Nhật ký phong thành (số 3): Sài Gòn bao nhớ

Nhạc sĩ Tuấn Khanh - Tuấn Khanh's Blog| Buối sáng thứ 3 của ngày Sài Gòn phong thành (11-7), nghe tin công an giao thông và công an chốt chặn thông báo ghi phiếu phạt những người đi đường không chứng minh được tính “chính đáng” và “cần thiết”, tổng số một ngày lên đến gần 900 triệu tiền phạt mà…ham. Trung bình một người bị phạt là 2 triệu (gần 100 đôla Mỹ). Người đi đường và nhân viên chính quyền cãi nhau ỏm tỏi được quay video, kể lại đầy trên các trang mạng xã hội. Có vẻ, khái niệm mơ hồ “chính đáng” và “cần thiết” ở trong điều luật, cũng làm nhức đầu không ít với giới thi hành nhiệm vụ. Chuyện phong thành, không ai được gặp ai ở Sài Gòn, hoàn toàn khác hẳn với các quốc gia hay được nghe kể chuyện ở như Anh, Pháp, Mỹ, Úc…  Ở mấy xứ đó, người ta chỉ cần ở yên trong nhà, chính phủ sẽ yểm trợ nhiều thứ, bao gồm luôn cả gửi tiền ăn, miễn phí tiền thuốc… Còn ở Sài Gòn nói riêng, Việt Nam nói chung, phong thành đem lại biết bao nỗi lo của dân thường. Đặc biệt còn là nỗi lo của những người làm thiện nguyện, của những tổ chức phi chính phủ đang giúp người nghèo chạy bữa ăn. Nỗi lo dễ thương đến mức “nếu không phát cơm được, những người đó sẽ sống sao?”. Những lời than thở như vậy xuất hiện khắp nơi, thậm chí họ gọi cả chủ tịch phường, chủ tịch quận để chất vấn như gây gỗ. Sợ từng phần cơm không đến được người nhận, mà lo vậy đó. Chuyện ở quán cơm từ thiện Nụ Cười 1 (Trần Hưng Đạo, Q.5, Sài Gòn) là một ví dụ. Mấy anh em đây nghĩ rằng giãn cách thì giãn cách, nhưng chuyện phần ăn của người nghèo thì vẫn phải lo. Anh Tập Nguyễn, một trong những người tham gia công việc này, kể rằng tuy vẫn xắn tay áo làm, cứ phập phồng lo khó khăn sẽ sớm xảy ra. Nhưng rồi cứ nghĩ tới chuỗi ba quán cơm Nụ Cười như vậy, mỗi ngày chu cấp cho 1500-1800 người nghèo, nay đột ngột ngừng, họ sống sao? Dân nghèo Sài Gòn có đủ dạng. Từ người lao động nghèo, đến người già, đau yếu không khả năng tự nuôi mình, đến người bệnh không có tiền đóng tiền cơm tháng ở bệnh viện… Không chỉ quán Nụ Cười, mà hàng hàng lớp lớp những nhóm, những quán, những người tự nguyện… vẫn chia sẻ miếng ăn hàng ngày với đời khốn khó. Không có ai thống kê, nhưng không biết bao nhiêu là con người Bắc-Trung-Nam vẫn âm thầm cùng tựa vào nhau để đi, trên đất Sài Gòn này. Có người sống đến hết đời vẫn khổ. Nhưng có người may mắn thoát lên, họ lại nối tiếp, trả ơn cho đời bằng chính khả năng của mình. Có người bạn nhạc sĩ từ Hà Nội vào, hắn viết trên facebook kể rằng đường đi dạy về nhà, lúc nào cũng phải qua 2 cây cầu. Thoạt đầu hắn ngạc nhiên vì không hiểu sao luôn có nhiều người ngồi ở hai bên thành cầu từ chiều tối. Cho đến một ngày, hắn nhìn thấy lúc sẫm tối, những thanh niên, những nhóm xe chở thực phẩm ghé vào đưa cho từng người, thì sửng sốt. Hóa ra, đó là giao ước đô thị không lời: Người nghèo cứ ở những nơi dễ tìm nhất, họ sẽ được ai đó giúp thức ăn, nước uống. Thậm chí nửa đêm mưa đổ, vẫn có những nhóm thiện nguyện chia nhau chạy đi, phát quần áo cũ, áo mưa cá nhân và bánh mì. Bất kể là ai, dù đó là một người ăn mày, một người, lang thang bụi đời hay một gã xì ke ma túy nào đó, cũng được nhận khi cần. “Tôi là người sống ở Hà Nội, nhưng ít khi nào nhìn thấy điều cảm động như vậy. Tuyệt vời Sài Gòn ơi”, anh ta kể. Quay lại chuyện quán cơm từ thiện Nụ Cười 1. Y như rằng, sáng sớm lúc 6g30, lúc anh khoe rằng mọi người đang chuẩn bị hàng trăm phần cơm, làm thịt kho tiêu thiệt ngon cho bà con, thì điện thoại từ Ủy ban Phường gọi tới, nói dẹp liền tay. Anh nấy buông tay, bàng hoàng. Điều đầu tiên họ nghĩ tới, là chuyện thất hứa với hàng trăm con người không quen. Hàng trăm con người đó sẽ không biết bấu víu vào đâu hôm nay, ngày phong thành mọi nơi vắng ngắt. Anh Tập kể, khi quán thông báo phải nghỉ bán-cho cơm, người tìm đến như không muốn tin, vẫn nấn ná đứng lại chờ. Không ai đành lòng nhìn cảnh ấy, quán đành phải kéo cửa xuống. Ấy vậy mà họ vẫn đứng ngoài nói vọng vào năn nỉ: “Tụi tui đâu có chen lấn, đâu có xúm lại đâu. Cho tụi tui lấy cơm đi!” 3 ngày đầu giãn cách ở Sài Gòn vậy đó. Lệnh trên ban xuống phong thành, thì cứ bắt buộc thi hành, không cần biết – hay không chịu tìm hiểu cặn kẽ – để tìm một giải pháp thích nghi cho một đô thị lớn, muôn mặt phức tạp nhất trên đất nước này. Nhiều nơi làm từ thiện phải vào hoạt động du kích: Đóng cửa làm việc, cho người lén lút đi phát, hoặc thông báo riêng cho những khách khó khăn quen thuộc, ghé qua, nhìn quanh, lấy phần rồi lẩn đi. “Tại sao người có tiền xếp hàng mua thực phẩm ở siêu thị trong những ngày này được coi là “lý do chính đáng được ra đường” trong khi người nghèo cùng kiệt xếp hàng trật tự chờ những phần cơm từ thiện thì bị coi là nguy cơ lây lan dịch bệnh?”, anh Tập Nguyễn đặt câu hỏi. Nhưng những người làm từ thiện như anh Tập Nguyễn không chịu bó tay, dễ dàng chấp nhận các chỉ thị lạnh lùng ấy. Những cuộc gọi, nhắn tin, vận động, thuyết phục… diễn ra liên tục. Cuối cùng thì tới chủ tịch Quận 5 cũng mềm lòng, cho phép tuần thứ hai giãn cách, quán Nụ Cười sẽ bắt đầu lại, nhưng chỉ cho mang cơm đến các khu cách ly. Dù chỉ mới là giúp cho các khu cách ly thôi – cũng đã là một bước tiến đáng mừng nên họ đành chấp nhận trước cánh cửa hẹp đó. Ở Việt Nam, cứ cố, và có còn hơn không. Nhưng còn những người nghèo khác thì sao, những người cần miếng ăn ngoài khu cách ly? Tôi không thể kể ở đây được với các bạn. Vì chắc chắn những nơi như quán Nụ Cười sẽ không bỏ cuộc, dù có bị xem là hành động “bất hợp pháp” trong những ngày quay quắt tình đồng bào. Cũng trong ngày 11/7, chuyện một anh làm truyền thông ở điểm từ thiện trong Sài Gòn, phát cơm từ thiện nhưng nhận xét khắc nghiệt quá, khiến dân chúng khắp nơi giận dữ. Anh này có giọng lạnh lùng phê phán cách ăn mặc của người đi nhận cơm, hoặc kết án là lợi dụng bữa cơm từ thiện, qua video, khiến nhiều người khó chịu. “Cho người ta cơm, mà nói trên đầu người ta thì còn ý nghĩa gì?”, một người lên Tiktok, làm hẳn một video dài để phản ứng. Một người khác thì nói trên facebook “Giọng này không là người Sài Gòn. Kiểu cho cũng không là Sài Gòn, vậy thì đừng làm ô danh tấm lòng Sài Gòn”. Sài Gòn vậy đó, cho cũng phải nhẹ nhàng, vui vẻ. Có cho cũng mang theo tình thương chứ không là của mạt thí bỏ đi. Dân chúng nói quá, đến mức chịu không nổi, đến chiều tối, anh ấy phải tự quay video xin lỗi mọi người. Diễn biến nhanh, bùng lên dữ dội, có kết quả trong chỉ có một ngày. Mau mắn y như cách người Sài Gòn vừa nghe lệnh phong tỏa, đã ngồi xuống bàn với nhau, ngày mai dù có “bất hợp pháp”, ta cũng sẽ phát cơm từ thiện như thế nào để đến được với người nghèo. Ai đi xa Sài gòn rồi sẽ nhớ lắm, những câu chuyện như vậy. Nhớ ơi là nhớ. Nhớ những thứ vụn vặt không thành lời nhưng lại chính là linh hồn đô thị. Nhớ đến bật cười, mà có khi quay mặt vào, nước mắt lại chảy quanh. Nhạc sĩ Tuấn Khanh    
......

Những gì tốt đẹp sẽ không chết!

Phụ nữ Afghanistan dự một sự kiện nhân ngày Quốc Tế Phụ Nữ tại Kabul, Afghanistan. Ngô Nhân Dụng - VOA| Quân đội Mỹ sẽ rút khỏi Afghanistan vào tháng Chín, sau khi đánh đuổi chính quyền Taliban ra khỏi thủ đô Kabul cuối năm 2001. Các chính phủ Mỹ giúp xây dựng chế độ dân chủ ở Afghanistan. Nhưng quân Taliban không tan rã mà ngày càng mạnh hơn. Quân Mỹ sắp rút đi, nước Afghanistan chưa biết số phận sẽ ra sao. Nhưng trong gần 20 năm qua, xã hội Afghanistan thay đổi. Thành phố Kabul đã lên tới 6 triệu dân, với các cao ốc, những khu thương mại, các quán cà phê, rạp chiếu bóng và nhà tập thể thao. Điện ảnh, âm nhạc, truyền hình đã bùng phát. Thanh niên sống lối mới, khác hẳn chủ trương Hồi Giáo cực đoan thời Taliban. Nhiều phụ nữ đã bỏ khăn che kín mặt, khi ra đường không cần đàn ông đi kèm; con gái cũng được đi học. Họ dùng Facebook và Instagram, coi các phim ảnh, chương trình văn nghệ, nuôi dưỡng những ước mơ, khát vọng mới như thanh niên khắp thế giới. Các đại học công và tư nở rộ ở thủ đô Kabul, hàng trăm ngàn sinh viên đã tốt nghiệp. Đại học American University of Afghanistan mở lớp đầu năm 2006 với 51 sinh viên, trong đó chỉ có một cô gái. Quân Taliban đặt bom phá đại học này năm 2016. Năm 2021, nữ sinh viên chiếm 40% trong số 250 người tốt nghiệp. Quân Taliban sẽ chấm dứt lối sống “mới” này. Người dân Kabul có tiền đang lo mua chiếu khán, visa, qua các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, U.A.E., Uzbekistan và Tajikistan. Nhật báo The Wall Street Journal kể chuyện một nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng 24 tuổi đang đi Australia thăm người chị nghe bà mẹ van nài “Con đừng về!” Một nữ nhạc sĩ 26 tuổi đã từng đi trình diễn 10 lần ở các nước Nam Hàn, Đức và Trung Quốc, đang không biết số phận mình sẽ ra sao. Vì trong chế độ Taliban con gái không được học đàn, không được dậy đàn. Chúng ta có thể tin rằng những người Afghanistan lớn lên trong cuộc sống tự do sẽ không thể nào quên được! Họ sẽ nhớ những kỷ niệm của quãng đời 20 năm ngắn ngủi mãi mãi. Cũng giống các công dân Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975 nuối tiếc cuộc sống cũ! Khi bị cường quyền áp chế, người ta mới biết quý hai chữ “Tự Do” dù tự do giới hạn! Nhưng không phải chỉ những người Việt ở miền Nam mới tiếc nuối nếp sống trước khi bị “giải phóng,” mà nhiều đồng bào miền Bắc cũng tiếc giùm! Việt Nam khác Afghanistan ở điểm này! Đám quân Taliban sẽ không thích, không chấp nhận đám thanh niên lớn lên trong tự do dân chủ. Ở Việt Nam thì khác. Ngay sau năm 1975, nhiều người dân miền Bắc vào trong Nam, ngoài những ngạc nhiên về tiến bộ kinh tế, họ còn nhận thấy cuộc sống tương đối dân chủ, tự do tạo nên những kết quả tốt đẹp trong văn hóa, trong đạo đức mà họ không thấy dưới chế độ cộng sản. Các nhà văn từ Dương Thu Hương tới Trần Đĩnh đã làm chứng điều này. Vào Sài Gòn, Trần Đĩnh có lúc sững người khi thấy cảnh đám tang đi qua mà có người đi đường đã dừng lại, bỏ mũ, cúi đầu ! Phép lễ độ bình thường đó đã biến mất ở miền Bắc không biết từ bao giờ! Cho tới 45 năm sau, vẫn còn có nhà văn suy nghĩ về cung cách ứng xử của một thi sĩ miền Nam, để nhìn nhận rằng những công dân Việt Nam Cộng Hòa “Chính họ là niềm hy vọng của dân tộc chúng ta.” Ông Vương Trí Nhàn đã thổ lộ điều này khi đọc bài thơ “Ta Về” của Tô Thùy Yên mà ông biết rất nhiều người thú nhận đã đọc lên rồi thì không ngưng được. Ông viết bài “Từng Có Một Nơi Hoàn Cảnh Không Thể Làm Hỏng Con Người” ngày 6 tháng 6, 2020, một năm sau khi nhà thơ qua đời ở Texas, nước Mỹ. Năm 1975, nhà thơ Tô Thùy Yên bị đi “tù cải tạo” như mọi sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa khác. Được ra tù năm 1985, nhà thơ kể lể tâm sự trong bài thơ dài “Ta Về.” Vương Trí Nhàn thấy bài thơ “nó cho ta thấy cái cao thượng của những con người bị rơi vào hoàn cảnh bên thua cuộc và sau đó là tù đày cực khổ mà vẫn giữ được lòng mình trầm tĩnh,… Chắc Vương Trí Nhàn nhớ đến những câu thơ trầm tĩnh, khiêm cung như: “Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi” Vương Trí Nhàn cảm phục thi sĩ, “… con người trong cảnh khốn cùng tuyệt đối không thấy bộc lộ ra một chút nào gọi là oán thù căm giận trách móc. Thay vào đó là sự tin yêu trầm lắng mà lại dai dẳng ...” Con người đó là một tù binh đã chịu 10 năm đầy đọa, Mười năm mặt xạm soi khe nước Ta hóa thân thành vượn cổ sơ Nhưng vẫn giữ được lòng tin yêu hồn hậu “Ta về như lá rơi về cội Bếp lửa nhân quần ấm tối nay” Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống Giải oan cho cuộc biển dâu này” Vương Trí Nhàn thổ lộ, “…trong những năm chiến tranh, nhiều người ở miền bắc chúng tôi thường tự nhủ rằng mình đã đi đến tận cùng của sự đau khổ; và tự hào là những hoàn cảnh khó khăn không làm gì được mình, trước sau mình vẫn nguyên vẹn. Hóa ra chúng tôi nhầm..” Đọc bài thơ “Ta Về,” Vương Trí Nhàn nhớ lại nhiều cuộc tiếp xúc với con người ở miền nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng như đọc những sách nghiên cứu khoa học xã hội xuất bản tại Sài Gòn, ông nhận ra rằng những người sống ở miền Nam không bị hoàn cảnh chiến tranh làm cho tâm hồn tê cứng, không sống liều lĩnh bất chấp hậu quả trên người khác. “Tôi hiểu rằng ở xã hội đó, văn hóa vẫn còn... Cái sức mạnh tinh thần của Tô Thùy Yên... là kết quả của một nền giáo dục nhân bản và giữ vững chuẩn mực.” Từ nhận xét về một bài thơ Tô Thùy Yên, Vương Trí Nhàn so sánh nền nếp sống của hai miền Nam, Bắc. Ông thấy trong khi ở miền Bắc “Một cái gì đó rất tốt đẹp đã chết đi trong chúng tôi” thì tại miền Nam “…có những con người được giáo dục theo kiểu khác, có những niềm tin khác, bị những quy luật khác chi phối, và nay nhiều người vẫn đứng vững trước mọi biến động để làm ăn sinh sống rất tử tế.” Ông nêu lên niềm hy vọng, “…trong tình thế ngổn ngang của cả nước hôm nay những người còn được cái căn bản của con người ấy mới chính là cái tương lai là niềm hi vọng của cả xã hội.” Ông nói thêm: “Mà điều đó không phải là ngẫu nhiên vì nó đã được chuẩn bị từ trong cuộc sống hai mươi năm 1955-1975.” Tại sao người dân miền Nam đã “còn được cái căn bản của con người” khác hẳn các đồng bào miền Bắc như vậy? Năm 1975 một người bạn tôi từ Sài Gòn về thăm làng cũ ở miền Bắc. Trở về, anh Nguyễn Văn Lan nhận xét: Hình như không ai còn suy nghĩ bằng các khái niệm thiện hay ác nữa. Khi làm việc gì, mối quan tâm duy nhất của họ là có sợ bị công an bắt hay không. Dân miền Nam may mắn không phải chịu đựng chế độ cộng sản trong 20 năm. Họ vẫn sống theo nền nếp giáo dục, đạo lý tổ tiên để lại. Nhờ thế họ vẫn giữ được “cái căn bản của con người” khiến Vương Trí Nhàn cảm động. Dân Afghanistan chỉ được nếm mùi sống tự do dân chủ trong 20 năm. Chính phủ Mỹ hứa sẽ giúp những thông dịch viên đã cộng tác với họ di tản, sang nước Mỹ. Không biết trong số đó có bao nhiêu thi sĩ? Một nhà báo, ông Hamid Haidari đứng đầu ban Tin Tức đài 1TV đang tự hỏi: Khi quân Taliban chiếm lại Kabul thì chúng tôi sẽ sống thế nào? Có nên bỏ chạy không? Đi đâu? Làm cách nào đi được? Tháng Giêng năm nay ông bị đe dọa ám sát, đã chạy qua Ấn Độ, sau ba tháng lại trở về; trong khi các nhân viên đài truyền hình từ các tỉnh đang chạy về thủ đô lánh nạn. Haidari còn nhớ năm lên bảy tuổi, 1996, đã chứng kiến cảnh quân Taliban vào chiếm thủ đô. Chúng đi gõ cửa từng nhà, bắt người, đem ra đường hành quyết. Chủ nhân đài, ông Fahim Hashimy, đang chuẩn bị đem máy móc qua một nước khác, Thổ Nhĩ Kỳ hay Uzbekistan. Ông tính sẽ làm một đài truyền hình “bỏ túi” và “lưu động” để tiếp tục gửi tin tức về trong nước. Sẽ có ngày dân Afghanistan được coi các chương trình truyền hình đó. Và sẽ có người nhớ lại cuộc sống cũ, cũng ngậm ngùi như Vương Trí Nhàn, nhận ra “một cái gì đó rất tốt đẹp đã chết đi trong chúng tôi!” Không đâu. Những cái gì tốt đẹp sẽ không chết!  
......

Góp ý cùng ông Bộ trưởng Bộ Y Tế.

Phạm Ngọc Thắng| Thưa ông, hôm nay tôi thôi... sẽ không mắng ông như mắng đàn em hay mắng học trò nữa. Tôi sẽ góp ý với ông như hai bác sỹ, hai nhà đầu tư y tế, hai nhà quản lý y tế nói chuyện với nhau. 1- Khẩn trương thành lập bệnh viện dã chiến hơn 16.000 giường ở TP.HCM là thế nào đây!? Số lượng 16.000 giường ở đây cần rõ ràng ra, giường là giường bệnh hay chỉ đơn thuần là giường để cho người nằm. Hai khái niệm này khác nhau hoàn toàn, ông nhé. Nếu chỉ là giường nằm để nhốt các loại F, thì vô nghĩa. Các trại tập trung ở Tp.HCM đã tỏ ra bất cập đến mức thế nào, chắc ông biết rồi; các trại tập trung ở Bắc Giang hiệu quả thế nào-ông biết rồi; dân Bình Thuận phá tường bệnh viện trốn chạy thế nào-ông biết rồi; hậu quả lây nhiễm chéo trong trại tập trung-ông biết rồi... tôi không nói nữa. Còn nếu là 16.000 giường bệnh thì hỡi ơi, ông ơi, có thể hiểu nó là thế nào không, ông ơi. Để tôi nói cho mà nghe. Một bệnh viện 1000 giường, tiền xây dựng nó vào khoảng 7000-8000 tỷ đồng; tiền trang bị cũng bằng thế nữa; tiền đào tạo, tái đào tạo và vận hành cho đến khi hiệu quả cũng bằng từng ấy nữa. Vị chi, một tỷ đô la Mỹ cho một bệnh viện 1000 giường. Các ông nói khơi khơi cho sướng mồm, cho tăng thành tích thôi; chứ 16.000 giường bệnh là tương đương 16 cái Bệnh viện Bạch Mai, 16 cái Bệnh viện Chợ Rẫy, 16 cái Bệnh viện trung ương quân đội 108... là 16.000.000.000,0 đô la Mỹ ( Mười sáu tỷ đô la Mỹ viết bằng chữ!). Nói thêm: Bất cứ cái bệnh viện nào trong mấy bệnh viện nêu trên kia bán 1,5 tỷ đô la, tôi và anh em cũng bằng mọi giá kiếm tiền mua ngay chứ không để cho Singapore mua như đã thôn tính Vinmec Hà Nội đâu!. Thêm, nhân lực lấy đâu ra!? Một bệnh viện 500 giường bệnh, cần 200-300 bác sỹ; 500-700 điều dưỡng và tưng ấy người phục vụ không chuyên môn y tế. Với 16.000 giường bệnh thì không thể nhân lên 32 lần đơn thuần con số cứng kia được, nó khác đấy. Chỉ có tăng lên không giảm đi được đâu nhé. Còn nữa, kể cả dùng quyền lực huy động 10.000 nhân viên y tế cho Tp.HCM đi nữa, thì với số lượng nhân viên tưởng tượng kia, trong số đó lấy đâu ra Giáo sư tiến sỹ để chỉ đạo dậy dỗ; lấy đâu ra đủ số bác sỹ cao cấp, bác sỹ chính để làm giám đốc-phó giám đốc; làm chủ nhiệm- phó chủ nhiệm khoa; lấy đâu ra số bác sỹ, điều dưỡng có đủ chứng chỉ hành nghề để ký sổ, ký bệnh án hay ký biên bản hoạt động của máy móc trang bị. Lấy đâu ra một lúc từng đấy tiền, lấy đâu ra từng ấy chuyên viên, nhân viên y tế cho 16.000 giường bệnh. Còn chỉ là 16.000 giường để giam giữ F0, thì cũng hoàn toàn bất hợp lý. Theo Báo cáo ngày 4/7 của Bộ Y tế Việt Nam công bố, số người nhiễm covid-19 là 19,933 case được xác nhận trong phòng thí nghiệm từ 58/63 tỉnh thành. trong đó có 86 case tử vong từ tháng 1/2020; số hồi phục là 39,4%; có 8.337 bệnh nhân đang nằm viện tại 115 bệnh viện ở 47 tỉnh thành. Còn lại 96.6% không có triệu chứng bệnh hay chỉ có dấu hiệu bệnh lý nhẹ không cần chăm sóc bệnh viện. Không cần tới 16.000 giường giam nhốt. Số giường bệnh khẩn cấp chỉ nên tạm tính trong Chiến lược dự phòng thảm họa; còn việc triển khai tùy theo diễn biến của bệnh phải căn cứ vào thực tế. Ông bộ trưởng đã bỏ qua thực tế của hiện trạng y tế thành phố Hồ Chí Minh; bỏ qua lực lượng nhân viên Y tế và đồng bào Thành phố đang ngày đêm cùng nhau tận lực miệt mài chiến đấu vì sức khỏe con người. Ông Long ơi, thôi hô khẩu hiệu, thôi chạy theo thành tích, thôi "Nói cho vui tai, nổ cho sướng mồm" đi được rồi đấy. 2- Việc sử dụng những khái niệm, những định nghĩa sai trái xuất phát từ ông bộ trưởng, người đứng đầu hệ thống y tế Việt Nam đã làm loạn xã hội. Cộng thêm những việc làm chưa minh bạch càng làm rối, làm lãng phí thêm nữa. Đơn cử: - Ông học trường nào ra mà đẻ ra một thể bệnh mới: Thể bệnh không có triệu chứng lâm sàng!? - Người thầy nào dậy ông: Chỉ cần người có kết quả dương tính với mầm bệnh là ông gọi họ là bệnh nhân và truy xét, giam nhốt cách ly như tội phạm!? - Việc coi là chữa khỏi bệnh cho người nhiễm covid-19 sau ba lần xét nghiệm âm tính đã đúng chưa khi chỉ dùng thuốc chữa triệu chứng như hạ sốt, uống sinh tố, bổ sung dịch điện giải... là những việc hoàn toàn có thể hướng dẫn cho bất cứ người dân nào trên 15 tuổi để họ tự chăm sóc bản thân tại gia. Chúng tôi cần Minh bạch về khoản kinh phí khổng lồ đã chi trong chiến dịch này. - Mập mờ giữa việc Chăm sóc bệnh viện thông thường với việc Chăm sóc tăng cường đã dẫn tới ngầm hiểu: Đã vào viện có nghĩa là chuẩn bị thở máy, chuẩn bị ECMO, chuẩn bị lọc máu, chuẩn bị chết... những việc hết sức nặng nề, gây hoảng loạn xã hội. 3- Xin góp ý với ông, buộc phải cần phân loại rõ: Đâu là nhóm High-risk Factor với phơi nhiễm; nhóm Phơi nhiễm expose; nhóm dễ nhiễm; nhóm dễ phát bệnh; nhóm dễ biến chứng nặng; nhóm cần điều trị tăng cường, nhóm cần can thiêp y tế chuyên khoa sâu; nhóm đe doa tử vong; nhóm tối khẩn cấp. Từ đó, đặt ra Chiến lược xử trí chuẩn, đồng bộ. Gồm: - Nhóm High-risk factor, dễ phơi nhiễm: Giáo dục kiến thức y khoa cơ bản, tăng cường bổ sung sinh tố, vi lượng, thực phẩm chức năng nâng đỡ cơ thể tại nhà, từng người. Nhắc nhở và yêu cầu liên hệ với nhân viên y tế cơ sở gần nhất. - Nhóm đã nhiễm mầm bệnh: Đăng ký theo dõi trực tiếp hay bằng các ứng dụng Công nghệ thông tin chung. Phân loại và nhắc nhở nếu có triệu chứng phát bệnh buộc liên hệ với Cơ sở chữa bệnh gần nhất để được theo dõi và luôn luôn được cân nhắc: Cần/chưa cần nhập viện để được chăm sóc bệnh viện. - Nhóm phát bệnh điển hình: Nhập các khoa bệnh truyền nhiễm để được theo dõi và điều trị. - Nhóm biến chứng: Chuyển khu Điều trị tăng cường trong các khoa bệnh để có thể cấp cứu ban đầu và chuyển tới khoa ICU càng sớm càng tốt. - Các Khoa ICU cần được trang bị tốt hơn nữa về Nhân lực, vật lực và tài lực: Tăng cường số bác sỹ đủ năng lực chỉ huy, điều khiển Thở máy, lọc máu, ECMO... Tăng cường trang thiết bị, tăng cường chế độ bồi dưỡng đặc biệt cao để không mất người trong chiến dịch. Tạm vậy thôi. Chú thích các ảnh khác trong bài, tôi sẽ viết cụ thể trong từng bức hình. Kính chúc ông bộ trưởng Bộ Y tế mạnh khỏe, minh mẫn, bình tĩnh hơn nữa để hoàn thành sứ mệnh hét sức nạng nề của mình./. Bác sỹ Phạm Ngọc Thắng.
......

Việt Nam: Cơn ác mộng mới chỉ bắt đầu

Tân Phong - Web Việt Tân| Sụp đổ về hệ thống y tế và những thảm họa nhân đạo chực chờ Việt Nam đã ghi nhận số ca lây nhiễm Covid-19 vượt mức 1000 ca/ngày kể từ hôm 5 tháng Bảy. Không có dấu hiệu gì cho thấy cơn ôn dịch được kiểm soát sau những khẩu hiệu “đao to búa lớn” của giới chức CSVN. Thành Hồ sau tuyên bố không áp dụng Chỉ Thị 16 trên hệ thống truyền thông ngày 6 tháng Bảy thì tới ngày mồng 9 đã đột ngột phong tỏa thành phố. Mỗi ngày, số F0 được phát hiện mới lại phá kỷ lục của hôm trước đó. Sự hỗn loạn trong tất cả các khâu điều hành phòng chống dịch, từ phong tỏa giãn cách, thực hiện nguyên tắc 5K đến xét nghiệm tầm soát, tiêm phòng vaccine đều để xảy ra những bất cập, khiến cho toàn bộ TP.HCM và các tỉnh thành lân cận khu vực phía Nam đã ở trạng thái ngoài tầm kiểm soát. Diễn biến nghiêm trọng mới đây là việc lây nhiễm trong các trại giam Chí Hòa và Bố Lá. Sở Y Tế thành Hồ cho biết một phạm nhân 26 tuổi đã tử vong vì “viêm phổi, suy đa tạng và sốc nhiễm trùng,” 36 phạm nhân và 44 cán bộ quản giáo trại giam Chí Hòa bị nhiễm Covid-19. Dường như đã có một “cuộc nổi loạn” ở khám Chí Hòa khi người ta nghe thấy nhiều tiếng súng nổ. Tờ Tuổi Trẻ hôm 7 tháng Bảy đưa tin này, sau đó đã rút bài. Việc bưng bít các thông tin nhạy cảm liên quan tới an ninh trật tự xã hội ở Việt Nam là “chuyện thường ngày ở huyện.” Nhưng vấn đề là giới chức CSVN sẽ có biện pháp gì trước nguy cơ hiện hữu một thảm họa nhân đạo sẽ xảy ra trong vòng 10 ngày tới ở những trại giam luôn chật cứng người và điều kiện vệ sinh tồi tệ này? Một số tờ báo khác như VnExpress, Pháp Luật TP.HCM, Thanh Niên vẫn còn truy cập được cho biết, ổ dịch Khám Chí Hòa ghi nhận ca đầu tiên dương tính vào ngày 27 tháng Sáu khi có cán bộ trại giam đi khám tầm soát tại Bệnh viện quận Bình Thạnh. Như vậy, nguồn lây nhiễm từ cán bộ quản giáo và câu hỏi là trong tình trạng dịch bệnh phức tạp diễn ra suốt gần 2 tháng qua, không có qui trình kiểm soát nguồn lây cũng như các qui định phòng chống dịch bệnh được áp dụng cho đội ngũ cán bộ, nhân viên của trại giam? Ai sẽ chịu trách nhiệm sức khỏe và tính mạng cho hàng ngàn phạm nhân trong hai trại tù này? Ngay khi phát hiện ca F0 đầu tiên ở khám Chí Hòa hôm 27 tháng Sáu, trại giam nầy đã tiến hành xét nghiệm và phát hiện 81 ca F0 vào ngày 28 tháng Sáu. Nhưng trên thực tế, luôn luôn có những F0 không có biểu hiện và cho kết quả test nhanh âm tính. Việc bố trí không gian và điều kiện cách ly các F1 ở các trại giam xứ “thiên đường CSVN” là một điều bất khả thi. Khả năng tách và điều chuyển các phạm nhân bị nhiễm bệnh về cơ sở y tế hoặc cách ly bên ngoài cũng không thể vì sẽ kéo theo hàng loạt các biện pháp an ninh tốn kém khác. Chưa kể tới việc các cơ sở cách ly và điều trị Covid-19 hiện đang ở tình trạng quá tải, nguy cơ lây nhiễm chéo nghiêm trọng và không có vaccine cũng như thuốc điều trị cho phạm nhân. Như vậy, gần như chắc chắn, sẽ có một thảm họa nhân đạo xảy ra ở những trại giam đã để lọt mầm bệnh Covid-19. Giới cầm quyền vô nhân tính sẽ làm một việc duy nhất là xiết chặt an ninh, đàn áp, giấu diếm thông tin và …đếm xác tù trong thời gian tới. Hệ thống chính trị và y tế vẫn kiên định theo chiến lược phòng chống dịch cũ và ngày càng mang đậm nét một cuộc tuyên truyền “chống dịch như chống giặc.” Những cuộc lấy mẫu xét nghiệm, tiêm chủng, phong tỏa mở rộng, qui mô hàng chục ngàn người. Hàng sư đoàn sinh viên y tế vào thành Hồ, tham gia lấy mẫu, quay phim chụp ảnh, post hình tràn ngập trên các mạng xã hội và truyền thông báo chí tập trung đăng tải những hình ảnh xúc động, những comment rất hot trend, rất yêu nước, rất đoàn kết. Phải công nhận là tuyên giáo chống dịch có khác. Tuy nhiên, kết quả thực tế thì đi ngược với những nỗ lực của chính quyền. Đám “giặc Covid-19” chẳng coi nỗ lực “chuyển từ phòng thủ sang tấn công” của hệ thống chính trị và y tế Việt Nam là cái đinh gì. Số ca nhiễm F0 đang tăng theo cấp số lần chỉ sau trung bình 7 ngày và số tử vong không được thống kê đầy đủ đã vượt con số 105. Thực ra, hệ thống y tế Việt Nam thất thủ ngay thời gian đầu của đợt dịch lần thứ 4 bùng phát khi hàng loạt các bệnh viện tuyến trung ương phát hiện lây nhiễm Covid-19. Biện pháp phong tỏa và dồn bệnh nhân sang các bệnh viện khác đã làm tệ hại thêm tình hình, gia tăng áp lực và rủi ro cho các bệnh viện chưa bị Covid-19 tấn công. Việc điều hành và tổ chức kém cỏi ở TP.HCM tới mức khó hiểu khi liên tục để tình trạng tắc nghẽn, dồn ứ hàng ngàn người ở những điểm xét nghiệm, chủng ngừa vaccine, tăng thêm rủi ro siêu lây nhiễm trong cộng đồng. Có vô số những sai lỗi kỹ thuật diễn ra phổ biến ở hầu hết những điểm lấy mẫu xét nghiệm Covid-19. Lấy một ví dụ điển hình nhất là mỗi kỹ thuật viên có thể tiếp xúc với hàng ngàn người trong một ca làm việc mà chỉ thay 2-3 đôi găng tay. Chỉ riêng một thao tác này đủ khiến mầm bệnh lây nhiễm không tưởng tượng nổi, chưa kể việc quá tải và tắc nghẽn thường trực, kéo dài ở các điểm lấy mẫu và tiêm chủng đã góp phần khiến số F0 tăng cao với tốc độ chóng mặt. Ngay cả khi được tăng cường nhân lực y tế từ các trường y của các tỉnh miền Bắc, tình hình không được vãn hồi và việc điều hành vẫn như “gà mắc tóc,” để xảy ra nhiều tai tiếng. Vấn đề ở chỗ là hệ thống y tế ở TP.HCM đã quá tải về hạ tầng y tế trong khi hệ thống chính trị chỉ làm được công việc “bắt hốt, ngăn sông cấm chợ.” Sự can thiệp quá mức của các mệnh lệnh chính trị và các khẩu hiệu sáo rỗng, dốt nát đã biến nỗ lực chống dịch thành một cuộc trình diễn chính trị hoang phí và một cuộc tự sát tập thể. “Công lớn” này phải được ghi cho cựu Phó Ban Tuyên Giáo Trung Ương Nguyễn Thanh Long. Khác với các quốc gia khác, hệ thống chính trị và an sinh xã hội ở Việt Nam không có khả năng cung ứng các nhu cầu tối thiểu về lương thực thực phẩm cho các thành phố lớn bị phong tỏa. Việc phong tỏa hoàn toàn những thành phố như HCM, Đồng Nai, Tân An… sẽ khiến hàng chục triệu dân nghèo tuyệt đường sinh nhai, không thể tồn tại. Sự ngu dốt và vô nhân tính này của chính quyền CSVN sẽ dẫn tới hậu quả là một cuộc khủng hoảng nhân đạo sẽ xảy ra trong thời gian 1 tháng tới đây. Sẽ có hàng chục ngàn thương vong vì đói khát, vì bệnh tật không được cứu chữa kịp thời và dịch bệnh bùng phát dữ dội trong các trại tù, bệnh viện dã chiến và khu cách ly tập trung không đủ trang thiết bị, vật tư y tế và nhân lực. Sụp đổ về hệ thống an sinh xã hội Ngày 6 tháng Bảy vừa qua, Tổng Cục Thống Kê (GSO) công bố báo cáo tình hình lao động việc làm Quý II và 6 tháng đầu năm 2021. “Theo đó, trong quý II và 6 tháng đầu năm 2021, thị trường lao động Việt Nam đã bị ảnh hưởng do sự bùng phát lần thứ 3 và thứ 4 của đại dịch Covid-19. Trong quý II, cả nước có 12,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19, bao gồm người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập. So với quý trước, dịch đã làm tăng thêm 3,7 triệu lao động rơi vào tình trạng bị ảnh hưởng tiêu cực. Trong tổng số 12,8 triệu người bị tác động tiêu cực bởi đại dịch Covid-19, có 557.000 người bị mất việc, chiếm 4,4%; 4,1 triệu người phải tạm nghỉ/tạm ngừng sản xuất kinh doanh, chiếm 31,8%; 4,3 triệu người bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên, chiếm 34,1% và 8,5 triệu lao động bị giảm thu nhập, chiếm 66,4%.” Có lẽ đây là “một nửa sự thực” có phần khả tín nhất trong các con số thống kê ma của GSO. Tuy vậy, nó cũng đã nói lên phần nào bức tranh bi thảm của “nền kinh tế rỗng” vẫn đang ngạo nghễ với những con số tăng trưởng GDP đầy ma mị. Con số 12,8 triệu lao động bị “tác động tiêu cực” này dựa trên số lao động có hợp đồng và có thể thống kê được, nhưng con số lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức, lao động tự do chiếm khoảng 55% tổng số lực lượng lao động thì không thể thống kê được. Những con số của GSO đã gần với con số 17 triệu người thất nghiệp hay mất 50% thu nhập như người viết đã nhận định từ tháng Chín, 2020. Tuy vậy, con số thực tế hiện nay đã vượt qua dự đoán bi đát này từ lâu. Chỉ xét một ví dụ đơn lẻ ngành du lịch với khoảng 2,4 triệu lao động, có tới 1,8 triệu lao động đã thất nghiệp hoàn toàn. Chưa kể các ngành vận tải, hàng không, đường sắt, bất động sản,… tất cả đều trong tình trạng tương tự, ít nhất 50% lao động đã chịu tình trạng thất nghiệp nhiều tháng qua. Dân sinh đã quá mức kiệt quệ nhưng giá xăng, giá điện, nước… đều được các tập đoàn nhà nước đua nhau tăng giá phi mã. Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam ra qui định mới về việc rút tiền BHXH trước thời hạn sẽ chỉ được thanh toán 50% số tiền tiết kiệm được. Đây thực sự là một cuộc cướp bóc trắng trợn tiền mồ hôi xương máu của người lao động. Những thứ “siêu giấy phép con” là những tờ khám xét nghiệm âm tính Covid-19 có hiệu lực chỉ vài ngày tùy theo phương pháp thử có giá vài trăm ngàn tới vài triệu đồng, những liều vaccine dịch vụ trở thành công cụ kiếm tiền mới của bầy “kền kền Đỏ.” Phải công nhận là không có một chế độ chính trị nào có thể đốn mạt hơn CSVN. Chiều hôm trước khi thành phố bị phong tỏa, tôi thấy những khuôn mặt u ám thất thần của những đồng bào tôi trên phố phường Sài Gòn, một cụ bà bán vé số đứng ở ngã tư, mắt rưng rưng đỏ hoe, giọng run run khàn đặc, khẩn cầu “mua giúp ngoại, con ơi, sắp phong tỏa rồi, ngoại không còn gì để ăn.” Có bao nhiêu kiếp người như thế ở mảnh đất này? Nhiều lắm, thành phố này đã cưu mang họ bao năm tháng. Saigon chưa bao giờ phụ người tha hương. Nhưng giờ đây, Sài Gòn cũng đã kiệt quệ, đã chết dần và những lớp người tha phương ấy nhìn thấy kết cục thê thảm của họ ngày mai. Cảm giác nước mắt ầng ậc chực trào ra, niềm uất hận trào lên mặn chát vị máu. Những ngày tới, thực sự là rất thê thảm và cơn ác mộng mới chỉ bắt đầu. Tân Phong XEM THÊM: Vụ đưa 300 sinh viên y khoa Hải Dương vào “giải phóng” dịch Covid-19 tại Thành Hồ  
......

Nguyên nhân ì ạch của một bộ máy

Đỗ Ngà Cứ mỗi 5 năm ĐCS có một kỳ đại hội chia chác quyền lực, nó được gọi là đại hội đảng. Ngoài mục đích chia chác quyền lực thì trong đó họ còn lập ra kế hoạch điều hành đất nước trong 5 năm, họ gọi nó là “kế hoạch 5 năm”. Đây là cách làm vô cùng máy móc mà hiện nay ĐCS Việt Nam vẫn làm, cách làm này dựa trên những gì mà Lenin đã áp dụng trước đây hàng trăm năm. Cái kế hoạch 5 năm này được ghi vào nghị quyết đảng và sau đó chính phủ và các chính quyền địa phương cứ theo đó mà làm. Thực tế, công việc điều hành của chính phủ và điều hành chính quyền địa phương thường gặp nhiều vấn đề phát sinh mới mà trung ương đảng không thể tiên liệu được. Tuy nhiên, nếu bộ trưởng nào hay chủ tịch tỉnh nào dám làm khác để ứng phó tình huống thì người đó sẽ rất dễ bị rơi vào bẫy. Đó là bẫy gì? Bẫy “Nguyên tắc tập trung dân chủ”. Vậy cái gọi là “Nguyên tắc tập trung dân chủ” là gì? Theo CS giải thích thì đó “tự do trong thảo luận nhưng thống nhất trong hành động”. Để có cái gọi là “tập trung dân chủ” thì quá trình thực hiện phải trải qua 3 bước: Bước thứ nhất là đưa vấn đề ra trung ương đảng bàn bạc; Bước thứ nhì là chốt vấn đề và ghi thành nghị quyết đảng; Bước thứ ba là áp nghị quyết đảng vào chính phủ hoặc chính quyền địa phương triển khai. Nếu ai làm sai nghị quyết thì người đó “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ” Nguyên tắc tập trung dân chủ nghe có vẻ “dân chủ” nhưng thực chất nó rất phi dân chủ. Nó phi dân chủ ngay trong bước thứ nhất. Khi bàn bạc ở trung ương đảng thì ý kiến người thấp cổ bé họng sẽ bị phớt lờ, vì thế nội dung nghị quyết cuối cùng cũng là “ý của lãnh đạo” mà thôi. Chính vì vậy mà để hiểu đúng về “tập trung dân chủ” thì phải hiểu là “Lãnh đạo mượn quyết định tập thể để triển khai ý đồ riêng” mà thôi. Trên trang Merriam-Webster, người ta đã định nghĩa “tập trung dân chủ” như sau: “Tập trung dân chủ là một nguyên tắc của tổ chức đảng cộng sản, trong đó các thành viên tham gia vào các cuộc thảo luận chính sách và bầu cử ở tất cả các cấp nhưng phải tuân theo các quyết định của cấp trên”, hết. “Kế hoạch 5 năm”, “Nghị quyết đảng” và “Nguyên tắc tập trung dân chủ” là một bộ ba đã biến mọi địa phương, mọi ban ngành của chính phủ đều bị chết kẹt trong bộ khung 3 chân trụ quái ác đó. Cho nên dù cho ngành nào, dù cho địa phương nào có muốn cải cách đến mấy thì họ vẫn không thoát khỏi cái khung trì trệ này. Rất nhiều lãnh đạo đầu ngành không dám quyết bất kỳ một vấn đề nào vì sợ lưỡi đao “Nguyên tắc tập trung dân chủ” bập vào cổ thì xem như sự nghiệp chính trị tiêu tan. Thực tế, cái gọi là “Nguyên tắc tập trung dân chủ” ấy đã biến rất nhiều đối tượng thành củi nằm trong lò của ông Nguyễn Phú Trọng. Hiện nay, các ban ngành và các địa phương đều không dám làm gì đột phá, hầu hết là họ né trách nhiệm. Cách chống dịch cực đoan của ĐCS đang gặp nhiều bất cập. Những yếu điểm ấy bắt đầu xuất hiện và nếu dịch bùng phát mạnh hơn rất có thể nó sẽ làm cho xã hội hoảng loạn, dân hoang mang một cách không đáng có, và đặc biệt nó làm cho nhà nước hao phí sức lực và tiền bạc vào những công việc vô ích. Tuy nhiên, những người chỉ đạo công tác chống dịch từ trung ương đến địa phương đều không dám thay đổi. Bởi đơn giản, họ sợ thay đổi mà thất bại thì họ sẽ bị cái gọi là “Nguyên tắc tập trung dân chủ” trảm đi sự nghiệp của họ. Thể chế chính trị lỗi thời thì nó không thể chứa được nhưng cơ chế hợp thời được. Cách vận hành bộ máy nhà nước CS luôn luôn như vậy, nó cứ luẩn quẩn quanh những sai lầm cũ mà không hề có bất kỳ sự đột phá táo bạo nào cả. Mọi con người, dù giỏi đến đâu mà bị đặt vào cái guồng máy này cũng phải quay theo nó. Nếu không theo, sẽ bị nó loại bỏ./. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://www.merriam-webster.com/…/democratic%20centralism  
......

Câu chuyện chống dịch và sự khốn nạn tột cùng đằng sau nó

Đỗ Ngà Chuyện kể rằng, thằng Bờm muốn trồng lúa, tuy nhiên trong lúa lại có cỏ dại. Để nhổ cỏ, thay vì lựa cỏ nhổ đi chừa lúa lại thì Bờm lại chọn cách “thà nhổ lầm hơn bỏ sót”, Bờm nhổ sạch cả lúa lẫn cỏ với lý luận rằng: “sẽ không một cây cỏ nào còn sót lại”. Quả thật không còn cây cỏ nào sót lại thật, nhưng hậu quả là cả lúa cũng bị tàn phá. Đến mùa thu hoạch, hàng xóm thì lúa thóc đầy nhà còn Bờm thì phải đội nón đi ăn mày. Vâng! Cách chống dịch kiểu phát hiện con sâu đổ nguyên nồi canh của CS cho đến nay đã làm cho xã hội thấm đòn. Cách chống dịch kiểu như vậy tựa như chuyện ngụ ngôn “Thằng Bờm” như trên thôi. Có lẽ phải có được cái “đỉnh cao trí tuệ” của CS mới làm cách cực đoan như vậy. Cách làm vậy là phá. Trong bàn nhậu 5 người, sau đó 3 ngày một người đi test và cho kết quả dương tính Covid-19 và người này được đưa đi cách ly. Tuy nhiên, 4 người còn lại thì vẫn được ở tại nhà và tuân thủ những quy định giãn cách mà nhà nước quy định. Sau 21 ngày theo dõi không ai trong 4 người đó có triệu chứng gì. Đây là thực tế tôi đã chứng kiến. Đấy là cách xử lý của nước “không CS”. Tuy nhiên tại Việt Nam thì khác, họ sẽ “hốt trọn ổ” tống vào trại tập trung. Nếu ở Việt Nam thì rất có thể 4 người không nhiễm này lại trở thành nhiễm mất. Cách làm “hốt trọn ổ” của CS nó dẫn đến điều gì? Họ đã ngăn 4 người khỏe mạnh kia không được lao động để nuôi người dương tính. Họ đã biến những người khỏe mạnh có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn và biến luôn những người này thành kẻ ăn bám xã hội. Thực tế người nghi nhiễm rất nhiều, nhưng người nhiễm rất ít. Nhân lực và tiền bạc của nhà nước nên tập trung lo cho thành phần nhiễm thật đừng lãng phí tiền tài và sức lực vào việc cấm người không nhiễm không được hoạt động sản xuất. Cách làm của CS thực chất đã triệt hạ một đòn rất nặng vào kinh tế gia đình của từng nhà người dân. Đừng tin những có số tăng trưởng, hãy cảm nhận cái khó khăn của từng gia đình đang phải gánh thì mới thấu hiểu hết. Không có cái ngu nào không bị trả giá, cái ngu của ĐCS nó đã buộc toàn dân phải trả giá nặng nề. Người lành mạnh mà bị cấm hoạt động kinh tế thì lấy gì nuôi cả xã hội này? Nếu cấm cả người lành mạnh hoạt động kinh tế, nó sẽ gây ra tình trạng khan hiếm không đáng có và từ đó bọn gian thương, bọn gian quan nổi lên như nấm và chúng thừa cơ hội này để ăn cướp người dân bằng nhiều cách. Mà ăn cướp dân trong lúc ngặt là một sự tột cùng khốn nạn. Bạn tôi (anh ta yêu cầu giấu tên) vừa là chủ xe tải vừa là tài xế phân phối hàng. Anh ta cần một kết quả xét nghiệm như là giấy thông hành để được giao hàng. Các bạn có biết không? Anh ta đã phải bỏ ra 1,5 triệu đồng cho một kết quả xét nhiệm có giá trị trong 3 ngày, tuy nhiên anh ta phải mất nguyên 1 ngày để chờ. Nghĩa là mất 1,5 triệu để được đi lại trong 2 ngày thôi. Có bọn nào ăn cướp dã man như thế không? Ban hành quy định phải có giấy xét nghiệm như là giấy thông hành là âm mưu của bọn gian quan, bọn nâng khống giá xét nghiệm để hưởng lợi chính là bọn gian thương. Cả hai phối hợp nhịp nhàng để hút máu dân lúc mà dân không còn con đường lựa chọn nào khác. Vừa trục lợi trên đầu dân trong lúc ngặt, vừa xem dân như thứ “rác rưởi” muốn vứt đi cho thật xa để khỏi liên lụy thì chỉ có CS mới làm được. Hôm nay ngày 8/7 trên báo có cho biết, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế không tiếp nhận 26 công dân của tỉnh này trở về từ TP. HCM mà họ đẩy những người này ra tận Quảng Trị. Sao tiền trong túi dân thì tìm mọi cách móc lấy mà khi người dân cần dang rộng vòng tay đón nhận thì chính quyền lại hắt hủi họ? Không thể lý giải nổi. Trái tim ác quỷ mới làm thế. Đấy! Thế mới thấy cái “tột cùng của sự khốn nạn” nó như thế nào?! Chỉ có CS mới làm được chuyện đó, đơn giản vì bọn họ không hề có trái tim./. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://laodong.vn/…/ach-tac-o-dak-nong-do-thieu-giay… https://plo.vn/…/26-nguoi-o-thua-thien-hue-khong-the…
......

100 năm quái vật thành tinh

Nguyen Ngoc Chu I.MƯỢN BÓNG NHÂN DÂN Theo tin được xác minh về sau, thì Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản (ĐCS) Trung Quốc (TQ) diễn ra từ 23 – 31/ 7/ 1921. Nhưng không biết từ đâu, lại lấy ngày 1/7/1921 làm ngày thành lập? Như vua chúa TQ thời xưa bịa ra thần thoại xuất hiện rồng rắn báo hiệu sự lên ngôi, ở mặt khác như thừa nhận của Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô Gorbachev lúc đương nhiệm – “Cả đời các bạn chỉ được nghe những điều giả dối” – thì có quyền hoài nghi cả 2 cột mốc về sự ra đời của ĐCSTQ. Nhưng cần gì thời điểm chính xác. Sau 100 năm, hay xấp xỉ 100 năm thì các loài vật đều “thành tinh”. Đứng xếp hàng rồng rắn cách nhau 1 m, thì ĐCSTQ với 95 triệu đảng viên sẽ là “con rắn khổng lồ dài 95.000 km”, 15 lần dài hơn Vạn lý trường thành (6.259 km). Đứng đầu “con rắn khổng lồ dài 95.000 km” là ông Tập Cận Bình. Ngày 1/7/2021 ông Tập đã có bài phát biểu tại Thiên An Môn về sự “thượng thọ” 100 năm của ĐCS TQ. Trong đó có 4 điểm cần để ý: 1.Xây dựng Quân đội Trung Quốc hùng mạnh. Minh chứng là cuộc trình diễn khai mạc với các phi cơ bay theo hình con số 100. Ông Tập khẳng định quyết tâm đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa quốc phòng và các lực lượng vũ trang. Ngân sách quốc phòng TQ năm 2020 đạt 252 tỷ USD, đứng thứ 2 thế giới sau Hoa Kỳ (772 tỷ USD) vượt xa ngân sách quốc phòng Nga (61,2 tỷ USD), và sẽ tăng đến 6,8% trong năm 2021. Trung Quốc đang xây hàng trăm hầm ngầm chứa tên lửa đạn đạo ở Tân Cương. Số lượng đầu đạn hạt nhân của TQ (350) đã vượt qua Pháp (290) lên vị trí thứ 3 thế giới. TQ đặt mục tiêu rút ngắn khoảng cách với Nga (6.500) và Mỹ (6.185). Riêng về số lượng tàu chiến (777) và tàu ngầm (79) thì Trung Quốc đã vượt qua Mỹ (490, 69) và Nga (605,64). Quân đội TQ về thực lực đang xếp vị trí thứ 3 thế giới. Về số lượng quân số và binh khí thông thường – đang chiếm ngôi số 1 thế giới. Một trong các mục tiêu lớn của Trung Quốc trong thời gian tới là hiện đại hoá lực lượng hải quân. Trung Quốc đang gấp rút đóng các tàu sân bay cỡ lớn ngang Mỹ với lượng dãn nước từ 90.000-100.000 tấn cùng các tàu ngầm hạt nhân. Mục tiêu không chối cãi là thống trị biển, trước hết là biển Đông. 2. Duy trì chính sách 1 quốc gia 2 chế độ. Đây là sách lược trấn an dân chúng sau những bạo lực đẫm máu căng thẳng ở Hongkong trong các năm gần đây. 3. Thống nhất Đài loan. Về điểm này, cần khẳng định là chưa thể xẩy ra, mà chỉ là môn võ mồm của ông Tập. Cũng giống như các lãnh đạo TQ tiền nhiệm. 4. Không cho phép thế lực nước ngoài bắt nạt. Là cách nói ngoại giao của ông Tập. Phải hiểu câu nói của ông Tập là chỉ có TQ đi bắt nạt nước khác, chứ không có nước nào có thể bắt nạt được TQ. Để né tránh sự cô lập của thế giới đối với ĐCS TQ, ông Tập đã mượn bóng nhân dân TQ che cho chính quyền của ông Tập, rằng “Người dân TQ sẽ không bao giờ cho phép bất kỳ thế lực nước ngoài nào bắt nạt, đàn áp hoặc khuất phục” (http://congan.com.vn/…/dien-van-cua-ong-tap-can-binh-ky…). Các chính khách Hoa Kỳ và châu Âu gần đây gọi đích danh ĐCSTQ thay vì TQ – để tách biệt với nhân dân TQ. Nên ông Tập khéo léo mượn bóng người dân. II. MỘT SỐ ĐĂC TRƯNG CỦA LÃNH ĐẠO ĐCS TRUNG QUỐC SAU 100 NĂM Không thể khắc hoạ được lãnh đạo ĐCSTQ qua vài trang. Nhưng nhân “100 năm thượng thọ” của ĐCSTQ, xin tạm nêu 3 đặc trưng nổi trội dưới đây từ chính lịch sử của ĐCSTQ: 1.Tranh giành quyền lực tàn khốc và đàn áp đẫm máu mọi phản kháng. Các Đại hội I (1921), II (1922), III (1923), IV (1925), V (1927) của ĐCS TQ đều đậm đặc những tranh đấu với sự ra đi của TBT Trần Độc Tú vào tháng 7/1927. Sau đó là sự đổi ngôi từ Đại hội VI (1928) của Lý Lập Tam, Cù Thu Bạch, Vương Minh, Trương Văn Thiên để cuối cùng Mao Trạch Đông soán ngôi độc tôn bắt đầu từ hội nghị Tuân Nghĩa tháng 1/1935. Tháng 3/1943 tại Diên An, Mao trở thành chủ tịch ĐCS TQ cho đến cuối đời ngày 9/9/1976, trải qua các Đại hội VII (1945), VIII (1956), IX 1969), X (1974). Thời kỳ của Mao là thời kỳ tàn sát đẫm máu các đối thủ chính trị với đỉnh cao là hàng triệu sinh mạng trong Cách mạng Văn hoá cùng với cái chết của Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu và nhiều đối thủ chính trị và quân sự cao cấp. Sau cái chết của Mao là cuộc tranh giành quyền lực giữ Hoa Quốc Phong và Đặng Tiểu Bình, với phần thắng thuộc về Đặng. Giai đoạn Đại hội XI (1977), XII (1982), XII (1987) là thời kỳ cai trị của Đặng. Trong giai đoạn này, lịch sử không bao giờ quên tội ác của Đặng vào ngày 04/6/1989 khi lệnh cho 20 vạn quân với hàng trăm xe tăng tiến vào quảng trường Thiên An Môn – đang có hàng chục vạn thanh niên sinh viên ngồi biểu tình, rồi thảm sát cả hàng chục ngàn sinh mạng. Giống như vụ chính quyền Stalin thảm sát 22.000 người Ba Lan tại Katyn năm 1940, lại đổ tội cho Đức Quốc xã, nhưng cuối cùng đã phải thừa nhận sự thật (1990 Gorbachev, 2010 Putin), thì sự kiện Thiên An Môn chắc chắn sẽ bị phanh phui dù phải chờ thêm nhiều năm nữa, trong khi vẫn phải tiếp tục “cả đời nghe nói dối” từ chính quyền Bắc Kinh. Tiếp đến là thanh trừng các TBT Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương để cuối cùng Giang Trạch Dân lên cầm quyền với sự tàn sát đẫm máu nhiều vạn nhân mạng người Duy Ngô Nhĩ và Pháp Luân Công. Qua thời Hồ Cẩm Đào cho đến Tập Cận Bình, người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng tiếp tục bị truy sát và giam cầm. Các chiến dịch thanh trừng nội bộ để củng cố quyền lực độc tôn thời Tập Cận Bình lên đến cao độ dưới vỏ bọc chống tham nhũng. Lịch sử 100 năm ĐCSTQ là lịch sử của chuỗi dài các cuộc thanh trừng và đàn áp đẫm máu mà toàn bộ sự thật chỉ có thể được bạch hoá sau sự cáo chung của ĐCSTQ. 2.Mưu toan vĩnh cửu hoá tư tưởng cá nhân Lên cầm quyền, Mao Trạch Đông đưa “Tư tưởng Mao Trạch Đông” vào Điều lệ ĐCS TQ. Đến thời Đặng thì Đặng đưa “Lý thuyết Đặng Tiểu Bình” vào Điều lệ ĐCS TQ. Đến thời Giang Trạch Dân (1992-2002) thì Giang đưa “Ba đại diện” của Giang vào Điều lệ ĐCS TQ. Đến khi Hồ Cẩm Đào lên cầm quyền (2002-2012) thì Hồ đưa “Quan điểm phát triển khoa học” của Hồ vào hệ thống lý luận của ĐCSTQ. Và đến thời Tập Cận Bình thì Tập đưa “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc cho kỷ nguyên mới” vào Điều lệ ĐCSTQ. Tóm lại, các lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ xem Điều lệ ĐCSTQ như là cái thùng rác cá nhân của họ, để họ bỏ vào đó những điều tuỳ ý. Và họ toan “vĩnh cửu hoá” tư tưởng của họ qua Điều lệ ĐCSTQ. Dẫu tất cả họ đã biết trước, rằng đến một ngày hậu thế sẽ vứt tất cả vào thùng rác. 3.Sùng bái cá nhân và kéo dài quyền lực Thể chế CHND Trung hoa là một biến thể của nhà nước phong kiến. Sùng bái cá nhân là thuộc tính. Kéo dài quyền lực là thuộc tính. Lịch sử thể chế CHND Trung hoa từ Mao Trạch Đông cho đến Tập Cận Bình chứng minh các khẳng định đó. Tập Cận Bình đang tìm cách phá bỏ quy định 2 nhiệm kỳ để ngồi trên ghế quyền lực cho đến lúc chết. Sùng bái cá nhân và kéo dài quyền lực là thuộc tính của dòng họ các thể chế độc tài. Nhà nước phong kiến thuộc vào dòng họ các thể chế độc tài. III. QUÁI VẬT ĐỘI LỐT MINH CHỦ Thảm hoạ Covid – 19 xuất phát từ Vũ Hán đang mang đến cho loài người những mất mát vô cùng to lớn. Cả thế giới bị cách ly trong suốt gần 2 năm qua kể thừ tháng 1/2020 và chưa biết đến khi nào được trở lại cuộc sống bình thường. Cho đến thời điểm hiện tại, trên toàn thế giới có hơn 185 triệu người mắc bệnh và hơn 4 triệu người chết vì Covid -19. Tổn thất kinh tế trên toàn thế giới ước tính lên đến hàng chục ngàn tỷ USD mà chưa có hồi kết. Đây là thảm hoạ dịch bệnh mang lại tổn thất lớn nhất về tài chính trong lịch sử nhân loại. Các nhà khoa học thế giới đang đòi hỏi tìm rõ nguồn gốc xuất phát của Covid – 19 từ thiên nhiên hay từ phòng thí nghiệm để có biện pháp đối phó thích hợp. Đã có một số dữ liệu dẫn đến dấu hỏi nghi ngờ về khả năng dò rỉ Covid – 19 từ phòng thí nghiệm. Sự thật cuối cùng sẽ được làm sáng tỏ dù phải đợi chờ nhiều năm. Điều trớ trêu, trong bối cảnh thảm hoạ Covid -19 chặn hết mọi đường đi của loài người, từ ngõ nhà ra ngõ xóm, cho đến mọi nẻo đường làng, xã, huyện, thị, tỉnh, thành, quốc gia, châu lục, thì hôm 06/6/2021, ông Tập Cận Bình bằng tiền bạc và ảnh hưởng mời chào cho được khoảng 500 đảng phái từ khắp các châu lục tham dự qua internet: “Hội nghị thượng đỉnh giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và các chính đảng trên thế giới”. Ông Tập Cận Bình làm như thảm hoạ Covid -19 xuất hiện từ Nam Cực hay một nơi nào đó, chứ không phải từ Vũ Hán. TQ bằng sức mạnh tiền bạc và thực lực quân sự đã mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc được nhiều thế lực. Ông Tập tin tưởng rằng ông sẽ buộc mọi người phải im lặng mà đi theo Trung Quốc. Cũng như cả 1,4 tỷ người dân Trung Quốc từng phải im lặng trước tù tội của một triệu người Duy Ngô Nhĩ, cũng như 800 triệu người dân Trung Quốc im lặng trong sự kiện Thiên An Môn ngày 04/6/1989, hay như 600 trăm triệu người dân TQ thời Mao Trạch Đông luôn miệng hô Mao Chủ tịch muôn năm – dù người thân và gia đình bị tang thương trong Cách mạng Văn hoá, bị cơ cực đói rách trong “Đại nhảy vọt”. ĐCS TQ đã tranh giành vị trí dẫn đầu Phong trào cộng sản thế giới với ĐCS Liên xô ngay từ sau khi Stalin chết. Sau khi ĐCS Liên xô tan rã năm 1991, lãnh đạo ĐCS TQ vẫn không ngừng mơ về vị trí dẫn đầu duy nhất. Và ở thập niên thứ 3 của thế kỷ 21, khi TQ vươn lên thành quốc gia có tổng sản phẩm quốc nội đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, thì ĐCS TQ càng thêm duy ý chí vào vị trí dẫn đầu Phong trào cộng sản quốc tế. Trừ vài quốc gia đếm không hết ngón tay trên một bàn tay, gần 500 đảng phái có đại diện họp trực tuyến hôm 06/6/2021 với lãnh đạo ĐCSTQ – hầu hết là những đảng phái thất thế ở quốc gia của họ. ĐCSTQ làm bạn với bất cứ nhóm, phái, băng đảng nào, dù chỉ vài chục người, để khoác cho họ vị trí một đảng chính trị – tập hợp dưới ngọn cờ của ĐCSTQ, miễn là có lợi cho ĐCSTQ. Sau 100 năm, ĐCSTQ đã diễn biến xa lạ với mục đích ban đầu. Không còn “giai cấp vô sản đoàn kết lại”, không còn chung lý tưởng, không còn tình đồng chí… Như việc làm của Mao Trạch Đông: đánh nhau với Liên Xô, chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Như lời nói của Đặng Tiểu Bình: “mèo trắng hay đen, miễn là bắt được chuột”. Lãnh đạo ĐCSTQ có một mục đích duy nhất là cai trị TQ và thống trị thế giới. Mọi hành động của lãnh đạo ĐCSTQ trong bang giao quốc tế chỉ vì mục đích thống trị thế giới trong “một vành đai, một con đường”. Không có ai có thể đồng chí hướng với lãnh đạo ĐCSTQ. Thật ngây thơ khi có ý định đi cùng đường với lãnh đạo ĐCSTQ. Vì sẽ bị con quái vật đội lốt “minh chủ” nuốt gọn. Về con quái vật ĐCSTQ, không có cuốn sách nào viết tốt hơn cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” – một văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979. Chẳng có động vật hay tổ chức nào sống muôn năm. ĐCSTQ dù có “thượng thọ 100 năm” cũng sẽ đến ngày hết số. Bất kể diễn văn gào thét muôn năm./.
......

Đừng để dân chờ gói cứu trợ 26 ngàn tỷ trên TV nữa

Phạm Nhật Bình – Việttân| Trong khi tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu trên cả nước, ngày 1 tháng Bảy vừa qua, chính phủ của ông Phạm Minh Chính đã quyết định chi gói cứu trợ đợt hai trị giá 26 ngàn tỷ đồng cho thành phần lao động nghèo được quy định chi tiết trong 12 nhóm chính sách. Trước hết, phải nói đây là một tin mừng cho bà con lao động nghèo, những người đang bị dịch bệnh tác động đến đời sống nặng nề nhất và trực tiếp nhất trong xã hội. Mừng vì nghe tin vui, ít ra cũng được chính quyền tỏ ra quan tâm, chứ không bị bỏ rơi trong đợt dịch thứ tư đang nhấn chìm cả nước. Nhưng tin vui và nỗi mừng chỉ thoáng qua và tan như bọt nước khi nhớ lại vụ chi gói cứu trợ 62 ngàn tỷ từ tháng Năm, 2020. Được biết cho tới hiện nay, 62 ngàn tỷ đồng ấy chỉ mới giải ngân khoảng một nửa, tức còn dư lại gần 32 ngàn tỷ đồng chưa phát ra. Vì lý do đó nên trong tháng Tư, 2021, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã lên tiếng đề nghị chính phủ dùng số tiền này trợ giúp một lần cho người lao động nghèo. Vì vậy mà trong thực tế, gói cứu trợ đợt II chỉ là tiếp tục chi ra từ số tiền của đợt trước còn tồn đọng do thủ tục quá rườm rà. Lần này, sự hỗ trợ bao gồm trong 12 nhóm chính sách, với tổng số tiền 26 ngàn tỷ, thủ tục được nói là giảm 2/3 so với lần trước mà bà con lao động nghèo ngồi chờ dài cổ trên TV. Nói cách khác, đợt cứu trợ 26 ngàn tỷ lần này thực chất chỉ là số tiền chưa tháo khoán hết của đợt I mà thôi. Vậy ông Chính có chi thêm gì mới đâu mà chỉ nói mập mờ để lấy tiếng thơm cho chính phủ, biết lo cho dân nghèo. Nhưng thôi cũng tạm vui đi, vì số tiền 26 ngàn tỷ ấy đã không bị chính phủ coi là “tiền nhàn rỗi” mang bỏ vào ngân hàng để kiếm lời như gần 8.000 tỷ đồng vận động nhân dân, doanh nghiệp đóng góp mua vaccine để được chích ngừa miễn phí. Với đảng CSVN và chính phủ, người dân Việt Nam lâu nay vẫn quen tạm vui với những trò tráo trở như thế. Theo dõi 12 “đối tượng chính sách” được hưởng tiền trợ cấp lần này, phải nói là khá đầy đủ chi tiết và bao trùm mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trường hợp, nhưng người ta thấy hình như nó ẩn chứa nhiều rắc rối. Thứ nhất, càng phân chia nhiều đối tượng, sự duyệt xét tưởng là công bằng nhưng lại vô cùng phức tạp, đòi hỏi nhiều thứ giấy tờ phải nộp. Điều này không làm cho nghị quyết 68 của ông Phạm Minh Chính được thực hiện tốt đẹp trong mục tiêu đề ra “hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch…,” mà chỉ tạo điều kiện cho cán bộ hoạnh họe, đòi hỏi người đi xin trợ giúp. Chính sự quy định quá nhiều đối tượng càng làm nảy sinh nhiều thủ tục phê duyệt, cuối cùng người được hưởng trợ cấp chỉ nghe trên TV nói. Thực tế đây cũng là vấn đề nằm trong “cơ chế xin-cho” của chế độ mà không thành phần thụ hưởng nào thoát khỏi. Thứ hai, vấn đề hỗ trợ cho dân nghèo hiện nay ở Việt Nam không chỉ có người lao động thất nghiệp, công nhân bị giảm việc làm, mà trên thực tế còn có các gia đình kinh doanh nhỏ lẻ, những người lái xe ôm, bán vé số, những người bán hàng rong hay những người già neo đơn đang sống thiếu thốn, điêu đứng nhất là ở Thành Hồ. Chính phủ cần phải lên ngay một chương trình cứu trợ đặc biệt cho những thành phần này và phải có chỗ công khai phát tiền hay thực phẩm cần thiết cho họ sống. Thứ ba, thiết tưởng chính phủ nếu thực tâm vì dân, nên có một chính sách xã hội hóa vấn đề giúp đỡ những thành phần đang bị nghèo đói, kiệt quệ thực sự do dịch bệnh Covid-19 kéo dài. Tức là ngoài hành động cụ thể của chính quyền, phải để các tổ chức, đoàn thể xã hội dân sự tham gia trong hoạt động giúp đỡ người nghèo bằng công tác từ thiện trong khả năng của họ. Với tình hình hiện nay, dịch bệnh còn có thể kéo dài đến hết năm 2021 do Việt Nam chưa có đủ vaccine để đạt được miễn dịch cộng đồng tương đối, thì sự tham gia chống dịch của các đoàn thể bên ngoài càng trở nên cần thiết. Mọi sự thù nghịch với xã hội dân sự cần phải dẹp bỏ để các tổ chức này có thể làm cầu nối giữa chính quyền và dân chúng, trong tình trạng người dân bị cách ly với môi trường sống chưa biết đến khi nào. Thủ tướng Phạm Minh Chính hãy hành động mau lẹ và cụ thể, đừng để người dân chờ gói cứu trợ 26 ngàn tỷ trên TV như lần trước nữa!
......

Thế giới nên coi chừng đảng Cộng Sản Trung Quốc

Hiếu Chân - Người Việt| Bài diễn văn mà Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đọc tại lễ kỷ niệm 100 năm thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) trên quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh sáng 1 Tháng Bảy vừa qua hé lộ rất nhiều điều về đường lối của chính phủ Trung Quốc trong những thập niên sắp tới và báo hiệu nhiều thách thức lớn cho cộng đồng thế giới. Bài diễn văn dài 65 phút mà ông Tập đọc trước 70.000 người và được truyền hình trực tiếp ra toàn thế giới thật ra không có điểm nào nổi bật, không có điều gì mới mẻ so với thủ thuật tuyên truyền truyền thống của các đảng Cộng Sản. Tựu trung, ông ca ngợi thành tích của đảng CSTQ đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng nửa thuộc địa, nửa phong kiến nghèo đói tối tăm và “nhục nhã” hồi đầu thế kỷ 20, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới hiện nay. Từ đó ông khẳng định “nếu không có đảng CSTQ sẽ không có nước Trung Quốc mới và không có cuộc trẻ hóa của quốc gia” và “sự cai trị của đảng CSTQ là điều cần thiết để bảo đảm Trung Quốc tiếp tục trở thành một đất nước xã hội chủ nghĩa hiện đại và vĩ đại về mọi phương diện.” Ông kêu gọi 1,4 tỷ dân Trung Quốc trung thành tuyệt đối với đảng CSTQ, một lòng một dạ đi theo đảng để thực hiện “cuộc trẻ hóa vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”… “Sự thành lập đảng Cộng Sản ở Trung Quốc là một biến cố tạo dựng thời đại, làm thay đổi sâu sắc tiến trình lịch sử Trung Quốc hiện đại, chuyển hóa tương lai của đất nước và dân tộc Trung Quốc, thay đổi cảnh quan sự phát triển của thế giới,” ông Tập nói. Vào các dịp kỷ niệm, lãnh tụ nào của đảng Cộng Sản cũng phát biểu những lời khoa trương như vậy, không có gì khác. Nhưng đáng chú ý là những điều ông Tập không nói tới. Trong khi hết lời ca ngợi những thành tích vinh quang của đảng CSTQ, ông không hề nhắc tới những tội ác khủng khiếp mà đảng này đã gây ra cho dân tộc Trung Hoa, từ chương trình Đại Nhảy Vọt (Great Leap Forward) do Mao Trạch Đông phát động năm 1958 với mưu toan bắt kịp sự phát triển của Anh mà hậu quả chỉ là làm cho 40 triệu người Trung Quốc bị chết đói, đất nước tan nát, điêu tàn; cuộc Cách Mạng Văn Hóa năm 1966 kéo dài tới khi Mao chết 10 năm sau đó đã phá tan nền văn hóa và đạo đức của đất nước Trung Quốc; rồi cuộc thảm sát hàng ngàn sinh viên biểu tình đòi dân chủ ở Thiên An Môn ngày 4 Tháng Sáu, 1989, dưới thời Đặng Tiểu Bình… Trái với sự thật lịch sử, ông Tập trâng tráo khẳng định: “Người Trung Quốc chưa bao giờ bắt nạt, áp bức hay nô dịch các dân tộc khác, không phải trong quá khứ, không phải bây giờ và cả trong tương lai.” Nghe những lời xảo ngôn như vậy, người ngoại quốc không khỏi giật mình cám cảnh cho số phận các dân tộc bị Trung Quốc cưỡng chiếm và đày đọa ở Tân Cương (nước Cộng Hòa Đông Turkistan cũ), Tây Tạng, và mới nhất là bảy triệu dân Hong Kong bị tước đoạt tự do và quyền tự trị. Hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược mà Cộng Sản Trung Quốc tiến hành và chuốc lấy thảm bại với Nga, Ấn Độ, Việt Nam cũng không hề được nhắc tới trong bài phát biểu của ông Tập. Một mặt ca tụng người Trung Quốc như một dân tộc yêu chuộng hòa bình, công lý và sự hòa hợp, mặt khác ông Tập không ngừng khích lệ chủ nghĩa dân tộc trong 1,4 tỷ người Trung Hoa và vẽ ra trước mặt họ mới đe dọa của các “thế lực thù địch” để kêu gọi người dân trung thành với đảng CSTQ. “Người Trung Quốc chúng ta nêu cao công lý và không bị chùn bước trước các mối đe dọa bạo lực… Chúng ta sẽ không bao giờ cho phép bất kỳ thế lực ngoại quốc nào bắt nạt, đàn áp hoặc nô dịch hóa chúng ta. Bất kỳ kẻ nào nuôi dưỡng ảo tưởng làm điều đó sẽ sứt đầu mẻ trán và đổ máu trên cái Trường Thành bằng thép được xây dựng từ máu thịt của 1,4 tỷ người dân Trung Quốc,” ông Tập nói. *** Để thực hiện khát vọng “trẻ hóa” đất nước Trung Quốc, ông Tập khẳng định Trung Quốc phải đi theo chủ nghĩa Marx-Lenin và thực hiện “chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc.” Trong bài diễn văn, ông Tập nhắc tới Marx-Lenin 14 lần trong khi chỉ bốn lần đề cập tới Mao Trạch Đông và ba lần nhắc tới Đặng Tiểu Bình. “Chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc” là cụm từ yêu thích của Tập, xuất hiện trong hầu hết các bài diễn văn của ông ta. Nó mô tả một hệ thống cai trị độc tài toàn trị đặt căn bản trên học thuyết Cộng Sản của Marx, phương thức kiểm soát toàn diện xã hội bằng guồng máy công an trị của Lenin, kết hợp với nền kinh tế theo thị trường tự do dưới sự điều tiết của đảng, gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống này không theo nguyên tắc công hữu hóa tư liệu sản xuất của chủ nghĩa Cộng Sản và cổ xúy đấu tranh xóa bỏ giai cấp nhưng duy trì sự độc quyền chính trị của đảng Cộng Sản, tước bỏ quyền tham gia chính trị và các quyền tự do căn bản của người dân, biến họ thành những “con vật kinh tế” chỉ biết lao động, làm giàu và thỏa mãn những nhu cầu vật chất của bản thân và gia đình. Một hệ thống cai trị như vậy biến người dân thành những cá thể rời rạc, đèn nhà ai nhà nấy rạng, không quan tâm và sẵn sàng lợi dụng cộng đồng xã hội để thủ lợi cho riêng mình. “Chúng ta phải tiếp tục vận dụng chủ nghĩa Marx vào bối cảnh Trung Quốc. Chủ nghĩa Marx là hệ tư tưởng nền tảng và dẫn dắt, trên đó đảng và đất nước ta được thành lập; đó chính là linh hồn của đảng ta, là ngọn cờ mà đảng phấn đấu…,” ông Tập nói. Khác với những người tiền nhiệm của ông ta như các ông Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào – những người đã từng thực hiện những bước cải cách chính trị hạn chế, giảm bớt vai trò kiểm soát của đảng CSTQ và để cho các lực lượng thị trường được vận động tự do hơn – ông Tập Cận Bình đưa Trung Quốc trở lại với chế độ chuyên chế thời Mao, khôi phục vị thế “thống soái” của đảng CSTQ trong mọi khía cạnh đời sống Trung Quốc. Không chỉ các cơ quan chính quyền, doanh nghiệp nhà nước mà cả các công ty tư nhân cũng phải có các chi bộ đảng CSTQ và các chi bộ này tham gia trực tiếp vào việc điều hành hoạt động kinh doanh, bổ nhiệm nhân sự và các công việc khác. Bài diễn văn của ông Tập liên tục đề cao thành tích của đảng CSTQ và nhấn mạnh vai trò của đảng là yếu tố không thể tách rời khỏi con đường vận động của xã hội Trung Quốc. Khác với Mao, Tập xây dựng chế độ đảng trị của mình trên một nền công nghệ tiên tiến – cái mà Karl Marx và Lenin không biết tới nhưng nhà văn George Orwell đã hình dung ra từ giữa thế kỷ trước trong tác phẩm “1984”… Những tiến bộ về công nghệ thông tin, video theo dõi trực tuyến, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nhận diện khuôn mặt và công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) giúp cho ông Tập và đảng CSTQ giám sát nhất cử nhất động của 1,4 tỷ dân Trung Quốc, đi sâu vào suy nghĩ và tình cảm của từng người và mạng lưới quan hệ xã hội của họ để nhanh chóng phát hiện những ý tưởng phản kháng của dân chúng. Xã hội dân sự, thành phần bất đồng chính kiến của Trung Quốc gần như đã bị quét sạch trong tám năm cầm quyền vừa qua của ông Tập Cận Bình. Nói một cách ngắn gọn, chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc mà ông Tập cổ xúy là sự phối hợp giữa chủ nghĩa Mao + công nghệ thông tin + chủ nghĩa tư bản thị trường hoang dã; trong đó con người bị tha hóa thành một đơn vị sức lao động, không tôn giáo, không gia đình, lạc loài và vô vọng. Một đặc điểm của chế độ toàn trị mà ông Tập giành một phần quan trọng của bài diễn văn để nhấn mạnh là “quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân.” “Chúng ta sẽ thực hiện các biện pháp toàn diện để nâng cao lòng trung thành của các lực lượng vũ trang…” Nếu như ông Mao Trạch Đông nổi tiếng với câu nói “Chính quyền sinh ra từ nòng súng” thì hôm nay ông Tập Cận Bình tiếp tục khẳng định “Đảng đã nhận ra sự thật không thể tranh cãi là đảng phải chỉ huy súng và xây dựng quân đội nhân dân của riêng mình.” Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với học thuyết chiến tranh hiện đại, theo đó quân đội độc lập với chính trị, chỉ lo bảo vệ đất nước mà không chịu sự chi phối của các đảng phái. Những yêu cầu mà ông Tập đặt ra cho quân đội Trung Quốc không thể không làm cho nhiều người phải giật mình: “Chúng ta phải tiến hành cuộc đấu tranh vĩ đại với nhiều đặc tính hiện đại. Có can đảm chiến đấu và sự ngoan cường đi tới chiến thắng là những gì đã làm cho đảng ta trở nên bất bại,” ông Tập nói. Có một sự trùng hợp nào đó mà ngay trong ngày kỷ niệm 100 năm đảng CSTQ, các vệ tinh quân sự đã phát hiện Trung Quốc đang xây dựng sâu trong sa mạc phía Tây nước này hơn 100 si-lô (silo) chứa hỏa tiễn liên lục địa (ICBM) mang đầu đạn nguyên tử, có thể bắn tới lục địa Hoa Kỳ. Bài diễn văn nặng tính dân tộc chủ nghĩa và có phần hiếu chiến của ông Tập làm cho mọi người không thể không hoài nghi những lời đường mật của ông ta chỉ cách đây vài tuần, trong đó ông Tập bày tỏ mong muốn một Trung Quốc “đáng yêu, đáng tin và đáng kính” như một cách giải tỏa ác cảm của thế giới đối với chính sách “Ngoại Giao Chiến Binh Sói” mà Bắc Kinh đang thực hiện. *** Trung Quốc sẽ đi về đâu giữa thế giới này? Bài diễn văn của ông Tập Cận Bình hé lộ một “giấc mộng Trung Hoa,” trong đó Trung Quốc – với nền kinh tế phát triển mạnh, với đội quân hùng hậu nhất – sẽ thay thế Hoa Kỳ làm bá chủ thế giới – hệ thống toàn trị độc đảng sẽ thay thế cho chế độ dân chủ tự do hiện được coi là hình thái kinh tế xã hội tốt nhất mà nhân loại đạt được, dù vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Một số học giả Trung Quốc, tất nhiên, đang ra sức quảng bá cho tư tưởng Tập Cận Bình. Trên tạp chí uy tín Foreign Affairs số đặc biệt về Trung Quốc (Tháng Bảy và Tám, 2021) Giáo Sư Nghiêm Học Đồng (Yan Xuetong), viện trưởng Viện Quan Hệ Quốc Tế của Đại Học Thanh Hoa – đại học hàng đầu Trung Quốc, cho rằng hệ thống dân chủ tự do của phương Tây không có tính phổ quát, không phù hợp với Trung Quốc, là nơi chính quyền coi trọng sự an toàn xã hội và thịnh vượng kinh tế hơn là các quyền tự do phù phiếm. “Washington sẽ phải chấp nhận sự khác biệt về quan niệm hơn là cố gắng áp đặt quan điểm của mình lên người khác,” ông Nghiêm viết. XEM THÊM: Trung Quốc có thể tiếp tục đà trỗi dậy hay không? Có thật vậy không? Hãy xem trường hợp Đài Loan – vùng đất mà ông Tập đã và đang nỗ lực thu phục về Hoa Lục. Bài diễn văn của ông Tập dành hẳn một đoạn dài để nói về Đài Loan. “Giải quyết vấn đề Đài Loan và thực hiện sự thống nhất hoàn toàn Trung Quốc là sứ mệnh lịch sử, là cam kết không lay chuyển của đảng CSTQ,” ông Tập nói. Nhưng ông ta quên rằng, đảng CSTQ chưa bao giờ chiếm được Đài Loan, chưa bao giờ đặt được sự cai trị của họ ở đó và hòn đảo vẫn là một lãnh thổ độc lập, tự trị, theo một thể chế chính trị hoàn toàn trái ngược với Trung Quốc lục địa. “Chúng ta phải hành động cương quyết để đánh bại hoàn toàn mọi cố gắng ‘Đài Loan độc lập’… Không ai được coi thường quyết tâm, ý chí và năng lực của nhân dân Trung Quốc bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ,” ông đe dọa. Đáp lại những tuyên bố đó, Hội Đồng Các Vấn Đề Lục Địa của Đài Loan khẳng định dân chủ tự do, nhân quyền và pháp quyền là các giá trị cốt lõi mà người dân Đài Loan bảo vệ, khác xa chế độ chuyên chế ở bờ bên kia của eo biển. “Bản chất của quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan phải đặt trên sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau. Hai mươi ba triệu người Đài Loan đã bác bỏ chính sách ‘Một Trung Quốc’ do đảng CSTQ đơn phương đề ra. Chính phủ Đài Loan sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, nền dân chủ và tự do của Đài Loan,” hội đồng tuyên bố trong thông cáo báo chí gửi tới truyền thông ngay sau bài diễn văn của ông Tập. Đi xa hơn, Đài Loan tố cáo Trung Quốc đang nhân danh “trẻ hóa dân tộc” để thực hiện chế độ chuyên chế, can thiệp vào trật tự quốc tế và bộc lộ tham vọng trở thành thế lực thống trị khu vực và toàn cầu, đe dọa nghiêm trọng hệ thống tự do dân chủ thế giới.” Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden nhận định thế giới đang trong cuộc đấu tranh, không chỉ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà “giữa những lợi ích của các nền dân chủ và các chế độ chuyên chế trong thế kỷ 21.” Trong cuộc đấu tranh đó, cả Washington và Bắc Kinh đều đang nỗ lực quy tụ các nước đồng minh và đối tác để ngăn chặn ảnh hưởng của nhau; đứng về phía Trung Quốc có Nga, Bắc Hàn, Iran và một số chế độ độc tài khác, đối đầu với phe dân chủ tự do do Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu dẫn dắt. XEM THÊM: Từ ‘Con Đường Tơ Lụa Mới’ của Trung Cộng… tới đề án Tái Thiết Một Thế Giới Tốt Hơn của Nhóm G7 *** Chưa rõ mô hình “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” của ông Tập Cận Bình có được thế giới chấp nhận như giấc mơ của ông ta hay không nhưng các cuộc thăm dò ý kiến dân chúng toàn cầu cho thấy, dưới quyền của ông Tập, Trung Quốc ngày càng trôi dạt ra xa cộng đồng nhân loại. Khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew Research thực hiện tại 17 quốc gia Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ từ ngày 1 Tháng Hai đến 26 Tháng Năm và được công bố ngày 30 Tháng Sáu, so sánh thái độ và tình cảm của người dân đối với Hoa Kỳ và Trung Quốc cho thấy có 61% người được hỏi có thiện cảm với Hoa Kỳ trong khi số ủng hộ Trung Quốc chỉ là 27%; nước ủng hộ Trung Quốc nhiều nhất là Singapore (đa số là người gốc Hoa) với 64% và nước ghét Trung Quốc nhất là Nhật, chỉ có 10% có thiện cảm. Tương tự như vậy, trong những vấn đề quốc tế, lòng tin của thế giới vào ông Tập Cận Bình cũng ở mức thấp như từ trước đến nay, trong khi niềm tin vào ông Joe Biden đang tăng lên rất nhanh sau khi ông nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ. Người dân Thụy Điển chẳng hạn, có 85% tin vào ông Biden trong khi chỉ có 12% tin vào ông Tập và ngay tại Mỹ, có 60% tin tưởng ông Biden và chỉ có 15% tin lời ông Tập. Nếu phải lựa chọn một cường quốc làm đối tác kinh tế thì trong tất cả các nước được khảo sát thì hơn một nửa cho rằng, có quan hệ kinh tế mạnh với Hoa Kỳ thì tốt hơn với Trung Quốc; cụ thể 64% muốn làm đối tác với Hoa Kỳ và chỉ 21% muốn làm ăn với Trung Quốc. Không ai ngăn chặn sự phát triển của Trung Quốc, thành một đất nước giàu mạnh và một “cổ đông có trách nhiệm” của cộng đồng thế giới. Nhưng con đường trỗi dậy của Trung Quốc dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản là con đường hủy diệt tự do và nhân phẩm mà ngay đến người gốc Hoa ở Đài Loan, những người yêu chuộng tự do ở Hoa Lục cũng không chấp nhận được. Đảng CSTQ là “những cương thi (zombie) chính trị,” là nhận định của bà Thái Hà (Cai Xia), cựu giáo sư trường Đảng Trung Ương Trung Quốc, hiện lưu vong tại Hoa Kỳ. Đem một thứ chủ nghĩa tôn sùng bạo lực, phi tự do đã bị phần lớn nhân loại vứt bỏ ra làm “nền tảng,” làm “linh hồn” để chinh phục thế giới, ông Tập Cận Bình và đảng CSTQ đã đặt thế giới trước những thử thách không hề nhỏ. Và nhân loại cần phải cảnh giác. Hiếu Chân Nguồn: Người Việt
......

Một Thế Giới Tốt Hơn của Nhóm G7

Trùng Dương| Kết thúc ba ngày hội thảo từ 11 đến 13 tháng 6 vừa qua tại Cornwall thuộc miền nam Anh Quốc, Nhóm G7 – một tổ chức gồm bảy nước dân chủ có nền kinh tế phát triển lớn nhất là Pháp, Đức, Ý, Nhật, Mỹ, Anh và Gia Nã Đại – cùng đồng ý tham gia vào một đề xướng đầy tham vọng, đó là hỗ trợ dự án giúp các quốc gia nghèo có nhu cầu phát triển xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn thế giới. Tên tiếng Anh của dự án đồ sộ trị giá hàng chục ngàn tỉ Mỹ Kim này là New Global Infrastructure Initiative (NGII). Đề án này được coi như là một đối thủ của Đề xướng Con Đường Tơ Lụa Mới, hay Belt and Road Initiative (BRI), cũng đầy tham vọng của Trung Cộng. Đề xướng BRI, còn có tên lãng mạn là Con Đường Tơ Lụa Mới (The New Silk Road), ra đời cách đây đã tám năm song, theo nhiều nhà phân tích, đang gặp nhiều trở ngại và khốn đốn cho một số quốc gia thành viên, và có dấu hiệu Trung Cộng đang thu hẹp tầm hoạt động đối với các công trình ít quan trọng. Các nhà lãnh đạo trong Nhóm G7 tại Carbis Bay, Cornwall, Anh Quốc. Kết thúc ba ngày hội thảo tháng Sáu vừa qua, G7 ra một thông cáo chung nhằm đối phó với đại dịch Covid, nạn khí hậu thay đổi và những vấn đề khác của thế giới, trong đó có dự kiến giúp các quốc gia đang phát triển tái thiết cơ sở hạ tầng tập trung vào phúc lợi của nhân loại. Ảnh: Jonny Weeks/ The Guardian Trong bài này người viết sẽ bàn sơ qua về đề án phát triển hạ tầng cơ sở toàn cầu của nhóm G7 – sơ qua vì đây mới chỉ là dự kiến chứ chưa có gì là cụ thể. Tiếp theo là phần tường thuật chi tiết hơn về công trình BRI của Trung Cộng, một đề xướng đang được thực hiện tại khoảng trên 70 quốc gia, những thành công cũng như trở ngại. Đề án xây dựng hạ tầng cơ sở toàn cầu của G7 Đề án này, còn gọi là Tái Thiết Một Thế Giới Tốt Đẹp Hơn – Build Back Better World, tắt là B3W –  rút ra từ bản thông báo chung của Nhóm G7 phổ biến sau khi kết thúc cuộc họp ba ngày ở Conway, và được khai triển thêm qua thông báo tại Web site của Tòa Bạch Ốc. Đây là một đề nghị hợp tác nhằm tiếp sức xây dựng lại cơ sở hạ tầng tại các nước đang phát triển vốn cũng đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Một dự án ước tính tốn khoảng trên 40 ngàn tỉ Mỹ Kim sẽ do đóng góp của các quốc gia đã phát triển và đầu tư của các cơ chế tài chính quốc tế. Người ta không khỏi nghĩ tới các công trình đề ra và thực hiện sau khi hầu hết toàn thế giới bị tàn phá bởi cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai. “Qua B3W, Nhóm G7 và các đối tác cùng khuynh hướng sẽ phối hợp và vận động tư bản đầu tư vào bốn khu vực chính  – khí hậu, y tế và sự an toàn y tế, kỹ thuật vi tính, và sự bình đẳng giới tính và quyền lợi – với các đầu tư khởi động của các cơ sở tài chính cho việc phát triển,” theo trang Web của Tòa Bạch Ốc. “B3W sẽ bao gồm toàn cầu, từ Châu Mỹ La tinh và vùng Caribbean tới Phi châu và vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương. Mỗi thành viên của G7 sẽ có thể chuyên về khu vực địa lý riêng, tuy nhiên mục tiêu chung của đề án là nhắm vào các quốc gia có lợi tức thấp hoặc trung bình trên toàn cầu.” Với tư cách là một thành viên dẫn đầu trong đề án B3W, Hoa Kỳ cho biết sẽ tìm cách vận động những cơ chế tài chính phát triển sẵn có, như Development Finance Corporation, USAID, EXIM, và nhiều cơ quan phụ thuộc khác. Làm như vậy, chính phủ của Tổng thống Joe Biden cũng đồng thời, theo Web site của Toà Bạch Ốc, bổ túc cho các đầu tư vào hạ tầng cơ sở nhằm tạo công ăn việc làm trong nước và cơ hội biểu dương khả năng cạnh tranh của Mỹ ở hải ngoại. “Ngoài hàng tỉ Mỹ Kim Hoa Kỳ sẽ vận động qua các cơ chế tài chính quốc tế chuyên tài trợ các chương trình phát triển hạ tầng” theo Web site của Toà Bạch Ốc, chính phủ Biden “sẽ làm việc với Quốc Hội để tăng thêm tài trợ cho các cơ chế tài chính phát triển hiện hữu trong niềm hy vọng là cùng với giới tư nhân, giới đầu tư Mỹ và các thành viên G7, B3W sẽ cùng huy động hàng trăm tỉ Mỹ Kim đầu tư vào các công trình phát triển hạ tầng cơ sở cho các quốc gia có lợi tức thấp tới trung bình trong những năm tới.” Đề án B3W sẽ được khai triển dựa trên các nguyên tắc nhân bản nhằm phục vụ nhân sinh. Truớc hết, công cuộc phát triển hạ tầng cơ sở phải công khai và bền vững, về tài chính, môi trường và xã hội, nhằm mang lại thành quả tốt và lâu dài cho các quốc gia và cộng đồng trong khu vực, đối nghịch lại với lề lối làm việc bị chỉ trích là khuất tất, không thành thật về nguồn ngọn tài chính của giới trách nhiệm về các đồ án BRI của Trung Hoa. Các đồ án đề ra cũng phải phù hợp và đáp ứng được với tình trạng khí hậu thay đổi, nhằm tái thiết kinh tế địa phương, tạo công ăn việc làm cho người dân, và cần phải có sự tham khảo với và đóng góp của đối tác từ các quốc gia thành viên, bên cạnh việc đóng góp kiến thức và kinh nghiệm của các cơ chế tài chính và phát triển quốc tế. Khác với BRI, nguồn tài trợ phải đến từ nhiều nơi, đặc biệt từ các nguồn tư bản tư, chứ không chỉ từ các cơ chế tài chánh do quốc gia đề xướng thiết lập và kiểm soát. Tóm lại, như đã nói ở trên, B3W mới chỉ là dự kiến, chưa có gì cụ thể rõ rệt. Những ai lâu nay theo dõi và lo ngại về sự bành trướng của Trung Cộng qua công trình BRI, mệnh danh là Đường Tơ Lụa Mới, nhằm tạo một hệ thống đường bộ xuyên lục địa từ Á sang Âu, và đường thủy (qua một hệ thống hải cảng do TC tài trợ tái thiết hoặc thiết lập và kiểm soát) nối với Trung Đông và Phi Châu (xin xem bản đồ bên dưới trong phần viết về công trình BRI), thì đề án B3W là điều họ mong đợi. Mong đợi, với sự dè dặt, đã hẳn, khi nhìn vào hiện tình chính trị của nước Mỹ. Dù vậy, không có nghĩa là ta không có quyền vui mừng lúc này. Được biết, bản dự thảo chi tiết sẽ được ban hành vào mùa thu năm nay. Hai ngày sau khi nhóm G7 công bố dự kiến về B3W như, ngoài mục đích giúp các nước đang phát triển kể trên, một “cạnh tranh chiến lược” đối với Trung Cộng, cơ quan Center for Strategic & International Studies có một bài phân tích tính cách thiết thực của B3W và đề nghị một số việc cần lưu ý ban soạn thảo chương trình. (CSIS, tổng hành dinh tại Washington, DC, là một tổ chức nhị đảng, vô vị lợi, chuyên nghiên cứu các chính sách có tính thiết thực và các thử thách quan trọng của thế giới.) Theo CSIS, sự ra đời của B3W mặc dù trễ nhưng cần thiết, nhằm giải quyết hai vấn đề chính: tạo điều kiện cho các quốc gia kém mở mang phát triển và tái thiết sau đại dịch Covid-19 làm tê liệt các hoạt động kinh tế; và hoá giải các quan tâm bấy lâu về công trình BRI của Bắc Kinh. Những quan tâm này gồm việc Bắc Kinh đã dễ dãi và thiếu sự trong sáng trong việc cho các quốc gia thành viên của BRI vay tiền, khiến có công trình đã rơi vào cảnh vỡ nợ phải nhượng quyền kiểm soát cơ sở hạ tầng tại quốc gia của mình cho chủ nợ; tình trạng tham nhũng; ảnh hưởng tiêu cực lên môi trường và xã hội. Ngoài ra, có những công trình xây cất được nhìn như có triển vọng được sử dụng vào mục tiêu quân sự. Nếu thành hình, B3W tất nhiên không thay thế BRI, nhưng ít ra tạo cho các nước đang phát triển một cơ hội so sánh và chọn lựa. BRI: Mô hình xây dựng hạ tầng cơ sở kiểu Bắc Kinh Trong khi Hoa Kỳ bận rộn đối phó với chính trị nội bộ, đáng kể nhất là mấy năm qua với chủ trương “America First” tự cô lập hoá khỏi và giải giới vai trò lãnh đạo của Mỹ trong các sinh hoạt thế giới, thì Trung Quốc đã nhân cơ hội bành trướng khắp nơi với một vận tốc chóng mặt. Trừ các cơ sở truyền thông chuyên đề, giới truyền thông Mỹ thường chỉ tường trình lẻ tẻ các tiến triển của công cuộc bành chướng này cho khối độc giả vốn bị lôi cuốn hầu như 24/7 theo dõi các biến cố nội bộ Mỹ, đặc biệt kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Do đấy ít người, kể cả người viết bài này, có được cái nhìn bao gồm về tham vọng của Trung Cộng với các công trình BRI và ảnh hưởng của chúng. Vào năm 2013 tại một trường đại học ở quốc gia Kazakhstan – nằm trong lục địa Trung Á, nguyên xưa thuộc Liên bang Sô viết, ở giữa Nga về phía tây bắc và Trung Hoa ở phía đông nam — chủ tịch kiêm tổng thống Trung Cộng Tập Cận Bình chính thức khởi động đề xướng Belt and Road Initiative, tắt là BRI. Mục đích của đồ án BRI là nhằm xây dựng hai hệ thống giao thông: đường bộ (belt) xuyên lục địa từ Trung Hoa ở phía đông, vòng qua Nga tới Âu châu ở phía tây, và đường thủy (road) gồm những hải cảng tại những vị trí có tính cách chiến lược thọc xuống biển Nam Hải (với những hòn đảo nhân tạo trong khu vực Hoàng Sa-Trường Sa), xuyên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, bọc bán đảo Ả Rập ngược lên Kênh Suez trong vùng Trung Đông vào tới Địa Trung Hải, với một cánh vươn xuống các nuớc Phi châu. BRI, hay Con Đường Tơ Lụa Mới (*), nhằm nối khoảng 70 quốc gia dọc theo hệ thống đường bộ gồm vừa xa lộ và đường hoả xa xuyên lục địa từ Trung Hoa qua Âu châu; trong khi hệ thống đường thủy nhằm nối các hải cảng cho tầu vận tải hàng hoá. Ngoài 70 quốc gia nằm dọc theo hệ thống đường bộ còn có nhiều quốc gia không nằm dọc theo BRI nhưng ký tên hợp tác, hoặc đã tham gia hoặc còn chờ nghiên cứu và tài trợ để phát triển hạ tầng cơ sở của mình, trong đó có nhiều quốc gia ở Phi Châu và cả ở Trung và Nam Mỹ. Theo chủ tịch Tập, trong bài diễn văn tại đại hội đảng Cộng sản vào cuối năm 2017, thì “Trung Quốc sẽ đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế qua đề xướng Belt and Road Initiative. Làm như vậy chúng ta hy vọng hoàn tất chính sách phát triển hạ tầng, giao thương, tài chánh, và nối kết nhân loại và do đấy xây dựng nên một diễn đàn cho việc hợp tác quốc tế cho các công cuộc phát triển.” Bản đồ ‘Con Đường Tơ Lụa Mới’ gồm hai hệ thống đường bộ và đường thủy, mục đích là xây dựng sáu “hành lang kinh tế.” Tuy nhiên, nhiều quan sát viên quốc tế e ngại Bắc Kinh còn mưu tính một tham vọng chính trị. Ảnh: OECD Tính tới tháng Giêng năm nay, Trung Quốc đã ký kết với 171 thành viên gồm các quốc gia và các cơ quan quốc tế, theo Wikipedia (dựa vào tuyên bố của New China TV). Tại Phi châu thì có sự tham dự của Djibouti, Egypt, Ethiopia, Kenya, Nigeria, Sudan và Uganda. Ở Âu châu thì có Poland, Greece, Portugal, Italy, Austria, Luxembourg, và cả Switzerland. Vùng Caucasus (nằm giữa Black Sea và Caspian Sea, giữa Russia, Turkey và Iran) gồm Armenia, Azerbaijan và Georgia. Hiệp hội Kinh tế Nga và vùng Âu Á (Russia and the Aurasian Economic Union). Đông đảo các quốc gia tham dự “Con Đường Tơ Lụa Mới” là trong Á châu, gồm 10 nước: Trung Á, Hong Kong, Indonesia, Laos, Maldives, Malaysia, Pakistan, Sri Lanka, Thailand và Turkey. (Không thấy Việt Nam trong danh sách này?) Trong khi đó, từ Nam Mỹ, năm nước ký kết với BRI là Panama,  Argentina, Barbados, Jamaica và Venezuela. Bắc Kinh dự trù đầu tư 1,000 tỉ Mỹ Kim vào công trình BRI, tài trợ bởi các cơ chế tài chính của Trung Hoa, kể cả một số quỹ hưu trí được đem đầu tư kiếm lời; và một số cơ chế quốc tế mà TH có chân, như The World Bank Group, Asian Development Bank và Asian Infrastructure Investment Bank. Tính tới nay, Trung Quốc đã đổ vào các công trình BRI khoảng 700 tỉ Mỹ Kim. Bắc Kinh hy vọng các công trình BRI sẽ tạo nên sáu hành lang mậu dịch (trade corridors) gồm các hệ thống đường rầy xe hoả, xa lộ, ống dẫn dầu, hải cảng, cơ sở khai thác nng lượn, và hệ thống giây cáp fiber optic để thiết lập liên mạng broadband. Kể từ khi thành lập cách đây tám năm, một số đồ án giao thông đã thành hình và đã bắt đầu hoạt động, đã giúp nâng tổng sản lượng mậu dịch giữa TH và các nước trong BRI một cách đáng kể, và giảm bớt thời gian vận chuyển hàng hoá, mang lại nhiều lợi ích kinh tế TH cũng như một số quốc gia thành viên. Song các công trình BRI cũng đã mang lại không ít những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội cũng như môi trường. Một số quốc gia thành viên, do nhu cầu phát triển kinh tế, hoặc thiếu hiểu biết và cái nhìn tổng thể, hoặc bị các áp lực chính trị xã hội, tham nhũng, thấy vay nợ dễ dàng, nên đã xẩy ra tình cảnh “vỡ nợ” nên phải “đợ con.” Một trong những vụ điển hình nhất là khi chính phủ Sri Lanka, vào năm 2018, vì không trả nổi nợ đã phải nhượng quyền kiểm soát hải cảng Hambantota cho Bắc Kinh qua một giao kèo 99 năm. (Ta nghe quen quen, phải không? Vì đã xẩy ra nhiều vụ giao kèo dài hàng gần thế kỷ như thế giữa nhà nước Việt Nam và các hãng thầu TH.) Và hẳn cũng nghe quen quen việc TH bị chỉ trích về việc nhiều nhà thầu các đồ án xây cất BRI là người Trung Hoa, mang theo lề lối làm việc không minh bạch, hống hách và cả tính tham nhũng cố hữu. Cũng vậy là hiện tượng đa số nhân công được gửi đến từ Hoa lục, thay vì là khai thác nguồn lao động địa phương, nhất là trong các đồ án do BRI tài trợ ở Phi Châu. Gần đây Pakistan, sau khi đã dấn thân vào một công trình đại quy mô để thiết lập một số hệ thống hạ tầng cơ sở CPEC (China-Pakistan Economic Corridor) tốn nhiều chục tỉ Mỹ Kim trong khuôn khổ BRI, cũng đang có vấn đề. Một trong những đồ án xây cất là hệ thống xa lộ 685 miles (1,100 km) chạy dài theo bản đồ Pakistan, cho phép TH mở đường xuống thẳng Biển Arabia qua cảng Gwadar. Đại dịch Covid đã khiến các công trình BRI tại Pakistan bị ngưng đọng, nợ nần chồng chất, có triển vọng Pakistan không trả nợ nổi. Nhiều quan sát viên coi CPEC như một thứ “con ngựa thành Troy” của Pakistan vì nó đã biến Pakistan thành lệ thuộc gần như hoàn toàn vào TH. Đây cũng là chương trình BRI quan trọng hàng đầu (flagship) của TH. Bên cạnh đó, việc Mỹ và đồng minh rút khỏi Afghanistan (nằm suốt dọc biên giới phía tây của Pakistan) cũng khiến Bắc Kinh lo ngại về tình trạng an ninh trong vùng đối với các đồ án CPEC. Ba đại đồ án phát triển hạ tầng cơ sở trong hợp đồng CPEC giữa Trung Hoa và Pakistan: trái, hệ thống xa lộ; giữa, hệ thống fiber optic; và phải, hệ thống đường hoả xa. Coi như là công trình quan trọng hàng đầu (flagship) trong đề xướng Belt and Road Initiative, tính tới 2020, Trung Hoa đã đổ vào CPEC 62 tỉ Mỹ Kim. Đại dịch Covid-19 đã làm tê liệt kinh tế Pakistan, đe dọa khả năng trả nợ của nước này, bên cạnh mối đe dọa về an ninh từ láng giềng Afghanistan sau khi Hoa Kỳ và đồng minh NATO hoàn tất cuộc rút quân vào ngày 11/9/2021. Nguồn bản đồ: https://thecpec.org/cpec-maps/ Nhận thấy vì sự thiếu hiểu biết và nhu cầu cần tiền đầu tư từ nước ngoài của nhiều quốc gia đang mở mang, cơ quan World Bank đã ký kết với TH để có chân trong BRI. Làm như vậy WB có danh chính ngôn thuận đứng ra cố vấn và cung cấp dữ kiện cần thiết cho quốc gia nào muốn tham dự vào chương trình BRI. Bắc Kinh vốn, như ai cũng đã biết, làm việc thiếu minh bạch, trong sáng, nếu không nói là khuất tất, luôn coi việc chỉ trích phê bình từ bên ngoài là xen vào chuyện nội bộ TH, mặc dù BRI nay đã là chuyện quốc tế. World Bank khẳng định là không tài trợ cho đồ án nào của BRI, mà chỉ giúp thành viên cần tham khảo và cố vấn. Song song, WB cũng phát hành một bản nghiên cứu dài 159 trang về đề xướng BRI, trong đó WB nêu lên những điều các quốc gia thành viên cần quan tâm khi ký kết một đồ án với BRI. “Đề xướng BRI đem lại những bất trắc thông thường như trong bất cứ đồ án xây dựng hạ tầng cơ sở nào khác,” WB viết trong bản những câu hỏi thông thường về bản tường trình chính. “Những bất trắc này lại càng trở nên phóng đại vì hạn chế công khai và cởi mở của đề xướng [BRI] và hậu quả của nền kinh tế và quản trị yếu ớt của các nước thành viên.” Trong tài liệu tóm tắt này, WB liệt kê bốn phạm vi cần quan tâm cải thiện. Thứ nhất là những bất trắc về khả năng trả nợ: Trong số 43 nền kinh tế dọc theo hành lang BRI mà thông tin có sẵn, 12 – phần lớn đã phải đối diện với mức nợ nần gia tăng – có thể rơi vào tình trạng vỡ nợ. Thứ hai là những bất trắc trong việc quản trị: Cần áp dụng tiêu chuẩn hành xử quốc tế, như cởi mở và công khai lề lối làm việc sẽ giúp các đồ án BRI được giao đúng hãng có khả năng thực thi. Thứ ba là những bất trắc về môi trường: Hệ thống vận tải của BRI được ước tính là đã gia tăng 0.3% khí độc carbon dioxide toàn cầu, song tới 7% tại vài nước vì kỹ nghệ sản xuất ô nhiễm. Và cuối cùng là các bất trắc xã hội: Với lũ lượt công nhân [đa phần là thanh niên Tầu – chú thích của người viết] cần cho các công trình xây cất hạ tầng đổ vào các quốc gia thành viên, sự kiện này có thể gây ra bạo hành giới tính, bệnh hoa liễu, và các căng thẳng xã hội. Lời kết Lợi dụng lúc Hoa Kỳ yếu thế vì phải đối phó với nhiều vấn đề nội bộ, đặc biệt trong bốn năm qua với chủ trương “America First” và “Make America Great Again” dẫn tới chỗ tự cô lập hoá, Trung Hoa phát động một chiến dịch bành trướng kinh tế, đánh vào khát vọng tìm kiếm vốn đầu tư từ nước ngoài để xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển kinh tế tại các quốc gia đang phát triển. Đề xướng Belt and Road Initiative BRI của chủ tịch kiêm tổng thống Tập Cận Bình ra đời, lôi cuốn nhiều quốc gia tham gia ký kết, vay tiền dễ dàng, xây cất đường xá, ống dẫn dầu, hải cảng, cơ sở sản xuất năng lượng, hệ thống fiber optic, với một vận tốc chóng mặt. Song vì quen thói làm ăn thiếu công minh, không theo tiêu chuẩn quốc tế trong việc cho vay tiền, thiên vị các hãng thầu Trung Quốc, BRI đã đẩy nhiều quốc gia thành viên rơi vào cảnh công nợ chồng chất, trong khi kinh tế bản xứ không phát triển. Đấy là chưa kể những ảnh hưởng tiêu cực trên xã hội và môi trường. Nhiều thôn làng bị rời chuyển, san bằng để lấy chỗ xây đường, lập hãng xưởng; người dân không những đã không được tham khảo, lại chẳng được đền bù xứng đáng. Thêm vào đó, đại dịch Covid từ trên một năm nay khiến kinh tế toàn cầu bị tê liệt chỉ làm tình trạng nợ nần, lệ thuộc của các quốc gia trong BRI thêm điêu đứng. Một số quốc gia đã rút ra khỏi BRI vì không chấp nhận lề lối làm việc thiếu ngay thẳng và bất chấp các ảnh hưởng trên xã hội và môi trường này của Bắc Kinh. Đáng kể nhất là việc gần đây Úc hủy bỏ giao ước hợp tác và rút ra khỏi BRI, cho rằng không phù hợp với lợi ích của quốc gia lục địa này. Bắc Kinh kỳ vọng là vào năm 2050 thì sẽ hoàn tất công trình BRI “nối vòng tay lớn” thế giới để mọi ngả đường trên toàn cầu sẽ đều dẫn tới (thay vì Rome thì là) Bắc Kinh, của một Trung Quốc lại sáng ngời. Đồng thời đây cũng sẽ là dịp để ăn mừng nước Cộng sản Trung Quốc lên 100 tuổi kể từ ngày 1 tháng 10, 1949 khi Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Liệu ngày đó sẽ có xẩy ra? Trong khi chờ đợi, bừng thức sau bốn năm hầu như bất động trong hoang mang, nhóm G7 gồm Pháp, Đức, Ý, Nhật, Mỹ, Anh và Gia Nã Đại đã đề đạt một viễn kiến mong mang thế giới ra khỏi cơn khủng hoảng do đại dịch, đó là đề án Tái Thiết Thế Giới Tốt Hơn (Build Back Better World). Dựa trên các nguyên tắc nhân bản nhằm phục vụ nhân sinh, các công cuộc phát triển hạ tầng cơ sở này phải công khai và bền vững, về tài chính, môi trường và xã hội, nhằm mang lại thành quả tốt và lâu dài cho các quốc gia và cộng đồng trong khu vực, đối nghịch lại với lề lối làm việc khuất tất, không thành thật về nguồn tài chính và mục tiêu của các đồ án BRI. Các đồ án đề ra cũng phải phù hợp và đáp ứng được với tình trạng khí hậu thay đổi, nhằm tái thiết kinh tế địa phương, tạo công ăn việc làm cho người dân, và cần phải có sự tham khảo với và đóng góp của đối tác từ các quốc gia thành viên, bên cạnh việc đóng góp kiến thức và kinh nghiệm của các cơ chế tài chính và phát triển quốc tế. Người ta hy vọng sẽ được thấy bản dự thảo chi tiết với các biện pháp cụ thể, khả thi, vào mùa thu tới. Trùng Dương — Chú thích: (*) Đường Tơ Lụa xưa nguyên là một hệ thống đường mòn nối Trung Quốc và vùng viễn đông với vùng Trung Đông và Âu châu. Thiết lập vào đời nhà Hán khi Trung Quốc chính thức mở mối giao thương với Tây phương vào năm 130 trước Tây lịch, Đương Tơ Lụa tiếp tục hoạt động tới năm 1453 sau Tây lịch khi Đế quốc Ottoman tẩy chay giao thương với Trung Quốc và đã đóng đường. Dù vậy, Đường Tơ Lụa vẫn tồn tại trong trí tưởng của nhiều người như một hình ảnh lãng mạn, một lời mời gọi viễn xứ. Đề xướng Belt and Road Intitiative đầy tham vọng của đảng Cộng sản Trung Hoa đã phần nào khơi gợi tình tự ấy. Song trên thực tế, sau tám năm hoạt động, BRI đang gặp nhiều vấn đề, gây bất mãn, và cả chống đối vì lối làm ăn thiếu công khai, minh bạch, bao che tham nhũng của Bắc Kinh. Một số Web links trong bài: G7 Communique, https://www.consilium.europa.eu/media/50361/carbis-bay-g7-summit-communique.pdf FACT SHEET: President Biden and G7 Leaders Launch Build Back Better World (B3W) Partnership, https://www.whitehouse.gov/briefing-room/statements-releases/2021/06/12/fact-sheet-president-biden-and-g7-leaders-launch-build-back-better-world-b3w-partnership/ Destruction and Reconstruction (1945-1958), https://www.imf.org/external/np/exr/center/mm/eng/mm_dr_01.htm The G7’s New Global Infrastructure Initiative, https://www.csis.org/analysis/g7s-new-global-infrastructure-initiative Organisation for Economic Co-operation and Development, https://www.oecd.org/finance/Chinas-Belt-and-Road-Initiative-in-the-global-trade-investment-and-finance-landscape.pdf List of projects of the Belt and Road Initiative, https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_projects_of_the_Belt_and_Road_Initiative CNA BRI/New Silk Road series, https://www.channelnewsasia.com/news/video-on-demand/new-silk-road Financing and funding of the belt and road initiative, https://www.ottawalife.com/article/financing-and-funding-for-the-belt-and-road-initiative?c=1 RAND Working Paper: Demystifying the Belt and Road Initiative – A Clarification of its Key Features, Objectives and Impacts, https://www.rand.org/pubs/working_papers/WR1338.html How China Got Sri Lanka to Cough Up a Port, https://www.nytimes.com/2018/06/25/world/asia/china-sri-lanka-port.html China-Pakistan Economic Corridor (CPEC), https://en.wikipedia.org/wiki/China%E2%80%93Pakistan_Economic_Corridor The Backlash to Belt and Road: A South Asian Battle Over Chinese Economic Power, https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2018-02-16/backlash-belt-and-road China’s Belt and Road Initiative criticised for poor standards and ‘wasteful’ spending, https://www.scmp.com/news/china/diplomacy/article/3014214/chinas-belt-and-road-initiative-criticised-poor-standards-and Australia scrapped the controversial Belt & Road (BRI) pact with China claiming that the deal was contrary to the national interest. Will more countries follow? https://www.republicworld.com/world-news/china/australia-pulls-out-of-bri-pact-with-china-move-seen-as-loss-of-face-for-xi-jinping.html World Bank Group: Frequently Asked Questions: Belt and Road Initiative https://thedocs.worldbank.org/en/doc/664251560539547566-0090022019/original/BRIFAQ.pdf Belt and Road Economics: Opportunities and Risks of Transport Corridors, https://www.worldbank.org/en/topic/regional-integration/publication/belt-and-road-economics-opportunities-and-risks-of-transport-corridors    
......

Vụ đưa 300 sinh viên y khoa Hải Dương vào “giải phóng” dịch Covid-19 tại Thành Hồ

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân| Trước hết, việc 300 sinh viên y khoa từ Hải Dương tình nguyện vào Sài Gòn giúp “diệt dịch Covid-19” là một nghĩa cử đáng ca ngợi. Đây là hành động cần được đề cao và kêu gọi nhiều địa phương khác nên bắt chước khi mà hơn 10 triệu người dân Sài Gòn đang điêu đứng vì phải trải qua 36 ngày sống trong cách ly, phong tỏa kể từ khi đợt dịch thứ tư bùng phát từ ngày 27 tháng Tư, 2021. Tính đến nay, dịch đã lây lan tại 306/312 phường, xã và thị trấn trong Thành Hồ, với gần 9.000 ca nhiễm trong vòng 1 tháng, đặt người dân TP.HCM rơi vào tình thế bất an hơn bao giờ hết. Sự bất an này đến từ nhiều lý do: Bao giờ trở lại cuộc sống bình thường; bao giờ được chích vaccine phòng ngừa; bao giờ được gói cứu trợ từ chính quyền theo như lời hứa; bao giờ không còn nghe những tuyên truyền giả dối, phóng đại “về cơ bản, dịch đã được khống chế!” Chính trong tâm trạng bất an đó, đáng lý ra người dân Sài Gòn phải coi sự kiện một đoàn y tế tình nguyện từ tỉnh Hải Dương vào giúp sức chống Covid-19 là chuyện bình thường; nhưng nhiều người đã có phản ứng bực bội và khó chịu. Lý do là người ta đã khám phá một liên minh giữa 3 đại gia: Vingroup, Air Vietnam và Saigon Tourist Group đã dùng công tác cứu giúp này như một đòn PR. Dưới sự điều động của Bộ Y Tế và cán bộ tuyên giáo, đoàn người này được một số trang mạng xã hội và báo chí quốc doanh huênh hoang mô tả là đi vào Miền Nam qua “đường mòn HCM trên không” để giúp “giải phóng” thành Hồ thoát địa ngục Covid – 19. Thậm chí lễ xuất quân còn kèm theo những khẩu hiệu nổ vang dội mô tả đây là cuộc chi viện cho chiến trường Miền Nam hay những phát ngôn gây ấn tượng “giải phóng Miền Nam lần 2.” Từ đó làm bùng nổ một cuộc tranh cãi khá gay cấn trên mạng xã hội. Được biết Vietnam Airlines đã dùng phi cơ Boeing 787-9 Dreamliner là loại phi cơ lớn nhất, còn Saigon Tourist Group (Tổng công ty Du Lịch Sài Gòn) thì cung cấp 5 khách sạn loại 5 sao đang trong tình trạng ế ẩm như Continental, Royal (Kim Đô), Oscar, Đệ Nhất và Thiên Hương có sức chứa tới trên 1000 người. Đoàn y tế Hải Dương gồm 300 sinh viên, giảng viên, nhân viên nhà trường và cán bộ đi theo hỗ trợ. Với một đoàn người đông đảo như thế thì chi phí không phải là nhỏ. Nhưng chẳng biết ai là người bỏ tiền ra lo và đoàn y tế sẽ giúp được bao lâu, cũng như hiệu quả đạt được có tương xứng với công sức và tiền của bỏ ra hay không. Dư luận hiện có hai luồng: Bênh và chống. Phe bênh là những người đứng trên quan điểm tuyên truyền của nhà nước “chống dịch như chống giặc” mà đa số là dư luận viên của Ban Tuyên Giáo. Họ cho đây là một hành động nghĩa cử, hào hiệp của Vingroup, Air Vietnam, Saigon Tourist Group và của Đại Học Kỹ Thuật Y Tế Hải Dương, một nghĩa cử chỉ tìm thấy qua sự “ưu việt” của những người cộng sản. Phe chống là đa số dư luận người dân trên mạng xã hội, kể cả người dân ở Sài Gòn. Lý do chống thì nhiều nhưng tựu trung có thể nhằm vào 3 điểm chính: 1/ Buổi lễ gọi là tiễn đưa được tổ chức rình rang để chỉ PR cho nhóm đại gia đứng ra tổ chức, cung cấp phương tiện và trường Đại Học Y Tế Hải Dương hầu thu hút dư luận hơn là chống dịch. Phải chăng nhóm tổ chức cố ý đưa người vào Thành Hồ, một thành phố lớn nhất nước, sẽ dễ dàng cho việc tô son điểm phấn bộ mặt đang ế ẩm của họ trong mùa dịch? 2/ Báo chí có dịp thổi phồng tin tức 300 sinh viên vào trợ giúp, cho thấy là thành phố Sài Gòn quá bết bát không khống chế nổi Covid-19. Trong khi đó đây là một thành phố giàu có, kinh tế hùng mạnh đứng đầu cả nước. 3/ Trong khi những bác sĩ, y tá của Sài Gòn vì nhiệm vụ chống dịch phải sống khổ cực trong các khu vực cách ly thì sinh viên và đoàn cán bộ Hải Dương ở khách sạn 5 sao, tạo ra cái nhìn rất phản cảm về sự phân chia giai cấp. Từ sự kiện này, ta thấy: – Bản chất tuyên truyền đã dính trong máu của chế độ cộng sản, nên làm bất cứ chuyện gì cũng lấy tuyên truyền đi đầu. Điều này từ lâu đã khiến cho dư luận khó chịu và biếm nhẽ rất nhiều. Tại sao việc Hải Dương đưa người vào Sài Gòn giúp diệt dịch không âm thầm tiến hành mà phải phô trương rầm rộ với những khẩu hiệu quá nổ trong thời chiến tranh? – Nếu lấy lý do Thành Hồ ở trong tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh mà đưa 300 người từ Hải Dương vào trợ giúp thì chính điều này khiến người dân thành phố này thấy chủ trương của chính phủ là hoàn toàn tùy tiện, bạ đâu đánh đó. Ngoài ra những khẩu hiệu, hình ảnh và những bài báo được mô tả là “nhạy cảm” của đoàn người từ Hải Dương cũng gợi lại biết bao sự đau lòng cho nhiều người. Một đàng thì kêu gọi người dân thành phố sẵn sàng sống chung với dịch, một đàng thì tốn công, tốn của đưa người từ xa vào diệt dịch, trong khi tình hình không đến nỗi nào. Vậy thử hỏi ai là người hưởng lợi qua sự kiện rình rang này? – Gây thêm làn sóng bất mãn trong dân vì ông Phạm Minh Chính chỉ nói suông ở cửa miệng, trong khi thực tế chính phủ của ông ta đang loay hoay không giải quyết được gì, từ vụ diệt dịch đến vụ mua vaccine. Vì thế, sự kiện đưa 300 sinh viên y tế vào Thành Hồ chống dịch là giọt nước làm tràn sự bất mãn đã ngấm ngầm từ lâu trong dân. Phạm Nhật Bình  
......

Chưa chết vì Covid-19 thì đã chết vì chi tiền xét nghiệm âm tính

Le Anh| Theo phản ảnh của một số doanh nghiệp, đặc biệt là thành phố Dĩ An tại Bình Dương cho biết, tất cả những người lao động nào từ Tp HCM và Đồng Nai muốn vào thành phố này phải có giấy xét nghiệm Covid âm tính mới được vào. Điều mà gây bức xúc nhất là cứ mỗi 3 ngày thì xét nghiệm 1 lần. Mỗi lần xét nghiệm phải trả chi phí 300.000/người. Chủ nhân của một doanh nghiệp tại Bình Dương than trời rằng, doanh nghiệp của ông có vài trăm công nhân. Công ty phải trả cho mỗi công nhân 300.000 đồng. Cứ mỗi đợt xét nghiệm thì phải đóng gần 100 triệu đồng. Và cứ 3 ngày xét nghiệm một lần. Đây là chi phí không có doanh nghiệp và công nhân nào có thể có thể chịu nổi, trong khi tình hình kinh tế ngày càng khó khăn như giai đoạn hiện nay. Trong trường hợp những doanh nghiệp không có khả năng chi trả thì công nhân phải trả, cứ thử hỏi làm sao công nhân có khả năng chi trả cứ 300.000 đồng/lần/3 ngày. Ngoài ra, tại chợ Bình Điền, ông Trần Thanh Tùng - chủ tịch UBND Q.8 - cho biết việc yêu cầu thương nhân, người vô chợ phải trình giấy tờ chứng nhận có xét nghiệm âm tính. Đây là quyết định của ban quản lý chợ. Quận 8 kể từ ngày 5/7/2021. Ông còn cho rằng, quyết định này rất cần thiết và phù hợp với yêu cầu phòng chống dịch trong tình hình hiện nay.. Cuối cùng nếu doanh nghiệp không có khả năng chi trả tiền xét nghiệp covid cho công nhân thì đóng cửa, khai phá sản. Trong trường hợp công nhân muốn đi làm thì phải tự trả, nếu không có khả năng trả thì thất nghiệp. Những người không thể vào chợ buôn bán thì ở nhà ngóng trên Tivi chờ nhà nước “cứu đói”? Nhiều người rất bức xúc khi nhà nước CSVN đã quyên ít nhất là trên 7000 tỷ đồng với mục đích để trang trải cho việc phòng chống Covid và mua Vaccine. Tại sao không dùng số tiền này để trang trải chi phí xét nghiệm âm tính cho doanh nghiệp, công nhân và người dân. Khi thực hiện công việc này cũng là cách kích hoạt lại nền kinh tế và giúp đỡ cho doanh nghiệp, công nhân cũng như người dân vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay. Có người quá phẫn nộ trước việc làm của chính quyền địa phương phải buộc miệng nói, chưa có chính quyền nào khốn nạn và vô nhân đạo như chính quyền này! Còn có người nói, dân chưa chết vì covid thì đã chết vì bị chính quyền bóc lột. Lê Ánh
......

Ông Sáu Mù

STTD Tưởng Năng Tiến Cứ tưởng rằng giữ thể diện (sợ mất mặt – save face) là tâm lý chung của đám đông. Trong giao tiếp hằng ngày, thiên hạ có khuynh hướng tự nâng (trình độ học vấn, lương bổng, gia cảnh, gia thế, tài sản …) mình cao hơn lên chút xíu là chuyện khá bình thường, và cũng chả gây thiệt hại hay phiền phức gì cho bất cứ ai cả. Nổ chơi (cho đã miệng) chút xíu thôi mà. Tuy nhiên, sau khi xem lại cách đặt vấn đề của Trần Kiều Ngọc và Viet Beat về hai hiện tượng tâm lý tương phản (thượng dẫn) thì nhận thức của tôi có hơi đổi khác. Một cá nhân hợm mình, tự cao, tự đại, ba hoa, khoác lác, nói thánh, nói tướng …  thường  chỉ có thể làm cho một số ít người sống gần khó chịu và tìm cách tránh xa thôi. Còn một tập thể mắc chứng hợm hĩnh, huyênh hoang, ngạo mạn (như thiên hạ hay nói đến bệnh kiêu ngạo cộng sản, chả hạn) mà lại đang nắm vai trò điều hành cả một quốc gia thì e là đại họa. Hãy thử nghe dăm bẩy câu nói của giới lãnh đạo Việt Nam để thấy sự ngông cuồng và điên loạn của đám người này : - Vũ Đức Đam: “Tất cả cuộc sống người Việt Nam ta hôm nay là niềm mơ ước của nhiều nước.” - Nguyễn Mạnh Hùng: “Việt Nam có thể đi đầu cách mạng công nghiệp 4.0. - Lê Minh Hưng: “Toàn cầu bất ổn nhưng Việt Nam rất ổn.” - Nguyễn Xuân Phúc: “Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng chưa bao giờ lớn và sâu sắc như lúc này.” - Nguyễn Phú Trọng: “Không có một lực lượng nào khác ngoài ĐCSVN có đủ bản lĩnh, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn.” - Võ Văn Thưởng: “Nhiều nước coi Việt Nam là mô hình phát triển để học tập.” - Nguyễn Chí Vịnh: “Bộ đội ta có những kỹ năng đặc biệt khiến Liên Hợp Quốc khâm phục.” - Phan Quốc Việt: “Có 20 quốc gia đang đàm phán mua bộ sinh phẩm kít xét nghiệm virus corona chủng mới của Việt Nam.” Mức độ tự huyễn của những lời phát ngôn dẫn thượng khiến tôi nhớ đến lời than phiền, nghe được từ hồi cuối thế kỷ trước, của ông Hà Sỹ Phu: “Đảng cộng sản Việt Nam như người đi đường không biết dùng bản đồ. Thỉnh thoảng lại sa xuống hố. Lóp ngóp bò lên được thì hô vang thắng lợi. Cứ thế, Ðảng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.” Với thời gian thì cái tần suất “sa xuống hố” mỗi lúc một thêm đều đặn (và toàn là hố thẳm: Vinashin, Vinalines, Bauxit, Vũng Áng, Vĩnh Tân, Duyên Hải, Formosa, rồi đến những Khu Tự Trị …) cứ như thể là cả Đảng đã bị đui hết trơn rồi vậy. Sự tăm tối của giới cầm quyền ở Việt Nam hiện nay cũng khiến tôi nhớ đến ông Sáu Mù, ở xóm chài Lâm Quang Ky, với hơi nhiều nuối tiếc. 7/2021 Tưởng Năng Tiến  
......

Vac-xin và chiến lược duy trì ảnh hưởng của Nhật Bản với Việt Nam

Ảnh tư liệu : Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc (P) tiếp đón đồng nhiệm Nhật Yoshihide Suga (T) tại Phủ Chủ tịch, Hà Nội, Việt Nam, ngày 19/10/2020. AP - Minh Hoang Thu Hằng - RFI| Đến đầu tháng 07/2021, Tokyo tặng Việt Nam 2 triệu liều vac-xin AstraZeneca được sản xuất tại Nhật Bản : 1 triệu liều đầu tiên được giao ngày 16/06 và 1 triệu liều tiếp theo được giao thành hai đợt, vào ngày 01 và 08/07. Món quà này có ý nghĩa rất lớn, “góp phần giúp Việt Nam ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid-19 tại Việt Nam”, theo bộ Y Tế ngày 29/06, trong bối cảnh Việt Nam đang đôn đáo tìm mọi nguồn cung ứng vac-xin. Phải nói rằng số 2 triệu liều được Tokyo viện trợ cho Hà Nội, chiếm gần một nửa số vac-xin mà Việt Nam nhận được từ mọi nguồn (kể cả chương trình COVAX), sắp tới là 5,3 triệu liều, trong đó 4,3 triệu liều đã nhận được đến ngày 29/06. Việt Nam là một trong những nước trong khu vực (Đài Loan, Indonesia, nhiều đảo quốc ở Thái Bình Dương…) được Nhật Bản viện trợ vac-xin trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng mở rộng “ngoại giao vac-xin” trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Tặng vac-xin ngừa Covid-19 cho Hà Nội cũng nằm trong chiến lược duy trì ảnh hưởng của Tokyo. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 12 của Nhật Bản, được thủ tướng Yoshihide Suga đánh giá “là đối tác quý báu”. Đối với Tokyo, Việt Nam “đóng vai trò quan trọng để thực hiện “Tầm nhìn Ấn Độ-Thái Bình Dương mở và tự do” của Nhật Bản nhằm làm đối trọng với tham vọng mở rộng ảnh hưởng và quảng bá mô hình Trung Hoa của Bắc Kinh. Điều này được thể hiện rất rõ qua chuyến công du nước ngoài đầu tiên vào tháng 10/2020 của ông Yoshihide Suga trong cương vị thủ tướng, kế nhiệm ông Shinzo Abe từ chức vì lý do sức khỏe. Ông Suga cũng là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên được Hà Nội đón tiếp kể từ khi đóng cửa chống dịch Covid-19. Báo The Diplopmat ngày 11/09/2020 từng nhận định “dù người kế nhiệm ông Shinzo Abe là ai, hai nước có rất nhiều lý do để mở rộng và thắt chặt hợp tác trong nhiều lĩnh vực”.  Trả lời RFI Tiếng Việt qua thư điện tử ngày 03/07/2021, nhà nghiên cứu N. T., chuyên về chính sách đối ngoại của Việt Nam, phân tích một số lĩnh vực được Nhật Bản và Việt Nam tăng cường hợp tác trong thời gian gần đây.   ***** RFI : Để giúp Việt Nam chống dịch Covid-19, Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam hai triệu liều vac-xin ngừa Covid-19, cũng như cho một số nước khác trong khu vực. Đây có phải là chiến lược đối trọng của Tokyo trước việc Bắc Kinh liên tục tặng và bán vac-xin Trung Quốc cho các nước trong vùng ? Nhà nghiên cứu N. T. : Bản thân tôi cho rằng việc Nhật Bản gần đây gửi tặng hàng triệu liều vac-xin AstraZeneca cho nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, không hoàn toàn là nhằm đối trọng với “ngoại giao vac-xin” của Trung Quốc, do nhu cầu vac-xin của khu vực Đông Nam Á là rất lớn và một quốc gia không thể một mình cung ứng. Tuy vậy, Nhật Bản vẫn muốn duy trì ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á, nhất là tại các quốc gia mà Tokyo có quan hệ chiến lược như Việt Nam, Philippines, Thái Lan và Indonesia. Ngoài ra, Nhật Bản có lẽ cũng nhận thấy rằng dù Trung Quốc đã tặng và bán hàng trăm triệu liều vac-xin cho khu vực, nhưng các quốc gia Đông Nam Á không hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn vac-xin của Trung Quốc mà muốn đa dạng hóa các nhà cung cấp. Do đó, việc Nhật Bản cung cấp vac-xin đem lại cho các quốc gia Đông Nam Á thêm lựa chọn, qua đó tăng cường ảnh hưởng của Nhật Bản và giảm bớt phần nào ảnh hưởng mà Trung Quốc có được qua hoạt động ngoại giao vac-xin. Ngoài ra, Nhật Bản tặng trực tiếp số vac-xin này thay vì thông qua Quỹ COVAX, có lẽ vì muốn đảm bảo số vac-xin đến được các nước mà Nhật Bản muốn thắt chặt quan hệ. RFI : Sau khi nhậm chức, thủ tướng Yoshihide Suga đã dành chuyến xuất ngoại đầu tiên đến thăm Việt Nam, sau đó là Indonesia. Việt Nam đóng vai trò như thế nào trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Nhật Bản ? N. T. : Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Nhật Bản gồm 3 trụ cột : (1) Thúc đẩy pháp trị, tự do hàng hải, thương mại tự do ; (2) Thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng và củng cố quan hệ kinh tế và (3) Thúc đẩy hòa bình và ổn định thông qua tăng cường năng lực cho các quốc gia (an ninh hàng hải, phát triển nhân lực). Việt Nam có lợi ích và hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản trong cả 3 trụ cột trên. Hai nước đều phải đối mặt với một Trung Quốc quyết đoán hơn trong tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và biển Hoa Đông, nên đều ủng hộ một trật tự khu vực dựa trên quy tắc, tự do hàng hải và hàng không, giải quyết tranh chấp thông qua luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Hợp tác kinh tế song phương sẽ còn được thúc đẩy hơn nữa khi Việt Nam và Nhật Bản đều là thành viên của hai hiệp định kinh tế lớn trong khu vực là CPTPP và RCEP, và Nhật Bản tiếp tục hỗ trợ Việt Nam cải thiện cơ sở hạ tầng. Và trước một Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn, Nhật Bản cũng tăng cường hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực an ninh hàng hải, như xây dựng năng lực nhận thức biển (maritime domain awareness) và thực thi pháp luật trên biển. Hợp tác quốc phòng giữa hai nước, bao gồm chuyển giao tàu tuần tra, diễn tập chung, huấn luyện và đào tạo là vì mục tiêu này. Nhật Bản hiểu rằng một khi Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông, nước này sẽ dồn lực gây sức ép với Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Do đó, những năm gần đây Nhật Bản tăng cường hợp tác an ninh hàng hải với các nước có tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông, nhằm giúp các nước này xây dựng năng lực đối phó với sức ép từ Trung Quốc. RFI : Nhật Bản đã tạo được uy tín tại Việt Nam về hợp tác kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng và cũng có tranh chấp với Trung Quốc về biển đảo. Liệu đây có thể là cơ sở giúp Tokyo và Hà Nội tạo niềm tin và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, trước một Trung Quốc không ngừng đòi hỏi chủ quyền trong khu vực ? N. T. : Theo tôi, hợp tác kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn toàn là cơ sở tốt để hai nước thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng. Trong các năm gần đây, Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản không chỉ đặt chuỗi cung ứng tại Việt Nam mà còn thâm nhập vào thị trường tiêu dùng. Nhật Bản cũng là nhà cung cấp vốn ODA hàng đầu cho nhiều lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực, quản trị nhà nước, cải cách pháp luật… Do đó, chính phủ Việt Nam có sự tin cậy chính trị rất cao đối với Nhật Bản. Niềm tin chính trị cao sẽ giúp thúc đẩy hợp tác quốc phòng Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ chuyển giao tàu tuần tra cho lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, đồng thời mời chào Việt Nam mua máy bay tuần tra trên biển của Nhật Bản. Mặt khác, hai nước còn hợp tác trong huấn luyện và đào tạo, an ninh phi truyền thống, đối thoại chính sách. Trong chuyến thăm Hà Nội mới đây của Thủ tướng Nhật Bản Suga, hai nước đã nhất trí về một thỏa thuận cho phép Nhật Bản xuất khẩu thiết bị và công nghệ quốc phòng cho Việt Nam. Đây là bước tiến lớn để hai bên tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng. Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại nhất định. Bất chấp những thay đổi gần đây về chính sách đối ngoại dưới thời cựu thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản nhìn chung vẫn bị ràng buộc bởi bản Hiến Pháp hòa bình của nước này, nên hợp tác quốc phòng Nhật-Việt hiện nay vẫn sẽ chỉ dừng ở các lĩnh vực ít gây tranh cãi như an ninh phi truyền thống, đào tạo huấn luyện, tìm kiếm cứu nạn. Trong chuyển giao, mua bán thiết bị quốc phòng cho Việt Nam, Nhật Bản sẽ phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt từ Nga và Ấn Độ, vốn là những đối tác quốc phòng lâu đời của Việt Nam và thiết bị của các nước này thường có giá thành dễ chịu hơn so với thiết bị của Nhật Bản. RFI : Đại dịch Covid-19 buộc nhiều nước phải đổi chính sách, đa dạng hóa các đối tác và nguồn cung cấp. Có thể coi đây là cơ hội để Việt Nam và Nhật Bản thắt chặt hợp tác để tránh phụ thuộc vào Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế ? N. T. : Việt Nam đã có chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại từ trước và Nhật Bản là một trong các đối tác Việt Nam mong muốn thắt chặt quan hệ. Hai nước cũng đều muốn giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc do nhận thấy những rủi ro từ sự phụ thuộc đó đối với an ninh quốc gia và trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Bản thân Nhật Bản cũng từng là nạn nhân của hành vi cưỡng ép kinh tế của Trung Quốc hồi năm 2010, khi Trung Quốc hạn chế xuất khẩu đất hiếm, một nguyên liệu quan trọng đối với ngành chế tạo công nghệ cao của Nhật Bản, sau khi quan hệ song phương trở nên xấu đi liên quan tới tranh chấp quần đảo Senkaku. Tôi cho rằng hai nước sẽ tăng cường hợp tác hơn nữa sau đại dịch trên một loạt lĩnh vực. Ngoài các lĩnh vực nổi bật như xây dựng cơ sở hạ tầng, hai nước có thể thúc đẩy hợp tác để đưa Việt Nam trở thành một trung tâm chế tạo tại khu vực Đông Nam Á. Bản thân Nhật Bản cũng có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp nước này chuyển chuỗi sản xuất và cung ứng về Nhật hoặc sang các quốc gia Đông Nam Á. Trong đó, Việt Nam là điểm đến được lựa chọn nhiều nhất của các doanh nghiệp Nhật Bản. Tuy nhiên, sẽ rất khó để hai nước giảm hoàn toàn phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, nhất là trong chuỗi cung ứng, vì nước này vẫn sở hữu một số lợi thế lớn như nhân công tay nghề cao, cơ sở hạ tầng tốt, nhà cung ứng đa dạng và thị trường tiêu dùng lớn. Ngoài ra, quy mô sản xuất tại Việt Nam còn quá nhỏ so với Trung Quốc, trình độ lao động còn chưa cao và cơ sở hạ tầng còn kém. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu N. T., chuyên về chính sách đối ngoại của Việt Nam.  
......

Cứng họng chưa mày!

Việt Nam vượt trội qua mặt thế giới trong tất cả các lãnh vực từ Kinh tế, kỹ thuật, công nghiệp cho đến khoa học... qua báo Đảng. Không tin thì theo dõi báo đảng thì biết. Ngô Trường An  Cô em họ mình di tản qua Pháp năm 1975 và lấy chồng người Pháp. Hôm nay hắn gọi điện về cho mình kể rằng, lão chồng hắn xem Euro, thấy cờ đỏ sao vàng treo tùm lum trên khán đài. Lão kêu hắn lại hỏi: "Việt Nam mày có gì nổi bật mà đem cờ qua tận sân vận động châu Âu treo nham nhở, gây ô nhiễm thị giác người hâm mộ thế hả"? Em quê quá nhưng không biết nói sao cả. Anh, anh xem VN mình có mặt nào nổi bật, anh thông tin giúp em, để em lên mặt cho lão ấy khỏi xem thường đất nước mình. Tui trả lời: - Mày nói với lão ấy rằng, VN của tui không nổi bật thì nước nào mới nổi? Ông muốn biết lĩnh vực nào? Khoa học kỹ thuật, kinh tế, công nghiệp, hay hàng không vũ trụ??? Lĩnh vực nào cũng ngang tầm thế giới cả! Nó mừng rỡ: - Ồ, tuyệt quá! Anh nói cụ thể em nghe đi anh! - Được rồi! Về công nghiệp thì VN đã là nước công nghiệp hiện đại năm 2020 rồi nha. Và ngành đường sắt VN đã đuổi kịp công nghệ đường sắt Nhật Bản cách đây 11 năm rồi (năm 2010) kia lận. - Ủa, ủa!!! Sao vừa rồi em nghe nói ngành đường sắt sắp phá sản? Công nhân bị nợ lương cả năm trời kia mà! - Ồn ào quá! Anh mày nói có sách, mách có chứng. Mày khỏi lo đi! Rồi, tiếp đến là lĩnh vực KHKT. Lĩnh vực này nổi bật nhất là, VN đã làm được mưa nhân tạo từ năm 2010 lận nha. - Ơ! Thế sao năm ngoái đồng bằng SCL bị khô hạn, đất nức nẻ, lúa chết, nhiễm mặn tùm lum mà nhà nước không cho mưa nhân tạo? - Mệt mày quá! Vặn vẹo quài nà! Về lĩnh vực hàng không vũ trụ thì phi thuyền VN đã đưa người lên không gian vào cuối năm 2017, cách đây 4 năm rồi. Về kinh tế thì sang năm (2022) tp Hà Nội sẽ đuổi kịp Singapore và Hongkong nè. Về.... - Thôi, thôi đi anh ơi! Làm sao mà lão chồng em lại tin được những điều này chứ! Giải thích bằng cách nào đây? - Cần gì giải thích! Mày cop hết link báo nhà nước mà tao vừa kể đó. Cop xong, ấn nút dịch qua tiếng Tây rồi quăng vào mặt lão. Lão sẽ cứng họng ngay thôi! Đừng xem thường đất nước tao nhá! Ngô Trường An
......

Dân trí, xã hội dân sự, và văn hóa ứng xử trên mạng

Nguyễn Quang Dy   Đợt bùng phát thứ tư của Coronavirus chủng mới không chỉ buộc người dân phải dãn cách mà còn làm thay đổi tư duy và văn hóa ứng xử. Coronavirus không chỉ đẩy lùi các chỉ tiêu kinh tế lạc quan đưa ra đầu năm, mà còn làm xã hội phân hóa khó lường. Sau bài Thánh chửi, thần y, danh hài, và các ngôi sao đang lặn (27/5/2021), bài này đề cập không chỉ thực trạng về dân trí, mà còn về các nhân tố mới làm thay đổi cuộc chơi (game changers).   Thực trạng xã hội Trong mọi xã hội, dù đã phát triển (như Mỹ) hay đang phát triển (như Việt Nam), quá trình phân hóa đang diễn ra với các biến động khó lường, như một quy luật trước bước ngoặt của lịch sử. Tại các xã hội đang chuyển đổi (transitional) như Việt Nam, quá trình đó càng quyết liệt. Muốn tránh rủi ro và đổ vỡ thì dân trí phải cao, và xã hội dân sự phải mạnh. Nhưng đáng tiếc là đúng lúc này thì cả hai yếu tố cơ bản đó còn yếu và thiếu ở Việt Nam. Cách đây hơn một thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh đã nhận ra điều đó và kêu gọi “khai dân trí”. Nhưng đáng tiếc là trong khi người Nhật đã khai dân trí để canh tân Nhật Bản thành cường quốc, thì Việt Nam vẫn còn dậm chân tại chỗ ở ngã ba đường “không chịu phát triển”. Thời trước, các trí thức Việt thường kiêu ngạo vì “hủ nho” chỉ “ngâm thơ uống rượu”. Ngày nay, họ thường tự hào vì “truyền thống”, chỉ ham cãi nhau và “chém gió”.   Trong khi đổi mới “vòng một” (chủ yếu về thể chế kinh tế) đã hết đà và nghẽn mạch, thì đổi mới “vòng hai” (chủ yếu về thể chế chính trị) chưa diễn ra, chậm chân hơn các nước khác, làm cho quá trình dân chủ hóa (democratization) và xã hội dân sự (civil society) bị kìm hãm. Trong khi “sức mạnh cứng” (hard power) của đất nước còn yếu trước sự trỗi dậy và đe dọa của Trung Quốc, thì “sức mạnh mềm” (soft power) của dân tộc bị suy yếu. Thời xưa, Việt Nam tuy nhỏ bé và yếu hơn Trung Quốc, nhưng người Việt (thời Lý và Trần) đã đoàn kết một lòng (national consensus) đánh bại quân xâm lược phương Bắc. Lý Thường Kiệt đã chủ động ra tay trước (forward defense), đem quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu (1075-1076) tiêu diệt quân Tống trước khi rút về phòng tuyến Như Nguyệt. Trần Hưng Đạo đã  lãnh đạo người Viêt ba lần đánh thắng quân Nguyên (1258-1288).  Thời chống Pháp và chống Mỹ, người Việt đoàn kết một lòng đã chiến thắng ở Điện Biên Phủ (7/5/1954) và Sài Gòn (30/4/1975). Đến thời hậu chiến, tuy đất nước thống nhất, nhưng dân tộc vẫn chưa hòa giải để lòng người quy về một mối, vì hận thù còn dai dẳng giữa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”. Sau khi Việt Nam đem quân sang Campuchia để “giúp bạn” đánh Khmer Đỏ (12/1978), thì chiến tranh biên giới Việt-Trung đã nổ ra (2/1979). Chiến tranh biên giới Việt-Trung là xung đột “bạn thù” (brother enemy). Trong bối cảnh chiến tranh lạnh Mỹ-Xô, Trung Quốc đã vận động Mỹ, các nước phương Tây và ASEAN cô lập Việt Nam, làm cho chúng ta “chảy máu kiệt quệ” (bleeding white) như một bài học. Sau Thành Đô, bạn thù lẫn lộn, biến đổi khó lường, nên chỉ có “lợi ích dân tộc là vĩnh viễn”. Nhưng dân tộc không thể mạnh nếu dân trí còn thấp và xã hội dân sự chưa đủ mạnh.     Các nhân tố mới Vụ dàn khoan HD 891 (5/2014) đã làm cho Biển Đông trở thành “thùng thuốc súng” (tinder box), và “không gian sinh tồn” của Việt Nam bị đe dọa. Lịch sử có thể lặp lại, như lời của cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch “một thời kỳ Bắc Thuộc mới bắt đầu”.  Bức tranh địa chính trị tại khu vực đã biến đổi mạnh, với những biến động khó lường của bàn cờ nước lớn (Mỹ-Trung), trong đó các nước nhỏ yếu hơn như Việt Nam đang bị mắc kẹt. Trong bối cảnh đó, truyền thông mạng (4.0) rất quan trọng, có thể nâng cao dân trí và xã hội dân sự. Vai trò phản biện trên mạng xã hội (như facebook và youtube) đang lấn sân, làm mờ nhạt vai trò phản biện của báo chí “chủ lưu” (mainstream). Nó phản ánh quá trình phát triển và phân hóa sâu rộng trong xã hội, giữa “phe chính nghĩa” (là nạn nhân) muốn vạch trần bộ mặt lừa bịp ẩn danh của “phe phi nghĩa” (như bầy kiến lửa) đang lũng đoạn xã hội.    Nhưng quá trình nâng cao dân trí (thật) trên không gian mạng (ảo) đang bị tác động tiêu cực bởi các nhóm lợi ích. Tuy đuờng dây “đánh bạc ngàn tỷ” được bảo kê bởi cựu cục trưởng C50 và phò mã cựu bí thư thành ủy Hà Nội đã bị “vào lò”, nhưng các đường dây lừa bịp ẩn danh như “thần y” và “danh hài” chưa bị xử lý. Trong một thế giới mạng khó kiểm soát, đã xuất hiện hàng ngàn youtubers khác nhau, đang cạnh tranh và phân hóa sâu sắc.    Trong khi người Việt dễ ngộ nhận và dễ bị lừa, thì họ còn nổi tiếng vì vô cảm (theo Gallup Poll 2012). Nhưng trong bối cảnh đó, hiện tượng truyền thông như livestreams của Nguyễn Phương Hằng (CEO của Đại Nam) thu hút tới nửa triệu người xem trên mạng youtube. Điều đó không phải do sắc đẹp, tiền tài, danh vọng của một ngôi sao, mà là sự thật. Trong một thế giới có quá nhiều giả dối và vô cảm, công chúng đang cần sự thật và cảm xúc. Phương Hằng dám bóc trần các mặt nạ giả dối và bày tỏ cảm xúc thật của mình. Trong khi có nhiều “ngôi sao” showbitz làm từ thiện bằng tiền của người khác thì Phương Hằng làm từ thiện bằng tiền của mình. Xung đột lợi ích nhóm là một hiện tượng tất yếu khó tránh, đang đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội sâu sắc, trong đó Phương Hằng đang nổi lên như một nhân tố mới làm thay đổi cuộc chơi. Đó chính là “sức mạnh mềm” tạo ra sự khác biệt. Cộng đồng mạng đã hai lần chứng kiến Phương Hằng khóc nức nở vì bị báo chí đối xử bất công, muốn bỏ đất nước ra đi, thậm chí dọa “tự thiêu”.  Đó là quá trình đấu tranh trên không gian mạng về thông tin báo chí để trưởng thành (growing pains). Đó không phải là những giọt nước mắt “tràn ly” vì “khổ nhục kế”, mà là hình ảnh thật về “người giàu cũng khóc”. Phương Hằng là một nhân tố mới tích cự góp phần nâng cao dân trí và xã hội dân sự.   Không gian sinh tồn Trong khi những người tử tế bỏ tiền túi của mình làm từ thiện, thì những kẻ tiểu nhân lấy tiền làm từ thiện của người khác bỏ vào túi của mình. Ai dám đảm bảo “thần y” không phải là “thần điêu đại bịp”, “danh hài” không lạm dụng “quỹ từ thiện”, “nghệ sĩ ” không lạm dụng “con nuôi” để kiếm tiền bất minh. Nói cách khác, họ có thể lạm dụng chốn tu hành, việc chữa bệnh, làm thiện nguyện, cũng như showbiz thành miếng đất béo bở để làm giàu. Nếu không phải dân trí thấp dễ bị lừa và cơ chế hiện nay có nhiều lỗ hổng dễ bị thao túng do thiếu phản biện, thì làm sao một lang băm có thể trở thành “thần y” và một danh hài biến thái có thể trở thành “nghệ sỹ nhân dân”, ngang nhiên tung hoành hàng thập kỷ. Tuy các nhân tố mới còn là thiểu số và còn nhiều bất cập, nhưng họ dám dũng cảm vạch mặt các nhóm lợi ích bất minh, làm cho chính quyền phải đối phó với những rủi ro tiềm ẩn.   Cả nước “chống dịch như chống giặc”, tạo ra “sự đồng thuận quốc gia” (national consensus), như một yếu tố tích cực và quý hiếm. Xung đột lợi ích quyết liệt, không chỉ diễn ra giữa phe “chính nghĩa” (là nạn nhân) và phe “phi nghĩa” (ẩn danh trục lợi), mà còn giữa những người  cùng phe nhưng khác nhau về xuất thân và bản chất. Tuy đa dạng (diversity) là sức mạnh nếu biết quy tụ (inclusive) nhưng là điểm yếu nếu phân ly (exclusive). Muốn quy tụ thì dân trí cần phải cao để phân biệt đúng sai và cần phản biện để tránh nhầm lẫn phải trái, vì trong thế giới mạng thật giả thường lẫn lộn khó lường, dễ “đánh tráo khái niệm”.  Điều đó lý giải kết cục câu chuyện CEO của Đại Nam gặp “Ma Sơ Vui vẻ” trên mạng như một đôi “song kiếm hợp bích” (do ngộ nhận). Nhưng sau đó sự thật diễn ra hoàn toàn ngược lại như một bi kịch (drama), khi Phương Hằng nhận ra sự thật (do may mắn).            Nay “xa lộ thông tin” trên không gian mạng đã trở thành một phần của cách mạng truyền thông (4.0), tuy còn hạn chế. Vì vậy, nhà nước và người dân phải coi không gian mạng là “không gian sinh tồn” của mình. Cũng như Biển Đông, không gian sinh tồn trên mạng có ý nghĩa sống còn, nên xung đột lợi ích là rất khó tránh. Người dân phải cùng nhà nước thẩm định và giám sát không gian mạng, không để các nhóm lợi ích và ngoại bang thao túng. NQD. 21/6/2021  
......

Về hình ảnh lá cờ đỏ tại bóng đá Châu Âu

Phạm Minh Vũ Trong mùa giải Euro năm nay, nhiều người thấy trận bóng giữa TBN và TS trên nhiều góc khán đài có lá cờ đỏ sao vàng được căng ra, việc này cũng nhận được nhiều ý kiến bình luận khá hài hước. Một cô nhà báo Mỹ quan sát trận đấu và đặt một câu hỏi: "Có ai có thể giải thích cho tôi tại sao một số cổ động viên lại phất cờ Việt Nam trong trận đấu giữa Tây Ba Nha và Thụy Sỹ lúc này không ?" Câu hỏi này thật sự khó mà có câu trả lời. Vì ngay cả những quốc gia đang tham gia trực tiếp vào trận đấu túc cầu đó, cổ động viên họ cũng không ai cầm cờ căng ra như thế, thì tự dưng Việt Nam căng ra, hành động này thật vô liêm sỉ. Treo cờ khẳng định điều gì vậy? Cá nhân tôi cho rằng đây là một điều không hay và không nên làm. Vì trong mắt quốc tế, họ thật sự cảm thấy không mấy thích thú lá cờ đầy máu này. Tôi không biết những người Việt Nam căng lá cờ đó lên để làm gì trên giải đấu Châu Âu? Nhưng sự kiện này sẽ để lại không ít ánh mắt nhìn không mấy thiện cảm đối với người Việt Nam. Nếu như ai từng đi tới Singapore thì mới thấy, trong mắt người Sin xem những cô gái Việt Nam qua đó như là để hành nghề mại dâm chứ không phải là học tập hay làm việc cộng đồng. Nếu ai đến Nhật hay Hàn, thì họ xem người Việt Nam qua đó như những kẻ ăn cắp hay ăn trộm. Và qua tận Châu Âu, họ rất ái ngại với người Việt Nam vì vượt biên lậu qua đó để gây áp lực quốc gia họ. Hình ảnh người Việt Nam chưa bao giờ lại xấu đi như vậy, nó chỉ diễn ra sau năm 75, trước đó, Quốc tế rất ngưỡng mộ Việt Nam một đất nước thông minh, hiền hoà và dễ thương. Hành động căng cờ đỏ VN lên, thật hành động quá phản cảm. Hình ảnh lá cờ này thật sự không nên đem ra căng giữa lúc giải Châu Âu đang đá. Làm như thế, người Thụy Điển sẽ nhớ lại năm 2001, Kiều Trinh con của ủy viên trung ương đảng Vũ Văn Hiến đã bị cảnh sát thành phố Kalmar bắt vì tội ăn cắp hàng trong siêu thị, và sau đó được chạy giấy tâm thần mới cứu thoát. Làm như thế, người Anh sẽ nhớ lại Kiều Trinh lại một lần nữa bị bắt vì đã ăn cắp chiếc máy ảnh kỹ thuật số trong shop ở London. Trong mùa giải này, cả Thụy Điện và Anh Quốc đều tham dự và theo dõi, nếu nhìn vào lá cờ đỏ căng lên lạc lõng giữa khán đài sân vận động bóng đá ấy, họ nhìn Việt Nam là một quốc gia vĩ đại, đầy vẻ ngưỡng mộ không? Hay là nhếch môi và cười với nhau mà mỉa mai rằng: ôi lá cờ Kiều Trinh kìa? Lá cờ đại diện cho trộm cắp cho sự bại hoại mà đem ra khoe làm gì? Nếu muốn hơn người ta, thì ít ra - đất nước phải có tự do - phải để nhân dân có quyền lựa chọn lãnh đạo. Để họ nói lên tiếng nói của mình mà không bị quy chụp là phản động hay vi phạm pháp luật. Chứ hay ho gì treo ba cái cờ kiểu dây máu ăn phần, không khác chi mặt trận tổ quốc treo bảng tự nhận là đơn vị phát quà ở Thành hồ. Giá trị của mỗi quốc gia nằm ở cái tấm Hộ chiếu khi đi ra nước ngoài, có được chào đón bằng ánh mắt thiện cảm hay là ngờ vực. Nghi ngờ tới quốc gia họ làm điều gì tệ hại không? Trong khi đó hộ chiếu Việt Nam đi đâu họ cũng bị soi mói, dòm ngó. Vậy mà ...mang cờ ra khoe khoang rồi hô tự hào, ngạo nghễ với ai? Nếu có hình ảnh nào mà làm nhục Việt Nam khủng khiếp nhất, thì chính là hình ảnh cờ đỏ được treo trên các trận bóng đá ở Châu Âu./.  
......

'‘Mắc kẹt’ giữa Sài Gòn thời Covid-19

Ảnh: ThanhNien. Phạm Minh Vũ| '‘Mắc kẹt’ giữa Sài Gòn thời Covid-19: Bác bảo vệ gạt lòng tự trọng đi… ăn xin'' là một tựa đề của một số tờ báo đảng, hôm qua và nay đăng ,để kể về một câu chuyện, một bác bảo vệ bị mất việc do dịch, cần tiền chi trả cho cuộc sống phải... ăn xin. Cũng viện dẫn câu chuyện của bác bảo vệ ấy, một cô giáo có tên là N.T.P.U đã lấy đó làm tiền đề để phát động chiến dịch cứu giúp các cô giáo mầm non tư thục. Cô Uyên kể ra một câu hỏi của một cô giáo khác, hỏi cô rằng “Các chị ơi, giáo viên mà đi xin thì có mất hình ảnh không?” Câu hỏi này nghe sao mà cay đắng. Những ngày qua, hình ảnh giữa Saigon Hoa Lệ, người nghèo gần như lâm vào cảnh khốn cùng được phô bày thêm, cho chúng ta thấy một góc nhìn về toàn cảnh xã hội. Một bác bảo vệ phải ngồi đi ăn xin, các cô giáo (những người trồng cây) cũng phải lo lắng nếu đi ăn xin thì có mất hình ảnh hay không. Là những câu chuyện có thật, của những người thật, đã làm ta không thể không bàng hoàng. Một sự thật, ngay cả những người đi làm mấy chục năm như Bác bảo vệ này, hay các giáo viên là những người lao động, họ là những thành tố quan trọng trong cấu trúc nền kinh tế, nhưng dịch bệnh này đã lộ ra một điều, hầu như họ không tiền để tích lũy. Họ không có tiền tích lũy, vậy tiền họ làm ra đã ở đâu? Nếu như ở Mỹ, Châu Âu hay bất cứ quốc gia nào khác kể cả như Thái Lan hay Mã Lai, thì sự lo âu của Bác bảo vệ này hay cô giáo kia sẽ không thể có. Vì phúc lợi xã hội được trải đều bởi thiết chế chính trị Dân chủ, và định chế xã hội cân bằng. Khi dịch bệnh xảy ra, việc đầu tiên phải lo cho người dân bằng những hành động thiết thực. Chứ không phải là những lời nói suông, nay nói chống dịch như chống giặc, mai lại nói sống chung với ''giặc'' như thế. Thứ nhân dân cần là hành động giúp đỡ những con người yếu thế như Bác vệ, hay các cô giáo Mầm non kia... Những mảnh đời lây lất, vất vưởng giữa một thiên đường, nơi mà ưu tiên xây dựng tượng đài, cổng chào hơn xây dựng trường học hay bệnh viện, thật đáng làm ta chạnh lòng. Ta không thể làm ngơ, bỏ rơi vì họ là đồng bào ta. Khi tôi đặt câu hỏi tại sao họ là những người lao động trong xã hội mà không có tiền tích lũy, phòng khi ốm đau hay để sống qua cơn dịch bệnh này? Thì chúng ta không cần tìm câu trả lời, cứ chạy thẳng ra nhà chủ tịch phường, bí thư xã, cao hơn ta lên huyện lên tỉnh và nhìn ra trung ương xem, cán bộ đảng viên nào nhà cũng vài căn, đất vài chục héc để xem sự vĩ đại, sự uy nghi và cuộc sống của quan chức họ xây dựng thiên đường ngay trong căn nhà của họ. Xe thì toàn xế hộp, con cái du học bên Mỹ bên Âu, có khi các bác ấy có sẵn quốc tịch Síp. Tiền đáng lẽ ra bác bảo vệ này hay cô giáo kia tích lũy đều bị các quan cướp bằng cách tăng xăng, tăng giá điện, hay một quả trứng gà cũng mang hàng chục loại thuế phí. Chưa kể bị cướp bằng in tiền, bằng cách vay để đẩy nợ công lên, bóc lột dân tận cùng. Đó là cướp bằng chính sách, chưa kể cướp bằng cách xua quân đi cướp đất, dựng BOT lên bắt dân phải nộp tiền ra cho bọn chúng. Và muôn kiểu cướp khác nhau. Bằng các thái độ quen kiểu cách cướp như thế, đáng lý ra dịch bệnh này, cô giáo mầm non tư thục hay bác bảo vệ này sẽ được nhà nước hỗ trợ tiền và nhiều quyền lợi khác thì...họ phải ra đường ăn xin. Nhìn Dân ta thoi thóp giữa đại dịch, thật căm phẫn bọn tàu cộng đã gây ra đại dịch này. Và càng căm phẫn hơn những kẻ còn ôm mộng xây tượng đài để khi khánh thành họ lại reo hò, vui sướng trên sự khốn cùng của Nhân dân. Xây tượng đài họ không chỉ ăn mày dĩ vãng mà còn ăn hết cả tương lai con em chúng ta. Miệng họ hô hào xây dựng thiên đường, nhưng thiên đường ấy không phải cho dân mà cho chính những kẻ đầy lý luận kia. Một sự thật phơi bày quá trần trụi ở đất nước này!  
......

Trung Quốc có thể tiếp tục đà trỗi dậy hay không?

Lý Thái Hùng| Nhân đánh dấu sự kiện đảng Cộng Sản Trung Quốc tròn 100 tuổi (1921-2021), Tạp chí Foreign Affairs của Hoa Kỳ số ra tháng 7 & 8, 2021 đã thực hiện một chủ đề gồm 7 bài viết của nhiều tác giả nhằm trả lời câu hỏi: Trung Quốc có thể tiếp tục đà trỗi dậy hay không (Can China Keep Rising?) Bảy bài viết gồm: 1) Canh bạc của họ Tập (Xi’s Gamble) của Jude Blanchette; 2) Xem xét về nền kinh tế Trung Quốc (China’s Economic Reckoning) của Daniel H. Rosen; 3) Những tên cướp ở Bắc Kinh (The Robber Barons of Beijing) của Yuen Yuen Ang; 4) Trở nên mạnh mẽ (Becoming Strong) của Yan Xuetong; 5) Âm mưu chống lại Trung Quốc (The Plot Against China?) của Wang Jisi; 6) Sự cám dỗ của Đài Loan (The Taiwan Temptation) của Oriana Skylar Mastro; 7) Tuổi thọ của đảng (Life of the Party) của Orville Schelle. Vì khuôn khổ của bài tiểu luận này, người viết sẽ tập trung tóm lược một số ý chính vào bốn bài viết: 1) Canh bạc của họ Tập (Jude Blanchette); 2) Xem xét về nền kinh tế Trung Quốc (Daniel H. Rosen); 3/Những tên cướp ở Bắc Kinh (Yuen Yuen Ang) và Tuổi thọ của đảng (Orville Schell). Ba bài viết khác của tác giả Yan Xuetong (Becoming Strong) là cái nhìn chủ quan từ một trí thức Hoa Lục đề cập về những nỗ lực của Trung Quốc trong việc gia tăng sức mạnh để sẵn sàng đối đầu với Hoa Kỳ. Tác giả Wang Jisi (The Plot Against China) cũng là một trí thức của Hoa Lục giải thích lý do vì sao “hầu hết các nhà quan sát Trung Quốc hiện nay tin rằng Hoa Kỳ bị thúc đẩy bởi sự sợ hãi và đố kỵ để kiềm chế Trung Quốc bằng mọi cách có thể.” Tác giả Oriana Skylar Mastro (The Taiwan Temptation) đưa ra lập luận rằng trong bối cảnh mất lòng tin lẫn nhau giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, đã đến lúc phải nghiêm túc xem xét khả năng Bắc Kinh có thể sớm dùng vũ lực thống nhất Đài Loan hay không? *** Tập Cận Bình tại Rome, tháng Ba, 2019. Ảnh: Foreign Affairs Bài 1: Canh Bạc của Họ Tập (Xi’s Gamble), tác giả Jude Blanchette – chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế Hoa Kỳ (CSIS). Tác giả bắt đầu bằng hai ý kiến trái ngược nhau của giới nghiên cứu về lý do vì sao Tập Cận Bình, sau khi được đưa lên nắm quyền từ cuối năm 2012, đã có những hành động vội vã như triệt hạ các phe đối lập để củng cố quyền lực chính trị, chế ngự các tập đoàn tài chính và công nghệ cao và nhất là tiến hành chính sách ngoại giao chiến lang, gây chiến với nhiều nước láng giềng và các cường quốc ở xa hơn — đặc biệt là Hoa Kỳ? Ý kiến ​​thứ nhất cho rằng họ Tập nhìn thấy rõ sự suy thoái của Hoa Kỳ và Phương Tây sau cuộc khủng hoảng tài chánh 2008-2009 nên cố thúc đẩy một loạt các ​​chính sách mạnh mẽ để nhanh chóng thiết lập lại trật tự toàn cầu theo những điều kiện có lợi cho Trung Cộng. Ý kiến thứ hai cho rằng, họ Tập nhìn ra những bệ rạc, lỗi thời của hệ thống chính trị chuyên chế cộng sản nên phải củng cố sức mạnh cá nhân để thống trị Trung Quốc như một hoàng đế. Cả hai ý kiến đều dựa trên những sự thật đang diễn ra trong xã hội Trung Quốc, nhưng chưa giải thích thỏa đáng lý do vì sao họ Tập đã hành động cấp bách như vậy. Theo Jude Blanchette, các tính toán của Tập Cận Bình không xác định bởi nguyện vọng hay nỗi sợ hãi mà bởi quá trình củng cố quyền lực của ông ta đã diễn ra quá nhanh và suôn sẻ, khiến họ Tập thấy phải tận dụng những tiến bộ của công nghệ cao và bành trướng ảnh hưởng địa chính trị trong khung thời gian từ 10 đến 15 năm tới, để vượt qua những thách đố nội bộ và thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu so với Hoa Kỳ. Tập Cận Bình tin rằng ông ta có thể tạo ra một tương lai mới cho Trung Quốc như các hoàng đế trong quá khứ. Nếu họ Tập thành công, Trung Quốc sẽ tự định vị là một cường quốc của kỷ nguyên đa cực mới nổi, nền kinh tế sẽ thoát khỏi cái gọi là bẫy thu nhập trung bình, và với sự phát triển công nghệ trong hai lãnh vực sản xuất và quân sự, chắc chắn Trung Quốc sẽ sánh ngang ngang hàng với các nước phát triển. Tuy nhiên, tham vọng và sự thực tế không giống nhau, và họ Tập hiện đặt Trung Quốc vào một quỹ đạo đầy rủi ro, một quỹ đạo đe dọa những thành tựu mà những người tiền nhiệm của ông ta đã đạt được trong thời kỳ hậu Mao. Thứ nhất, Bắc Kinh dựa trên quan điểm cho rằng Hoa Kỳ sa lầy ở Afghanistan và Iraq, và nhất là qua cuộc  khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2008, để đánh giá rằng sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đã bước vào giai đoạn suy giảm nhanh chóng. Từ đó, họ Tập kết luận:  Một kỷ nguyên đa cực mới đã bắt đầu, một kỷ nguyên mà Trung Quốc có thể định hình nhiều hơn theo ý thích của mình. Nhưng Bắc Kinh đã không tính đến khả năng phục hồi của xã hội dân chủ phương Tây, đặc biệt là sức mạnh tiềm tàng của Hoa Kỳ để chịu khó kiên nhẫn chờ đợi như Đặng Tiểu Bình đã cảnh báo. Thứ hai, tuy Trung Quốc phát triển nhanh chóng trong vòng ba thập niên qua, nhưng triển vọng kinh tế và nhân khẩu học đang xấu đi. Vào thời điểm họ Tập nhậm chức, dân số Trung Quốc bắt đầu già đi, xã hội bắt đầu đối mặt với sự gia tăng của người nghỉ hưu. Góp phần gây ra những tai họa này là lực lượng lao động đang thu hẹp và mức lương lại gia tăng, khiến các nhà sản xuất toàn cầu phải chuyển hoạt động ra khỏi Trung Quốc và đến những nước có chi phí thấp hơn. Hệ quả là một số lượng lớn lao động không có tay nghề bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Lực lượng lao động có trình độ đại học tại Trung Quốc chỉ chiếm 12,5% (trong khi Hoa Kỳ là 24%) cho nên huy động một số lớn lao động vào những công việc có kỹ năng cao là một cuộc chiến mới của họ Tập. Thứ ba, họ Tập nghĩ rằng nếu đẩy mạnh những tiến bộ trong công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, người máy, kỹ thuật về y học – sinh hóa sẽ giúp Trung Quốc tránh những tác động tiêu cực của lực lượng lao động ngày càng thu hẹp và lão hóa. Đồng thời, với sự phát triển công nghệ cao sẽ giúp cho họ Tập giải quyết hai nhu cầu: Một là các công cụ nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo giúp cho các cơ quan an ninh những phương thức kiểm soát người dân và trấn áp những người bất đồng chính kiến. Hai là “kết hợp quân sự-dân sự,” cố gắng khai thác những công nghệ mới để tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội. Nhưng để thực hiện, Trung Quốc sẽ phải chi những khoản tiền khổng lồ nhằm nghiên cứu và phát triển (R&D) trong một thời gian dài (dù Trung Quốc đã đi đường tắt  bằng cách ăn cắp tài sản trí tuệ của Mỹ và các quốc gia Tây phương khác). Liệu họ Tập có đủ sức để chạy đua với Hoa Kỳ và thế giới trong cuộc chiến mà năm 2014, họ Tập đã nói với Trung Ương Đảng Trung Cộng: Lợi thế của người đi đầu sẽ thuộc về “bất kỳ ai nắm giữ mũi nhọn đổi mới khoa học và công nghệ.” Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đã thể hiện sự kiên nhẫn chiến lược trong việc khẳng định lợi ích của Trung Quốc trên toàn cầu vì có ý thức sâu sắc về sức mạnh mong manh tương đối của Trung Quốc và tầm quan trọng của thái độ cẩn trọng và chờ thời. Trong khi đó, Tập Cận Bình không chia sẻ sự bình tĩnh của họ Đặng, hoặc sự tin tưởng của họ Mao vào các giải pháp đường dài. Vì thế, đa số lo ngại rằng họ Tập cố gắng thực hiện một trò chơi cực kỳ mạo hiểm, đó là đánh chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Giả dụ họ Tập có thành công trong việc chiếm Đài Loan đi chăng nữa, nhưng về đường dài thì Bắc Kinh sẽ kiệt sức vì những chống đối của người dân tại Đài Loan và sự cô lập của thế giới, đứng đầu là Mỹ và Nhật. Nhìn qua những gì Tập Cận Bình ứng xử hiện nay, khiến người ta nhớ đến nhà kinh tế học Adam Smith mô tả về “con người của hệ thống”: Đó là nhà lãnh đạo “tự mê với những kế hoạch lý tưởng của riêng mình, và không thể chịu đựng được những gì khác với ý mình.” Nói cách khác, để thực hiện các mục tiêu ngắn hạn của mình, họ Tập đã từ bỏ “bàn tay vô hình của thị trường” và xây dựng một hệ thống kinh tế dựa vào các doanh nghiệp nhà nước để đạt được các mục tiêu đã định trước. Thông qua chủ trương này từ năm 2015 đến nay, họ Tập đã cho chuyển hàng chục nghìn tỷ nhân dân tệ vào các công ty, công nghệ và lĩnh vực mà ông ta coi là quan trọng về mặt chiến lược thông qua trợ cấp trực tiếp, giảm thuế và “quỹ hỗ trợ đặc biệt của chính phủ,” giống như các công ty đầu tư mạo hiểm do nhà nước kiểm soát. Cho đến nay, thành tích của Bắc Kinh trong lĩnh vực này hoàn toàn bị trộn lẫn: Trong nhiều trường hợp, những khoản đầu tư khổng lồ đã tạo ra lợi nhuận ít ỏi. Nhưng như nhà kinh tế học Barry Naughton đã cảnh báo: “Các chính sách công nghiệp của Trung Quốc quá lớn và quá mới, nên chúng tôi chưa có đủ tư cách để đánh giá chúng. Họ có thể thành công, nhưng cũng có thể thành thảm họa.” Vì thế, họ Tập đang đặt Trung Quốc vào cuộc cạnh tranh với chính mình, trong một cuộc chạy đua để xác định xem liệu nhiều điểm mạnh của nước này có thể vượt xa những căn bệnh hiểm nghèo mà chính ông Tập đã đưa vào hệ thống hay không. Thông thường vào mùa thu năm tới (2022) tại đại hội đảng lần thứ 20, ông Tập sẽ về hưu sau hai nhiệm kỳ như Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào. Tuy nhiên, cho đến nay, không có kỳ vọng rằng ông Tập sẽ làm như vậy, nhất là khi đảng Cộng Sản Trung Quốc đã hủy giới hạn nhiệm kỳ chủ tịch nước và phó chủ tịch nước vào đầu năm 2018, mở đường cho Tập trở thành hoàng đế suốt đời của Trung Quốc. Đây là một động thái cực kỳ mạo hiểm, không chỉ đối với bản thân đảng Cộng Sản Trung Quốc mà còn đối với tương lai của Hoa Lục. Không có người kế vị được chuẩn bị, nếu họ Tập đột ngột qua đời trong thập kỷ tới, Hoa lục có thể rơi vào hỗn loạn. Ngay cả khi giả định rằng họ Tập vẫn khỏe mạnh tiếp tục cầm quyền, thì nhiệm kỳ càng kéo dài, Trung Quốc sẽ càng giống như thời phong kiến kiểu Mao. Các yếu tố biểu hiện cho hiện tượng này đã quá rõ khi cả nước đang lên đồng về cái gọi là “tư tưởng Tập Cận Bình” vĩ đại. Thật là mỉa mai và bi thảm, nếu họ Tập, một nhà lãnh đạo với sứ mệnh cứu đảng và đất nước, thay vào đó lại ra tay với cả hai. Đường lối hiện tại của Tập Cận Bình có nguy cơ làm mất tác dụng của những tiến bộ lớn mà Trung Quốc đã đạt được trong bốn thập kỷ qua. Cuối cùng, họ Tập có thể đúng khi nói rằng thập kỷ tới sẽ quyết định thành công lâu dài của Trung Quốc. Nhưng điều mà Tập Cận Bình không hiểu là chính bản thân ông ta có thể là trở ngại lớn nhất cho sự thành công này. *** Đồng Nhân Dân Tệ. Ảnh: Foreign Affairs Bài 2: Xem Xét Về Nền Kinh Tế Trung Quốc (China’s Economic Reckoning) – tác giả Daniel H. Rose – thành viên sáng lập Tổ Hợp Rhodium, có 26 năm kinh nghiệm về phân tích kinh tế Trung Quốc và quan hệ kinh tế Trung – Mỹ. Daniel H. Rose bắt đầu bằng việc đánh giá Trung Quốc không những cứng đầu đi theo lối riêng, mà trong thực tế đã nhiều lần cố gắng cải cách dưới thời Tập Cận Bình, nhưng hầu như lần nào cũng bị phá vỡ và phải quay lại với những cách làm cũ – vốn không thành công. Cả số lượng và chất lượng tăng trưởng của Trung Quốc (nhìn qua những bất thường của thời kỳ đại dịch) đều xấu đi. Và trừ khi sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc quay trở lại con đường tự do hóa kinh tế, tương lai của Trung Quốc sẽ rất khác so với bức tranh màu hồng mà Bắc Kinh đã vẽ ra. Khi họ Tập lên cầm quyền ở Hoa Lục vào cuối năm 2012, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đã chậm lại ở mức một con số và lợi tức đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng đang giảm xuống. Sau khi củng cố quyền lực vào trong tay với Ủy Ban Thường Trực Bộ Chính Trị từ 9 giảm xuống thành 7 người, họ Tập đích thân chỉ huy toàn bộ các nhóm liên quan đến soạn thảo chính sách. Liên quan đến nhóm cải cách kinh tế, Tập Cận Bình chọn Lưu Hạc (Liu He) làm người phụ tá và nhóm đã đề nghị họ Tập phải có những hành động cải cách táo bạo nếu không sẽ phải đối mặt với bẫy nợ nội bộ của chính mình. Bắt đầu vào mùa xuân năm 2013, các nhà hoạch định chính sách đã đặt mục tiêu “giải phẩu” hệ thống tài chính vốn đang căng thẳng với các khoản nợ quá lớn đầy rủi ro. Các ngân hàng thì cho vay thế chấp tài sản ngắn hạn với lãi suất cao, nhưng lại sử dụng số tiền thu được đầu tư vào các tài sản dài hạn nhưng cũng  nhiều rủi ro hơn. Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc ra biện pháp cắt đứt khả năng tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn của họ. Động thái này đã tạo ra hậu quả: Các ngân hàng đột ngột ngừng cho vay ngay, khiến lãi suất vay ngắn hạn tăng từ 2% – 3% vọt lên 20% – 30% và thị trường chứng khoán Trung Quốc giảm mạnh hơn 10% khi các nhà giao dịch cố gắng tiếp cận tiền mặt thông qua bất kỳ tài sản thanh khoản nào có sẵn. Từ năm 2013 đến năm 2016, vay qua thị trường tiền tệ ngắn hạn đã tăng lên gấp bội, và bùng nổ cái gọi là cho vay trong bóng tối, với việc các ngân hàng Trung Quốc cung cấp tiền cho các tổ chức bên thứ ba, từ đó tìm kiếm lợi nhuận cao hơn bằng cách thông qua các kênh không được kiểm soát. Cuộc khủng hoảng thị trường liên ngân hàng này chỉ là dấu hiệu đầu tiên cho thấy những tác hại của nỗ lực cải cách táo bạo, sau đó là thoái lui khi những nỗ lực đó gây ra bất ổn và biến động. Sự kiện này tái diễn vào năm 2014, khi Bắc Kinh thực hiện các bước để giúp công ty Trung Quốc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Từ vốn đầu khoảng 73 tỷ USD (2013) đã tăng lên 216 tỷ USA (2016). Sự bùng nổ đầu tư ra nước ngoài đã mang lại cho Trung Quốc quyền tự hào với tư cách là một công ty toàn cầu – ví dụ như việc mua lại Anbang Insurance của Waldorf Astoria và tài trợ cho liên doanh Carnival Cruise Lines của China Investment Corporation. Nhưng khi các tài sản nước ngoài này chất đống, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc – được tích lũy trong nhiều năm nhờ thặng dư thương mại, đã giảm gần một phần tư (từ gần 4 ngàn tỷ USD xuống dưới 3 ngàn tỷ USD) khi các nhà đầu tư Trung Quốc tìm kiếm Mỹ Kim để đầu tư ra nước ngoài. Nhưng chỉ hai năm sau, 2016, Tập Cận Bình lo lắng về dòng tiền chảy ra quá nhanh nên đã quyết định ngưng hỗ trợ, và áp dụng lại các biện pháp kiểm soát vốn. Đầu tư ra nước ngoài đã bị đình trệ kể từ đó. Họ Tập cũng cố gắng mở cửa thị trường chứng khoán để giảm bớt gánh nặng tài chính cho các ngân hàng nhà nước. Mức nợ của chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước là một nỗi lo thường trực, và viễn cảnh sử dụng danh sách thị trường chứng khoán để xóa nợ là không thể cưỡng lại. Vào năm 2013, Bắc Kinh đã đơn giản hóa các yêu cầu đối với những đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và trong vòng một năm, 48 đợt IPO đã được hoàn thành và 28 đợt khác đã được các cơ quan quản lý xóa. Các quan chức cũng dỡ bỏ các hạn chế đối với ký quỹ giao dịch và chỉ thị cho các tờ báo viết một loạt bài khuyến khích người dân mua cổ phiếu. Nhưng những sôi động về cổ phiếu kéo dài chẳng bao lâu, đến tháng Sáu, 2015 thị trường chứng khoán đã mất một phần ba giá trị.  Ngày nay, bất chấp sự mở rộng đáng kể của nền kinh tế nói chung, thị trường vẫn thấp hơn 25% so với mức cao nhất năm 2015. Ngân hàng là một lĩnh vực khác mà ông Tập hy vọng sẽ đạt được những bước tiến. Vào tháng Mười, 2015, ngân hàng Trung Quốc đã công bố một cột mốc được mong đợi từ lâu: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngân hàng và các khoản cho vay. Các tỷ giá này trước đây do ngân hàng trung ương quy định với sự hướng dẫn của chính phủ trung ương thường thấp hơn so với điều kiện thị trường. Hệ thống đó đã ngăn cản các ngân hàng cạnh tranh với nhau giữa người gửi tiền và người đi vay. Người gửi tiền lẽ ra phải nhận được lãi suất tiết kiệm cao hơn và người đi vay đáng lẽ phải trả lãi suất cho vay cao hơn. Điều đó có tác dụng khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vào những ngành vốn đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng dư thừa hiệu suất và giảm sức tiêu dùng của các hộ gia đình. Để giải quyết những vấn đề này, ngân hàng trung ương cho phép các ngân hàng cạnh tranh bằng cách cung cấp cho người gửi tiền lãi suất cao hơn 50% so với lãi suất chuẩn chính thức; mức trần trước đó chỉ là 10%. Ngay sau đó, mức trần lãi suất huy động đã được loại bỏ hoàn toàn. Nhưng, trên thực tế, các quan chức ngân hàng lo ngại rằng các ngân hàng nhỏ sẽ tạo ra sự bất ổn nếu họ cạnh tranh dựa trên các lực lượng thị trường, và vì vậy họ duy trì một số quy tắc không chính thức rằng lãi suất huy động không được cao hơn 50% so với lãi suất chuẩn. Sự kiện này cho thấy là lãi suất trên danh nghĩa đã được tự do hóa, nhưng thực chất vẫn bị kiểm soát và các ngân hàng vẫn bị hạn chế trong cách họ có thể cạnh tranh để giành được khách hàng. Một mục tiêu khác trong chiến lược tự do hóa tài chính của họ Tập là bảo đảm việc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) công nhận đồng nhân dân tệ như đồng tiền dự trữ xứng đáng được đưa vào rổ tiền tệ mà IMF căn cứ vào quyền rút vốn đặc biệt (SDRs), một đơn vị tài khoản mà các ngân hàng trung ương sử dụng để thực hiện các giao dịch. Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc hy vọng rằng nếu đồng nhân dân tệ được quy chế này, sẽ khuyến khích các ngân hàng trung ương khác mua tài sản bằng đồng nhân dân tệ, làm cho thị trường của Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, rắc rối là các loại tiền tệ trong rổ SDR được cho là có thể sử dụng tự do trong các giao dịch quốc tế và được giao dịch thường xuyên.  Nhưng chính các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc khiến cho việc đáp ứng các tiêu chí đó trở nên khó khăn. Mô hình khôi phục quyền kiểm soát trung ương sau những nỗ lực tự do hóa thất bại có thể đạt đến đỉnh điểm trong cuộc đàn áp của Bắc Kinh đối với các công ty công nghệ tài chính. Dưới danh nghĩa chống độc quyền, họ Tập đã chỉ đạo cuộc tấn công vào hai công ty công nghệ khổng lồ: Alibaba và Tencent, nhất là ngăn chặn đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của Ant Group, một công ty con của Alibaba. Bắc Kinh giải thích những hành động này là để bảo vệ người tiêu dùng, điều này có vẻ hợp lý trong một thế giới mà nhiều quốc gia khác đang tìm cách kiềm chế những gã công nghệ khổng lồ công nghệ; nhưng đối với Bắc Kinh, các động thái này đánh dấu sự kết thúc của một quá trình mở cửa tài chính quan trọng. Bởi vì sau vụ kiểm soát này tuy có giảm thiểu rủi ro tài chính, nhưng nó cũng làm đảo ngược lợi ích của cải cách, vì nhiều người tiêu dùng có thu nhập thấp hiện có ít lựa chọn hơn trong việc tiếp cận tín dụng. Rốt cuộc là từ năm 2013 cho đến nay, những nỗ lực cải cách kinh tế vĩ mô của họ Tập có thể nói là đều tạo ra những cuộc khủng hoảng nhỏ với đe dọa trở thành một cuộc khủng hoảng lớn hơn, khiến Bắc Kinh quay lại với những gì họ biết rõ nhất – chỉ huy và kiểm soát. Tất nhiên, đường lối chính thức là không có thất bại nào và Trung Quốc đang tiến về phía trước một cách chắc chắn với chương trình nghị sự “cải cách và mở cửa” theo dấu ấn của Đặng Tiểu Bình. Trong một bài phát biểu vào tháng Mười Hai, 2020, Tập Cận Bình tự hào là đã đưa ra 2.485 kế hoạch cải cách, đạt được các mục tiêu của đảng theo đúng tiến độ. Tháng sau, tờ báo chính thức People’s Daily cũng đồng tình khi nói rằng 336 mục tiêu cải cách ưu tiên cao đã “hoàn thành về cơ bản” và ca ngợi “những bước đột phá đáng kể trong việc cải cách sâu rộng toàn diện.” Nhưng câu chuyện thực tế không phải là thành công cải cách của Trung Quốc cũng như sự chần chừ trong cải cách của họ. Họ Tập đã cố gắng nhưng phần lớn không thành công trong việc thúc đẩy chương trình nghị sự Đặng Tiểu Bình đưa ra vào năm 1978 mà những người tiền nhiệm của ông Tập đều cố gắng duy trì.  Kể từ khi họ Tập lên nắm quyền, tổng nợ đã tăng từ 225% GDP lên ít nhất 276%. Trong năm 2012, phải mất sáu nhân dân tệ tín dụng mới để tạo ra một nhân dân tệ tăng trưởng; vào năm 2020, nó mất gần mười. Tăng trưởng GDP đã chậm lại từ khoảng 9,6% trong những năm trước ông Tập xuống dưới 6% trong những tháng trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Tăng trưởng tiền lương và tăng thu nhập hộ gia đình cũng chậm lại. Và trong khi tăng trưởng năng suất – khả năng tăng trưởng mà không cần sử dụng thêm lao động hoặc tài nguyên – chiếm tới một nửa khi Trung Quốc mở cửa nền kinh tế vào năm 1990 thì nay ước tính chỉ đóng góp khoảng một phần trăm vào mức tăng trưởng 6% của Trung Quốc. Những dữ liệu này đang báo hiệu sự mất năng động của nền kinh tế Trung Quốc. Câu hỏi đặt ra là họ Tập đã không chống lại cải cách, nhưng tại sao lại thất bại? Nếu các nhà đầu tư, doanh nghiệp và các chính phủ khác tin rằng ông Tập đã từ chối cải cách nhưng Trung Quốc vẫn tăng trưởng tốt, thì họ sẽ tán thành và đầu tư vào mô hình của Bắc Kinh. Nhưng nếu họ hiểu rằng họ Tập trên thực tế đã cố gắng tự do hóa nhưng cuối cùng phải rút lui để quay về nền kinh tế chỉ huy và kiểm soát với năng suất thấp, thì họ sẽ tính toán và rời khỏi thị trường Hoa Lục. Chắc chắn Tập Cận Bình đã nhìn thấy: Nếu không cải cách thì Trung Quốc sẽ đi vào ngõ cụt. Câu hỏi đặt ra là khi nào nó sẽ đến và liệu Bắc Kinh có thực hiện những bước đi táo bạo mà mọi quốc gia đã thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình đã buộc phải thực hiện hay không. Trung Quốc hiện không còn ở vào thời điểm hấp dẫn như thập niên 1980. Thứ nhất, trong những năm gần đây, chỉ tính riêng lãi vay (không tính đến nợ gốc) đã tăng gấp đôi giá trị tăng trưởng GDP hàng năm: Tình trạng này đang gây ra sự thất bại của các ngân hàng, tái cơ cấu và các vụ vỡ nợ lớn của các doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, lần đầu tiên kể từ khi xảy ra thảm họa Đại Nhảy Vọt dưới thời Mao, dân số lao động đang thu hẹp lại, dẫn đến lực lượng lao động ít hơn và ít người mua bất động sản so với mức cung quá thừa mứa hiện nay. Thứ ba, so với thời gian 1978 – 2015, Hoa Kỳ và các cường quốc khác đã không còn chính sách “can dự” với Trung Quốc trên con đường hợp tác toàn cầu. Theo nhiều cách, những luồng gió mà Trung Quốc thừa hưởng được từ sự nhiệt tình của toàn cầu về sự trỗi dậy của họ trước đây thì nay đã trở thành những luồng gió ngược. Nếu Bắc Kinh không thể lôi kéo các công ty tư nhân gia tăng đầu tư và không thuyết phục được các nền kinh tế lớn tiếp tục gắn bó với Trung Quốc, thì triển vọng kinh tế của Trung Quốc rõ ràng là u ám và bị đẩy ra phía sau. Tại một số thời điểm, các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối đầu với sự đánh đổi: Hiệu quả kinh tế bền vững và sự độc tôn trong quyền lực chính trị không đi đôi với nhau. Trong suốt lịch sử, các nhà lãnh đạo đã phải đối mặt với vấn đề hóc búa này ở Trung Quốc và các nơi khác đã cố gắng che giấu năng suất lao động giảm để câu giờ và tiếp tục tìm cách duy trì sự tồn tại. Thực sự, một số thống kê gần đây đã không được công bố ở Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ chỉ ra kỷ lục của mình về chủ nghĩa ngoại lệ, nhưng nếu họ tìm ra cách để duy trì sự ổn định, kiểm soát nhà nước và sự năng động kinh tế cùng một lúc, thì đây sẽ là quốc gia đầu tiên trong lịch sử làm được như vậy. Nhưng dựa trên thành tích cải cách hỗn độn trong những năm vừa qua dưới thời họ Tập cầm quyền, sự hoài nghi dường như là chính đáng. Nếu Trung Quốc gặp phải số phận của các quốc gia có thu nhập trung bình khác không cải cách được cách thức của họ để thoát khỏi tình trạng giảm năng suất, bức tranh sẽ trở nên u ám. Giá tài sản bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp sẽ giảm đáng kể, gây ra sự bất ổn chính trị khi mọi người thấy của cải bốc hơi. Với sự tự tin chùn bước và quá dựa vào những hứa hẹn của chính phủ sẽ đảm bảo ổn định, đầu tư mới sẽ giảm, tạo việc làm sẽ chậm lại, cơ sở thuế và doanh thu sẽ thu hẹp. Tất cả những điều này đã bắt đầu xảy ra, Bắc Kinh buộc phải đưa ra những lựa chọn khó khăn hơn nhiều trong tương lai. Điều đó có nghĩa là một thời kỳ thắt lưng buộc bụng đau đớn đối với Trung Quốc sẽ đến và làm ảnh hưởng đến cả những đối tác của nước này ở nước ngoài – những người đã tin tưởng vào Trung Quốc như một người mua quặng sắt, một nhà cung cấp hỗ trợ phát triển, và một nhà đầu tư trực tiếp vào các công ty khởi nghiệp và nhiều doanh nghiệp khác. Điều này sẽ gây ra một hậu quả địa chính trị to lớn, vì sẽ dẫn đến sự điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Bắc Kinh có thể trở nên hiếu chiến để tìm kiếm các giải pháp che dấu sự khó khăn bên trong. Nhưng ngược lại, biết đâu Bắc Kinh có thể quay trở lại trọng tâm phát triển trong nước như những năm trước theo đúng lời khuyên “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình và hạn chế sự tập trung của đảng. Các kinh tế gia không có khả năng dự đoán về những chọn lựa chiến lược của những nhà lãnh đạo chính trị, nhưng lịch sử đã chứng minh rằng mọi quốc gia thành công để có thu nhập cao đều đã trải qua những cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Những người chấp nhận sự cần thiết của điều chỉnh và loại bỏ ảo tưởng về hiệu quả mà không cần cải cách sẽ có tính cạnh tranh cao hơn. Trung Quốc có một di sản đáng ca ngợi là chấp nhận cải cách và điều chỉnh, điều này đã tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ. Cải cách không phải là một chương trình nghị sự của phương Tây thúc đẩy Trung Quốc mà chính là từ nỗ lực của Trung Quốc. Sau một thập kỷ cải cách không thành công, Bắc Kinh dường như đang tìm kiếm một con đường dễ dàng hơn. Nhưng họ Tập cần khám phá rằng cải cách là con đường khó nhất, ngoại trừ tất cả những con đường khác. *** Ảnh: Dan Bejar/ Foreign Affairs   Bài 3: Những tên cướp ở Bắc Kinh (The Robber Barons of Beijing) – tác giả Yuen Yuen Ang – Phó Giáo Sư Khoa Chính Trị tại Đại Học Michigan và là tác giả cuốn “Thời đại vàng son của Trung Quốc: Nghịch lý của sự bùng nổ kinh tế và tham nhũng lớn” (China’s Gilded Age: The Paradox of Economic Boom and Vast Corruption.) Trung Quốc hiện đang ở giữa Thời Đại Vàng Son của riêng mình. Các doanh nghiệp tư nhân đang trở nên giàu có đáng kinh ngạc nhờ được tiếp cận đặc biệt với các đặc quyền của nhà nước, cũng như sự cấu kết thủ lợi của quan chức nhà nước các cấp. Nhận thức được sự nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản thân hữu, Tập Cận Bình đang cố thực hiện một “kỷ nguyên tiến bộ” của chính Trung Quốc — kỷ nguyên ít tham nhũng hơn và bình đẳng hơn — thông qua trấn áp bạo lực. Tuy nhiên, cách làm của họ Tập không thực sự cải cách mà là đang triệt tiêu nguồn năng lượng từ dưới lên – lực lượng nắm giữ chìa khóa để giải quyết các vấn đề nan giải hiện nay của Trung Quốc — và khi làm như vậy, họ Tập có thể sẽ khiến cho tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn. Thông thường, các quốc gia tham nhũng đều nghèo và giữ nguyên trạng. Nghiên cứu cho thấy có sự quan hệ chặt chẽ giữa tham nhũng và nghèo đói. Nhưng Trung Quốc đã cố gắng duy trì bốn thập kỷ tăng trưởng kinh tế bất chấp mức độ tham nhũng mà ngay cả ông Tập đã mô tả là “nghiêm trọng” và “gây sốc.” Tại sao Trung Quốc đã đi ngược được xu hướng? Câu trả lời nằm ở loại hình tham nhũng đang thịnh hành ở Trung Quốc. Theo Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế về chỉ số nhận thức về tham nhũng từ 0 đến 100 thì vào năm 2020, chỉ số này ở Trung Quốc là 42 điểm, vượt qua Cuba, Namibia và Nam Phi. Nhưng cách tính này không phù hợp mà nhiều khi còn sai lầm đối với các hiểu biết về tình hình tham nhũng tại Trung Quốc. Có ba loại hình tham nhũng: 1/ Trấn lột vặt chẳng hạn như cảnh sát bắt và làm tiền đối với những người đi đường; 2/ Trộm cắp lớn như cán bộ bòn rút tiền của công rồi chuyển ra nước ngoài; 3/ Hối lộ nhằm bôi trơn bộ máy hành chánh quan liêu. Tham nhũng ở Trung Quốc theo một kiểu khác, khó nắm bắt hơn: Tiếp cận tiền (access money). Trong loại tham nhũng này, các nhà tư bản đưa phần thưởng cổ phần cao cho các quan chức quyền lực không chỉ để đổi lấy sự ưu đãi, mà còn để được tiếp cận các đặc quyền sinh lợi bao gồm tín dụng giá rẻ, cấp đất, quyền độc quyền, hợp đồng mua sắm, giảm thuế, và những thứ tương tự. Trong bốn thập kỷ qua, tham nhũng ở Trung Quốc đã trải qua một quá trình phát triển chuyển từ hành vi côn đồ và trộm cắp tiến tới tiếp cận tiền (access money). Do nhu cầu trục lợi để làm giàu, các nhà tư bản đã tìm cách đút lót tiền cho các cán bộ đảng và nhà nước để dành lấy những dự án, các đặc quyền, đặc lợi. Hình  thức tham nhũng này đang chiếm ưu thế hiện nay và đã kích thích thương mại, xây dựng và đầu tư, tất cả đều đóng góp vào tăng trưởng GDP. Nhưng nó cũng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng và gây ra những rủi ro cho cả hệ thống. Ví dụ, các khoản vay ngân hàng chuyển sang các công ty có liên hệ chính trị một cách không cân xứng, buộc các doanh nhân thiếu tiền phải vay từ các ngân hàng bóng tối với lãi suất cao ngất ngưởng. Các công ty có liên kết, tràn ngập tín dụng dư thừa, sau đó có thể đủ khả năng chi tiêu một cách vô trách nhiệm và đầu cơ vào bất động sản. Hơn nữa, các cán bộ nhà nước được hưởng lợi cá nhân từ các khoản đầu tư mà họ được chia, bị thúc đẩy đi vay và xây dựng một cách sốt sắng, bất kể hiệu quả của các dự án có bền vững hay không. Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc không chỉ là một nền kinh tế tăng trưởng cao, mà còn là một nền kinh tế có rủi ro cao và mất cân bằng. Sự phát triển mạnh mẽ của tham nhũng và chủ nghĩa tư bản này bắt đầu từ thời Đặng Tiểu Bình, người đã lèo lái Trung Quốc theo một hướng mới sau ba thập kỷ thảm họa dưới thời Mao. Với chủ nghĩa thực dụng, họ Đặng nhận ra rằng tự do hóa kinh tế và chính trị đồng thời sẽ gây ra bất ổn cho Trung Quốc. Đối với một quốc gia đang bị lung lay bởi sự hỗn loạn, theo họ Đặng thì “sự ổn định và thống nhất là điều quan trọng hàng đầu.” Vì vậy, họ Đặng đã chọn con đường tự do hóa kinh tế từng phần. Thay vì lao thẳng vào chủ nghĩa tư bản, ông đã đưa ra các cải cách thị trường bên lề của nền kinh tế kế hoạch và giao quyền kiểm soát cho các chính quyền địa phương. Làm như vậy, Đặng Tiểu Bình đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản cho việc chia sẻ lợi nhuận trong bộ máy hành chính: Các bộ máy sẽ được hưởng lợi cá nhân từ chủ nghĩa tư bản miễn là họ trung thành với đảng. Không có gì ngạc nhiên khi quan chức các cấp đều nhiệt tình ủng hộ vì qua cải cách, nhiều quan chức đã trở thành doanh nhân đại diện – điều hành các doanh nghiệp tập thể, tuyển dụng các nhà đầu tư thông qua mạng lưới cá nhân và điều hành doanh nghiệp. Khi thị trường bắt đầu mở cửa vào năm 1980, tham nhũng phát triển mạnh mẽ. Nó xuất hiện dưới những hình thức đặc biệt đối với một quốc gia còn lạc hậu với nền kinh tế hỗn hợp và một chính phủ ít có khả năng giám sát hàng triệu quan chức. Ví dụ, chính quyền địa phương nắm giữ cái được gọi là “kho bạc nhỏ,” các quỹ chuyển nhượng chứa đầy các khoản phí, tiền phạt và tiền trái phép được trích từ người dân và doanh nghiệp. Khi biến cố Thiên An Môn xảy ra năm 1989 đã giáng một đòn khá nặng vào phong trào cải cách. Lúc đó Trung Quốc có thể dễ dàng quay trở lại thời kỳ Mao; nhưng họ Đặng sau chuyến “công du phía Nam” vào năm 1992, tiếp tục chính sách mở cửa theo triết lý “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc tính Trung Quốc.” Qua chủ trương này, Bắc Kinh đã loại bỏ các yếu tố chính của kế hoạch hóa tập trung (ví dụ, kiểm soát giá cả và hạn ngạch sản xuất) và giảm mạnh sở hữu nhà nước trong nền kinh tế. Từ năm 1998 đến năm 2004, khoảng 60% công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước đã bị sa thải. Đồng thời, chính quyền trung ương theo đuổi những cải cách mạnh mẽ về ngân hàng, hành chính công, tài chính công và quy định. Những nỗ lực này đã đặt nền tảng cho một giai đoạn tăng trưởng nhanh – nhưng không có tự do hóa chính trị. Chu Dung Cơ, Thủ Tướng Trung Quốc từ năm 1998 đến năm 2003 là người kiến trúc sư đảm trách công cuộc cải cách vào lúc này. Nổi tiếng với những bài phát biểu nảy lửa, Chu Dung Cơ đã mắng các quan chức địa phương là tham lam, kém cỏi nên triệt để thực hiện một loạt cải cách hành chính. Bắc Kinh đã cho hợp nhất các tài khoản ngân hàng công để loại bỏ những quỹ chuyển nhượng bất hợp pháp và theo dõi chặt chẽ hơn các giao dịch tài chính. Các cuộc cải cách đã có kết quả. Bắt đầu từ năm 2000, số vụ án tham nhũng liên quan đến tham ô và lạm dụng công quỹ giảm dần. Các phương tiện truyền thông đề cập đến “lệ phí tùy tiện” và “tống tiền quan liêu,” một chỉ số cho thấy mối quan tâm của công chúng về những vấn đề này đã giảm đáng kể. Do đó, không có gì ngạc nhiên là năm 2011, khi Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế mở cuộc thăm dò về tình hình tham nhũng thì chỉ có 9% người dân Trung Quốc nhận là có trả hối lộ để tiếp cận các dịch vụ công, trong khi so với 54% người Ấn Độ và 84% người Campuchia. Ở Trung Quốc, ít nhất là ở các khu vực ven biển phát triển hơn nên các hình thức tham nhũng cản trở tăng trưởng ở khu vực này được kiểm soát. Tuy nhiên sau năm 2010 thì các vụ hối lộ qua hình thức “tiếp cận tiền” tăng vọt, liên quan đến số tiền ngày càng lớn và toàn là những quan chức cao cấp. Báo chí đăng những câu chuyện trên trang nhất về các vụ bê bối tham nhũng, với đầy rẫy những chi tiết tồi tệ về sự suy đồi và tham lam. Một cựu bộ trưởng đường sắt bị buộc tội nhận hối lộ 140 triệu USD, chưa kể hơn 350 căn hộ mà ông ta được tặng. Người đứng đầu một công ty cho vay thuộc sở hữu nhà nước bị cáo buộc có hậu cung với hơn 100 nhân tình và bị bắt với ba tấn tiền mặt được giấu trong nhà. Một cảnh sát trưởng ở Trùng Khánh đã tích lũy một bộ sưu tập bảo tàng tư nhân bao gồm các tác phẩm nghệ thuật quý giá và những quả trứng khủng long hóa thạch. Tại sao những vụ hối lộ bùng nổ? Bởi vì những cải cách mà Trung Quốc thực hiện không làm giảm quyền lực của nhà nước đối với nền kinh tế nhiều như thay đổi nó. Vào những năm 1980, vai trò chủ yếu của các quan chức nhà nước là lập kế hoạch và chỉ huy, thì nay trong nền kinh tế tư bản toàn cầu hóa của những năm 1990, họ có thêm các chức năng mới – thu hút các dự án đầu tư có tỷ trọng cao, vay và cho vay vốn, cho thuê đất, phá dỡ và xây dựng lại ở một tốc độ điên cuồng. Tất cả những hoạt động này đã mang lại cho các quan chức những nguồn quyền lực mới mà trước đây không thể tưởng tượng được trong một hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi có thể bắt nguồn từ một vấn đề dường như ít người biết đến: Sự mất cân bằng tài khóa giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Năm 1994, như một phần trong nỗ lực hiện đại hóa, Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ đã tập trung hóa thuế doanh thu, quy định phần gửi về trung ương luôn luôn cao và giảm đáng kể phần do các địa phương giữ lại. Vì thế, các chính quyền địa phương bị hạn chế về tài chính ngay cả khi họ phải đối mặt với áp lực liên tục thúc đẩy tăng trưởng và cung cấp các dịch vụ công. Vì vậy, một nguồn thu nhập thay thế đã được tìm thấy: Đất đai. Tất cả đất đai ở Trung Quốc đều thuộc sở hữu nhà nước và do đó không thể bán được, nhưng Bắc Kinh cho phép chính quyền địa phương được quyền cho các công ty thuê để tăng doanh thu. Từ thời điểm đó trở đi, các quan chức địa phương đã chuyển từ công nghiệp hóa sang hướng đô thị hóa. Tức là thay vì dựa vào sản xuất làm động lực tăng trưởng chính, các chính quyền địa phương đã chuyển hướng sang việc cho các nhà bất động sản thuê đất nông nghiệp để làm khu dân cư và thương mại. Trong hai thập kỷ sau năm 1999, doanh thu từ việc cho thuê quyền sử dụng đất đã tăng hơn 120 lần. Các chủ đầu tư đã thu lợi rất lớn từ sự sắp xếp này, thu về giá thuê cắt cổ sau khi trả tiền thuê đất nông nghiệp với giá hời và biến nó thành những dự án bất động sản phù phiếm. Qua chủ trương này, đương nhiên các quan chức địa phương cũng được “lại quả” bằng những khoản tiền rất lớn nhằm hỗ trợ bạn bè, người thân của mình trong việc chiếm giữ những lô đất quý giá. Họ đã giúp các nhà phát triển tổ chức đấu giá để mua các lô đất với giá rẻ, và họ triển khai sức mạnh của nhà nước để đẩy nhanh quá trình đô thị hóa một cách giả tạo. Các cơ quan địa phương đã dồn nông dân vào các căn hộ ngoại ô để giải phóng đất đai ở nông thôn, và họ đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng đô thị, chẳng hạn như lưới điện, tiện ích công cộng, công viên và giao thông, để tăng giá trị của những phát triển mới. Tất cả cơ sở hạ tầng mới này không chỉ được tài trợ thông qua việc bán quyền sử dụng đất mà còn thông qua các khoản vay. Luật cấm các chính quyền địa phương thực hiện thâm hụt ngân sách, nhưng các quan chức đã vượt qua quy định đó bằng cách thành lập các công ty con được gọi là “phương tiện tài trợ của chính phủ.” Các thực thể này đã vay tiền để huy động tiền, số tiền mà các quan chức sau đó sử dụng để tài trợ cho các dự án xây dựng và cơ sở hạ tầng của riêng họ. Chính nguồn tín dụng kép này – cho thuê đất và vay tiền – đã tài trợ cho sự bùng nổ cơ sở hạ tầng khổng lồ của Trung Quốc. Từ giữa năm 2007 đến năm 2017, Trung Quốc tăng hơn gấp đôi chiều dài đường cao tốc, từ 34.000 dặm đến 81.000 dặm- “đủ để đi vòng quanh thế giới hơn ba lần” như sự tự hào của một trang web của chính phủ. Việc xây dựng tàu điện ngầm cũng điên cuồng như vậy. Trung Quốc hiện tự hào có 8 trong số 12 hệ thống tàu điện ngầm dài nhất thế giới. Mặc dù nó đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa của Trung Quốc, nhưng sự bùng nổ cơ sở hạ tầng đã tạo ra những rủi ro mới. Chính quyền địa phương và các phương tiện tài chính của họ đã tích lũy các khoản nợ ngày càng lớn. Ngay cả các cơ quan quản lý trung ương cũng không biết quy mô của các khoản nợ này cho đến năm 2011, khi họ tiến hành cuộc kiểm toán đầu tiên, kết quả cho thấy chính quyền địa phương đã vay khoảng 1,7 ngàn tỷ USD. Bất chấp các sắc lệnh liên tục từ Bắc Kinh chống lại việc vay nợ, các khoản nợ địa phương vẫn tiếp tục tăng, đạt 4 ngàn tỷ USD vào năm 2020, gần tương đương với tổng thu nhập mà các chính quyền địa phương kiếm được trong năm đó. Đây là bong bóng mà sự đe dọa bùng nổ đang rình rập từng ngày. Do quyền lực của các quan chức đối với đất đai, sự thông đồng giữa các doanh nghiệp và nhà nước đã dẫn đến việc đầu tư quá mức vào một lĩnh vực cụ thể — bất động sản, mang lại lợi nhuận chưa từng có cho những người liên quan đến chính trị. Kết quả là, các doanh nghiệp Trung Quốc phải đối mặt với những động lực tiêu cực để chuyển nỗ lực của họ ra khỏi các hoạt động sản xuất để hướng tới đầu cơ. Ví dụ, một số công ty đường sắt quốc doanh và các nhà thầu quốc phòng hiện nhận thấy các hoạt động đầu tư bất động sản của họ có lợi hơn hoạt động kinh doanh cốt lõi của họ.  Trong thế giới kinh doanh, các nhà tư bản có liên hệ chính trị có thể dễ dàng bảo đảm các hợp đồng chính phủ, các khoản vay giá rẻ và đất đai chiết khấu, mang lại cho họ lợi thế to lớn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong xã hội nói chung, giới siêu giàu chọn những căn hộ sang trọng làm tài sản đầu tư, trong khi nhà ở đô thị vẫn nằm ngoài tầm với của nhiều người Trung Quốc bình thường. Kết quả là một tình trạng tồi tệ trong đó thiểu số người Trung Quốc sở hữu nhà thường không sống ở đó và phần lớn những người cần nhà không thể mua được. Bây giờ rõ ràng là Trung Quốc đầy rẫy tham nhũng, bất bình đẳng, suy đồi đạo đức và rủi ro tài chính. Kể từ khi các cải cách của Đặng bắt đầu, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thành công trong việc đưa khoảng 850 triệu người thoát khỏi đói nghèo nhờ tăng trưởng kinh tế, nhưng một thiểu số nhỏ đã được hưởng lợi một cách không cân xứng, đặc biệt là những người đủ may mắn để kiểm soát tài sản. Năm 2012, hệ số Gini của Trung Quốc (thước đo bất bình đẳng thu nhập, với số 0 đại diện cho bình đẳng hoàn hảo và 1 đại diện cho bất bình đẳng hoàn hảo) đạt 0,55, vượt quá con số 0,45 của Hoa Kỳ. Đây là một sự khác biệt đặc biệt chói tai đối với một quốc gia mang danh nghĩa là cộng sản. Cho nên, không có gì ngạc nhiên khi họ Tập xác định di sản của mình bằng cách tiến hành hai cuộc chiến then chốt: Chống tham nhũng và nghèo đói. Trong bài phát biểu đầu tiên của mình trước Bộ Chính Trị, họ Tập tuyên bố: “Tham nhũng sẽ hủy diệt đảng và nhà nước.” Từ đó, họ Tập đã phát động chiến dịch chống tham nhũng dài nhất và rộng nhất trong lịch sử của đảng. Tính đến năm 2018, có hơn 1,5 triệu quan chức đã bị kỷ luật. Không giống như các chiến dịch chống tham nhũng trước đây, chiến dịch này không chỉ thanh trừng các quan chức cấp thấp mà còn cả những quan chức cấp cao – “đả hổ diệt ruồi” – theo cách nói của ông Tập. Cuộc đàn áp của họ Tập chỉ là một cái cớ để thanh trừng nội bộ hay là để giảm thiểu tham nhũng? Câu trả lời là cả hai. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu ông Tập sử dụng chiến dịch để loại bỏ tận gốc những kẻ đe dọa cá nhân, bao gồm cả các quan chức bị cho là có liên quan đến âm mưu lật đổ sự cai trị của ông. Tuy nhiên, Tập Cận Bình cũng muốn đặt ra mục tiêu tăng cường đạo đức cán bộ – ví dụ, ban hành một danh sách 8 quy định cấm “thói quen làm việc xa hoa và không mong muốn,” chẳng hạn như uống rượu khi làm việc. Tuy nhiên, nhận thức của người dân Trung Quốc còn trái ngược nhau. Trong khi nhiều người bị ấn tượng bởi cuộc đàn áp mạnh mẽ, những người khác bị vỡ mộng bởi những chi tiết kỳ quái về lòng tham của cán bộ qua các cuộc điều tra tham nhũng đã tiết lộ. Còn quá sớm để nói liệu chiến dịch của ông Tập có làm giảm đáng kể mức độ hối lộ hay không; nhưng có hai điều rõ ràng. Một là chiến dịch của họ Tập đã khiến các quan chức phải cảnh giác cao độ. Hai là liệu những quan chức bị kỷ luật có còn sống sót hay không. Nói cách khác, chiến dịch của họ Tập tuy thành công trong việc đánh vào nỗi sợ hãi của các quan chức tham nhũng, nhưng nó không loại bỏ được gốc rễ tạo ra tham nhũng – cụ thể là quyền lực to lớn của đảng vẫn đè nặng lên nền kinh tế và hệ thống bao che trong bộ máy hành chính. Ngoài việc bắt giữ một số lượng lớn các quan chức tham nhũng, họ Tập vì muốn củng cố quyền lực đã buộc các quan chức cán bộ phải thể hiện lòng trung thành đối với mình. Những biện pháp này đã dẫn đến sự bất lực và tê liệt của bộ máy hành chính – “quản trị lười biếng,” như người Trung Quốc thường nói – với các quan chức lo lắng chọn không làm gì để tránh bị đổ lỗi, thay vì đưa ra các sáng kiến ​​có thể gây tranh cãi. Sự khăng khăng chủ quan của họ Tập cũng đã dập tắt những phản hồi trung thực từ trong bộ máy hành chính. Ví dụ, lúc đầu Bắc Kinh đã do dự và trì hoãn các phản ứng cần có đối với đại dịch Covid-19; nhưng vì hệ thống hành chánh quan liêu và e ngại tin xấu,  nên một số địa phương không dám báo cáo thật. Tóm lại, trong nỗ lực chấm dứt chủ nghĩa tư bản thân hữu để ngăn chặn tham nhũng, Tập Cận Bình đang hồi sinh hệ thống chỉ huy, chính cách lãnh đạo này đã thất bại thảm hại dưới thời Mao. Nhưng sau khi kiểm soát thành công đợt bùng phát Covid-19, họ Tập lại càng tỏ ra tự tin vào sự quyết đoán của mình, với các mệnh lệnh từ trên xuống dưới là cách duy nhất để tiến tới. Nhưng bằng cách từ chối cách tiếp cận từ dưới lên, họ Tập đang kìm hãm khả năng thích ứng và tinh thần kinh doanh của Trung Quốc — chính những phẩm chất này đã từng giúp nước này vượt qua rất nhiều trở ngại trong nhiều năm. Một quan chức Trung Quốc đã nói với tác giả: “Nó giống như đi xe đạp vậy – Bạn càng nắm chặt tay cầm, càng khó giữ thăng bằng.” *** Quảng Trường Thiên An Môn, Bắc Kinh, tháng 11/2012. Ảnh: David Gray/ Reuters Bài 4: Tuổi Thọ của Đảng (Life of the Party) – tác giả Orville Schell – Giám Đốc Trung Tâm Quan Hệ Hoa Kỳ và Trung Quốc thuộc Tổ Chức Asia Society, New York. Ngày 23 tháng Bảy, 2021 đánh dấu 100 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc tại Thượng Hải năm 1921. Đại hội đảng đầu tiên có sự tham dự của Mao Trạch Đông, 27 tuổi, người đã thực hiện một cuộc hành trình gian khổ đến từ tỉnh Hồ Nam. Mùa hè năm nay, Trung Quốc sẽ tổ chức một lễ kỷ niệm thật hoành tráng để tuyên truyền trong dịp này. Mặc dù đảng hủy bỏ cuộc duyệt binh ở Quảng Trường Thiên An Môn (vì sợ tạo ấn tượng hiếu chiến trong lúc này), nhưng  tờ Hoàn Cầu Thời Báo lại tiết lộ rằng “các cuộc triển lãm quy mô lớn sẽ được tổ chức để trưng bày quá trình vinh quang, những thành tựu to lớn và kinh nghiệm quý báu của đảng Cộng Sản Trung Quốc thay đổi trong 100  năm qua.” Khi Trung Cộng đánh dấu 100 năm thành lập bằng việc công bố một loạt lịch sử đảng, chính thức miêu tả Trung Quốc như một siêu cường, có ba cuốn sách phát hành gần đây đóng vai trò nhắc nhở rằng chủ nghĩa cộng sản nảy mầm ở Trung Quốc đã làm phát sinh tính đa dạng đáng ngạc nhiên về quan điểm và phong cách của các nhà lãnh đạo. Mặc dù các nhà lãnh đạo đều có chung cam kết xây dựng nhà nước theo chủ nghĩa Mác-Lenin, nhưng thực tế này đã bị ám ảnh liên tục về khả năng kiểm soát tình hình của cấp lãnh đạo, cho thấy sự thiếu tự tin vào hệ thống mà họ đã hình thành. Quyển thứ nhất: Đảng Cộng Sản Trung Quốc: Một Thế Kỷ Trong 10 Cuộc Đời (The Chinese Communist Party: A Century in Ten Lives) được viết bởi 3 tác giả: Timothy Cheek, Klaus Mühlhahn và Hans van de Ven (Editor) mô tả về cuộc đời của 10 nhân vật từng đóng những vai trò quan trọng trong sự phát triển đầy mâu thuẫn của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Họ bao gồm những chính trị gia cộng sản như Henk Sneevliet (người Hà Lan) có bí danh là Maring, đã giúp tổ chức đảng Cộng Sản Trung Quốc trong những năm 1920; nhà trí thức cánh tả Vương Đấu Vị, bị chặt đầu năm 1947 và Tổng Bí Thư Triệu Tử Dương có tư tưởng cải cách và đã bị thanh trừng năm 1989 vì ủng hộ cuộc biểu tình đòi dân chủ hóa của sinh viên. Quyển thứ hai: China’s Leaders (Những nhà lãnh đạo Trung Quốc) được viết bởi David Shambaugh, với  năm bài luận về Mao và những người kế nhiệm Mao gồm: Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình. Theo Shambaugh, họ Tập đã đánh dấu sự khác biệt mạnh mẽ với những nhà lãnh đạo khác thời hậu Mao. Họ Tập đã chấm dứt lề lối lãnh đạo tập thể, tự phong cho mình là nhà lãnh đạo duy nhất, biến Trung Quốc thành một nền công nghệ tập trung cao độ, chuyên chế theo chủ nghĩa tân Mao. Với “Trung Hoa Mộng,” họ Tập đã tập trung tăng cường cạnh tranh thương mại, công nghệ và ngoại giao nhằm thu hẹp khoảng cách giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ — đẩy quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc vào vòng xoáy tử thần. Quyển thứ ba: Đảng và Nhân Dân (The Party and the People)  được viết bởi Bruce Dickson, đưa ra những điểm mạnh và điểm yếu của đảng Cộng Sản Trung Quốc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về những sự linh hoạt của đảng này để có thể cầm quyền lâu nhất trong lịch sử. Những cải cách được đánh giá cao dưới thời Đặng Tiểu Bình là nhờ “giảm thiểu” sức tác động của chủ nghĩa Lênin, nhưng dưới thời của Tập Cận Bình, Trung Quốc lại quay trở lại hình dạng chủ nghĩa Mao. Điều mới nhất, như Dickson lưu ý trong sự nghiên cứu là tính hợp pháp của đảng “không dựa trên sự đồng ý với chính quyền mà dựa trên khả năng hiện đại hóa đất nước.” Rõ ràng là trong suốt những câu chuyện kể về lịch sử của đảng Cộng Sản Trung Quốc, những tiếng nói bất đồng chính kiến ​​bên ngoài đảng đã nhiều lần được lắng nghe và giúp thay đổi hướng đi của đảng. Truyền thống đa dạng này vẫn được mã hóa trong DNA chính trị của Trung Quốc, và sẵn sàng bộc phát bất cứ lúc nào. Do đó, những thay đổi này sẽ giúp cho các nhà quan sát phải nhớ rằng: Tại bất kỳ thời điểm nào, hoàn cảnh và vị trí của Trung Quốc chỉ đóng khung trong thời điểm đó mà thôi, đừng bao giờ nghĩ là nó bất biến. Nói cách khác, nhìn lại 100 năm lịch sử của đảng Cộng Sản Trung Quốc, cả ba quyển sách đều cho thấy là nội tình của Trung Cộng liên tục bị xáo trộn bởi các yếu tố: Xung đột về ý thức hệ, tranh chấp phe phái và nhất là xung khắc về tầm nhìn, hướng đi tới của đảng. Mặc dù hệ thống độc đảng mà Stalin để lại cho Bắc Kinh về cơ bản vẫn không thay đổi kể từ năm 1921, nhưng những chuyển biến của xã hội và phong cách lãnh đạo mà ba cuốn sách này mô tả cho thấy là tình hình chính trị của Trung Quốc đang xoay chuyển giữa các cực kể từ khi hệ thống đế quốc Liên Xô cũ kết thúc. Chính tình trạng luôn biến động và chưa được giải quyết này khiến những bước đi của Bắc Kinh trở nên khó đoán. Đối với Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo này luôn có cảm giác rằng Trung Quốc liên tục bị bao vây bởi kẻ thù bên trong và bên ngoài; vì thế mà họ cố giữ bí mật và mong muốn điều chỉnh mọi thứ qua các chiến dịch “cải tạo” và “cải cách” bất tận để “đảng phải kiểm soát” mọi lúc. Thay vì chấp nhận quan điểm rằng con người, giống như thị trường, cần được trao quyền tự do nhiều nhất có thể để điều chỉnh và phát triển, họ Tập lại cho rằng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống con người đều cần đến sự giám sát và can thiệp. Sự tăng cường kiểm soát và hạn chế ở trong nước, cũng đồng thời được áp dụng đối với thế giới bên ngoài. Trong khi phương Tây coi “quyền lực mềm” là thứ một sản phẩm phụ tự nhiên, độc lập trong các hoạt động văn hóa và xã hội, Tập Cận Bình lại coi đó là thứ cần được quản lý cẩn thận – thậm chí là kiềm chế và thao túng. Ngay cả chính sách thương mại quốc tế, thay vì tuân theo các quy luật thị trường, lợi nhuận và không kiềm chế, ngoại trừ khi chịu sự giám sát của WTO, Tập Cận Bình lại coi thương mại như một vũ khí, có thể sử dụng để đạt được ảnh hưởng và lợi thế địa chiến lược. Các chính sách thương mại gần đây của Trung Quốc lặp lại chiến lược kinh tế mà Đức theo đuổi trước Thế Chiến Thứ Hai. Nước Đức của Hitler vào năm 1941 đã sử dụng thương mại toàn cầu “như một công cụ chính để đạt được lợi thế thương mại và quân sự trước kẻ thù của mình,” biến “ngoại thương thành công cụ quyền lực, sức ép và thậm chí là chinh phục” để “làm suy giảm nền kinh tế của đối thủ, ngay cả khi điều đó gây ra chi phí cho nền kinh tế của chính mình.” Trung Quốc đã trở thành một nhà kinh doanh quyền lực, tìm cách biến mình thành thị trường nhập khẩu nguyên liệu thô quan trọng đến mức biến những nước khác “thành các nước chư hầu phụ thuộc, luôn luôn lo sợ Trung Quốc có thể cắt đứt xuất khẩu của họ bất cứ lúc nào.” Bắc Kinh đã trả đũa và trừng phạt nếu nước nào không tuân theo quy luật của họ. Sự kiện Bắc Kinh cắt giảm xuất khẩu cá hồi của Na Uy sau khi nhà bất đồng chính kiến ​​Lưu Hiểu Ba đoạt giải Nobel Hòa Bình; đóng cửa hàng loạt những cửa hàng của chuỗi Lotte Hàn Quốc điều hành, ngừng du lịch và ngừng trao đổi K-pop sau khi Seoul chấp nhận xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa THAD của Hoa Kỳ; cấm vận xuất khẩu của Canada sau khi giám đốc tài chính của Huawei bị bắt giữ ở Vancouver; áp thuế lên rượu vang, bông và lúa mạch xuất khẩu của Úc khi Canberra thúc giục WHO điều tra về nguồn gốc virus của đại dịch COVID-19; và trừng phạt một tổ chức tư vấn có trụ sở tại Berlin và các thành viên trong Nghị Viện Châu Âu sau khi họ chỉ trích cách đối xử tồi tệ của Bắc Kinh đối với người dân Uyghur tại Tân Cương. Nói chung, Trung Quốc không chỉ tìm kiếm thị trường lớn hơn và nhiều lợi nhuận hơn mà còn tạo cho chính mình thành một thế lực độc tài để trở thành bá chủ toàn cầu. Chính Tập Cận Bình đã tuyên bố: “Trách nhiệm của chúng ta là đoàn kết… làm việc để hiện thực hóa sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Quốc nhằm đưa đất nước Trung Quốc đứng vững hơn và hùng mạnh hơn giữa tất cả các quốc gia trên thế giới.” Thế giới không chỉ đối đầu với một cường quốc thương mại, công nghệ, công nghiệp, kinh tế và quân sự đáng gờm, mà còn là một nhà nước sẵn sàng khai thác tất cả những lực lượng này để biến thế giới trở thành một nơi an toàn hơn cho hình thức chuyên quyền của nó. Ngày nay, các biện pháp kiểm soát xã hội chặt chẽ, cơ sở hạ tầng ấn tượng, nền kinh tế năng động và quân đội hiện đại hóa của Trung Quốc có thể tạo nên diện mạo của một quốc gia trật tự, tự tin và bất khả chiến bại, xoay chung quanh một nhà lãnh đạo không có đối thủ và một đảng thống nhất. Không nên bác bỏ những thành công này của Bắc Kinh. Nhưng những vấn đề xảy ra bên trong của Trung Quốc lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn và không an toàn. Một bài viết gần đây trên trang Foreign Affairs của nữ giáo sư Thái Hà (Cai Xia) thuộc Trường Đảng Trung Ương đã thẳng thắn cho rằng: “Tập không phải là nhà cải cách.” Bà viết: “Trong suốt nhiệm kỳ của họ Tập, chế độ đã liên tục thoái hóa và trở thành một chế độ cực quyền, cố gắng nắm giữ quyền lực thông qua sự hung bạo và tàn nhẫn.” Sau bài viết này bà xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. Hứa Chương Nhuận (Xu Zhangrun), giáo sư luật Đại Học Thanh Hoa cũng đã lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ về những sai lầm của họ Tập trong vụ xử lý đại dịch Covid-19 và việc quay trở lại lề lối cai trị sùng bái cá nhân như dưới thời Mao Trạch Đông. Ông viết: “Đủ rồi, những lời nói dối quái đản và những đau khổ vô tận; Đủ rồi, triều đại đỏ hút máu và nhà nước tham lam. Đủ rồi, các chính sách và cai trị phi lý trong việc cố gắng đưa đồng hồ trở lại trong bảy năm qua; Đủ rồi, những xác chết chất thành núi, máu  chảy thành biển là kết quả của chế độ độc tài đỏ trong 70 năm qua.” Giáo Sư Hứa Chương Nhuận đang bị họ Tập quản chế tại nhà và cấm không được giảng dạy. Mùa xuân năm nay, ngay cả cựu Thủ Tướng Ôn Gia Bảo cũng đã lên tiếng nhân cái chết của mẹ ông trên tờ Macau Herald, mô tả về cuộc đàn áp đối với thân phụ của ông trong Cách Mạng Văn Hóa. Họ Ôn viết: “Cha tôi thường xuyên bị‘ tra khảo’ và đánh đập dã man. Theo suy nghĩ của tôi, Trung Quốc không nên đi theo lối mòn cũ mà nên là một quốc gia vận hành trên nền tảng công bằng và công lý. Cần phải luôn tôn trọng ý chí của con người, tính nhân văn và bản chất của con người.” Bài viết của Ôn Gia Bảo đã bị kiểm duyệt và không được phổ biến trên mạng xã hội. Sự xuất hiện liên tục của những tiếng nói phản kháng trong suốt lịch sử hình thành chế độ cộng sản tại Trung Quốc cho thấy rằng việc kiểm soát chặt chẽ về chính trị, và chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế và cơ sở hạ tầng đã không tạo nên một quốc gia bền vững lâu dài. Vậy nó thiếu cái gì? Thiếu cái mà nhà kinh tế học Adam Smith gọi là “tình cảm đạo đức – moral sentiments.” Đây chính là điều đang bị bỏ quên, chưa hoàn thiện và dễ bị tổn thương nhất trong quá trình cải cách của Trung Quốc. Thật ra, Trung Quốc có một truyền thống lịch sử lâu đời về chủ nghĩa nhân văn và cải cách, nhưng nó đang bị bỏ quên và chỉ làm theo mệnh lệnh của họ Tập như cảnh báo mới đây nhất: “Tất cả công việc của các phương tiện truyền thông của đảng phải phản ánh ý chí của đảng, bảo vệ quyền lực của đảng và bảo vệ sự đoàn kết của đảng. Họ phải yêu đảng, bảo vệ đảng, gắn bó chặt chẽ với sự lãnh đạo của đảng về tư tưởng, chính trị và hành động.” Tác giả Shambaugh nhận xét: “Tập Cận Bình đã mở ra một triều đại trấn áp thô bạo và kiểm soát toàn diện đối với xã hội Trung Quốc như chưa từng thấy kể từ thời Mao.” Tác giả Dickson thì đề nghị các nhà quan sát không nên để sự đàn áp của Bắc Kinh làm mờ cách thức phản ứng của chế độ. Dickson viết: “Không nghi ngờ gì về việc Bắc Kinh sử dụng trấn áp để ngăn chặn làn sóng phản kháng, nhưng nó cũng sử dụng các công cụ khác để tác động lên sự ủng hộ của người dân: Sự thịnh vượng gia tăng, lòng tự hào dân tộc, thậm chí cả những phản ứng chống đối từ bên ngoài nhắm vào Bắc Kinh.” Rõ ràng là sau nhiều năm cải cách, Trung Quốc đã đạt được một số tiến bộ vật chất. Tuy nhiên, phần lớn người ta sẽ có cảm giác báo động sâu sắc về việc Tập Cận Bình đang dùng bàn tay sắt để chuyển hướng đất nước của mình. Một câu hỏi được đặt ra cho công trình đế quốc mà họ Tập đang cố xây dựng: Liệu Trung Quốc có thể tiếp tục tồn tại và tiến bộ mà không cần cốt lõi đạo đức nhân văn? Thiếu thành phần quan trọng đó, Trung Quốc sẽ trở thành một thí nghiệm khoa học xã hội khổng lồ. Có lẽ Trung Cộng đã cố gắng hoàn thiện một mô hình phát triển hoàn toàn mới không đòi hỏi những giá trị lâu đời như tự do, công lý và dân chủ. Nhưng lịch sử hiện đại cho thấy rằng sự vắng mặt của những yếu tố này sẽ khiến một số quốc gia bị ảnh hưởng. Hãy nghĩ về phát xít Ý và Đức, đế quốc quân phiệt Nhật Bản, chế độ độc tài Francoist Tây Ban Nha, chế độ thần quyền Iran và Liên Xô. Tuy nhiên, ngay cả khi nó thiếu những điều nhân văn tốt đẹp như vậy, Trung Cộng hiện đang kỷ niệm một trăm năm thành lập. Liệu người Trung Quốc có thể khác với những dân tộc khác, đặc biệt là những người ở phương Tây? Có lẽ, một số ý kiến ​​cho rằng, công dân Trung Quốc sẽ chỉ bằng lòng để đạt được sự giàu có và quyền lực, mà không có những khía cạnh của cuộc sống mà các xã hội khác thường coi là cơ bản để trở thành con người. Một giả định như vậy có vẻ không thực tế chứ đừng nói là trịch thượng. Cuối cùng, người Trung Quốc có thể sẽ chứng tỏ sự khao khát của họ ít khác biệt so với người Canada, người Séc, người Nhật Bản hoặc người Hàn Quốc. Chỉ vì những người bên ngoài Trung Quốc không thể nhìn thấy hoặc nghe thấy một biểu hiện đầy đủ hơn về các giá trị phổ quát ngay bây giờ, không có nghĩa là những mong muốn như vậy không tồn tại. Bị đóng băng trong thời điểm này, chúng đã xuất hiện lặp đi lặp lại trong quá khứ và chắc chắn sẽ xuất hiện lại trong tương lai. *** Tóm lại, qua nội dung phân tích của bốn bài viết được tóm lược ở trên, chúng ta có thể đúc kết hai điểm nhìn lại 100 năm lịch sử của đảng Cộng Sản Trung Quốc: 1/ Nhìn từ bên ngoài, Trung Quốc không chỉ là cường quốc về kinh tế mà đang là một siêu cường cạnh tranh gay gắt với Hoa Kỳ về các mặt thương mại, công nghệ, y học, quân sự sau 40 thập niên cải cách. Nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng cùng với tham vọng bá quyền của giới lãnh đạo, đặc biệt là dưới Tập Cận Bình, cho thấy là Trung Quốc đang có quá nhiều mầm mâu thuẫn trầm trọng từ trong nội bộ và nó có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. 2/ Tuy Trung Quốc lớn mạnh nhờ tăng trưởng kinh tế và sự kiểm soát chặt chẽ của giai cấp thống trị ở trong đảng; nhưng xã hội Trung Quốc hoàn toàn thiếu vắng tính Nhân Văn để giúp cho xã hôi luôn luôn phát triển bền vững, gắn kết mọi người với nhau. Chính sự thiếu vắng này sẽ khiến cho Trung Quốc không đi ra ngoài số phận của những đế quốc đã từng phát triển và sụp đổ: Phát xít Ý và Đức, đế quốc quân phiệt Nhật Bản, chế độ độc tài Francoist Tây Ban Nha, chế độ thần quyền Iran và Liên Xô. Câu nói nổi tiếng của chính trị gia người Anh Lord Acton vào thế kỷ thứ 19 “Absolute power corrupts absolutely” – “Quyền lực tuyệt đối sẽ đưa đến tình trạng tham nhũng tuyệt đối,” có thể chuyển thành “Absolute power collaps absolutely” – Quyền lực tuyệt đối sẽ tuyệt đối không thể đứng vững và sẽ sụp đổ – theo kinh nghiệm đã qua của nhiều quốc gia trên thế giới trong thế kỷ 20 và 21.  Trung Cộng khó mà cưỡng lại nguyên lý hiển nhiên này. 1 tháng Bảy, 2021 Lý Thái Hùng https://viettan.org/trung-quoc-co-the-tiep-tuc-da-troi-day-hay-khong/  
......

Quân đội hay một lò sát nhân?

  Hình ảnh: Đại tá Thìn, trưởng phòng tuyên huấn QK1. Kẻ đã cáo buộc họ hàng làng xóm Đô là “những kẻ xấu, lạ mặt” kích động gây rối trong đám tang của Đô. Hắn ta còn cho rằng, có thế lực xấu đang đứng đằng sau để lái dư luận về cái chết của Đô nhằm chống phá chính quyền. Phạm Minh Vũ| Việc quân nhân Trần Đức Đô đem theo công lý và sự thật xuống mồ ngày hôm qua là một sự việc gây uất ức, phẫn nộ cho cả toàn xã hội. Nhìn lại sự việc diễn ra chỉ trong 3 ngày, nhưng đã để lại cho toàn thể những ai có lương tri đều kinh sợ cách xử lý của nhà cầm quyền VN. Họ Sau khi đánh đập tàn bạo, tra tấn Đô cho tới c.hết, để trấn áp dư luận, xoa dịu sự tang thương nhưng đầy tội ác ấy, cả thể chế chính trị đã vào cuộc. Ngay từ đầu họ đã lập lờ cái chết của Đô, đưa ra nhiều lý do mâu thuẫn, nào là đột quỵ, nào là tự tử. Tưởng rằng là thuyết phục được gia đình, nhưng không, gia đình đã sử dụng mạng xã hội như công cụ đòi lại công bằng cho Em Đô nên đưa vụ việc ra trước công chúng. Và nhận được sự đồng cảm của dư luận. Những livestream của gia đình nhận được cả hàng triệu người xem, từ đó Quân khu 1 kết hợp bộ công an tính tới phương án trấn áp gia đình cũng như dư luận. “Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao...” Khi dư luận quan tâm và lên án sự việc, gia đình cũng muốn làm sáng tỏ cái chết của Đô, nên cần bảo quản thi thể em Đô. Liên minh quyền lực Công an- Quân đội đã ép tất cả các bệnh viện từ Bắc Ninh lên Hà Nội cấm nhận bảo quản thi thể của em. Sau đó gia đình phải đem về mua tủ đông bảo quản thì đã dùng địa phương yêu cầu gia đình mau chống mai táng Đô. Gia đình muốn đưa ra công luận sự việc thì bị công an, quân đội cắt sóng điện thoại, cắt internet, cắt điện để không ai thấy diễn biến sự việc. Một mặt họ ngăn chặn từ xa như thế, mặt khác đe doạ, khủng bố gia đình Đô cấm đưa thông tin ra ngoài. Mặt khác lập các chốt kiểm soát ai ra vào Đa Hội. Ngừa báo chí độc lập đưa các diễn biến trong đó. Khi ngăn chặn được truyền thông độc lập, thì là lúc tuyên giáo bật đèn xanh tất cả các page lâu nay hay đăng chó mèo, yêu đương, ngôn tình chẳng liên quan gì chính trị- xã hội cũng vào cuộc lên bài khẳng định “đang chờ kết luận điều tra nên chưa vội kết luận vội, hãy tin vào Pháp luật, đảng nhà nước”. Và tuyên giáo tung dư luận viên tấn công những ai muốn làm sáng tỏ về cái chết của Đô, dán cho nhãn là “phản động”. Lúc này tuyên giáo được lệnh kéo hướng dư luận là cái chết của Đô do thế lực phản động xuyên tạc, làm cho người thiếu hiểu biết tập trung chửi bới “phản động” mà không ai nghĩ tới vì sao Đô chết. Ngay lúc “chiến tranh mạng nổ ra” thì gia đình Đô bị lọt thỏm vào bầy sói dữ. Một mặt quân đội công an ép gia đình phải mau chôn cất Đô. Và một mặt khác dụ gia đình với 2 cam kết: Một là xem xét cho Đô được phong liệt sỹ, 2 là sẽ tiếp tục điều tra làm sáng tỏ mọi việc bằng cách cho 5 cơ quan điều tra nguyên nhân cái chết của Đô. Nghe vậy gia đình Đô đã đồng ý nhanh chóng chôn cất Đô. Và tất nhiên, 2 cam kết kia sẽ không bao giờ xảy ra. Vì ai lại phong liệt sỹ cho người mà họ kết luận là tự tử. Thứ 2, chỉ một bác sỹ cấp huyện cũng thừa khả năng tìm ra nguyên nhân vì sao Đô chết, cần gì tới 5 cơ quan nghe không khác gì một bánh vẽ. Ai đó nói rằng: đừng để con sâu làm rầu nồi canh. Vậy tại sao cả hệ thống chính trị không đem kẻ thủ ác ra trước toà án binh đền tội mà lại bao che nhau? Như vậy cả hệ thống chính trị này đều là sâu cả rồi còn gì? Nhìn cách cả hệ thống chính trị bao che cho nhau về cái chết của một quân nhân, quyết nhấn chìm sự thật xuống mồ, ta có thể khẳng định chắc nịch một câu rằng: Quân đội chẳng khác nào một lò sát nhân với quy trình khép kín. Họ giết người nhưng lại không cho gia đình kêu gào đòi công lý. Dẫu biết rằng, công lý chỉ là một diễn viên hài, nhưng sâu xa tận đáy lòng tôi vẫn muốn Đô được giải oan. Biết là sẽ không thể, vì những cái chết của các quân nhân trước đây cũng đều diễn Y một kịch bản như vậy. Cũng là hứa hẹn đủ điều, và tới giờ không còn ai biết về cái chết oan ức của họ nữa. Đô, cũng không khác là mấy. Vì lò sát sinh ấy, và cả hệ thống chính trị này chỉ là một. Thật rùng mình kinh hãi cái lò sát nhân. ———  
......

Tài Sản Tham Nhũng Biến Đâu Mất?

Phạm Trần Đảng Công sản Việt Nam và ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đã thất bại ê chề trong công tác thu hồi tài sản của kẻ tham nhũng, nhưng không ai chịu trách nhiệm vì lãnh đạo vô cảm và luật pháp lung tung. Chuyện này, đối với đất nước là đảng nợ dân, nhưng lãnh đạo lại kiếm cớ buông tay, vì hàng ngàn tỉ đồng mất vào các dự án kinh tế vô tổ chức đã sập bẫy “hy sinh đời bố để củng cố đời con”. Trước hết, ở Việt Nam có khoảng 1 triệu người phải khai báo tài sản, thu nhập, theo Điều 34 của Luật chống Tham nhũng năm 2018, gồm: 1. Cán bộ, công chức. 2. Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp. 3. Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Điều 35 của Luật này quy định tài sản, thu nhập phải kê khai gồm: a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng; b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên; c) Tài sản, tài khoản ở nước ngoài; d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai. Tuy nhiên, đối với tài sản do Tham nhũng mà có đã bị phân tán và đầu tư ra nước ngoài dưới nhiều hình thức nên khi những kẻ gây thất thoát nghiêm trọng đồng tiền mồ hôi nước mắt của dân bị tòa án bắt đền bù thì tài sản thật của họ chẳng còn bao nhiêu. Do đó, vào ngày 02/06/2021, Ban Bí thư Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã ra Chỉ thị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.” Trước đó 7 năm, Bộ Chín trị cũng đả có Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03-01-2014 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản”. Nhưng lý do thu hồi tài sản vẫn còn trong tình trạng “nói nhiều làm ít”, sau hàng chục năm thi hành lệnh đảng vì luật pháp chồng chéo đã gây khó khăn cho công tác điều tra, thẩm định và chế tài. Thêm vào rào cản này là thái độ vô cảm của cấp lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu đảng bộ từ trung ương xuống cơ sở. Nhều người đã “cha chung không ai khóc”, xuê xoa, nể nang hay “nay anh mai tôi” dĩ hòa vi quý để làm cho có hình thức. Quốc hội, Mặt trân Tổ Quốc, Hội Cựu Chiến binh và báo chí nhà nước cũng đứng ngoài nhìn xem nhà cháy. Do đó, Chỉ thị ngày 02/06/2021 đã viết:”Nhận thức và trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng về công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn hạn chế. Cơ chế, chính sách, pháp luật trong công tác này còn bất cập. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ làm công tác thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan thi hành án có lúc, có việc chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn khó khăn, vướng mắc; tỉ lệ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt còn thấp...” Nhân sự đảng Đó là vấn đề “nhân sự” của đảng mà ông Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nói “then chốt của then chốt” nên kết luận của Ban Bí thư , một lần nữa chứng minh cái đầu của ông già 77 tuổi Nguyễn Phú Trọng có thể cũng đã có vấn đề. Lý do thứ hai, theo lời Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) Tối cao Lê Minh Trí và một số Đại biểu Quốc hội vì Việt Nam chưa có luật bắt “đăng ký tài sản” của các viên chức và cán bộ lãnh đạo nên việc kiểm soát coi như vô phương. Do đó, theo Tiến sỹ Đinh Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ, cho rằng nếu kiểm soát được nguồn tiền, thì không chỉ ngăn chặn mà tài sản tham nhũng cũng lộ ra. (theo báo Tiền Phong, ngày 18/01/2021). Ông Minh nói: “Thực ra không phải chúng ta chưa có cơ chế về việc này. Qua tổng kết, hiện có tới hơn 60 đạo luật quy định liên quan đến đăng ký tài sản. Tuy nhiên, người ta thấy hiện các quy định còn mâu thuẫn, chồng chéo, lại thiếu rõ ràng, chưa đặt vấn đề nguồn gốc tài sản, vì thế mới phải đề xuất có hẳn một đạo luật riêng.” Trong khi chờ có luât “đăng ký tài sản” thì quốc nạn tham nhũng cứ tiếp tục thăng hoa vì chiến dịch gọi là “đốt lò” của ông Trọng, bắt đầu từ khóa đảng XII xem ra đã hương tàn khói lạnh. Bằng chứng Ban Nội Chính Trung ương (Ban NCTW) đã thừa nhận:”Bên cạnh số tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng là rất lớn, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân; việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ tiền, tài sản thu hồi được rất nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt. Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trên tổng số tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng gây ra chỉ khoảng dưới 10%.” (Ban NCTW, ngày 02/05/2014) Theo báo Tài chính online của Việt Nam thì: “Cũng vì điều này (thu tài sản ít) mà còn nhiều cán bộ sẵn sàng “nhúng chàm”, bởi nếu có bị phát hiện, thì “hy sinh đời bố, củng cố đời con” - tài sản tham nhũng tẩu tán được cũng giúp cho đời con, cháu được “ngồi mát, ăn bát vàng”. (theo Tài chính online (TCO), ngày 14/06/2021) Báo này cũng đưa tin:”Theo thông tin từ Hội thảo chuyên đề “Thu hồi tài sản tham nhũng” do Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao tổ chức năm 2020, kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát của thời gian trước năm 2013 ở mức rất thấp, trung bình chỉ đạt khoảng 10% trên tổng số phải thu hồi. Đến nay, kết quả này đã được nâng lên, bình quân giai đoạn 2013-2020 đạt hơn 32%.” Đảng bất lực Theo báo TCO, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng yêu cầu: “Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chính đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể tham nhũng". Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”, nhưng tài sản do tham nhũng mà có của những kẻ bị bắt và phạt tù vẫn “không cánh mà bay”. Đảng giải thích: “Nguyên nhân đầu tiên là do nhận thức và trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách, pháp luật trong công tác này còn bất cập. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ làm công tác thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan thi hành án có lúc, có việc chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn khó khăn, vướng mắc...”. Như vậy là do đảng và hệ thống cai trị của nhà nước bất lực, không chịu sửa đổi các văn kiện, cải cách lề lối làm việc và không dám thi hành luật pháp chặt chẽ để thu hồi tài sản bị ăn cắp. Theo báo Đầu Tư online (ĐTO), ngày 29/06/2018, Cục trưởng Cục Chống tham nhũng (Thanh tra Chính phủ), ông Phạm Trọng Đạt nhận định, công tác chống tham nhũng trong 10 năm qua, đặc biệt trong 3 - 4 năm gần đây, đã có chuyển biến rõ nét, được người dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, người dân vẫn chưa thực sự hài lòng khi tài sản do tham nhũng gây ra thu hồi được rất ít. Báo ĐTO viết: “Trong 10 năm qua, thiệt hại do các vụ án, vụ việc tham nhũng đã gây ra được phát hiện là 59.750 tỷ đồng và trên 400 ha đất, nhưng mới thu hồi cho Nhà nước 4.676,6 tỷ đồng và trên 219 ha đất. Số tài sản thu hồi được vô cùng ít so với số tài sản bị mất do tham nhũng.” Ông Đạt nói: “Khác với ở nhiều nước, bị can không chứng minh được số tài sản mình sở hữu là hợp pháp đều bị thu hồi, còn ở nước ta thì ngược lại, cơ quan điều tra, cơ quan tố tụng phải đi chứng minh số tài sản bị can sở hữu là bất hợp pháp mới có thể thu hồi được. Việc chứng minh tài sản bất hợp pháp vô cùng khó khăn, phức tạp, mất rất nhiều thời gian, công sức, vì một phần tài sản tham nhũng đã được bị can chuyển cho người thân đứng tên sở hữu.” Phó Chủ tịch Hội đồng tiền lương quốc gia, nguyên Đại biểu Quốc hội Ngọ Duy Hiểu từng tố cáo tại diễn đàn Quốc hội rằng: “Nhiều cán bộ lúc đương chức thì chưa thấy, nhưng về hưu lại xuất hiện biệt phủ nguy nga". Đại biểu, bác sĩ Nguyễn Anh Trí đã nêu ra trường hợp có biệt phủ “bất thường” của ông Nguyễn Phước Thanh nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh (PHCM). Ông Trí bình luận: "Biệt phủ đứng tên sở hữu của con gái cán bộ. Nhưng con gái mới 19 tuổi đã có biệt phủ nguy nga như vậy thì thật là kỳ lạ.” (Báo Đầu Tư online, ngày 29/06/2018) Trong khi đó, Thiếu tướng Sùng Thìn Cò, Phó tư lệnh Quân khu 2 từng than phiền tại Quốc hội ngày 09/11/2017 rằng: “Nhiều cán bộ khi bổ nhiệm thì kê khai tài sản chẳng có gì nhưng về quê xây cái nhà thờ họ từ vài tỷ đến vài chục tỷ.” Ông nói: “Đất nước ta chỉ có một đảng lãnh đạo, mà để đội ngũ cán bộ tha hoá, quan liêu như vậy thì sẽ đi về đâu. Có những cán bộ mà đi làm thì xe dí vào sát cổng bước lên xe, về thì xe cũng dí vào cổng xuống xe, chẳng biết đến bà con xung quanh nữa". "Nhiều ông lãnh đạo cứ nói thế thôi, nhưng có sân sau, có doanh nghiệp cả đấy. Có dự án nào mà tiêu không hết tiền đâu, chỉ thấy dự án phát sinh tiền". (Theo báo Tuổi Trẻ online, ngày 09/11/2017) Chuyển tiền cách nào? Lạ thật, nếu không có những “móc ngoặc hay tay trong” giúp thì làm sao kẻ gian có thể phân tán tài sản tham nhũng cho người khác và ra nước ngoài ? Nhưng chuyển bằng cách nào thì các chuyên gia từ Việt Nam đã tiết lộ:”Họ tìm cách chuyển tiền bằng việc đầu tư, mua cổ phiếu, đưa con cháu đi du học ở nước dự tính định cư... Khi đó, đối tượng cũng đã có nền tảng, có vỏ bọc nhà đầu tư và được pháp luật bảo vệ tài sản của họ...” (theo báo Tuổi Trẻ online (TTO), ngày 21/09/2016) Báo TTO viết: “Một nguyên cán bộ Interpol VN cho biết những đối tượng này tẩu tán tài sản dưới danh nghĩa lập các công ty, ký các hợp đồng làm ăn với nước ngoài (rửa tiền). Các đối tượng tiếp tục sử dụng để đầu tư vào các quốc gia phát triển (Hoa Kỳ, Canada, Đức...) để hưởng quy chế định cư dài hạn và hợp pháp. Trong một số trường hợp, việc thu hồi tài sản tẩu tán hết sức khó khăn nếu đối tượng bị truy nã và tài sản tẩu tán đang ở một nước mà VN không ký hiệp định tương trợ tư pháp.” Vẫn theo báo TTO thì có rất nhiều ngoại tệ đã chảy ra nước ngoài không kiểm sóat được. Báo này cho biết: “Theo các chuyên gia kinh tế, hiện có một cách chuyển tiền chính thức ra nước ngoài mà nhiều người đang sử dụng là lập công ty ở trong nước và câu kết với nhà xuất khẩu ở nước ngoài - thường là công ty liên kết qua việc nhập nguyên vật liệu, máy móc thiết bị. Đơn cử công ty trong nước nhập lô hàng của công ty liên kết ở nước ngoài có trị giá thực chỉ là 100 USD. Nhưng công ty trong nước yêu cầu ngân hàng phát hành tín dụng thư tới 1.000 USD để thanh toán lô hàng. Tình huống này khó ai có thể kiểm soát được vì đơn hàng thanh toán là 1.000 USD mà người mua trả đúng 1.000 USD nên ngân hàng không có lý do gì để từ chối cả. Lợi dụng việc này, nhiều công ty trong nước đã chuyển số lượng rất lớn ngoại tệ ra nước ngoài một cách hợp lệ.” Bằng chứng trước mắt Để chứng minh sự chênh lệch giữa khoản tiền mất vào đầu tư kinh tế, mua bán thương mại của những kẻ tham nhũng và trị giá bằng tiền của tài sản họ phải bồi thường sau khi lãnh án, chúng ta hãy cùng đọc: “Hơn 1.100 tỷ đồng phải thu hồi trong vụ Vinashin, 360 tỷ với vụ án Dương Chí Dũng hay 14.000 tỷ đồng tại vụ Huỳnh Thị Huyền Như đang khiến cơ quan thi hành án "đau đầu" vì tài sản kê biên có giá trị rất nhỏ.” (theo VTV.vn-Đài Truyền hình Quốc gia, ngày 24/6/2021) Chi tiết hơn, VTV.vn cho biết: “Trong vụ án Dương Chí Dũng - nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines, và đồng phạm, các bị cáo phải bồi thường 110 tỷ đồng nhưng đến nay chỉ thi hành được trên 21 tỷ đồng, tức là chưa đến 1/5.” - “Vụ "đại án" kinh tế Huỳnh Thị Huyền Như, tòa tuyên án bị cáo phải sung công 9.000 tỷ đồng, nhưng qua thẩm tra, thẩm định chỉ thu về cho Nhà nước được hơn 5% số tiền này là 500 tỷ đồng.” - “Trong vụ án kinh tế Hứa Thị Phấn, tòa tuyên kê biên thu hồi tài sản là quyền sử dụng hàng chục lô đất nông nghiệp mà bà Phấn đã thế chấp để chiếm đoạt tiền. Tuy nhiên, hơn 50 quyền sử dụng đất, ước tính giá trị hàng nghìn tỷ đồng, nay đều đã hết hạn sử dụng. Theo luật, chỉ khi bà Phấn làm thủ tục gia hạn, cơ quan thi hành án mới có thể bán đấu giá để hoàn tiền về cho Nhà nước.” Vụ bà Phấn đã chứng minh chính Luật của nhà nước là hàng rào cản trong công tác thu hồi tài sản kẻ phạm tội. Trong vụ án Trịnh Xuân Thanh, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC), Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự Nguyễn Văn Sơn cho biết: “Tổng số tiền bị cáo này phải bồi thường là 122 tỷ đồng. Hiện ông Thanh mới chỉ thi hành án được 31 tỷ đồng, bằng 1/4 tổng số tiền phải thi hành án.” - Trong vụ “Đại án tiêu cực xảy ra tại Vinashin”, theo bản án ngày 30/8/2012 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội thì:” Cựu Chủ tịch tập đoàn Vinashin Phạm Thanh Bình cùng 8 đồng phạm bị xác định cố tình mua tàu, bán vỏ tàu và nhập các thiết bị công nghệ lạc hậu khi không được phê duyệt, gây thiệt hại gần 1.000 tỷ đồng. Các bị cáo phải bồi thường hơn 1.100 tỷ đồng, riêng ông Bình phải thi hành án hơn 500 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo Tổng cục Thi hành án dân sự tính đến đầu năm 2016, số tiền thu được mới chỉ 2,4 tỷ đồng. “Ngoài tài sản cơ quan thi hành án đã kê biên, hiện nhà chức trách chưa tìm thấy tài sản nào khác của đương sự. Tổng cục cho rằng nguyên nhân của sự “bất lực” là do trong quá trình điều tra, xét xử vụ án các cơ quan chức năng đã không phong tỏa và kê biên hết tài sản theo đúng quy định. Vì thế đến giai đoạn thi hành án, việc xác minh, xác định tài sản gặp rất nhiều khó khăn.” (theo báo VietNamExpress, ngày 29/3/2016) Với những con số khác biệt của các vụ đại án tham nhũng, tổng cộng gây thiệt hại là 59,750 tỷ đồng, nhưng nhà nước chỉ thu hồi được 4,676,6 tỷ, còn lại 55,083,4 tỷ biến đâu mất thì ai trong đảng phải chịu trách nhiệm? Chẳng lẽ các ông Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Thủ tướng Phạm Minh Chính không biết “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” hay sao? Hay là họ biết cả đấy nhưng đành bó tay như những người tiền nhiệm gồm Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, 2 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Thị Kim Ngân và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì ai cũng “no nê” cả rồi? (06/021) Phạm Trần https://vietbao.com/a308611/tai-san-tham-nhung-bien-dau-mat-  
......

Khi Trung Quốc mất vai trò công xưởng của thế giới

Một xưởng lắp ráp điện tử tại thị xã Trương Dịch (Zhangye), tây bắc tỉnh Cam Túc (Gansu), Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 17/04/2021. AP « Từ một vài năm nay, Trung Quốc không còn là nhà máy của thế giới (…) Xu hướng chung là sản  xuất tại chỗ để phục vụ thị trường địa phương ». Cyrille Coutansais, tác giả cuốn La (re)localisation du Monde ghi nhận như trên qua nghiên cứu nói về hiện tượng tái dịch chuyển các hoạt động kinh tế trên toàn cầu. Trong cuốn sách vừa cho ra mắt độc giả tháng 5/2021, Cyrille Coutansais, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Hàng Hải (CESM), chuyên gia về kinh tế hàng hải, giảng dậy tại trường Khoa Học Chính Trị Paris – Sciences Po, ghi nhận hai điểm then chốt.  Rút khỏi Trung Quốc, một làn sóng ngầm Trước hết hiện tượng tái dịch chuyển các hoạt động công nghiệp, từ Trung Quốc đã được ghi nhận từ đầu những năm 2000. Đợt sóng ngầm đó đã dâng cao vào quãng 2012-2013 khi xung đột tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Bắc Kinh và Tokyo bùng lên. Trung Quốc một mặt kích động quần chúng tẩy chay hàng Nhật, mặt khác ngưng cung cấp kim loại hiếm gây xáo trộn không ít trong các dây chuyền sản xuất từ trên xứ Hoa Anh Đào đến cả tại những nhà máy của Nhật ở Hoa Lục.  Kế tới là chính sách của tổng thống Mỹ Donald Trump từ 2017 kêu gọi và khuyến khích các hãng Mỹ « quay lại Hoa Kỳ » tạo công việc làm « trên đất Mỹ cho người Mỹ ». Riêng tại Pháp, từ 2012 dưới thời tổng thống François Hollande, bộ trưởng đặc trách Công Nghiệp, Arnaud Montebourg, đã đưa ra khẩu hiệu « Made in France ». Từ đó tới nay, hiệu kim hoàn nổi tiếng Mauboussin chia tay với châu Á, đưa trở lại về châu Âu toàn bộ các hoạt động của mình, 70 % các sản phẩm làm ra được thực hiện trên đất Pháp. Một thí dụ tiêu biểu khác là hãng xe Solex của Pháp năm 1988 đóng cửa nhà máy tại Saint Quentin – vùng Aisne, miền đông bắc nước Pháp, để định cư tại Quảng Đông, tận dụng nhân công rẻ Trung Quốc. Gần 30 năm sau cũng tập đoàn nổi tiếng với những chiếc xe đạp này trở về lại Pháp, mở nhà máy ở Saint Lo, nhưng những chiếc xe đạp cổ điển được thay thế bằng xe đạp điện. Nhà máy ở Saint Lo vùng Manche (tây bắc nước Pháp) tuyển dụng 55 công nhân, sản xuất ba kiểu xe Solex khác nhau. Năm 2016, doanh thu của tập đoàn lên tới 11 triệu euro.  Đại dịch Covid-19 chỉ là yếu tố gần đây nhất, rõ rệt nhất, thôi thúc các nước công nghiệp pháp triển đẩy mạnh chiến lược « hồi hương » một số các hoạt động công nghiệp, hoặc đi tìm những bãi đáp mới, tránh để tất cả trứng vào « một giỏ » là Trung Quốc. Điểm nổi bật thứ hai trong cuốn La (re)localisation du Monde là tiến trình « tái dịch chuyển » các hoạt động kinh tế cả trong lĩnh vực công nghiệp lẫn dịch vụ không chỉ là một khẩu hiệu suông.  Trên đài RFI Pháp ngữ, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Hàng Hải Pháp, Cyrille Coutansais giải thích: Cyrille Coutansais : « Giờ đây có thể tính đến khả năng tái dịch chuyển các cơ sở trở lại về các nước công nghiệp phát triển nhờ có những phát minh, những công nghệ mới. Những công nghệ mới đó đã bước vào giai đoạn chín muồi, hoạt động có hiệu quả. Ở đây tôi muốn nói đến công nghệ robot, đến trí thông minh nhân tạo càng lúc càng tiến bộ và tinh vi, hay đến máy in 3 chiều.   Một thí dụ cụ thể là nhờ có máy in ba chiều mà tại Pháp chúng ta có thể sản xuất cánh quạt của các tàu chiến dò mìn với giá thành tương đương với giá sản xuất từ một nước có nhân công rẻ. Mười năm trước, đây là điều không tưởng. Tuy nhiên hiện tại vẫn còn một số lĩnh vực các nước chậm phát triển chiếm lợi thế, bởi vì công nghệ robot chưa thay thế được hết tất cả những công việc của công nhân trong mọi ngành nghề. Điển hình là trong ngành dệt may. Ngược lại công nghiệp xe hơi hay máy bay, phụ tùng sản xuất tại châu Âu hay tại một nước chậm phát triển, giá cả như nhau thôi ».   Nói cách khác, tại sao phải di dời sang đến tận Trung Quốc hay một quốc gia xa xôi nào khác khi mà trong một số lĩnh vực, các doanh nghiệp có điều kiện để « sản xuất bằng giá » ? Phải chăng vì vậy mà Trung Quốc nói riêng, châu Á nói chung, trở nên kém hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư ? Theo thăm dò do quỹ đầu tư Capital Export và viện Opinion Way công bố hôm 28/06/2021, « xuất khẩu » không còn là một giấc mơ tuyệt đối trong mắt nhiều nhà sản xuất của Pháp. Châu Á không còn sức hấp dẫn lớn : 40 % những chủ doanh nghiệp được hỏi cho biết « không có ý định » đầu tư vào châu Á vì ba lý do : rủi ro khách hàng không thanh toán đúng hạn, mức độ kém tin tưởng vào thị trường cũng như các đối tác Á châu. Sau cùng là những biện pháp bảo hộ trá hình khiến các doanh nghiệp ngoại quốc bị giới hạn trên những thị trường địa phương và hàng loạt những rào cản từ về văn hóa, ngôn ngữ đến cung cách làm ăn của nhiều nước Á châu. Sản xuất và tiêu thụ tại chỗ nhờ một cuộc « cách mạng kép » Theo quan điểm của chuyên gia kinh tế hàng hải Cyrille Coutansais, việc đưa các công xưởng trở lại về nguyên quán hay chuyển từ thị trường to lớn là Trung Quốc đến một nơi khác đã trở thành một điều cấp bách, do thái độ của người tiêu dùng. Cyrille Coutansais : « Chẳng những là giá thành như nhau, bất luận đó là một nước công nghiệp phát triển hay một nền kinh tế còn chậm tiến, quan trọng hơn nữa là điều đó đã trở thành thiết yếu. Bởi vì internet đã làm thay đổi toàn bộ cung cách của người tiêu dùng. Người tiêu dùng có rất nhiều thông tin về mặt hàng mà họ muốn mua vào. Thí dụ như người ta muốn biết, sản phẩm được sản xuất từ đâu, món hàng đó có tôn trọng các chuẩn mực về lao động, về an toàn, về môi trường hay không… Tại châu Âu, những đòi hỏi về những tiêu chí nói trên ngày càng cao. Mua hàng giá rẻ không nhất thiết là một ưu tiên đối với tất cả mọi người.   Điểm thứ hai là người ta có thể mua hàng ở bất kỳ nơi nào trên thế giới và thời gian giao hàng cho người mua càng lúc càng được thu hẹp lại. Nói một cách dễ hiểu khi đặt mua hàng, không mấy ai còn kiên nhẫn đợi chờ. Điều đó có nghĩa là nếu khách hàng phải đợi lâu quá thì họ sẽ chuyển sang một nhà cung cấp khác, và nhà cung cấp mà không đáp ứng được tức thời, thì sẽ bị mất khách. Do vậy tốt hơn hết là sản xuất tại chỗ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của khách hàng tại chỗ ».    Vẫn tác giả cuốn La (re)localisation du Monde giải thích thêm vì sao Trung Quốc không còn hấp dẫn như 10, 15 năm về trước khi mà nhờ các phương tiện vận chuyển đường biển, Trung Quốc trở thành xưởng lắp ráp của thế giới trong mô hình mà Cyrille Coutansais gọi là một nền « kinh tế lego » :   Cyrille Coutansais : « Mô hình đó từng rất có lợi. Chẳng hạn như đặt mua một số phụ tùng của Trung Quốc, số khác của Brazil hay Hàn Quốc rồi chở tất cả về Trung Quốc để lắp ráp vì Trung Quốc có nhân công rẻ. Nhờ thế mà Trung Quốc mới được mệnh danh là công xưởng của thế giới. Thế rồi những thành phẩm đó sẽ được đóng thùng, xuất khẩu ra khắp năm châu. Nhưng giờ đây, nhân công tại Trung Quốc không còn rẻ nữa để tiếp tục thu hút các hãng nước ngoài mở thêm chi nhánh tại đây. Thêm vào đó Trung Quốc nói riêng, châu Á nói chung ngày nay đã tập trung quá nhiều một số lĩnh vực, mà tiêu biểu nhất là trong ngành công nghệ chip điện tử. Hơn một chục năm trước người ta còn thấy một vài tập đoàn của Âu Mỹ, nhưng giờ đây cả thế giới trông cậy vào môt vài đại tập đoàn như TSMC của Đài Loan, hay Samsung của Hàn Quốc. Với cái thế gần như độc quyền như vậy, giá chip điện tử tự động phải tăng lên. Câu hỏi đặt ra là tại sao không tái dịch chuyển những mảng công nghệ này về trở lại Âu-Mỹ ? Châu Âu hay Hoa Kỳ có thể làm được điều đó nhờ công nghệ 5G. Đây chính là một công cụ rất lợi hại cho phép sản xuất một khi đã có đơn đặt hàng. Đây mới chính là tâm điểm của sự đối đầu Mỹ-Trung. Làm chủ được mạng 5G tức là làm chủ được toàn bộ các hoạt động của nhà máy, làm chủ được quá trình sản xuất. Do vậy không thể giao phó cho bất kỳ ai thiết kế mạng 5G quốc gia ».   Điều này giải thích vì sao Mỹ rồi châu Âu muốn bảo vệ mạng internet thế hệ 5. Cyrille Coutansais phân tích tiếp : Cyrille Coutansais : « Đúng là bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có lý do chính đáng để cản đường Hoa Vi. Vả lại chúng ta thấy là bản thân Trung Quốc cũng chỉ tin vào tập đoàn quốc gia là Hoa Vi trong việc thiết lập mạng internet thế hệ mới. Bắc Kinh biết rõ hơn ai hết đây là một khâu nhậy cảm với những tác động kèm theo quan trọng tới mức độ nào. Châu Âu may mắn có hai nhà cung cấp là Nokia và Ericsson và bản thân hai nhà cung cấp mạng 5G này có nhiều đối tác đáng tin cậy. Tôi nghĩ nên tin vào Nokia và Ericson thì hơn ».   Thời kỳ Trung Quốc là nhà máy của thế giới đã qua Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đang đánh mất lá chủ bài quan trọng nhất để thu hút đầu tư nước ngoài. Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Hàng Hải của Pháp không vòng vo « thời kỳ Trung Quốc là nhà xưởng của thế giới đã chấm dứt ». Cyrille Coutansais : « Từ một vài năm trở lại đây, Trung Quốc đã không còn là công xưởng của thế giới. Khá nhiều lĩnh vực giảm bớt hoạt động tại Trung Quốc để phát triển ở những nơi khác. Thí dụ trong ngành dệt may, điểm đến giờ đây là Bangladesh hay Pakistan chứ người ta không còn tiếp tục mở thêm nhà máy tại Trung Quốc nữa.   Bên cạnh đó, từ sau căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc về tranh chấp chủ quyền biển đảo ở khu vực Senkaku/Điếu Ngư, Tokyo đã mạnh mẽ khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp dời cơ sở sang Việt Nam, Ấn Độ … Các quốc gia này có nhân công rẻ hơn đồng thời Nhật Bản bớt bị lệ thuộc vào một nước lớn như là Trung Quốc. Hiện tượng này có trở nên rõ rệt hơn nữa sau đại dịch Covid-19 hay không ? Theo tôi, thế giới đang có khuynh hướng ‘sản xuất nơi nào để phục vụ thị trường nơi đó’. Các nhà máy ở châu Á để phục vụ người tiêu thụ Á châu, hãng xưởng ở Mỹ để đáp ứng nhu cầu của thị trường của châu Mỹ. Các nhà máy tại châu Âu, và chung quanh Địa Trung Hải thì để phục vụ khách hàng của châu Âu. Đưa các nhà máy đến gần với người tiêu thụ là xu hướng chung ». Thanh Hà Nguồn: https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-kinh-t%E1%BA  
......

Ông Phạm Minh Chính áp lực WHO

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân Khi khám phá ra khẩu hiệu “chống dịch như chống giặc” chỉ là một tràng pháo chuột, chính phủ Việt Nam mới nhận ra rằng chỉ có vaccine, chứ không phải biện pháp khoanh vùng cách ly, mới ngăn chặn được Covid-19 lan tràn. Nhưng do thiếu chuẩn bị, không nhìn xa trông rộng mà chỉ đắc chí tự mãn với những thành công ban đầu, Việt Nam đang lâm vào tình trạng thiếu vaccine trầm trọng. Cho tới hiện nay chưa tới 2% dân số chích ngừa, được mô tả là thấp nhất rong 10 nước ASEAN. Vì lý do đó, Thủ Tướng Phạm Minh Chính đã từ chạy vái tứ phương tìm xin và mua vaccine, đến bây giờ quay ra níu áo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) với lời yêu cầu “ưu tiên cho Việt Nam sớm nhận vaccine Covid-19.” Theo báo Dân Trí số ra ngày 24 tháng Sáu, ông Chính đã có cuộc điện đàm với ông Tedros A. Ghebreyesus, Tổng Giám Đốc Tổ Chức WHO. Có 2 điểm đáng chú ý  trong nội dung cuộc nói chuyện này: 1/ Việt Nam đã khẩn khoản yêu cầu WHO hỗ trợ và ưu tiên để Việt Nam sớm nhận được lô vaccine tiếp theo trong chương trình COVAX để thực hiện “mục tiêu kép” là vừa phòng chống dịch bệnh vừa phục hồi và phát triển tốt nền kinh tế. Đúng là nghèo mà tham. Nhắm vào một mục tiêu chưa biết có kết quả hay không mà đòi tới hai mục tiêu. Việt Nam chỉ là 1 trong 193 thành viên của Liên Hiệp Quốc, ngoại trừ những nước giàu và nước có thu nhập trung bình cao, những quốc gia còn lại đều nghèo và cũng đang trông chờ được phân phối vaccine. Thiếu vaccine nhưng thừa sự khôn lỏi, Hà Nội một mặt chạy xin, một mặt tích cực kêu gọi dân đóng góp lấy tiền mua vaccine và gọi đó là chích miễn phí. Không riêng gì Việt Nam, hiện nay cả thế giới đang thiếu vaccine trầm trọng. Thế mà ông ng Chính lại chơi trò xé lẻ lên tiếng trực tiếp với WHO để yêu cầu ưu tiên cung cấp vaccine để cứu nền kinh tế, hầu khoe khoang với thiên hạ là chính phủ Việt Nam chống dịch tốt và giữ vững được nền kinh tế. Đó là mục tiêu kép mà chính phủ Việt Nam tự hào trước thế giới lâu nay. 2/ Ông Chính còn khẩn khoản nhờ WHO ủng hộ và giúp Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất vaccine cho khu vực Tây Thái Bình Dương. Ông Chính cũng thừa nhận tuy doanh nghiệp Việt Nam có năng lực về sản xuất vaccine nhưng cần sự hỗ trợ của WHO để Việt Nam sớm thành lập các nhà máy sản xuất. Yêu cầu này của thủ tướng Việt Nam không chỉ khôn lỏi mà còn cho thấy bản chất tham lam quá đáng. Đã đi xin vaccine miễn phí mà còn nhận làm nơi trung tâm sản xuất lớn trong khu vực nhằm mục đích thủ lợi về lâu về dài. Cũng nằm trong tham vọng ấy, khi đến thăm một số cơ sở sản xuất vaccine, ông Chính mạnh mẽ tuyên bố: “Chậm nhất tháng Sáu, 2022, phải có vaccine Covid-19 sản xuất trong nước.” XEM THÊM: Việt Nam có nên tiếp tục “chống dịch như chống giặc”? Trong thời gian vừa qua, ông Phạm Minh Chính cũng không ngừng van nài các người đứng đầu chính phủ các nước như bà Thủ Tướng Đức Angela  Merkel, Phó Thủ Tướng Anh Dominic Raab đề nghị hợp tác giúp đỡ Việt Nam trong việc chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine. Hóa ra câu chuyện Công ty Công Nghệ Sinh Học Nanogen kiến nghị xin cấp phép khẩn cấp cho vaccine NANO COVAX hiệu quả 99,4% chỉ là trò mua vui nhằm trấn an dư luận! Để có vaccine chích ngừa cho dân chúng, nhiều nước trên thế giới đã bắt đầu điều đình mua vaccine của các hãng bào chế từ tháng Năm, 2020. Việt Nam chỉ mới bắt đầu đặt vấn đề từ tháng Tám và giao kèo 30 triệu liều được ký với Astra Zeneca vào tháng Ba, 2021 qua Công ty VNVC (Công ty Cổ phần Vắc Xin Việt Nam). Chỉ có một lý do duy nhất có thể giải thích cho việc chậm chạp mua vaccine: Các nhà lãnh đạo cộng sản nghĩ rằng họ đã chống dịch tốt trong năm 2020, nên không cần vội vã gì phải mua vaccine, chẳng những tốn tiền mà có thể làm lu mờ thành tích chống dịch đã được thế giới ca ngợi! Đến khi đợt dịch thứ 4 bùng phát từ cuối tháng Tư vừa qua, lúc đó Hà Nội mới chới với, dẫn đến một phát ngôn của Thủ Tướng Phạm Minh Chính trong một cuộc họp về phòng chống dịch Covid-19: “Không chờ đợi, không lựa chọn vaccine, có loại nào phải dùng ngay loại đó.” Câu nói này mang 2 ý nghĩa: 1/ Chết đến nơi rồi, nhà nước đang chạy cuống cuồng lên và không còn thì giờ để chọn lựa. Đây là một sự thật mà nay không thể giấu nhẹm được nữa. 2/ Viễn cảnh Việt Nam có đủ vaccine chích ngừa cho ít nhất 70% dân số để có miễn dịch cộng đồng rất khó đạt kết quả trong năm 2021, so với vài triệu liều vaccine mà Việt Nam đã nhận được. Chuyện miễn dịch cộng đồng có thể kéo dài qua năm 2022, nên mới có chỉ thị “có loại nào phải dùng ngay loại đó,” dù biết không hiệu quả cũng xài luôn… Theo dõi những phát biểu và chỉ đạo của Phạm Minh Chính, người ta thấy rõ sự lúng túng trong cách đối phó của Hà Nội trong đợt dịch lần này. Rõ ràng là ông Chính được đưa lên làm thủ tướng chưa đầy 1 tháng liền bị sao quả tạ đè (đợt dịch thứ tư với biến chủng Delta) khiến nội các của tân thủ tướng “mất ăn mất ngủ” khi số ca nhiễm lan quá nhanh, hiện đã lên hơn 16 ngàn ca nhiễm tại 48/63 tỉnh thành. Đúng là ông Phúc có phúc hơn ông Chính! Phạm Nhật Bình XEM THÊM: Câu chuyện cách ly mùa dịch tại Việt Nam Hãy thay đổi chiến lược phòng chống dịch hiện nay trước khi quá muộn  
......

Hai lần tiễn con đi hai lần Mẹ...ngồi khóc!

Ảnh Mẹ quân nhân Trần Đức Đô. Phạm Minh Vũ Ngay lúc này, có lẽ người phụ nữ này là người đau đớn nhất, nỗi đau vô cùng tận. Bỡi lẽ, chị cảm nhận được sự đau thương của con trai chị phải chịu trước khi chết, bị kẻ thủ ác ra tay hành hạ tra tấn con chị tới chết. Đau đớn nhất không phải vì người Mẹ mất con, mà vì con chị bị người ta gán cho cái mác chết vì tự tử. Chị đau vì con chị chết mà bị những kẻ từng gọi nhau là “đồng chí” chà đạp lên thân xác Đô một lần nữa, chúng che giấu không trả lại sự thật về cái chết của Đô, không khác nào là sự phỉ báng danh dự, nhân phẩm của một con người. Quân nhân Trần Đức Đô Nhìn chị ôm quan tài khóc, mà lòng tôi quặn thắt. Có lẽ, không có gì có thể diễn tả được tận cùng đau khổ của chị ngay lúc này. Chị đã khóc hai lần. Cách đây 6 tháng chị đã khóc vì đứa con bé bỏng của chị còn bế trên tay với lời ru ầu ơ ngày nào đó, thế mà nay chị tự hào vì tiễn đứa con trai lên đường nhập ngũ để thực thi sứ mạng bảo vệ tổ quốc, chị khóc lần một. Và chị cũng không ngờ rằng, cái ngày đưa con đi chị dặn là “sớm hoàn thành sứ mệnh để về bên Mẹ nghe con” cũng là lúc con chị đã lao vào chỗ chết. Người lính chiến, hôm nay không chết vì bom đạn kẻ thù mà lại chết vì đòn roi của đồng chí. Đau, chị phải khóc lần thứ hai để tiễn con đi theo cổ quan tài oan nghiệt. Trên cổ quan tài của người lính ấy vẫn còn khoảng trống, vì tới giờ chưa biết khắc dòng chữ gì cho đúng, chết vì tổ quốc thì không phải, chết vì tự tử thì càng lại không...phải khắc dòng gì đây? Cái chết Con trai của chị cả xã hội đều phẫn nộ vì cái cách bao che của quân đội, vẫn còn treo trên đầu mỗi người lương tri nhiều câu hỏi, trong đó những điều cần làm sáng tỏ là: (1) Tại sao lúc gọi về báo với gia đình lại nói đột quỵ ở thao trường. Sau đó lại bảo tự tử? (2) Những vết thương ở trên người của em ở đâu ra? Vì sao toàn cơ thể vẫn bị bầm dập mà kết luận cho là tự tử? (3)Nguyên nhân gì dẫn đến tử vong là gì? Em là đồng chí chứ phải quân thù đâu mà nỡ lòng nào ra tay với em tàn nhẫn như thế? Việc một tướng chính ủy Quân khu 1 trả lời em chết là do tự tử như một can dầu dội vào đám cháy mà cả xã hội đang phẫn nộ. Thay vì trả lời sẽ tìm ra đầu đuôi vụ việc, điều này đã cho thấy cả hệ thống chính trị, quân đội đang tìm cách bao che cho nhau, họ quyết đóng trên nắp quan tài của Đô với hàng chữ chết vì tự tử, một dòng chữ tàn bạo vì đó là sự sỉ nhục vào thân xác của em. Như thế, càng làm cho nước mắt của người Mẹ kia sẽ chảy hoài khóc mãi, âm ĩ trong từng hơi thở cho tới lúc lìa đời. Vì, trên đời này làm gì nỗi đau nào hơn nỗi đau của người Mẹ mất con, kẻ giết người lại có quyền phỉ báng con chị? Dù thế nào đi nữa, tôi cũng cầu mong chị sẽ sớm tìm được công lý cho em Đô, để linh hồn Đô sớm được siêu thoát. “Ai, ai giết con tôi Ai cướp con tôi giữa cơn mộng đêm thái bình Ôi thương lời nói tội tình, hàm bao đớn đau... Giờ mẹ con đành cách nhau” *** Trong clip quay đám tang ngày hôm qua, người dì ruột của em Đô nói rằng: "Ngày 25/06 Đô có điện cho tôi, bảo là bị đại đội trưởng/chỉ huy hay đánh đập cháu, cháu rất sợ...”   Đại đội trưởng trong quân đội Việt Nam thường mang quân hàm Đại uý. Như vậy quân khu 1 còn lập lờ bao biện tự tử gì nữa? Tại sao lại bao che nhau trong môi trường quân đội? Điều tra đem tên đại đội trưởng chỉ huy của Đô ra mà xử lý.   Trên mạng xã hội tiktok đang có phong trào 2k3 từ chối đi nghĩa vụ quân sự.   Nếu không làm cho ra lẽ, làn sóng tẩy chay luật nghĩa vụ quân sự đang lan rộng và tuyên bố sang năm không có ai dám đi lính nữa.   Không một gia đình nào chấp nhận cho con em mình đi nghĩa vụ mà chết không có lý do, không rõ ràng. Nếu hy sinh vì đất nước họ sẵn sàng đem mạng sống ra để bảo vệ. Nếu không làm sáng tỏ thì lòng tin vào quân đội bị xói mòn hoàn toàn. không ai chịu đi nữa, đó là một điều bất thường của một đất nước. Không làm sáng tỏ, cố tình bao che trước mắt đã thấy một điều nguy hiểm vô cùng.   Quân đội VN Hãy đem tên đại uý (đại đội trưởng) ra trước toà án binh xử nghiêm minh để cho anh em 2k3 còn niềm tin mà nhập ngũ.      
......

Thế giới nên đặt lại Đài Loan vào đúng vị trí

Ảnh Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Nhật Yasuhide Nakayama Lưu Trọng Văn Tháng tư vừa qua gã viết bài về hội nghị bàn về Senkaku do Diễn đàn Toàn cầu Boston chi nhánh Nhật tổ chức. Diễn giả chính là ông Yasuhide Nakayama - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã mạnh mẽ lên án Trung Quốc gây hấn ở quần đảo Senkaku. Bất ngờ gã nhận được tin nhắn và đường dẫn facebook của chính ông Yasuhide Nakayama chia sẻ bài viết từ VN của gã cùng lời giới thiệu được dịch qua tiếng Việt. Và mới đây theo báo Tuổi trẻ: "Phát biểu tại một hội thảo của Viện Hudson (Mỹ) ngày 27-6, ông Nakayama đã đặt câu hỏi về tính đúng sai của việc các nước, trong đó có Mỹ và Nhật Bản, công nhận CHND Trung Hoa thay vì Đài Loan. Bài phát biểu của ông đánh dấu một trong những lần hiếm hoi một quan chức đương nhiệm của Tokyo công khai chất vấn nguyên tắc "Một Trung Quốc". "Chúng ta phải thức tỉnh, phải bảo vệ Đài Loan như một quốc gia dân chủ", thứ trưởng Nakayama kêu gọi. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Uông Văn Bân đã dùng những từ như "nham hiểm", "vô trách nhiệm" và "nguy hiểm" khi nhắc đến phát ngôn của ông Nakayama. "Đây là những phát ngôn sai lầm khủng khiếp. Chính trị gia kia đã công khai gọi Đài Loan là một quốc gia, vi phạm nghiêm trọng tuyên bố chung Trung - Nhật", ông Uông nêu quan điểm trong họp báo ngày 29-6." Việc ông Nakayama đặt lại vấn đề khi năm 1979 Mỹ và nhiều quốc gia khác trong đó có cả Nhật đã công nhận Trung Quốc thay cho Đài Loan đồng thời cho Trung Quốc chiếm ghế uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ của Đài Loan và đuổi Đài Loan khỏi LHQ. Ông Nakayama là chính khách nổi tiếng của Nhật lần đầu tiên đặt lại vấn đề này và coi việc công nhận một Trung Quốc là sai lầm của lịch sử, trong khi LHQ cùng lúc vẫn công nhận hai nước Đức là Đông Đức và Tây Đức, hai nước Triều Tiên là Hàn Quốc và Triều Tiên. Phát biểu của ông Nakayama có thể là bước khởi động của Nhật cùng Mỹ khắc phục lại sai lầm của mình để dọn đường cho việc công nhận Đài Loan là quốc gia độc lập như sau năm 1949. Với cách nhìn tầm chiến lược toàn cầu của ông Nakayama thì: Một Đài Loan độc lập, tự do, dân chủ phát triển hùng mạnh sẽ là đối trọng đối với Trung Quốc cộng sản và góp phần ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc trên toàn cầu. Một Đài Loan độc lập, tự do, dân chủ sẽ tác động vào lục địa Trung Hoa tạo sức mạnh cho phong trào đòi độc lập, tự do dân chủ của các vùng dân tộc Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông, Hong Kong phá vỡ nhà nước Đại Hán muốn thống trị Thiên hạ, dẫn tới bảo vệ cho nhân loại thoát khỏi nguy cơ chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh. *** lời tựa đặt thêm
......

Cấp phép khẩn cấp Nano Covax – vấn đề không chỉ ở thủ tướng

Nguyen Ngoc Chu THÀNH CÔNG BƯỚC ĐẦU Trước hết, xin có lờì nhiệt liệt thán phục những nỗ lực của các nhà miễn dịch học công ty Nanogen và cá nhân ông Tổng giám đốc Hồ Nhân đã đưa đến thành quả là vaccine Nano Covax thử nghiệm lâm sàng xong giai đoạn 1,2, và bắt đầu được thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 cho quy mô 13 000 người. Nếu được thực tế chứng minh: Nano Covax không có tác dụng phụ nghiêm trọng, hiệu quả đến 99,4% thuộc loại cao nhất thế giới, và giá bán thuộc loại thấp nhất thế giới chỉ 120 000 đồng/ liều – như Nanogen tuyên bố, thì đó là thắng lợi kép của Nanogen và của ngành miễn dịch Việt Nam. Giá thành 120 000 đồng /liều thì có thể tin là đạt được. Nhưng còn do dự về chỉ số hiệu quả 99,4% của Nano Covax. Nếu quả thật Nano Covax đạt hiệu quả đến 99,4% sau giai đoạn thử nghiệm cuối cùng mà không để lại tác dụng phụ nghiêm trọng – thì đó là một thành tựu “địa chấn”. BA ĐIỀU KHẨN TRƯƠNG Ngày 08/12/2020 Anh đã tổ chức tiêm chủng Pfizer/BioNtech. Sau đó Pfizer/BioNtech được tiêm chủng ở Mỹ, Canada và các nước châu Âu. Và ngày 01/01/2021 Pfizer/BioNtech là vaccine đầu tiên được WHO phê duyệt đưa vào sử dụng. Việc đưa vaccine ngừa Covid -19 vào sử dụng phụ thuộc rất quan trọng vào sự phê duyệt của WHO, chứ không chỉ cứ chính phủ cấp phép là xong. Mà để WHO phê duyệt thì phụ thuộc vào nhiều thành tố, trong số đó rất quan trọng là chứng lý khoa học và kiểm nghiệm lâm sàng. Chứng lý khoa học chính là sự thừa nhận của các nhà khoa học miễn dịch, thông qua minh bạch thông tin được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín về miễn dịch. Muốn công bố được trên các tạp chí khoa học này thì phải vượt qua các phản biện kín khắt khe từ các nhà khoa học miễn dịch hàng đầu. Cho nên, điều thứ nhất là công ty Nanogen nên khẩn trương minh bạch các kết quả nghiên cứu về Nano Covax trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín về miễn dịch. Thiếu điều này, rất khó để được WHO phê duyệt sớm. Hãy nhìn đến trường hợp vaccine Sputnik V của Nga để tham chiếu. Tháng 8/2020 TT Nga Putin phê chuẩn khẩn cấp vaccine Sputnik V đưa vào sử dụng dù mới qua giai đoạn 1,2 thử nghiệm lâm sàng, chưa tiến hành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3, bỏ qua ý kiến của một bộ phận các nhà khoa học miễn dịch Nga về tuân thủ quy trình sản xuất vaccine. Ông Putin tuyên bố Nga là nước đầu tiên sản xuất được vaccine ngừa Covid – 19. Nhưng không mấy nước quan tâm. Ý nghĩa của từ Sputnik (vệ tinh) phải chăng nhắc lại thành tựu Liên Xô là nước đầu tiên phóng vệ tinh Sputnik 1 lên quỹ đạo trái đất vào ngày 04/10/1957? (Còn chữ V? – theo hãng tin Nga РИА ngày 24/12/2020 thì V là Victory của tiếng Anh, có nghĩa là chiến thắng, mang hàm ý là vaccine Sputnik chiến thắng trước Corona virus). Nga là nước có nhiều nhà khoa học giỏi. Nên có thể dự đoán vaccine Sputnik V có thể có hiệu quả tốt. Nhưng sử dụng vaccine liên quan đến sinh mạng, nên phải công khai kết quả nghiên cứu để các nhà khoa học đối chứng, và phải trải qua thử nghiệm lâm sàng để thực tế chứng minh. Cả 2 điều đó, vào tháng 8/2020 khi ông Putin phê duyệt khẩn cấp, thì Sputnik V chưa đủ đáp ứng. Hệ quả là tháng 10/2020 Nga nộp đơn đề nghị WHO phê duyệt Sputnik V, nhưng đến nay sau 8 tháng WHO vẫn chưa phê duyệt, dù WHO đã phê duyệt nhiều vaccine trong đó có 2 loại của Trung Quốc. Hệ quả khác nữa, là chính người Nga chưa hồ hởi trong tiêm Sputnik V, nên dù phê duyệt sử dụng sớm nhất, nhưng tỷ lệ tiêm vaccine của Nga chưa cao. Chỉ trong vài ngày qua, tình trạng lây nhiễm Covid – 19 ở Nga tăng mạnh, dưới áp lực của chính quyền bắt buộc tiêm, thì dòng người tiêm vaccine Sputnik V của Nga mới đông lên. Điều thứ 2 công ty Nanogen cần làm để nhận được sự phê duyệt của WHO, và quan trọng nữa là sự tin cậy của người tiêu dùng – chính là thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 trên số đông hàng chục vạn người. Theo số liệu Trung tâm Kiểm soát Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) thì vaccine BNT162b2 của Pfizer/BioNtech có độ an toàn cao khi chỉ có 1/100 000 người bị phản ứng thái quá, và các ca dị ứng ứng sau khi tiêm là cực kỳ hiếm. Giai đoạn 3 của Nano Covax cần phải được thử nghiệm cho nhiều chục vạn người. Theo ông Hồ Nhân thì “Trong 10 ngày tới, đơn vị sẽ hoàn thành tiêm 13.000 người. Trong tháng 7 sẽ chuyển sang giai đoạn 3c với 1 triệu người, ở cả miền Nam và miền Bắc” (https://tuoitre.vn/thu-tuong-lam-viec-voi-cong-ty-kien…). Ở đây xuất hiện câu hỏi là liệu trong bao lâu thì có thể tiêm thử nghiệm vaccine Nano Covax cho 1 triệu người? Nếu lấy tốc độ 13 000 người/10 ngày thì để tiêm 1 triệu người cẫn đến khoảng 769 ngày? Như vậy phải thúc đẩy tăng tốc độ. Nhưng thúc đẩy tốc độ tiêm cũng phải tuân thủ quy trình. Việc hàng ngàn người tập trung tiêm vaccine như ở TP HCM vừa qua đặt ra những những vấn đề nghiêm túc phải suy nghĩ (https://thanhnien.vn/…/lo-lang-khi-hang-ngan-nguoi-tap…). Ở mặt này, nên tham khảo cách tiêm chủng của các nước châu Âu, chẳng hạn là CHLB Đức. Họ có quy trình tiêm rất khoa học, đảm bảo an toàn. Cách tiêm của Việt Nam qua thực tiễn của TP HCM cho thấy rất lộn xộn, gây mỏi mệt, mất thời gian chờ đợi, chưa khoa học, và tạo nên sự hoài nghi về độ an toàn. Nếu tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tiêm và quy trình bảo quản vaccine thì rõ ràng kế hoạch 1 ngày tiêm 200 000 liều vaccine của Hà Nội gần đây khó thành hiện thực (https://vietnamnet.vn/…/du-kien-200-nghin-nguoi-ha-noi…). Với tốc độ tiêm 200 000 liều/ngày của Hà Nội, thì 3 trên 4 triệu dân nội đô chỉ cần có 15 ngày là tiêm xong mũi đầu tiên. Một kỷ lục? Vì chưa thấy thành phố nào của châu Âu tiêm 200 000 mũi/ngày? Xin nhắc lại tầm quan trọng của các thành tố: 1/bảo quản an toàn chất lượng vaccine, 2/trình độ tiêm vaccine, 3/ tuân thủ quy trình tiêm vaccine, 4/ phòng chống dị ứng sau tiêm vaccine. Tiêm vaccine ngừa Covid -19 không giống như bỏ phiếu, cũng không giống như xếp hàng mua đồ vật. Sự vội vã về số lượng mà không tuân thủ quy trình thì sẽ đưa đến các hậu quả nghiêm trọng. Các nước nghèo quen coi thường mọi thứ. Kể cả tính mạng. Vượt qua tường ngăn cách đường cao tốc giữa dòng xe ô tô vùn vụt. Bỏ con vào túi nilon để bơi qua sông trong lũ. Cưa bom nổ chậm. Trộn các hoá chất độc hại vào thực phẩm…Thói quen xem nhẹ tính mạng đã trở thành phổ cập thì nói chi đến các đòi hỏi về an sinh và nhân quyền. Nhưng không thể vì thói quen coi thường tính mạng mà dễ dàng áp dụng cẩu thả trong việc tiêm vaccine phòng ngừa Covid – 19. Chính phủ Việt Nam không nên phê duyệt khẩn cấp Nano Covax nếu WHO chưa có những đánh giá tích cực ủng hộ việc phê duyệt Nano Covax. Việt Nam lại không có vị thế để có thể gây ảnh hưởng lên WHO như Trung Quốc. Cho dù được WHO phê duyệt như vaccine của Trung Quốc mà nhiều người còn e ngại, huống hồ chi chưa được WHO phê duyệt – nếu chính phủ cấp phép thì liệu có mấy ai dám tiêm? “Nhu cầu khẩn cấp” tồn tại, nhưng không tồn tại tình trạng “ phê duyệt khẩn cấp”, vì đã có nhiều chủng loại vaccine được WHO cấp phép như AstraZeneca, Pfizer/BioNtech, Moderna…Cho nên con đường duy nhất của Nano Covax là đợi cho được sự cấp phép của WHO. Trên phương diện này, thì sự hiển diện của WHO ở Việt Nam trong giúp đỡ sản xuất vaccine ngừa Covid -19 là rất quan trọng. WHO có thể hiểu sâu về Nano Covax, hỗ trợ những điều cần thiết và thúc đẩy nhanh tiến trình phê duyệt Nano Covax. Trong lúc đợi chờ sự phê duyệt của WHO, điều thứ 3 mà công ty Nanogen nên làm là âm thầm sản xuất vaccine Nano Covax – nếu tự tin rằng Nano Covax không có tác dụng phụ nghiêm trọng và đảm bảo chất lượng đúng như số liệu 99,4% đã công bố. Như vậy đến khi được cấp phép thì có ngay một số lượng khổng lồ Nano Covax đáp ứng cho nhu cầu thực tiễn. Điều này Pfizer/BioNtech đã làm trước khi được chính phủ Mỹ và WHO phê duyệt. Nhưng ở mặt khác, không phải là vấn đề phê duyệt khẩn cấp, mà Bộ Y tế phải gạt bỏ truyền thống “xin – cho” đến mức ông Tổng giám đốc Công ty Nanogen đã phải bật ra: “Tôi mong mỏi Thủ tướng và bộ trưởng Bộ Y tế sâu sát hơn nữa, cử một đội chuyên hành động lo về vấn đề sản xuất vắc xin để tháo gỡ, đồng hành cùng doanh nghiệp. Thực tế hiện nay quy trình thủ tục rất nhiều khâu và gần như là xin – cho, phải chịu áp lực, chờ đợi”(https://tuoitre.vn/thu-tuong-lam-viec-voi-cong-ty-kien…). Tình trạng “xin-cho” không chỉ có trong Bộ Y tế. Tình trạng “xin-cho” tồn tại khắp mọi nơi. Đây là bài toán không thể không giải của Tân Thủ tướng. Ý CHÍ CHÍNH TRỊ Ngày 16/7/1945 Mỹ thử thành công bom nguyên tử ở sa mạc Alamagordo bang New Mexico. Tại hội nghị Postdam (17/7-02/8/1945), ngày 25/7/1945, trong một lúc ngồi tay ba trên ghế gồm Truman, Stalin, Churchill, Truman đã bóng gió nói cho Stalin biết về sức công phá huỷ diệt của vũ khí mới mà Mỹ vừa có. Nhưng gương mặt Stalin không hề có phản ứng. Truman và Churchill cho rằng Stalin không hiểu ý nghĩa của vũ khí mới. Nhưng vừa ngồi vào xe, Stalin đã ra lệnh hối thúc Kurchatov về chế tạo bom nguyên tử. Ngày 6 và 8/8/1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaky. Ai mà không biết sự hối thúc Stalin có giá như thế nào. Sự hối thúc đến mất mạng chứ không phải tù ngục. Dự án bom nguyên tử của Liên Xô đã manh nha từ năm 1939, đẩy mạnh trong chế chiến II, gấp rút sau khi Mỹ thử thành công, có sự trợ giúp to lớn của tình báo về lấy cắp tài liệu do các nhà khoa học cung cấp, mà mãi đến ngày 29/8/1949 Liên Xô mới thử thành công bom nguyên tử. Các nhà độc tài rất yêu thích áp đặt ý chí chính trị. Ý chí chính trị không “ép đẻ non” được các kết quả nghiên cứu khoa học./. #VNvaccine #NanoCovax
......

Người thực thi pháp luật vi phạm pháp luật

Nguyễn Thông Theo lịch tây dương, hôm nay 29.6. Tháng này có 30 ngày, còn 2 ngày nữa mới chuyển sang tháng 7. Thời gian là thứ dòng chảy vô hình trôi miết, đều đều, không thay đổi, tuy nhiên có những người cảm thấy khi nhanh khi chậm. Người lĩnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng chẳng hạn, than sao cái tháng 6 dài quá là dài, thêm ngày 30 làm chi cho dầy tâm trạng ngóng đợi tiền còm. Năm tháng trôi trong cơn dịch bệnh, nỗi lo “mắc dịch” khiến con người ta thờ ơ với nhiều thứ quan trọng. Chả hạn kể từ ngày 1.7 nhà nước chính thức bỏ sổ hộ khẩu. Còn chưa đầy 3 ngày, sổ hộ khẩu sẽ chính thức bị khai tử, chấm dứt sứ mệnh đầy tai tiếng của nó. Kể ra tới giờ mới bỏ là khí muộn, nhẽ ra phải chôn vùi nó lâu rồi, thổi cho nó điệu kèn đám ma tiễn vong lâu rồi. Năm 2016, khi nhậm chức thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc có 2 tuyên bố rất đáng lưu ý, đóng cửa rừng và bỏ sổ hộ khẩu. Hai điều ấy ông đều không thực hiện được trong ngôi vị cầm đầu cơ quan hành pháp. Rừng tiếp tục bị phá, sổ hộ khẩu vẫn còn. Giờ ổng làm chủ tịch nước, nợ xấu giao cho người kế nhiệm, không chỉ rừng và sổ đinh, mà còn rất nhiều thứ, chẳng hạn BOT Cai Lậy, sân gôn Tân Sơn Nhất, đường tàu Cát Linh-Hà Đông… cứ trơ trơ thách thức cùng tuế nguyệt. Ông Chính dọn đám rác này cũng đủ mệt. Bỏ sổ hộ khẩu, dân đỡ được cái cùm cái ách, tháo được của tội của nợ đeo đẳng cuộc sống suốt mấy chục năm, chính xác là 2/3 thế kỷ. Cái sổ cùm ấy như thứ chứng tích về sự quản lý hành chính cực kỳ lạc hậu, bảo thủ, phi lý, dã man. Tuy nhiên, có điều cần nói. Theo quy định của nhà nước, cụ thể của công an, từ ngày 1.7, công an sẽ thu hồi sổ hộ khẩu khi người dân làm các thủ tục về cư trú (đăng ký thường trú, tạm trú, tách hộ, xóa tên…). Nhà chức việc giải thích rằng từ nay chỉ quản lý bằng mã số định danh cá nhân qua căn cước công dân gắn chip, không cần sổ hộ khẩu nữa. Vấn đề ở chỗ, không cấp sổ mới là hợp lý, bởi xóa bỏ sổ hộ khẩu thì cấp mới làm gì, nhưng tại sao lại thu, được quyền tự ý thu hồi sổ hộ khẩu của công dân? Sổ hộ khẩu là thứ tài sản của dân. Khi dân làm thủ tục đăng ký thường trú đã phải nộp phí, lệ phí. Công an thay mặt nhà nước cấp cho dân sổ hộ khẩu theo chức trách được giao, và thu tiền, chứ đâu phải cho không, miễn phí. Nói tóm lại, dân phải bỏ tiền ra mua, nên nó là tài sản chính đáng của dân. Công an lấy quyền gì mà thu hồi. Đừng nghĩ mình là người cấp, mình có liên quan thì mình muốn sao cũng được. Khi nó là tài sản chính đáng, trừ trường hợp dân đồng ý hiến, tặng, cho, biếu, thì hành động “thu hồi” là vi phạm pháp luật, chiếm đoạt tài sản của công dân. Công an muốn thu hồi, hãy chứng minh nó là tài sản của công an đi. Sổ hộ khẩu khi còn hiệu lực thì là cái cùm cái ách, nhưng sau ngày 1.7 thì lại là thứ kỷ vật, kỷ niệm, chứng tích về một thời. Dân chúng sẽ giữ nó, bảo quản nó, truyền cho con cháu, để các thế hệ sau biết được tiền nhân đã chịu cuộc sống đè nén như thế nào. Nó có thể sẽ là vật quý hiếm, cũng như bây giờ ai giữ được chiếc biển số xe đạp hoặc tấm phiếu phân phối hàng tết vậy. Đòi thu hồi là rất vớ vẩn. Đề nghị ông bộ trưởng công an ban ngay cái lệnh bãi bỏ thứ quy định ấy đi. Tới khi cuốn sổ hộ khẩu hoàn toàn mất tác dụng (ngày 31.12.2022) thì tự nó hoàn thành nhiệm vụ, còn nếu các vị cẩn thận, sợ thế lực thù địch lợi dụng, thì cứ cộp vào nó con dấu rõ to “hết tác dụng”. Thế là xong. (còn tiếp) Kỳ sau: Đòi cắt góc CMND. Nguyễn Thông
......

Ý nghĩa thật sự của 500.000 liều vaccine Trung Quốc gửi đến Việt Nam

Nhạc sĩ Tuấn Khanh - Tuấn Khanh Lời chỉ trích từ đại sứ quán Trung Cộng tại Việt Nam, hé mở cho thấy, việc Bắc Kinh gửi đến số lượng 500.000 liều sinopharm để chủng ngừa covid-19, mục đích lớn nhất là tuyệt đối dành riêng cho người Trung Quốc đang sống và làm việc tại Việt Nam, và đặc biệt là những người Trung Quốc sống gần các đường biên giới Trung-Việt. Nếu có người Việt Nam nào được thụ hưởng phần vaccine này, như trong thư được đại sứ quán Trung Quốc gửi đến chính quyền Việt Nam, chỉ là  “người Việt Nam sống trong các cộng đồng lân cận Trung Quốc, những người tham gia trao đổi thương mại và dịch vụ với Trung Quốc và công dân Trung Quốc đang ở và làm việc tại Việt Nam”. Tờ SMCP đưa tin hôm 25-6-2021. Điều này, khác với ngôn luận của nhiều tờ báo Việt Nam trong nước, vẫn tuyên bố rằng số lượng nửa triệu liều vaccine của Trung Quốc là “gửi tặng” cho Việt Nam. Thực chất đây là một thỏa thuận ngoại giao, với tính chất ưu tiên tuyệt đối cho người của Trung Quốc, còn phần khác phụ thêm ở Việt Nam là do có liên quan đến các yếu tố Trung Quốc. Có lẽ trong giai đọan gấp rút và thiếu thốn vaccine nên Bộ Y tế Việt Nam đã quyết định dùng ngay và trước cho người Việt Nam không nằm trong khung thỏa thuận đó. Nên lập tức, đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội đã lên tiếng phản đối, và nói là chính quyền Việt Nam đã “thất hứa” trong các cam kết. Theo cam kết ban đầu, Việt Nam khi nhận được 500.000 liều sinopharm, sẽ phải gửi ngay đến 9 tỉnh phía Bắc, và chỉ tiêm cho “người Việt Nam sống trong các cộng đồng lân cận Trung Quốc, những người tham gia trao đổi thương mại và dịch vụ với Trung Quốc và công dân Trung Quốc đang ở và làm việc tại Việt Nam”. Trong thư phản đối của mình, tờ SCMP cho trích rằng Trung Quốc bất mãn vì Việt Nam đã thất hứa ưu tiên vaccine cho công dân Trung Quốc, và phải dứt khoát tiêm phòng trước các nhóm người khác. “Theo sự nhất trí của Trung Quốc và Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần cam kết rằng vaccine do Trung Quốc cung cấp trước tiên sẽ đến tay người Trung Quốc ở Việt Nam, và sau đó là người Việt Nam có kế hoạch làm việc tại Trung Quốc và người Việt Nam sống gần biên giới Trung Quốc”. Đại sứ quán Trung Quốc cho biết trong một tuyên bố, “Nhưng các nhà chức trách Việt Nam đã không liên lạc với Trung Quốc theo sự thỏa thuận trên, trước khi công bố kế hoạch phân phối”. Tờ SCMP không bình luận gì thêm, nhưng tin tức cho thấy, rõ ràng là Trung Quốc đã theo dõi rất kỹ – với tâm trạng đã nhiều phần không vui – khi chính sách ngoại giao, chào mời mua vaccine của Trung Quốc thất bại ngay từ đầu ở Việt Nam. Cuối cùng, vaccine Trung Quốc chỉ chính thức được Bộ Y tế Việt Nam miễn cưỡng chấp nhận khi có sự cho phép kèm theo của WHO – nhưng là lại gắn thêm ghi chú rất nhạy cảm “phê duyệt có điều kiện”. Chính vì vậy khi lô 500.000 liều vaccine đến sân bay Nội Bài, nhất cử nhất động đều được Trung Quốc theo dõi rất kỹ để bắt bẻ, ngay khi Việt Nam bộc lộ sự cần thiết, xé rào chích trước cho người Việt Nam không liên quan. Được biết, sau khi có lời phản đối, phía Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đồng ý ngừng ngay mọi hoạt động chích ngừa bằng sinopharm ngoài thỏa thuận, nhưng chưa có kế hoạch mới, cụ thể về việc phân phối vaccine cho người Trung Quốc tại Việt Nam. Tin cũng cho hay rằng, đại sứ quán Trung Quốc tuyên bố nếu Việt Nam làm đúng thỏa thuận, thì nước này sẽ tiếp tục thúc đẩy chương trình “Spring Sprout” (Chồi xuân) của Trung Quốc tại Việt Nam. Chương trình này theo quảng bá, là một chiến dịch toàn cầu nhằm chích vaccine cho công dân Trung Quốc đang sống và làm việc ở nước ngoài – bao gồm 120 quốc gia, theo báo cáo của các phương tiện truyền thông nhà nước. Theo quan điểm của Bắc Kinh, khi một người Trung Quốc sống ở bất cứ đâu được hưởng phúc lợi thì một số cư dân có liên quan đến người Trung Quốc cũng sẽ được như vậy. Quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam vốn đã căng thẳng trong những năm gần đây do các hành động của Bắc Kinh nhằm độc chiếm vùng Biển Đông giàu tài nguyên, mà Việt Nam là một trong quốc gia bị ảnh hưởng trực diện và thường xuyên. Bên cạnh đó, khi được Trung Quốc chào mời mua sinopharm trong chiến dịch ngoại giao vaccine của mình, Việt Nam đã im lặng, nhưng lại phê duyệt ngay việc sử dụng vaccine astra zeneca của Anh, và sputnik V của Nga. Vào giữa tháng 6-2021, Nhật Bản gửi tặng thêm 1 triệu liều vaccine AstraZeneca, bên cạnh 1 triệu liều, mà nước này đã gửi đến, như vỗ mặt Trung Quốc, khiến tình hình lại căng thẳng hơn. Trên tờ Bloomberg ghi nhận rằng người dùng mạng xã hội Trung Quốc đã bày tỏ sự tức giận về việc Việt Nam không làm đúng thỏa thuận, dùng sai mục đích trong hành động và cả về mặt truyền thông trong vụ 500.000 liều sinopharm ưu tiên cho người Trung Quốc. “Việt Nam đã không thực hiện cam kết ưu tiên với Trung Quốc” là chủ đề – và cả hashtag – được tìm kiếm nhiều nhất ở twitter và weibo, vào giữa tháng 6, với hơn 230 triệu lượt xem và bình luận. Tuấn Khanh Tham khảo: - https://www.bloomberg.com/news/articles/2021-06-25/vietnam-to-vaccinate-chinese-nationals-soon-after-complaints  
......

Ẩn đằng sau thứ “văn hóa chen lấn” đầy ô nhục kia là gì?

Đỗ Ngà Khi ra khỏi biên giới Việt Nam, cứ hễ thấy có người chen ngang hàng người đang xếp hàng trật tự thì y rằng, đó là người Việt Nam. Nếu là người có lòng tự trọng, ắt phải thấy điều đó nhục nhã vô cùng. Nói về vấn đề này người ta dùng một từ đơn giản “ý thức kém”. Thực chất, “ý thức kém” ấy chỉ là vẻ bề ngoài, ẩn bên trong đó là nhân cách con người bị thối rữa và trí tuệ bị chọc cho mù lòa. Hội tụ 2 yếu tố này lên một dân tộc trăm triệu dân là cả một kế hoạch lâu dài vô cùng thâm hiểm. Không thể xếp hàng, không đủ kiên trì để chờ đèn đỏ, hay văn hóa giành ăn nơi công cộng vv... nó đều cùng chung một bản chất. Bản chất của thứ văn hóa này được cấu thành thừ 2 phần: phần thứ nhất là cái tâm xấu; và phần thứ hai là trí tuệ lùn. Cái tâm xấu nó sinh ra tính ích kỷ, tính háo thắng, tính đố kỵ, và tính tham lam vv... Trí tuệ lùn là nó thể hiện ở tầm nhìn ngắn, thấy cái lợi trước mắt mà không thấy cái lợi lâu dài, thấy cái lợi cá nhân mà không thấy cái lợi cho cộng đồng. Nền giáo dục CS nó tạo ra đủ hai đặc tính tai hại đó cho đa số người dân Việt. Vụ người dân chen lấn tranh nhau để được chính ngừa thì trong đầu họ đã nghĩ gì? Điều họ nghĩ trước tiên là họ được sở hữu thứ người khác không được (tức tâm nặng tính hơn thua), tuy nhiên điều họ nghĩ tới đó là chính việc chen lấn ấy làm cho họ gặp nguy hiểm hơn cả việc họ không được chích ngừa (tức trí tuệ thì quá u mê). Tạo tâm xấu và triệt đi trí tuệ trên cho một con người thì đó là hại người, còn nếu làm điều đó với cả xã hội thì đó là chính sách ngu dân, hại cả dân tộc. Một nền giáo dục độc hại là hại cả dân tộc. Khi thông báo chích ngừa, một rừng người chen lấn tranh chích. Nếu nhìn từ trên cao nó chẳng khác nào đàn gà thả vườn, khi chủ nhà quẳng cho vài hạt thóc là chúng cắm đầu vào giành nhau. Tập tính đó của đàn gà thả vườn sẽ giúp cho chủ vườn dễ dàng trong vấn đề “bắt gà mần thịt” nếu họ muốn. Tương tự vậy, với một dân tộc mà chấu đầu tranh giành lợi ích trước mắt như đàn gà kia, thì ắt hẳn đám lãnh đạo CS rất hài lòng. Đàn gà thả vườn mà nếu xổng chuồng, nó chạy sang vườn khác thì nó vẫn giữ nguyên tập tính như vậy. Quẳng vài hạt thóc thì nó sẽ có đấu nhau chí tử tranh ăn mà quên rằng kẻ thù trên cao đang xem con nào ngon để bắt mần thịt. Dù đi đến đâu, nếu hình thành được cộng đồng người Việt (dù chỉ vài chục người) thì đặc tính tranh ăn vì vài hạt thóc vẫn xuất hiện. Và đó là yếu tố dẫn đến mọi phong trào đều có kết cục “tự hoại” mà không cần CS ra tay. Đó là nỗi đau, nhưng không thể không nói. Thật đáng buồn! -Đỗ Ngà-  
......

Bắc Kinh đã giết tờ Apple Daily Hong Kong như thế nào?

Lý Thái Hùng Nhật Báo Apple Daily tại Hong Kong đã in 1 triệu ấn bản cuối cùng gấp 10 lần so với lượng in bình thường vào tối ngày 23 để phát hành vào sáng sớm Thứ Năm, 24 tháng Sáu, 2021. Suốt đêm 23, hàng trăm độc giả từng ủng hộ tờ Nhật Báo đã xếp hàng dài trước văn phòng không chỉ chờ mua ấn bản sau cùng, mà còn bày tỏ sự phẫn nộ đối với nhà cầm quyền Bắc Kinh đã “bức tử” tờ báo được người dân Hong Kong yêu thích nhất trong hơn hai thập niên vừa qua. Nhật Báo Apple Daily do Tỷ phủ Hong Kong Jimmy Lai sáng lập và chính thức phát hành số đầu tiên vào ngày 20 tháng Sáu, 1995 – hai năm trước khi Hong Kong được Anh Quốc trao trả lại cho chính quyền Trung Cộng vào ngày 1 tháng Bảy, 1997. Vì thế, trong bài Xã Luận số ra mắt, Jimmy Lai đã viết “chúng tôi sợ hãi, nhưng chúng tôi không muốn bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi hoặc bị mờ mắt bởi sự bi quan” và trên trang nhất của số ra mắt, tờ báo đã đi hàng tít lớn: “Hong Kong tin tưởng vào tương lai của mình,” trở thành diễn đàn cổ võ cho nền dân chủ Hong Kong trong suốt 26 năm (1995-2021) qua. Niềm tin đó hiện đang bị thách đố khi Hong Kong bị Bắc Kinh phong tỏa bằng Luật An Ninh Quốc Gia, phiên bản Hong Kong, kể từ ngày 30 tháng Sáu, 2020, cách nay đúng 1 năm. Luật này nhằm trả thù những nhà hoạt động dân chủ Hong Kong và nhất là để ngăn chặn những cuộc biểu tình chống chính quyền, Bắc Kinh đã triệt để áp dụng bốn tội danh Ly khai, Lật đổ, Khủng bố, Thông đồng với các thế lực bên ngoài nhằm đe dọa an ninh quốc gia trong Luật An Ninh Quốc Gia để triệt hạ các nhóm đối lập. Bắc Kinh bắt giữ hàng loạt các nhà hoạt động như Agnes Chow, Ivan Lam, Joshua Wong cùng với 23 người khác trong phong trào Demosisto, quy kết họ về tội tổ chức biểu tình năm 2019 với những cáo buộc bạo động và thông đồng với các thế lực bên ngoài. Song song, Bắc Kinh nhắm đến các cơ quan truyền thông, các đảng phái chính trị đối lập. Tỷ phú Jimmy Lai, sáng lập viên của tờ Apple Daily đã bị bắt hai lần. Lần thứ nhất vào trung tuần tháng Tám, 2020 vì tội thông đồng với các thế lực bên ngoài theo Luật An Ninh Quốc Gia; nhưng ngay sau đó được tại ngoại. Nhưng đến đầu tháng Mười Hai, 2020, Jimmy Lai bị bắt trở lại, lần này với tội danh “gian lận,” vì bị cáo buộc là sử dụng bất hợp pháp trụ sở công ty Next Digital, công ty mẹ của tờ Apple Daily và lần này tòa án đã từ chối việc bảo lãnh tại ngoại. Đầu tháng Tư, 2021 tòa án Hong Kong đã đưa ông Jimmy Lai ra xét xử với hai vụ án nói trên, tổng cộng là 20 tháng tù giam và ra lệnh đóng băng tài sản của ông, cũng như đe dọa các tổ chức tài chánh rằng ai giao dịch với nhà hoạt động này sẽ đối diện với án tù từ 7 năm trở lên. Việc bắt giữ và đóng băng tài sản của ông Jimmy Lai vào tháng Tư, 2021 đã khởi đầu một chuỗi những áp lực của nhà cầm quyền Bắc Kinh lên số phận của hơn 2.000 nhân viên đang làm việc trong hai công ty Next Digital và Apple Daily. Ngày 17 tháng Sáu, 2021 hơn 200 cảnh sát Hong Kong đã đột nhập vào tòa soạn Apple Daily và văn phòng công ty mẹ Next Digital bắt giữ Ryan Law (Tổng biên tập Apple Daily), Cheng Kim Hung (Tổng giám đốc điều hành) và 3 cán bộ khác của công ty. Cả 5 người này đã bị cáo buộc tội “thông đồng với lực lượng nước ngoài” qua 30 bài viết có nội dung kêu gọi các chính phủ và tổ chức nước ngoài áp đặt các biện pháp trừng phạt Hong Kong. Ngay sau khi 5 nhân vật cao cấp của công ty bị bắt giữ thì cổ phiếu của công ty Next Digital trên sàn giao dịch chứng khoán của Hong Kong bị đóng vĩnh viễn. Ngày 21 tháng Sáu, Hong Kong ra lệnh phong tỏa tài khoản ngân hàng của ba công ty Apple Daily, Apple Daily Printing và AD Internet, tổng cộng là 18 triệu đồng Hong Kong (tương đương 2,32 triệu USD). Ban quản trị Next Digital đã yêu cầu Cục An Ninh Hong Kong tháo gỡ lệnh phong tỏa toàn phần hoặc một phần để công ty có tiền trả lương nhân viên, nhưng giới chức Hong Kong đã im lặng không phản hồi. Cuối cùng, Ban quản trị Next Digital đã quyết định ngưng phát hành tờ Apple Daily và thu  gọn nội dung hoạt động công ty mẹ là Next Digital để chờ ngày ra tù của Tỷ phú Jimmy Lai vào mùa Hè, 2023. Ngay sau khi tin tờ Apple Daily ra số cuối cùng vào ngày 24 tháng Sáu, trên mạng xã hội đã xuất hiện một bức tranh biếm họa và được chia xẻ rộng rãi với cảm xúc: “Họ nghĩ đã giết một quả táo (apple) nhưng họ không biết rằng hạt của nó đã ăn sâu vào trái tim của chúng tôi và một ngày nào đó cây táo sẽ được trồng lại.” Trong khi đó, cả thế giới đều lên án nhà cầm quyền Hong Kong và Bắc Kinh về những thủ đoạn triệt hạ tờ Apple Daily. EU đã lên tiếng: “Việc đóng cửa Apple Daily cho thấy rõ Luật An Ninh Quốc Gia do Bắc Kinh áp đặt đang được sử dụng như thế nào để kìm hãm quyền tự do báo chí và quyền tự do bày tỏ ý kiến tại Hong Kong.” Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden cũng đã lên tiếng: “Sự áp bức gia tăng của Bắc Kinh đến mức Apple Daily, một pháo đài rất cần thiết của nền báo chí độc lập tại Hong Kong phải đóng cửa – Đây là ngày đáng buồn cho tự do báo chí ở Hong Kong và trên toàn thế giới.” Sự kiện Apple Daily chấm dứt phát hành ngay trước khi Bắc Kinh tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm (1921-2021) ngày thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc và kỷ niệm 1 năm ngày ban hành Luật An Ninh Quốc Gia vào đầu tháng Bảy tới, cho thấy là Tập Cận Bình muốn răn đe dư luận Hong Kong rằng cái gọi là “Một quốc gia – Hai thể chế” không còn nữa. Tuy nhiên, trong bài xã luận số ra đầu tiên cách nay 26 năm, Tỷ phú Jimmy Lai, nhà kinh doanh thành công với chuỗi quần áo Giordano, đã mạnh dạn xây dựng tờ Apple Daily với cam kết “bất chấp nỗi sợ hãi,” thì những hạt mầm của trái táo đã gieo trồng trong thời gian qua, chắc chắn sẽ đơm bông kết trái để làm sống lại Hong Kong bằng những cuộc biểu tình hàng triệu người vì tương lai của nền dân chủ Hong Kong và Châu Á. Lý Thái Hùng  
......

Câu chuyện cách ly mùa dịch tại Việt Nam

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân Số ca lây nhiễm Covid-19 vào ngày 26 tháng Sáu, 2021, tức đúng hai tháng sau khi đợt dịch thứ tư bộc phát từ ngày 27 tháng Tư, cả nước lần đầu tiên đạt kỷ lục 845 ca trong đó riêng tại TP.HCM lên đến 724 ca. Những biện pháp cách ly hay giãn cách dường như không còn mấy hiệu quả vì mầm dịch đã lan đầy trong xã hội. Tuy cách ly trong thời gian dịch bệnh Covid-19 hoành hành là biện pháp gần như bắt buộc mà quốc gia nào cũng phải áp dụng để chống lại sự lây lan trong cộng đồng, nhất là trong thời gian đầu. Tuy nhiên tại Việt Nam gần đây, biện pháp cách ly lại gây ra nhiều phiền toái không đáng có cho người bệnh lẫn người cần theo dõi. Câu chuyện cách ly của anh Thành Nguyễn về Cần Thơ từ Manila (Phi Luật Tân) ngày 28 tháng Tư được kể lại trên Đài Á Châu Tự Do, đã phơi bày cho người ta thấy tất cả sự thật không có gì tốt đẹp như lời khoa trương của nhà cầm quyền Việt Nam. Theo lời kể lại của anh Thành Nguyễn, người trong cuộc cũng là nạn nhân, cho dù anh không bị dính Covid-19 nhưng theo đúng luật anh phải đi cách ly 21 ngày thay vì 14 ngày như trước đây. Điều này được mọi người trên chuyến bay chấp nhận; nhưng thật khó hiểu khi thời gian cách ly bị đẩy dần lên đến 49 ngày. Trong một xã hội bình thường, kiểu cách ly tùy tiện áp đặt này sẽ đưa kinh tế đến chỗ sụp đổ. Khi đọc hết qua những điều chia xẻ của anh Thành, người ta thấy việc nhà nước Việt Nam chống dịch theo mục tiêu kép “diệt dịch bệnh đồng thời phát triển kinh tế” hoàn toàn chỉ là hô hào khẩu hiệu. Tới thời của Thủ Tướng Phạm Minh Chính lại cho thấy nỗ lực chống dịch của CSVN đúng là như chống giặc. Tưởng cũng nên nhắc lại trong buổi họp chính phủ tháng Tư vừa qua, ông Phạm Minh Chính tuyên bố như một tư lệnh chiến trường: “Chuyển trạng thái phòng chống dịch từ phòng ngự sang chủ động tấn công, song phải hài hòa giữa phòng ngự và tấn công.” Trong những ngày nóng bỏng của tháng Sáu, ông Phạm Minh Chính chưa cho thấy ông chủ động tấn công ra sao, bằng vũ khí gì mà người ta chỉ thấy lệnh phong tỏa tung ra hàng loạt khắp nơi. Có thể thấy gì qua lời kể lại của anh Thành? 1/ Biện pháp cách ly rất máy móc thay vì phải uyển chuyển trong mục đích phục vụ người dân và bảo vệ cộng đồng. Anh Thành và những người đi cùng chuyến bay từ Manila về cứ nghĩ là mình sẽ cách ly 21 ngày theo quy định mới nhất là coi như xong. Nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Mà họ phải trải qua ít nhất vài lần di chuyển từ nơi này đến nơi khác với tổng cộng 49 ngày trong trại cách ly của quân đội trong tỉnh Sóc Trăng. 2/ Dùng ngáo ộp công an để bịt miệng người dân. Với số ngày cách ly gần gấp 3 lần theo quy định, tâm lý con người bị ảnh hưởng nặng nề vì thấy mình bị đối xử không như một công dân bình thường. Khi có người gọi điện thoại cho Sở Y Tế Sóc Trăng và cả Bộ Y Tế để phàn nàn thì không được giải quyết hợp lý; gọi nhiều lần còn bị cán bộ đe dọa sẽ cho công an vào cuộc để điều tra. 3/ Không có tình người và không quan tâm gì đến đời sống gia đình người bị cách ly. Thời gian cách ly càng dài gia đình họ càng điêu đứng, vì vừa phải lo nuôi thân nhân trong trại vừa lo cho mình. Bản thân người trở về cũng bị mất việc hoặc khó kiếm việc làm để phụ giúp gia đình. 4/ Làm tiền người dân. Trại cách ly của Bộ Chỉ Huy Quân Sự Sóc Trăng tính tiền ăn mỗi ngày 80.000 đồng, phí sinh hoạt 40.000 đồng/ngày cộng với 700.000 đồng một lần xét nghiệm (7 lần). Tính ra anh Thành đã mất gần 10 triệu đồng cho thời gian cách ly. Đây là một lối moi móc tiền hợp pháp mà chỉ có cán bộ cộng sản mới làm được, ngay trong thời gian người dân chống chỏi một cách khó khăn với dịch bệnh khi chưa biết đến bao giờ mới được chích ngừa. Trái với những lời khoe khoang của nhà cầm quyền cộng sản được khuếch đại từ Ban Tuyên Giáo, kiểu chống dịch này chỉ có hiệu quả khi mức độ lây lan còn ít và chưa lan tỏa trong cộng đồng. Vì thế trong các đợt lây nhiễm lần 1,2 và 3 trước đây, áp dụng kiểu cách ly này đã mang lại thành công. Nay với đợt thứ 4, mầm bệnh lan rộng trong xã hội, cách ly kiểu này không còn hạn chế được dịch mà còn tạo cơ hội cho cán bộ kéo dài thời gian để chấm mút. Mặt khác, tình trạng này cũng làm cho cán bộ lãnh đạo lúng túng vì đã quen với hào quang thành công và thói quan liêu chống dịch trong những đợt trước. Điều này cũng cho thấy khả năng quản lý hành chính, quản lý y tế phòng ngừa của chính phủ là con số 0. Khả năng ấy ngày càng tệ hại và phát triển theo biến chứng của con virus! Với tình hình hiện nay, để nhanh chóng diệt dịch và miễn dịch cộng đồng, Việt Nam cần phải thay đổi cách chống dịch và cách ly xã hội. Một là chấm dứt những tuyên truyền mị dân như kiểu nói “về cơ bản, tỉnh A đã kiểm soát được dịch” hay “khoảng 10 ngày nữa thành phố B sẽ đẩy lùi dịch.” Những kiểu nói này chỉ phô diễn thành tích chống dịch “bằng cửa miệng” trong khi thực chất người dân muốn biết rõ là chính quyền đã lo vaccine tới đâu, hay cứu giúp những bà con nghèo như thế nào là điều quan trọng. Hai là nên thay đổi cách cô lập những khu vực khi có một người bị tình nghi lây nhiễm vì chỉ làm cho đời sống của người dân trong khu vực gặp quá nhiều điều khó khăn. Việc kêu gọi người dân “giãn cách” để tránh lây lan nhưng nên đẩy mạnh việc thử nghiệm Covid-19 một cách đại trà như các quốc gia Phương Tây đã làm, để ngăn chặn trước những mầm bệnh trong xã hội. Ba là chính quyền trung ương nên công bố gói cứu trợ đợt II đối với những người dân nghèo hay lao động bị mất việc như đã từng bỏ ra 65.000 tỷ đồng cứu trợ trong đợt I vào tháng Sáu, 2020. Đợt dịch của năm 2020 chỉ lây lan khoảng hơn 30 tỉnh thành, nay đã lên đến gần 50 tỉnh thành mà viễn cảnh kiểm soát được dịch vẫn còn quá khó khăn. Nói tóm lại, lãnh đạo Hà Nội hãy chấm dứt những tuyên bố mang tính tuyên truyền mị dân. Hãy nói thật về sự kiêu ngạo “đã kiểm soát được dịch” dẫn đến sự chậm trễ trong việc đàm phán mua vaccine so với các nước khiến cho Việt Nam không thể nào đạt miễn dịch cộng đồng vào cuối năm 2021. Có nói thật và sám hối những sai lầm như vậy, người dân mới có thể hợp tác để cùng nhau vừa chống dịch, vừa tự khắc phục những khó khăn chung của xã hội. Chính phủ của ông Phạm Minh Chính thiếu một lời xin lỗi đối với người dân về thảm trạng Covid-1 19 hiện nay. Phạm Nhật Bình — Tham khảo: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/53-day-quarantine-journey-of-a-returnee-during-covid-19-06222021184706.html XEM THÊM: Việt Nam có nên tiếp tục “chống dịch như chống giặc”? Việt Nam đã mất khả năng kiểm soát lây lan Covid-19 trong cộng đồng? Làm sao cứu đói bà con nghèo trong thời gian cách ly?  
......

Trường đại học không phải là một nồi lẩu thập cẩm

Nguyen Ngoc Chu Tin ông Lê Quân, Phó bí thư tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, cựu Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, vừa được bổ nhiệm là Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội – là một tin không vui cho nền đại học Việt Nam. Được biết ông Lê Quân có học vị tiến sĩ khoa học quản trị, trước đây đã từng kinh qua các vị trí liên quan đến giáo dục đại học như Trưởng Bộ môn Quản trị nguồn nhân lực (Trường Đại học Thương mại), Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Giáo dục quốc tế (Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội), Trưởng Ban Tổ chức cán bộ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Nhưng từ khi giữ chức Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, rồi Phó bí thư tỉnh uỷ và Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, thì thực chất ông Quân đã rời xa “cánh đồng” giáo dục đại học. Đại học Quốc gia Hà Nội giữ một vị thế rất quan trọng, vì bao gồm 8 đại học thành viên, trong đó có Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây – là một đại học danh tiếng của miền Bắc Việt Nam. Nếu Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội là một nhà khoa học đêm ngày lo nghiên cứu khoa học, thì sẽ dẫn dắt cả Đại học Quốc gia Hà Nội đêm ngày lo nghiên cứu khoa học. Nếu Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội là một nhà buôn, thì sẽ dẫn dắt cả Đại học Quốc gia Hà Nội đêm ngày đi buôn. Nếu Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội là một người đêm ngày đam mê chức tước thì sẽ dẫn dắt cả Đại học Quốc gia Hà Nội đêm ngày lo chức tước. Các đại học danh tiếng, Hiệu trưởng là những nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng. Đại học Quốc gia Hà Nội đã gần 10 năm không có Giám đốc là một nhà khoa học tự nhiên, càng không phải là các nhà khoa học dẫn đường. Nhìn vào các Giám đốc và Hiệu trưởng của các trường đại học Việt nam đều là “chính khách” và “á chính khách” – thì biết rằng Việt Nam sẽ không có giải thưởng Nobel, không sản xuất được vũ khí hiện đại, không có được những phát minh nguồn xuất sắc. Thôi thì, có thể biến bộ trưởng thành bí thư tỉnh, biến bí thư tỉnh thành bộ trưởng, nhưng xin hãy tha cho ngành đại học. Đã theo nghiệp chính trị, thì không còn khả năng dẫn dắt nghiên cứu khoa học. Trường đại học không phải là một nồi lẩu thập cẩm mà ai cũng có thể tham gia, càng không thể tuỳ tiện ngồi vào vị trí Hiệu trưởng. Biến trường đại học thành chiếu nghỉ chân của chính khách là giết chết nền khoa học và giáo dục Việt Nam./.
......

Vắc-xin made in Vietnam, giữa các nghi vấn không lời đáp

Tuấn Khanh   Tin từ báo chí nhà nước Việt Nam loan đi, nói rằng vào ngày 15-6-2021, công ty Thông tin Công ty Nanogen có công văn “Xin cấp phép khẩn cấp cho vắc-xin Nanocovax”. Nghe có vẻ như công ty đăng ký sản xuất vaccine có thương hiệu made in Vietnam đã sẳn sàng để ra mắt. Tin này đang gây chú ý khắp nơi vì có lẽ trong nguy nan, dường như nguồn cứu viện đã xuất hiện kịp thời. Thế nhưng nhiều chi tiết lộ ra, khiến dân chúng hoang mang. Trong công văn gửi đích danh cho thủ tướng Phạm Minh Chính, ông Hồ Nhân, Tổng giám đốc Công ty CP công nghệ sinh học dược Nanogen nói rằng “Dựa trên các kết quả thử nghiệm lâm sàng, khả năng sinh miễn dịch của vắc – xin Nanocovax đạt 99,4%. So sánh với các loại vắc-xin khác trên thế giới là không hề thua kém và có phần cao hơn. Dù vậy, giá bán dự kiến hiện đang thấp nhất thế giới, chỉ với 120.000 đồng/liều”. Bên cạnh việc vui mừng của một số người, vẫn có nhiều ý kiến – đặc biệt là giới chuyên gia y tế, sinh học, miễn dịch… thắc mắc vì sao công ty Nanogen công bố rõ – theo nguyên tắc bằng y văn – thành quả thử nghiệm của mình để dân chúng yên tâm hơn. Trước đó, một số báo nhà nước đã nhanh tay ca ngợi theo lời của công ty Nanogen, và khẳng định rằng vắc xin này sẽ là thứ tốt nhất, đáng tin tưởng với người Việt Nam. Thậm chí giới dư luận viên cũng rộ lên lời ca ngợi sớm thành quả này như một Việt Nam xuất chúng đáng tự hào. Có nhiều ý kiến bình luận trên mạng xã hội rằng, công ty Nanogen gửi công văn lên chính phủ, vì quá nóng lòng khi thấy tập đoàn Vingroup cũng nhảy vào thương vụ lớn này, khi gấp rút thành lập công ty Vinbiocare vào đầu tháng 6-2021, để tiến vào lãnh vực sản xuất vắc xin. Có thể sợ bị mất thị phần, nên Nanogen đã liều lĩnh đòi đi trước, khi khả năng chưa đủ. Một ngày sau khi nhận thư đòi cho sản xuất vắc xin made in Vietnam, phản hồi từ Bộ y tế như gáo nước lạnh, dập tắt ước mơ này của công ty Nanogen. Trả lời báo chí, tiến sĩ Nguyễn Ngô Quang – Phó cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và đào tạo (Bộ Y tế) bác bỏ và khẳng định phía Bộ Y tế không thể nóng vội, vì không nhận được từ công ty Nanogen bất kỳ dữ liệu chi tiết và cụ thể nào về tính an toàn, tính sinh miễn dịch và đặc biệt là hiệu lực bảo vệ của vắc xin nói trên. Ông Quang còn nói rằng nếu cho phép, sau này Bộ Y tế không biết phải giải trình như thế nào với xã hội. Tức mọi thứ, cho tới nay chỉ như chỉ là nghe thấy từ phát ngôn của công ty Nanogen, không ai biết gì, ít nhất qua bản công bố báo cáo khoa học. Thậm chí bản ghi âm phỏng vấn nhanh của báo Người Lao Động với ông Hồ Nhân, Tổng giám đốc Công ty Nanogen khiến nhiều người càng nghi ngờ, khi thấy cách trình bày của ông Nhân rất lờ mờ. Dư luận trong nước cũng bùng lên trên các trang mạng, sau lời từ chối nhanh và công khai bất ngờ này của Bộ Y tế. Nhiều người nói rằng Bộ Y tế thận trọng là đúng, nhưng cũng có người bình luận hóm hỉnh rằng“muốn bứt phá với anh Vượng à (chủ tập đoàn Vingroup), không dễ đâu”. Tuy nhiên, đáng nói, vào ngày 24-6-2021, trên mạng facebook bỗng xuất hiện tuyên bố của bà Hồ Thị Hồng Nhung, có chức danh tiến sĩ ngành Vi sinh Miễn dịch, Đại Học Huế, khẳng định vắc xin Made in Vietnam của công ty Nanogen chỉ là một cú lừa. Nguyên văn, bà Nhung viết như sau: “Cty Nanogen chưa bao giờ sản xuất vaccine. Việc sản xuất vaccine yêu cầu cơ sở đạt tiêu chuẩn GMP sản xuất thuốc tiêm. Đội ngũ sản xuất vaccine là đội ngũ được đào tạo chuyên nghiệp, kinh nghiệm về sản xuất, kiểm định, đảm bảo chất lượng, bảo quản, động vật thí nghiệm… vô cùng tốn kém. Nhân sự là điều kiện khó nhất và ở Việt Nam nhân viên đẳng cấp này vô cùng hiếm. Tôi không tin vào thông tin Nanogen đã nghiên cứu và sản xuất thành công vaccine ngừa Covid 19 cũng như không tin vào bất kỳ thông tin nào Việt Nam đã nghiên cứu và sản xuất vaccine ngừa Covid 19 thành công “. Không chỉ vậy, trong cách nói của mình, tiến sĩ Hồ Thị Hồng Nhung như khẳng định rằng cái gọi là công ty Nanogen này luôn nói dối, lừa đảo. Bà dẫn chứng rằng khi dịch H5N1 vừa xảy ra trên thế giới, công ty này từng tuyên bố đã giải mã được virus. Nói về vụ sản xuất vắc xin, bà nhắc rằng từ lúc tuyên bố sản xuất vắc xin cho đến giờ, công ty Nanogen chưa bao giờ giới thiệu đội ngũ khoa học của họ là gồm những ai, và ai là đang đứng đầu công trình nghiên cứu này. Đó là chưa nói việc công ty Nanogen bị coi là tự thông tin lập lờ là vắc xin của họ được WHO (Tổ chức Y tế Thế giới) chấp nhận. Mọi thứ như đang mở ra nhiều suy nghĩ, cùng với các câu hỏi đơn giản, và có vẻ như chính các quan chức cũng bị một phen bất ngờ khi lâu nay, biểu lộ vui mừng đến khắp nơi. Thậm chí, người ta cũng từng chuyền tay nhau xuýt xoa hình ảnh phó thủ tướng Vũ Đức Đam trật vai áo cho chích thử nghiệm hàng“made in Vietnam”. Câu hỏi được đặt ra, thật sự nếu mọi thứ là dối trá, thì sao họ liều lĩnh bất ngờ vậy? Chỉ có một đáp án duy nhất có thể: Đó là một thương vụ, đem lại lợi nhuận khổng lồ và một lời nói dối tỏa sáng, nhanh tay đặt trên sinh mạng dân tộc Việt Nam. Theo lời tự quảng cáo của công ty Nanogen, thì công ty này có tên đủ là Công ty CP công nghệ sinh học dược NANOGEN, hoạt động từ năm 1998; chuyên nghiên cứu, phát triển và ứng dụng thành công các tiến bộ của ngành công nghệ sinh học đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam trong việc sản xuất nguyên liệu dược và thành phẩm thuốc tiêm đặc trị từ công nghệ DNA/protein tái tổ hợp hàng đầu trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Nhà máy sản xuất của doanh nghiệp này nằm trong Khu công nghệ cao TPHCM. Tuấn Khanh    
......

NanoCovax – Những câu hỏi chưa tìm ra lời đáp!

Vu Hong Nguyen Trong thời gian qua mình nhận được khá nhiều câu hỏi của các bạn xoay quanh một sản phẩm vaccine Việt Nam tên là NanoCovax của công ty cổ phần công nghệ sinh học dược Nanogen. Các câu hỏi thường xoay quanh vấn đề là vaccine NanoCovax có tốt không? Có an toàn không? Và so với các vaccine khác trên thế giới hiện nay thì thế nào? v.v… Thực sự những câu hỏi này đối với mình khó như “lên trời” vì cho đến giờ này mình chưa nhìn thấy bất cứ số liệu khoa học nào công bố từ nhóm nghiên cứu này! Vài tuần trước mình thấy báo chí đưa tin là vaccine đã thành công vang dội ở thử nghiệm lâm sàng pha 2 và chuẩn bị sang pha 3. Nhưng cũng vậy, tất cả những thông tin về vaccine này đều vẫn đến từ các trang báo “phổ thông,” và vẫn không có một thông tin khoa học chi tiết nào để một người làm trong ngành nghiên cứu vaccine hoặc một tổ chức y tế nào đó có thể đánh giá một cách khách quan. Đến hôm nay, mình khá bất ngờ khi đọc tin thấy rằng công ty Nanogen trình “Kiến nghị cấp phép khẩn cho vắc xin Việt Nano Covax” chỉ sau hơn 10 ngày bắt đầu thử nghiệm giai đoạn 3 thử nghiệm lâm sàng! Có bạn cho rằng do nhóm nghiên cứu sợ bị “đánh cắp công nghệ” nên họ đã không để bất cứ thông tin nào của vaccine “lộ” ra ngoài. Đối với mình lời giải thích này là không hợp lý vì trong thời đại khoa học hiện đại ngày nay nếu bạn phát minh ra một cái gì đó mới mẻ thì bạn có thể đăng ký bản quyền (patent) để được luật pháp bảo vệ tài sản trí tuệ của bạn hoặc của công ty bạn mà người khác hoặc công ty khác không thể “copy” được. Tất cả các vaccine thông dụng hiện nay trên thế giới, trước khi được chấp thuận sử dụng ra cộng đồng, đều có những công bố khoa học với những kết quả nghiên cứu rất chi tiết về các thử nghiệm tiền lâm sàng (trong phòng thí nghiệm hoặc trên động vật) và các giai đoạn thử nghiệm lâm sàng 1,2,3 trên người. Các nhà khoa học trên thế giới đều có điều kiện tiếp cận với các thông tin nghiên cứu này, họ có quyền khen, chê, góp ý cho cách thiết kế thí nghiệm, cách thu nhận số liệu, cách phân tích đánh giá, cách đưa ra kết luận dựa trên số liệu hiện có, v.v… hoặc thậm chí nếu họ nghi ngờ về cách phân tích, đánh giá của nhóm tác giả thì họ có thể liên hệ trực tiếp để xin truy cập số liệu gốc để tính toán lại. Việc minh bạch số liệu như thế này là rất cần thiết trong nghiên cứu, đặc biệt là những nghiên cứu đã tới giai đoạn ứng dụng lên người vì khi những nghiên cứu vẫn còn trụ vững được qua các đánh giá, phê bình, phản biện bởi các nhà khoa học có chuyên môn thì giá trị của nó sẽ hơn hẳn và ngay chính nhóm tác giả nghiên cứu cũng sẽ học hỏi được nhiều thứ từ những sự “gay gắt” đó để tối ưu hóa sản phẩm, nâng cao tính an toàn và hiệu quả cho chính sản phẩm của họ. Các vaccine được sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới như PfizerBioNTech, Moderna, AstraZeneca, Johnson&Johnson, v.v… đều phải “lên thớt” nhiều lần trước khi có thể được một tổ chức y tế như FDA của Mỹ hoặc EMA của châu Âu chấp thuận cho phép sử dụng khẩn cấp. Do vậy, khi chỉ dựa lên thông tin công bố trên báo “phổ thông” là “Nanogen cho biết dựa trên các kết quả thử nghiệm lâm sàng, khả năng sinh miễn dịch của vắc xin Nano Covax đạt 99,4%. Nếu so sánh với các loại vắc xin khác trên thế giới là không hề thua kém và có phần cao hơn.” mà có thể “đặt niềm tin” ở NanoCovax thì thật là “ngây thơ”… Để đánh giá được vaccine này có thể “sử dụng được an toàn và hiệu quả” hay không dưới mắt các nhà khoa học còn cần biết nhiều thứ khác nữa như: khả năng sinh miễn dịch này có đặc hiệu không? Kháng thể được tạo ra bởi phản ứng miễn dịch này có “nhận ra” được virus (và các biến thể mới của nó) hay không? Kháng thể có thể bám và “trung hòa” được virus để ngăn chúng nhiễm vào tế bào hay không? Kháng thể có thể duy trì trong người được chích vaccine là bao lâu? Người chích vaccine có những triệu chứng phụ nào, tỉ lệ ra sao? So sánh với nhóm đối chứng thì hiệu quả vaccine là bao nhiêu phần trăm? v.v… Những số liệu này cho đến nay của Nanocovax hoàn toàn không được tìm thấy ở bất cứ công bố khoa học nào cho các thử nghiệm tiền lâm sàng và thử nghiệm lâm sàng pha 1,2. Ngoài ra, chỉ sau hơn 10 ngày bắt đầu pha 3 thử nghiệm lâm sàng thì lời đáp cho các câu hỏi trên cho kết quả pha 3 là hoàn toàn không thể biết được! Do vậy, theo mình nhận xét thì việc “Kiến nghị cấp phép khẩn cho vắc xin Việt Nano Covax” trong lúc này là một việc làm rất “hời hợt” của công ty Nanogen khi chưa chứng minh được một cách rõ ràng tính “an toàn” và “hiệu quả” của vaccine. Mình hoàn toàn đồng ý với ông Nguyễn Ngô Quang, phó cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và đào tạo, cho rằng “để quyết định có cấp phép khẩn cấp hay không, Bộ Y tế cần có các dữ liệu khoa học.” Bạn có thấy lạ khi người ta tìm ra tình trạng đông máu hiếm gặp của vaccine AstraZeneca hồi tháng 4 vừa qua và hiện nay người ta đang đặt nghi vấn lên những ca viêm tim (myocarditis) gặp phải của người trẻ khi chích vaccine dạng mRNA (của PfizerBioNTech hoặc Moderna)? Nhưng hầu như chúng ta không nghe gì về các triệu chứng phụ của các vaccine Trung Quốc hoặc Nga dù rằng chúng đã được sử dụng rất nhiều. Sự “minh bạch thông tin” đã tạo những khác biệt này đó các bạn. Không có một thứ nào trên thế gian này là hoàn hảo, nhất là được tạo ra bởi bàn tay con người, nhưng nếu bạn không dám đem nó ra ánh sáng để bạn (hoặc người khác chỉ cho bạn) thấy được những vết rạn nứt thì bạn sẽ mãi không thấy thiếu sót của nó. Có bạn nói với mình là do đề tài nghiên cứu NanoCovax kết hợp với bên quân đội nên số liệu nghiên cứu thuộc dạng “bí mật quốc gia”! Thế thì… đừng kêu mình làm “thầy bói mù sờ voi” nhé! Đối với các nhà khoa học thì việc đánh giá này không thể dựa vào những lời hoa mỹ trên báo phổ thông đâu các bạn! Bảo trọng nhe bà con! TS Nguyễn Hồng Vũ — tham khảo: – https://nanogenpharma.com/products/nanocovax-141.html – https://clinicaltrials.gov/ct2/show/study/NCT04683484? (Thử nghiệm lâm sàng pha 1,2 của NanoCovax) – https://clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT04922788? (Thử nghiệm lâm sàng pha 3 của NanoCovax) – https://tuoitre.vn/vac-xin-trong-nuoc-an-toan-khong-co-bien-co-bat-loi-nghiem-trong-20210219212338551.htm? – https://thanhnien.vn/doi-song/vac-xin-covid-19-nanocovax-co-the-dat-hieu-qua-90-1402299.html? – https://tuoitre.vn/kien-nghi-cap-phep-khan-cho-vac-xin-viet-nano-covax-20210622142418776.htm? – https://tuoitre.vn/dai-dien-bo-y-te-kien-nghi-cap-phep-vac-xin-nano-covax-la-nong-voi-chua-day-du-du-lieu-khoa-hoc-20210622190950296.htm?
......

Vaccine Việt, một niềm ngạo nghễ mới

Cánh Cò – RFA Trong đại dịch Covid-19 niềm hy vọng ngăn chặn bước tiến của con virus duy nhất là trông cậy vào vaccine. Nước Mỹ vẫn là người đi đầu vì có quá nhiều nhà khoa học trong hệ thống y khoa, các công ty dược phẩm nổi tiếng đa số đến từ Mỹ và lần này nước Mỹ may mắn tìm và sản xuất vaccine nhanh hơn dự kiến rất nhiều nhờ vào sự tận tụy của các cơ quan chống dịch như CDC / FDA hay ACIP. Các công ty dược phẩm đã nhanh chóng được phê duyệt sau khi chứng minh những quy trình nghiêm ngặt. 5 quy trình không thể thiếu đối với việc sản xuất vaccine tại Mỹ cũng như hầu hết các nước EU đó là: 1. Nghiên Cứu. Được xây dựng dựa trên các nghiên cứu về virus Corona khác. 2. Nhóm làm việc Đánh giá an toàn khoa học từ các Tiểu bang / đánh giá độ an toàn và hiệu quả. (Oregon, Washington, California, Nevada) 3. Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 1: Vaccine có an toàn không? Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 2: Vaccine có tác dụng không? Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 3: Vaccine có an toàn VÀ có tác dụng không? Các giai đoạn nghiên cứu lâm sàng được thực hiện gối đầu lên nhau. 4. Đánh giá của FDA đã xem xét các dữ liệu và cấp Giấy Phép Sử Dụng Khẩn Cấp (EUA) để sử dụng vaccine này. – Đồng thời còn có Đánh Giá của Ủy Ban Cố Vấn về Thực Hành Tiêm Chủng (ACIP) khuyến cáo những ai nên tiêm vaccine này. 5. Pfizer và Moderna sau khi tiến hành các bước và được chấp thuận mới tiến hành việc chế tạo vaccine. Biết qua những thủ tục an toàn tuy rườm rà nhưng cần thiết này chúng ta mới có khái niệm về một liều lượng vaccine khi tiêm vào cơ thể sẽ có tác dụng nhất định như thế nào và tác dụng ấy được các nhóm nhà khoa học chuyên nghiệp tiến hành ra sao. Vaccine là loại thuốc chủng luôn có hai mặt: tích cực và tiêu cực bởi nó được lấy từ chính con virus gây bệnh mà thí nghiệm cũng như làm giảm độc lực của chúng trước khi tiến hành chế tạo vaccine nên những biến chứng nguy hiểm của nó nếu không nghiên cứu lâm sàng một cách nghiêm túc sẽ cho ra những hệ quả nguy hiểm và khó đoán định. Việt Nam vừa công bố đã thành công trước một loại vaccine mới và yêu cầu Thủ tướng nhanh chóng cấp phép để tiến hành việc tiêm chủng. Vấn đề được đặt ra: Thủ tướng biết gì về vaccine mà cấp phép? Người dân tuy kiến thức về tiêm chủng còn sơ sài vẫn mang máng biết được sự sai trái trong tờ đơn gửi Thủ tướng này. Đáng ra Công ty Nanogen phải tiến hành các bước trước những hội đồng uy tín do Bộ Y Tế chịu trách nhiệm đề cử thì công ty lại giao cho một hội đồng có tên “Hội đồng Đạo đức quốc gia trong nghiên cứu y sinh học” Liệu cái “Hội đồng đạo đức” tuy phẩm hạnh cấp quốc gia này có trang bị đủ kiến thức để đánh giá các bước nghiên cứu hay chỉ là một dạng “hồng hơn chuyên” hay “ngạo nghễ” mà Việt Nam hiện rất thích sử dụng trong các biến cố, kể cả biến cố y tế dịch bệnh. Người dân đã thấm đòn sản phẩm Made in China và không ai chịu chấp nhận vaccine Sinopharm. Dù nghi ngờ nhưng chúng ta phải thừa nhận Trung Quốc thừa nhân tài hơn Việt Nam rất nhiều nhưng cái mà họ thiếu là uy tín. Từ chính trị tới kinh tế và bây giờ là y tế, cái thiếu thốn nghiêm trọng ấy làm cho bất cứ sản phẩm nào của tàu cũng bị săm soi huống chi là Việt Nam, vốn nổi tiếng có một hệ thống y tế tiêm chủng toàn những điều tệ hại và cũng là nơi có con số Giáo sư Tiến sĩ chợ trời cao ngất ngưỡng thì hỏi sao người dân không tin tưởng vào tín nhiệm mà một công ty cố tâm dàn xếp. Ông Hồ Nhân, Tổng giám đốc Công ty CP công nghệ sinh học dược Nanogen, trong đơn “Xin cấp phép khẩn cấp cho vắc-xin Nanocovax, gửi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định: dựa trên các kết quả thử nghiệm lâm sàng, khả năng sinh miễn dịch của vaccine Nano Covax đạt 99,4%. Nếu so sánh với các loại vaccine khác trên thế giới là không hề thua kém và có phần cao hơn. Dù vậy, giá bán dự kiến hiện thấp nhất thế giới, chỉ với 120.000 đồng/liều. Nghe kết quả nghiên cứu này người có một chút kiến thức cũng phải che miệng cười về quả “tạc đạn” mà ông Hồ Nhân mang từ Mỹ về. Con số 120 ngàn đồng /liều mà ông đưa ra dụ chính phủ khiến người ta nhớ lại vụ kiện của tập đoàn đa quốc gia Roche tố cáo Nanogen vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ với thuốc điều trị viêm gan siêu vi B và siêu vi C năm 2010. Thời điểm đó, ông Nhân khẳng định mình không vi phạm quyền được bảo hộ trí tuệ sản phẩm của Roche. Trong khi đó, với cùng chức năng điều trị nhưng thuốc tiêm Pegnano của Nanogen có giá bán chỉ bằng 1/3 giá thuốc nhập. Có lẽ công ty Nanogen nóng lòng muốn mang vaccine ra thị trường sau khi có tin Chủ tịch hạ viện Nhật, ông Ashima Tadamori khẳng định Nhật Bản sẽ tiếp tục hỗ trợ để tất cả người dân được tiêm vaccine Covid-19. Nếu ra muộn thì vốn liếng kể cả tiếng tăm mà công ty nóng lòng muốn có sẽ cuốn theo chiếu gió, nhất là cái Hội đồng Đạo Đức rồi đây sẽ không biết làm gì cho hết thời gian nhàn rỗi. Dù sao thì cũng nên cho Nanogen một điểm A về nỗ lực tìm ra vaccine chống Covid-19, chỉ một lỗi nho nhỏ nhưng sơ đẳng làm cho công ty này rơi tự do: đánh giá sự hiểu biết của người dân quá thấp và vì vậy không ai chấp nhận một hành vi đặt cái cày trước con trâu. canhco’s blog  
......

Quân Bất Lương!

Phạm Minh Vũ Nguyễn Thế Dũng, phó bí thư đảng ủy Chủ tịch phường 14-Gò Vấp- Thành hồ.   Ngày hôm qua 23/06 Dũng ký một thông báo rằng: nghiêm cấm các hoạt động thiện nguyện, phát cơm, phát quà và tiền cho những người nghèo, người vô gia cư , khó khăn ngoài đường hay tại nhà.   Dũng lên cót rằng: nếu ai muốn phát tiền phát cơm thì hãy tới xin hướng dẫn từ Mặt trận tổ quốc. Và chốt lại thông báo Dũng đe dọa nếu ai vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật (phạt tiền hay ở tù).   Nguyễn Thế Dũng, một đảng viên cộng sản, một tay có bằng cao cấp lý luận chính trị, một chủ tịch phường ra một quyết định thật bất lương và vô nhân đạo.   Dũng có biết rằng, gần 1 tháng qua, ở ngay Gò Vấp có hàng vạn người sống nhờ bằng những phần quà, những hộp cơm ăn vội của Mạnh thường quân, các nhà hảo tâm cứu trợ cho người nghèo không?   Dũng có biết rằng, đã có hàng ngàn người kể cả thanh niên phụ nữ gần một tháng qua liên tục đăng trên các group facebook, zalo để xin cơm, xin sữa cho bé sơ sinh vì dịch bệnh họ gần như đã kiệt quệ, tiền trọ không có mà đóng, không có cơm mà ăn phải đi xin vậy mà Dũng lại chặn đường sống của những người đó, lương tâm ở đâu?   Dũng có bao giờ lượn một vòng quanh phố, có bặt gặp Bà cụ phải bái lạy người đã cho Bà hộp cơm, tay cụ không còn sức để mở hộp cơm mà ăn, miệng ríu rít cám ơn và xin thêm hộp nữa vì mấy ngày chưa có gì ăn chưa?   Dũng có chứng kiến cảnh những người vô gia cư, co ro vì lạnh và đói khi cơn mưa bất chợt ùa về, họ phải nép tạm vào mái hiên của cửa hàng tạp hóa, phải tựng lưng vào nhau vì chật, đã mấy hôm họ đi nhặt ve chai mà không đủ 10.000 để bán vì ve chai cũng ‘’ế’’ quá chừng, Dũng có từng thấy?   Anh là một chủ tịch phường anh ra một quyết định, mà không hề nghĩ tới những thân phận lây lất đang chới với, cuộc sống đang dần tàn quanh phường của anh sao nhẫn tâm đến thế? Anh có biệt thự để ở, có xe oto để đi, có cơm ngon để ăn chẳng lo lắng gì.   Anh nhân danh chống dịch, nhưng anh có biết để dịch bùng phát lần này nghiêm trọng như thế là do sự quản lý yếu kém của đảng các anh không? Các anh xúi dân  đi tụ tập chơi bời ngày 30/04, các anh ép dân đi bầu cử, để rồi dịch bênh lây lan, phong tỏa, và dân chết kệ dân, như thế là quá tàn ác.   Cho tới bây giờ, tôi chưa từng thấy phường các anh vung tiền ra lo cho những người nghèo, người bán vé số, nhặt ve chai dù một hộp cơm, hay một ổ bánh mì. Bao nhiêu năm qua, thu ngân sách bao nhiêu mà sao lại làm ngơ với dân một cách bất nhẫn đến thế?   Các ông không giúp được gì cho người nghèo thì thôi, sao lại hất đổ hộp cơm của họ để nuôi sống họ qua ngày?   Dù là nhân danh gì đi chăng nữa, mà không giúp cho họ được gì trong lúc này cũng đã là tội ác, lại còn cấm người dân giúp nhau thì không khác nào bắn dân rồi thêm một phát ân huệ.   Mà đưa tiền cho Mặt dày tổ quốc làm gì? Để các ông đem gửi ngân hàng lấy lãi chứ gì? Dân đang chới với giữa đại dịch, mà các ông lại đòi dây máu ăn phần thì thật đúng là QUÂN BẤT LƯƠNG.
......

Thừa trong nhà mới ra người ngoài

Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP HCM bị phong tỏa, chiều 12/6. Ảnh: Hữu Khoa Thiện Tùng Dịch mỗi lúc một lan tràn, bị phong toả không làm ăn gì được, còn nhà cầm quyền thì cứ tiếp tục vận động đóng góp tiền mua vaccine. Nhưng vaccine đâu chưa thấy, đó là cốt lõi nỗi băn khoăn chung của nhiều người mà tôi nghe được trong đợt đại dịch COVID lần thứ 4 nầy. Thiết nghĩ, không lây lan thì ai gọi đó là dịch?  Đã là dịch, không cách ly, phong toả… tránh sao khỏi lây nhiễm lan tràn? Muốn tránh lây nhiễm lan tràn, giải pháp tạm thời là khoanh vùng cách ly, giải pháp tối ưu là chích vaccine kháng virus độc hại nầy cho từng người, nếu không nó sẽ đột nhập bất cứ nơi nào, chẳng tha thứ cho ai dù đó là bác sĩ. Việt Nam ta đang cố gắng nhưng chưa sản xuất được vaccine ngừa chủng loại virus nầy, phải mua, tiền đâu mua, mua ở đâu, ai chịu bán cho mình ?… Đó là hàng lô câu hỏi mà nhà cầm quyền  phải có trách nhiệm giải đáp và giải quyết ? Lãnh đạo mà để dân chúng lâm vào cảnh khốn cùng nầy, đó là lỗi của nhà cầm quyền, nhưng vaccine kháng COVID 19 là mặt hàng “cứu nhân độ thế”, đang khang hiếm, dầu có tiền chưa chắc mua được. Bởi “thừa trong nhà mới ra người ngoài”- hầu như tất cả các nước sản xuất được vaccine vẫn chưa chích xong đủ liều lượng cho dân họ. Gần như họ đều hứa “sẽ cung cấp” nhưng không nói rõ ngày tháng nào, mang tính chất câu khách để bán thuốc khi khủng hoảng thừa? Như chúng ta đã biết, dịch virus corona bắt nguồn từ Vũ Hán (Trung Quốc), nó đã lan truyền khắp thế giới. Thế giới đang có hơn 7 tỷ người, phần lớn vaccine sản xuất được phải chích 2 liều cho một người mới kháng được virus chủng loại nầy. Vậy là thế giới đang cần 14 tỷ liều vaccine chống virus corona? Hiện nay chắc chắn các hãng chưa sản xuất đủ số lượng 14 tỷ liều nầy?  Vì vậy, theo quy luật cung cầu, khi cung không đáp ứng cầu, nó trở thành khang hiếm, giá sẽ đắt tận mây xanh?!. Việt Nam đang bù đầu tiến hành đồng thời 3 việc nên tạm thời ngưng gáy: 1/ Phong toả, cách ly: Dịch COVID đợt 4 nầy phát tán nhanh trên diện rộng, số lượng người bị nhiễm  cao hơn 3 đợt trước cộng lại. Vì vậy, việc bao vây phong toả, cách ly  đang ráo riết, với quy mô ngày một rộng lớn hơn. Trước đây, khi phát hiện dịch, cách ly diện hẹp: khu phố, xóm ấp, phường xã. Nay dịch lan tràn trên diện rộng, Trung ương không kham nổi, giao cho từng Địa phương phòng chống dịch. Từ đó, để an toàn cho địa phương mình, lãnh đạo các địa phương phong toả, cách ly trên địa phận mình phụ trách, tuỳ tiện đóng cửa biên giới, khiến cho giao thông bị ách tắt, người từ địa phương nầy qua địa phương kia bị coi là vi phạm, phải chấp nhận kiểm tra Y tế và cách ly. Chính việc làm tuỳ tiện và quá đáng nầy khiến cho mọi hoạt động kinh tế, xã hội thêm đình đốn, “mục tiêu kép” đang trong nguy cơ “nghìn cân treo sợi tóc”, cuộc sống của người dân khó khăn hơn, gây ra hoang mang và nỗi bất bình ngày càng sâu rộng hơn. 2/ Lạc quyên tiền mua vaccine: Biết rằng, việc đóng góp tiền mua vaccine là tự nguyện, nhưng người dân vẫn thắc mắc: nhà nước không “tích cóc phòng cơ” chi phí hội hè hoang phí quá lớn / Số tiền cần có để mua vaccine là bao nhiêu sao không nêu rõ / Đã nói là đóng góp tự nguyện nhưng cách làm ào ạt, táo tợn như “hiếp dâm”/ Không công khai số tiền đã vận động được – thiếu minh bạch. Những điều thiên hạ thắc mắc vừa nêu đúng sai thế nào tôi chưa có ý kiến, chỉ nói 2 chuyện nhỏ: - Không biết ai thì sao, chớ tôi mỗi lần mở điện thoại ra đều phải nhận tin nhắn đại khái: “Đề phòng dịch; đóng góp tiền mua vaccine chống COVID 19 theo chủ trương của chính phủ”. Nghe xong đoạn nầy tôi tắt máy ngay để kiểm tra thử - té ra Bưu điện đã trừ trong diện thoại tôi hết 500 đồng. Để cho xác thực, tôi gọi thử thêm 3 lần nữa cũng bị trừ y như vậy. Qua 4 lần gọi nghe thử như vậy, tôi bị trừ trong điện thoại hết 2.000 đồng –  Tôi thầm nghĩ, chẳng lẽ đây là kiểu “góp gió thành bão?”. - Không biết Sứ quán VN ở các nước thì sao, chớ hồi 19 giờ ngày 15/6/2021, con gái tôi từ Italia (Ý) gọi về, nó nói đại ý: Mới hôm qua đây, Sứ quán VN phát giấy vận động Việt kiều ủng hộ tiền để gởi về VN mua vaccine chống dịch COVID 19 trong nước, con có nên góp hay không?. Tôi nói: “Nếu rán nổi đến đâu thì góp đến đó, không nổi thì thôi, đóng góp tự nguyện mà? - Có điều phải phòng lừa đảo”. Nó than: Suốt hơn năm qua, do dịch COVID con thất nghiệp, cuộc sống lận đận lắm!. Mới làm lại non tháng nay, con định tiết kiệm để có tiền về VN thăm ba mẹ khi nào được cho phép. Đã hơn 2 năm rồi con không về được, ba mẹ thông cảm cho con!”.  3/ Mua vaccine:  Dựđịnh mua: theo những nguồn thông tin đáng tin cậy, tính đến ngày 11/6/2021, Việt Nam dự định mua 125 triệu liều vaccine tiêm chủng ngừa COVID 19 gồm các loại: - Moderna  --------------------     5   triệu liều - Sputnik V --------------------   20   triệu liều         - StraZeneca  ----------------    30   triệu liều         - PfiZer  ------------------------   31  triệu liếu         - Nguồn từ  Covax   --------    38, 9  triệu liều.   Đã nhận về: COVAX là danh xưng của tổ chức vận động quyên góp vaccine trợ giúp cho các nước chậm phát triển và đang phát triển (trong đó có VN), nó thuộc Y tế thế giới (WHO). Tính đến ngày 10/6/2021, COVAX quyên góp được  khoảng 150 triệu liều, còn thiếu xa so với yêu cầu cần thiết. Chưa nói lâu dài, theo yêu cầu trước mắt, vào cuối tháng 9/2021, COVAX cần có 1 tỷ liều mơi đáp ứng trợ giúp của các nước (theo Reuters dẫn lời các quan chức  của tổ chức nầy). Trong 150 triệu liều vaccine tổ chức COVAX đã nhận được,  đã chiết ra ( không biết cho hay bán) cho VN 2.493.600 liều (1) VN đang phân bổ hơn 2 triệu liều vaccine nầy cho 63 tỉnh thành để khẩn trương chích cho các đối tượng cần được ưu tiên. Ngoài lượng vaccine do COVAX cung cấp, VN chưa mua được bất cứ loại vaccine nào. Bởi:    Được biết, hiện nay vaccine sản xuất nhiều, chất lượng cao nằm ở các nước “Tư bản giãy chết”. Vì là nước Tư bản, không phải do nhà cầm quyền mà do tư nhân đứng ra nghiên cứu, tổ chức sản xuất. Nếu nhà cầm quyền nào bỏ vốn ra đầu tư thì được ưu tiên mua đủ số theo yêu cầu với giá thành (chỉ tính chi phí mọi mặt trong quá trình sản xuất); ngược bằng nếu nhà cầm quyền không bỏ vốn đầu tư thì vẫn được ưu tiên mua đủ số vaccine theo nhu cầu trong nước, nhưng phải mua  với giá bán buôn (có tính lãi). Nếu nhà cầm quyền sở tại mua tặng cho nước nào khác để hiếu hỉ trong ngoại giao thì phải xin ý kiến Quốc hội, khi được Quốc hội chuẩn thuận mới được xuất tiền ra mua với giá bán buôn. Có nghĩa là nhà cầm quyền sở tại được quyền giữ và mua đủ số lượng vaccine cần cho trong nước với giá thành. Ngoài ra quyền sản xuất và phân phối nơi đâu, bán cho ai với giá nào do chủ tư nhân quyết định. Đến nay 16/6/202, chưa nghe thấy nước nào đã chích vaccine đủ 2 liều cho 100% cho dân số của mình ngoài Singapore. Nhiều nguồn tin chưa được kiểm chứng, ở Singapore khi mới có vài ba người nhiễm COVID, chính phủ Singapore vội vã xuất hàng tỷ đô-la góp cỗ phần với các công ty ngoài nước sản xuất vaccine chống dịch virus Corona. Nhờ chủ động góp vốn cỗ phần sản xuất vaccine, Singapore trở thành chủ gián tiếp, sớm có vaccine và chích đủ 2 liều/người  cho  toàn dân nước họ. Vì vậy, mấy tháng qua, dân Sinhgapore trở lại hoạt động mọi mặt bình thường, không còn buộc phải giãn cách và bị khớp mõ (đeo khẩu trang) như dân Việt Nam chúng ta hiện nay. Nếu nghe không lầm, có vài ba công ty nào đó, mang cả kỹ thuật, đến hùn vốn với Singapore sản xuất vaccine để dễ vận chuyển mua bán trong khu vực ASEAN nói riêng, những vùng lân cận nói chung. Thế giới bắt đầu “ngán” Singapore “âm thầm làm mà không nói”. Ước gì Việt Nam ta sớm được như Singapore ngày nay thì đỡ khổ biết mấy?  Thiện Tùng Nguồn: danquyenvn.blogspot.com/2021/06/thua-trong-nha-moi-ra-nguoi-ngoai.html#more Chú thích: (1) Trung Quốc đã công bố và lưu hành 2 loại vaccine: Sinopharm và Sinovac. Một số nước mua về chích cho dân mình chưa thấy hại nhưng dường như không  có tác dụng ngừa dịch COVID 19 – đã chích 2 liều/người vẫn lây nhiễm. Tổ chức Y tế thế giới đã công nhận 1 trong 2 loại vaccine hiện có của Trung Quốc. Trong 2.493.600 liều vaccine do tổ chức  
......

Quyết tâm của G-7 và Khối NATO đối với tham vọng của Trung Quốc

Phạm Nhật Bình – Việt Tân Trên bàn cờ thế giới trong những năm đầu thế kỷ 21, Tây Phương đứng trước những thách thức to lớn xuất phát từ nước Nga hậu cộng sản, đồng thời với tham vọng vô bờ bến của Trung Quốc thời Tập Cận Bình. Trong một khía cạnh khác, ngay trong nội bộ các cường quốc Tây Phương, do lợi ích kinh tế chính trị không đồng đều, sự bất hòa vẫn thường diễn ra có khi khá gay gắt. Ngay từ lúc Tổng Thống Biden bước vào Nhà Trắng, ông đã chủ trương hàn gắn, cùng với đồng minh Âu Châu tạo dựng lại thế giới mới trong sự tin tưởng và hợp tác chân thành. Do đó sau sự củng cố lại Bộ Tứ Úc – Ấn – Mỹ – Nhật trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương với mục tiêu chiến lược, chẳng những kềm hãm sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông mà còn gởi đi một tín hiệu rằng eo biển Đài Loan sẽ được bảo vệ trước bất cứ sự xâm lăng  nào từ Bắc Kinh. Để thực hiện liên minh chiến lược này, giữa tháng Sáu vừa qua ông Biden đã tham dự Hội nghị G-7 lần thứ 47 tại Anh và sau đó với Khối NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) tại Bỉ. Qua hai cuộc họp này, Hoa Kỳ và Âu Châu đã đưa ra những thông điệp quan trọng sau: 1/ Trong tuyên bố chung kết thúc hội nghị ngày 13 tháng Sáu, G-7 lần đầu tiên lên án tình trạng đàn áp nhân quyền của Trung Quốc ở Tân Cương và Hong Kong. Tại Tân Cương, vùng tự trị của dân tộc Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), Trung Quốc bị cáo buộc vi phạm nhân quyền trầm trọng do việc giam giữ hơn một triệu người Duy Ngô Nhĩ trong các trại giam trá hình, cũng như thi hành kế hoạch hóa gia đình một cách bắt buộc nhằm làm suy yếu dân tộc này về lâu dài. Đặc biệt tại Hong Kong, với việc áp dụng Luật An Ninh Quốc Gia mới ban hành năm 2020, Trung Quốc siết chặt quyền tự do công dân mà đáng lẽ người dân được hưởng theo thỏa  thuận năm 1997 trong thể chế “Một quốc gia Hai chế độ” trong 50 năm. 2/ Lần đầu tiên, vấn đề hòa bình ở eo biển Đài Loan được đưa ra thảo luận và G-7 không còn coi đó là vấn đề nội bộ của Bắc Kinh. Từ năm 1949 là năm Tưởng Giới Thạch thất bại phải rút ra Đài Loan như cứ điểm cuối cùng của Trung Hoa Dân Quốc, các cuộc đối đầu vẫn xảy ra nhưng đôi bên chưa bao giờ có chiến tranh thực sự, ngoài cuộc pháo chiến Kim Môn năm 1958. Trong thời Tập Cận Bình thái độ của Trung Quốc ngày càng hung hăng, coi Đài Loan là phần đất cần phải thu hồi, ngay cả sự đe dọa thu hồi bằng vũ lực. Gần đây nhất Bắc Kinh đưa 28 phi cơ đủ loại xâm nhập vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan như một phần của kịch bản đánh chiếm hòn đảo này. 3/ Chỉ đích danh Nga là nhà nước chứa chấp tội phạm an ninh mạng. Điển hình gần đây nhất, hai cuộc tấn công đòi tiền chuộc nhắm vào một công ty đường ống dẫn dầu quan trọng và một công ty cung cấp thịt của Mỹ. Nhóm tin tặc Darkside được xác định xuất phát từ Nga, nhưng chưa bị trừng phạt. Ngay trong cuộc hội đàm song phương giữa hai lãnh tụ Mỹ – Nga ngày 16 tháng Sáu ông Biden đã đề cập thẳng vấn đề này với Tổng Thống Putin. 4/ Chính thức đưa ra sáng kiến thiết lập một thế giới mới B3W (Build Back Better World Partnership). Sáng kiến này theo ước tính của chính phủ Mỹ, sẽ cần đến 40 ngàn tỷ USD hỗ trợ các nước đang đang phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng. Không còn gì nghi ngờ kế hoạch của G-7 có khả năng triệt hạ sáng kiến Một vành đai Một con đường của Trung Quốc đang sử dụng như công cụ độc quyền khống chế các nước nhỏ. 5/ Cam kết cung cấp 1 tỷ liều vaccine Covid-19 cho các nước nghèo. Ngoài ra để giúp các quốc gia vượt qua khó khăn do dịch bệnh, G-7 cũng cam kết hỗ trợ ngân sách 100 tỷ USD giúp các các nước vượt qua khó khăn do dịch bệnh. Trước đó, riêng Hoa Kỳ cũng đã hỗ trợ 500 triệu liều vaccine vô điều kiện cho các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp. Điều này cho thấy quan điểm của các cường quốc, ngoài vấn đề nhân đạo thông thường, Tây Phương chỉ có thể an toàn khi phần còn lại của thế giới an toàn, khác với nền ngoại giao vaccine mà Trung Quốc đang thúc đẩy để gây ảnh hưởng. 6/ Sau cùng, lần đầu tiên NATO đã chính thức coi Trung Quốc là một “thách thức có hệ thống.” Nhận định này của NATO xuất phát từ tham vọng lớn lao của Bắc Kinh về đất đai và thị trường kinh tế, với các căn cứ quân sự tiền tiêu thiết lập ở nhiều vùng quan yếu phục vụ chiến tranh. Sáng kiến “Một vành đai Một con đường” của Tập Cận Bình thực chất là chiếc bẫy giăng ra trong chiến lược toàn cầu, tập họp các nước kém phát triển làm vây cánh cho Trung Quốc chống lại thế giới tự do. Những nỗ lực của khối G-7 và NATO nêu trên cho thấy sự đoàn kết của các quốc gia công nghiệp Tây Phương, vốn là xương sống của nền kinh tế thế giới đã đứng vững trở lại sau đại dịch Covid-19. Thời kỳ tung hoành bá đạo của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đã chấm dứt và sự trở lại của Hoa Kỳ trong tư cách người dẫn đầu đã giữ vững thế giới trong tinh thần tái thiết một xã hội phát triển, công bằng đáng sống. Trước sự phản công của G-7 và NATO, phát ngôn viên của sứ quán Trung Quốc ở Luân Đôn (Anh) tuyên bố mỉa mai rằng “thời kỳ mà các quyết định mang tính quốc tế do một nhóm nhỏ quốc gia đã qua lâu rồi.” Bắc Kinh muốn ám chỉ các quyết định của G-7 không có giá trị hay ảnh hưởng gì đối với Trung Quốc vì cục diện thế giới ngày nay đã thay đổi do sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc. Tuy nhiên phản ứng bằng lời lẽ của Trung Quốc cũng không che giấu được quả thật Bắc Kinh đang lúng túng, lo âu cho tham vọng bá chủ của mình. Vì khi các quốc gia lớn trên thế giới tẩy chay không cộng tác nữa thì Trung Quốc sẽ giao thương và buôn bán với ai? Thông điệp của G-7 và NATO cho thấy là thế giới tự do đã có những phản ứng cần thiết để vừa trừng phạt vừa răn đe hai nước Nga và Trung Quốc, thủ phạm đang tạo ra những cuộc khủng hoảng hiện nay. Phạm Nhật Bình  
......

Thanh Hóa xây tượng đài giữa cơn đại dịch

Thái Hạo Theo thông tin từ Báo Chính Phủ và Báo Thanh Hoá, quý 3 năm nay, tại Sầm Sơn (Thanh Hóa) sẽ khởi công xây dựng công trình có tên “Con tàu tập kết”. Phó thủ tướng Trương Hòa Bình nói: công trình này “mang nhiều ý nghĩa, không chỉ có ý nghĩa lịch sử, văn hóa mà còn giúp giáo dục các thế hệ sau này về truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết, ý chí dân tộc. Đặc biệt, công trình còn nhằm tri ân những đóng góp, sự cưu mang của người dân miền Bắc đối với đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam tập kết”. Việc xây dựng tượng đài này có tổng kinh phí phê duyệt ban đầu là 290 tỉ đồng, sau vì khó khăn nên giảm xuống còn 255 tỉ trên một diện tích 32 ha. Dù một phần kinh phí là xã hội hoá nhưng đó vẫn là nguồn lực quốc gia, không thể không trăn trở trước sự kiện này. Nhắc lại bối cảnh lịch sử một chút. Năm 1954, hiệp định Genève được ký kết, theo đó: Điều 14 phần (d) của Hiệp định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến (Điều 2), tức chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Từ điều khoản này, trong khoảng thời gian 1954-1955, dân của 2 miền đã tiến hành một cuộc di cư “vĩ đại”. Có khoảng 1 triệu người miền Bắc đã vào Nam và (chỉ) có khoảng dưới 200 ngàn người miền Nam tập kết ra Bắc (tức bằng khoảng 1/5 dân Bắc vào Nam). Việc xây dựng tượng đài này, theo lời phó thủ tướng là có ý nghĩa lớn như đã dẫn. Tuy nhiên, xét về quy mô, rõ ràng người Bắc đã vào Nam nhiều hơn gấp khoảng 5 lần chiều ngược lại. Vậy đâu là cơ sở cho tính chính đáng của việc khẳng định ý nghĩa trên? Người Nam ra bắc thì thể hiện tinh thần đoàn kết, còn người Bắc vào Nam thì nói lên điều gì? Ghi nhận ý nghĩa tốt đẹp của cuộc di cư này thì có cần ghi nhận cả những thất bại, nỗi buồn và sự chia rẽ của chiều di cư ngược lại? Thiết nghĩ, đất nước ta đang cần hàn gắn, nhất là hàn gắn lòng người hai miền khi mà sau gần nửa thế kỷ lại vẫn còn ngổn ngang đến thế. Tôn vinh những người từ Nam ra Bắc lúc này có phải là hợp tình hợp lý; hay chỉ gây thêm nỗi bất hòa? Quan điểm cá nhân của tôi là, công trình ấy không có tác dụng trọng việc mang đến việc hòa hợp, hòa giải mà chỉ khiến những người đồng bào thuộc chế độ cũ thêm mặc cảm và cách lòng. Hiện nay, người Thanh Hóa và miền Bắc nói chung vẫn đang tiếp tục di cư vào phía Nam do điều kiện kinh tế địa khó khăn. Việc đầu tư vào tượng đài trăm tỉ này nếu để tạo công ăn việc làm cho người dân hay làm các công trình phúc lợi an sinh để giữ người dân ở lại mảnh đất quê hương mà an cư lạc nghiệp có lẽ sẽ có ý nghĩa hơn nhiều. Đó là chưa kể, trong bối cảnh đại dịch hoành hành, người dân mất việc, đời sống khó khăn, nỗi lo cơm áo đè nặng mà nhà nước lại quyết định xây một công trình không thật sự cấp thiết như thế thì thử hỏi tính chính đáng của nó là gì? Cần giải quyết những nhu cầu cấp bách trước mắt, cứu dân như cứu lửa, sao có thể vô tâm mà làm những việc phi thực tế như vậy trong lúc này. Giữa lúc chính phủ đang kêu gọi dân “đóng góp” xây dựng quỹ vaccine phòng covid vì ngân khố không đáp ứng được, thì việc bỏ tiền xây tượng đài lại càng bất nhẫn và vô lý hơn nữa. Đó là lại chưa kể Thanh hóa vừa trải qua một cơn sốt đất dữ dội. Trong khi quỹ đất ở và đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, thì việc bỏ ra một lúc 32 ha đất thành phố để làm tượng đại lại càng không thể biện minh và hợp lòng dân được. Bằng chứng là, sau khi đăng tải thông tin vài tiếng, Báo Thanh Hóa đã phải gỡ bài vì vấp phải sự phản đối của dư luận. Một công trình nhân danh nhu cầu và ý nghĩa văn hóa cho người dân, nhưng ngay lập tức lại nhận về sự phản ứng tiêu cực của chính nhân dân thì có nghĩa nó đã thất bại trong chính lý do cho sự có mặt của mình. Gỡ bài không phải là biện pháp, cần lắng nghe ý kiến của nhân dân mới là điều nên làm. Động thái gỡ bài này chứng tỏ những người có trách nhiệm đã nghe thấy tiếng nói của dân, và nghe rất rõ; nhưng (có thể) nó lại cũng chứng tỏ người ta đang không thật sự muốn làm theo nguyện vọng của dân. Không có tượng đài nào bằng an sinh của dân chúng, không có ý nghĩa nào bằng việc hàn gắn lòng người, và không có gì cần thiết bằng việc ổn định đời sống cho dân. Đó là chức năng của một nhà nước phụng sự. Xây tượng đài, trước tiên cần nghĩ tới việc người dân cần gì. Chúng ta đã có quá nhiều bài học về tượng đài, cổng chào rồi: kém chất lượng, xuống cấp nhanh chóng, xấu xí, vô ích, tham nhũng, rút ruột, hoang tàn, lợi ích nhóm v.v.. Dân đang lâm đại nạn giữa cơn dịch dã, và cần một chính quyền phụng sự “vì dân” hơn bao giờ hết. Lúc này là cơ hội tốt nhất để chính quyền gây dựng niềm tin với một dân chúng vốn đã bị xói mòn niềm tin chứ không phải lại gây nên nỗi thất vọng hoàn toàn bằng những quyết sách không hợp nhân tâm như thế. Lòng dân mới là nơi cần đặt tượng đài, tượng đài của niềm tin vào chính quyền. Mà để dựng lên được cái tượng đài ấy thì lại rất cần ngưng lại những tượng đài tiền tỉ bên ngoài kia. Thái Hạo
......

Từ chuyện Fan bong đá Việt tấn công trọng tài, nghĩ về giáo dục

Chu Mộng Long Việc rất nhiều fan bóng đá Việt tấn công, sỉ nhục trọng tài sau trận đấu với UAE cho thấy một bản chất xấu xí không thể bào chữa. Bản chất đó có từ đâu? Chắc chắn những người này biện minh, rằng đó là lòng yêu nước! Tuyên giáo thì vẫn tuyên ngôn; yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Nhưng gần đây, đã từng xuất hiện thêm một tuyên ngôn khác: yêu nước gắn liền với yêu bóng đá. Không ngẫu nhiên mà chỉ cần hai trận thắng, đội bóng đá quốc gia đã được trích thưởng 8 tỷ đồng. Trong khi cả triệu người trên tuyến đầu chống dịch chưa chắc đã mơ được số tiền thưởng nóng như vậy, nếu không nói phải vật vã tìm nguồn quyên góp các loại quỹ như quyên góp từ thiện! Trong nhà trường, nội dung “yêu nước gắn liền với căm thù giặc” gần như lặp đi lặp lại trong hầu hết các bài ngữ văn và lịch sử. Nội dung ấy thấm trong máu thịt của các thế hệ từ sau cách mạng. Cho nên, từ khi trỗi dậy phong trào bóng đá như một bình diện của chủ nghĩa yêu nước, hiển nhiên các đối thủ của đội tuyển Việt Nam đều có thể là giặc. Có thể hình dung tuyến đầu là các cầu thủ, đứng sau là các fan với tinh thần chiến đấu đến cùng. Trước trận đấu hừng hực khí thế chiến đấu. Sau trận đấu là đi bão ăn mừng chiến thắng, bất chấp tai nạn chết người. Đến mức năm trước, dân Nghệ An còn hồn nhiên giả trang, đóng vai Bác Hồ với niềm tự hào “Bác cùng chúng cháu… đi bão”! Đúng là bóng đá như… chiến tranh! Trước trận đấu với UAE, có nhà thơ, nhà giáo xứ Nghệ, tên là Thạch Quỳ, còn xem quẻ, như Khổng Minh bói Dịch trước khi đánh trận. Quẻ báo tin thắng trận! Nhiều nhà văn, nhà báo, trong đó có cả giáo sư tiến sỹ, share lại bằng tất cả sự hả hê với chiến thắng ảo ấy. Khi ấy, tôi đã hình dung, nếu tuyển Việt Nam thua, xem chừng UAE là kẻ thù không đội trời chung. Và sự thật là thua. Nhưng máu háo thắng sẽ làm cho các fan không thể chấp nhận thua. Sử gia từng xem thất bại trong chiến tranh là những cuộc tổng diễn tập, nhưng với các fan bây giờ thì nâng lên tầm cao mới: đổ lỗi do trọng tài! Trong cuộc thua này, nhiều fan đã muốn ăn gan uống máu trọng tài! Bóng đá, trong quy ước quốc tế, dẫu thắng thua đều là bạn. Thể thao là hoạt động hội nhập. Nhưng với nhiều người Việt, thể thao là trận đánh với ranh giới địch/ta rõ ràng. Ta tốt/địch xấu, ta thiện/địch ác, đúng như các bài học ngữ văn và lịch sử trong sách giáo khoa. Nếu không có luật quốc tế, dễ chừng nhiều người say máu “giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ…” Tôi tra lại 5 phẩm chất mà Tổng chủ biên Nguyễn Minh Thuyết đưa ra trong Chương trình cải cách, toàn mơ hồ. Chỉ có phẩm chất yêu nước (được đưa lên hàng đầu), coi như đã được định nghĩa từ trước: “yêu nước gắn liền với căm thù giặc”. Đời đời sống trong nỗi căm thù như vậy, không biết rồi người Việt sẽ chơi với ai khi nhìn đâu cũng thấy giặc. Trong khi, về phẩm chất tối thiểu, chỉ cần một từ “Tự trọng”, nghĩa đầy đủ là biết tôn trọng mình để được người khác tôn trọng, thì không bao giờ được nhắc tới. Dạy bọn trẻ cứ dày mặt ra bất chấp tất cả thì sẽ sống được trong mọi hoàn cảnh hay sao? Chu Mộng Long
......

Báo chí cách mạng: “Đi theo đảng là đang theo đĩ”

Trần Minh Nhật Suốt 96 năm qua, lực lượng báo chí cách mạng đã có những thành tích chói lọi. Là đội quân tiên phong trên mặt trận tư tưởng, để định hướng dư luận cho đảng. Kỷ niệm 96 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2021) thực chất là ngày kỉ niệm cho những người “đi theo đảng”. Thời chiến, chỉ với ngòi bút báo chí cách mạng đã viết nên bao chiến công không ai tưởng tượng nổi. Dễ thấy những máy bay nấp trên mây. Dùng gậy tầm vông diệt sư đoàn. Thậm chí máy bay B52 của Mỹ cũng hạ gục chỉ bằng một bài báo. Những anh hùng dùng súng tiểu liên bắn hạ máy bay ném bom, một mình g.i.ế.t c.h.ế.t hàng chục tên giặc là quá bình thường trên báo.   Khi chiến tranh đã vắng bóng, ngòi bút của các nhà báo được dùng để tô son trét phấn cho mục đích duy trì quyền lực.   Thống kê (2018) có hơn 36.000 người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí, với gần 850 cơ quan báo chí và hơn 18.000 nhà báo được cấp thẻ, nhưng tất cả chỉ phục vụ cho đảng. Với con số ấn tượng như vậy nhưng chỉ cần mua một tờ báo là có thể biết được các báo khác viết cái gì.   Đặc biệt các chủ đề được đảng cho là “nhạy cảm” thì 850 tờ báo thì cũng chỉ có một nội dung, may lắm thì tiêu đề khác mà thôi. Người ta nói cũng chẳng ngoa, hàng trăm tờ báo nhưng chỉ có một tổng biên tập đó là “ban tuyên giáo”.   Trong dân cứ kháo nhau rằng “nhà báo nói láo” chẳng phải ngẫu nhiên. Bởi vì bất kì cái gì báo cũng có thể vẽ hươu vẽ vượn ngoại trừ sự thật thì không ai dám nói nhất là “chuyện chính trị”. Trên các báo từ trung ương tới địa phương, không câu view với các mục cướp giết hiếp thì cũng chỉ khiêu dâm và những thị hiếu thô tục nhất cho dân.   Nói đi cũng phải nói lại, cũng có không ít nhà báo còn tâm huyết, yêu nghề và muốn nói lên thực trạng xã hội. Tuy nhiên, chỉ đơn cử như câu chuyện người dân biểu tình gần đây. Thì cho dù có tốt có tâm thì cũng không thể lọt qua được cánh cửa kiểm duyệt của ban biên tập. Cũng có không ít các phóng viên đã vướng vòng lao lý chỉ vì thuận lòng dân nhưng trái ý đảng.   Nói ra thì buồn cho các đồng nghiệp đang cầm bút chứ người ta nói “báo chí ẳng theo lệnh chủ” cũng không oan. Càng nói càng buồn thêm mà thôi.   Linh mục Đặng Hữu Nam có câu nói thời danh mà tôi nghĩ các bạn cũng cần suy ngẫm trong ngày kỉ niệm của mình: “Đi theo đảng là đang theo đĩ”.   Liệu các bạn còn giữ được sự trinh trong của mình khi suốt ngày đi với đĩ?   Minh Nhật  
......

Vaccine Trung Quốc

Xuân Sơn Võ Như thường lệ, cứ có cái gì liên quan đến Trung cộng vô Việt nam là bộ máy truyền thông lại tích cực tuyên truyền cho chúng. Kinh nghiệm của chúng ta đã trải qua những nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân, Formosa, Đường sắt trên cao Cát Linh Hà Đông… Bây giờ là vaccine. Đúng là vaccine Trung quốc được công bố là có tỉ lệ tạo kháng thể tốt, đúng là vaccine Trung quốc được WHO cho phép sử dụng, đúng là vaccine Trung quốc có giá cao chót vót so với nhiều loại vaccine khác. Và bộ máy tuyên truyền xoáy mạnh vào những điều đó để bảo vệ cho nguồn vaccine này. Nhưng chúng ta có tin được những công bố về hiệu quả vaccine của Trung cộng không? Chúng ta có tin được tổ chức phê duyệt vaccine Trung cộng là WHO không? Có thể có nhiều bác sĩ tin WHO, nhưng riêng trong vụ dịch cúm Tàu, và bây giờ là vaccine ngừa cúm Tàu, tôi hoàn toàn không tin WHO. Ngoài vấn đề không tin WHO, tôi còn không tin vào loại vaccine bất hoạt. Hồi đó, khi mới ra trường vài năm, tôi bị chó hàng xóm cắn. Tối đến Viện Pasteur xin chích ngừa chó dại. Tình cờ gặp anh bạn khám trước khi chích. Anh ấy khuyên đừng nên chích, mà nên theo dõi con chó, nếu nó có triệu chứng gì thì hãy chích. Lý do mà anh ấy nói, là vì vaccine đó là loại bất hoạt. Vaccine bất hoạt là loại vaccine sử dụng con virus gây bệnh, rồi làm cho nó yếu đi, không thể gây bệnh được. Khi chích con virus đã bị làm yếu đi đó vào cơ thể, nó giúp cơ thể tạo ra miễn dịch, mà lại không gây bệnh. Tuy nhiên, về lí thuyết thì là như vậy, nhưng không ai biết liệu mấy con virus bị làm yếu đi đó có sống lại rồi gây bệnh hay không. Có khi không bị dại vì chó cắn, mà bị dại vì chích ngừa thì oan mạng. Loại vaccine mà Trung cộng đưa qua ta là Sinopharm, đó là vaccine bất hoạt. Tôi tin là Trung cộng có đủ khả năng tạo ra những con virus bất hoạt, nhưng bằng một tín hiệu nào đó, như sóng điện từ, hay sóng siêu âm, hay bất cứ một thứ gì mà công nghệ của bọn Trung cộng có thể chủ động đưa ra, lũ virus mà chúng tiêm vào cơ thể ta sẽ sống dậy và gây bệnh cho chúng ta. Mà có thể không chỉ là cúm Tàu, có thể là những căn bệnh khác ghê gớm hơn nữa. Xét về tư cách và dã tâm, tôi cho rằng Trung cộng hoàn toàn có thể làm như vậy. Tôi không tin Trung cộng, tôi không tin vào những con số mà họ đưa ra. Không những thế, tôi còn không tin là họ tạo ra vaccine để ngừa cúm Tàu. Tôi cũng không tin vào WHO, tôi không tin vào mức độ vô tư của WHO khi phê duyệt vaccine của Trung quốc. Và, tôi không muốn dùng vaccine bất hoạt, đặc biệt là vaccine bất hoạt do Trung cộng nghiên cứu và sản xuất. Do vậy, tôi dứt khoát không dùng vaccine do Trung cộng sản xuất. Tôi cũng sẽ can ngăn gia đình tôi, và những bạn bè thân thiết của tôi, nếu ai có ý định đồng ý dùng nó. Vừa qua, có vụ 500.000 liều vaccine Trung cộng được đưa vào Việt nam. Ban đầu, Bộ Y tế tuyên bố giao cho Hồ Chí Minh, sau đó thì đổi lại, chích cho người Trung quốc ở Việt nam, người Việt nam đi sang Trung quốc làm ăn, và người Việt nam ở biên giới. Tôi không hiểu tại sao lại chích cho người Việt nam ở biên giới? Hai đối tượng đầu thì hợp lí, nhưng người dân ở biên giới thì dính dáng gì đến Trung cộng mà chích vaccine cho họ? Theo tôi, cần chích vaccine Trung cộng cho tất cả những ai đang bảo vệ nó, những ai quyết định nhập nó về, những ai đã từng ra lệnh và thực hiện việc trấn áp những người biểu tình chống Trung cộng, và những KOL trên mạng đang ủng hộ vaccine Trung cộng. Nếu vẫn chưa hết thì chích luôn cho những ai quyết định nhập các nhà máy điện than, duyệt cho Trung cộng thầu đường sắt trên cao Cát Linh Hà Đông, bảo kê cho Formosa… Nói tóm lại, cá nhân tôi không tin, và dứt khoát không chích vaccine do Trung cộng sản xuất. Tôi thấy cần dành vaccine do Trung cộng sản xuất cho những ai liên quan đến Trung cộng, những ai tin tưởng nó, tuyên truyền cho nó, nhập nó về, và những kẻ bảo vệ cho Trung cộng ở Việt Nam. bác sĩ Võ Xuân Sơn, Đại Học Y Dược thành Hồ.  
......

Đàm Vĩnh Hưng "sử dụng tiền cứu trợ sai mục đích"

Thao Ngoc   Su vụ bê bối Hoài Linh “om” tiền cứu trợ đồng bào lũ lụt miền Trung hơn 6 tháng không thực hiện, chỉ đến khi bị bà Phương Hằng khui ra mới ỡm ờ viện lý do không chính đáng để biện minh.   Khi Hoài Linh bị bốc mẽ, Trấn Thành mới giật mình thú nhận không chuyển tiền cứu trợ cho Thủy Tiên như đã hứa, mà lại chuyển cho bà Ngọc Hương nào đó, để rồi những đồng tiền mồ hôi nước mắt của người đóng góp chạy loanh quanh, không biết có đến được tay các nạn nhân hay không.   Thì nay một vụ bê bối đình đám khác đã hé lộ. Ấy là ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng đã dùng tiền cứu trợ đồng bào lũ lụt miền Trung đem đi sửa chùa.   Báo Người Lao động ra hôm 20/6/2021 có bài: “Đàm Vĩnh Hưng dùng tiền cứu trợ lũ lụt miền Trung để sửa chùa”.   Theo đó: “Mới đây ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng đã có những chia sẻ với khán giả về tiền từ thiện. Cụ thể, anh cho biết đã trích 140 triệu đồng từ khoản tiền ủng hộ đồng bào vùng lũ để góp vào tu sửa chùa Xuân Long (Khánh Sơn, Nam Đàn, Nghệ An)”. (https://nld.com.vn/.../dam-vinh-hung-dung-tien-cuu-tro-lu...)   Đúng là chưa bao giờ bộ mặt lem luốc của một số nghệ sĩ đã bị phơi bày trần trụi như bây giờ. Mà một khi đã bị lột mặt nạ, thì “Zĩ zãng zơ záy zễ zì zấu ziếm” (lời của bà Phương Hằng), mới thấy sự tởm lợm và thối nát ấy được che đậy bởi ánh hào quang lấp lánh để lừa bịp thiên hạ bao năm nay như thế nào.   Nên biết rằng những người gửi tiền cho Đàm Vĩnh Hưng đâu phải là hoàn toàn Phật giáo, mà có thể có nhiều tôn giáo khác. Mà cho dù là của đồng bào Phật giáo đi nữa, thì việc Đàm Vĩnh Hưng tự ý mang những đồng tiền ấy đem đi sửa chùa là hoàn toàn sai.   Sử dụng tiền hỗ trợ từ thiện không đúng mục đích sẽ bị xử lý ra sao?   Pháp luật có quy định cụ thể việc sử dụng tiền ủng hộ từ thiện, thể hiện tại Nghị định Số: 64/2008/NĐ-CP ngày 14/5/2008 của Chính phủ.   Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3, về các hành vi bị nghiêm cấm của Nghị định 64/2008 quy định hành vi Báo cáo sai sự thật, gian lận, chiếm đoạt, sử dụng trái phép tiền, hàng do các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước ủng hộ, đóng góp và hành vi Lợi dụng hoạt động cứu trợ để vụ lợi bị nghiêm cấm.   Việc sử dụng tiền ủng hộ từ thiện còn được quy định bởi Điều 10 Nghị định 64/2008/NĐ-CP về “tổ chức phân phối tiền, hàng cứu trợ cho các địa phương”, và Điều 11 Nghị định 64/2008 về “sử dụng nguồn đóng góp tiền, hàng cứu trợ khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng” (được hướng dẫn bởi Điểm 6.3 Thông tư 72/2008/TT-BTC).   Quá trình sử dụng tiền ủng hộ phải được công khai theo Điều 14 Nghị định 64/2008/NĐ-CP (Điều 9 Thông tư 72/2008/TT-BTC hướng dẫn).   Điều 21 Nghị định 64/2008 quy định: “các tổ chức, cá nhân huy động, quản lý và phân phối sử dụng tiền, hàng cứu trợ trái với quy định tại Nghị định này thì tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật".   Theo Bộ luật dân sự năm 2015, người góp tiền có quyền khởi kiện Đàm Vĩnh Hưng để đòi lại số tiền này và yêu cầu kèm theo lãi suất.   Không chỉ dư luận nói về những bê bối của giới nghệ sỹ, mà ngay trong giới nghệ sỹ, những bê bối ấy đã được chính người trong cuộc phơi bày.   Ngày 9/6/2021, Ca sỹ Duy Mạnh tiết lộ với báo Dân Trí: "Nhiều nghệ sĩ nghiện cờ bạc nặng, quyên góp từ thiện để trả nợ".   Tờ Cafebiz ra ngày 9/6/2021 có bài: “Phi Nhung bị soi lại điểm bất thường trong 2 đợt kêu gọi từ thiện miền Trung, “ngâm” sao kê 1,8 tỷ suốt 5 năm chưa công khai? Theo đó: “Lần 1: Phi Nhung kêu gọi gần 1 tỷ đồng, nhưng chỉ công khai giải ngân 500 triệu và còn gộp với nhãn hàng”? Lần 2: Phi Nhung kêu gọi 800 triệu cứu trợ bà con, đến 9 tháng trôi qua vẫn "ngâm" sao kê”?   Bà Phương Hằng trong một lần Livestream, đã nói anh HL nào đó, mỗi lần đánh bạc thua hàng chục tỷ là bình thường.   Những tiết lộ động trời 28/05/2021, Tạp chí điện tử Saosta của Hội người mẫu Việt Nam, trong hệ thống báo chính thống của VN, có bài: “Một quản lý nghệ sĩ tiết lộ bí mật động trời về từ thiện: Kêu gọi 10 tỷ từ thiện 5 tỷ, lãi ít nhất 50%”. Người này cho biết đã từng làm quản lý của vài nghệ sĩ, bóc trần những sự thật bất ngờ, thối nát của việc người nổi tiếng đi làm từ thiện.   Người nay tiết lộ những mánh khóe để ăn chặn tiền từ thiện được kể ra gồm: "Kêu gọi 10 tỷ thì từ thiện 5 tỷ thôi. Còn đâu đút túi hết, việc minh bạch là quá dễ, thậm chí có hóa đơn đỏ đàng hoàng".   Cuối cùng, người này kết luận:"Vậy nên đừng dại mà đóng góp nhờ người khác làm từ thiện, người ta vừa được tiếng lại vừa được miếng. Còn các bạn đóng vào chắc chẳng được gì. Số tiền nhỏ thì không bõ, chứ hàng chục tỷ, hàng trăm tỷ lại càng dễ ăn. Ít nhất là lãi 50%". (https://saostar.vn/.../mot-quan-ly-nghe-si-tiet-lo-bi-mat...)   Điều này giải thích tại sao, cứ sau mỗi lần thiên tai hoạn nạn xảy ra, thì giới nghệ sĩ rất tích cực kêu gọi công chúng gửi tiền cứu trợ.   Không phải tất cả những người kêu gọi tiền cứu trợ các nạn nhân khi bị thiên tai đều ăn chặn tiền cứu trợ. Nhưng công chúng cần biết “chọn mặt gửi vàng”. Đứng lóa mắt bởi ánh hào quang của những người nổi tiếng, mà biết gửi gắm niềm tin của mình vào những địa chỉ không đáng tin cậy, để những đồng tiền đóng góp được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng.   Có như vậy mới lan tỏa truyền thống tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách”, là nét đẹp ngàn đời của cha ông ta./.   Thao Ngoc 21/6  
......

Quân hồi bông phèng

Tân Phong - Web Việt Tân Sân khấu chính trị Việt Nam đang chứng kiến một tình trạng hỗn loạn trong việc phân vai tuồng kép. Dịch bệnh Covid-19 hoành hành, người ta không bao giờ thấy xuất hiện ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng còn ông thủ tướng xuất thân ngành công an sau vài câu hô hào “toàn dân đoàn kết chống dịch như chống giặc” cũng biệt vô âm tín. Ông chủ tịch quốc hội xuất hiện trước truyền thông thì phát biểu về lạm phát và lo ngại những diễn biến bất thường ở thị trường chứng khoán. Dàn hợp ca của chóp bu CSVN như gà mắc tóc và dẫm chân nhau loạn xà ngầu. Họ không biết chỉ đạo chống dịch như thế nào cho đúng ngoài việc hô hào “đoàn kết” và đóng tiền ủng hộ quĩ vaccine đầy tai tiếng. Chính phủ thì không biết phản ứng ra sao với các diễn biến của thị trường chứng khoán, giá cả sắt thép, xăng dầu, đồng, chip điện tử… tăng vọt, chuỗi sản xuất đứt gãy, doanh nghiệp chết như rạ, nợ xấu tăng chóng mặt và rủi ro nền kinh tế sụp đổ đang ngày một rõ ràng. Cơn ác mộng đang bắt đầu với những đổ vỡ cục bộ, nhỏ lẻ như ở các ngành hàng không, đường sắt, du lịch, các công ty dịch vụ môi trường… mà tưởng chừng không ảnh hưởng đến hệ thống. Nhưng đó chính là những con domino đầu tiên đã ngã xuống. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có vị trí địa kinh tế chiến lược, nguồn tài nguyên dồi dào, đầu tư nước ngoài và kiều hối tăng mạnh trong những thập niên vừa qua. Điều đó đã giúp một nền kinh tế bao cấp kiệt quệ thay đổi và phát triển. Thành tựu kinh tế là lý do chính danh khả dĩ duy nhất để nhà cầm quyền CSVN bảo vệ chế độ toàn trị sắt máu của họ. Nhìn bề ngoài sẽ khó thấy hết được những vết lở loét, bất công xã hội trầm trọng phía dưới lớp son phấn phù hoa của quá trình đô thị hóa nhanh chóng như Hà Nội, TP.HCM. Nhưng khi có biến cố bất ngờ, tác động đủ lớn đến các cơ cấu nền tảng thì hệ thống vốn đã bị mục ruỗng, một xã hội tràn lan tha hóa, nhũng lạm, đục khoét của công như Việt Nam, thì “tổ kiến nhỏ sụp toang đê vỡ” sẽ diễn ra ở thời điểm rất bất ngờ và nhanh chóng, chỉ sau một vài đổ vỡ tưởng chừng “cục bộ, nhỏ lẻ.” Đối phó với cuộc khủng hoảng toàn diện đang xầm xập kéo tới. Những “thiên tài đảng ta” sau một hồi hô khẩu hiệu, “chém gió thành bão” với những phát ngôn ngớ ngẩn đã lần lượt câm nín, né tránh. Khi kết quả phòng dịch tốt đẹp, thì tất cả nhảy vào tranh công. Nhưng khi mọi chuyện trở nên tồi tệ thì sẽ là màn đổ trách nhiệm, qui trách nhiệm và hạ bệ nhau. Các báo cáo kinh tế vĩ mô, dưới cây đũa thần của Tổng Cục Thống Kê (GSO), vẫn đẹp như mơ. Để bù vào việc thất thu thuế vì doanh nghiệp chết như rạ, nhà cầm quyền CSVN đã nhanh chóng đưa thêm các sắc thuế mới, “truy cùng thu tận” đến cả anh hớt tóc ngoài vỉa hè, chị thợ giặt ủi, cô sơn móng tay dạo, đến những anh chị bán cóc ổi dầm, trà sữa nhà làm trên mạng FB, chotot,.. Bộ Tài Chính còn đưa ra những qui định cho phép cơ quan thuế truy thu cả những nguồn thu “trong tương lai” của doanh nghiệp. Hàng chục triệu người bị thất nghiệp, bị giảm thu nhập bởi cơn dịch, không những không có một đồng cứu trợ nào giúp dân thì nhà cầm quyền đã nhanh chóng tăng tiền điện, tiền nước, tiền xăng… để đảm bảo nguồn thu ngân sách nuôi một bộ máy ăn hại khổng lồ. Thậm chí, giữa cao đỉnh dịch bệnh, thu ngân sách của một số nơi còn vượt cả chỉ tiêu. Khó khăn của ngân sách thì có thể tăng thuế, bóp cổ dân để lấp đầy ngân sách. Nhưng khó khăn của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh “thóc châu, củi quế” thì không đơn giản. Bởi ngân sách đã như “dòng sông đã cạn,” không thể đem ra để cứu những tập đoàn, công ty này. Thời gian gần đây, truyền thông Việt Nam đăng tải nhiều bài viết về nguy cơ phá sản của hãng Hàng Không Quốc Gia Việt Nam nhằm mục đích vận động các chính sách hỗ trợ từ chính phủ. Tuy vậy, những bài viết này nhận được vô số “gạch đá” công luận. Hầu hết mọi ý kiến đều cho rằng, hãng này đã ăn quá dày, lãi quá lớn suốt, nhận được quá nhiều ưu đãi trong khi khó khăn là khó khăn chung cho toàn xã hội. Trong khi các doanh nghiệp tư nhân sản xuất kinh doanh mang lại nhiều lao động cho xã hội còn cần được hỗ trợ hơn nhiều. Với dư luận bất lợi như thế, dù có sẵn tiền, chính phủ cũng khó lòng “đốt tiền cúng ma” cho Vietnam Airlines hay bất cứ doanh nghiệp nhà nước nào trong bối cảnh hiện tại. Mới đây, được biết trong 3 phiên đấu giá trái phiếu chính phủ (TPCP) đều thất bại. Việc huy động 75 tỷ USD từ việc phát hành TPCP của ông Phạm Minh Chính chắc chắn sẽ khó lòng đạt được. Dư luận cũng nghi ngờ tính xác thực của những bài viết của truyền thông “lề đảng”  chuyên nghề “đâm thuê, chém mướn” cho các nhóm lợi ích. Theo phân tích của người viết thì khó khăn này là có thực. Tuy rằng, các tập đoàn như hãng Hàng Không Quốc Gia Việt Nam (Vietnam Airlines) được gọi là “con gà đẻ trứng kim cương” cho các nhóm lợi ích của đảng. Nhưng thói quen lãng phí đã ngấm vào máu, việc phát triển nóng cùng với tham vọng lớn của giới lãnh đạo đã khiến cho các đơn vị này sử dụng đòn bẩy tài chính quá dài. Ngoài ra, ngành hàng không cũng là ngành phải nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu đầu vào cũng như sử dụng các dịch vụ hậu cần quốc tế. Do đó, nhu cầu ngoại tệ là rất lớn để thanh khoản các khoản lãi tới hạn và chi phí thường xuyên. Khi thị trường thay đổi quá nhanh, doanh thu “rơi” tự do, đặc biệt doanh thu từ bay quốc tế giảm hơn 90% khiến cho Vietnam Airlines nhanh chóng cạn kiệt các nguồn tài chính, đặc biệt thiếu ngoại tệ. Đây là khó khăn mang tính sống còn thực sự. Nhưng vấn đề nghiêm trọng hơn cả là tại thời điểm này, nhà cầm quyền CSVN “lực bất tòng tâm,” không thể tìm đầu nguồn để giúp Vietnam Airlines vượt qua cửa tử này. Định luật “quá lớn để sụp đổ” đã biến thành “càng lớn càng mong manh” ở thời Covid-19. Xem ra, câu chuyện phá sản đã không còn là câu chuyện “cào mặt ăn vạ” đòi tiền hỗ trợ của Vietnam Airlines nữa. Nguy cơ phá sản và sụp đổ là thực sự. Câu chuyện Vietnam Airlines chỉ là một trong số hàng trăm các “quả đấm thép” của nền kinh tế thị trường định hướng XNCH có cùng thảm trạng này. Những ngày gần đây, mạng xã hội dậy sóng khi biết được hàng ngàn tỷ đồng huy động được người dân và doanh nghiệp ủng hộ cho quĩ vaccine sẽ được gửi vào ngân hàng để lấy lãi trong lúc “nhàn rỗi” trong khi nhà cầm quyền đang chuẩn bị ban hành qui định về tiêm vaccine dịch vụ thu tiền, bên canh việc tiêm chủng mở rộng. Kể ra, dân chúng căm phẫn chửi rủa đám quan chức thừa hành này cũng có phần “oan.” Căn nguyên là ngay từ đầu, nhà cầm quyền CSVN hoàn toàn không xây dựng kế hoạch tài chính cũng như các kế hoạch phải bỏ tiền nhập khẩu vaccine khi dịch bệnh bùng phát “quá nhanh, quá nguy hiểm.” Tiền đi “xin đểu” nhân dân, nếu có thì cũng là tiền Hồ, không thể trả tiền vaccine nhập khẩu phải thanh toán bằng Mỹ Kim. Nên mớ tiền đó, nếu được sử dụng thì cũng chỉ để chi trả cho việc mua vaccine nội địa, chi cho đội ngũ cán bộ viên chức, nhân viên y tế, đội ngũ phòng dịch khác. Kế hoạch chi cũng phải có kế hoạch, rà soát, thẩm định. Câu chuyện này, bất quá dân tình có chửi thì chửi đám quan chức chóp bu đã quá coi thường sinh mạng người dân và quá ngu dốt trong việc đối phó và dự liệu các vấn đề quốc gia đại sự. Tiêm chủng toàn dân miễn phí là trách nhiệm của chính phủ và kinh phí phải được dự trù phân bổ từ nguồn thuế của dân. Trong bối cảnh như hiện nay, việc nhà cầm quyền CSVN vừa đi “xin đểu” tiền dân vừa bắt dân đóng tiền để được tiêm “dịch vụ” thì đúng là quá mức vô nhân tính. Chưa hề ló diện một giải pháp nào thực sự khả dĩ cho bối cảnh dịch bệnh đang lan nhiều tỉnh thành và những “thiên tài đảng ta” vẫn ngồi phòng lạnh lên cơn say, phát biểu văng mạng kiểu như ông chủ tịch tỉnh Bắc Giang. Ở trên các tầm “vĩ mô” hơn về các vấn đề kinh tế xã hội khác thì tuyệt nhiên không thấy một cá nhân lãnh đạo nào của “đảng và nhà nước” dám đề cập chứ đừng nói là đưa ra các quyết sách. Tất cả các vấn đề liên quan quốc kế dân sinh hoàn toàn bị thả nổi giống như lãnh đạo đang “lạy tứ phương” tìm cho đủ 170 triệu liều vaccine để “miễn dịch cộng đồng” vào cuối năm 2021. Tân Phong XEM THÊM: CSVN thấm đòn đợt Covid-19 lần thứ tư Kinh tế Việt Nam 2021: Phía trước là vực thẳm!  
......

Chiến lược vắc-xin của Việt Nam: Thất bại trên nhiều phương diện

Nguyễn Vũ Bình - RFA Trong quá trình đối phó với đại dịch Covid-19, các nước trên thế giới đã có chiến lược rõ ràng đẩy nhanh quá trình sản xuất vắc xin bằng ứng dụng công nghệ mới, từ đó có thành cộng vượt bậc tạo ra vắc xin trong thời gian kỷ lục (8 tháng). Ngay sau đó họ đã khởi động một chiến lược tiêm chủng đại trà vắc xin nhằm tạo ra miễn dịch cộng đồng. Hiện nay có một vài nước đã và đang hoàn thành chương trình tiêm chủng, một số nước đang gấp rút hoàn thành chương trình tiêm chủng, trên cơ sở đó, tháo bỏ những quy định phong tỏa, giãn cách để người dân của họ trở lại sinh hoạt bình thường. Số liệu về tiêm chủng của Việt Nam hiện nay, theo số liệu mới nhất, số lượng vắc xin được cung cấp là 1.552.651 liều, số người đã hoàn thành việc tiêm cả hai mũi vắc xin theo quy định là 59.608, đạt tỷ lệ 0,06% dân số cả nước. Trong khi đó, số liệu tiêm chủng vắc xin của thế giới cách đây một tuần, số vắc xin được cung cấp là 2,26 tỷ liều, số lượng tiêm đủ hai liều là 480 triệu người đạt 6,2% dân số. Như vậy, con số của Việt Nam đã tiêm đủ hai liều có tỷ lệ 0,06% so với thế giới là 6,2% là quá thấp. Quan trọng hơn, việc tiêm vắc xin là điều kiện để miễn dịch cộng đồng, điều kiện để gỡ bỏ các phong tỏa, giãn cách giúp cho xã hội trở lại bình thường đồng thời là giấy thông hành để hội nhập với thế giới thì với tốc độ và khả năng đáp ứng nhu cầu của Việt Nam hiện nay vô cùng khó khăn trì trệ và nhiêu khê. Vậy nên, có thể nói, chiến dịch vắc xin của Việt Nam đã thất bại. Nhưng sự thất bại này không chỉ ở việc chậm tiêm chủng vắc xin mà còn trên nhiều phương diện khác. Đó là việc thất bại trên các phương diện: Tuyên truyền, chiến lược tổng thể, chuẩn bị nguồn lực, triển khai thực hiện (tiêm vắc xin). Vấn đề tuyên truyền: Lật lại các bài báo cũ trên hệ thống báo chí quốc doanh, chúng ta thấy nhan nhản các bài viết với tiêu đề “Việt Nam thành công trong việc sản xuất vắc xin Covid-19; Việt Nam sẽ trở thành cường quốc xuất khẩu vắc xin…” Đây là thói quen của báo chí quốc doanh, chuyên bịp bợm và phét lác. Nếu như việc dập dịch thành công, và việc tiêm chủng vắc xin chưa trở thành điều kiện bắt buộc cho việc miễn dịch cộng đồng thì cũng không ai chú ý tới những bài báo của bọn bút nô này. Nhưng khi Việt Nam cần vắc xin để tiêm chủng thì những bài báo được lôi ra để tố cáo sự yếu kém của nhà cầm quyền và sự khinh bỉ đối với các tác giả và hệ thống báo chí quốc doanh. Điều trớ trêu là các nhà lãnh đạo Việt Nam mới đây đã yêu cầu các nước chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin cho Việt Nam, nhưng các công ty tư nhân mới là chủ thể nghiên cứu và sản xuất vắc xin thì làm sao có chuyện họ chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Chiến lược tổng thể: Thất bại trong chiến lược tổng thể của Việt Nam có thể nói ngắn gọn, đó là các nhà lãnh đạo không nghĩ được, không chuẩn bị được chiến lược sử dụng vắc xin để tiêm đại trà, từ đó sẽ làm miễn dịch cộng đồng và triệt tiêu dịch. Về nguyên nhân của thất bại này, có lẽ có hai nguyên nhân: Thứ nhất, không nghĩ vắc xin có thể được sản xuất nhanh quá mức như vậy; thứ hai, chủ quan nghĩ rằng Việt Nam sẽ dập được dịch như mấy lần trước, không bị  bùng phát như đợt dịch sau (từ 27/4/21) này. XEM THÊM: Hãy thay đổi chiến lược phòng chống dịch hiện nay trước khi quá muộn Chuẩn bị nguồn lực: Do không cóm,n lược tổng thể về vắc xin, nên Việt Nam cũng không chuẩn bị nguồn lực. Vả lại, giới lãnh đạo có thể vẫn suy nghĩ rằng, đại dịch lớn lần này như vậy, thế giới có thể sẽ cho không tất cả vắc xin các nước nghèo, đang phát triển. Nhưng các nước lớn trên thế giới cũng vẫn cho không, nhưng nhắm đến các nước nghèo, dịch bùng phát mạnh trước nên Việt Nam chưa xét đến. Chính vì vậy mà Việt Nam bị hụt hẫng. Sau này lãnh đạo phải Việt Nam đã phải viết thư, xin và kêu gọi các nước viện trợ vắc xin… Về việc này thì Việt Nam rất lão luyện và cũng có kết quả. Nhưng việc kêu gọi và xin tiền người dân đóng góp vào quỹ vắc xin trong khi đại dịch xảy ra hơn một năm trời người dân điêu đứng chính phủ đã không giúp được gì nhiều khiến người dân trong nước rất phẫn nộ. Việc xin tiền người dân và doanh nghiệp đóng góp vào quỹ vắc xin đã được cả thế giới biết đến, vì hầu như không có một chính phủ, một quốc gia nào trên thế giới làm như vậy. Triển khai thực hiện: Việc triển khai thực hiện như số liệu ở trên đã nêu rõ, một tỷ lệ tiêm đủ hai liều theo quy định của Việt Nam quá thấp so với bình quân chung của thế giới. Trong điều kiện cần phải thực hiện tiêm chủng nhiều người, tiêm chúng nhanh thì quá trình chuẩn bị là yêu cầu số một. Việc chuẩn bị triển khai trên quy mô cả nước cần một kế hoạch lớn và chu đáo, liên quan tới nhiều ngành, nhiều cấp, cần sự phối kết hợp của rất nhiều cơ quan địa phương và ban ngành. Nhưng với việc thiếu chuẩn bị tổng thể, không có nguồn lực nhập khẩu vắc xin, không có kế hoạch triển khai tổng thể tiêm chủng trong thời gian ngắn… thì kết quả tiêm chủng của Việt Nam hiện nay chính là phản ánh hệ quả tất yếu của tất cả các khâu trong chiến lược vắc xin của chính phủ. Và đó là một thất bại toàn diện, rất ê chề. Hà Nội, ngày 16/6/2021 Nguyễn Vũ Bình - nguyenvubinh's blog    
......

Thông tin và sự thật.

Nền báo chí Khuyết Tật Việt Nam  Lưu Trọng Văn Trước thông tin ông Trần Văn Nam bí thư Bình Dương tuyên bố rút lui Quốc hội (QH) do sức khoẻ không tốt, tay viết có nghề phải đặt ngay câu hỏi sự thật vì sao? Vì ở thể chế này leo lên làm lãnh đạo bằng mọi giá thì sẽ bằng mọi giá bám ghế đến cùng.   Chỉ khi người viết báo dám tìm ra sự thật và đi đến cùng sự thật một loạt thông tin và vấn đề mới được mở ra. -Ông Nam biết mình đang bị thanh tra về các tiêu cực nên xin rút khỏi QH, như vậy lý do sức khoẻ là dối trá vì ông biết sức khoẻ không tốt thì sao không từ hết các chức vụ đi và cố đấm ăn xôi ứng cử QH làm gì?   -Vì sao ông Nam đã dính tiêu cực từ 10 năm trước về đất đai mà vẫn lên chức vù vù, phó chủ tịch tỉnh lên chủ tịch tỉnh, phó bí thư lên bí thư?   -Hệ thống kiểm tra giám sát ở đâu mà ông Nam dễ dàng lọt qua các quy trình được ca ngợi là "chặt chẽ" để thành Đại biểu quốc hội nhiều khoá và để được cử, được bầu là uỷ viên trung ương đảng đầy quyền lực?   -Với việc ông Nam cuối cùng cũng bị kỷ luật chắc chắn phải nhờ có những đảng viên tử tế, trung thực dũng cảm, kiên trì nhiều năm đấu tranh mới dẫn đến kết quả này. Vậy họ là ai? Quá trình họ đấu tranh và bị bầm dập ra sao?   -Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã ra quyết định kỷ luật không chỉ ông bí thư Nam mà hàng loạt lãnh đạo hàng đầu của Bình Dương, chứng tỏ đây là tiêu cực cả bè lũ. Làm sao cả một tập thể lãnh đạo tiêu cực lại tồn tại thời gian dài được? Tuy vậy người viết báo ở VN hiện nay hầu như bị buộc phải bằng lòng với giới hạn một thông tin nào đó rồi cho qua mà không thể, đúng hơn là không được phép đào xới đến tận cùng thông tin ấy, dẫn đến trên các mặt báo nhiều thông tin nhưng không có chiều sâu và sự thật cuối cùng. Với bạn đọc sự thật là điều họ cần biết sau mỗi thông tin.   Với một quốc gia  muốn phát triển tiến bộ thì không có vùng đệm, không có vùng cấm lên án cái xấu xa dù của bất cứ ai.   Sự kiện ông Nam cùng hàng loạt lãnh đạo Bình Dương bị khép lại sau quyết định kỷ luật của Uỷ ban kiểm tra trung ương. Có nghĩa là mới giải quyết phần ngọn của thông tin và phần váng của sự thật.   Bởi đi đến tận cùng của sự thật phải vượt qua tường lửa vùng cấm, đó là trách nhiệm của hệ thống chính trị cùng quy trình tuyển chọn nhân sự lãnh đạo các cấp kể cả cấp cao nhất cùng trách nhiệm của những người tạo ra và dung túng hệ thống cũng như quy trình ấy.   Hôm nay ngày Nhà báo Cách mạng VN. Hai chữ "Cách mạng"sẽ trở nên hài hước, khi báo chí chỉ là công cụ của hệ thống nhà nước chi phối thông tin và điều tiết sự thật, chứ không phải là quyền lực thứ tư bên cạnh hành pháp, tư pháp, lập pháp.   Chỉ khi báo chí thật sự chi phối thông tin, sự thật trên nền tảng hiến pháp, pháp luật thì mới có tính Cách mạng mà thôi.  
......

Vô đạo đức đến thế là cùng...!

Ảnh: Thái Hoà Phạm Minh Vũ Sáng trưa chiều tối, gần một năm nay, nhất là dịch bệnh Vũ Hán lần thứ tư xảy đến, bếp ăn từ thiện có tên là Gieo Duyên ở Tân Bình- Saigon do gia đình chị Thái Hoà thực hiện đã giúp rất nhiều người có hoàn cảnh ngặt nghèo, khó khăn, cụ bán vé số, em bé nhặt ve chai. Nhất là Saigon phong tỏa lần 2 liên tiếp trong lần thứ 4 này, và nâng mức độ gắt hơn, thì cần lắm những bếp ấm áp tình người như vậy. Vì một lẽ, chính phủ, nhà nước bỏ rơi người nghèo bên lề xã hội, nhà nước không hề đoái hoài đến họ.   Bao hoàn cảnh cơ nhỡ, không nơi nương tựa cứ thế mà được ấm lòng nhờ bếp ăn này ra đời. Bếp hoạt động hoàn toàn miễn phí, bởi nhiều tấm lòng hảo tâm gửi gắm tình cảm qua đây để chia sẻ tới những người yếu thế trong xã hội. Không chỉ nấu cơm miễn phí, mà bếp còn mở cửa hàng rau 0 đồng để hỗ trợ người bị ảnh hưởng do dịch.   Bếp ra đời có hành động ý nghĩa là thế, vậy mà chị Thái Hoà ngày hôm qua đã thông báo bếp phải dừng lại do “chính quyền đã lên tiếng và cưỡng chế, yêu cầu dừng hoạt động bếp vì hành vi tụ tập đông người”. Sao lại vô đạo đức và bất nhẫn đến thế?   Bếp chỉ hoạt động gia đình, có được mấy mống người mà lại cấm? Trong khi đó chợ và siêu thị, các cửa hàng cơm bán vẫn đầy người đứng mua vậy sao không cấm?   Sao các ông vô đạo đức thế? Có phải vì các quán cơm hay chợ hoặc siêu thị vẫn hoạt động là do họ đóng tiền bảo kê cho các ông nên các ông không cấm. Còn bếp cơm gia đình là tự phát, các ông không chấm mút được gì nên bắt đóng phải không? Chắc là thế rồi.   Hàng ngày, chứng kiến những gì đang diễn ra trên đất nước hôm nay, không ai có thể mà cầm lòng được khi xã hội phân hoá thành nhiều cực rõ rệt. Xã hội phân chia giai cấp rất sâu sắc, một xã hội vô cùng bất công. Không ai thấy mà lại im lặng được.   Sao các ông vô đạo đức thế?   Trong khi Âu Châu người dân thoải mái tụ tập xem bóng đá cúp, thì Việt Nam lại phong tỏa, dịch bệnh ngày càng nghiêm trọng hơn, trong khi Châu Âu người dân được chính phủ hỗ trợ giúp đỡ bằng mọi cách thì ở Việt Nam các ông quyết để cho dân sống chết mặc kệ, hơn thế nữa là tìm mọi cách để kiếm ăn, bóc lột tới tận cùng.   Xứ người ta được như thế là do chính phủ họ có trách nhiệm với nhân dân của họ. Còn tại VN, dịch bệnh bùng phát lần này chắc chắn không phải do lỗi người dân VN, bằng chứng hơn 1 năm qua, trải qua 3 lần dịch các ông đã rút ra nhiều kinh nghiệm chống dịch và làm sao để khống chế dịch. Vì vậy, để xảy ra dịch lần này nghiêm trọng là lỗi thuộc về các ông:   Thứ nhất không ngăn chặn sớm hơn, biết dịch nghiêm trọng vẫn để dân ăn chơi ngày “giải phóng”. Thứ 2 là bắt dân đi làm căn cước công dân, thứ 3 là ép dân tụ tập đi bầu cử và sau đó là bung.   Điều quan trọng nhất, người dân Châu Âu tụ tập trong sân bóng đá không đeo khẩu trang gì hết là do họ đã tiêm vaccine. Nhờ chính phủ họ vì dân, nên không kỳ kèo lập Quỹ quyên góp, không bắt em bé 5 tuổi đập heo nộp 100 triệu, càng không cần bắt cụ già 97 tuổi đưa tiền đám ma cho chính phủ họ. Họ đã dự liệu xong cả rồi và giờ được như thế.   Hơn một năm qua các ông đủ mọi ngành chém gió rất ghê gớm, nào dịch ra đi nắng hè rực rỡ, nào cam kết 10 ngày là hết dịch, giờ thì sao? Bung và toang cả rồi. Tất cả là sự yếu kém cả một hệ thống chính trị bất tài, thích nổ mà lại cầu may tới đâu hay tới đó.   Dịch bệnh do các ông yếu kém mới ra như thế. Đã không giúp dân, lại còn trơ trẽn xin đểu dân, lại đểu cáng hơn lại bắt dân mua vaccine, và điều lưu manh nhất là bỏ rơi Người nghèo trong trân dịch đang càn quét những người yếu thế này. Để dân tự lo cho nhau tưởng là ổn, ai ngờ các ông vô đạo đức tới nổi cắt luôn mạch máu của người nghèo, người yếu thế trong xã hội thì mai họ ra sao?   Hôm nay hàng ngàn người sống lây lất chờ vào bếp cơm từ thiện như thế, các ông yêu cầu dừng rồi người nghèo họ sẽ sống sao. Đến ngay rới rác cũng ế thì họ sống sao đây?   Các ông ra một quyết định thiếu tình người, duy ý chí, chỉ vì sợ trách nhiệm mà không định lượng sự việc sẽ ảnh hưởng như thế nào.   Các ông có bếp thay thế để giúp người nghèo đang sống dựa vào bếp cơm như thế không?   Một chính quyền vô đạo đức.    
......

Startup Thành công

Phạm Minh Vũ   Hiện nay, giới trẻ Việt Nam đang rộ lên phong trào Start-up (khởi nghiệp), hy vọng có một sự nghiệp vững bằng năng lực thật sự.   99% đều thất bại, trong đó 70% vì không có kinh nghiệm,29% vì không có một chính sách dài hạn, bền vững. Trong đó bán mỹ phẩm, nông trại, hay mở quán càphê, hay homestay.V.v. khi dịch bệnh bùng phát thì ngày càng thất bại nặng nề.   Hiện nay, trong xã hội Việt Nam đang có mô hình làm giàu không khó như làm từ thiện, cũng là nghề đang được sự quan tâm nhiều người, Hoài Linh hay Đàm Vĩnh Hưng cũng đang theo đuổi, nhưng không may có lẽ khi gặp chị Đại Nam, mô hình làm giàu kiểu đó nó gần như không còn hiệu quả vì đã bão hoà. Trong môn học chủ nghĩa Mác, phương pháp biện chứng khoa học lấy Nguy biến Thành cơ là một phương pháp hiệu quả nhất, áp dụng trong kinh tế lẫn xã hội.   Áp dụng phương pháp này vào chương trình Startup hôm nay, thì tôi xin khẳng định thất bại gần như bằng 0.   Nó có quy trình 5 bước sau để làm giàu:   Bước một là: Tuyên bố tiêm miễn phí (cái này thường kèm theo tuyên bố nhân đạo, gây sự chú ý)   Bước 2: vận động gây quỹ ( kéo cả chủ tịch nước, thủ tướng, lên truyền hình khóc khóc để nghẹn ngào xúc động) cái này gọi là tác động tâm lý khách hàng.   Bước 3: Lấy tiền bỏ ngân hàng rồi mai mốt lắng xuống chia nhau, to ăn to nhỏ ăn nhỏ.   Bước 4: xin Vaccine Mỹ, Nhật, Úc...   Bước 5: bán lại cho Dân.   Khởi nghiệp Kiểu này muốn thất bại thì khó hơn lên trời.   Ảnh: RFA Cái này trong kinh doanh gọi là đỉnh cao của sale, nghệ thuật chốt đơn.    
......

Mời hổ vào nhà rồi thuê người canh nó đừng ăn thịt mình!

Nguyen Ngoc Chu  · Người dân đã khổ với mưu kế của quan. Nay lại thêm rợn người với mưu kế của những người dán mác có chữ.   MỜI HỔ VÀO NHÀ RỒI THUÊ NGƯỜI CANH NÓ ĐỪNG ĂN THỊT MÌNH!    Chỉ trích cá nhân là điều nên tránh. Nhưng khi đã động chạm đến lợi ích quốc gia thì không thể nể nang.   Vietnam Finances ngày 18/6/2019 có đăng ý kiến của ông Huỳnh Thế Du “Để nhà thầu Trung Quốc xây cao tốc Bắc - Nam, mời tư vấn Nhật Bản giám sát”: “Việt Nam có thể áp dụng giải pháp: để các nhà thầu Trung Quốc xây dựng và mời tư vấn Nhật Bản giám sát. Khả năng hai anh này bắt tay với nhau là rất thấp vì đang là đối thủ cạnh tranh một mất một còn.” “Khi đó, Trung Quốc có khả năng xây đường chi phí thấp và chất lượng cao và Nhật Bản giám sát thì con muỗi cũng không thể chui lọt. Việt Nam sẽ là ngư ông đắc lợi”.   1. Thứ nhất, ông Huỳnh Thế Du không hiểu thành ngữ “Ngư ông đắc lợi”. Việt Nam trả tiền xây đương cao tốc cho cả nhà thầu thi công và nhà thầu giám sát thì làm sao gọi là “Ngư ông đắc lợi” được. Có phải hai nhà thầu tranh nhau làm đường và giám sát miễn phí cho Việt Nam đâu mà “Ngư ông đắc lợi”.   2. Hai là, ông Du vận dụng quan hệ Nhật Bản và Trung Quốc không đúng chỗ. Một nhà thầu thi công, một nhà thầu giám sát, cả hai phía nhận tiền của chủ đầu tư Việt Nam, họ phải làm tốt công việc của mình, nếu không chủ đầu tư Việt Nam “đuổi cổ” họ đi. Có gì mà họ phải “cạnh tranh một mất một còn” ở đây?   3. Ba là, nhận xét của ông Du: “Trung Quốc có khả năng xây đường chi phí thấp và chất lượng cao” là mê muội.   Xin hỏi ông Du: Công trình nào của Trung Quốc trên đất Việt Nam có giá thành thấp và chất lượng cao? Có phải đó là đường sắt Cát Linh – Hà Đông không?   4. Bốn là, không ai ngu si mà rước hổ vào nhà rồi lại thuê người canh để nó khỏi ăn thịt mình cả!   Người dân đã khổ với mưu kế của quan. Nay lại thêm rợn người với mưu kế của những người dán mác có chữ.   Xin ông Huỳnh Thế Du đừng hiến kế nữa. Đất nước rồi sẽ bị tan nát nếu nghe theo mưu kế rước họa vào nhà của ông Huỳnh Thế Du.  
......

Cộng Sản và lịch sử

Hiếu Chân - Người Việt Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập vào ngày 1 tháng Bảy sắp tới. Trong nhiều công việc chuẩn bị, có một lĩnh vực mà Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình coi trọng nhất: Viết lại lịch sử của đảng và đất nước Trung Quốc nhằm đề cao những thắng lợi – nhiều phần tưởng tượng hoặc phóng đại – và che giấu những tội ác ghê tởm mà đảng đã gây ra cho nhân dân Trung Quốc suốt 100 năm qua. Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cũng như các đồng đảng ở Liên Xô cũ, ở Việt Nam và một số nước khác, có truyền thống xuyên tạc lịch sử để phục vụ các mục đích chính trị trong từng thời kỳ. Những văn kiện được sửa đổi, hình ảnh bị bôi xóa, sách giáo khoa lịch sử và viện bảo tàng được chỉnh lý để ghi dấu cho đời sau những chiến công “hiển hách” chống thực dân đế quốc giành độc lập, những nhân vật anh hùng tưởng tượng sống giản dị khiêm tốn, một lòng một dạ hy sinh cho đất nước quê hương. Nhưng như nhận định của tạp chí Foreign Policy, nghiên cứu lịch sử dưới chế độ Cộng Sản là “xóa bỏ lịch sử – xóa bỏ mọi dữ kiện trái với câu chuyện về thắng lợi hoàn toàn của đảng.” Không ở đâu thể hiện rõ chân lý đó hơn là công cuộc chỉnh sửa lịch sử đang thực hiện ở Trung Quốc hiện nay. Cho đến thế kỷ 21, đảng Cộng Sản Trung Quốc tập trung chủ yếu vào lịch sử ô nhục của đất nước Trung Hoa dưới sự chèn ép của các cường quốc phương Tây và Nhật trong cái gọi là “Một Trăm Năm Nhục Nhã” từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, nhằm khơi dậy trong dân chúng nỗi căm thù thực dân đế quốc và ghi ơn công cuộc giải phóng của đảng Cộng Sản Trung Quốc, lập ra đời nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Đài tưởng niệm, bảo tàng mọc lên như nấm sau mưa trên toàn đất nước Trung Quốc, ghi khắc bằng bê tông cốt thép câu chuyện hào hùng của đảng Cộng Sản Trung Quốc; sách giáo khoa và toàn bộ các phương tiện truyền thông đều tập trung quảng bá câu chuyện này mà không được đề cập đến những thảm cảnh mà người dân phải chịu đựng dưới sự cai trị độc tài toàn trị của đảng, dưới những chính sách “cách mạng” đầy hoang tưởng của các “lãnh tụ anh minh.” Chương trình Đại Nhảy Vọt (Great Leap Forward) năm 1958-1962 dẫn tới thảm họa hàng chục triệu người chết đói; nhiều nơi người dân phải ăn thịt lẫn nhau để sống; hay cuộc Cách Mạng Văn Hóa 1966-1967 phá hủy toàn bộ nền tảng tinh thần và đạo đức của người dân Trung Hoa và thủ tiêu hàng triệu sinh mạng… đều không được đề cập công khai; nếu giới nghiên cứu thỉnh thoảng có bàn tới những biến cố lịch sử khủng khiếp này thì đều cho rằng đó chỉ là những sai lầm, khuyết điểm trên con đường cách mạng và đã được sửa chữa; người khởi xướng ra chúng, ông Mao Trạch Đông, vẫn được đảng Cộng Sản Trung Quốc đánh giá là “bảy phần công, ba phần tội.” Nhà lãnh đạo có quan điểm cải cách của Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình, từng cố gắng diễn dịch lại lịch sử hiện đại Trung Quốc, không ngại phê phán một số sai lầm của cố Chủ Tịch Mao Trạch Đông trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa đầy thảm họa những năm 1966-1967. Nhưng Đặng không chủ tâm lật đổ Mao; hình ảnh của Mao vẫn ngự trị chính trường và xã hội Trung Quốc; chân dung của ông ta vẫn treo cao trên quảng trường Thiên An Môn. Vạch ra những sai lầm của Mao là cách để Đặng lên án chủ nghĩa sùng bái cá nhân và chế độ cai trị độc tài của một “hoàng đế đỏ;” từ đó đưa ra một mô hình cai trị tập thể và thu hẹp dần sự thống trị của đảng Cộng Sản Trung Quốc trong đời sống kinh tế-xã hội Trung Quốc. Biến cố Thiên An Môn năm 1989 – hàng ngàn sinh viên biểu tình ôn hòa đòi cải cách chính trị dân chủ, đã dập tắt ý định cải tổ của Đặng về phương diện chính trị và lịch sử dù ông ta vẫn nỗ lực cải cách về kinh tế và thương mại để đưa Trung Quốc khỏi tình trạng nghèo đói kinh niên dưới thời Mao. Ông Tập Cận Bình đi xa hơn trong công cuộc củng cố chế độ độc tài toàn trị bằng cách tập trung quyền lực vào tay cá nhân ông và tái lập sự kiểm soát toàn diện của đảng Cộng Sản Trung Quốc, kể cả viết lại câu chuyện lịch sử Trung Quốc để thúc đẩy dân chúng ủng hộ đảng của ông. Tháng Giêng, 2013, tức là chỉ vài tuần sau khi lên làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc, ông Tập đã chỉ thị cho các cán bộ cao cấp của đảng phải cảnh giác với các thế lực thù địch đang tìm cách lật đổ đảng Cộng Sản Trung Quốc bằng cách bôi nhọ lịch sử của đảng. Nhờ kinh tế phát triển mạnh dưới thời Đặng và những thập niên sau đó, Tập có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng một thứ chủ nghĩa dân tộc toàn trị, lấy đảng Cộng Sản Trung Quốc làm trung tâm, để chống lại trào lưu dân chủ hóa đang dâng trào như thác lũ trong thế kỷ 21. Tháng Tư, 2013, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng này đã cho lưu hành một tài liệu mật có tên “Thông cáo về tình trạng hiện hành của ảnh hưởng ý thức hệ” (Communique on the Current State of the Ideological Sphere), gọi tắt là tài liệu số 9. Cũng như mọi văn kiện quan trọng của đảng, toàn bộ đảng viên, cán bộ phải học tập và áp dụng vào công việc của mình. Văn kiện nhấn mạnh tới việc khẳng định sự đúng đắn của đảng về ý thức hệ, yêu cầu giới truyền thông và mọi cơ quan phải tuân thủ đúng đường lối; ngăn chặn việc “đặt vấn đề sự thật lịch sử” mà phải tin vào quyết định của đảng đối với các sự thật đó. Lần đầu tiên, văn kiện này đưa ra khái niệm “chủ nghĩa hư vô lịch sử (historical nihilism): “Mục tiêu của chủ nghĩa hư vô lịch sử là núp bóng cái gọi là đánh giá lại lịch sử để bóp méo lịch sử đảng và lịch sử nước Trung Quốc mới,” văn kiện viết. Từ đó lịch sử Trung Quốc hiện đại là câu chuyện do đảng Cộng Sản Trung Quốc đưa ra theo chỉ đạo của ông Tập Cận Bình, trong đó đảng Cộng Sản Trung Quốc là vị cứu tinh đưa dân tộc Trung Hoa thoát khỏi nỗi ô nhục trăm năm, xây dựng nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa giàu mạnh và đang trên đường thực hiện “giấc mộng Trung Hoa,” trở thành cường quốc thống trị thế giới. Những tội ác của đảng này cơ hồ đã được gột sạch khỏi sách vở, truyền thông, sâu xa hơn là loại ra khỏi ký ức của người dân Trung Quốc. Sách vở không nói tới, và việc tìm kiếm thông tin trên mạng trực tuyến về những biến cố gắn liền với tội ác của đảng Cộng Sản Trung Quốc đều bị ngăn chặn triệt để đã làm cho những thảm họa đó phai tàn dần trong trí nhớ của người dân, nhất là khi các thế hệ chứng kiến hoặc nạn nhân của thảm họa đã qua đời mà không thể truyền lại ký ức cho con cháu. Vụ thảm sát Thiên An Môn chấn động địa cầu mới xảy ra chưa lâu (Tháng Sáu, 1989) chẳng hạn, gần như không người trẻ nào của Trung Quốc lục địa còn biết tới, đến nỗi nhà nghiên cứu Lousia Lim phải đặt tên cho công trình khảo cứu về vụ Thiên An Môn của mình là “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Quên Lãng” (The People’s Republic of Amnesia) – cuốn sách được tuần báo The Economist bình chọn là xuất sắc nhất năm 2014. Hai năm trước, ông Tập cho thành lập Viện Hàn Lâm Lịch Sử với nhiệm vụ “chỉnh đốn quan điểm về lịch sử,” chuẩn bị cho đại lễ 100 năm thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc. Một trong những công việc chính của viện là chỉnh sửa bộ sách “Lịch sử tóm tắt đảng Cộng Sản Trung Quốc,” xuất bản hồi Tháng Hai, 2021, dùng làm tài liệu học tập trong đảng và trong hệ thống trường học Trung Quốc. Trong bản sửa đổi này, các chương sách “những bài học lịch sử không nên quên” dưới thời Mao như cuộc Đại Nhảy Vọt và Cách Mạng Văn Hóa – hàng loạt vụ thanh trừng “các phần tử phản cách mạng” tàn phá xã hội Trung Quốc và hàng triệu người chết đều bị cắt bỏ. Thay vào đó các tác giả chỉ tập trung vào những thành tích công nghiệp, công nghệ và ngoại giao dưới thời Mao. Ngay cả những châm ngôn của Đặng Tiểu Bình về cuộc đổi mới Trung Quốc cũng đã bị loại bỏ, kể cả lời dạy của ông Đặng rằng Trung Quốc phải “thao quang dưỡng hối,” ẩn mình chờ thời. Một phát biểu đáng chú ý của Đặng năm 1989 về cải cách cơ chế chính trị Trung Quốc, từ bỏ sự chuyên chế cá nhân để chuyển sang tập thể lãnh đạo: “Xây dựng số phận của một dân tộc trên danh tiếng của một hoặc hai người là chuyện rất không lành mạnh, rất nguy hiểm,” cũng đã bị ông Tập cho cắt bỏ. Cuốn sách 531 trang còn dành một phần tư nội dung cho tám năm cầm quyền của ông Tập trong khi chỉ dành một nửa số trang như vậy cho Đặng Tiểu Bình, vị cứu tinh thực sự của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Trước ngày kỷ niệm 100 năm thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc, đích thân ông Tập đã có nhiều bài phát biểu, bài đăng báo, đòi hỏi người dân Trung Quốc “đóng gói lại quá khứ” (repackage the past) để hướng tới sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tạp chí Cầu Thị – tạp chí lý luận chính thức của đảng Cộng Sản Trung Quốc – số 12-2021 ra ngày Thứ Tư, 16 Tháng Sáu, đã đăng trang trọng bài viết của ông Tập “nhấn mạnh nhu cầu hiểu biết lịch sử Trung Quốc, rút kinh nghiệm từ quá khứ, có cái nhìn đúng đắn về các sự kiện lớn, các nhân vật quan trọng trong lịch sử của đảng và của đất nước,” theo tường thuật của hãng tin nhà nước Tân Hoa Xã. “[Bài viết của ông Tập] kêu gọi các đảng viên đảng Cộng Sản Trung Quốc, công chúng Trung Quốc nói chung, hãy học tập kỹ lưỡng và hiểu biết sâu sắc lịch sử của đảng và của nước Trung Hoa mới để tiến hành lý tưởng vĩ đại của chủ nghĩa xã hội,” Tân Hoa Xã ca tụng. Ngày nay Trung Quốc đang đối mặt với những thách thức bên ngoài như áp lực của Hoa Kỳ và những bất đồng nội bộ chung quanh cách thức xử lý đại dịch COVID-19. Trong hoàn cảnh đó đảng Cộng Sản Trung Quốc phải ra sức dập tắt mọi ý định xét lại những tội lỗi của đảng trong quá khứ và cổ vũ cho ý tưởng rằng đảng là một lực lượng “bất khả chiến bại” đã đi qua chiến tranh và hỗn loạn để lèo lái sự trỗi dậy của Trung Quốc. “Thông qua việc học tập lịch sử, sẽ không khó nhận ra rằng, không có sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đất nước và dân tộc Trung Hoa sẽ không thể có được những thành quả ngày hôm nay, không có được vị thế quốc tế ngày hôm nay,” ông Tập viết và khẳng định “Sẽ không được mơ hồ, dao động về nguyên tắc căn bản là duy trì sự lãnh đạo của đảng.” Trước thời điểm bài viết của ông Tập đăng trên tạp chí Cầu Thị, báo The South China Morning Post đưa tin các cơ quan quản lý mạng Internet của nước này đã xóa bỏ hai triệu bài đăng trên mạng có nội dung thảo luận “nguy hại” về lịch sử, “đầu độc môi trường mạng” hoặc tấn công vào các nhà lãnh đạo và trái với câu chuyện chính thức của đảng về lịch sử Trung Quốc. Cơ quan quản lý mạng Trung Quốc còn thiết lập “đường dây nóng” để công chúng tố giác những trường hợp “chủ nghĩa hư vô lịch sử,” tức là những bài viết, phát biểu phê phán các nhà lãnh đạo đảng, các chính sách của đảng hoặc phủ nhận “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến.” Những người vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng theo một đạo luật an ninh mạng năm 2018. Trong khi đó, cả xã hội Trung Quốc được huy động vào một chiến dịch học tập lịch sử quy mô chưa từng có từ sau thời Mao, thực chất là chiến dịch tuyên truyền về “công ơn” của đảng Cộng Sản. Các nhà hát dàn dựng những chương trình ca nhạc theo chủ đề “Không có đảng Cộng Sản, không có nước Trung Hoa Mới.” Cán bộ đảng viên và sinh viên tranh nhau trong những cuộc thi tìm hiểu lịch sử đảng. Cơ quan kiểm duyệt soát lại sách báo sắp xuất bản để loại bỏ những câu chữ nói về tội ác độc tài của Mao. Bộ Giáo Dục đưa vào đề thi tuyển sinh đại học những câu hỏi về lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc để “hướng dẫn học sinh kế thừa mạch máu đỏ”…. Ngay cả các công ty tư nhân, văn phòng luật sư, thậm chí một đền thờ Thần Tài ở Thượng Hải cũng tổ chức các lớp học về lịch sử đảng cho nhân viên; các viện bảo tàng và đài tưởng niệm tổ chức các tour du lịch đỏ (red tourism); còn các hãng hàng không tổ chức hát tập thể và đọc thơ trên các chuyến bay về đề tài lịch sử đảng… Các quan sát viên Trung Quốc và nước ngoài đều bình luận sự phục hồi các quan điểm cộng sản về lịch sử, phục hồi cung cách tuyên truyền thời Mao Trạch Đông hiện nay là nhằm giúp ông Tập Cận Bình biện minh cho chính sách độc tài cá nhân của ông ta và hợp pháp hóa tham vọng làm lãnh đạo trọn đời thay vì hai nhiệm kỳ trong cuộc đại hội sắp tới của đảng Cộng Sản Trung Quốc vào năm sau 2022. Ông Cao Văn Sảnh (Gao Wenqian), nhà sử học của đảng Cộng Sản Trung Quốc, người viết tiểu sử Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai trước khi đào thoát sang Hoa Kỳ sau vụ thảm sát Thiên An Môn, nhận xét: “Mục đích [của việc viết lại lịch sử] là nhằm bảo đảm sự tồn tại của đảng Cộng Sản Trung Quốc và củng cố sự cai trị cá nhân vào thời điểm đang có những sự thay đổi chóng mặt trong tình hình quốc tế.” Một số nhà sử học Trung Quốc phản đối việc viết lại lịch sử để phục vụ mưu đồ chính trị. Một giáo sư nổi tiếng ở Bắc Kinh đã từ chối lời mời của Viện Hàn Lâm Lịch Sử mời cộng tác trong dự án viết lại “Lịch sử tóm tắt của đảng Cộng Sản Trung Quốc” vì cho rằng “Họ đã không theo con đường nghiên cứu học thuật. Những người này làm chuyện này [sửa đổi lịch sử] chỉ để kiếm tiền và thăng quan tiến chức,” ông nói. Nhưng cho đến nay chưa có gương mặt nổi bật nào công khai phản đối việc xuyên tạc lịch sử mà đảng Cộng Sản Trung Quốc đang ráo riết thực hiện nhân kỷ niệm 100 năm thành lập. Những chuyện đang xảy ra ở Trung Quốc cũng có ở Việt Nam, do hai nước theo cùng một ý thức hệ Cộng Sản. Ở Việt Nam lịch sử là do “bên thắng cuộc” nhào nặn theo ý đồ chính trị của họ. Trong cái lịch sử giả tạo ấy, những tội ác của đảng Cộng Sản Việt Nam với đất nước, với dân tộc đều bị bôi xóa và các thế hệ sau sẽ không bao giờ còn biết tới. Vụ “cướp chính quyền” từ tay chính phủ Trần Trọng Kim hồi Tháng Tám, 1945, cuộc thanh trừng các đảng phái quốc gia năm 1946, cải cách ruộng đất làm hàng trăm ngàn người chết và hủy diệt nền tảng văn hóa của xã hội miền Bắc những năm 1953-1955, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm 1958-1960, vụ “Xét lại chống đảng” năm 1956 và cao điểm là cuộc xua quân xâm lược miền Nam 1959-1975… hoặc đều bị xóa khỏi ký ức hoặc được biện minh bằng những lời lẽ hoa mỹ “giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.” Trong cả nước sau ngày hòa bình, những tội ác đày đọa hàng triệu quân dân cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, cải cách công thương nghiệp và cướp tài sản qua ba lần đổi tiền, chính sách đưa dân thành thị đi ra vùng kinh tế mới, đối xử kỳ thị bằng chủ nghĩa lý lịch, ép buộc hàng triệu người phải vượt biển tìm đường sống… đều không được đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức thừa nhận dù họ luôn rêu rao hòa hợp hòa giải. Bị nhồi sọ trong một thứ lịch sử giả tạo đó, thế hệ trẻ trong nước đang mất phương hướng, trở thành những con thiêu thân cho ý đồ của đảng. Tương lai của dân tộc thật là mờ mịt. Ở hải ngoại, một số học giả và nhà nghiên cứu tâm huyết, như các ông bà Trần Gia Phụng ở Canada, Lê Mạnh Hùng ở Anh, Lê Xuân Khoa, Vũ Tường, Liên Hằng ở Hoa Kỳ vẫn nỗ lực tìm hiểu và viết lại lịch sử Việt Nam theo tinh thần khoa học, khách quan hơn. Công trình nghiên cứu lịch sử của họ, cùng với những trước tác đã xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 như hồi ký của các cụ Trần Trọng Kim, Cao Văn Luận, Hoàng Văn Chí, biên khảo của Tạ Chí Đại Trường và nghiên cứu của nhiều học giả Mỹ, Pháp, Đức có thể giúp “đính chính” lại những sự bóp méo, xuyên tạc của đảng Cộng Sản ở trong nước. Đây là những học giả tư nhân, kiến giải của họ có chỗ đúng có chỗ cần thảo luận thêm nhưng dứt khoát không phải là việc bóp méo lịch sử theo những yêu cầu chính trị của kẻ cầm quyền. Những nỗ lực như vậy cần được ủng hộ và nhân rộng. Hiếu Chân    
......

Pages