu gọi cộng đồng quốc tế, kể cả ASEAN, yêu cầu thả ngay lập tức và vô điều kiện Luật sư Nguyễn Văn Đài, cô Lê Thu Hà và tất cả các tù nhân chính trị. Khi đã tham gia ký kết Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân  Quyền và ICCPR, Hà Nội phải tôn trọng các quyền căn bản của người dân Việt Nam. Đồng ký tên Từ Miến Điện Action Committee for Democracy Development (Ủy Ban Hành Động Xây Dựng Dân Chủ) Equality Myanmar (Miến Điện Bình Đẳng) Generation Wave (Thế Hệ Cơn Sóng) Human Rights Defenders Forum (Diễn Đàn của Giới Bảo Vệ Nhân Quyền) Human Rights Defenders and Promoters (Giới Bảo Vệ và Cổ Xúy Nhân Quyền) Human Rights Defenders Myingyan (Giới Bảo Vệ Nhân Quyền Myingyan) Human Rights Educators Network (does not have logo) (Mạng Lưới Giáo Dục Nhân Quyền) Yangon Youth Network (Mạng Lưới Tuổi Trẻ Yangon) Từ Việt Nam: Bạch Đằng Giang Foundation Con Đường Việt Nam Dân Trí Việt Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự Đảng Việt Tân Hoàng Sa FC Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam Hội Anh Em Dân Chủ Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo Hội Bầu Bí Tương Thân Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam Lao Động Việt No-U Sài Gòn Sài Gòn Báo Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
......

Xã hội Âu Châu đã thay đổi

Một số bài báo trên những tờ báo lớn của thế giới như BBC, CNN, VOA… đều nhận định rằng vụ tấn công quấy rối tình dục cộng với cướp bóc xảy ra tại Cologne và một vài thành phố khác của Đức ngay đúng vào thời điểm New Year’s Eve vừa qua đã ảnh hưởng sâu sắc đến nước Đức, và có lẽ, cả châu Âu nữa. Ngay sau vụ tấn công khủng bố liên hoàn tại Paris vào ngày Thứ Sáu định mệnh 13.11.2015, trong đó, theo báo chí, 2 hoặc 3 trong số những kẻ khủng bố là vừa mới đi từ Hy Lạp tới châu Âu với tư cách là người tị nạn Syria; vụ tấn công tình dục với mức độ chưa từng thấy này: hơn 1000 thanh niên có bề ngoài Bắc Phi và Trung Đông, trong số đó có những người vừa mới xin tỵ nạn, với khoảng hơn 500 trường hợp bị tấn công được ghi nhận. Dù không phải tất cả những kẻ tình nghi đều là những người mới đến Đức, nhưng đây thực sự là một cái tát cho bà Angela Merkel và cho tất cả những người dân Đức vừa mới hổ hởi tiếp đón những người tỵ nạn. Dưới sức ép của dư luận, chính phủ của bà Angela Merkel chắc chắn phải xem xét lại chính sách mở cửa hào phóng cho người tỵ nạn như thời gian qua. Và châu Âu cũng vậy. Các nước sẽ buộc phải thay đổi chính sách. Nhưng điều đáng nói hơn, các xã hội văn minh, dân chủ, nhân ái ở phương Tây đã thay đổi sâu sắc. Sự bất an, nghi kỵ, chia rẽ, cả sự phân biệt chủng tộc ẩn sâu bên trong, đã xuất hiện, đã “thức dậy”. Và đó là cái hại lớn nhất, sự mất mát lớn nhất. Để cho một xã hội trở nên tử tế hơn, văn minh hơn thì phải mất hàng trăm năm, nhưng để cho nó tệ hại đi thì chỉ cần vài sự kiện như thế này thôi. Dù người châu Âu có nói rằng không gì có thể hủy hoại được những giá trị lâu đời, sự tử tế, nhân ái của mình nhưng sâu thẳm bên trong, những vết nứt đã xuất hiện. Như ở Na Uy này cũng vậy, trước đây xã hội Na Uy hết sức bình yên. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX cho tới nay, Na Uy đã trở thành một quốc gia đa chủng tộc, đa văn hóa. Bên cạnh những điểm tích cực, những hệ luy do dân nhập cư đến từ những quốc gia nghèo đói, lạc hậu cũng nảy sinh. Trước đây nhiều thứ trong xã hội được vận hành chủ yếu dựa trên sự tự giác, tự nguyện, tin cậy ở con người. Ví dụ, nếu như ở Paris, London, Berlin, Barcelona…trạm metro có cửa ngăn lại, người đi qua phải có vé thì cửa mới mở ra, nếu muốn trốn vé cũng khó, nhưng ở Oslo thì hoàn toàn không có cửa, người đi tự giác quẹt thẻ và đi qua. Bây giờ thì hiện tượng đi lậu vé hơi nhiều, người ta phải tăng số lượng người kiểm soát vé lên để bất ngờ soát vé trên xe hoặc ngay cửa ra vào. Hiện tượng ăn cắp, móc túi trước kia rất hiếm, bây giờ đi xe bus, xe điện thỉnh thoảng lại nghe một giọng đọc sẵn phát ra từ hệ thống âm thanh trên xe, nhắc nhở mọi người coi chừng móc túi! Ngay ở trường đại học cũng thế. Trường đại học Oslo không có tường bao quanh cũng không có cổng ra vào như nhiều thành phố lớn ở các nước khác, buộc sinh viên phải quẹt thẻ, trình thẻ mới vào được, sinh viên và cả người ngoài ở đây cứ vào ra thoải mái, trước đây thì chả có chuyện gì, bây giờ thì ngay trong trường chỗ này chỗ kia thấy dán giấy nhắc nhở coi chừng móc túi! Thế là bớt văn minh đi, là đáng xấu hổ chứ còn gì nữa. Các quốc gia Bắc Âu vốn được xem là yên bình hết mức, nay cũng lác đác xảy ra những vụ khủng bố nhỏ lẻ, và nguy cơ khủng bố với mức độ lớn hơn cũng sẽ không loại trừ, trong tương lai. Trong năm vừa qua, ngoài Đức, Thụy Điển là nước có lượng người tỵ nạn từ Syria và các nước Hồi giáo đang có chiến tranh đông thứ nhì, thứ ba trong khối Liên Hiệp Châu Âu-khoảng hơn 100,000 người, Đan Mạch và Na Uy ít hơn. Đan Mạch có chính sách cứng rắn hơn, tiếp nhận khoảng 18,000 người, Na Uy có khoảng 31, 000 người nộp hồ sơ xin tỵ nạn, trong đó có một lượng không nhỏ đi từ biên giới Nga qua bằng xe đạp! Thật sự là một bài toán nan giải cho các chính khách, nhà lãnh đạo ở các nước châu Âu giữa vấn đề nhận hay không nhận người tỵ nạn từ những quốc gia Hồi giáo đang có chiến tranh. Khoan hãy nói đến những người Hồi giáo cực đoan hoặc sự lo ngại các chiến binh của những nhóm Hồi giáo cực đoan như IS có thể trà trộn trong dòng người xin tỵ nạn, đổ vào các nước châu Âu. Bản thân người viết cũng là một người tỵ nạn chính trị, là di dân đang sống ở nước người ta nhưng sau thời gian dài quan sát giữa người tỵ nạn, di dân thuộc các quốc gia Hồi giáo Trung Đông, Nam Á và Bắc Phi với người tỵ nạn, di dân đến từ các nước Đông Nam Á, Đông Á, và các khu vực khác, người viết có nhận xét rằng tâm thế và cách ứng xử của người Hồi giáo nói chung khi sống trên nước người rất khác với tâm thế và cách ứng xử của người Việt chẳng hạn, và dân Đông Á nói chung. Người Hồi giáo Trung Đông rất tự hào về lịch sử, văn hóa lâu đời và về tôn giáo của họ. Khi nhìn Mỹ và các nước phương Tây, cái nhìn của họ là “nhìn xuống”, họ cho lịch sử, văn hóa của Mỹ và phương Tây không bằng, còn về tôn giáo thì Hồi giáo mới là tôn giáo xa xưa nguyên thủy nhất, do đó “tinh túy” nhất. Họ nghĩ Hoa Kỳ và các nước phương Tây đã gây ra chiến tranh cho đất nước họ, khu vực của họ thì phải có trách nhiệm giúp đỡ họ, chứ họ không việc gì phải mang ơn các quốc gia phương Tây cả. Trái ngược hẳn với suy nghĩ của người Việt, khi nhìn Hoa Kỳ và các nước phương Tây thường “nhìn lên”, ngưỡng mộ, cho nước người ta, dân người ta cái gì cũng hơn nước mình, dân mình, và luôn có cái cảm giác mình là người ở nhờ xứ người ta, phải mang ơn nước người ta, nhất là ở những người vượt biên được nước khác cứu vớt trên con đường vượt biển năm phần sống năm phần chết, cảm giác mang ơn đó càng rõ. Từ mang ơn, dẫn tới thái độ cái gì của nước người ta cũng tốt đẹp, cũng ngợi khen. Cho đến các thế hệ ra đi sau này, bằng những con đường khác, cũng vẫn cứ có cái tâm trạng ngưỡng mộ nước người. Người Việt sống ở đâu thì khen nước đó, sống ở Mỹ thì cái gì của Mỹ cũng nhất, sống ở châu Âu như Pháp, Anh, Đức… thì khen, yêu, mê Pháp, Anh, Đức…, chê Mỹ. Người Việt sống ở Na Uy hay Bắc Âu cũng thế, cái gì cũng Na Uy là nhất! Ai chê nước Việt mình thì được, nhưng động tới Na Uy là nhảy nhổm lên giận, bênh vực đến cùng, thật là một tâm trạng lạ lùng! Người Việt và các dân Đông Nam Á, Đông Á sống ở nước ngoài thường ít quan tâm đến đời sống chính trị xã hội của nước người ta, chỉ lo làm ăn, kiếm tiền, lo cho con cái học hành, có tiền thì thường gửi về VN làm từ thiện, về VN tiêu xài cho nó rẻ chứ cũng ít khi nghĩ tới chuyện đóng góp vào những hoạt động xã hội ở nước người. Ngay cả chuyện đi bầu là quyền lợi của mình mà nhiều người Việt còn ngại. Ngược lại, những người Hồi giáo mà tôi có dịp tiếp xúc, quan sát đều quan tâm đến đời sống chính trị, các luật lệ của xứ sở tại và hăng hái tham gia vào môi trường chính trị của nước người ta. Ở Na Uy này, ít nhất là có vài người Hồi giáo từ Nam Á, Trung Đông trong thành phần chính phủ của Na Uy, còn nếu mở TV của đài NRK là đài quốc gia Na Uy thì những khuôn mặt từ các nước Nam Á, Trung Đông trong vai trò phóng viên, phát thanh viên, biên tập viên, giải trí…khá nhiều, trong khi rất hiếm hoi một khuôn mặt gốc Việt. Khi hăng hái tham gia vào lĩnh vực chính trị hoặc truyền thông, người Hồi giáo tất sẽ tìm cách nói lên tiếng nói của cộng đồng họ, có những yêu cầu về quyền lợi cho cộng đồng họ, thậm chí tác động vào chính sách của chính phủ nước sở tại. Trong đời sống, người tỵ nạn, di dân gốc Việt rất ngại động chạm đến người bản xứ, nhưng người Hồi giáo thì không. Người viết đã từng chứng kiến dân tỵ nạn, di dân Hồi giáo to tiếng tranh cãi với người Na Uy ở sở cảnh sát, sở an sinh xã hội hay nhà hàng, ngoài đường phố, sẵn sàng làm lớn chuyện lên ngay nếu họ cho rằng người Na Uy hoặc dân tộc khác có ý đụng chạm đến quyền lợi, tôn giáo, sự khác biệt trong văn hóa…của họ, dù nhiều khi chưa hẳn đã thế. Mỗi dân tộc mỗi khác. Dù sao đi nữa, một quốc gia đa chủng tộc, đa tôn giáo cũng có những điểm tích cực, những lợi thế ví dụ như văn hóa, đời sống của quốc gia đó sẽ phong phú đa sắc màu hơn, con người sống trong một xã hội đa chủng tộc đa tôn giáo sẽ có cái nhìn cởi mở hơn, biết chấp nhận những cái khác mình hơn. Nhưng bên cạnh đó, những khó khăn, bất ổn, tình trạng tội phạm, sự chia rẽ cũng sẽ tăng lên, đặc biệt là trong thời đại hiện nay khi nguy cơ khủng bố từ những cá nhân, tổ chức Hồi giáo cực đoan đang ngày cảng trở thành mối đe dọa toàn cầu. Và như đã nói, điều đáng lo nhất, là những bất ổn đó đã hủy hoại xã hội châu Âu-hủy hoại những giá trị lâu đời về tự do, dân chủ, bác ái. Với mỗi cá nhân thì nó hủy hoại lòng tử tế, sự tin cậy, bao dung không phân biệt đối xử, giữa con người với nhau. Những sự kiện như vụ tấn công khủng bố liên hoàn ở Paris hay vụ tấn công tình dục ở Cologne là những minh chứng. Nói gì thì nói, đời sống ở một số quốc gia châu Âu nói riêng và phương Tây nói chung bây giờ không còn như trước nữa, một cái gì đó đã thay đổi. Như nước Mỹ đã thay đổi sau ngày 11.9.2001. Và đó có lẽ chính là điều mà những phần tử Hồi giáo cực đoan mong muốn-phá hủy xã hội và người dân Hoa Kỳ và phương Tây từ bên trong, chứ không chỉ là những đổ nát, chết chóc bên ngoài. Song Nhi
......

Tổng thống phụ nữ đầu tiên của Đài Loan

ĐÀI LOAN – Hôm 16 tháng Giêng, 2016, nữ ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Dân chủ Tiến bộ DPP, bà Thái Anh Văn đã giành một chiến thắng vang dội. Điều bất ngờ tiếp theo là lần đầu tiên, đảng DPP của bà cũng chiếm đa số ghế trong viện Lập pháp, nơi do Quốc Dân Đảng nắm quyền kiểm soát từ năm 1949. Nữ Chủ tịch của Đảng Dân chủ Tiến bộ DPP sẽ trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Đài Loan sau khi thu về hơn 6.890.000 phiếu, xấp xỉ 56% số phiếu bầu. Đối thủ của bà, ứng cử viên Chu Lập Luân của đảng đương quyền chỉ dành được 3,8 triệu phiếu, khoảng 30% số phiếu bầu. Bà Thái Anh Văn vốn chủ trương Đài Loan phải độc lập khỏi Trung Quốc. Các đảng phái đối lập với bà và DPP nói rằng quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc sẽ xấu đi bởi bà Thái Anh Văn không chấp nhận chính sách “một Trung Hoa”. Ngay trong tuyên bố đầu tiên với báo chí sau khi thắng cử, bà Thái Anh Văn đã cảnh báo Bắc Kinh rằng mọi hành vi gây hấn từ Bắc Kinh sẽ làm tổn hại đến quan hệ hai nước. Bà cũng phát biểu thêm: “Thông điệp của chúng tôi đối với cộng đồng quốc tế là các giá trị dân chủ đã được ăn sâu ở Đài Loan.”, “Người dân Đài Loan đã sử dụng lá phiếu của mình để viết lịch sử ngày hôm nay.” Người ủng hộ vui mừng khi bà Thái Anh Văn thắng cử. Ảnh: Reuters Bà Thái Anh Văn, 59 tuổi, là con gái nhỏ nhất trong một gia đình 9 người con. Bà tốt nghiệp cử nhân luật tại đại học Quốc gia Đài Loan, thạc sỹ luật tại đại học nổi tiếng Cornell, Hoa Kỳ và tiến sỹ tại Đại học Kinh tế Luân Đôn. Trở về nước năm 1984, bà là giáo sư đại học và sau đó làm việc cho chính phủ, trở thành cố vấn an ninh cho tổng thống Lý Đăng Huy thuộc Quốc Dân Đảng. Năm 2008 bà trở thành chủ tịch Dân Tiến Đảng. Bà là tổng thống thứ 2 của Đài Loan thuộc Dân Tiến Đảng. Người đầu tiên là tổng thống Trần Thủy Biển đã thắng cử nhờ vào chủ trương độc lập của ông và là tổng thống Đài Loan từ năm 2000 - 2008.
......

Tài sản phi pháp: Không còn có thể hạ cánh an toàn

Từ 5 năm nay, vấn đề điều tra, truy lùng và thu hồi tài sản phi pháp (TSPP) thụ đắc qua các hành động tham nhũng, biển thủ công qũy, chiếm đoạt tài sản của người khác từ các thành phần lãnh đạo độc tài trở thành khả thi, không còn quá khó khăn và đang diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới, từ Liên Âu (Pháp, Ý, Thụy Sĩ..), Hoa Kỳ, Bắc Phi (Tunisia, Libya, Ai Cập, Guinea Equatorial, Nigeria,...), cho đến các quốc gia Nam Mỹ. Những vấn đề khó khăn nan giải về mặt khuôn khổ pháp lý quốc tế và quốc gia, về mặt khả năng điều tra và sự hiện hữu các cơ quan chuyên môn trách nhiệm truy lùng, về mặt đứng đơn kiện với sự can đảm và kiên trì các NGO và nạn nhân nhằm đòi lại công lý, về mặt dư luận với sự đồng tình và hậu thuẫn tích cực của quần chúng, báo giới và chính giới quốc tế, đã và đang lần lượt được giải quyết. Những trường hợp thu hồi TSPP trên thế giới Vào năm 1998, số tiền gần 500 triệu Mỹ Kim (MK) đã được các ngân hàng liên bang Thụy Sĩ chấp nhận tháo khoán từ các trương mục bị niêm phong của gia đình Marcos và trả lại cho chính phủ Phi Luật Tân. Sau khi chế độ độc tài Marcos bị lật đổ vào năm 1986, phải đợi đến hơn 10 năm sau một phần số tiền phi pháp thuộc số tài sản khổng lồ lên đến hàng chục tỷ MK của gia đình Marcos, mới được thu hồi lại được và trả về cho quốc gia Phi Luật Tân. Từ đó cho đến nay, nhu cầu thu hồi tài sản phi pháp trở nên chính đáng, công khai và khả năng thu hồi một số tài sản đáng kể ngày càng cao và nhanh chóng hơn, qua các trường hợp các nhà độc tài Jean Claude Duvalier (Haiti, bị lật đổ năm 1986, với số TSPP lên hàng tỷ MK); Mobutu (Zaire, bị lật đổ năm 1997, với số tải sản từ 5-7 tỷ MK); Sani Abacha (Nigéria, chết năm 1998, thủ tục thu hồi TSPP chỉ mới được tung ra năm 2012); và gần nhất Kadhafi (Libya, 2011, bị chết, tài sản phi pháp từ 20-50 tỷ MK); Ben Ali (Tunisia, 2011, 5 tỷ MK); Moubarak (Ai Cập 2011, từ 2-5 Tỷ MK). Hiện đang diễn ra hơn 30 vụ kiện đòi lại TSPP tại Bắc Phi, Trung Phi, Trung Đông. Dư luận thế giới ngày càng nhận thấy là việc hỗ trợ cụ thể cho các dân chúng bị thống trị đòi công lý, điển hình qua việc truy lùng, niêm phong, thu hồi các tài sản phi pháp là điều phù hợp với công lý và cần tiến hành. Một trường hợp thu hồi TSPP đặc biệt đã xảy ra tại Pháp, khiến cho dư luận đặc biệt quan tâm về mức hữu hiệu và nhanh chóng của việc điều tra, niêm phong và tịch thu các tài sản phi pháp. Đó là trường hợp Teodora Nguema Obiang, con trai của vị tổng thống độc tài Guinée Eqautoriale với chức vụ Đệ Nhị Phó Tổng Thống. Obiang đã dùng tiền phi pháp để mua nhiều chiếc xe hạng sang như Maserati, Bentley, Rolls-Royce trị giá cả triệu euros, dinh thự cao 6 tầng, trị giá hơn 150 triệu euros, tại đại lộ Foch gần Khải Hoàn Môn. Các phần TSPP này bị tịch thu từ 19/7/2012, sau 5 năm khởi tố. Obiang cũng bị truy tố tại Hoa Kỳ về tội tham nhũng qua việc chi tiêu hơn 300 triệu MK từ 2000 đến 2011. Đây là lần đầu tiên một thành phần thuộc gia đình một lãnh đạo độc tài còn tại chức mà tài sản phi pháp đầu tư tại Pháp, Hoa Kỳ bị niêm phong, tịch thu và bị truy lùng. Teodora Nguema Obiang, con trai của vị tổng thống độc tài Guinée Eqautoriale Khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc thu hồi TSPP Tại các quốc gia tiền tiến, bắt đầu từ đầu năm 2009, một số cơ quan rất chuyên biệt (special agency) với quyền hạn điều tra, tịch thu TSPP, được nới rộng bởi một số đạo luật đặc biệt đã được hình thành tại Anh, Pháp, Úc, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Liên Âu. Điển hình tại Anh (SOCA Serious Organised Crime Agency), Pháp (AGRASC AGence de Recou-vrement des Avoirs Saisis ou Confisqués). Riêng trong 2 năm 2009/2010, SOCA đã niêm phong một tổng số tài sản phi pháp lên hơn 300 triệu Anh Kim. Theo cơ quan SOCA, điều quan trọng là khả năng ngăn cấm không cho các thành phần tội ác xử dụng được số tiền phi pháp, dù số tiền này được lưu trữ ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Đạo luật số 2010-78 ngày 9/7/2010 tại Pháp cho phép cơ quan AGRASC tịch thu tài sản phi pháp, nới rộng những loại tài sản có thể bị niêm phong và tịch thu. Một số điều chỉnh luật lệ về hình sự đã được Quốc Hội Pháp phê chuẩn, để có thể tiến hành việc tịch thu và bán đấu giá tài sản phi pháp theo quyết định của một số quan toà đặc biệt, ngay cả trước khi có phiên toà xử. Dư luận và giới tư pháp đã chấp thuận nguyên tắc: các thành phần tội ác cần phải chứng minh được là đã thụ đắc các tài sản với lợi tức hợp pháp của họ thì mới thu hồi được những tài sản khổng lồ bị niêm phong. Đây là một biện pháp đặc biệt rất hữu hiệu dựa trên kinh nghiệm chính quyền Ý đã tiến hành từ thập niên 80 nhằm phá vỡ vòng đai trên cùng cao nhất của tập đoàn Mafia Ý. Trên bình diện Liên Hiệp Quốc, công ước về Chống Tham Nhũng và Rửa Tiền Merida được thông qua bởi Quyết Nghị 58/4 của Đại Hội Đồng LHQ vào ngày 31/10/2003, và có hiệu lực từ 14/12/2005 (Việt Nam đã phê chuẩn Công Ước này ngày 10/8/2009), cơ quan FATF (Financial Action Task Force) đã được thành lập từ năm 1989, để làm khung sườn cho các biện pháp chống rửa tiền, chuyển ngân phi pháp. Trên bình diện Liên Âu, chỉ thị (directive) 2015/849/EC được ban hành ngày 20/5/2015 nhằm chống rửa tiền có hệ thống. Đặc biệt với điểu khoản 30, bắt buộc phải công bố chi tiết về người thừa hưởng (beneficial ownership information), về tên tuổi, địa chỉ, tư cách các thành phần lãnh đạo các công ty này khi chuyển ngân vào Liên Âu, những dữ kiện này được lưu trữ trong một hồ sơ mà công chúng được quyền tham khảo. Ngoài ra Liên Âu còn bắt buộc các ngân hàng phải làm thủ tục tự động thông báo (Automatic Exchange of Financial Account Information) mỗi khi có một vụ chuyển ngân quan trọng (đến từ các thiên đường thuế khoá), chứ không cần đợi tới các thủ tục điều tra về pháp lý. Tại Hoa Kỳ, các dữ kiện về tiền chuyển ngân phi pháp được tập trung về cơ quan FinCEN (Financial Crime Enforcement Networks). 27 năm sau khi tướng độc tài Nigeria Sani Abacha mất, Hoa Kỳ mới đây đã tịch thu và giao trả lại cho chính quyền Nigeria số tiền gần 500 triệu MK thu hồi từ các TSPP của Sani Abacha, dù phần TSPP này đã được chuyển sở hữu qua hàng con cháu đang sống tại Hoa Kỳ. Thu hồi TSPP tại Pháp, Liên Âu Tại Pháp, cơ quan chuyên môn AGRASC, trực thuộc Bộ Tư Pháp và Ngân Sách, đã niêm phong hơn 800 triệu Euros từ 2 năm qua với hơn 16771 tài sản bị niêm phong tịch thu, trong đó có hơn 1660 dinh thự, 6100 trương mục ngân hàng và hơn 3100 chiếc xe hơi loại đắt tiền; một phần số tài sản này được đem ra bán đấu giá để xung vào công qũy Pháp. Số tài sản phi pháp bị niêm phong tăng vọt từ năm này sang năm khác. Riêng trong năm 2015, Bộ Tài Chánh Pháp cho biết AGRASC đã tịch thu hơn 480 triệu € TSPP và đã xung vào công qũy Pháp hơn 20 triệu € tiền lợi đến từ việc bán các TSPP thu hồi từ các hoạt động phạm pháp rửa tiền. Theo một giới chức trách nhiệm, các hoạt động bán á phiện chỉ còn ở mức 15% tổng số TSPP bị tịch thu, phần lớn số còn lại đến từ các hoạt động rửa tiền. Tại Liên Âu trong năm 2014, tổng số TSPP bị tịch thu tại Ý, Đức, Anh, Pháp, Tây Ban Nha đã lên đến 2,6 tỷ Euros với 40.000 TSPP gồm du thuyền, biệt thư, xe hơi, trương mục,... . Con số này sẽ còn tăng vọt qua việc áp dụng khuyến cáo hợp tác pháp lý của chỉ thị 2015/349 của Liên Âu. Cơ quan AGRASC của Pháp đã tịch thu hơn 480 triệu € TSPP trong năm 2015. Vấn đề TSPP tại Việt Nam Chắc chắn đa số các thành phần lãnh đạo CSVN đều đã thụ đắc một cách phi pháp những số tiền khổng lồ lên đến hàng trăm triệu, hàng tỷ MK đến từ việc bòn rút công qũy quốc gia, tham nhũng có hệ thống, qua việc lợi dụng chức vụ, quyền thế, và nắm giữ mọi guồng máy kinh tế, công ty quốc doanh, ngân hàng tín dụng, dự án đầu tư. Lãnh đạo CSVN mà đứng đầu là Nguyễn Tấn Dũng, qua trung gian thân tín đã chuyển rất nhiều tiền, có thể lên đến hàng tỷ MK ra nước ngoài, tại các quốc gia tiền tiến Tây-Phương. Danh sách 140 nhân sự, công ty Việt Nam được công bố bởi Offshoreleaks chỉ phản ảnh một phần sự kiện này. Số tiền được chuyển vào thành vốn hùn hạp, trả hóa đơn tại các công ty bình phong tại Tân Gia Ba, BVI, Thụy Sĩ, hay tại các thiên đường thuế khóa. Và từ các công ty bình phong này chuyển vào các ngân hàng tại các quốc gia tiền tiến, để trở thành phần vốn các công ty do gia đình, con cháu, thuộc thân hạ thân tín đứng tên, và dùng để mua phần vốn các công ty (chợ, địa ốc) hay tậu bất động sản. Số tiền này là TSPP chiếm đoạt qua việc lấy của cải, ruộng vườn, nhà cửa của người khác, nhất là dân oan, biển thủ công qũy các công ty quốc doanh do chính tay chân thân tín, người trong gia đình làm Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, ăn chặn các dự án dầu tư. Tạm Kết Những TSPP các lãnh đạo CSVN đã chuyển ra ngoại quốc chắc chắn sẽ bị truy lùng, tịch thu để đòi lại công lý, công bằng cho hàng triệu người dân Việt Nam đã bị tước đoạt một cách trắng trợn, hàng trăm ngàn gia đình lâm cảnh khốn cùng, tan nát trong hàng chục năm qua, cũng như cho quốc gia Việt Nam. Nhờ vào những điều thuận lợi sau: Khuôn khổ pháp lý quốc tế và quốc gia về chống tham nhũng đã giải toả được các khó khăn về mặt điều tra, truy lùng các TSPP được tẩu tán qua rất nhiều bình phong và trung gian trên khắp thế giới. Sự tham gia tích cực và hữu hiệu của các tổ chức xã hội dân sự Quốc Tế, ICIJ, offshoreleaks, Transparency, ... Việc truy lùng TSPP không bị giới hạn bởi các thời hạn miễn tố hay hồi tố. Việc truy lùng TSPP không bị giới hạn bởi tình hình người chủ nhân TSPP, dù đang lẩn trốn, đã qua đời, hay TSPP đã được chuyển nhượng qua hàng con cháu. Việc truy lùng TSPP vẫn tiến hành được dù không có đơn kiện về mặt hình sự. Với các điều kiện thuận lợi nêu trên, chắc chắn lãnh đạo CSVN và gia đình họ sẽ không còn có thể nào hạ cánh an toàn. Một phần quan trọng của số TSPP sẽ bị thu hồi, để đền bù các nạn nhân và đóng góp vào phần canh tân đất nước./. http://viettan.org/Tai-san-phi-phap-Khong-con-co-the.html
......

Đức Hồng Y Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Đức Reinhard Marx thăm Việt Nam

Đức Hồng Y  Reinhard Marx, Tổng Giám Mục Munich, Chủ tịch HĐGM Đức đang viếng thăm Việt Nam từ ngày 8 đến ngày 17 tháng 1 năm 2016. Thông cáo của HĐGM Đức công bố ngày 29-12-2015 cho biết, trong cuộc viếng thăm Việt Nam lần này ĐHY Marx muốn tìm hiểu về một Giáo hội đang lớn mạnh trong một tình trạng khó khăn. ĐHY sẽ dừng lại tại thủ đô Hà Nội, giáo phận Vinh ở miền Trung, và Thành phố Sài Gòn, thủ đô kinh tế của Việt Nam. Trong 10 ngày viếng thăm, ĐHY Marx sẽ gặp gỡ ĐHY Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM giáo phận Sài Gòn, và Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp của giáo phận Vinh, cũng là Chủ tịch Ủy ban GM Việt Nam về Công lý và Hòa bình. Ngoài ra, ĐHY cũng có cuộc gặp gỡ và trao đổi tại Đại sứ quán Đức. ĐHY Reinhard Marx năm nay 62 tuổi, nguyên là GM Trier, giáo phận cổ kính nhất của Đức, ĐHY được coi là người được ĐTC Phanxicô đặc biệt tín nhiệm. Ngài là thành viên Hội đồng 9 Hồng Y cố vấn của ĐTC về việc cải tổ giáo triều Roma và cũng là Chủ tịch Hội đồng kinh tế của Tòa thánh, gồm 8 HY và 7 giáo dân, có nhiệm vụ giám sát các hoạt động kinh tế và tài chánh của Tòa Thánh. Ngoài ra, ĐHY cũng là chủ tịch Ủy ban GM Liên hiệu Âu Châu gọi tắt là Comece. Được biết trong hai khóa họp hồi trung tuần tháng 4 và tháng 9 năm 2015, HĐGM Việt Nam đã bàn tới việc mời và chuẩn bị đón ĐHY Marx đến viếng thăm.
......

Máy bay Trung cộng lại bay tới đá Chữ Thập

Chỉ 4 ngày sau lần thử đầu tiên, hôm 6.1.2016, Trung cộng tiến hành 2 chuyến bay thử tại đường băng xây dựng trái phép trên đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đường băng trên đá Chữ Thập dài 3.000 m. Đây là một trong 3 đường băng Trung cộng xây dựng phi pháp trên các đá và rạn san hô chiếm đóng của Việt Nam. Hôm 2/1 là lần đầu tiên Trung cộng cho máy bay đáp xuống đường băng này. Đường băng đủ dài để các loại máy bay ném bom chiến lược tầm xa hay phi cơ vận tải hạng nặng và chiến đấu cơ tối tân của Trung cộng hạ cánh. Khi được đưa vào hoạt động, các đường băng này sẽ giúp Trung cộng gia tăng ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á cũng như kiểm soát Biển Đông, nơi có tuyến hàng hải huyết mạch bậc nhất thế giới. Trong tuyên bố chính thức, Tân Hoa xã xác nhận việc này nhưng không đề cập tới các mục đích của chuyến bay. Các máy bay cất cánh từ sân bay ở Hải Khẩu, đảo Hải Nam, cách đá Chữ Thập khoảng 1.000 km, rồi quay trở về. Thời gian mỗi lượt bay là 2 giờ. Trước đó, hôm 2 tháng 1, các nước Mỹ, Nhật và Philippines đã lên tiếng quan ngại cũng như phản đối hành động của Trung cộng và cho rằng động thái này có thể làm trầm trọng hơn căng thẳng trong khu vực. Hôm 7 tháng 1, như bao nhiêu lần trước, người phát ngôn Bộ Ngoại giao CS Việt Nam Lê Hải Bình lại tuyên bố lấy lệ, một lần nữa phản đối hành động nêu trên của Trung quốc, cũng như khẳng định sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế. Trước những phản ứng nêu trên, Trung cộng vẫn tuyên bố các chuyến bay là vì mục đích dân dụng, trong khi các chuyên gia khẳng định chuyến bay quân sự sẽ là bước tiếp theo. Giới quan sát cũng lo ngại Trung cộng sẽ sớm xây dựng các cơ sở quân sự cho việc xây dựng Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) mới.
......

Nhân Tai & Thiên Tai

(VNC) Thế giới chiến tranh thứ 2 chấm dứt năm 1945 mở màn cho cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên xô. Bảy mươi năm qua tình hình thế giới có lúc căng thẳng tưởng chừng như Thế giới chiến tranh thứ 3 có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Nhưng nhờ bom nguyên tử, không ai muốn đánh ai trước để cùng tự sát nên đã tránh được chiến tranh. Bước qua thế kỷ 21, Trung quốc nhập cuộc siêu cường và thế giới chứng kiến sự kèn cựa tranh giành thế lực giữa Hoa Kỳ và Trung quốc có lúc cũng rất căng thẳng, nhưng điều kiện cho một cuộc chiến tranh toàn cầu càng lúc càng xa. Người ta hy vọng thế giới đã vượt qua được nạn đại chiến ít nhất là một thời gian dài trước mắt. Có nhiều triển vọng là vậy. Nhưng hiện nay thế giới đang phải đối đầu với hai đại nạn một Thiên Tai, một Nhân Tai có tầm vóc toàn cầu mà nếu không có biện pháp phòng chống sức công phá của chúng có thể còn lớn hơn một trận Thế giới Đại chiến. Trước hết là Nhân Tai, hay là nạn khủng bố của thành phần Hồi giáo quá khích –ISIS – (trong bài viết nay cụm chữ ISIS được hiểu là thành phần Hồi giáo quá khích dùng phương tiện khủng bố làm vũ khí chính). ISIS là sản phẩm của cuộc chiến Iraq (xem tài liệu số 63. Mục “Không chính trị”, www.tranbinhnam.com,  link: http://www.tranbinhnam.com/story/HoiGiao_DoiDau_TayPhuong.html. Lúc đầu giới hạn tại Syria và Iraq, ISIS đã tổ chức các cuộc khủng bố ra cùng khắp thế giới và đang trở thành một mối đe dọa toàn cầu. Đầu năm 2015, ngày 9 tháng 1, ISIS tấn công tòa soạn tờ báo trào phúng Pháp Charlie Hebdo giết 12 nhà báo để trả thù đã vẽ hình châm biếm giáo chủ đạo Hồi. Tiếp theo ISIS đã đánh bom một máy bay hàng không dân sự của Nga cất cánh từ thành phố du lịch Sharm Al Sheikh trong bán đảo Sinai. Và cao điểm là hai vụ đánh liên tiếp, một tại Paris ngày 13/11/2015 giết 130 thường dân, và vụ hai vợ chồng theo đạo Hồi, chồng sinh tại Mỹ, bảo lãnh vợ từ Pakistan, âm mưu tàng trữ vũ khí, giả vờ sống hiền lành tại Mỹ để tấn công giết 14 người đang tham dự tiệc mừng Giáng sinh tại quận San Bernardino, California hôm 2/12/2015. Cuộc khủng bố tại California là cuộc khủng bố lớn nhất kể từ cuộc đại khủng bố 911 (11/9/2001) đã đưa cuộc chiến chống khủng bố ISIS lên tầm tòan cầu. Không một quốc gia nào, không một người dân lương thiện nào, đàn bà, con nít có thể nằm ngoài lằn đạn của khủng bố! Sau vụ San Bernardino, tổng thống Obama hôm Chủ  nhật 6/12 đã nghiêm chỉnh lên tiếng về đại nạn khủng bố và đề ra sách lược chống trả và tiêu diệt ISIS. Ông ghi nhận ISIS là một bệnh ung thư chưa có thuốc chữa, sản phẩm của một thành phần Hồi giáo quá khích nhưng trước sau Hoa Kỳ cũng sẽ đánh thắng ISIS bằng khả năng, và sự kiên trì. Nhưng ông không đề ra một sách lược cụ thể nào để đánh thắng. Ông thấy một cuộc chiến tranh mới – một cuộc đại chiến- đã mở màn, nhưng ông không nghĩ ông là người của lịch sử để đề ra những giải pháp dứt khoát. Nhiệm kỳ của ông chỉ còn võn vẹn một năm, và khi tranh cử ông đã hứa sẽ đưa Hoa Kỳ ra khỏi hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, ông không muốn là người đưa Hoa Kỳ vào một cuốn chiến tranh khác dù ông biết Hoa Kỳ không có cách nào lẫn tránh. Nhìn lại, tổng thống Obama biết buổi nói chuyện ngày 2/12 của ông không làm cho dân chúng yên tâm, nhưng ông cũng biết nếu đề ra những giải pháp quân sự mạnh mẽ như gởi quân qua Iraq và Syria để dẹp loạn ISIS, Hoa Kỳ sẽ vướng chân vào một cuộc chiến khác mà trước mắt là cái giá ước lượng – theo lời ông - 100 binh sĩ tử thương, 500 binh sĩ bị thương và 10 tỉ mỹ kim  mỗi tháng. Đưa ra những con số nói trên tổng thống Obama muốn nói ông nghĩ dân chúng Hoa Kỳ không muốn thấy hằng ngày máy bay chở xác binh sĩ trở về như trong thời kỳ chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, và khả năng giới hạn của ngân sách quốc phòng. Hai cuộc khủng bố của ISIS ở Paris và ở California làm rúng động Âu châu và Mỹ châu, làm nhiều nước thay đổi thái độ. Anh quốc quyết định tham gia oanh tạc ISIS tại Syria và Iraq,  Liên bang Nga đã mềm dẽo hơn trong việc hợp tác với Hoa Kỳ tìm một gỉải pháp giải quyết cuộc chiến tranh ở Syria làm căn bản chiến thắng ISIS. Tuy nhiên thế giới chưa có một giải pháp nào trước mắt khả dĩ mang đến một hy vọng sẽ diệt trừ được nạn ISIS. Khối các nước A Rập ôn hòa chưa chịu nhập cuộc. Thiên Tai là nạn bão táp hạn hán, lụt lội khác thường do độ nóng của bầu không khí (nói là Thiên Tai, thật ra đây cũng là Nhân Tai, vì chính sự đốt nhiên liệu mỏ để sản xuất năng lượng của con người đã thải quá nhiều khí chận nhiệt vào không khí làm bầu không khí nóng dần lên). Theo các nhà khoa học, thời tíết nếu có đe dọa đời sống trên quả đất cũng còn chờ 25 hay 30 năm nữa, nhưng nguyên nhân của nó đang tích lũy và diễn ra hằng ngày nếu con người không thay đổi cách sản xuất năng lượng. Một khi bão táp tàn phá nhiều vùng rộng lớn, sự tan chảy của khối băng ở Nam và Bắc cực làm nước biển dâng lên chiếm đất sinh sống và mùa màng của cư dân có thể làm thay đổi hiện trạng trên bề mặt trái đất, tạo ra những làn sóng tị nạn khổng lồ. Vấn đề đại nạn thời tiết đã được Liên hiệp quốc quan tâm và trước đây đã có những Hội nghị quốc tế về thời tiết. Hội nghị đầu tiên năm 1992 tại Rio de Janeiro do Ủy ban Liên hiệp quốc về Thời tiết (UN Framework Convention on Climate Change – UNFCCC) triệu tập và hai hội nghị gần nhất là hội nghị Kyoto, Nhật Bản năm 2005 và hội nghị Copenagen, Đan Mạch năm 2009. Cả hai hội nghị đều thất bại không đưa đến một sự thỏa thuận nào vì Trung quốc và Ấn Độ không muốn dính vào những cam kết quốc tế ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Trung quốc nước thải khí bẩn nhiều nhất vào không khí đã nhìn thấy sự tàn phá của thiên nhiên đối với đời sống của hơn một tỉ người trên lục địa Trung Hoa nên Trung quốc đã có thái độ hợp tác để tìm một giải pháp chung, nhất là khi tổng thống Obama sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ 2, bất chấp sự chống đối của đảng Cộng Hòa (Do nhiều ảnh hưởng trong đó có ảnh hưởng của tôn giáo, nhiều đại diện dân cử thuộc đảng Cộng Hòa vẫn chưa tin độ nóng tăng lên của bầu khí quyển là do sinh hoạt kinh tế của con người) đã ban hành nhiều biện pháp hành chánh để giảm sự thải khí bẩn vào không khí. Do vận động tích cực của Bộ trưởng ngoại giao John Kerry, tháng 11/2014 tại Bắc Kinh, tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình đồng tuyên bố sẽ cùng bắt tay nhau thực hiện chương trình làm sạch không khí. Bản tuyên bố của hai quốc gia thải nhiều khí bẩn nhất thế giới đã giải tỏa bế tắc kéo dài dai dẵng 20 năm qua kể từ Hội nghị thời tiết Rio 1992. Trước tình hình mới, tháng 12/2014, tại Lima, Peru các chuyên viên thời tiết đại diện cho 184 quốc gia đã hình thành được bản thảo mà một năm sau tại Paris đã thành bản đồng thuận “giảm độ nóng bầu khí quyển” xuống dưới mức tác hại. Tại hội nghị quốc tế Paris về thời tiết kéo dài 2 tuần từ ngày 30/11 đến ngày 12/12/2105, 195 quốc gia tham dự đã đi đến một sự đồng thuận tham gia vào chương trình giảm độ nóng của bầu khí quyển để cứu lấy môi trường sống của con người. Cuộc bàn thảo tại hội nghị Paris nhiều lúc giống như các học sinh trung học đang giải một bài toán nhiệt học. 1.5oC, 2.0oC hay 3.0oC ? 195 quốc gia cam kết sẽ đóng góp phần mình giữ nhiệt độ của khí quyển ở mức không cao hơn nhiệt độ trước kỷ nguyên kỹ nghệ toàn cầu (vào đầu thế kỷ 20) là 2.0oC , và hứa sẽ nỗ lực giảm xuống mức 1.5oC . Nhưng đồng thời tuy không ghi ra văn bản, nhưng các quốc gia tham dự cũng mặc nhiên nghĩ rằng với các nỗ lực chung độ nóng khí quyển có thể tăng đến 3.0oC trên. Hiện nay nhiệt độ khí quyển đã cao hơn trước thời kỹ nghệ 1.0oC, và bão táp, hạn hán đã bắt đầu xuất hiện một cách bất thường, và các nhà khoa học biết rằng 1.5oC có nghĩa là thế giới sẽ chịu được, và 3.0oC có nghĩa là khối băng Nam Bắc cực tan rã và nước biển sẽ dâng lên 6 mét. 3.0o là một tai họa khó lường. Không còn đất để ở và canh tác. Bản thỏa ước về thời tiết tại Paris được thế giới tán thưởng xem là một thành công lớn của sự hợp tác quốc tế trước một vấn nạn chung của nhân loại. Thỏa ước có điều  khoản hướng dẫn các quốc gia phải  làm gì để thực hiện lời hứa. Có điều khoản các nước giàu giúp các nước nghèo thực hiện lời cam kết. 100 tỉ mỹ kim được dự liệu. Có thành lập ủy ban đặc nhiệm giúp các quốc gia đang bị nước biển đe dọa tràn ngập có đất sinh sống. Có điều khoản mua bán khả năng giảm thiểu khí thải (carbon-pricing). Bản thỏa ước còn đặt nặng sự khai thác và đầu tư vào các kỹ thuật mới để dần dần thế giới không còn lệ thuộc vào các mỏ nhiên liệu. Nhưng điểm đặc biệt của bản thỏa ước là có lời hứa hạ quyết tâm nhưng không có một sự ràng buộc luật định nào cả. Tuy nhiên phấn khởi là qua bản thỏa ước cộng đồng nhân loại đã nhận ra mối nguy tự diệt nếu không hành động gì trước khi quá muộn. Vấn đề là: có quyết tâm hành động, nhưng có tránh được đại nạn không còn là một câu hỏi lớn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”. Thiên tai về thời tiết được cảnh báo từ 20 năm trước chẳng ai chú ý. Nhân Tai khủng bố ISIS bùng nổ năm 2014 tại Trung đông thế giới xem là mụt nhọt chữa trị lúc nào cũng được. Thế nhưng thời tiết trong 5 năm gần đây càng năm càng khốc liệt và tàn phá. Mặc khác, cuối năm 2015 với hai cuộc khủng bố tại Paris và San Bernardino, Hoa Kỳ, chiếc quan tài đã lộ diện. Thế giới bừng tỉnh nhận chân đại nạn trước mắt và đã có những nổ lực cần thiết để tồn tại. Các quốc gia Tây phương, Liên bang Nga, các nước A Rập đang bắt tay xây dựng một giải pháp bài trừ nạn ISIS. Và Hội nghi Paris về thời tiết đã đặt một căn bản tránh đại nạn thời tiết. Nhưng cả hai cũng chỉ mới là hy vọng./.
......

Miến Điện: Nền Dân Chủ Bấp Bênh

Bài viết này là của một đảng viên Việt Tân, anh Nguyễn Hoàng Thanh Tâm. Hy vọng qua những kinh nghiệm từ Miến Điện này, đảng Việt Tân cũng sẽ có những bước đi mềm mỏng hơn, không đẩy địch thủ vào chân tường để đem lại thay đổi nhanh hơn và mạnh hơn cho Việt Nam. Nhìn từ xa, kết quả cuộc bầu cử 8/11/2015 tại Miến Điện với ngọn hải đăng Aung San Suu Kyi toả sáng khắp đất nước đã đem đến sự phấn khởi, lạc quan nơi những người ngoại cuộc. Miến Điện đã thật sự dân chủ? Sau khi được trả tự do vào năm 2010, Miến Điện bắt đầu có những thay đổi ngoạn mục về chính trị với những đợt trả tự do hàng loạt cho các tù nhân chính trị, đảng Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ đắc cử một số ghế trong quốc hội (bầu cử bổ túc, 2012). Tuy thế bà Aung San Suu Kyi đã liên tiếp khuyến cáo quốc tế về một sự lạc quan cần thận trọng. Tại chuyến công du ngoại quốc đầu tiên sau gần một phần tư thế kỷ bị kềm giữ, tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ở Thái Lan hôm 2/6/2012, bà nói “Lạc quan là điều tốt nhưng [chuyện Miến Điện] thì cần lạc quan một cách thận trọng.” Với kết quả thắng cử 86% các ghế tranh cử trong kỳ tuyển cử quốc hội 8/11/2015, đảng NLD của bà Aung San Suu Kyi đã nắm giữ quá bán số ghế tại quốc hội. Trong một thể chế dân chủ thông thường đạt hơn 50% số ghế đã đủ để có thể tự lèo lái quốc gia theo chính sách của đảng mình. Tuy nhiên tình hình Miến Điện không thật sự rõ nét như thế. Hay nói cách khác, tình hình chính trị Miến Điện chưa thật sự dân chủ như chúng ta nghĩ. HIẾN PHÁP 2008 VÀ SỰ CHÈN CHÂN CỦA QUÂN ĐỘI Vào năm 2008, ngay sau trận bão Nagis xảy ra, đảng cầm quyền USDP (phe quân đội) đã tiến hành trưng cầu dân ý cho bản hiến pháp 2008. Nội dung bản dự thảo duy nhất này do phe quân đội áp đặt và kết quả trưng cầu được chế độ cho hay có 98% người dân bỏ phiếu với 94% tán đồng. Diễn tiến của cuộc bỏ phiếu cùng với kết quả gần như tuyệt đối được giới quan sát quốc tế (và nội địa Miến Điện) chỉ trích là bất thường, thiếu minh bạch. Bản Hiến Pháp 2008 quy định hai điều căn bản: - 25% tổng số ghế trong quốc hội được dành riêng cho quân đội. Với sự độc quyền chỉ định của vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, không thông qua bầu cử phổ thông. Số còn lại, 75% số ghế mới do người dân trực tiếp đi bầu. - Để thay đổi bất cứ một điều khoảng nào trong Hiến Pháp, dù là một dấu chấm hay dấu phẩy, đều phải có hơn 75% quốc hội tán thành. Tức là cho dù hết tất cả các dân biểu dân cử đồng ý cũng chưa đủ. Phải có sự đồng ý của quân đội thì việc tu chính mới được thông qua. Hay nói cách khác Quân Đội có quyền phủ quyết bất cứ đề nghị tu chính nào. Thêm vào đó, điều khoảng 59(f) quy định không một cá nhân nào được phép làm tổng thống khi họ có vợ chồng hoặc con là người mang quốc tịch ngoại quốc. Giới quan sát cho rằng điều khoảng này được thêm vào nhằm mụch đích ngăn chặn viễn cảnh bà Aung San Suu Kyi sẽ nắm giữ vai trò này (bà có 2 con mang quốc tịch Anh). Với hai điểm căn bản trong Hiến Pháp 2008 và điều khoảng 59(f) nói trên, đảng NLD của bà Aung San Suu Kyi dù sẽ nắm đa số tại quốc hội vẫn không thể thực thi một quyền căn bản nhất là chỉ định người - bà Aung San Suu Kyi - giữ vai trò tổng thống theo ý muốn của họ. HỘI ĐỒNG QUÂN ĐỘI VÀ AN NINH QUỐC GIA Vai trò Tổng Thống trong guồng máy chính trị Miến Điện hiện nay dù là người đứng đầu nền Hành Pháp của quốc gia nhưng trên thực tế vẫn không phải là vai trò quan trọng tối cao. Thực tế bên cạnh nội các, Miến Điện còn có Hội Đồng Quân Đội và Anh Ninh Quốc Gia. Dù vị Tổng Thống tương lai, thuộc đảng NLD, là chủ tịch hội đồng này nhưng với 11 thành viên thì đã có đến 6 (quá bán) trực thuộc phe quân đội. Sáu vai trò này gồm 3 vị bộ trưởng Quân Đội, Nội Chính và Biên Giới (các bộ thuộc nội các nhưng do Quân Đội chỉ định), Tổng Tư Lệnh, Phó Tổng Tư Lệnh Quân Đội và một Phó Tổng Thống (cũng do quân đội chỉ định). Như thế, bất cứ mọi vấn đề hệ trọng liên quan đến quốc gia đều phải được sự thông qua của quân đội. Mặt khác, trái với các nền dân chủ thông thường trên thế giới khi quân đội nằm dưới sự điều đồng của chính quyền dân sự thì tại Miến Điện, quân đội là một thực thể riêng biệt. Vai trò Tổng Tư Lệnh Quân Đội không nằm trong tay Tổng Thống mà nằm trong tay vị tướng lãnh cao cấp nhất (thay vì chỉ là Tổng Tham Mưu như chúng ta thường thấy tại các quốc gia khác). LẠC QUAN NHƯNG THẬN TRỌNG Vào ngày 2/12/2015 vừa qua, bà Aung San Suu Kyi đã đích thân đến tư dinh của cựu tướng lãnh Than Shwe, người đã từng ban lệnh cầm tù bà gần 2 thập niên qua. Tướng Than Shwe giữ vai trò Tổng Thống, cai trị Miến Điện với bàn tay sắt từ năm 1992 đến 2011, một trong những giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Miến Điện. Tuy thế, nhiều người cho rằng chính ông là kiến trúc sư của lộ đồ thay đổi chính trị của Miến Điện ngày nay. Một lộ độ mà có người gọi nó là lộ đồ “dân chủ hoá Miến Điện” nhưng cũng không ít giới đấu tranh chính trị nội địa cho đó là lộ đồ “hạ cánh an toàn” của giới tướng lãnh. Dù đã về hưu, bàn giao vai trò Tổng Thống cho Thein Sein, nhưng Than Shwe vẫn là Thái Thượng Hoàng và được coi là tiếng nói nặng ký trong phe quân đội hiện nay. Người có đủ thẩm quyền và uy thế để kết nối mọi thành phần trong quân đội. Cuộc gặp gỡ này đã được sắp xếp qua trung gian ông Nay Shwe Thway Aung, một tác nhân chính trị quan trọng đồng thời lại là cháu nội của tướng Than Shwe. Kết thúc cuộc họp, cả hai đã đồng ý để ông Nay Shwe Thway Aung phổ biến một phát biểu của chính mình về cuộc họp này. Bàn Aung San Suu Kyi nói bà không nuôi lòng thù hận hay trả thù và muốn gặp tướng Than Shwe để thảo luận những hợp tác cần có với quân đội nhằm xây dựng một Miến Điện phú cường. Trong khi đó, phát biểu của tướng Than Shwe lại mang nhiều ẩn ý khiến quần chúng Miến Điện không khỏi bàn tán. Ông nói: “Hiển nhiên bà [Aung San Suu Kyi] sẽ là người lãnh đạo tương lai của quốc gia sau cuộc thắng cử vừa qua. Tôi sẽ ủng hộ bà ấy với tất cả mọi khả năng của tôi nếu bà ấy làm việc nhằm xây dựng đất nước này.” Bên cạnh những lời phát biểu nói trên, ông Nay Shwe Thway Aung, người sắp xếp cuộc gặp, đã đăng tải một tấm hình trên Facebook của mình đã khiến mạng xã hội Miến Điện dậy sóng. Bức hình chụp một mặt của tờ tiền giấy 5000 kyat trên đó có 3 chữ ký quan trọng, của tướng Than Shwe, tướng Then Shein và của bà Aung San Suu Kyi. Điều cần nói đến ở đây là tướng Than Shwe đã ký vào tờ tiền này vào năm 2009, chữ ký của Thein Sein ký năm 2012. Và chữ ký thứ ba của bà Aung San Suu Kyi được ký mới đây vào ngày 19/11/2015. Theo ông Nay Shwe Thway Aung, đây là “những chữ ký được ký khi họ đang là hay sắp là người lãnh đạo quốc gia.” Liệu đây có phải là chỉ dấu của thêm một nhượng bộ của phe quân đội? Liệu đó có phải là chữ ký của 3 vị tổng thống kế nhiệm nhau của Miến Điện, Than Shwe - Thein Sein - Aung San Suu Kyi? Người dân Miến Điện lại một phen dậy sóng với nhiều đồ đoán xen lẫn lo âu và hy vọng. (Trong khi đó giới đấu tranh dân chủ không kỳ vọng ở sự nhượng bộ rốt ráo như vậy trong khoảng thời gian ngắn 3 tháng trước ngày nhậm chứt tổng thống sắp tới.) Với những đan xén, chèn chân, của Quân Đội trong hệ thống chính trị, dù thắng cử vẻ vang, đảng NLD và bà Aung San Suu Kyi đang có những bước đi thận trọng để sử dụng được sức mạnh của lá phiếu mà người dân Miến Điện trao cho họ và cùng lúc không đẩy phe quân đội vào chân tường để họ phải có những phản ứng tiêu cực lật ngược bàn cờ dân chủ bấp bênh này. --- (Rangoon 12/12/2015)
......

Máy bay mang cờ ISIS sẽ sớm gieo rắc tai họa tại Âu Châu

IS đang huấn luyện phi công từ căn cứ không quân ở Libya với những máy bay sót lại từ thời Gaddafi. Các nhà phân tích trong khu vực lo ngại IS sẽ thực hiện các vụ tấn công bằng máy bay nhắm thẳng châu Âu trong thời gian tới. Tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) đang gia tăng sự hiện diện ở quốc gia Bắc Phi này bất chấp các đợt không kích của Nga và Mỹ tiến hành ở Syria. Thành phố ven bờ Địa Trung Hải được chúng chọn là bàn đạp để nhắm tới châu Âu. Từ thành phố Sirte bay tới Italia là gần nhất. Điều này đồng nghĩa với lo ngại mức độ khủng bố với các mục tiêu ở khu vực châu Âu sẽ được đẩy lên một nấc cao hơn. Chúng ta đều biết IS đang tìm cách giết hại càng nhiều người phương Tây càng tốt. Nếu chúng dùng một chiếc xe hơi để đánh bom tự sát thì chúng hoàn toàn có thể làm như vậy với một chiếc máy bay; mục tiêu của chúng là gây thương vong nhiều nhất có thể, đại tá Jacques Neriah, một chuyên gia về vấn đề Bắc Phi trả lời trên Fox News. Chúng tôi không nói về máy bay chiến đấu như F-16 hay Mig-31, ông trả lời. Chúng tôi nói về những phi công được đào tạo lái máy bay dân sự có thể lái một chiếc máy bay cỡ nhỏ rồi lao xuống Vatican. Từ Sirte tới Rome chỉ mất 1,5 tiếng bay qua biển Địa Trung Hải. Nhiều phiến quân đã tình nguyện gia nhập lực lượng IS tại Libya để mở rộng căn cứ ở đây. Các chuyên gia quân sự nhận định IS dự định dùng Libya làm vùng đệm nếu như trận chiến ở Syria và Iraq không mang lại kết quả khả quan cho chúng. Báo cáo của Liên Hợp Quốc cho biết hơn 3.500 công dân Libya đã rời bỏ đất nước để gia nhập IS ở Syria và Iraq. Trong đó, 800 người đã quay trở về Libya để gia nhập các lực lượng khủng bố ở địa phương. Sự chuyển dịch phiến quân người Libya cần một sự theo dõi sát sao nhằm đánh giá thực lực hiện nay của IS. Tuần trước, The Wall Street Journal thông báo rằng Thủ tướng Italia Matteo Renzi đã gặp Tổng thống Pháp Francois Hollande tại Paris và phát biểu rằng Châu Âu cần quan tâm nhiều hơn tới sự nổi dậy của IS tại Libya. Thông tin về việc IS đang đào tạo phi công xuất hiện đầu tuần trước trên tờ Asharq al-Awsat. Bài báo trích lời một nhân viên an ninh ở Libya cho biết Không quân nước này đã cố gắng tiêu diệt một trại huấn luyện ở Libya nhưng không thành công. Một nhóm khủng bố cực đoan người Sunni đã mua được những thiết bị giả lập huấn luyện phi công từ đầu tháng 10. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông báo rằng nguy cơ IS tiến hành leo thang hoạt động khủng bố Bắc Phi là có cơ sở. Nhất là khi hàng ngàn người nhập cư đã dùng thuyền cập bến châu Âu mấy năm trở lại đây. Hiện nay khu vực Bắc Phi rất nhiều người dân chạy nạn trước sự tàn ác và máu lạnh của IS. Trong khi tập trung phát triển thành lũy ở Sirte, IS có thể tìm kiếm các đồng minh để mở rộng quyền kiểm soát lãnh thổ tại các khu vực khác, chưa kể việc dụ dỗ hàng ngàn phiến quân người nước ngoài đến Libya, bài viết hôm 15.11 có đoạn viết. IS là mối đe dọa thường trực của Libya. Chúng đang hưởng lợi từ tai tiếng gây ra ở Iraq và Syria. Libya là một khu vực rất quan trọng với IS về mặt địa chính trị vì nằm ở ngã ba Trung Đông, châu Phi và châu Âu, bản báo cáo cho hay. Hiện tại IS chưa kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ ở Libya nhưng chắc chắn chúng đang thèm muốn mở rộng địa bàn ở quốc gia này. Nhiều chuyên gia cho rằng các biện pháp khẩn cấp phải được thực thi ngay để ngăn chặn IS. Ngoài Syria và Iraq, Libya là quốc gia còn lại mà IS đang kiểm soát. Chúng tập trung trọng điểm vào thành phố Sirte, nơi có nhiều mỏ dầu quan trọng. Trước đây chúng kiếm được hàng trăm triệu USD từ khai thác dầu ở Syria tuy nhiên việc bán dầu lậu ở Libya chưa mang lại kết quả. IS từng cử một tàu ra nước ngoài bán dầu cách đây mấy tháng nhưng bị Hải quân Mỹ tịch thu và bắt giữ, ông Neriah giải thích. Ở thời điểm hiện tại chúng vẫn chưa thể buôn lậu dầu với số lượng lớn. Bản đồ cho thấy nếu IS chiếm được Sirte nói riêng và Libya nói chung, khoảng cách để chúng tiến công vào châu Âu sẽ là gần thế nào! Số lượng vũ khí khổng lồ sót lại từ thời Gaddafi đang tìm đường vào tay của những kẻ khủng bố. Nhiều vũ khí đã được tuồn ra Syria, Mali, dải Gaza… trong khi bằng chứng khác cho biết bán đảo Sinai (Ai Cập) là một nơi trung chuyển quan trọng để buôn bán vũ khí lậu. Chính quyền Libya đã kêu gọi sự trợ giúp quốc tế tuy nhiên vẫn bị phớt lờ. Nhiều người nghĩ IS là một tổ chức khủng bố nhưng sự thật chúng là một nhà nước khủng bố. Chúng có đủ bộ máy của một nhà nước thực thụ, ông Neriah kết luận. Ở thành phố Mosul (Iraq), chúng thu giữ 2.500 xe bọc thép từ quân đội Iraq và đều là xe mới tinh do Mỹ sản xuất. Trong nội chiến Syria, IS đã sản xuất vũ khí hóa học và có bằng chứng cho thấy chúng tấn công phe chính phủ bằng loại vũ khí hủy diệt này. Rõ ràng chúng có khả năng huấn luyện binh lính như một nhà nước thực thụ. Nếu cộng đồng quốc tế không can thiệp bằng các biện pháp quân sự, tôi sợ rằng hậu quả diễn ra ở Libya sẽ là vô cùng bi đát. ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ - ISIS takes flight: Terror group training pilots at airbase in Libya http://www.foxnews.com/world/2015/12/05/isis-takes-flight-terror-group-t...  
......

Quân đội ĐCSTQ bán vũ khí cho IS: Chỉ cần nghe lời, vũ khí có thể cho không

Một kỹ sư trưởng từng làm việc cho hãng xuất khẩu vũ khí khổng lồ tại Trung Quốc Đại Lục gần đây đã chia sẻ với Đài Phát thanh Hy Vọng (Sound of Hope) quá trình quân đội Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chuyển vũ khí bán cho các phần tử khủng bố khu vực Trung Đông và Somalia, ông nói tiền thu được từ những phi vụ làm ăn này kếch xù này về cơ bản đều rơi vào túi riêng của quan chức tướng lĩnh. Có thể cho không vũ khí, nhưng phải nghe lời Gần đây tổ chức khủng bố IS hoạt động ngày càng điên cuồng. Năm ngoái, tổ chức Giám sát luân chuyển vũ khí Conflict Armament Research đã phân thích xác đạn cùng vũ khí và nhận thấy đa số vũ khí IS sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ngoài ra, trong năm 2009 truyền thông Israel đã đưa tin một tướng lĩnh trong quân đội cho biết, bốn hỏa tiễn mà Hamas bắn vào thành phố Beersheba ở phía nam của Israel là do Trung Quốc sản xuất. Hình ảnh mà truyền thông Tây phương chụp được vào năm 2014 khi quân đội Hamas duyệt binh ở Gaza cho thấy 107 tên lửa trưng bày ra là của Trung Quốc. Theo người cung cấp thông tin, ĐCSTQ có thể thực hiện thành công những thương vụ này, một là vì quân phiến loạn và khủng bố đa số là nghèo, họ đành chọn vũ khí giá rẻ của Trung Quốc (ví dụ 1000 USD có thể mua được 2 khẩu AK47, trong khi mua súng carbine của Pháp cần 4000 USD mới mua được một khẩu); hai là ĐCSTQ không có nguyên tắc gì, chỉ cần đối phương nghe lời là được: nếu không có tiền thì phải phục vụ cho ĐCSTQ làm một số việc xấu theo yêu cầu, nếu đồng ý sẽ được cung cấp vũ khí miễn phí (trên thế giới không nước nào cho không vũ khí vì phải mất rất nhiều công sức mới làm được, cho dù là loại vũ khí quá thời hạn). Bản thân người cung cấp thông tin kể lại quá trình ông được trải nghiệm như sau: Ông ta (bên mua) nói: Chúng tôi muốn vũ khí của Trung Quốc (quân đội Trung Quốc), chúng tôi không có tiền. Người phía Trung Quốc đáp lại, ok, chúng tôi có thể tặng cho anh, nhưng có hai điều kiện: một là các anh phải đánh lại chính quyền bản địa, các anh làm quân du kích và theo sự chỉ đạo của chúng tôi, đánh vào tòa nhà quốc hội hoặc dinh tổng thống gì đó; hai là các anh phải liên tục tấn công vào Đại sứ quán các nước phương Tây trú tại Somalia làm cho họ luôn bất an trong công việc. Súng của những đội quân du kích ở Afghanistan, Pakistan, Pamir, Mông Cổ sử dụng đều là AK47 của Trung Quốc, còn đạn thì cung cấp vô điều kiện, muốn có bao nhiêu cũng được! Trung Quốc (ĐCSTQ) xuất khẩu vũ khí không chỉ vì tiền, mục đích chủ yếu của họ là truyền bá cái gọi là “Tư tưởng cách mạng của họ”, “làm rối loạn trật tự của thế giới tự do”. Theo người cung cấp thông tin, việc xuất khẩu công khai vũ khí đạn dược kéo dài từ thời gian 1983 – 1989. Có khoảng 14 công ty xuất khẩu vũ khí lớn ở trong nước, người đứng đầu những công ty này thường có cấp bậc Thiếu tướng. Sau này dù ngoài mặt có lệnh cấm quân đội buôn bán, nhưng theo ông ta biết thì hoạt động mua bán vũ khí vẫn đang hoạt động. Nội bộ ĐCSTQ tham gia buôn bán vũ khí Người kỹ sư trưởng này kể lại trải nghiệm của mình khi giao dịch vũ khí. Ban đầu là phía công ty vũ khí của Trung Quốc Đại Lục khai thác nhu cầu của đối phương: ví dụ như Somalia, Trung Quốc có Đại sứ quán ở đó, người của Đại sứ quán biết đâu là quân chính phủ và đâu là quân phiến loạn, họ tiếp cận mời ăn uống và lai vãng qua lại với nhóm phần tử này. Khi những nhóm này có nhu cầu là Đại sứ quán biết ngay, họ báo cho Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại giao lại báo cho Bộ Quốc phòng, Bộ Quốc phòng liền thông báo cho những công ty xuất khẩu. Công ty xuất khẩu có người phiên dịch, có thể liên lạc trực tiếp với đối phương. Trong trường hợp không may không có thì sẽ liên lạc với Bộ Quốc an: Bộ Quốc an lập tức xem hồ sơ của Đại học Bắc Kinh, Đại học Nhân dân, Học viện Ngoại giao, xem người nào thông thạo tiếng Somalia và chỉ dẫn liên lạc với ông Tổng của công ty xuất khẩu. Những người phiên dịch này đều thuộc đối tượng “tin cậy về chính trị”, họ sẽ được yêu cầu giữ thông tin tuyệt mật. Trên thực tế, đối tượng xuất khẩu vũ khí của ĐCSTQ không chỉ hạn chế trong một vài khu vực này. Sau khi thiết lập được liên lạc thì cần gặp gỡ đàm phán. Thông thường trong những giao dịch này được lựa chọn đàm phán ở một nước thứ ba. Phía Trung Quốc sẽ nhờ Lãnh sự quán giúp đỡ: Lãnh sự quán chỉ định thời gian và địa điểm. Người đại diện là chuyên gia của công ty xuất khẩu đi đến, còn bên quân phiến loạn thì lấy danh nghĩa là một thương nhân, họ đến địa điểm ngồi đàm phán. Sau khi hoàn thành giao dịch, phía công ty xuất khẩu đến khu vực quân sự lấy hóa đơn hàng, quá trình này rất đơn giản, không có thủ tục gì. Nhân viên tham mưu của quân đội điện thoại cho Chủ nhiệm kho vũ khí, thường là cấp bậc Đại tá: Công ty Nam Phương mua một lô vũ khí, họ có tờ đơn, do xxx gửi đến kho các anh, sáng mai sẽ có 20 chiếc xe đến, các anh chuẩn bị giao hàng. Bên giao hàng dĩ nhiên phải xem bên mua là ai. Nếu như là phiến quân Somalia, hải tặc, Trung Quốc sẽ chọn giao dịch đường biển, sẽ liên lạc với hạm đội Nam Hải và cho điều động tàu quân đội chuyển hàng: nguyên nhân, một là hạm đội Nam Hải có thể kiểm soát vùng biển Nam Thái Bình Dương, Nam Hải và Ấn Độ Dương; hai là như vậy họ có thể buôn bán tự do trên biển. Phiến quân Somalia dùng tàu đánh cá loại lớn đi nhận hàng, cũng có khi có tàu hàng cỡ lớn. Nếu bên mua là quốc gia trong lục địa, ví dụ như quân phiến loạn Afghanistan, phía Trung Quốc sẽ yêu cầu đối phương nhận hàng tại một vùng biên giới nào đó ở Trung Quốc. Ví dụ cuộc đàm phán như sau: Chúng tôi cần 20 chiếc xe, đến địa điểm xxx cách đồn biên phòng biên giới khoảng 100 mét. Phía Trung Quốc cũng có 29 xe chở vũ khí đến, và huy động cả lính phòng thủ đi ra giao hàng. Chúng tôi có chứng nhận của Bộ Công an, Bộ Quốc an và của Quân ủy Trung ương, quân lính không có quyền kiểm tra hàng trên xe. Khoản tiền giao dịch khổng lồ vào túi riêng các tướng lĩnh Người cung cấp thông tin tiết lộ, tiền giao dịch được chuyển cho công ty xuất khẩu vũ khí tại một ngân hàng ở Hồng Kông, dùng đô la Mỹ hoặc đô la Hồng Kông: Khoản tiền này không chuyển vào tài khoản của quân đội, do ông Tổng của công ty xuất khẩu mở tài khoản tại ngân hàng HSBC ở Hồng Kông, khoản tiền này chỉ vài tướng lĩnh biết nên dùng như thế nào. Ví dụ câu chuyện giữa hai tướng lĩnh: – Lão Trương, anh đi Mỹ chơi đi, anh muốn mua một cái nhà ở Mỹ không? – Ừ, nếu có điều kiện cũng mua cho con cái tôi ở, nhưng tiền đâu ra? – Từ tài khoản này. Cách sử dụng là như thế. Vũ khí đạn dược do nhân dân Trung Quốc chế tạo ra, nhưng tiền chỉ vào túi riêng vài người. Người cung cấp thông tin còn nói, vì ngân hàng Trung Quốc có nhiều chi nhánh tại nhiều quốc gia, thành phố, nên quá trình giao dịch rất thuận lợi. “Vòi rồng” của ĐCSTQ có ngân hàng, báo đài, cả thương hội… tất cả đều trong kiểm soát của ĐCSTQ. Chỉ cần phía trên đưa một mẩu giấy, một cuộc điện thoại là phía dưới đều phải làm theo. Vì vậy, việc thâm nhập của ĐCSTQ trên toàn cầu là thâm nhập toàn diện. Họ không chỉ có đường dây buôn bán vũ khí mà còn có nhiều đường dây khác. Theo letu.life (đăng lại theo Đài Phát thanh Hy Vọng) Tinh Vệ biên dịch (Đại Kỷ Nguyên VN)
......

IMF có thể sẽ đưa đồng nhân dân tệ của Trung Quốc vào rổ dự trữ ngoại hối SDR

Thứ Hai này, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc  có nhiều khả năng sẽ được đưa vào rổ dự trữ ngoại hối của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), được gọi là SDR (Quyền rút vốn đặc biệt). Trong cuộc họp hôm thứ Hai, IMF dự kiến sẽ phê chuẩn việc đưa đồng nhân dân tệ vào trong rổ những đồng tiền chủ chốt. Lãnh đạo của Quỹ, Christine Lagarde, đã ủng hộ hành động này, theo báo cáo của Wall Street Journal. SDR – một loại tiền ảo mà giá trị hiện đang dựa trên đồng yên Nhật Bản, đồng euro, đồng bảng Anh và đồng đô la Mỹ – là một tài sản dự trữ quốc tế mà IMF sử dụng để cho vay khẩn cấp đối với các thành viên của mình. SDR không phải là một loại tiền tệ được giao dịch tự do, nó được coi như là một tài sản dự trữ quốc tế. IMF cung cấp các khoản vay lấy từ SDR trong trường hợp khủng hoảng, đó là việc trợ giúp trong cuộc khủng hoảng tài chính để giúp tăng cường dự trữ chính thức của các quốc gia thành viên. Cho đến gần đây, đề nghị từ phía Trung Quốc để đưa đồng nhân dân tệ vào rổ tiền dự trữ của IMF đã nhiều lần bị từ chối, bởi người ta thấy đồng tiền Trung Quốc quá bị kiểm soát. Đồng nhân dân tệ, gần đây đã vượt qua đồng yên Nhật và trở thành đồng tiền được sử dụng nhiều thứ tư trong giao dịch toàn cầu, tuy nhiên nó vẫn bị Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, tức Ngân hàng trung ương, kiểm soát chặt chẽ. Quảng cáo Việc đưa đồng nhân dân tệ vào rổ dự trữ ngoại tệ của IMF sẽ là một sự công nhận của công chúng về vị trí của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu, động thái này cũng sẽ gây thêm áp lực lên chính phủ Trung Quốc để thực thi các biện pháp khác nhau để tạo ra một nền kinh tế mở, định hướng thị trường. “Về đối nội, không chắc chắn chút nào về việc nếu đưa đồng nhân dân tệ vào SDR có thể buộc tạo ra các sửa đổi khác cho hệ thống”, Zhang Ming, nhà kinh tế cấp cao tại Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc nói với tờ Wall Street Journal. Lần thay đổi cuối cùng của rổ SDR đã diễn ra vào năm 2000, khi đồng euro thay thế cho đồng marc của Đức và đồng franc của Pháp, theo Business International Times. Hiện nay, tổng giá trị của SDR là khoảng 280 tỷ USD. Theo đánh giá cuối cùng vào năm 2010, đồng đô la chiếm 41,9% trong SDR, trong khi đồng euro, đồng bảng Anh và đồng yên Nhật Bản chiếm tương ứng 37,4%, 11,3% và 9,4%. Tại thời điểm này chưa rõ tỷ trọng của đồng nhân dân tệ sẽ là bao nhiêu trong rổ dự trữ ngoại hối của IMF. 1 Tháng Mười Hai, 2015 https://vietdaikynguyen.com/v3/85294-imf-co-se-dua-dong-nhan-dan-te-cua-...
......

Tổ chức khủng bố giàu nhất thế giới kiếm tiền từ đâu?

Nhiều người băn khoăn không biết IS lấy tiền từ đâu để hoạt động và gây tội ác? Giải đáp cho câu chuyện “làm giàu” này có thể kể đến doanh thu từ bán dầu mỏ, kinh doanh bất động sản, và cướp ngân hàng.     1. Dầu mỏ: Các vựa dầu mỏ bị IS chiếm giữ ở Syria và Iraq là nguồn kiếm tiền chính của nhóm phiến quân này. Dù Mỹ và các nước đồng minh có vẻ dễ dàng ngăn chặn việc xuất cảng dầu mỏ từ các khu vực lãnh thổ bị IS chiếm đóng, việc kiểm soát thị trường đen lại khó khăn hơn. Nhóm khủng bố gần như chiếm hết dầu từ những mỏ dầu nhỏ và trung bình, sau đó dùng xe tải chở sang biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Tại đây các bên mua bán trao đổi hoặc đấu thầu. Việc buôn bán này là bất hợp pháp,  nên dầu được bán giảm giá,  rồi sau đó giá cả lại tăng biến động khi tiêu thụ trên thị trường chính thống. Những kẻ buôn lậu nhắn tin cho nhau qua Whatsapp để trao đổi hàng hóa. Theo Boston Globe, một số thương lái còn bán lại dầu từ IS cho chính chế độ của Tổng thống al-Assad tại Syria. Kể từ sau khi Mỹ và một số nước tham chiến, và không kích vào các khu vực khai thác dầu và khí ga, nguồn thu nhập này đã bắt đầu giảm hẳn. Theo báo cáo, cho đến tháng 10/2014, Mỹ đã phá hủy khoảng một nửa cơ sở sản xuất dầu của IS. Mỹ cũng cố gắng định vị và nhắm vào những kẻ môi giới dầu mỏ, và khuyến nghị Thổ Nhĩ Kỳ thắt chặt kiểm soát biên giới để ngăn chặn buôn lậu.     2. Thu thuế: IS nắm quyền kiểm soát trên diện tích rộng, nên chúng có thể đánh thuế lên tất cả người dân sống tại khu vực đó. Ngoài những loại thuế thông thường, một số loại khác còn hơn cả “tra tấn”. IS đánh thuế lên tất cả mọi thứ như hàng hóa, nhu yếu phẩm, điện nước, viễn thông, tiền mặt, lương thưởng, giao thông khảo cổ, và cộng đồng không phải người Hồi giáo nói chung. alt Thomson Reuters dự tính hệ thống đánh thuế này thu về hơn 360 triệu USD/ năm cho IS. Có thể mô tả Syria, hay Iraq tồn tại “2 chế độ” khi các tay súng IS, và gia đình của chúng hưởng thụ miễn phí mọi dịch vụ như nhà cửa, y tế, trong khi những người khác phải trả thuế rất nặng.     3. Tiền chuộc bắt cóc: Theo báo cáo của LHQ tháng 10/2014, dự tính IS thu về 35 -45 triệu đô năm ngoái từ riêng tiền chuộc bắt cóc. Mỹ và Anh đã cố gắng hạn chế kênh tài chính này, bằng cách ban hành quy định trả tiền chuộc cho khủng bố là bất hợp pháp. Chính sách này có vẻ cứng rắn đối với nhiều gia đình có thân nhân bị bắt cóc, nhưng nhà chức trách khẳng định điều này sẽ khiến cho bọn khủng bố không có ý định bắt cóc dân Mỹ và Anh. IS cũng thu về một số tiền khổng lồ từ tiền chuộc bắt cóc tại chính Syria và Iraq, tất nhiên điều này nằm ngoài kiểm soát của Mỹ hay Anh.     4. Tiền viện trợ: Những khoản đóng góp là nguồn thu khá cơ bản cho nhóm phiến quân này. Ước tính IS nhận được gần 49 triệu USD trong khoảng 2013-2014 từ những doanh nhân, gia đình giàu có tại Ả-rập Saudi, Qatar, Kuwait, các tiểu Vương Quốc Ả-rập thống nhất. Nhiều nhà tài trợ đổ tiền cho IS, vì nỗi sợ hãi, và cả oán hận đối với Iran và Thủ tướng Syria. Theo Brookings Institution, trong năm 2013, nhiều mạnh thường quân ở Kuwait đã chuyển hàng trăm triệu đô la cho nhiều nhóm nổi dậy ở Syria. Sau khi cộng đồng quốc tế lên án các quốc gia về việc tài trợ khủng bố, chính quyền Ả-rập Saudi, và các tiểu Vương Quốc Ả-rập thống nhất đã có nhiều chính sách hạn chế tình trạng này. Tuy nhiên, nguồn tiền đổ vào IS thông qua các tổ chức từ thiện không đăng ký vẫn bị bỏ ngỏ.    5. Bán đồ cổ: Ở mỗi khu vực chiếm đóng, IS nắm quyền kiểm soát luôn cả Bảo tàng, các bộ sưu tập cá nhân, và khu Khảo cổ học. Đây là nguồn cung cấp đồ cổ khổng lồ bao gồm những tác phẩm nghệ thuật, và lịch sử vô giá. Từ đầu năm đến nay, IS đã chiếm hơn 4.500 khu lưu trữ văn hóa. Một số đồ cổ đã bị phá hủy, nhưng số khác được bán lại với giá trên trời tại các chợ nổi ở Thổ Nhĩ Kỳ và Jordan, nơi mua sắm của nhiều dân buôn hàng cổ đến từ Châu Âu, và nhiều nước giàu khác. Hiện đây được coi là nguồn thu lớn thứ hai xếp sau bán dầu mỏ của tổ chức khủng bố này. Mỹ ước tính tổng giao dịch đồ cổ trong một năm của IS phải đạt đến hơn 100 triệu USD.    6. Cướp ngân hàng: Theo điều tra, IS thu về ít nhất nửa tỉ USD tiền mặt từ các chi nhánh của khắp ngân hàng quốc danh tại phía Bắc, và Đông Iraq trong năm 2014. Một quan chức Mỹ tiết lộ với báo Guardian, trước thời Mosul, tổng tiền mặt và tài sản của IS là 875 triệu USD, sau đó cộng với 1,5 tỉ USD số tiền chúng cướp từ các nhà băng, và giá trị vũ khí quân dụng.     7. Bán lại tài sản: Sau khi IS chiếm đóng phần lãnh thổ Iraq, chúng nắm giữ luôn các thiết bị, vũ khí, quân dụng của Mỹ để sử dụng, hoặc bán lại. Tổ chức này cũng bán lại các thiết bị xây dựng, máy phát điện, dây cáp, ô tô, đồ đạc, và nhiều sản phẩm khác.     8. Kinh doanh bất động sản: Theo Nigash.org:  IS thu về một lượng lớn tiền mặt từ việc cho thuê, và bán đấu giá tài sản của những người chúng giết, hoặc ở các khu vực chiếm đóng mới. Tài sản của những cá nhân mà IS coi là kẻ thủ như quân đội, cảnh sát, chính phủ, Chính trị gia, Thẩm phán, Viện kiểm sát đều bị chiếm giữ. Theo một tài liệu khác, IS cho người dân thuê lại các tài sản này, hay là dùng làm căn cứ cho các chiến binh, hoặc đầu tư xây sửa thành khách sạn 5 sao, hoặc resort ./.    Theo Net.
......

Gốc rễ của làn sóng khủng bố chống phương Tây

Các cuộc tấn công kinh hoàng của Nhà nước Hồi giáo ở Paris đưa ra một lời nhắc nhở rõ ràng rằng các nước phương Tây không thể hạn chế được – chưa nói đến miễn nhiểm khỏi – những hậu quả không mong muốn của sự can thiệp của họ ở Trung Đông. Sự tan rã của Syria, Iraq, và Libya, cùng với cuộc nội chiến đang xé nát Yemen, đã tạo ra những chiến trường giết chóc khổng lồ, làm dấy lên những làn sóng người tị nạn, và kích động những chiến binh Hồi giáo cực đoan, những kẻ sẽ tiếp tục là một mối đe dọa đối với an ninh quốc tế trong nhiều năm tới. Và phương Tây có liên quan rất lớn tới điều này. Rõ ràng, sự can thiệp của phương Tây vào Trung Đông không phải là hiện tượng mới. Trừ những trường hợp ngoại lệ của Iran, Ai Cập, và Thổ Nhĩ Kỳ, mọi cường quốc khu vực ở Trung Đông đều là một cấu trúc hiện đại được tạo ra chủ yếu bởi Anh và Pháp. Các cuộc can thiệp do Mỹ dẫn đầu ở Afghanistan và Iraq kể từ năm 2001 chỉ đại diện cho nỗ lực gần đây nhất của các cường quốc phương Tây nhằm định hình địa chính trị của khu vực. Nhưng những cường quốc này luôn thích can thiệp qua tay người khác, và chính chiến lược này – đào tạo, tài trợ, và trang bị cho những chiến binh thánh chiến được coi là “ôn hòa” để chiến đấu chống những kẻ “cực đoan” – ngày nay đang phản tác dụng. Bất chấp những bằng chứng liên tục phản bác, các cường quốc phương Tây vẫn trung thành với một cách tiếp cận gây nguy hiểm cho an ninh nội bộ của chính họ. Cần nói rõ rằng những kẻ đang tiến hành cuộc thánh chiến bạo lực không bao giờ có thể “ôn hòa.” Thế nhưng ngay sau khi thừa nhận rằng đa số thành viên của Quân đội Syria Tự do được Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đào tạo đã đào thoát sang Nhà nước Hồi giáo, Mỹ mới đây đã cam kết thêm gần 100 triệu USD viện trợ trực tiếp cho quân nổi dậy Syria. Pháp cũng đã phân phối viện trợ cho quân nổi dậy Syria, và gần đây đã bắt đầu tiến hành các cuộc không kích nhằm vào Nhà nước Hồi giáo. Và đó chính là lý do Pháp trở thành mục tiêu. Theo các nhân chứng, những kẻ tấn công tại nhà hát Bataclan ở Paris – nơi mà hầu hết các nạn nhân trong buổi tối đó đã bị sát hại – đã tuyên bố rằng hành động của họ là lỗi của Tổng thống François Hollande. “Ông ta đáng lẽ không cần can thiệp vào Syria,” chúng thét lên. Chắc chắn, Pháp có truyền thống chính sách đối ngoại độc lập và thực dụng, phản ánh qua sự phản đối của Pháp đối với cuộc xâm lược và chiếm đóng Iraq năm 2003 do Mỹ dẫn đầu. Nhưng sau khi Nicolas Sarkozy trở thành Tổng thống năm 2007, Pháp đã điều chỉnh chính sách theo hướng ăn khớp hơn với Mỹ và NATO, và tham gia tích cực vào cuộc lật đổ nhà lãnh đạo Libya Muammar al-Gaddafi năm 2011. Và sau khi Hollande lên kế nhiệm Sarkozy năm 2012, Pháp đã nổi lên như một trong những đất nước can thiệp nhiều nhất của thế giới, tiến hành các hoạt động quân sự tại Cộng hòa Trung Phi, Bờ Biển Ngà, Mali, khu vực Sahel (phía nam Sahara), và Somalia trước khi tiến hành các cuộc không kích ở Syria. Những sự can thiệp như vậy đã bỏ qua những bài học của lịch sử. Nói đơn giản, gần như mọi cuộc can thiệp của phương Tây trong thế kỷ này đều có những hậu quả không lường trước – chúng đã tràn qua biên giới và cuối cùng lại thúc đẩy một cuộc can thiệp khác. Điều đó không khác gì so với những năm cuối thế kỷ 20. Trong những năm 1980, dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, Mỹ (với sự tài trợ từ Ả Rập Xê-út) đã đào tạo hàng ngàn phần tử cực đoan người Hồi giáo để chiến đấu chống lại Liên Xô tại Afghanistan. Kết quả là sự ra đời của al-Qaeda, tổ chức có những hành động cuối cùng đã thúc đẩy cuộc xâm lược Afghanistan và đưa ra một cái cớ cho cuộc xâm lược Iraq của Tổng thống George W. Bush. Như Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Hillary Clinton đã thừa nhận hồi năm 2010, “Chúng tôi đã đào tạo họ, chúng tôi đã trang bị cho họ, chúng tôi đã cấp tiền cho họ, trong đó có cả ai đó có tên là Osama bin Laden…. Và điều đó đã không đem lại kết quả tốt đẹp cho chúng ta.” Nhưng bất chấp bài học này, các cường quốc phương Tây vẫn can thiệp vào Libya để lật đổ Gaddafi, về cơ bản đã tạo ra một thành trì thánh chiến ở bậc cửa phía Nam của châu Âu, trong khi mở đường cho vũ khí và chiến binh chảy sang các nước khác. Chính hậu quả này đã thúc đẩy các cuộc can thiệp chống khủng bố của Pháp ở Mali và vùng Sahel. Gần như chưa kịp dừng lại để thở thì Mỹ, Pháp, và Anh – với sự hỗ trợ của các nhà nước Wahhabi như Ả Rập Xê-út và Qatar – sau đó tìm cách lật đổ Tổng thống Syria Bashar al-Assad, làm dấy lên một cuộc nội chiến đã cho phép Nhà nước Hồi giáo giành được lãnh thổ và phát triển. Với việc tổ chức này nhanh chóng giành quyền kiểm soát trên một khu vực rộng lớn mở rộng đến tận Iraq, Mỹ – cùng với Bahrain, Jordan, Qatar, Ả Rập Xê-út, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất – bắt đầu tiến hành các cuộc không kích ở Syria từ năm ngoái. Gần đây hơn, Pháp đã tham gia vào các nỗ lực này, và Nga cũng vậy. Mặc dù đang theo đuổi chiến dịch quân sự của mình một cách độc lập với các cường quốc phương Tây (phản ánh sự hỗ trợ dành cho Assad), Nga rõ ràng cũng đã trở thành một mục tiêu, với việc các quan chức Mỹ và châu Âu ngày càng tin rằng Nhà nước Hồi giáo đứng đằng sau vụ tai nạn của một máy bay Nga trên Bán đảo Sinai hồi tháng 10. Vụ tai nạn đó, cùng với các cuộc tấn công Paris, có thể thúc đẩy sự can thiệp quân sự lớn hơn từ bên ngoài vào Syria và Iraq, từ đó đẩy nhanh chu kỳ mang tính hủy diệt của sự can thiệp. Hiện tại, mối nguy hiểm của việc cảm xúc thay vì lý trí sẽ chỉ đạo các chính sách đang hiển hiện ở Pháp, Mỹ, và nhiều nơi khác. Điều cần thiết nhất là một cách tiếp cận thận trọng hơn phản ánh bài học từ những sai lầm gần đây. Trước hết, các nhà lãnh đạo phương Tây nên tránh những hành động có lợi cho các phần tử khủng bố, như Tổng thống Hollande đang làm bằng cách gọi các cuộc tấn công Paris là “hành động chiến tranh” và tiến hành các biện pháp chưa từng có trong nước. Thay vào đó, họ nên nghe theo lời khuyên của Margaret Thatcher và ngăn chặn những phần tử khủng bố lấy được “oxy từ sự nổi tiếng mà chúng phụ thuộc vào.” Quan trọng hơn, họ nên nhận ra rằng cuộc chiến chống khủng bố không thể được tiến hành một cách đáng tin cậy với các đồng minh không lành mạnh, chẳng hạn như các chiến binh Hồi giáo cực đoan hay các hoàng gia tài trợ cho chủ nghĩa Hồi giáo chính thống. Nguy cơ đem lại các hậu quả ngoài dự tính – dù là trả đũa khủng bố như ở Paris hay lan tỏa quân sự như ở Syria – là cao đến mức không thể nào biện minh. Chưa phải là quá muộn để các cường quốc phương Tây xem xét lại bài học từ những sai lầm trong quá khứ và tái điều chỉnh chính sách chống khủng bố của họ cho phù hợp. Thật không may, điều này dường như là phản ứng ít có khả năng xảy ra nhất đối với các vụ tấn công gần đây của Nhà nước Hồi giáo. Nguồn: Brahma Chellaney, “The Western Roots of Anti-Western Terror,” Project Syndicate, 16/11/2015. Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Brahma Chellaney, Giáo sư Nghiên cứu Chiến lược tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách tại New Dehli, là tác giả của các cuốn sách Asian Juggernaut, Water: Asia’s New Battleground và Water, Peace, and War: Confronting the Global Water Crisis. Copyright: Project Syndicate 2015 – The Western Roots of Anti-Western Terror (Nghiên Cứu Quốc Tế)
......

Kritik an Internetzensur und Inhaftierungen

Anlässlich des Deutschlandbesuchs von Vietnams Präsident Truong Tan Sang am morgigen Mittwoch kritisiert Reporter ohne Grenzen die strenge Medienzensur in der sozialistischen Republik. Wer über kritische Themen berichtet, muss wegen „Umsturz des Staates“ oder „Anti-Regierungs-Propaganda“ mit harten Strafen rechnen. Die Untersuchungshaft kann Monate dauern, Gerichtsverhandlungen sind hingegen oft schon nach ein paar Stunden vorüber. „Die vietnamesische Verfassung garantiert theoretisch das Recht auf Pressefreiheit. Praktisch schränkt die Regierung unter Präsident Truong Tan Sang dieses Recht mit zahlreichen Ausnahmegesetzen ein“, sagt ROG-Geschäftsführer Christian Mihr. „Es ist an der Zeit, die Verfolgung von Bloggern und unabhängigen Journalisten zu beenden und kritische Medien im Land zuzulassen.“ Medien und Internet in Vietnam unterliegen einem strengen System der Vorzensur durch das Propagandaministerium. Schwammige Strafgesetze wie Artikel 258 gegen den „Missbrauch demokratischer Freiheiten“ ermöglichen es, Journalisten zu inhaftieren. Regierungskritik ist verboten und die kommunistische Partei verfolgt Blogger und unabhängige Journalisten hartnäckig, oft auch mit brutaler Gewalt und unter Zuhilfenahme krimineller Gruppen. Blogs und soziale Medien sind häufig nur durch Zensurumgehungssoftware zugänglich. Die meisten Internetunternehmen sind in staatlichem Besitz und arbeiten eng mit den Zensurbehörden zusammen. Passwörter werden gehackt und an Tagen, an denen Blogger festgenommen oder verurteilt werden, werden Internetverbindungen verlangsamt. Unabhängige Medien zensiert... Trotz der Verfolgung durch die Behörden verteidigen Internetseiten wie Dan Lam Bao weiter das Recht auf Informationsfreiheit in dem südostasiatischen Land. 2009 gestartet und seitdem gesperrt, erlaubt Dan Lam Bao seinen Nutzern, ihre Meinungen frei zu äußern. Unabhängige Blogger, Journalisten der traditionellen Medien und Whistleblower aus Regierungskreisen – sie alle arbeiten mit an der Internetseite. Ministerpräsident Nguyen Tan Dung beschuldigte Dan Lam Bao, mit seinen Veröffentlichungen „die Führer der Nation zu beleidigen, die Bevölkerung gegen Partei und Staat aufzuwiegeln, Zweifel und schlechte Öffentlichkeit zu provozieren und damit das Vertrauen in den Staat zu untergraben.“ Nguyen Tan Dung ordnete das Ministerium für öffentliche Sicherheit an, gegen jeden zu ermitteln, der mit Dan Lam Bao in Verbindung stehe. Weil viele Blogger Verhaftung oder Schikanen gegen ihre Familien fürchten, können sie nur unter Pseudonym schreiben. … und entsperrt Zum Welttag gegen Internetzensur am 12. März 2015 entsperrte Reporter ohne Grenzen neun zensierte Internetseiten in elf Ländern, darunter auch Vietnam Thoi Bao, die Webseite des unabhängigen Journalistenverbands in Vietnam, und Dan Lam Bao. Exil bedeutet Freiheit Viele Blogger können nur im Exil frei arbeiten. Die Bloggerin Ta Phong Tan wurde im September nach drei Jahren Haft freigelassen. Sie veröffentlichte auf dem Blog Cong Ly v Su That (Gerechtigkeit und Wahrheit) ihre Kritik an Korruption und Menschenrechtsverletzungen durch Polizei und Justiz und wurde zu zehn Jahren Haft und fünf Jahren anschließenden Hausarrests verurteilt. Nach ihrer Freilassung reiste Ta Phong Tan direkt in die Vereinigten Staaten, wo sie bei ihrer Ankunft in Los Angeles von Nguyen Van Hai begrüßt wurde. Nguyen Van Hai, besser bekannt unter seinem Blognamen Dieu Cay, wurde zusammen mit Tan zu 13 Jahren Haft verurteilt und nach seiner Freilassung ins Exil gezwungen. Kampagne mit missio für Nguyen Van Ly Stellvertretend für viele steht der katholische Priester und Mitbegründer einer Online-Plattform für Demokratie, Nguyen Van Ly. Er sitzt im Gefängnis. Deshalb starten missio Aachen und Reporter ohne Grenzen Ende Januar 2016 eine gemeinsame Unterschriftenaktion für Nguyen Van Ly. Die Petition soll im September 2016 an die Bundesregierung überreicht werden. missio und Reporter ohne Grenzen sagen: Religionsfreiheit und Informationsfreiheit sind untrennbar verbunden und Menschenrechte sind unteilbar. Der Einsatz für bedrängte Christen und andere religiöse Minderheiten bedeutet immer auch, sich für Informationsfreiheit einzusetzen – und umgekehrt. Vietnam steht auf Platz 175 von 180 Staaten auf der Rangliste der Pressefreiheit von Reporter ohne Grenzen. 14 Blogger sitzen derzeit im Gefängnis. 2014 befanden sich drei vietnamesische Blogger unter den 100 Helden der Pressefreiheit. Das Land zählt außerdem zu den größten Feinden des Internets. https://www.reporter-ohne-grenzen.de/presse/pressemitteilungen/meldung/k... ------------------------------------------ Nguyễn Trọng Toàn chuyển sang tiếng Việt Nhân dịp chuyến thăm Đức của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang ngày mai, thứ Tư, Phóng viên Không Biên giới công kích việc kiểm duyệt nghiêm ngặt kiểm duyệt ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa này. Ai tường thuật về các vấn đề nhậy cảm sẽ bị trừng phạt nặng vì tội "lật đổ nhà nước" hay "tuyên truyền chống chính phủ". Việc giam giữ điều tra kéo dài nhiều tháng, nhưng phiên tòa xét xử thường chỉ kéo dài có một vài giờ. "Hiến pháp Việt đảm bảo về mặt lý thuyết các quyền tự do báo chí. Trong thực tế, các chính phủ dưới quyền Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hạn chế quyền này với nhiều luật ngoại lệ, Giám đốc điều hành Phóng viên Không Biên giới Đức Christian Mihr nói. "Đã đến lúc cần chấm dứt cuộc đàn áp các blogger và các nhà báo độc lập cũng như cho phép phương tiện truyền thông phê bình của đất nước." Truyền thông và internet tại Việt Nam là đối tượng của một hệ thống kiểm duyệt chặt chẽ của Bộ Tuyên truyền. Luật hình sự mơ hồ như Điều 258, chống lại "lạm dụng tự do dân chủ" dùng để bắt giam các ký giả. Chỉ trích chính phủ bị cấm và Đảng Cộng sản bắt bớ triền miên các blogger và các nhà báo độc lập, cũng thường dùng bạo lực dã man và với sự giúp đỡ của các nhóm xã hội đen. Truyền thông độc lập bị kiểm duyệt ... Blog và các phương tiện truyền thông xã hội thường chỉ có thể truy cập thông qua phần mềm vượt thoát kiểm duyệt. Hầu hết các công ty internet là của nhà nước và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan kiểm duyệt. Mật khẩu bị trộm và vào những ngày khi blogger bị bắt hoặc bị kết án, thì đường nối vào Internet bị làm chậm lại. Bất chấp sự đàn áp của chính quyền, các trang mạng như Dân Làm Báo tiếp tục bảo vệ quyền tự do thông tin tại quốc gia ở Đông Nam Á này. Bắt đầu vào năm 2009 và từ đó bị ngăn chặn, Dân Làm Báo cho phép người sử dụng để thể hiện ý kiến ​​của mình một cách tự do. Các blogger độc lập, ký giả báo giấy và người phanh phui các bí mật của chính quyền đều dùng phương tiện là các trang mạng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cáo buộc Dân Làm Báo đã "xúc phạm các nhà lãnh đạo quốc gia, kích động quần chúng chống lại đảng và nhà nước, gây nghi ngờ làm xấu công luận và do đó phá hoại niềm tin vào nhà nước." Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị cho Bộ Công an điều tra bất cứ ai có liên hệ với Dân Làm Báo. Nhiều blogger sợ bị bắt hoặc gia đình họ bị quấy nhiễu nên họ chỉ có thể viết dưới một bút danh. ... và lách kiểm duyệt Ngày thế giới chống kiểm duyệt internet 12 tháng 3 năm 2015 Phóng viên Không Biên giới đã giúp lách kiểm duyệt cho các trang mạng tại 11 quốc gia, trong đó có Việt Nam Thời Báo, trang mạng của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, và Dân Làm Báo. Lưu vong nghĩa là tự do    Nhiều blogger chỉ có thể viết tự do khi lưu vong. Blogger Tạ Phong Tần đã được tự do hồi tháng chín sau ba năm tù. Trên blog Công Lý và Sự Thật, bà đã chỉ trích nạn tham nhũng và vi phạm nhân quyền của cảnh sát, tư pháp và bị kết án đến mười năm tù và năm năm quản thúc tại gia. Tạ Phong Tần đã qua Mỹ khi được thả và được Nguyễn Văn Hải chào đón ở Los Angeles. Nguyễn Văn Hải, được biết đến nhiều hơn với tên viết blog là Điếu Cày, đã bị kết án 13 năm tù cùng với Tần và bị buộc phải lưu vong sau khi được thả. Chiến dịch với missio vận động cho Nguyễn Văn Lý Khuôn mặt tiêu biểu cho nhiều ngươì là linh mục Nguyễn Văn Lý, người đồng sáng lập của một khối trực tuyến cho dân chủ. Ông đang ở tù. Vì vậy missio Aachen [2] và Phóng viên Không Biên giới sẽ cùng đưa ra kiến ​​nghị thu chữ ký cho Nguyễn Văn Lý vào cuối tháng 1 năm 2016. Kiến ​​nghị này sẽ được trao cho chính phủ liên bang trong tháng Chín 2016. missio và Phóng viên Không Biên giới tuyên bố tự do tôn giáo và tự do thông tin không thể tách rời và quyền con người là bất khả phân. Bênh vực cho các Kitô hữu bị áp bức và tín đồ các dân tộc thiểu số khác luôn luôn có nghĩa là phải bênh vực cho tự do thông tin - và ngược lại. Việt Nam đứng hạng 175 trong 180 nước trên Chỉ số Tự do Báo chí (Press Freedom Index) của Phóng viên Không Biên giới. 14 blogger hiện đang ngồi tù. Năm 2014 có 3 blogger Việt Nam trong số 100 anh hùng của tự do báo chí. Nước này cũng là một trong những kẻ thù lớn nhất của internet. [1] Kritik an Internetzensur und Inhaftierungen, Reporter ohne Grenzen 24/11/2015 [2] missio (tiếng la tinh có nghĩa là sứ mạng) là một tổ chức truyền giáo ở Đức, Áo, Thụy Sĩ thuộc giáo hội Vatican có nhiệm vụ hỗ trợ các sinh hoạt tôn giáo ở Á Châu, Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh và Châu Đại Dương trong các chủ đề nhân quyền, hoà bình, bác ái
......

Một máy bay quân sự Nga bị bắn rơi ở biên giới Thổ Nhĩ Kỳ - Syrien

Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cho biết, một chiến đấu cơ F16 của không lực nước này đã bắn hạ một máy bay quân sự của Nga vào sáng thứ ba 24/11/2015 trên không phận biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Sirya, khi chiếc máy bay của Nga xâm phạm không phận Thổ Nhĩ Kỳ và không đáp ứng những cảnh cáo liên tục từ chiến đấu cơ Thổ Nhĩ Kỳ. Hãng thông tấn Sputnik News của nhà nước Nga cũng xác nhận đã có một chiến đấu cơ phản lực thuộc loại  Sukhoi Su-24 của Nga bị bắn rớt. Tuy nhiên hãng thông tấn này cho rằng, chiếc chiến đấu cơ của Nga bị bắn rơi do hoả lực từ dưới đất. Báo chí thuật lại lời của Bộ trưởng quốc phòng Nga nói rằng, chiếc máy bay của Nga bị hoả lực từ dưới đất bắn rơi khi đang ở trong không phận Sirya. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã công bố bản đồ radar với đường bay của chiếc máy bay bị bắn rơi cho thấy chiếc máy bay này đã xâm phạm không phận Thổ Nhĩ Kỳ. Theo tin CNN, một phi công của chiếc phi cơ bị bắn đã bung ra khỏi máy bay, nhảy dù xuống đất và đã bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ bắt giữ. Một phi công khác bị tử thương. Chiếc máy bay Nga bị bắn rơi trong vùng Latakia gần biên giới tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Trước đó đã có những cuộc dội bom tại đây. Trong tuần lễ trước cũng đã xẩy ra những cuộc giao tranh giữa quân nổi dậy và quân chính phủ Sirya trong khu vực này. Một giới chức Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng, việc bắn hạ chiếc máy bay nói trên không phải là hành động gây hấn với quốc gia nào, mà chỉ là một buớc để bảo vệ không phận của nước này. Sukoi 24  
......

Pages