Vừa Hồng Vừa Chuyên Là Giáo Điều Lạc Hậu

Phạm Trần - huynhngocchenh.blogspot| Với bản lĩnh giáo điều, bảo thủ và cực đoan ngoại hạng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng sản Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo đầu tiên công khai chính trị hóa giáo dục để “nhuộm đỏ”  thầy cô, học sinh và  sinh viên. Bằng chứng được phơi bầy trong thư gửi ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2019-2020. Ông Trọng đã yêu cầu :”Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, đạo đức, lối sống, lý tưởng cách mạng cho học sinh, sinh viên.” (theo Thông tấn xã Việt Nam,TTXVN, ngày 01/09/2019) Tuy ông không nói ra, nhưng ai cũng biết điều gọi là “truyền thống lịch sử”  bao giờ cũng phải ưu tiên ca tụng vai trò giữ nước và dựng nước của đảng CSVN và người thành lập đảng là ông Hồ Chí Minh. Ngược lại, mặt  trái của “truyền thống” ấy, bao gồm cả những sai lầm và hệ lụy của 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động lại chưa bao giờ được ghi trong sách sử Việt Nam Cộng sản. Vì vậy cả thầy, cô, học sinh và  sinh viên qua nhiều thế hệ đã  bị đánh lừa bởi thứ  lịch sử một chiều do đảng dựng lên. Do đó, khi ông Trọng đòi phải giáo dục cả “lý tưởng cách mạng cho học sinh, sinh viên” là ông muốn tẩy não cả một thế hệ bằng mớ giáo điều Cộng sản để làm cách mạng và xây dựng đất nước dựa trên  Chủ nghĩa Mác-Lenin. Nhưng ông Trọng lại làm như không biết rằng tuyên truyền Chủ nghĩa Cộng sản cho học sinh, từ tiểu học  đền lớp 12 là hành động giáo điều, bảo thủ và  đầu độc tuổi trẻ.  Ông tưởng rằng, càng nhồi sọ sớm bao nhiêu thì càng dễ uốn nắn thiếu niên đi theo lề đảng chăng ? Không những ông sai mà cả hệ thống giáo dục của đảng cũng sai nên mới có chuyện học sinh, sinh viên Việt Nam không muốn học môn lịch sử  vì nội dung thiếu trung thực và đầy rẫy tuyên truyền, khi nào cũng “ta thắng địch thua”. Ông Nguyễn Phú Trọng còn viết trong thư:”Tôi mong các thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, người lao động ngành giáo dục luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp “trồng người”. Nhưng “giữ vững bản lĩnh chính trị”  là “chính trị” gì ? Có phải ông đòi mọi người phải tuyệt đối trung thành với Đảng và kiên định Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tường Cộng sản Hồ Chí Minh như quy định trong Cương lĩnh đảng ? Hay ông còn muốn răn đe không được quan liêu, suy thoái đạo đức, tham nhũng, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” như ông từng ra rả với cán bộ, đảng viên trong 2 năm qua ? Đối với học sinh, sinh viên, ông Nguyễn Phú Trọng ngỏ ý:” Mong các em học sinh, sinh viên tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, noi theo các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập tốt, rèn luyện tốt để sau này trở thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên” như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Tại sao cho đến bây giờ, khi Thanh, thiếu niên thế giới đã ăn sâu, bám rễ với nền khoa học điện tử thay đổi từng giây mà ông Trọng vẫn còn âm u trong cõi vừa “hồng”, vừa “chuyên”  với tuổi trẻ Việt Nam ? Chẳng lẽ ông lại muốn xiềng xích chân tay họ  để  ông mặc sức độc tài ở tuổi 75 thời “đổi mới” ? TRẦN ĐẠI QUANG-TRƯƠNG TẤN SANG Vậy ta thử so sánh những lời “đao búa” của ông Trọng với vài bức thư gửi thầy cô, học sinh và sinh viên của hai Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Trương Tấn Sang xem khác nhau ở chỗ nào ? Trong thư phổ biến  ngày 31 tháng 8 năm 2018,  Chủ tịch Trần Đại Quang viết những điều phi chính trị rằng :”Bước vào năm học mới, ngành Giáo dục cần phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng tốt nhất yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước. Tăng cường quản lý nhà nước, kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện, có giải pháp khắc phục hiệu quả những thiếu sót, hạn chế, đưa nền giáo dục nước ta phát triển vững chắc. Chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Quan tâm hơn nữa con em các đối tượng chính sách, đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho mọi người dân.” Kết luận, ông Quang tâm tình:”Tôi mong các thầy giáo, cô giáo giữ vững ngọn lửa đam mê với sự nghiệp giáo dục, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong dạy học; các em sinh viên, học sinh phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, ý chí vươn lên, thi đua học tập tốt, rèn luyện tốt để mai sau cống hiến cho nước nhà.” Ông Trần Đại Quang đã đột ngột qua đời  ngày 21/09/2018. Trong khi đó, trong thư gửi ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2015 – 2016, ông Trương Tấn Sang đã  viết như cảm ơn:” Trong điều kiện còn rất nhiều khó khăn, các thầy giáo, cô giáo, nhất là các thầy giáo, cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đã vượt lên mọi khó khăn, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào tạo, có những đóng góp thầm lặng nhưng hết sức to lớn cho đất nước. Tôi mong các thầy giáo, cô giáo tiếp tục cố gắng, có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp “Trồng người” cao cả, hết sức vẻ vang.” Đối với học sinh và sinh viên, ông Sang bắt đầu:” Các em học sinh, sinh viên yêu quý! Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Tôi mong các em tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, noi gương các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập tốt và rèn luyện tốt để mai này lập thân, lập nghiệp, trưởng thành, góp phần đưa đất nước ta sánh vai với bè bạn năm châu.” Tuyệt nhiên, không thấy hai Chủ tịch nước này viết điều gì “nổ” như ông Trọng. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY Vậy học sinh, sinh viên và lớp Thanh niên, Thiếu nữ đoàn viên của Tổ chức Thnh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thành phần được gọi là “đội  dự bị tin cậy của Đảng” đã làm nên cơm cháo gì theo trông đợi của đảng ? Trong bài viết trên Tạp chí Cộng sản, cơ quan ý luận của Đảng, Lê Quốc Phong, Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, Bí thư thứ nhất của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (TNCSHCM) đã kiểm điểm thành tích sau 10 năm thức hiện “Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/07/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X”  về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.” Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, theo Lê Quốc Phong, vẫn còn hạn chế, đó là: -Việc học tập, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, triển khai học tập 6 bài học lý luận chính trị vẫn chưa đồng bộ, chưa có nhiều giải pháp sáng tạo. -Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao. Công tác dự báo và nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng cho thanh niên ở nhiều nơi chưa kịp thời; việc xử lý các vấn đề nổi cộm phát sinh trong thanh niên còn lúng túng. -Hệ thống báo chí, xuất bản của Đoàn đôi lúc còn chạy theo thị hiếu, phản ánh tiêu cực mà chưa quan tâm định hướng, giáo dục thế hệ trẻ, giới thiệu gương người tốt, việc tốt. -Việc tổ chức phong trào hành động cách mạng tại một số cấp bộ đoàn còn có biểu hiện dàn trải, hình thức, thiếu kiên trì, thiếu hấp dẫn, mới chỉ thu hút một bộ phận thanh niên tích cực tham gia, kết quả thiếu tính bền vững. Hiệu quả triển khai một số phong trào thi đua không rõ nét, thiếu tính thường xuyên. Chất lượng, hiệu quả công tác giới thiệu việc làm cho thanh niên chưa cao. Tổ chức cơ sở đoàn ở một số nơi chưa quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng kết nạp đoàn viên. Công tác quản lý đoàn viên còn lỏng lẻo. Phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức và đoàn kết, tập hợp thanh niên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước chuyển biến chậm. Vẫn còn một bộ phận thanh niên thiếu ý chí phấn đấu, có biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống. Một bộ phận thanh niên yếu thế về cơ hội phát triển. Tình hình vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến phức tạp. Trước đó, vào ngày 23/01/2016, tại phiên thảo luận các văn kiện Đại hội XII,người tiền nhiệm Nguyễn Đắc Vinh nói thẳng:” Cần thẳng thắn thừa nhận, công tác giáo dục thanh thiếu nhi vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi. Một bộ phận giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp. Đặc biệt, nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp rất đáng lo ngại. Những yếu tố đó tác động mạnh mẽ đến thanh thiếu niên và đặt ra yêu cầu cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.” XÔI HỎNG BỎNG KHÔNG Trong khi đó, tại Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 1501/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống (LTCMĐĐLS) cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020”, do Bộ Giáo dục-Đào tạo tổ chức tại Hà Nội ngày 27/12/2018, nhiều thất bại cũng đã được công khai. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa nhấn mạnh tại Hội nghị: “Sau 3 năm triển khai thực hiện Quyết định 1501, công tác giáo dục LTCMĐĐLS cho thanh thiếu niên nhi đồng vẫn còn nhiều hạn chế bất cập: Một bộ phận thanh thiếu niên thiếu bản lĩnh dễ bị lôi kéo, tham gia tệ nạn xã hội. Một số thanh thiếu niên thiếu động cơ học tập rèn luyện đúng đắn. Bạo lực học đường diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Sử dụng mạng xã hội chưa đúng mục đích và công tác truyền thông chưa đạt hiệu quả mong muốn...” Báo cáo tại Hội nghị cũng cho biết:”Trong khi đó, nhiều sinh viên dành quá nhiều thời gian cho việc sử dụng Internet, games online, mạng xã hội nên ngại tham gia hoạt động đoàn thể, hoạt động giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống. Việc áp dụng học chế tín chỉ ở cơ sở đào tạo nên không còn mô hình lớp niên chế (có sĩ số ổn định) nên sinh hoạt Chi đoàn theo lớp gặp khó khăn, nhiều sinh viên lơ là sinh hoạt Đoàn, gây khó khăn trong công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống ở một số trường.” Chỉ ra một số nguyên nhân, Bộ GD&ĐT lý giải: “Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế kéo theo những mặt trái đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, lối sống của thanh thiếu niên, HSSV, tạo ra nhiều nguy cơ, thách thức đến công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống. Việc kiểm soát, ngăn chặn những tác động tiêu cực đến tư tưởng chính trị của thanh thiếu niên, HSSV, đặc biệt là trên Internet, mạng xã hội rất khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần của thanh thiếu niên, HSSV vẫn còn thiếu thốn…” Như vậy, điều mà ông Nguyễn Phú Trọng từng cảnh giác nhiều lần rằng tình trạng “nhạt Đảng, khô đoàn, xa rời chính trị”  trong giới Thanh niên cần phải được ngăn chặn đã như cơn mưa lũ vỡ bờ. Do đó, không ai ngạc nhiên khi nghe ông báo động tại Hà Nội ngày 11/12/2017 rằng  :”Hiện vẫn còn một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng.” Sở dĩ hàng hàng, lớp lớp Thanh niên đã “phai nhạt lý tưởng cách mạng” vì cuộc cách mạng của đảng đã, đang và chỉ để cho đảng viên, nhất là những kẻ có chức và có quyền, có sân chơi để tranh giành quyền lợi và địa vị. Bằng chứng đã cho thấy càng “hồng” và càng “chuyên” bao nhiêu thì hủ bại tham nhũng, mua quan bán tước, lợi ích nhóm, kèn cựa, cấu xé lẫn nhau, tranh giành quyền lợi càng đẻ ra như dòi bọ làm cho người dân đã nghèo càng nghèo thêm  và đất nước đã tụt hậu cảng lạc hậu hơn. -/- Phạm Trần (09/019)
......

Son, Tuấn, Vũ chỉ là… ví dụ!

Trân Văn| Có quốc gia nào mà một doanh nghiệp của nhà nước, hoạt động bằng công quỹ như Mobifone dùng công quỹ mua lại một doanh nghiệp tư nhân như AVG và tự nguyện trả hớ 7.000 tỉ đồng, tính ra giá mua gấp 14 lần giá trị thật? Có quốc gia nào mà cơ quan đặc trách trật tự – trị an như Bộ Công an thản nhiên lấy nhãn “an ninh quốc gia” dán lên những thương vụ như vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG nhằm ngăn chặn lạm bàn về những mờ ám trong mua bán? Có quốc gia nào mà chỉ vì lớn giọng dạy dỗ mọi người phải tận trung với đảng cầm quyền nên được chọn làm rường cột (Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN), tham gia quyết định vận mệnh quốc gia, số phận dân tộc, như Son, Tuấn? Có quốc gia nào mà một số doanh nhân vốn dĩ vô danh đột nhiên nổi như cồn vì thành tỉ phú. Nguồn gốc các khối tài sản kếch xù đều bắt đầu từ được hỗ trợ “mua rẻ, bán đắt” đất đai, cả công thổ lẫn ruộng vườn, nhà cửa của nhiều công dân như Vũ? Có quốc gia nào mà doanh giới liên tục than như bọng vì bị “đè đầu, cưỡi cổ”, bị hệ thống công quyền “vắt” đủ kiểu cho đến khi kiệt sức, phải tuyên bố phá sản hoặc xin tạm ngưng kinh doanh nhưng vẫn có vài doanh nhân càng ngày càng “ăn nên, làm ra”? Có quốc gia nào mà bên cạnh sự thành đạt của một số doanh nhân, luôn luôn có bóng dáng của các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền đủ cấp, đủ ngành, chẳng công khai thì cũng có hơi hướm của sự hỗ trợ bằng chủ trương, chính sách? Có quốc gia nào dù vợ một đàn, con một đống nhưng vẫn được xưng tụng là “cư sĩ”, vì được xem là mẫu mực của cả “kinh doanh” lẫn “tu tập, nên được chọn làm Phó Ban Truyền thông của một trong những giáo hội đông tín đồ nhất như Phạm Nhật Vũ? Có quốc gia nào mà thần quyền tự nguyện trở thành trang sức cho thế quyền, thuyết phục thiên hạ tuân phục thế quyền, chỉ hướng tới “thiện lành”, quên đi sự bất toàn, phi nhân của thế quyền đang gieo rắc khổ đau cho tha nhân? Có quốc gia nào thần quyền gắn bó chặt chẽ với thế quyền, giác ngộ không còn là mục tiêu, tu tập trở thành cơ hội để sống xa hoa, hưởng lạc? Có quốc gia nào mà thế quyền thành công đến thế trong việc tha hóa thần quyền để củng cố vai trò, vị trí của mình? Có quốc gia nào mà thu nhập rất khiêm tốn nhưng đa số viên chức đều giàu có “nứt đố, đổ vách” và rất tự tin trong việc khoe sang, khoe giàu bất kể hệ thống chính trị, hệ thống công quyền ra rả tuyên bố tham nhũng là “quốc nạn”? Có quốc gia nào đã xác định chống tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhưng lại cấm công bố bản kê khai tài sản của các viên chức? Hệ thống tư pháp chưa bao giờ điều tra vì sao viên chức giàu có bất thường mà chỉ tìm xử những kẻ tiết lộ? Có quốc gia nào thừa nhận tham nhũng là quốc nạn nhưng Quốc hội lại tìm mọi cách để gạt đề nghị xem “giàu có bất minh” (viên chức không thể giải thích hợp lý về nguồn gốc tài sản) là tội phạm, ra khỏi Dự luật sửa Luật Phòng – Chống tham nhũng? Có quốc gia nào mà trước nay, tỉ lệ thành viên của đảng cầm quyền trong Quốc hội – nơi đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân – luôn luôn vượt mức 90%, thành ra soạn thảo – ban hành – giám sát thực thi luật pháp luôn luôn bị bóp méo? Có quốc gia nào mà cuộc sống càng ngày càng lầm than, sinh hoạt xã hội càng ngày càng nhiều rủi ro, đầy dẫy bất an nhưng đa số chỉ hoan hỉ khi những cá nhân như Son, Tuấn, Vũ,… ngã ngựa và bỏ qua việc truy nguyên để chặn từ gốc? Có quốc gia nào mà chỉ những cá nhân như Son, Tuấn mới được lựa chọn – sắp đặt để lãnh đạo quốc gia, dân tộc và sát cánh với những cá nhân như Vũ để gom nhặt, biến mồ hôi, nước mắt đồng bào thành của nổi, của chìm, chia chác với nhau? Hệ thống đã lựa chọn – sắp đặt những Son, những Tuấn, đã hà hơi, tiếp sức bơm thổi cho những Vũ trở thành tỉ phú đang tiếp tục lựa chọn – sắp đặt nhân sự cho “đại hội 13” lãnh đạo cả đảng, quốc hội, nhà nước, chính phủ và các ngành, các Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Phạm Nhật Vũ không phải là mục tiêu. Đó chỉ là những ví dụ. Nếu không nhìn ra bản chất, không xác định được cội rễ dẫn tới thảm trạng thì xứ sở này, dân tộc này sẽ tiếp tục mất đủ thứ rồi trắng tay./. Trân Văn| ***** Toàn cảnh diễn biến AVG có liên quan gì đến anh em nhà Vũ, Vượng, Thanh Phượng? Tiến Thịnh Hàng trên: Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Phạm Nhật Vũ. Hàng dưới: Phạm Nhật Vũ, Nguyễn Thanh Phượng, Lê Nam Trà. Ảnh trên mạng (Tài liệu kham khảo) Ông Vũ là con trai thứ 3 của ông Phạm Dương (tên thật là Phạm Nhật Quang). Ông Dương lấy vợ quê ở Hải Phòng, sinh 3 người con gồm: Phạm Nhật Vượng (1968), Phạm Thị Lan Anh (1970), Phạm Nhật Vũ (1972). Cả ba người con của ông Phạm Dương đều sinh ra trên đất Hải Phòng. Cùng với người anh trai Phạm Nhật Vượng, ông Phạm Nhật Vũ từng làm ăn tại Liên Xô (cũ), gọi là mafia Nga. Sau này, khi trở về Việt Nam, hai anh em họ Phạm bắt tay vào khai thác “tư bản thân hữu”, kinh doanh bất động sản, truyền thông, khoáng sản với chính quyền. *** Câu chuyện bắt đầu vào năm 2012, khi Nguyễn Thanh Phượng cùng đám mafia Nga, “bộ đôi Masan” Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh (chủ Techcombank, rể tướng Hưởng) âm mưu thực hiện vụ áp-phe đình đám để thâu tóm 49% còn lại của mobifone (nhà nước 51%) trong phi vụ sát nhập Gtel vào Mobifone. Gtel khi đó đang trong tình trạng thua lỗ triền miên, khách hàng liên tục bỏ mạng, công nghệ di động 2G lạc hậu, chính phủ từ chối cấp giấy phép 3G, đối tác VinpelCom bỏ của chạy lấy người, để lại 450 triệu USD đã đầu tư vào hạ tầng mạng di động. Với kết quả kinh doanh bết bát như vậy, Masan khi đó chỉ cần bỏ ra 50 triệu USD là có thể mua lại toàn bộ cổ phần của Gtel. Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt do Nguyễn Thanh Phượng làm chủ tịch theo kịch bản sẽ được chỉ định thầu làm tư vấn cho vụ sát nhập và có nhiệm vụ định giá Gtel lên cao chót với ở mức 500 triệu USD mặc cho những kết quả kinh doanh ảm đảm. Sau khi sát nhập thành công Gtel với Mobifone (mobifone được định giá 2 tỷ USD), Masan sẽ chiếm 20% cổ phần trong liên doanh mới. Thông qua việc tăng vốn góp bằng “mồm” để đầu tư 4G, Masan sẽ nâng tỷ lệ cổ phần nắm giữ lên 30% và bộ ba Phượng – Quang – Anh nghiễm nhiên đút túi 3 tỷ USD sau khi bán toàn bộ số cổ phần đã đầu tư 4G này cho các nhà đầu tư nước ngoài (lúc này Mobifone được dự đoán có giá trị IPO khoảng 10 tỷ USD). KẾ HOẠCH ĐỔ BỂ PHÚT THỨ 89 Dù có tính toán kỹ lưỡng đến đâu, Nguyễn Thanh Phượng cùng bộ đôi Masan cũng không thể biết được kế hoạch của mình lại bị đổ bể phút chót bởi một con người đang cận kề cái chết: ông Lê Ngọc Minh – chủ tịch đương nhiệm lúc đó của Mobifone – người đang bị ung thư giai đoạn cuối. Là một người trọn đời gắn bó với sự phát triển của Mobifone, ông Minh không cam tâm để tâm huyết của mình cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Mobifone trong suốt 20 năm, phút chốc đổ xuống sông, xuống biển. Khi tình hình sức khỏe ngày càng đi xuống, ông Minh quyết tâm dành quỹ thời gian còn lại của mình để làm nên một câu chuyện lịch sử: cứu Mobifone khỏi sự sát nhập với Gtel. Ông Minh đã cung cấp toàn bộ thông tin chi tiết về kế hoạch của Phượng cho phe “Tổng bí thư” để cầu cứu, đồng thời bằng mọi cách trì hoãn quá trình cổ phần hóa Mobifone, đưa Credit Suisse vào làm tư vấn cổ phẩn hóa Mobifone chứ không phải là Bản Việt, gửi toàn bộ chi tiết kế hoạch của nhóm Nguyễn Thanh Phượng và Masan cho các báo lề trái qua đó tạo nên một cơn bão dư luận vào thời điểm đó. Với sức ép của dư luận cùng ý chí sắt đá của cố Chủ tịch Lê Ngọc Minh, kế hoạch của Nguyễn Thanh Phượng cuối cùng bị đổ bể. Ông Minh, với tâm thế của một người không có gì để mất, đã tạo nên một điều kỳ diệu và giúp Mobifone tiếp tục phát triển ổn định trong hai năm kế tiếp. Cay cú trước hành động phá rối của ông Minh, Nguyễn Thanh Phượng ngay lập tức đẩy ông Minh khỏi Mobifone ngay khi doanh nghiệp này tách khỏi Tập đoàn VNPT và sát nhập về Bộ Thông tin – Truyền thông năm 2014. Tiếp theo đó, Nguyễn Thanh Phượng bí mật sắp xếp với lãnh đạo Bộ Thông tin truyền thông Son/ Tuấn để đưa đệ tử thân cận Lê Nam Trà ngồi vào chiếc ghế mà ông Minh để lại. KẾ HOẠCH THÂU TÓM LẦN 2 Khi đã đẩy được Lê Nam Trà vào ghế Chủ tịch Mobifone, Nguyễn Thanh Phượng ung dung tính toán để thực hiện tiếp kế hoạch của mình. Việc đầu tiên là Trà/ Son/ Tuấn gạt bỏ Credit Suisse và chỉ định thầu tư vấn cổ phấn hóa Mobifone phải là Công ty chứng khoán Bản Việt. Kịch bản cũ đã bị lộ! không thể tiếp tục dùng quân bài Gtel, nên Nguyễn Thanh Phượng cùng Lê Nam Trà phải lựa chọn một quân cờ mới, đó là AVG của Phạm Nhật Vũ, em trai Phạm Nhật Vượng. Vượng là một doanh nhân thân cận và thọ ơn 3X và cũng trung thành của gia đình 3x. Tương tự như Gtel, AVG chỉ là một đống đổ nát chuẩn bị phá sản với số lượng thuê bao ít ỏi, công nghệ truyền hình vệ tinh thế hệ đầu đã lạc hậu, không tự sản xuất được nội dung nên không có doanh thu phát sinh từ quảng cáo. Tình trạng kinh doanh bết bát, AVG lỗ lũy kế đến 1.000 tỷ đồng và nợ gần 2.000 tỷ tiền đầu tư cơ sở hạ tầng. Để hợp lý hóa việc sát nhập AVG, một doanh nghiệp kinh doanh truyền hình chứ không phải viễn thông, Lê Nam Trà đã móc nối với Lãnh đạo Bộ Thông tin – Truyền thông để xin chủ trương của chính phủ cho phép Mobifone đầu tư vào lĩnh vực truyền hình. Với sự giúp đỡ của Nguyễn Thanh Phượng, con gái Thủ tướng Dũng, chủ trương này nhanh chóng được chính phủ phê duyệt. 3X BỊ HẤT CẲNG Ở HỘI NGHỊ TW13 Khi phe Thủ tướng Dũng có dấu hiệu đuối thế trước phe của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại HNTW 13, Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà nhận thấy hai điều: không thể mạo hiểm bằng mọi giá sát nhập AVG vào Mobifone và không thể hoàn thành việc cổ phần hóa Mobifone vào cuối nhiệm kỳ Thủ tướng (trước tháng 06/2016) vì đó sẽ là thời điểm ông Dũng cần đàm phán với phe ông Trọng để toàn bộ êkip được hạ cánh an toàn. Việc cổ phẩn hóa Mobifone chắc chắn sẽ do chính phủ mới phụ trách. Không còn làm chủ được cuộc chơi, vụ áp-phe lần 2 của Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà đứng trước nguy cơ đổ bể. Để vớt vát công sức mấy năm dàn trận, Nguyễn Thanh Phượng cùng Lê Nam Trà quyết định “ăn non”: hoàn tất kế hoạch việc Mobifone phải mua lại 95% cổ phần của AVG ngay trước khi HNTW 14 diễn ra (ký hợp đồng vào trưa ngày 25/12/2015). SAI PHẠM KHỔNG LỒ CỦA KẾ HOẠCH “ĂN NON” Giá trị thật sự của AVG được tính toán không đến 1.000 tỷ đồng, tuy nhiên Lê Nam Trà đã ký quyết định mua lại 95% với giá 8.900 tỷ, cao hơn giá trị thực 8.000 tỷ đồng. Số tiền này được Vin Group (PHẠM NHẬT VƯỢNG) giải ngân cho Lê Nam Trà cùng một số lãnh đạo của Bộ Thông tin – Truyền thông thay vì bằng tiền thì bằng các bất động sản trong – ngoài nước và các tài khoản ngân hàng nhiều triệu USD ở nước ngoài, mỗi người bỏ túi từ 5%-10%. Để kịp hoàn tất hợp đồng mua bán trước HNTW 14, Lê Nam Trà đã chỉ đạo không chuẩn bị hồ sơ, lập dự án trình Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Tài chính thẩm định theo đúng quy trình (vì nếu làm đúng quy trình chắc chắn sẽ không được duyệt) mà chỉ thông qua móc nối với một số lãnh đạo Bộ Thông tin – Truyền thông để trình thẳng lên Chính phủ. Dù rất vội vã mua AVG, nhưng sau khi hoàn tất hợp đồng, do lo sợ tính pháp lý không đảm bảo, Lê Nam Trà chỉ đạo nhân viên giữ kín toàn bộ thông tin và không được gây ra bất cứ động tĩnh nào (BCA đóng dấu mật là vậy). Mobifone có thành lập Ban Truyền hình để tiếp quản AVG và phát triển kinh doanh truyền hình nhưng đến thời điểm này vẫn án binh bất động, chờ đợi vụ việc chìm xuống. Ngay sau khi bài báo “Lê Nam Trà – tay trong con gái Thủ tướng phá hoại 20 năm phát triển bền vững của Mobifone” được đăng trên các báo lề trái vạch trần các sai phạm ở Mobifone dưới thời Lê Nam Trà, Lê Nam Trà mới vội vã đính chính: “Chúng tôi đang tiếp quản AVG” trên các báo lề phải. Việc mua AVG đã làm chậm tiến độ cổ phẩn hóa Mobifone và làm giảm mạnh giá trị vốn hóa của Mobifone. Mobifone đã hoàn thành việc xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị số sách vào ngày 30/06/2015. Tuy nhiên với việc mua lại AVG vào ngày 25/12/2015, việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ phải thực hiện lại dựa trên giá trị sổ sách vào ngày 31/12/2015. Ngoài ra, với việc đưa vào kế hoạch kinh doanh dự phòng lỗ 700 tỷ đồng cho AVG trong năm 2016, nợ đọng của AVG 2.000 tỷ, lỗ lũy kế 1.000 tỷ, giá trị vốn hóa của Mobifone chắc chắn sẽ giảm vài tỷ USD so với con số 10 tỷ USD được ước tính ban đầu. Trong bối cảnh nợ công ngày càng tăng, ngân sách sẽ bị thất thoát đi vài tỷ USD chỉ vì một nhóm người chia chác nhau cái lợi 8.000 tỷ đồng (gần 400 triệu USD). Tháng 2 năm 2012, Nguyễn Thanh Phượng, cô con gái duy nhất của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chính thức giữ chức chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (Viet Capital Bank). Như vậy, tại thời điểm đó, bà Phượng nắm trong tay tới 4 công ty khác nhau cùng có tên là Bản Việt gồm công ty đầu tư chứng khoán Bản Việt (VCSC), công ty quản lý quỹ đầu tư Bản Việt (VCAM hay Vina Capital) và công ty bất động sản Bản Việt (VCRE). Tháng 09 năm 2015, Công ty đầu tư chứng khoán Bản Việt (VCSC) được chỉ định thầu thực hiện tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hóa và IPO cho Mobifone. Trong khi đó, Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Bản Việt (Vina Capital) từ 2013 đã âm thầm mua lại 90% các trạm xã hội hóa của Mobifone. Với những động thái này, Nguyễn Thanh Phượng và Lê Nam Trà đang âm mưu những gì? THÂU TÓM NGÂN HÀNG GIA ĐỊNH Tháng 7 năm 2011, Ngân hàng Gia Ðịnh bán 100 triệu cổ phiếu với giá 10.000 đồng/cổ phiếu nhằm tăng vốn điều lệ từ 2000 tỉ đồng lên thành 3000 tỉ đồng. Công ty VCSC Bản Việt của bà Phượng đứng ra lãnh vai trò tư vấn phát hành cổ phiếu, nên qua đó, Nguyễn Thanh Phượng đã mua lại một lượng đáng kể cổ phần của ngân hàng Gia Định rồi trở thành thành viên Hội Ðồng Quản Trị, đổi tên ngân hàng này thành “Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt”. Kịch bản tương tự hoàn toàn có thể xảy ra với Mobifone khi VCSC tiếp tục nắm vai trò tư vấn cổ phần hóa. Thông qua việc phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ, tăng vốn góp để phục vụ phát triển công nghệ 4G, Nguyễn Thanh Phượng sẽ mua được phần lớn cổ phiếu được bán ra với vỏ bọc các Quỹ đầu tư nước ngoài. Liệu sau đó, Mobifone có bị đổi tên thành Tổng công ty Viễn thông Bản Việt? Vina Capital đang nắm trong tay hơn 90% tổng số trạm xã hội hóa của Mobifone với số vốn bỏ ra được vay từ Ngân hàng Bản Việt. Trong số 3 nhà mạng lớn, Mobifone là đơn vị có số lượng trạm ít hơn cả nên nhu cầu tăng số lượng trạm là rất cấp thiết. Mobifone đặt mục tiêu phát sóng thêm hơn 12.000 trạm mới trong 2016. Kịch bản nào nếu VSCS “tư vấn” Mobifone mua lại từ Vina Capital toàn bộ số trạm xã hội hóa này và hoàn trả bằng cổ phiếu với giá gốc 10.000 đồng/cổ phiếu. Nguyễn Thanh Phượng đương nhiên sẽ có thêm được một số lượng lớn cổ phần của Mobifone với giá cực rẻ. CỤ TỔNG/ AVG/ AMAX CỦA THANH PHƯỢNG? Những chi tiết về gia đình, học vấn, tiền bạc, các công ty hay những lời đồn đại về Nguyễn Thanh Phượng người ta đã nói rất nhiều. Nào là Nguyễn Thanh Phượng thâu tóm các ngân hàng, mỏ quặng hay những chiến lược lobby, vận động hành lang cho cha mình và vạch kế hoạch tương lai cho 2 người anh em trai bất tài ham chơi của mình. Và gần đây, thương vụ Mobifone mua AVG đã làm nổi sóng dư luận. Người ta đồn đoán rằng, người lên kế hoạch cho thương vụ mua bán, ăn tiền nhà nước lên đến vài trăm triệu đô la này chính là Nguyễn Thanh Phượng. TBT Nguyễn Phú Trọng muốn tiến tới nhà của đồng chí X thì buộc phải diệt được thành trì Nguyễn Thanh Phượng và cũng là godfather (godmother) gia tộc Nguyễn Tấn Kiên Giang. Nguyễn Thanh Phượng thực sự có phải là chủ mưu thương vụ làm thất thoát ít nhất 7000 tỷ này hay không? Và nếu có thì tại sao trong bản kết luận thanh tra vừa rồi đưa ra, gần như không lục tìm thấy dấu vết liên quan đến Nguyễn Thanh Phượng có dính líu đến đại án chấn động này. Ngoài việc, có một sự nhầm lẫn về ¼ công ty định giá AVG là VCBS (thuộc Ngân hàng VietComBank) và VCSC (thuộc Tập đoàn Bản Việt của Nguyễn Thanh Phượng). Từ cuối tháng 8/2017, khi lời đồn thổi trở nên râm ran thì TGĐ VCSC (Bản Việt) khẳng định rằng, công ty họ không khải là đơn vị định giá, mà là công ty thuộc VietCombank(1). Có những nguồn tin nội bộ thì cho rằng công ty tư vấn của Nguyễn Thanh Phượng cũng tham gia vào việc này nhưng bị loại từ vòng gửi xe. Con đường đến với Bản Việt và Nguyễn Thanh Phượng của TBT Nguyễn Phú Trọng đến đây là vào ngõ cụt. Quay lại, có 4 đơn vị tư vấn thẩm định giá thương vụ AVG là AASC, VCBS, Hanoi Value và AMAX(2). AASC và VCBS đều là những thương hiệu lớn, thì Hanoi Value và AMAX đều là công ty rất bé, vốn điều lệ chỉ là 1 và 3,8 tỷ đồng. Với khả năng như vậy, thì việc được tham gia tư vấn cho một dự án lớn tính bằng trăm triệu đô đến tỷ đô như vậy là quá kì lạ. Đặc biệt, giá trị thẩm định được 4 công ty tư vấn này đưa ra đều khác nhau và chênh nhau rất nhiều. Hai công ty đầu đưa ra những con số không tưởng, từ 1-1,5 tỷ đô la . Hai công ty bé kia đưa ra những con số thấp hơn khá nhiều, và thấp nhất là AMAX là hơn 16 ngàn tỷ (2). Tất nhiên, như chúng ta đều biết, con số quá bé so với giá trị thực của AVG mà TTCP vừa đưa ra. Giá trị mà TTCP đưa ra là 1900 tỷ, chưa tính lỗ lũy kế đến 2017 cỡ 1 ngàn tỷ và thua lỗ tại 2 dự án mà Phạm Nhật Vũ đã mua với giá rất cao nhằm mục đích rút ruột AVG trước khi bán. Một năm sau khi thương vụ hoàn thành, Hanoi Value đã chuyển thành công ty mỹ viện, chuyên chăm sóc sắc đẹp (3) . AMAX vẫn là một công ty nhỏ với vốn điều lệ giữ nguyên 3,8 tỷ và gần như không có gì nổi bật sau khi được nhận một thương vụ rất lớn như thế (4). Người đại diện pháp lý và là Tổng giám đốc là Võ Văn Mạnh, một Thạc sỹ giảng dạy tại Fulbright (5). Như vậy, manh mối liên quan đến Nguyễn Thanh Phượng gần như không tồn tại trên bản KLTT. Tuy vậy, trong bản KLTT cũng như gần đây những bài báo được chỉ thị liên tục tấn công vào AMAX, 1 trong 4 đơn vị tư vấn, dù rằng AMAX là đơn vị cho giá thấp nhất. Trong khi 3 đơn vị kia cho giá cao hơn rất nhiều và gần như không tưởng. Ngay cả kết quả thấp nhất của AMAX cũng bị KLTT nói rõ là “không có cơ sở”. Nhưng tại sao báo chí lại xoáy vào AMAX mà bỏ quên đơn vị kia? Và manh mối nằm ở đây. AMAX chính là công ty của Phượng, dù Phượng không hề đứng tên hay sở hữu chút cổ phẩn nào ở đó. Và 3 đơn vị kia chỉ là chân gỗ được sắp xếp vào và cố tình hét giá cao nhất để AMAX được nhận làm kết quả. Tuổi Trẻ và Thanh niên, 2 tờ báo mạnh mẽ nhất và có vẻ như được cờ lệnh từ trên đều đưa những thông tin kĩ lưỡng về AMAX và những người trong nghề báo điều tra đều nhận ra là “đánh có bài bản”. Điểm cuối của những bài điều tra chắc chắn sẽ là AMAX, nói đúng hơn, là tìm đến công chúa Nguyễn Thanh Phượng. Tuy nhiên, Nguyễn Thanh Phượng không hề có cổ phần hay dính líu mặt pháp lý gì đến AMAX. Vậy, làm cách nào để nắm được đuôi của một con cáo vô cùng ma mãnh, quỷ quyệt và khôn ngoan vô cùng đó? Chỉ có một cách, là khởi tố vụ án thật nhanh KHỞI TỐ AVG VÀ CHÂN TƯỚNG AMAX TTCP đã đề nghị khởi tố vụ án để điều tra. Và muốn túm được đuôi công chúa, đó là con đường duy nhất trước khi manh mối bị hủy hoặc các đối tượng quan trọng trốn ra nước ngoài. Sau khi khởi tố vụ án, vì có dấu hiệu của tội lừa đảo của 4 đơn vị tư vấn (vì đưa ra kết quả sai và dựa vào những điều không đúng như việc kinh doanh tăng trưởng hay giá trị thương hiệu,…) nên có thể triệu tập 4 đơn vị tư vấn kia lên. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ (biện pháp gì không biết, hi hi), để 3 công ty kia khai nhận là được Phượng sắp xếp làm chân gỗ và cố tình hét giá cao lên. Đồng thời, tìm ra bằng chứng chính AMAX là cò mồi của Nguyễn Thanh Phượng câu con cá Mobifone gần 7000 tỷ kia. Tuy nhiên, tiến trình này phải tiến hành nhanh chóng và sử dụng những điều tra viên có trình độ nhất; nếu không, rất khó tìm ra được bằng chứng hoặc để các đối tượng quan trọng đào thoát thì cả chiến dịch vây bắt trở thành công cốc. Tướng Lý Anh Dũng, cục trưởng A92, người được Nguyễn Phú Trọng tin cẩn, nhanh chóng giải quyết hoặc chuyển người khác phụ trách vụ đánh bạc liên quan đến Nguyễn Thanh Hóa, Phan Văn Vĩnh và có thể cả Phạm Quang Nghị, để dồn hết tâm sức phi vụ này, lập đại công để nhận chức Thứ trưởng và Bộ trưởng trong tương lai. P/S: Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son, Lê Nam Trà, Cao Duy Hải, và AVG… đang ra sức chạy tội. Với số tiền khủng sau những phi vụ như thế này, họ thừa tiền để thuê luật sư hay đội ngũ dư luận viên, định hướng viên,…cũng như nhiều cách khác để chạy tội. Nhưng có lẽ Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son,… và đội quân chạy tội đang dày công vô ích. Chuyện mặc áo Juvetus, ăn cơm tù, ra vành móng ngựa gần như không thay đổi được. Con mồi mà TBT Nguyễn Phú Trọng săn ở đây to hơn rất nhiều so với họ. Con mồi này chính là công chúa Nguyễn Thanh Phượng, là người nắm giữ tương lai của gia tộc Nguyễn Tấn Kiên Giang và đối thủ từng làm ông bật khóc ngay trước ống kính truyền hình khi không kỷ luật thành công đồng chí X vào năm 2012. Khi vào thế cờ, thì người ta sẵn sàng thí hết cả bàn cờ để bắt tướng, chứ không riêng gì vài con tốt lụt đâu.  
......

Tàu cẩu Lam Kình và lộ diện ‘tình huống xấu nhất’

Tàu cẩu Lam Kình của Trung Quốc ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019 Thường Sơn (VNTB) Ngay sau khi xuất hiện tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc là Lam Kình ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 3/9/2019, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 11 hải lý và cách đảo Lý Sơn khoảng 30 hải lý về phía nam, một số dư luận viên thân đảng đã lo sợ thực sự hi rút tít: “Tàu cẩu giàn khoan Trung Quốc vào vùng biển Việt Nam, chuẩn bị tình huống xấu nhất”. ‘Tình huống xấu nhất’ là gì? Đó là một thuật ngữ của giới quân sự Việt Nam nhằm mô tả tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất. Nghĩa là có thể nổ ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc. Lo sợ là đúng, bởi khác hẳn với tàu Hải Dương 8 chỉ làm nhiệm vụ thăm dò địa chất, Lam Kình làm cho người ta lập tức nhớ lại giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc cho tấn công vào vùng biển Việt Nam trong năm 2014. Cùng lúc, các trang báo South China News và IndoPacific_SCS_Info đã dự đoán rằng có thể Bắc Kinh đang chuẩn bị đưa một giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển của Việt Nam. Đó có thể là giàn khoan nào? Vào tháng 4 năm 2019, Trung Quốc đã thình lình tung ra động thái đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Đông Phương vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông. Giàn khoan này nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá và không thua kém gì giàn khoan Hải Dương 981 mà đã ngự trị ở Biển Đông trong năm 2014. Vụ Đông Phương hờm sẵn kịch bản tái hiện hải Dương 981 hiện ra trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại). Nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ – như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018 mà bất chấp Việt Nam có muốn hay không, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì bị cướp trắng và mặt mũi chẳng còn ra thể thống gì. Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ – đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông. Trong thời gian qua, đã có những thông tin ngoài lề về việc quân đội Việt Nam điều quân để củng cố vùng biên giới phía Bắc và cả biên giới tây nam giáp Campuchia. Tuy nhiên, đó chỉ là cách phòng thủ hết sức thụ động, một kiểu che chắn theo cách ‘kịch liệt phản đối’ nhưng cứ phải giương mắt thao láo nhìn kẻ cướp xông vào nhà mình và lần lượt bỏ túi từng món đồ. Cũng cần bổ sung, cho tới nay các tàu chiến và tàu hải cảnh Việt Nam vẫn chỉ lọ mọ theo đuôi tàu Hải Dương 8 mà không có được bất cứ hành động mạnh mẽ nào, dù chỉ là nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ công tác ‘vận động quốc tế ủng hộ Việt Nam’ đã chỉ nhận được nhưng lời lẽ chia sẻ chung chung và xã giao, còn lại đã chẳng có bất kỳ hành động quân sự đáng chú ý nào từ các nước ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Vậy nếu nổ ra ‘tình huống xấu nhất’ với Trung Quốc, hải quân Việt Nam sẽ đánh chác ra sao?  
......

Việt Nam sẽ ‘xoay trục’ về Mỹ ra sao sau vụ Hải Dương 8?

Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh: China Geological Survey) Phạm Chí Dũng - VOA| Đến giờ phút này, ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác của chính thể độc đảng ở Việt Nam. Nhưng sẽ là ‘xoay trục’ ra sao và đến mức độ nào? Hậu quả từ mê nhảm ngủ ngày Chiến dịch gây hấn của Trung Quốc mang tên ‘Hải Dương 8’ cùng những trò phép tiếp sau tàu này nổ ra tại Bãi Tư Chính của Việt Nam vào năm 2019 hoàn toàn xứng đáng là đáp án thích đáng cho phương trình ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ mà giới chóp bu Hà Nội vẫn mê nhảm trong cơn ngủ ngày. Cơn ngủ ngày đó đã lê lết thảm thiết từ tháng 5 năm 2014 - khi nổ ra vụ giàn hoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào Biển Đông như một cái tát nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam… cho tới tận giờ này. Cái cách mà Nguyễn Phú Trọng bày tỏ ‘trà Trung Quốc ngon hơn trà Việt Nam’ hệt như lối lấy lòng ‘đảng anh’ của ông ta chỉ tổ khiến Tập Cận Bình lên mặt trịch thượng và ‘mềm nắn’ hơn nữa với ‘đứa con hoang đàng’ (từ ngữ mà Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đã xỉ vả các ủy viên bộ chính trị Việt Nam ngay tại Hà Nội vào năm 2014, vài tháng sau khi xảy ra biến cố Hải Dương 981). Tính thực chứng về hậu quả đã hiện ra rất rõ: bất chấp những chuyến ‘triều kiến’ liên tục của đích thân Nguyễn Phú Trọng và và các nhân vật còn lại trong ‘tứ trụ’ vào thời Trần Đại Quang còn chưa chết và vào thời hậu Quang, bất chấp việc giới qauan chức cao cấp Việt Nam đã cúc cung muối mặt mời Tập Cận Bình phát biểu trong nghị trường của một quốc hội ‘nghị gật’ ở Hà Nội trong lúc công an Việt thẳng tay đánh đổ máu đồng bào mình vì dám phản đối họ Tập, cũng bất chấp việc giới quan chức cao cấp Việt Nam đã cúi mình ký kết với Trung Quốc hàng chục văn kiện hợp tác và thỏa hiệp về nhiều chuyện - đặc biệt là cơ chế nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc và cho nhà thầu Trung Quốc những ưu đãi quá lớn - sau vụ Hải Dương 981…, Bắc Kinh vẫn tuần tự và lạnh lùng đánh thẳng vào yết hầu nuôi đảng của ‘đảng em’ Việt Nam là Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp - lần đầu vào tháng 7 năm 2017, lần thứ hai vào tháng 3 năm 2018 và thêm một lần nữa - nguy biến hơn hẳn - vào năm 2019. Chính sách ‘ba không’ của chính thể độc tài ở Việt Nam đã vỡ vụn như những con tàu ngư dân Việt bị lừa bọc bằng sắt gỉ của Trung Quốc để khi tiến ra biển lớn đã vỡ tung. Nhưng với não trạng bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’ của giới cầm quyền ở Việt Nam, sự thể cay đắng nhất, cay đắng tận cùng vẫn là việc ‘đảng em’ bị chính ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ - như cách mà Hà Nội thường tụng ca Trung Quốc đến ngút ngàn mây xanh’ - ép vào tử lộ. ‘Trung Quốc dồn Việt Nam vào chân tường rồi!” - lời tán thán thốt lên bởi một viên tướng trên mâm chiếu có đến 500 tướng quân đội ở Việt Nam - hẳn đã phản ánh cái thế ‘kẻ thù lớn bởi vì mi quỳ xuống’ mọp lạy bỉ bôi đến thế nào. Nếu mất Bãi Tư Chính? Đã đến nước này, không phản ứng thì chỉ có chết. Chết theo đúng nghĩa bóng và cả nghĩa đen. Bởi Bãi Tư Chính - nơi mà Trung Quốc không thèm giấu diếm ý đồ muốn nuốt trọn - là khu vực màu mỡ nhất về dầu và khí đốt, tập trung nhiều nhất các lô dầu khí là tiềm năng thiên nhiên duy nhất còn lại ở Việt Nam, sau khi ‘rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu’ đã cạn kiệt và hoang hóa sau hơn bốn chục năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’ và bởi nguồn cơn ‘có cho người cộng sản cả một sa mạc thì họ vẫn phải nhập khẩu cát’. Sự thật rành rành là nếu mất Bãi Tư Chính, hoặc nếu không mất nhưng phải cắm mặt ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí’ với Trung Quốc để chấp nhận chia tỷ lệ đến 60% hoặc hơn cho ‘đồng chí tốt’, trong khi Bắc Kinh chỉ đơn giản là thò tay vào túi người khác móc tiền, chính thể Việt Nam sẽ mất trắng hoặc mất phần lớn số ngoại tệ lên đến 4-5 tỷ USD mỗi năm - bằng với ngân khoản chi phí cho quốc phòng và bổng lộc hàng năm cho 500 tướng quân đội cùng nhiều ngàn đại tá của chế độ này. Trong khi đó, tình cảnh đã trở nên bĩ cực đến khôn tả: cho dù luôn tuyên rao có chẵn một chục ‘đối tác chiến lược toàn diện’ với nhiều quốc gia trên thế giới, đã không một bàn tay nào được chìa ra cho Việt Nam kể từ khi nổ ra vụ Hải Dương 981 và tiếp đến vụ Bãi Tư Chính trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019. Trong số đó, có cả hai ‘đối tác chiến lược’ có lợi ích ở Bãi Tư Chính là Tây Ban Nha - mỏ Cá Rồng Đỏ, và Nga - mỏ Lan Đỏ, đều tuyệt đối im tiếng. Trong tận cùng nỗi ‘cô đơn chiến lược’ như thế, rốt cuộc chính thể Việt Nam phải dựa vào ai? Chỉ còn có Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông. Làm sao để bỏ đá ghè chân mình? Mỹ cũng có lợi ích về dầu khí ở vùng biển ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi của Việt Nam: mỏ khí đốt Cá Voi Xanh có trữ lượng đến 150 tỷ mét khối và có thể mang lại đến 60 tỷ USD - một con số khổng lồ và cực kỳ hấp dẫn để trám bù vào ngân sách hộc rỗng của đảng CSVN. Nhưng Mỹ lại chưa hề là ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Thậm chí Mỹ còn bị Nguyễn Phú Trọng và những người đồng đảng của ông ta xem là ‘đối tác toàn diện loại thường’. Bài toán đặt ra với Trọng hiện thời là một sự gấp rút thời gian khi phải lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, mà nếu động thái đó được triển khai có hiệu quả thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc nắt nạt, còn Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ và ‘chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần’. Nhưng muốn đạt được ý đồ trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam lại phải tính đến việc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ chính sách ‘ba không’ giáo điều và vô bổ của nó, nhất là hai nguyên tắc không liên kết với nước này để chống lại nước khác và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam mà đã tự lấy đá ghè chân mình. Bởi thực chất mối quan hệ ‘đối tác chiến lược’ mà giới chóp bu Việt Nam đang muốn tìm kiếm ở người Mỹ là sẽ phải giải tỏa những nguyên tắc cản đường: không những Việt Nam và Mỹ phải tiến đến một quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ theo mô hình tương trợ quốc phòng mà Mỹ đã ký và thực thi với Philippines, mà Việt Nam phải thừa hiểu là chỉ khi cho Mỹ đặt căn cứ quân sự ở quân cảng Cam Ranh thì tàu Mỹ và máy bay Mỹ mới có thể khống chế được các tàu và máy bay Trung Quốc từ phía Bắc lấn xuống Biển Đông. Chứ không thể chỉ bằng cách ‘đọc vẹt’ của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam về ‘tôn trọng tự do hàng hải’ và cả ‘tự do hàng không’ là đã đủ cho mối quan hệ tương trợ quốc phòng Việt - Mỹ. Cũng không chỉ bằng cử chỉ âm thầm ‘trốn’ không chịu đi Bắc Kinh của Nguyễn Phú Trọng. Nếu chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2019 như một dự kiến mới nhất, đó sẽ là cuộc làm việc còn quan trọng hơn cả sĩ diện của cá nhân ông Trọng. Đó là vận mạng của các mỏ dầu khí ở Biển Đông, của ngân sách đảng, thậm chí còn là số phận của đảng CSVN và của toàn bộ lực lượng ‘còn đảng còn tiền’ và ‘còn đảng còn mình’. Đến giờ phút này, Việt Nam ‘xoay trục’ sang Mỹ hầu như đã là một định đề phải có và không còn lối thoát nào khác. Cần có một điểm gặp nhau của chính sách xoay trục của Hoa Kỳ về châu Á - Thái Bình Dương từ năm 2013 với chủ trương xoay trục từ phương Bắc sang phương Tây của Việt Nam ngay vào lúc này, sau khi giới chóp bu Hà Nội đã bỏ lỡ không ít cơ hội để làm điều đó suốt từ năm 2014 đến tận gần đây. Điểm gặp nhau đó sẽ thành hình vào lúc nào và như thế nào? Mọi chuyện tùy thuộc vào cái thế bị dồn đến chân tường của Việt Nam, và phụ thuộc phần lớn vào quan điểm và ‘bản lĩnh Nguyễn Phú Trọng’ khi ông ta đàm phán ở Washington không chỉ với Donald Trump mà cần với cả Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Hoa Kỳ.  
......

Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật nuốt từng hải lý biển Việt Nam

 Họa đồ di chuyển của Hải Dương 8 Thường Sơn (VNTB)| Trong lúc 6 tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Việt Nam được cho là còn phải đi chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn, còn các tàu chiến khác, kể cả ‘tàu buồm hiện đại nhất thế giới’ mang tên Lê Quý Đôn mất dạng, toàn bộ lực lượng hải quân Việt Nam vẫn phủ phục trong tư thế bất  lực và kiên định… bám bờ, các tàu Trung Quốc đã thả giàn tung hoành ở Biển Đông và ngay trong ‘vùng chủ quyền không thể tranh cãi’ của Việt Nam. Chỉ trong vòng khoảng một tuần, nhóm tàu khảo sát Hải Dương-8 của Trung Quốc đã tiến sâu thêm 30 km vào vùng biển Việt Nam và chỉ còn cách bờ biển tỉnh Ninh Thuận, miền trung Việt Nam khoảng 155 km, theo dữ liệu theo dõi tàu biển của trang Marine Traffic vào sáng sớm ngày 1/9. Trước đó vào ngày 24/8, Hải Dương 8 cùng các tàu hải cảnh của Trung Quốc chỉ cách bờ biển Phan Thiết của Việt Nam khoảng 185 km. Vụ tàu Trung Quốc lấn dần từng chục hải lý như thế đã gián tiếp tiết lộ một sự thật bi thảm: trong suốt thời gian từ đầu tháng 6 năm 2019 khi tàu Trung Quốc bắt đầu xâm nhập bãi Tư Chính, Bộ Quốc phòng và Cảnh sát biển Việt Nam đã đối phó tệ hại đến mức Trung Quốc hoàn toàn coi thường những hành động đối phó này. Chiến thuật Việt Nam dùng một số tàu chiến và tàu hải cảnh bao vây tàu Trung Quốc, hoặc bám chặt tàu Trung Quốc đã tỏ ra vô ích và vô tích sự, bởi về số lượng thì tàu Trung Quốc luôn vượt gấp ít ra vài ba lần số tàu Việt Nam, còn việc bị bám đuôi thì Trung Quốc chẳng coi ra gì. Cho tới nay, phía Việt Nam vẫn chẳng dám nổ một phát súng nào, dù chỉ để cảnh cáo tàu Trung Quốc. Vì sao lực lượng hải quân Việt Nam lại phủ phục đến thế? Nếu nổ ra chiến tranh thật sự với Trung Quốc thì lực lượng này sẽ đánh chác ra sao? Nếu ai đó cho rằng hải quân Việt Nam còn đang ‘giấu mình’, vẫn nêu cao tinh thần yêu nước và sẽ ra đòn quyết định vào một thời điểm thuận lợi, làm thế nào để giải thích việc một đô đốc của quân chủng này – Nguyễn Văn Hiến – cách đây không lâu đã bị tống vào ‘lò’ của ‘tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vì tội ‘ăn đất’? Trung Quốc muốn ép Trọng? Việc tàu Hải Dương 8, vừa trở lại khu vực Bãi Tư Chính sau 5 ngày quay lại đảo Đá Chữ Thập để tiếp liệu, lại rời Bãi Tư Chính để ‘tham quan’ vùng biển gần Phan Thiết, xảy ra trong bối cảnh một tin tức đang ngày càng cận kề: sau một thời gian khá dài được Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trung ương tận tình cứu chữa, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng đã gần như hồi phục khỏi cơn bạo bệnh và chuẩn bị cho chuyến thăm Washington – một chuyến đi đặc biệt quan trọng – không chỉ về danh thể của Nguyễn Phú Trọng mà còn do tính chất đối đầu đã tới lúc không thể khoan nhượng giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà theo đó Việt Nam đang rất cần đến lực lượng hải quân và không quân của Hoa Kỳ – đối trọng duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông – để bảo vệ Việt Nam khai thác dầu khí nuôi đảng. Chẳng khó để hình dung ra rằng Tập Cận Bình chẳng thích thú gì với chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, và muốn gây sức ép buộc Trọng phải hủy bỏ chuyến đi đó. Hoặc nếu không hủy bỏ thì buộc Nguyễn Phú Trọng phải đi Trung Quốc trước khi đi Mỹ, như một biểu hiện ‘triều kiến’. Thời điểm dự kiến cho chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng đang lùi sang tháng 10 năm 2019. Đã hầu như chắc chắn là sau giai đoạn đầu cho tàu Hải Dương 8 vào quấy phá tại Bãi Tư Chính, Trung Quốc sẽ còn ra những đòn mới và lắm chiêu trò hơn nhằm hành hạ tinh thần ảo não của giới chóp bu Việt Nam. Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật nuốt từng hải lý biển Việt Nam. Có thể vào một ngày đẹp trời không lâu nữa, người dân và các lực lượng quân đội lẫn cảnh sát ở Phan Thiết hoặc ở một thành phố duyên hải nào đó của Việt Nam sẽ trố mắt trước những chiếc tàu giương cờ Trung Quốc lừng lững ngự ngay trước mắt họ ở vùng biển sát bờ./.  
......

Tàu cẩu TQ Lam Kình di chuyển vào vùng biển VN, chuẩn bị đặt giàn khoan?

Lam Kình là tàu cẩu lớn nhất trên thế giới của Trung Quốc, chuyên làm nhiệm vụ cẩu và đặt những thiết bị rất nặng như các giàn khoan dầu khí. Khánh An-VOA| Tàu cẩu lớn nhất thế giới của Trung Quốc, tàu Lam Kình, đang di chuyển trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, các nguồn tin về Biển Đông trích dẫn dữ liệu theo dõi tàu cho biết hôm 3/9. Thông tin này cũng được một chuyên gia xác nhận với VOA và đồng thời cho biết thêm rằng lực lượng cảnh sát biển của Việt Nam đang theo dõi động thái của con tàu này. Theo trang South China News và IndoPacific_SCS_Info, tàu Lam Kình của Tập đoàn Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đã xuất hiện trong vùng biển của Việt Nam hôm 3/9. Nguồn tin dự đoán rằng có thể Bắc Kinh đang chuẩn bị đưa một giàn khoan đến hoạt động trong vùng biển của Việt Nam. Nhà báo Duan Dang trích dẫn dữ liệu từ Marine Traffic cho biết thêm rằng tọa độ của Lam Kình là 14°56'6.00"N/109°23'42.00"E ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi vào lúc 9 giờ 42 phút cùng ngày, chỉ cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 11 hải lý và cách đảo Lý Sơn khoảng 30 hải lý về phía nam, nghĩa là trong lãnh hải của Việt Nam, cũng là nơi có dự án Cá Voi Xanh mà Việt Nam đang hợp tác với tập đoàn dầu khí Mỹ Exxon Mobil để khai thác. Xác nhận thông tin về sự xuất hiện của tàu cẩu Trung Quốc trong khu vực, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu an ninh và chính trị khu vực của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS có trụ sở ở Singapore, nói thêm với VOA rằng vị trí di chuyển của tàu Lam Kình là trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), chứ không phải bên trong lãnh hải (trong vòng 12 hải lý). Theo ông, với tình trạng “đi qua vô hại” của tàu Lam Kình trong khu vực EEZ, thì Việt Nam chưa thể phản ứng gì vì đây là một hoạt động hợp pháp theo luật quốc tế. “Đi kèm theo nó là mấy tàu vận tải khác, nhưng người ta thấy các tàu vận tải đó không có các khung nhà giàn hay khung giàn khoan cố định nào. Và kèm theo nó còn có hàng chục tàu cảnh sát biển Trung Quốc đi hộ tống. Cảnh sát biển của Việt Nam cũng đi theo và không làm gì được người ta cả vì người ta đã làm gì đâu”, TS. Hà Hoàng Hợp nói với VOA. Mặc dù đưa ra giả thuyết về khả năng thời tiết xấu vào đêm 3/9 và sáng 4/9 khiến tàu Lam Kình có thể phải di chuyển xuống khu vực bên dưới, đối chiếu với đất liền là khoảng Phú Yên, Khánh Hòa, nhưng TS. Hà Hoàng Hợp không loại trừ khả năng Trung Quốc có thể từ một mũi khác kéo giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển của Việt Nam và lúc đó sẽ “rất to chuyện”. “Nếu Mỹ, Nga, Ấn Độ cảm thấy bị đe dọa, bị ngăn cản hoạt động kinh tế bình thường và hợp pháp của họ trong vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam thì phản ứng của họ có thể là phản ứng quân sự”, TS. Hà Hoàng Hợp dự báo. Đang tham dự một hội nghị an ninh ở Singapore với sự có mặt của các nước Trung Quốc, Nhật, Australia, Ấn Độ…, TS. Hà Hoàng Hợp cho biết các bên đang rất quan ngại về tình hình ở Biển Đông, với cảnh báo rằng “không còn ranh giới nào giữa hòa bình và chiến tranh trên biển nữa” trước những hành vi hung hăng và khó lường trước của Trung Quốc. Theo TS. Hà Hoàng Hợp, hiện Việt Nam và các quốc gia liên quan đã “chuẩn bị sẵn sàng” cho tình huống xấu nhất, tức là khả năng xảy ra đối đầu quân sự. Trước đó một ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng kêu gọi các nước giúp giảm căng thẳng ở Biển Đông do “những diễn tiến nghiêm trọng” gần đây gây ra. “Biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với các nước trong và ngoài khu vực trên bình diện kinh tế, an ninh, an toàn, tự do hàng không và hàng hải”, bà Hằng nói trong một email gửi cho hãng tin Bloomberg hôm 2/9. “Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng hợp tác với các nước khác và cộng đồng quốc tế nhằm duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực”. Phát biểu của người đại diện Bộ Ngoại giao được đưa ra sau khi 3 quốc gia Anh, Pháp, Đức đưa ra tuyên bố chung vào ngày 29/8, nêu lên quan ngại về những căng thẳng hiện nay ở Biển Đông và khả năng có thể dẫn tới bất ổn về an ninh và ổn định của khu vực. Trước đó, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Ấn Độ cũng lên tiếng về việc Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa Chất 8 vào hoạt động trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong thời nhiều tháng qua, bất chấp phản đối liên tục của Hà Nội và chỉ trích từ phía Mỹ. Tàu Lam Kình được trang bị một cần cẩu khổng lồ có khả năng nâng 7.500 tấn. Bản thân chiếc cần cẩu này nặng 4.000 tấn và có móc phụ nặng 1.600 tấn, có khả năng nâng và hạ các thiết bị đặc biệt nặng như các giàn khoan dầu. Cho đến nay, Lam Kình vẫn được xem là tàu cẩu lớn nhất trên thế giới.  
......

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục

(Sau khi đọc bài viết “Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” của Gs Tương Lai) Chính Luận Trần Trung Đạo| Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com ngày 11 tháng 7, 2014 và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ. Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944.” Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn.” Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay. Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949. Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946. Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản. Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.” Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ. Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối. Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô. Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì. Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS. Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng. Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN. Trung Cộng muốn gì? Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam: Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh. Trong Thế Chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco. Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng. Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ. Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao. Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến. Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước./. Trần Trung Đạo  
......

Những “cuộc chia ly màu đỏ” Việt – Trung

Diễn biến chính trị và truyền thông gần đây ở Việt Nam có vẻ như cho thấy xu hướng rõ ràng hơn cho một toan tính “thoát Trung” của nhà cầm quyền Hà Nội. Liệu rằng, đây có phải là sự thay đổi xuất phát từ nhu cầu cấp thiết cho sự tồn vong của thể chế, do áp lực khách quan hay chỉ là một chiêu trò đàng điếm chính trị của Hà Nội bấy lâu nay? Nếu thực sự đây là một khuynh hướng chính trị, ngoại giao mang tính nhất quán trong tương lai gần và dài hạn, thì hệ quả của nó sẽ là gì? Điều này vô cùng quan yếu đối với sự hưng thịnh, suy vong quốc gia. Trong lịch sử cận đại, những nhà lãnh đạo của CSVN vì những toan tính lợi ích cho phe nhóm và quyền lực của đảng phái, thường tự biến mình thành nạn nhân và đưa cả dân tộc vào vòng binh lửa trên bàn cờ địa chính trị đẫm máu của các siêu cường. Cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 và cuộc chiến tranh với Khmer Đỏ Cambodia kéo theo hệ lụy bi thảm, dai dẳng là ví dụ rõ ràng nhất. Những người “anh, em” cộng sản mới hôm qua còn thề bồi “mãi mãi keo sơn”, nhưng vì lợi ích và tham vọng quyền lực, có thể ngày hôm sau quay ra giết nhau tàn nhẫn. Nếu thực sự Hà Nội đang toan tính cho một cuộc chia tay với người bạn “4 Tốt” trong bối cảnh mà xem ra mối duyên nợ đã trở thành nghiệp báo, khi “tuần trăng mật” Việt – Trung đã hết, thì cái giá phải trả cho “cuộc chia ly màu đỏ” lần này là gì? Giải pháp nào cho một cuộc “thoát Trung” êm thấm, ít tổn thương nhất? Trước khi để có câu trả lời, hãy cùng nhìn lại bức tranh toàn cảnh theo dòng thời gian lịch sử cận đại và hiện tại về mối quan hệ chồng chất ân oán, cừu thù giữa hai đảng cộng sản “anh em”: Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cộng sản đảng. Cuộc “chia ly lần thứ nhất” của những người cộng sản Việt Nam – Trung Hoa Các cuộc chia tay giữa những người “anh em” cộng sản thường diễn ra tồi tệ với kết cục “núi xương, sông máu”. Chắc chắn, đó không phải là những xúc cảm đậm sắc màu “anh hùng cách mạng” của ông Nguyễn Mỹ lãng mạn về một tình cảm lứa đôi thời chiến trong bài thơ có cái tên “Cuộc chia ly màu đỏ” vào năm 1979. Cuộc chia tay Việt – Trung cũng có màu đỏ, nhưng là máu của hàng trăm ngàn người dân của cả hai bên chiến tuyến đổ xuống vì quyền lực của đảng phái, tham vọng địa chính trị của các hoàng đế Đỏ, dưới những danh xưng tôn nghiêm, đẹp đẽ như bảo vệ tổ quốc, chống chủ nghĩa bá quyền, bảo vệ thành quả cách mạng,… Như một vòng luẩn quẩn oan nghiệt, sau nỗ lực hy sinh hàng trăm ngàn “nhân dân anh hùng” để “thoát Trung”, những lớp lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại quay lại ôm chân Bắc Kinh chặt hơn. Những gì đã diễn ra sau 1979 là một quá trình Hán hóa liên tục, lệ thuộc nhiều hơn, cắt nhượng nhiều hơn lãnh thổ, chủ quyền, tài nguyên cho “mẫu quốc”. Khi “Anh cả Đỏ” Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, cả nước đã không còn đủ bo bo, gạo mốc để ăn vì đường lối kinh tế sai lầm duy ý chí. Bị cô lập về mọi mặt, Hà Nội cuống cuồng van xin “ơn trên” từ các “đấng Thiên tử phương Bắc”, chấp nhận đánh đổi bằng mọi phẩm giá và chủ quyền quốc gia để cứu vãn quyền lực của đảng phái và sự sụp đổ về kinh tế xã hội. Sự điếm nhục đó của Hà Nội, được biết đến với cái tên “16 chữ vàng, 4 tốt”. Để tìm hiểu sâu hơn về nguyên cớ “cuộc chia ly lần thứ nhất” của những người cộng sản Trung Quốc – Việt Nam thì phải ngược về thời gian từ thủa đầu tiên của các phong trào cộng sản ở Đông Dương cho đến thời điểm tháng Hai, 1979. Trung Quốc, cái nôi của phong trào cộng sản Châu Á, đã hỗ trợ cho tất cả các lực lượng cộng sản không chỉ giới hạn ở ba nước Lào, Cambodia và Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á và bán đảo Triều Tiên trong cuộc đối đầu với Phương Tây. Đối với Việt Nam và Triều Tiên, hai quốc gia được coi là “tiền đồn cộng sản” ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á, sự hỗ trợ to lớn không chỉ dừng lại vũ khí, quân trang, hậu cần mà cả lực lượng tham chiến trực tiếp hoặc chuyên gia đào tạo, huấn luyện tại chỗ, chỉ huy tác chiến các chiến dịch quan trọng. Không hề ngoa khi nói rằng CSVN là con đẻ của Trung Quốc Cộng Sản Đảng. Hồ Chí Minh và những lớp cán bộ “hạt giống đỏ” đầu tiên của vùng Đông Nam Á đều được đào tạo chính trị và quân sự tại Trung Quốc. Họ được nuôi ăn học với chế độ ưu đãi ngay cả khi nhân dân Trung Quốc chết đói. Đó không phải vì tình hữu nghị vô sản mà là cái nhìn xa trông rộng của Mao Trạch Đông. Những lớp cán bộ đó khi trở về quê hương, tiến hành cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đã luôn hướng về Trung Quốc như vầng thái dương chói lòa. Họ coi học thuyết cộng sản như thánh kinh và tạc dạ ơn nghĩa Trung Hoa vĩ đại. Đó là điều Mao muốn. Ông ta cần Việt Nam, Triều Tiên như những tên lính tiên phong trong cuộc chiến tranh với Mỹ. Ở phương diện nào đó, Mao Trạch Đông xứng đáng là một thiên tài chính trị – thứ chính trị để triệt hạ, giết chóc và hủy diệt tất cả. Tuy nhiên, khi cộng sản Bắc Việt xé bỏ Hiệp Định Genève 1954, vượt qua vĩ tuyến 17 (ranh giới mang đậm tính lịch sử, ngầm định sự khống chế của Trung Hoa với Việt Nam), quyết sử dụng võ lực để thống nhất quốc gia, với sự trợ giúp lớn hơn của Liên Xô, Mao Trạch Đông đã nhắc nhở Phạm Văn Đồng “đừng đưa cán chổi đi quá xa”. Ông ta e ngại một Việt Nam thống nhất, với sự hỗ trợ của cộng sản Nga Sô, sẽ trở thành một đối thủ tiềm tàng ở ngay sau lưng mình. Mao thậm chí, đã ủng hộ khả năng có nhiều hơn một Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa quốc gia cùng tồn tại). Viễn kiến của Mao hoàn toàn chính xác. Khi cái “cán chổi” của Hà Nội đã quét xuống Sài Gòn vào tháng Tư, 1975, nó đã quét luôn cả sang Cambodia chỉ ít lâu sau đó. Những người cộng sản Việt Nam bấy giờ thấy “trăng Liên Xô tròn hơn trăng nước Mỹ” và có lẽ cũng to hơn, sáng hơn “trăng Bắc Kinh”. Một so sánh về viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng cho Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1965 – 1971. Khi nguồn viện trợ của Trung Quốc bị cắt bỏ, Hà Nội đã nhắc lại câu chuyện chủ quyền về Hoàng Sa, tham gia khối COMECON vào tháng Sáu,1978, cho phép Liên Xô thuê cảng chiến lược Cam Ranh vào ngày 16 tháng Tám, ký hiệp ước liên minh và hợp tác với Liên Xô vào tháng Mười Một cùng năm đó. Một “tiểu bá vương” ở Đông Dương đã hình thành – điều khiến cho Trung Quốc không thể nuốt trôi sự tráo trở của “đứa con hoang đàng” cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Cộng vẫn giữ chính sách “wait and see” bước tiếp theo của Hà Nội là gì, trong khi tính toán và đi những nước cờ lớn hơn trên bàn cờ địa chính trị thế giới. Nỗ lực không ngừng nghỉ của Đặng Tiểu Bình trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ đã thành công. Ngày 15 tháng Mười Một, 1978, Mỹ chính thức công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và ngày 1 tháng Giêng, 1979 chính thức đặt quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Cái nhìn cay nghiệt của Hà Nội về cộng đồng Hoa kiều tại Việt Nam cũng như chính sách quốc hữu hóa, đánh tư sản mại bản của Hà Nội sau 1975 hầu như trực diện đánh vào cộng đồng Hoa kiều vốn nắm giữ khá lớn nguồn lực kinh tế của miền Nam Việt Nam. Đỉnh điểm chính sách phi nhân và ngu dốt này là việc trục xuất 150.000 người Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam về Trung Quốc và ép buộc hơn 1,3 triệu người dân ở miền Nam Việt Nam (trong đó có nhiều người gốc Hoa) phải liều mạng vượt biển để lại tài sản, nhà cửa và phương tiện sản xuất… dẫn đến một cuộc đại khủng hoảng nhân đạo kéo dài nhiều thập kỷ sau đó. Họ được biết đến với cái tên “thuyền nhân”, khoảng 200.000 người đã bỏ mạng ở Biển Đông vì bão và cướp biển. Đáng chú ý rằng Hà Nội thậm chí đã có một chính sách ngầm định “cấp phép” cho người dân vượt biên bằng đường biển với cái giá 4 ounce vàng/ người lớn và một nửa đối với trẻ em. Số vàng khổng lồ thu được phần lớn vào túi các quan chức địa phương và lực lượng công an, bộ đội. Chỉ khoảng 1/3 là được chuyển về cho trung ương bù đắp các khó khăn kinh tế. Khi quân đội CSVN tiến chiếm Phnom Penh vào ngày 7 tháng Giêng, 1979, đó là “giọt nước tràn ly cuối cùng”, một lý do chính trị rõ ràng để Đặng “dạy cho CSVN bài học cần thiết”. Đặng Tiểu Bình, người đồng chí thân thiết của Hồ Chí Minh và cả Saloth Sar – kẻ mà sau đó cả thế giới được biết đến với cái tên Pol Pot, đã phát động cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 và ủng hộ chế độ tàn ác Khmer Đỏ tiến hành những cuộc tấn công vào Tịnh Biên và nhiều nơi thuộc tỉnh An Giang vào năm 1978. Trước đó, là những cuộc khủng bố man rợ giết hại dân thường Việt Nam và Việt kiều ở Cambodia, ở tỉnh Tây Ninh năm 1977. Ở thời điểm sau cái chết của Mao, ngoài những rối loạn chính trị mà “bè lũ bốn tên” gây ra, Trung Quốc còn chịu thiệt hại nghiêm trọng vì thiên tai. Trận động đất ở Hồ Bắc tháng Bảy, 1976 đã giết chết gần 700 ngàn người và hơn một triệu người mất nhà cửa khiến cho nền kinh tế suy sụp nghiêm trọng. Dù vậy, điều đó không ngăn cản Đặng đã ủng hộ nhiệt thành Pol Pot và cung cấp tất cả vũ khí, quân nhu và lương thực mà Khmer Đỏ cần. Mối thâm thù về chủng tộc dai dẳng có nguyên nhân từ lịch sử “Nam tiến” của các chúa Nguyễn đã chiếm đoạt các vùng đất của Kampuchia Krom (tức đồng bằng sông Cứu Long, một thời là Thủy Chân Lạp thuộc về Cambodia) và các hòn đảo như Koh Tral (Phú Quốc), cũng như chính sách hà khắc đối với sắc dân Khmer trong quá khứ, được các lãnh đạo Khmer Đỏ khơi gợi và kêu gọi những cuộc tàn sát người Việt. Thật mỉa mai, khi cộng sản Việt Nam đã đào tạo và hỗ trợ cho phong trào cộng sản ở Cambodia để chính những lực lượng này sau đó đã trở thành con dao găm đâm ngang sườn mình. Điều đó cũng giống hệt với mối quan hệ CSVN – Trung Cộng Những người “anh em tốt, đồng chí tốt, láng giềng tốt” (Trung Quốc, Liên Xô, Cộng Sản Việt Nam, Cambodia) đều có chung một “ý thức hệ” đáng nôn mửa – Cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy, có một điểm khác biệt về bản chất ở đây, rằng đối với Trung Quốc thì quyền lợi của quốc gia là quan trọng nhất. Cái gọi là “ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa” chỉ là phương tiện mà thôi. Mao Trạch Đông từng viết rằng: Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các Mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không vì nó chứa đựng một phép thần diệu để trừ quỉ ma. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ lợi ích. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đã xem thuyết Các Mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu cho ruộng đất, giáo lý không làm được việc đó. Quả thực, chủ thuyết đó đã mang lại lợi ích to lớn cho Mao, nó trở thành phương tiện tập hợp một xã hội Trung Hoa rách nát thành một lực lượng khổng lồ và cuồng nộ, giúp cho Mao đạp bằng mọi trở lực trên con đường tiến tới quyền lực tối thượng. Song cũng chính nó đã hủy hoại xã hội Trung Quốc tới tận gốc rễ. Còn đối với những người cộng sản Việt Nam, khi họ đem về chủ thuyết Cộng sản chủ nghĩa cùng với vũ khí và lương thực của Nga Sô và Trung Cộng để tiến hành các cuộc chiến tranh, họ đã đặt hai cái gông cùm nô lệ lên cổ dân tộc mình. Một là nô lệ “ý thức hệ”, hai là nô lệ vì nợ nần chiến phí và cả xương máu của ngoại bang. Thảm kịch đó chưa bao giờ kết thúc cho đến tận ngày hôm nay vì căn nguyên của nó chưa bao giờ được giải quyết. Và cũng vì lý do đó, mà sau cuộc chiến tàn khốc giữa những người “anh em cộng sản” 1979, “đứa con hoang đàng” Cộng Sản Việt Nam lại quay trở lại với “mẫu quốc” vào năm 1990, với “hội nghị Thành Đô” đầy oan trái. (Còn tiếp) Tân Phong https://viettan.org/nhung-cuoc-chia-ly-mau-do-viet-trung/ Xin đón xem tiếp Phần 2: Hà Nội toan tính cho một “cuộc chia ly lần 2”  
......

Nguyễn Phú Trọng sẽ đi Mỹ: Làm thế nào để có ‘đối tác chiến lược’?

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lobby để Nguyễn Phú Trọng được Donald Trump tiếp. Thường Sơn – (VNTB) – Làm sao đạt được quan hệ ‘đối tác chiến lược’ với Mỹ, để bảo đảm rằng quốc gia đối trọng duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ hỗ trợ chế độ cộng sản Việt Nam khai thác dầu khí? Giáo sư Carl Thayer – một chuyên gia theo dõi chặt chẽ về những biến động chính trị ở Việt Nam và mối quan hệ của Việt Nam với các nước, cho biết đã có một đợt vận động hành lang của Bộ Ngoại giao Việt Nam để Nguyễn Phú Trọng được Donald Trump tiếp. Lẽ ra, ông Trọng đã đặt chân lên Washington vào giữa năm 2019, nếu không xảy ra cú bạo bệnh thình lình trong đợt ông ta bất ngờ đi công tác tại Kiên Giang ‘nhà Ba Dũng’ vào tháng 4 năm 2019. Cú bạo bệnh này mà diễn tiến của nó được cho là phức tạp về hệ thần kinh đã khiến Trọng phải nằm điều trị trong một thời gian khá dài mà không thể tiếp khách hay xuất cảnh. Điểm khác biệt lớn nhất giữa lần dự kiến đi Mỹ vào giữa năm 2019 của Nguyễn Phú Trọng và lần dự kiến thứ hai vào tháng 10 cùng năm là hội chứng tàu Trung Quốc. Trước tháng 5 năm 2019 và trong lúc Nguyễn Phú Trọng còn phải nằm giường điều trị, đã chưa có vụ tàu Trung Quốc gây hấn ở khu vực Bãi Tư Chính. Vấn đề quan hệ Việt – Mỹ có cần thiết được đẩy lên tầm ‘đối tác chiến lược’ hay không cũng bởi thế không quá khẩn thiết đối với Trọng và giới chóp bu trong Bộ Chính trị đảng. Nhưng kể từ đầu tháng 6 năm 2019, Trung Quốc bắt đầu điều tàu phá rối ở mỏ Lan Đỏ – nơi được liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PN) với Tập đoàn Dầu khí Rosneft của Nga, và sang đầu tháng 7 thì vụ gây hấn này đã lan sang Bãi Tư Chính, đặc biệt xoáy vào mỏ Cá Rồng Đỏ – liên doanh giữa PVN với hãng dầu khí Repsol của Tây Ban Nha. Đến lúc đó, tình hình đã khác hẳn, kéo theo cán cân đàm phán Việt – Mỹ đã nghiêng hẳn về phía Mỹ, xét trên phương diện ‘ai cần ai hơn’. Từ cuối tháng 7 năm 2019, Mỹ đã trở thành quốc gia đầu tiên lên tiếng ủng hộ Việt Nam, dù chỉ là gián tiếp, chống lại thói bắt nạt của Trung Quốc trên Biển Đông. Không chỉ Bộ Ngoại giao, mà cả Bộ Quốc phòng và Cố vấn an ninh của Hoa Kỳ đã cùng lên tiếng về chủ đề này không chỉ một lần. Cùng lúc, hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan được Mỹ điều đến Biển Đông để tuần tra, mà về thực chất là án ngữ ở cửa ngõ vùng biển mà rất có thể xảy ra một cuộc xung đột vũ trang bắt nguồn từ ‘đồng chí tốt’ của Việt Nam. Bài toán đặt ra với Trọng hiện thời là một sự gấp rút thời gian khi phải lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, mà nếu động thái đó được triển khai có hiệu quả thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc nắt nạt, còn Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ và ‘chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần’. Nhưng muốn đạt được ý đồ trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam lại phải tính đến việc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ chính sách ‘ba không’ giáo điều và vô bổ của nó, nhất là hai nguyên tắc không liên kết với nước này để chống lại nước khác và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam đã tự lấy đá ghè chân mình. Và làm sao đạt được quan hệ ‘đối tác chiến lược’ với Mỹ, để bảo đảm rằng quốc gia đối trọng duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ hỗ trợ chế độ cộng sản Việt Nam khai thác dầu khí. Bởi thực chất mối quan hệ ‘đối tác chiến lược’ mà giới chóp bu Việt Nam đang muốn tìm kiếm ở người Mỹ là sẽ phải giải tỏa những nguyên tắc cản đường: không những Việt Nam và Mỹ phải tiến đến một quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ theo mô hình tương trợ quốc phòng mà Mỹ đã ký và thực thi với Philippines, mà Việt Nam phải thừa hiểu là chỉ khi cho Mỹ đặt căn cứ quân sự ở quân cảng Cam Ranh thì tàu Mỹ và máy bay Mỹ mới có thể khống chế được các tàu và máy bay Trung Quốc từ phía Bắc lấn xuống Biển Đông.  
......

Ngoại giao căn cứ hải quân Cam Ranh: tại sao không?

Tàu ngầm Kilo ở vịnh Cam Ranh. Nguyễn Hiền – (VNTB) – Trung Quốc có sự đột phá kinh tế như ngày hôm nay đến từ ngoại giao bóng bàn với Mỹ, vậy tại sao Việt Nam không tạo ra sự kiện ngoại giao hải quân với Washington (qua cảng Cam Ranh) để có tầm nhìn phát triển hơn?   Quan hệ ngoại giao của hai quốc gia Việt – Mỹ có những tiến triển về cơ bản tốt. Và có những dấu hiệu cho thấy, quan hệ quân sự đang nối bước theo sau.   Trong lời chúc mừng quốc khánh của Việt Nam, Ngoại trưởng Mỹ Pompeo đã đề cập đến “sự tăng trưởng vượt trội của quan hệ đối tác song phương”, trong đó ông nhấn mạnh “mối quan hệ đối tác mạnh mẽ và cam kết chung của chúng ta đối với hòa bình, an ninh, độc lập có chủ quyền và thịnh vượng trong khu vực.”   Và cũng vào đúng ngày quốc khánh Việt Nam (2.9), cuộc tập trận chung trên biển đầu tiên giữa Mỹ và khối ASEAN sẽ bắt đầu ở khu vực ngoài khơi Vịnh Thái Lan và mở rộng cho tới vùng Cà Mau ở cực nam của Việt Nam. Và Hà Nội sẽ tham gia cuộc tập trận này Việt Nam, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng xác nhận chiều 22.8.   Trong khi đó, theo một tin tức mới nhất từ SCMP ngày 30.8 cho biết, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper cho biết, nước này muốn đầu tư vào nhiều căn cứ hơn ở châu Á-Thái Bình Dương.   SCMP dẫn lời Patrick Cronin, từ Học viện Hudson, cho rằng, Mỹ có thể mở rộng sự hiện diện quân sự ở một số khu vực của Đông Nam Á. Bởi ngay cả Việt Nam, quốc gia theo đuổi chính sách quốc phòng không liên minh quân sự hay cho quân đội nước ngoài đóng quân trên đất liền, thì gần đây đã tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ trong bối cảnh tranh chấp leo thang với Bắc Kinh trên Biển Đông.   Hiện, Mỹ có hơn 40 căn cứ quân sự trong khu vực, nhiều trong số đó thuộc lãnh thổ của các đồng minh chủ chốt như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc. Nhưng nếu là căn cứ tạm thời nhằm điều động linh hoạt quân đội và phù hợp với chiến lược của Mỹ, thì ngoài Manila ra, Hà Nội là một điểm đến không tồi.   25 năm bình thường hóa quan hệ với Mỹ trong năm 2020 sẽ là thời điểm tối ưu nhất để thúc đẩy mạnh điều này, và Cam Ranh sẽ một lần nữa được nhắc tên.   Căn cứ Cam Ranh vẫn là nơi đón tiếp các tàu hải quân chiến lược các nước khi ghé thăm Việt Nam, và Mỹ cũng không ngoại lệ.   Vào giữa tháng Tư, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đã đến thăm tỉnh Khánh Hòa. Tại đây, ông bày tỏ ý định muốn thấy tàu sân bay và lực lượng Hải quân Mỹ đến thăm tỉnh này trong tháng Chín. Điều này đồng nghĩa, sẽ có một tàu chiến sẽ ghé Cam Ranh trong năm nay. Trước đó, vào năm 2017, tàu chiến đổ bộ hải quân Mỹ USS San Diego đã ghé Cam Ranh. Nếu điều này xảy ra, thì đây là lần thứ hai, Mỹ được phép đưa tàu quân sự đi vào căn cứ Cam Ranh. Trước đó vào năm 2017, tàu khu trục lớp Arleigh Burke USS John S. McCain và tàu ngầm ngầm lớp Emory S. USS Frank Cable  đã đến vịnh Cam Ranh. Chuyến thăm của các tàu chiến Mỹ – chuyến thăm đầu tiên của các tàu chiến của Hải quân Mỹ tới Vịnh Cam Ranh kể từ khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam năm 1975 – diễn ra sau khi Hà Nội và Washington kỷ niệm 21 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 2016.   Rõ ràng, chừng nào Trung Quốc còn tỏ thái độ hung hăng tại vùng Biển Đông, và khi các đảo nhân tạo của Bắc Kinh bắt đầu được lấp đầy bởi trang thiết bị quân sự và lính thì Mỹ vẫn sẽ còn để mắt đến cảng Cam Ranh như là một thành phần trong mở rộng quân sự ở Ấn Độ-Thái Bình Dương.   Không chỉ Washington, ngay cả Ấn Độ cũng đang dòm ngó Cam Ranh. Và với quan hệ song phương giữa Ấn Độ và Việt Nam đã phát triển đáng kể về các vấn đề an ninh và thương mại khu vực, cũng như là “đối tác chiến lược” của Hà Nội, thì khả năng sử dụng cảng quân sự này trở nên lớn hơn rất nhiều. Nhất là khi, vào năm 2010, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký với Ấn Độ một thỏa thuận liên quan đến việc, New Delhi sẽ hỗ trợ Hà Nội mở rộng khả năng hậu cần hải quân và huấn luyện quân đội trong chiến tranh.   Giống như Mỹ, Ấn Độ cũng thể hiện một vai trò lớn trong đảm bảo an ninh cho các tuyến đường biển và chia sẻ mối lo ngại với Hà Nội về việc Trung Quốc hành xử tiêu cực tại Biển Đông. Việt Nam nhìn thấy một đối tác ở Ấn Độ, cũng như Mỹ, trong kiềm chế Trung Quốc.   Việt Nam có thể mạnh dạn hơn, trong tiến hành hợp tác với các quốc gia trong khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông, và tất nhiên, không cần thiết phải lo sợ trước mối đe dọa của Trung Quốc. Tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra khi có một đồng minh quân sự thực tế. Cũng như Cam Ranh phải là biểu tượng của sự hợp tác cao nhất về mặt quân sự của Mỹ và Ấn Độ.   Cam Ranh phải nên được sử dụng như một hình thức ngoại giao hải quân để đạt được nhiều mục tiêu như thể hiện ý định, trấn an đối tác và răn đe kẻ thù. Và dịp kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, trong bối cảnh Trung Quốc vẫn đang hành động vô pháp luật trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thì đón chào một tàu sân bay và đoàn hải quân Mỹ là một biểu tượng cho sức mạnh và tinh thần ngoại giao, hợp tác an ninh giữa hai nước. Thể hiện đúng mực hình thức ngoại giao hải quân, mở đường cho sự hợp tác quốc phòng chuyên sâu hơn, tiến tới là đồng minh.   Lý do cơ bản cho sự cổ vũ Việt – Mỹ là đồng minh, vì cả hai có cùng chung một đối tượng cần phải kiềm chế. Và giống như Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đề cập sau Hội nghị Bộ trưởng Asean-Mỹ trước đây tại Bangkok. Thì, Washington không yêu cầu các quốc gia Ấn Độ-Thái Bình Dương chọn phe, và sự tham gia của Mỹ trong khu vực này chưa và sẽ không bao giờ là một trò chơi có tổng bằng không. Đó đơn giản là “hội tụ một cách tự nhiên với lợi ích chung của chúng ta”.   Việt – Mỹ đã cùng tìm thấy một lợi ích chung đầy thực tế ở Biển Đông, trong duy trì chủ quyền theo luật pháp hàng hải quốc tế cũng như đảm bảo một tinh thần tự do hàng hải. Vậy thì không cứ gì Hà Nội phải từ chối chủ nghĩa thực dụng của Mỹ, cùng chơi trò chơi mà nơi đó, lợi ích sẽ được chia đôi.   Trung Quốc có sự đột phá kinh tế như ngày hôm nay đến từ ngoại giao bóng bàn với Mỹ, vậy tại sao Việt Nam không tạo ra sự kiện ngoại giao hải quân với Washington (qua cảng Cam Ranh) để có tầm nhìn phát triển hơn?   Vịnh Cam Ranh có một vị trí đặc biệt thuận lợi trong quan sát toàn bộ Biển Đông, nó nằm ở vị trí cách các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đảo Hải Nam tương ứng khoảng 323 hải lý, 430 hải lý và 462 hải lý. Gần với eo biển Malacca và Trung Quốc.  
......

Nguồn cơn nào khiến Nhà máy In tiền quốc gia VN phải lỗ lớn?

Phạm Chí Dũng| Khi năm 2019 đã bước sang nửa cuối, thị trường tiền tệ và ngành ‘in tiền’ Việt Nam nhận được một tin tức có vẻ đáng lo ngại: Nhà máy In tiền Quốc gia trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lỗ đến 11,2 tỉ đồng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019, còn những năm trước chỉ toàn lãi và lãi… Từ ‘lỗ đột biến’… Nhà máy In tiền Quốc gia có trụ sở tại quận Cầu Giấy, Hà Nội. Từ năm 2010, nhà máy này được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty TNHH một thành viên với 100% vốn điều lệ được Ngân hàng Nhà nước nắm giữ. Ngành nghề kinh doanh chính của Nhà máy In tiền Quốc gia là in, đúc tiền, sản xuất vàng miếng, vật phẩm, lưu niệm bằng vàng và các loại giấy tờ có giá. Số lượng, doanh thu và chi phí từ hoạt động in đúc tiền của Nhà máy In tiền Quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu tiền mặt trong nền kinh tế, việc điều hành chính sách tiền tệ và theo kế hoạch do Thống đốc Ngân hàng nhà nước giao. Số lỗ hơn 11 tỷ đồng trong nửa đầu năm 2019 là đáng thất vọng đối với cơ sở độc quyền về in tiền và được xem là không bao giờ lỗ. Bởi cùng kỳ năm 2018, Nhà máy In tiền Quốc gia thu lợi nhuận sau thuế tới 60 tỷ. Còn vào năm 2017, nhà máy này đã đạt lãi ròng 44 tỷ đồng. Nếu nhìn vào báo cáo tài chính của Nhà máy In tiền Quốc gia, có thể cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng lỗ sau 6 tháng đầu năm 2019 là do chi phí hoạt động tăng cao trong khi doanh thu từ việc sản xuất giảm sút so với những năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2019, doanh thu tài chính của Nhà máy In tiền Quốc gia thấp hơn cùng kỳ 7 tỷ, giảm còn 10 tỷ đồng. Nhưng vì sao doanh thu năm 2019 của Nhà máy In tiền Quốc gia bị sụt giảm? Phải chăng do số lượng và doanh thu in tiền của Nhà máy In tiền Quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu tiền mặt trong nền kinh tế nên doanh thu sụt giảm là do nền kinh tế ‘bội thực’ với tiền mặt? Giả thiết trên là hoàn toàn có cơ sở khi ‘trải nghiệm’ chiều dài dĩ vãng in tiền và in tiền bạt mạng của Nhà máy In tiền Quốc gia, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và sự lãnh đạo của ít nhất hai đời thủ tướng chính phủ từ Nguyễn Tấn Dũng đến Nguyễn Xuân Phúc. Đến ‘lãi lạm phát’ Dù đến nay chính phủ và Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyệt nhiên không chịu đả động, hoặc cố tình giấu kín động thái in tiền thông qua công cụ Nhà máy In tiền Quốc gia, nhưng bản thân những con số dư nợ cho vay trong hệ thống ngân hàng đã phản ánh cơ bản nguồn cơn “vì sao tiền đồng tràn ngập thừa mứa trong ngân hàng”. Vào năm 2008, tổng dư nợ cho vay của khối ngân hàng là 2,3 triệu tỷ đồng, nhưng đến cuối năm 2018 đã lên đến 7,6 triệu tỷ đồng, tức lượng tiền mặt hiện diện trên thị trường cho đến cuối năm 2018 đã gấp gần 3,5 lần của 10 năm trước. Hẳn nhiên và tương ứng, lượng tiền được Ngân hàng Nhà nước cho in và bổ sung vào lưu thông đã có thể vào khoảng 500.000 tỷ đồng mỗi năm, tức phần “lạm phát in tiền” đã chiếm đến 10-15% hàng năm – một tỉ lệ in tiền rất cao so với tỉ lệ in tiền bình quân của các nước phương Tây. Cũng còn một cơ sở khác để đối chiếu: theo chính các số liệu của Ngân hàng Nhà nước, mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán hàng năm ở Việt Nam luôn tăng đến 14 - 16% mỗi năm. (Tổng phương tiện thanh toán, còn gọi là M2, bao gồm tổng lượng tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng, tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ của dân cư, doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại). Tính đến tháng 5/2019, số dư tổng phương tiện thanh toán đã đạt đến quy mô 9.706.888 tỷ đồng (tăng 5,37% so với cuối năm 2018). Quay ngược về tháng 12/2013, quy mô này chỉ ở mức 4.400.692 tỷ đồng. Tức sau 5 năm, số dư tổng phương tiện thanh toán đã tăng hơn 2 lần. Đáng chú ý là tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam gần như không mấy thay đổi trong nhiều năm qua, phổ biến chỉ xoay quanh mức 11,5%. Hiện tượng này đồng nghĩa với quy mô tăng đều theo tổng phương tiện thanh toán hàng năm, tức khi tổng phương tiện thanh toán tăng thì lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng theo. Cũng có nghĩa là sau 5 năm, khi số dư tổng phương tiện thanh toán đã tăng hơn 2 lần thì lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng gấp hơn 2 lần. Tiền mặt trong lưu thông tăng lại dẫn đến lạm phát. Chỉ xét theo số liệu về tổng phương tiện thanh toán trong giai đoạn 2013 - 2018 của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ lạm phát hàng năm đã lên đến khoảng 15%. Con số này là hoàn toàn trái ngược với các báo cáo mắt nhắm mắt mở và tô hồng vô liêm sỉ của Chính phủ về số liệu lạm phát chỉ dưới 5% hoặc dưới 4% hàng năm. Hẳn đó là nguyên do khiến trong khi Nhà máy In tiền Quốc gia đột biến lợi nhuận trong những năm trước, giới cán bộ hưu trí lại thường phản ánh nhận được lương hưu với nhiều tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng, mới cứng và chắc chắn chưa được lưu hành ngoài thị trường. Không chỉ giới hưu trí và công chức, những người thường xuyên giao dịch tại các ngân hàng thương mại cũng rất thường chứng kiến cảnh nhiều xe chở tiền mới cứng được đưa tới các ngân hàng. Còn tại nhiều chợ đầu mối ở Sài Gòn và Hà Nội, giá thịt thà và rau củ cứ tăng đều đặn 30-40% mỗi năm, chưa kể tăng gấp đôi vào những sự kiện tăng lương, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện hay tăng giá đô la…, tạo nên một nghịch lý rất lớn hiện hình trong nội tình ngân sách và hệ thống ngân hàng Việt Nam: tiền đồng thừa ứ và đang “kiến tạo” lạm phát dần phi mã đã góp thêm một kích thích tố đẩy lạm phát tăng vọt khiến dân tình càng thêm xác xơ. “Tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế” (!?) Vào năm 2019, có một vụ việc mà đã suýt chút nữa khiến Việt Nam lọt vào ‘danh sách các nước thao túng tiền tệ’ của Hoa Kỳ: do nóng ruột muốn gia tăng Quỹ dự trữ ngoại hối để có ngoại tệ trả nợ nước ngoài cùng khoe khoang thành tích chính trị nhằm chạy đua đến đại hội 13, chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước ồ ạt tung tiền Việt để thu gom USD trôi nổi trên thị trường. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2019, núi tiền lên đến hơn 200 ngàn tỷ đồng được tung ra lưu thông đã thu lại khoảng 8,5 tỷ USD, tạo nên thành tích chưa từng có của Quỹ dự trữ ngoại hối là có đến hơn 65 tỷ USD. Thế nhưng số ngoại tệ 8,5 tỷ USD gom được lại vượt hơn hẳn điều kiện không được vượt quá 2% GDP (một trong 3 tiêu chí của Hoa Kỳ về thao túng tiền tệ), khiến Việt Nam tuy chưa nằm trong ‘Danh sách các nước thao túng tiền tệ’ nhưng vẫn bị Hoa Kỳ xếp vào danh sách theo dõi đặc biệt. (Mỹ sử dụng ba tiêu chí để đánh giá việc thao túng tiền tệ của một quốc gia: thặng dư tài khoản vãng lai lớn hơn 3% GDP, thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Mỹ ít nhất là 20 tỷ đô la, và can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá ít nhất 2% GDP). Rốt cuộc, giới chuyên gia thân chính phủ đã phải bao biện rằng hiện tượng Nhà máy In tiền Quốc gia sụt giảm về doanh thu là “tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế, cho thấy Ngân hàng Nhà nước vẫn đang theo chính sách hạn chế cung tiền ra thị trường”. Nhưng nhìn thẳng vào thực chất vấn đề, không hạn chế cung tiền thì sẽ khiến bóng ma lạm phát đội mồ sống dậy. Bởi Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và đằng sau những cơ quan này là ‘đảng chỉ tay năm ngón’ không còn có thể in tiền và tung xả láng tiền ra thị trường như cái thời Nguyễn Tấn Dũng ‘tiền nhiều như nước sông Đà’, đưa nhiều quan chức cộng sản mấp mé danh sách tỷ phú đô la của Tạp chí nhà giàu Forbes. Nếu không kềm chế hoạt động in tiền thì bất cứ một trạng thái kích động lạm phát đủ nghiêm trọng nào cũng đều có thể làm rung chuyển chân đứng của chế độ cầm quyền ở Việt Nam, vốn đã rệu mục từ lâu bởi các núi nợ công quốc gia và nợ xấu ngân hàng. Đó là nguồn cơn khiến số đơn hàng in tiền của Ngân hàng Nhà nước đã ít hẳn lại vào năm 2019 và làm cho Nhà máy In tiền Quốc gia bị sụt giảm doanh thu và phải chịu lỗ lớn mà không thể mở miệng than van. Phạm Chí Dũng  
......

7 Cảnh báo và 3 Đề nghị vụ cháy nhà máy Rạng Đông ở Hà Nội

”...Đứa mất dạy nào nói cháy nhà máy Rạng Đông “không sao đâu!” cứ đập thẳng vào mặt nó! Sự ngu và ác của chúng nó có thể tước đi tính mạng hay “tạo ra” con cái biến dị cho người khác nếu không thực hiện phòng độc và xử lý độc thuỷ ngân, độc lưu huỳnh từ vụ cháy đấy!...” Quốc Ấn Mai   Tối qua đến sáng nay tôi xem tài liệu về thuỷ ngân, phốt pho và các độc chất khác liên quan đến việc sản xuất bóng đèn và phích nước của nhà máy Rạng Đông. Có nhiều vấn đề có thể viết nhưng tôi sẽ chọn góc tiếp cận thông tin theo hướng giải quyết vấn đề để hạn chế thấp nhất hậu quả nhiễm độc sau vụ cháy. Xin đưa ra các cảnh báo và đề nghị sau: CẢNH BÁO 1- Các gia đình gần nơi xảy ra vụ cháy còn cảm nhận được mùi khó chịu phải di dời lập tức ít nhất 2 tuần khỏi hiện trường. 2-Sử dụng khẩu trang phòng độc (có màng cacbon hay màng nitrat bạc) khi ra đường, nhất là nơi gần xảy ra vụ cháy. Phải sử dụng khẩu trang phòng độc vì có nhiều phản ánh tuy chỉ đi ngang vẫn cảm nhận được mùi khó chịu. Có thể tham khảo thêm ở chương trình phi lợi nhuận này: https://www.facebook.com/1608577719/posts/10213705793151608?sfns=mo Những người gần khu vực vụ cháy và trong bán kính ảnh hưởng Khi đi ngang qua nên mua loại khẩu trang phòng độc này mà đeo vào. Ngăn được 95% những hạt siêu mịn và siêu độc đó! Chí ít là giảm thiểu thiệt hại sức khoẻ đã. 3-Không ăn thực phẩm, trái cây khu vực quanh vụ cháy. Bán kính không hạn chế ở mức 1km như thông báo của phường Hạ Đình (Quận Thanh Xuân, Hà Nội) mà bất cứ đâu người dân từng cảm nhận được mùi cháy và thấy khó chịu vì nó vào tối 28/8/2019. Diện tích cảnh báo sau khi đã cân nhắc của tôi là bán kính 5km quanh vụ cháy vì rất nhiều thông tin về mùi khó chịu (nhiều khả năng là có độc) của vụ cháy trong mức này. Tốt nhất nên tiêu huỷ toàn bộ thực phẩm, trái cây quanh khu vực này. 4-Không sử dụng nước bể lộ thiên, vật chứa nước không đậy cũng khu vực bán kính 5km quanh vụ cháy để nấu ăn. Xả hết nước bể lộ thiên, vật chứa nước không đậy và vệ sinh kỹ rồi mới tích nước lại dùng. Tro bụi vụ cháy và các độc chất có thể ngấm vào nước mà người dân không biết. 5-Vệ sinh toàn bộ nhà cửa bao gồm trần nhà, tường và vật dụng bằng cách lau bằng giẻ ướt để tránh phát tán độc chất dạng bụi, giặt tất cả các quần áo để bênngoài tủ quần áo và xả kỹ, xịt thân vá lá cây cảnh, cây ăn trái. Bụi mịn cỡ PM2.5 và nhỏ hơn (PM1.0 hay PM0.3) từ vụ cháy có thể bám lên bề mặt đồ đạc, quần áo. Nhà có chó mèo thì cũng phải tắm chúng thật kỹ bằng xà phòng sau khi thực hiện các bước trên cũng như vệ sinh chính bản thân mình thật kỹ. Việc này phải làm thường xuyên vì cơn mưa ngày 29/8/2019 có làm bớt bụi mịn thì khi các vũng nước khô đi thì bụi mang độc chất vẫn phát tán do giao thông đi lại. 6-Những người cảm nhận rõ mùi khó chịu của vụ cháy và thấy cơ thể có biểu hiện ho, khó thở, đau ngực, nhức đầu, sốt bất thường thì phải đưa đi khám tại các bệnh viện để có biện pháp xử lý kịp thời. Tốt nhất nên có các xét nghiệm máu và nói rõ với bác sĩ về việc có ảnh hưởng của vụ cháy bóng đèn với khả năng phát tán thuỷ ngân, lưu huỳnh. Uống nước thật nhiều (trên 2,5 lít/ngày). 7-Yêu cầu chính quyền địa phương công bố minh bạch thông tin chi tiết vụ cháy và các ảnh hưởng của nó. Yêu cầu rà soát lại toàn bộ doanh nghiệp sản xuất và kho bãi chứa hàng có các yếu tố hoá chất độc hại trên địa bàn đông dân cư. (Yêu cầu này thì dân nơi chưa xảy ra sự cố môi trường cũng nên làm.) ĐỀ NGHỊ -Đề nghị chính quyền cấp thành phố Hà Nội công bố lập tức thông tin thiệt hại vụ cháy về hàng hoá để biết được mức độ độc hại từ vụ cháy. Tốt nhất nên công bố tình trạng nguy hiểm và di dời ngay lập tức những hộ dân đang bị ảnh hưởng mùi trực tiếp. Phong toả và cách ly kín toàn bộ hiện trường vụ cháy và các hộ đã di dời gần đó nhanh nhất có thể. -Đề nghị các cơ quan chức năng, nhà khoa học trên địa bàn thủ đô phối hợp lấy mẫu không khí, đất, nước quanh vụ cháy trong bán kính 5km hoặc hơn. Nhất là xác định hướng gió của vụ cháy, hướng của nước ngầm để biết tính phát tán. -Đề nghị Bộ Công an lập tức khởi tố vụ án vì tính nghiêm trọng của nó. P/s: Hôm qua cậu em phóng viên Bach Tran vẫn vào sát vụ cháy để tác nghiệp. Tôi đề nghị báo Vietnamplus đưa cậu ấy vào viện ngay bởi qua miêu tả của cậu ấy trong chat thì khả năng là đã nhiễm độc. Các báo khác cũng nên làm thế đối với phóng viên tác nghiệp hiện trường vụ cháy Rạng Đông. P/s2: Đứa mất dạy nào nói cháy nhà máy Rạng Đông “không sao đâu!” cứ đập thẳng vào mặt nó! Sự ngu và ác của chúng nó có thể tước đi tính mạng hay “tạo ra” con cái biến dị cho người khác nếu không thực hiện phòng độc và xử lý độc thuỷ ngân, độc lưu huỳnh từ vụ cháy đấy! Mai Quốc Ấn
......

Lo cho đảng viên trẻ bị diễn biến hoà bình

Ông Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đảng CSVN phát biểu tại hội nghị báo chí toàn quốc hôm 28 tháng Mười Hai, 2018. Ảnh: Infonet Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân Trong hai tuần lễ vừa qua, hầu như ngày nào báo chí lề đảng cũng loan tải những buổi sinh hoạt, nói chuyện, học tập nhằm vào đảng viên trẻ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, ông Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cho đến ông Trưởng Ban Tuyên Giáo Võ Văn Thưởng, ông Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam,… và một số cán bộ cao cấp nhưng nay về hưu đã đăng đàn kêu gọi các đảng viên trẻ phải cảnh giác âm mưu diễn biến hòa bình. “Thế lực thù địch” và “diễn biến hoà bình” là hai nhóm từ ngữ mà các cây bút của cơ quan tuyên giáo cộng sản thường sử dụng để đe doạ chẳng những người dân bên ngoài mà ngay cả cán bộ trong đảng. Quy định số 47 của Đảng CSVN đưa ra hồi năm 2011, đưa ra “19 điều quy định đảng viên không được làm” để đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Hay nói khác đi, đây là 19 trọng tội mà đảng viên vi phạm sẽ bị xét xử, chứng tỏ tầm mức quan trọng của vấn đề tư tưởng đảng viên. Giờ đây, mối lo tâm huyết của đảng là ngăn chặn và triệt tiêu sức tấn công của thế lực thù địch vào thành phần đảng viên trẻ, là tầng lớp đang được đào tạo để bước lên ghế lãnh đạo sau này. Sự lo lắng này cũng dễ hiểu vì thế lực thù địch ngày nay của đảng có quá nhiều và thật đáng sợ như đảng thú nhận. Đó là những người bất đồng chính kiến, mạng lưới truyền thông lề trái, những tổ chức xã hội dân sự và những nhóm đấu tranh chính trị ôn hoà. Theo đảng, những thành phần này đều có khả năng đầu độc đảng viên, nhất là đảng viên trẻ, làm cho đảng bị phân hoá nội bộ, băng hoại đạo đức. Lãnh đạo đảng ngày đêm lo âu, mất ngủ vì tư tưởng đảng viên ngày càng xuống cấp, suy đồi. Tệ nạn tham nhũng cũng không có hiện tượng chấm dứt cho dù công cuộc đốt lò của ông Trọng được quảng cáo ầm ĩ suốt mấy năm qua. Thật khó tưởng tượng trong bốn bức tường kiên định chủ nghĩa Mác-Lê, một hệ thống đảng viên luôn được đảng trau giồi, học tập chính trị thường xuyên nay lại dễ dàng bị thế lực này, thế lực nọ làm cho họ mất tin tưởng vào đảng một cách trầm trọng. Gần đây, lần đầu tiên một lãnh đạo cao cấp ngành tuyên giáo là Võ Văn Thưởng và ngay cả Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cũng đều thừa nhận có một “nhóm thế lực thù địch” nằm ngay trong lòng đảng. Theo ông Thưởng, nhóm này không khó nhận diện nhưng “rất khó đấu tranh” hàm ý rất khó diệt trừ. Đó chính là thành phần đảng viên các cấp, có người đã từng giữ những chức vụ cao trong bộ máy chính quyền và họ bị quy cho suy đồi tư tưởng, mất niềm tin vào đảng. Đây cũng chính là những đảng viên nguy hiểm nhất có thể làm đảng tan nát chứ không phải bọn tham nhũng. Bởi vì cán bộ tham nhũng dù sao cũng là những người trung thành với đảng, giúp cho đảng vững mạnh nhờ đó họ mới có cơ hội làm giàu và nuôi sống đảng. Mà những thế lực thù địch được cho là nằm ngay trong ruột gan đảng thì làm sao diệt cho hết. Theo ông Thưởng, họ “len lỏi và phức tạp”, sử dụng truyền thông xã hội chuyên nghiệp để làm suy yếu nền tảng tư tưởng của đảng. Do đó lần này đảng chơi chiêu mới, bắt đầu chẩn bệnh và chữa bệnh từ hàng ngũ đảng viên trẻ thường gọi là tầng lớp hậu duệ. Nói khác đi đây là đám con ông cháu cha được nuôi dưỡng, rèn luyện để trở thành những hạt giống đỏ “hồng và chuyên” thay thế và thực hiện hệ thống toàn trị của đảng trong tương lai. Khung cảnh diễn đàn mang tên “đảng viên trẻ tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng” do Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Cộng Sản Việt Nam cùng với Học Viện Báo Chí – Tuyên Truyền tổ chức hôm 26 tháng Tám, 2019. Trong chiều hướng đó, chiều ngày 26 tháng Tám vừa qua, một diễn đàn của Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản mang một cái tên rất kêu “Đảng viên trẻ tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” đã được tổ chức tại Hà Nội. Nhiều giáo sư, tiến sĩ thuộc các cơ quan, học viện chính trị, báo chí, các viện triết học đã đăng đàn kêu gọi “các đảng viên trẻ, đoàn viên, thanh niên phải đọc, phải học, phải nắm vững, phải tin vào nền tảng tư tưởng của đảng”… trước hết để nhận diện cho được thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng ấy tức bảo vệ đảng. Đảng viên trẻ cũng phải luôn kiên định lập trường tư tưởng Mác-Lê vì đó là kim chỉ nam cho lập trường chính trị không khoan nhượng trước kẻ thù giai cấp. Có điều các diễn giả chỉa mũi dùi vào thế lực thù địch nhưng không hề giải thích vì sao ngày nay đảng nhìn đâu cũng có thế lực thù địch, ngay cả nhân dân cũng là một “thế lực thù địch tiềm ẩn” như nhận định chua chát của một người đã bỏ đảng. Đảng dạy dỗ đảng viên trẻ phải đọc, phải học nhưng thật ra họ cần gì học đâu cho xa mà chỉ cần nhìn vào tấm “gương sáng” tham ô của các lãnh đạo cao cấp trước vành móng ngựa trong thời gian qua sẽ thấy ngay. Những gì gọi là âm mưu diễn biến hoà bình và thế lực thù địch của đảng không ai khác hơn chính là đồng đô-la đã sai khiến cả đảng lao vào con đường tha hoá. Không thế lực nào khác ngoài đồng tiền đang chi phối chính sách, tạo ra những nhóm lợi ích làm cho nội bộ đảng phân tán và điêu đứng vì quốc nạn tham nhũng do chính đảng nuôi dưỡng. Ngày nay Đảng CSVN còn vẽ vời ra những buổi học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hay mở chiến dịch “50 năm thực hiện di chúc Bác Hồ” để làm gì khi mà hầu hết đảng viên đều không còn tin những gì ông Hồ nói. Nhất là khi chính ông ta trong Đại hội 2 năm 1951 đã thừa nhận “Không, tôi chẳng có tư tưởng gì, ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê; tôi là học trò của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin chớ làm gì có tư tưởng ngoài triết học Mác.” Vì thế chẳng qua các lãnh đạo sau này bày đặt ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” để tô son trát phấn cho chế độ đang lúng túng trong cơn khủng hoảng của giáo điều Mác-Lê xơ cứng, không đáp ứng nổi nguyện vọng thay đổi của mọi tầng lớp dân chúng. Đồng thời họ trưng ra “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm một cái pháo đài bất khả xâm phạm để các lãnh đạo che giấu sự hủ hoá đạo đức và thất bại trong điều hành đến nỗi đẩy đất nước rơi vào sự tụt hậu mọi mặt. Giờ đây Đảng CSVN nên nhìn vào thực lực yếu kém của mình và những vấn nạn của đất nước, đừng giải quyết lòng vòng để lừa bịp người dân. Nhất là đừng đóng khung bắt đảng viên sống chết trong bốn bức tường của chủ nghĩa Mác-Lê, một trào lưu tư tưởng đã bị thời đại vượt qua và thải hồi. Phạm Nhật Bình  
......

Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ – Quan hệ hai nước sẽ cải thiện?

Diễm Thi -  RFA Mục đích chuyến đi Trong cuộc hội đàm tại Hà Nội hôm 27 tháng Hai, 2019, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã mời Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ trong năm nay để tiếp tục trao đổi về những biện pháp tăng cường quan hệ Đối tác Toàn diện giữa hai nước. Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng nêu điểm khác biệt lớn nhất giữa lần dự kiến đi Mỹ vào giữa năm 2019 của Nguyễn Phú Trọng và lần dự kiến thứ hai vào tháng MườI cùng năm là hội chứng “Tàu Trung Quốc”. Ông phân tích rằng trước tháng Năm, 2019 chưa có vụ tàu Trung Quốc gây hấn ở khu vực Bãi Tư Chính, do đó quan hệ Việt – Mỹ có cần thiết được đẩy lên tầm ‘đối tác chiến lược’ hay không cũng không quá khẩn thiết đối với ông Trọng và giới chóp bu trong Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, dù trước đó đã liên tiếp xảy ra hai vụ Trung Quốc gây hấn đều ở Bãi Tư Chính vào tháng Bảy năm 2017 và tháng Ba năm 2018. Nhưng kể từ đầu tháng Bảy, 2019, khi Trung Quốc ngang nhiên đem tàu thăm dò dầu khí vào khu vực Bãi Tư Chính, thì tình hình đã khác hẳn, kéo theo cán cân đàm phán Việt – Mỹ đã nghiêng hẳn về phía Mỹ, xét trên phương diện ‘ai cần ai hơn’ vào lúc này? “Bài toán đặt ra với Nguyễn Phú Trọng hiện thời là trong khi ông ta vẫn tuyệt đối ‘cấm khẩu’ về vụ tàu Hải Dương và giới quan chức cấp dưới của ông ta cũng ‘sao y bản chánh’, ông ta phải gấp rút thời gian để lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông.” Nhà báo tự do Nguyễn Ngọc Già, cũng là một người theo dõi sát thời cuộc, nhận định chuyến đi dự kiến vào tháng Mười, nếu diễn ra, thì đó là một tín hiệu tốt cho Đảng CSVN nói chung và cho Bộ Chính Trị nói riêng, trong tình thế hiện nay mà ông ví với thành ngữ “thù trong giặc ngoài”. Ông nêu điểm tương đồng không thay đổi trong mối quan hệ Việt – Mỹ từ năm 1946 cho đến nay: “Đặt trong bối cảnh tình hình hiện nay, tôi nhớ tới năm 2013, ông Trương Tấn Sang, đương kim chủ tịch nước lúc bấy giờ, sang thăm chính thức Hoa Kỳ và có mang bức thư của ông Hồ Chí Minh năm 1946 gửi Tổng Thống Harry Truman (dù không nhận được hồi âm), gọi là tặng lại cho tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Barack Obama. Nội dung bức thư đó chúng ta thấy rất rõ ở điểm: Việt Nam đang cầu viện Hoa Kỳ can thiệp vào tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là một thông điệp quá rõ để thấy nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang rất cần Hoa Kỳ.” Trong khi đó, nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc lại cho rằng mục đích chuyến đi của Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ, mà theo Giáo Sư Carl Thayer là khoảng tháng Mười, là để mở rộng quan hệ Việt – Mỹ và giải quyết những vấn đề nóng bỏng hiện nay trên Biển Đông. Trong đó, Mỹ với vai trò và tính cách là một cường quốc có quyền lợi ở khu vực này. Tuy nhiên ông không đánh giá cao chuyến đi sắp tới bởi một số lý do sau: “Thứ nhất, sức khỏe của ông Trọng chưa thể bảo đảm cho một chuyến đi dài ngày; thứ hai là trong quan hệ Việt – Mỹ, không thể một sớm một chiều mà có thể thay đổi từ quan hệ đối tác chiến lược sang đối tác chiến lược toàn diện. Một điểm nữa, Tổng Thống Donald Trump là một ông “sáng nắng chiều mưa”, và Việt Nam không phải là trọng điểm chiến lược của Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương. Do đó mối quan hệ Việt – Mỹ trong thời gian trước mắt chưa có gì bảo đảm để khắng khít theo mong muốn của Việt Nam với chính sách ‘ba không’.” Ông Đinh Kim Phúc cho rằng nếu muốn đẩy mối quan hệ Việt – Mỹ hiện nay thêm một bước thì chỉ cần cấp bộ trưởng ngoại giao là đủ chứ không cần tới nguyên thủ quốc gia. Liên quan đến quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ, Luật Sư Vũ Đức Khanh, một người luôn theo dõi tình hình chính trị Việt Nam từ Canada thì cho rằng ông Trọng không có khả năng “tăng tốc” mối quan hệ này vì hạn chế về tuổi tác và ý thức hệ. Tuy vậy ông nhận xét: “Với những gì chúng ta có thể quan sát được về mặt nổi trong quan hệ Việt – Trung và những căng thẳng đang có trên Biển Đông, khả năng một quan hệ tầm chiến lược toàn diện sẽ được nâng cấp trong chuyến thăm Nhà Trắng kỳ này của ông Trọng”. Việt Nam kỳ vọng điều gì? Tại cuộc họp báo thường kỳ vào chiều ngày 14 tháng Ba, 2019, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng cho biết, Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng sẽ sang thăm Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng Thống Mỹ Donald Trump. Thời gian chuyến thăm sẽ được thu xếp vào thời điểm thích hợp. Vào cuối tháng Tư, 2019, Bộ Trưởng Công An CSVN Tô Lâm dẫn đầu một phái đoàn cấp cao của Việt Nam thăm Mỹ theo lời mời của các cơ quan thực thi pháp luật Hoa Kỳ. Trong cuộc gặp với Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ David Hale, ông Tô Lâm nói: “Việt Nam luôn coi Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu và mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thể chế chính trị của nhau.” Đó là cách nói của ông Tô Lâm, còn với nhận định của giới chuyên gia về tình hình chính trị thì theo ông Phạm Chí Dũng, với tình hình Biển Đông như hiện nay, Việt Nam phải làm sao đạt được quan hệ ‘đối tác chiến lược’ với Mỹ, để bảo đảm rằng quốc gia đối trọng duy nhất với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ hỗ trợ chế độ cộng sản Việt Nam khai thác dầu khí. Ông nêu ra giải pháp: “Nhưng muốn đạt được ý đồ trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam lại phải tính đến việc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ chính sách ‘ba không’ giáo điều và vô bổ của nó, nhất là hai nguyên tắc không liên kết với nước này để chống lại nước khác và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam đã tự lấy đá ghè chân mình.” Chính sách “3 không” của Việt Nam bao gồm: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Việt Nam cho rằng chính sách này thể hiện Việt Nam giữ trạng thái cân bằng trong quan hệ với các cường quốc. Ở một nhìn nhận khác, ông Nguyễn Ngọc Già khẳng định rằng, trong chuyến thăm Mỹ lần này, phía Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu của Hoa Kỳ về mặt kinh tế với hai vấn đề quan trọng là thâm thủng mậu dịch và thao túng tiền tệ. Việt Nam không nên để Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ như Donald Trump đã từng cảnh báo. Ngoài vấn đề kinh tế, một vấn đề nữa mà theo ông, Việt Nam cần phải nắm lấy cơ hội ngay, đó là quốc phòng: “Bây giờ họ không chần chừ được nữa, không có đường lui nữa với tình hình Bãi Tư Chính nói riêng và tình hình Biển Đông kết hợp với tình hình Hong Kong, Đài Loan…” Ông Nguyễn Ngọc Già cũng nhận định thêm rằng, Việt Nam có thể thực hiện hay nhượng bộ một số điều để làm vừa lòng Hoa Kỳ, trừ nhân quyền và thể chế độc đảng: “Một điểm duy nhất xuyên suốt mà theo tôi, những ai có quan tâm thời cuộc đều thấy rất rõ từ thời Trần Đại Quang làm chủ cịch nước, đó là họ sẵn sàng đáp ứng tất cả những yêu cầu của Hoa kỳ, nhưng họ chỉ mong muốn phía Hoa Kỳ phải tôn trọng thể chế độc đảng. Tôi nghĩ rằng trong thời điểm hiện nay, có thể Hoa Kỳ vẫn sẽ chấp nhận điều đó.” Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhận xét rằng dù có “chiều” lòng Hoa Kỳ tới đâu, dù có thể hiện quan điểm mới của Việt Nam trong chính sách mà Việt Nam hay gọi là “đa dạng hóa, đa phương hóa” thì cũng không giải quyết được tình hình hiện nay cho Việt Nam, vì Việt Nam hiện vẫn là một nước nhỏ, kinh tế thì vẫn còn nghèo, quân sự thì hạn chế bên cạnh một cường quốc hung hãn như Trung Quốc: “Chính vì vậy mà hơn một tháng qua, ông Nguyễn Phú Trọng không hề lên tiếng trong vấn đề biển đảo. Tôi nghĩ rằng đó là thế thủ, chừa đường lui để tiếp tục quan hệ với Trung Quốc trong tương lai nếu Trung Quốc tạm chấm dứt, tạm đình chỉ hoặc thay đổi phương hướng của mình về tình hình Biển Đông.” Hôm 26 tháng Tám, 2019, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích Trung Quốc có những hành động xâm lấn cưỡng bức đối với các hoạt động khai thác dầu khí ở vùng nước mà Việt Nam đòi chủ quyền. Bộ Quốc Phòng Mỹ gọi các hành động của Trung Quốc là chiến thuật bắt nạt các nước, đồng thời khẳng định cam kết của Mỹ trong việc tiếp tục bảo vệ các đồng minh và đối tác để đảm bảo tự do hàng hải và các hoạt động kinh tế ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Diễm Thi    
......

Ông Châu Văn Khảm bị CSVN vu khống trắn trợn

Le Anh|   Theo bản tin Đài ABC Úc Châu dẫn thông tin do Trung tâm Báo chí và Thông tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam cung cấp cho ABC cho biết: "Hôm 29/7/2019, Cơ quan điều tra đã quyết định truy tố ông Châu Văn Khảm và các tòng phạm vì đã có hoạt động khủng bố chống lại chính quyền nhân dân."   Đây là một sự vu khống trắng trợn và vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN khi không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào.   Theo thông tin trên bản thông cáo báo chí lên án nhà cầm quyền CSVN vi phạm nhân quyền của Việt tân cho biết, vào ngày 13 tháng 1 năm 2019, tại Sài Gòn, công an CSVN đã bắt giữ ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn, một thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ nhân chuyến đi tìm hiểu về tình trạng đàn áp nhân quyền tại Việt Nam.   Ông Châu Văn Khảm là một thành viên của đảng Việt Tân và là một doanh nhân thành công tại Úc, một gương mặt rất quen thuộc và tích cực trong các sinh hoạt cộng đồng tại thành phố Sydney. Đặc biệt là các sinh hoạt đấu tranh cho nhân quyền, tự do dân chủ tại Việt Nam.   Hành động trên của nhà cầm quyền CSVN là một trong những cách thường xuyên áp dụng, quy chụp nhà hoạt động bất đồng chính kiến khi họ bị bắt và kết tội với mục đích để tuyên truyền.   Sự kiện ông Châu Văn Khảm bị bắt đã được nhiều báo chí Quốc tế loan tin và các tổ chức nhân quyền lên án.   Bà Nikita White, thuộc Tổ chức Ân xá Quốc tế cho biết Chính phủ Việt Nam "muốn bịt miệng bất kỳ và tất cả các hình thức phê bình".   "Chúng tôi nghe những câu chuyện như của ông Khảm quá thường xuyên - cũng như về các nhà hoạt động đang bị giam cầm vì các cáo buộc xâm phạm an ninh quốc gia vì hoạt động ôn hòa", cô nói.   Bà nói rằng Úc cần gây áp lực với Việt Nam để đảm bảo ông Khảm được xử trong một phiên tòa công bằng và sẽ không phải đối mặt với án tử hình.   Bà Pearson, thành viên Tổ chức Theo dõi Nhân quyền yêu cầu   “Australia cần công khai kêu gọi phóng thích ngay lập tức Châu Văn Khảm, một công dân Úc, và tất cả các tù nhân chính trị đã và đang bị giam giữ một cách bất công ở Việt Nam,”   Trước chuyến đi thăm Việt Nam của ông Scott Morrison, Thủ tướng Úc, Tổ chức theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch và Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu đã ra thông cáo báo chí kêu gọi chính phủ Canberra thúc ép Hà Nội cải thiện thành tích nhân quyền tồi tệ của Việt Nam lâu nay và yêu cầu Ông Thủ Tướng Úc áp lực CSVN trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm con đang bị giam giữ tại Việt Nam.   Trong chuyến đi của ông Thủ Tướng Úc tại VN, không biết ông Scott Morrison có đề cập đến vấn đề nhân quyền và trường hợp của ông Châu Văn Khảm không? Nhưng không nghe báo chí loan tin gì cả.      
......

Tại sao giải pháp dễ nhưng thực hành lại khó?

Một trạm gác di động của Việt Nam tại Trường Sa, tháng Tư, 2010. Mặc Lâm – VOA| Tình hình bãi Tư Chính và tàu Hải Dương 8 xâm phạm vùng đặc khu kinh tế của Việt Nam vẫn đang diễn biến ngày càng phức tạp và khó đoán định. Tin mới nhất cho biết con tàu này đang tiến dần vào Việt Nam chỉ cách Phan Thiết 185 hải lý tức đã vào khu vực kinh tế của Việt Nam có bề rộng 200 hải lý tính từ đất liền. Hành động ngông cuồng này của Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh chưa bao giờ tỏ ra mềm lòng trước Hà Nội kể cả khi người bạn nhỏ bé này hết mực nhún nhường người anh cả trong cái gọi là “đại cục”. Trong thời điểm đối đầu hiện nay giữa hai nước, mang tàu thăm dò địa chất vào sâu trong vùng biển Việt Nam Bắc Kinh đang khiêu khích cả thế giới, nhất là Mỹ, một quốc gia mà hồi gần đây luôn lên tiếng bênh vực cho những nước yếu hơn Trung Quốc trên bàn cờ Biển Đông. Trung Quốc đã có những hành động khiêu khích đối với Mỹ trên vùng biển này lẫn trên lĩnh vực ngoại giao, mọi tuyên bố đều xoáy vào luận điểm: Cả Biển Đông là của Trung Quốc và nước ngoài không có quyền tham dự vào trên bất cứ phương tiện nào. Còn Việt Nam thì sao? Vẫn chưa có động tĩnh gì trong khi nhìn bề ngoài thì Trung Quốc giống như đang dí cả chính phủ Việt Nam vào một cái rọ chật chội của truyền thông. Ngoài việc lên tiếng một cách yếu ớt như thường lệ, báo chí, tuyên giáo và cả hệ thống chưa được phép lên tiếng chống lại Trung Quốc như Trung Quốc đang cổ vũ cả nước của họ chống lại Việt Nam. Cái rọ truyền thông ấy chứng tỏ Trung Quốc rất thành công khi cấy “đại cục phù” vào cơ thể của Bộ chính trị Việt Nam khiến cả một hệ thống tê liệt ý chí, bạc nhược tinh thần và tư duy nô lệ đang từng ngày ăn mòn vào suy nghĩ của rất nhiều người kể cả trong và ngoài đảng. Tư duy sợ hãi sức mạnh quân sự và kinh tế của Trung Quốc khiến những lập luận phản động có cơ hội lan tỏa gây ngờ vực trong những cuộc họp tìm phương hướng chống lại cuộc chiến xâm lược của Trung Quốc. Không hiếm những tướng tá của Quân đội Nhân dân Việt Nam lên mạng tuyên bố rằng chống Trung Quốc là âm mưu diễn biến hòa bình của địch, là cố tình gây chia rẽ tình hữu nghị bền chặt của hai nước và nhất là đánh Trung Quốc Việt Nam sẽ mất tất cả từ đất nước đến quyền lực mà Đảng đang nắm giữ cho đến cuốn sổ hưu mà cán bộ hưu trí đang có trong tay. Những luận điệu ấy tưởng rằng đã mai một với các thực tế đang diễn ra nhưng hình như trong não bộ của rất nhiều người vẫn còn ám ảnh vì chúng. Mỗi khi bàn bạc đến một phương cách chống lại diễn biến mà Trung Quốc đang áp dụng nhiều người lại tự khóa suy nghĩ thật sự của mình lại, mang những gì được uốn nắn lâu nay xào nấu lại, diễn ngôn trên truyền thông đại chúng lừa bịp chính mình và người nghe khiến dư luận không còn biết điều gì đang xảy ra ngay trong nội bộ chính phủ hay Bộ chính trị. Người ta chỉ lờ mờ đoán rằng họ, những kẻ quyền lực cao nhất, đang bối rối tìm cách giải quyết vấn đề nóng bỏng của đất nước chung quanh chiếc bàn tròn mang đặc trưng chủ nghĩa xã hội. Giải pháp luôn có nhưng áp dụng và triển khai nó thì không. Giải pháp đầu tiên và dễ dàng nhất là nói thật, từng chi tiết một không được tránh né và che đậy vì bất cứ lý do gì. Minh bạch thông tin là chìa khóa vàng mở cánh cửa trái tim của người dân đang bị bưng bít và áp chế những thông tin có liên quan đến sự kiện. Thông tin chính xác và nhanh chóng giúp cho binh lính, dân chúng những người không thể tiếp cận tin tức bí mật thuộc diện nhà nước, hiểu được diễn biến câu chuyện để họ có thêm quyết tâm chống giặc giữ nước. Cùng lúc, Việt Nam phải nhanh chóng quyết định từ bỏ những gì không phù hợp trong quá khứ khiến cho việc tìm giải pháp trong tình hình mới như hiện nay khi Trung Quốc ngày một rời xa với niềm tin bằng hữu của Hà Nội và lộ rõ hành vi nước lớn, nhất mực xem hành vi áp đặt của mình là đúng với nguyên lý “sức mạnh nằm trong cây súng”. Cây súng ấy Việt Nam chưa thể có nhưng không vì thế mà vĩnh viễn không có trong tay, nếu Hà Nội cương quyết tìm chỗ để tậu nó hay ít ra dựa vào nó như một thế lực thứ hai nhằm chống lại thế lực Trung Quốc. Nơi đang sở hữu cây súng mà Việt Nam rất cần không ai khác ngoài Mỹ, một đất nước duy nhất mà Trung Quốc sợ hãi và dè chừng. Một đất nước đối trọng thật sự với sức mạnh của Trung Quốc. Đất nước ấy đang chứng tỏ với thế giới khả năng có một không hai về sức mạnh quân sự lẫn kinh tế dư sức làm cho Trung Quốc sụp đổ tham vọng bành trướng. Việt Nam có thể mượn sức mạnh này làm cái khiên che chở những cơn lên đồng của Trung Quốc về ảo tưởng bá chủ thế giới. Mỹ chắc chắn sẽ không nệ hà gì kéo Việt Nam vào danh sách đồng minh của mình để tăng thêm sức mạnh tại Biển Đông, nơi Việt Nam có khá nhiều điều kiện để ngăn chặn Trung Quốc. Việt Nam rất tâm đắc khi cho rằng biết rất rõ Mỹ, nhất là triết lý của Winston Churchill: “Trên thế giới này, không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn”. Mỹ rất thực dụng và sức mạnh của nó nằm trên sự thực dụng ấy. Biết được như thế nhưng vẫn ngập ngừng không dám bắt tay với Mỹ trong khi bàn tay của Washington vẫn đưa ra trong nhiều năm qua. Việt Nam lo sợ sự giận dữ cũa Trung Quốc và cơn giận này được bọn thân thích với Trung Quốc hết lòng vận dụng, tô vẽ, cơi nới nhằm ngăn cản sức mạnh tiềm ẩn mà Việt Nam có thể tựa vào. Hai giải pháp mà bất cứ chính phủ nào cũng có thể làm được cho đất nước của mình còn Việt Nam thì không, hay nói đúng hơn, khước từ không thực hiện. Thực hiện giải pháp minh bạch thông tin nhà nước lo sợ sẽ gây biến động khi nguồn thông tin ấy bất lợi cho nhà nước. Cách suy nghĩ này tồn tại bao nhiêu năm và chưa có dấu hiệu nào bị đánh bật ra khỏi tư duy của người Cộng sản. Nhà nước chưa quen với suy nghĩ người dân cũng là một nhân tố trong việc điều hành và bảo vệ quốc gia, sự tham vấn gián tiếp của họ thông qua nguồn thông tin minh bạch sẽ giúp cho nhà nước rất nhiều trong việc điều hành đất nước và điều chỉnh những sai trái, bóp méo, xuyên tạc của kẻ thù trong chiến lược chống Trung Quốc. Chính sách “ba không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) đã được Trung Quốc mớm vào miệng của các quan chức thân Trung Quốc gây cản trở nỗ lực chống lại mối hiểm họa đến từ phương Bắc. Trong cả ba điều mà nhà nước Việt Nam luôn vịn vào như một lá bài “hòa bình” nhằm an lòng Trung Quốc đã cản trở sự tự vệ chính đáng của Việt Nam bằng chính tuyên ngôn suy nhược này. “Không dựa vào nước này để chống nước kia” là định dạng của một hành vi đầu hàng ngay khi tiếng súng chưa nổ ra. Bất cứ sự huy động quốc tế nào để tăng thêm khả năng đề kháng chống lại kẻ thù đều bị thế lực thân Trung Quốc lái sang hướng phản động, là đang dựa vào nước này để chống nước kia kể cả chống Trung Quốc cũng vi phạm câu tuyên ngôn “sắt son” này. Giải pháp đốt sạch chính sách “ba không” sẽ là viên đạn đại bác bắn vào thành trì của thế lực thân địch đang ngự trị khắp hang cùng ngõ hẹp của Việt Nam. Hà Nội cần một liều thuốc cực mạnh và cực đắng để tiêu diệt mầm mống phản loạn trước khi nghĩ tới chuyện làm cách nào để chiến thắng sự ngang ngược và lộng hành của Trung Quốc.  
......

Bôi nhọ ông Lê Đình Kình để chuẩn bị tái chiếm đất đồng Sênh

Tháng 4 năm 2017, Nguyễn Đức Chung không chỉ ký sống mà còn lăn tay vào bản cam kết trước sự chứng kiến của hàng ngàn người dân Đồng Tâm. Thường Sơn – (VNTB)|  Không nghi ngờ gì nữa, nhà cầm quyền Hà Nội đang gấp rút lên kế hoạch cho chiến dịch một lần nữa cướp sạch 59 ha đất đồng Sênh của người dân Đồng Tâm, trên danh nghĩa ‘đất quốc phòng’. Tháng 4 năm 2017, Nguyễn Đức Chung không chỉ ký sống mà còn lăn tay vào bản cam kết trước sự chứng kiến của hàng ngàn người dân Đồng Tâm. Chiều 27/8, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức buổi họp báo về việc quản lý, sử dụng đất khu sân bay Miếu Môn, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội. Buổi họp báo có mặt đại diện UBND TP Hà Nội, Thanh tra TP Hà Nội, Thanh tra Chính phủ, nhưng đã không có bất cứ người dân Đồng Tâm nào được tham dự. “Trước buổi thông tin hôm nay, chúng tôi đã gặp trao đổi với nhiều đại biểu Quốc hội, chính quyền xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, một cách công khai, minh bạch. Tôi khẳng định rằng có một bộ phận đối tượng có mục tiêu lợi dụng, trục lợi để lấn chiếm đất hoặc để có thể hy vọng được bồi thường. Bản thân ông Lê Đình Kình (82 tuổi, trú tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội, là 1 trong 4 người bị bắt giữ ngày 15-4-2017) cũng nhằm mục tiêu như vậy, ông Kình đã từng làm nhiều vị trí trong chính quyền ở xã Đồng Tâm nhiều năm trước, ông Kình nắm rõ chi tiết rất nhiều khu đất khác trên địa bàn.” – nhiều tờ báo quốc doanh trích dẫn nguyên văn lời của quan chức Nguyễn Đức Chung – Chủ tịch UBND TP Hà Nội – nói tại buổi họp báo trên. Cụ Lê Đình Kình Cùng toa rập với Nguyễn Đức Chung, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Văn Thanh cũng cho rằng “ông Lê Đình Kình không có quyền khiếu nại kết luận thanh tra của Thanh tra và cũng không phải là người đại diện cho người dân xã Đồng Tâm”. Nhưng ở góc độ đối diện, Luật sư Đặng Đình Mạnh cho rằng từ trước đến nay ông Lê Đình Kình không chỉ là người đại diện mà còn được người dân địa phương xem như một lãnh đạo tinh thần của họ trong quá trình tranh chấp đất đai xây dựng sân bay Miếu Môn giữa chính quyền và người dân. Cuộc họp báo trên là động tác chuẩn bị dọn đường thứ hai của nhà cầm quyền diễn ra trong vòng bốn tháng. Vào chiều ngày 25/4, nhà cầm quyền đã tổ chức buổi công bố “kết luận rà soát thanh tra đất đai Đồng Tâm”  ở Hà Nội. Khi đó, Nguyễn Mạnh Hà, quan chức Tổ trưởng Tổ rà soát, thuộc Thanh tra Chính phủ đã dọn đường dư luận khi cho rằng Kết luận Thanh tra về đất đai ở Đồng Tâm của Thanh tra Hà Nội công bố hồi tháng 7 năm 2017 là chính xác; đồng thời xác định khiếu nại của ông Lê Đình Kình cùng người dân Đồng Tâm liên quan diện tích đất nông nghiệp 59 héc-ta ở đồng Sênh là không đúng. Ngay sau đó, quan chức Nguyễn Đức Chung đứng ra cam kết “tăng cường tuyên truyền để cho người dân hiểu rõ hơn về nguồn gốc và quá trình sử dụng, quản lý đất đai tại sân bay Miếu Môn. Huyện Mỹ Đức và xã Đồng Tâm được giao sớm hoàn thiện 14 phương án bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân đang ở khu vực này”. Đã rất rõ là những động tác móc ngoéo trước sau của ‘liên minh ma quỷ’ (cụm từ mà bà con Đồng Tâm trực chỉ giới quan tham và nhóm lợi ích) đã âm thầm chuẩn bị phương án ‘cướp sạch’ trong những tháng qua, để nay chính thức đưa lên truyền thông công bố và dọn đường dư luận. Cũng đã rất rõ là trên gương mặt viên cựu công an Nguyễn Đức Chung không còn sót lại chút nào tì vết liêm sỉ cuối cùng mà những người dân còn mơ màng về bản chất chính thể, bản chất quan chức, và cả những người dân có quá ít thông tin thực chất về vụ khủng hoảng Đồng Tâm có thể vin vào đó để ‘thắp sáng hy vọng có đảng là có tất cả’. Trong chiến dịch “rào làng chiến đấu” vào tháng 4/2017, Đồng Tâm đã trở nên mạnh mẽ với tinh thần đồng lòng và được dẫn dắt bởi giới cựu binh vốn đã quá quen với việc xây dựng “thế trận nhân dân”, đã bắt giữ cả một trung đội cảnh sát cơ động và buộc Nguyễn Đức Chung không chỉ ký sống mà còn lăn tay vào bản cam kết trước sự chứng kiến của hàng ngàn người dân Đồng Tâm. Thế nhưng dối trá lại là bản chất của một chính quyền chỉ phục vụ cho các nhóm lợi ích và đàn áp người dân. Từ năm 2017 đến nay, chính quyền Hà Nội vẫn không một lần thực hiện nội dung cam kết là truy xét những quan chức công an và quân đội đã đánh gãy xương đùi ông Lê Đình Kình. Ngược lại hoàn toàn, nhà cầm quyền Hà Nội lại sắp nhe nanh lao vào cắn xé đất đồng Sênh.
......

Vì sao Việt Nam ‘can đảm’ tập trận với Mỹ và ASEAN?

Tàu buồm Lê Quý Đôn của hải quân Việt Nam, được xem là 'tàu buồm hiện đại nhất thế giới', nhưng đã biến mất tăm khi tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính. Thường Sơn  - (VNTB) Bộ Chính trị và Bộ Quốc phòng Việt Nam bất ngờ tỏ ra ‘can đảm’ khi nhận lời tham dự một cuộc tập trận với Mỹ và các nước trong khối ASEAN, diễn ra từ ngày 2 tới ngày 6-9-2019. Sự kiện diễn tập này diễn ra ở cảng hải quân Sattahip ở tỉnh Chonburi, Thái Lan, và kéo dài tới mũi Cà Mau của Việt Nam.   Mặc dù Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng “là thành viên của ASEAN, Việt Nam sẽ tham gia cuộc diễn tập này", như  nhiều năm trước đây Việt Nam đã không hề tham gia loại hình tập trận chung này dù đã là thành viên của ASEAN từ lâu.   Việc lần đầu tiên Việt Nam ‘can đảm’ tham dự vào cuộc tập trận trên diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đang tiến hành chiến dịch mang tên ‘Hải Dương 8’ và cho các tàu xông vào Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, mà không một chút nể mặt ‘đảng em’.   Không những khiêu khích, Trung Quốc còn không thèm che giấu ý đồ chiếm trọn Bãi Tư Chính - là nơi tập trung nhiều nhất các lô dầu và khí đốt màu mỡ của Việt Nam, cũng là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên cuối cùng để khai thác nuôi đảng và bù trám cho ngân sách hộc rỗng cùng núi nợ nước ngoài lên đến ít nhất vài trăm tỷ USD.   Thực ra, đã có tiền lệ cho cuộc tập trận của Việt Nam không phải với ASEAN, mà là với Mỹ. Vào năm 2018, giới chóp bu Việt Nam đã lần đầu tiên ‘can đảm’ cho lực lượng hải quân nước này tham gia tập trận hải quân lớn nhất thế giới mang tên Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) tại Hawaii và Nam California - diễn ra vào cuối tháng Sáu năm 2018.   Việc Việt Nam quyết định tham gia vào cuộc tập trận trên xảy ra khoảng 3 tháng sau khi Trung Quốc tiến hành gây hấn lần thứ hai tại Bãi Tư Chính, còn trước đó đã nổ ra gây hấn lần đầu vào năm 2017.   Tháng 3 năm 2018, Tập Cận Bình lại cử Vương Nghị - Bộ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc - đến Việt Nam ngay sau vụ Bãi Tư Chính lần hai, với một “tối hậu thư”: Việt Nam phải “cùng hợp tác khai thác” mỏ Cá Rồng Đỏ với Trung Quốc. Nếu không, “bản lĩnh Việt Nam” sẽ hết cửa kiếm tiền ngay trong vùng lãnh thổ của mình.   Không bao lâu sau ‘tối hậu thư’ của Vương Nghị, Trung Quốc đã tiến thêm một bước xa hơn bằng việc vẽ lại ‘đường lưỡi bò’ quét qua đến 67 lô dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông, chặn toàn bộ cửa ‘làm ăn’ của kẻ vẫn đang mơ màng về ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười sáu chữ vàng’.   Tình trạng cô đơn cùng cực trên trường quốc tế cùng trạng thái mất ngủ lẫn mất ăn dầu khí đã khiến chính thể độc đảng ở Việt Nam phải tiến tới quyết định ‘bám Mỹ’, với bước đi liều lĩnh hơn hẳn khi tham gia vào cuộc tập trận hải quân lớn nhất ở Hoa Kỳ vào năm 2018 và với mỹ cùng ASEAN vào năm 2019. Bằng cách thức này, Việt Nam đã gián tiếp xác nhận bước đi của mình như một đồng minh quân sự của Mỹ, chứ không chỉ là tư cách quan sát viên như hồi 2016.   Bài toán đặt ra với Nguyễn Phú Trọng hiện thời là một sự gấp rút thời gian khi phải lôi kéo được người Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời của Việt Nam ở Biển Đông, mà nếu động thái đó được triển khai có hiệu quả thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ yên tâm khai thác dầu khí cùng với các đối tác liên doanh mà không còn quá sợ hãi bị Trung Quốc nắt nạt, còn Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng có thể tỏ ra can đảm hơn đôi chút chứ không đến nỗi bị dân chửi ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ và ‘chưa đánh chác gì đã đái cả ra quần’.   
......

Về quan điểm “bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”

An Viên (VNTB)| Những người trung thần chế độ mà quyền lực là độc tôn biến mình thành một “con chó” [1], để khi lãnh đạo sai đâu thì cắn đó, bất chấp các lý lẽ, đạo đức và sự thật. Và khi tự loại bỏ ra khỏi vị trí con người, họ cũng mất luôn nhận thức một thực tế cay đắng rằng, trong khi họ đổ máu và công sức vì “lý tưởng cách mạng”, thì người được lợi nhất lại là giới lãnh đạo, những tận hưởng sự sa hoa và bê tha đạo đức [2]. Chiều 26.8, Ban Bí thư T.Ư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã phối hợp với Học viện Báo chí – Tuyên truyền tổ chức diễn đàn “Đảng viên trẻ tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”. PGS – TS Lương Khắc Hiếu, nguyên Giám đốc Học viện Báo chí – Tuyên truyền khẳng định: Cái nào trái với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước chúng ta gọi nó là sai trái và phải kiên quyết chống lại. Chị Nguyễn Ngọc Trinh, Bí thư Đoàn phường Thành Công (TP.Buôn Ma Thuột), cho biết với tư cách là Bí thư Đoàn phường và phó bí thư dân quân phường, chị đã tham mưu cho chi bộ phát động phong trào mỗi ngày một điều Bác Hồ dạy. Cũng theo báo Thanh Niên, chị Ngọc Trinh cũng tham mưu thành lập “đội phản ứng nhanh” để đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, thù địch bằng cách lập các tài khoản ảo để thường xuyên đăng tải các thông tin bảo vệ Đảng, chính quyền đồng thời report (báo cáo vi phạm) đối với những bài viết, tài khoản phản động. Báo Thanh Niên online mau chóng gỡ bỏ những lời phát biểu đầy thật thà nhưng đi ngược tinh thần thời đại 4.0 của chị Nguyễn Ngọc Trinh. Dập khuôn quan điểm và độc tôn chân lý Quan điểm của PGS – TS Lương Khắc Hiếu và Bí thư Đoàn phường Thành Công (Tp. Buôn Mê Thuột) tuy hai mà một. Bởi nó đều hướng tới dập khuôn tư tưởng và độc tôn chân lý. Một thể thức thường thấy tại những nước độc tài trong lĩnh vực quyền lực chính trị, và ngự trị ở Việt Nam sau hàng thập kỷ. Nếu dựa trên nguyên tắc “người của chế độ” và giữ vững sự độc tôn chế độ bất chấp các quy luật thời đại, thì quan điểm của GS Khắc Hiếu và Bí thư phường Ngọc Trinh là không sai. Bởi cả hai đều là gộc đỏ của chế độ và lương từ chính ngân sách chế độ mà ra, nhưng trên cả là những biệt đãi mà chế độ dành cho họ, những “trung thần”, hay nói gọn hơn là “Hồng vệ binh” của chế độ. Mao Trạch Đông, người dung dưỡng đội ngũ Hồng vệ binh bên Trung Quốc đã có một phát biểu vào năm 1958, trong đó phác họa những con người “của chế độ, thuộc chế độ và chết vì chế độ” như sau. “Chúng tôi cần những người trẻ tuổi, có trình độ học vấn thấp, có thái độ vững vàng và kinh nghiệm chính trị để tiếp quản công việc.” Mao Mao Trạch Đông tuyên bố. Và sự cuồng tín, trung thành, nhiệt tâm đã biến những “Hồng vệ binh” cách mạng trở thành một trong những người thẳng tay trừng phạt những kẻ mà họ cho là “phản động, thù địch”. Điều này dẫn đến một thảm họa mà Trịnh Nghị (Zheng Yi), một nhà văn Trung Quốc mô tả rằng, trong một số trường trung học, sinh viên giết hiệu trưởng của họ và sau đó nấu chín và ăn nội tạng (hiệu trưởng] để ăn mừng một chiến thắng trước bọn phản cách mạng. Những người trung thần chế độ mà quyền lực là độc tôn biến mình thành một “con chó” [1], để khi lãnh đạo sai đâu thì cắn đó, bất chấp các lý lẽ, đạo đức và sự thật. Và khi tự loại bỏ ra khỏi vị trí con người, họ cũng mất luôn nhận thức một thực tế cay đắng rằng, trong khi họ đổ máu và công sức vì “lý tưởng cách mạng”, thì người được lợi nhất lại là giới lãnh đạo, những tận hưởng sự sa hoa và bê tha đạo đức [2]. Sở dĩ phải diễn giải rất nhiều về Hồng vệ binh thời Mao Trạch Đông, vì ở cả GS Khắc Hiếu và Bí thư Đoàn phường Ngọc Trinh đã cho thấy điều đó. Họ – sẵn sàng quy kết “sai trái” và “kiên quyết chống lại” nếu quan điểm hay ý kiến nào đó trái chủ nghĩa và tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng HCM, đường lối ĐCSVN. Họ – sẵn sàng sử dụng những tài khoản ảo để “like”, thả biểu tượng cảm xúc cho các bài viết tôn vinh; báo cáo các tài khoản trái chiều nhằm “bảo vệ Đảng, chính quyền”, và dựa vào đó để xét hạng rèn luyện chính trị. Họ sống trong thời đại mà đối thoại, đa chiều và thông tin liên tục hiện diện, nhưng cách thức họ tiến hành dập khuôn tư tưởng, độc tôn chân lý cho thấy một mô thức rất Maoism. “Hạ xuống với bất cứ ai chống lại Mao”, hay “hạ bất kỳ ai ngược hướng với Đảng” là một. Họ là những người có ăn học, và cũng giống như tầng lớp giáo viên và học sinh thời kỳ Cách mạng Văn Hoa, họ luôn mang theo trích dẫn quan điểm của lãnh tụ, hình ảnh của lãnh tụ để làm giá đỡ quan điểm, trở thành cái loa để phát ra những điều cũ kỹ đến hàng thế kỷ, trong khi chính kiến cá nhân hoàn toàn biến mất. Họ trở thành những người, dù học hàm, học vị cao, nhưng sự thật lại là những người có trình độ nhận thức thấp kém như Mao đã từng nhận định về lực lượng Hồng vệ binh. Điều họ làm được là thái độ độ chính trị vững vàng và không khoan nhượng. Và nếu sinh trong thời kỳ “cách mạng hừng hực” tái lặp một tinh thần “đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” như nêu trên thì có lẽ, GS – TS Khắc Hiếu và Bí thư phường Ngọc Trinh sẽ treo cổ ông Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương ĐCSVN vì quan điểm “chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận”. Thậm chí, cách mà cách mà Bí thư Đoàn phường Ngọc Trinh khuyến khích sử dụng tài khoản ảo để tuyên truyền và báo cáo các tài khoản khác bị cho là “phản động” cũng đi ngược lại với tinh thần Định danh tài khoản Facebook, bảo vệ người dùng của Bộ Thông tin và truyền thông. Và điều cuối cùng, PGS – TS Lương Khắc Hiếu và Bí thư Đoàn phường Thành Công có thể chỉ ra điểm sai của bài viết này? [1] “Tôi là con chó của Chủ tịch Mao. Ông ta nói cắn ai, tôi sẽ cắn”, Giang Thanh đề cập vai trò của bà trong Cách mạng Văn hóa, https://vnexpress.net/the-gioi/hai-phien-toa-the-ky-cua-trung-quoc-2872204.html. [2] “Vào thời điểm đó, đỉnh cao của Cách mạng Văn hóa, đôi khi Mao ở trên giường với ba, bốn, thậm chí năm người phụ nữ cùng lúc”, bác sĩ riêng của Mao, ông Li Zhisui, “The East, the West, and Sex: A History of Erotic Encounters”, tác giả Richard Bernstein.  
......

Canh chừng nhau, rồi sao nữa?

Nguyễn Tường Thụy -  RFA| Theo các nguồn tin nước ngoài, tàu khảo sát Hải Dương 8, với sự hộ tống của ít nhất bốn tàu khác, ngày 24 tháng Tám, 2019 đã tiến sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở vị trí cách đảo Phú Quý 102 km về phía đông nam và cách bờ biển Phan Thiết 185 km, tức là 100 hải lý. Điều đó có nghĩa là nhóm tàu Trung Cộng đã vào giữa vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng 200 hải lý của nước ta. Thông tin này chưa thấy báo chí Việt Nam nhắc tới. Không thể giữ mãi đường lối ngoại giao mềm dẻo tới mức nhu nhược Sự hung hăng, lấn lướt của Trung Cộng cho thấy, nhà cầm quyền Việt Nam cần phải xem xét lại đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Tổ Quốc. Từ sau khi Trung Cộng cưỡng chiếm đảo Gạc Ma và nhất là sau Hội nghị Thành Đô, nhà cầm quyền Việt Nam nhanh chóng chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại. “Đối đầu” (hay) “đối thoại” là những từ hay cụm từ được nhắc tới với tần suất rất nhiều trong giai đoạn chuyển đổi này. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao mềm mỏng tới mức nhu nhược, hạ mình của phía Việt Nam sẽ là bất lợi cho tư thế và chủ quyền của Việt Nam. Cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Cộng tháng Hai, 1979 và những đụng độ khác giữa hai nước không được nhắc tới. Sự húy kỵ tới mức báo Du Lịch bị đình bản 3 tháng và ông Nguyễn Trung Dân, Phó Tổng Biên Tập bị cách chức và thu hồi thẻ nhà báo chỉ vì đã cho đăng những bài “nhạy cảm” như bài “Tản mạn cho đảo xa” (của Trung Bảo), “Ải Nam Quan”. Những bài báo này can tội bóng gió nói đến chủ quyền của Tổ Quốc. Những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đều bị đàn áp và cho đến nay có thể nói đã bị tê liệt. Tiếc lãnh thổ bị mất, nhiều bạn trẻ đêm đêm tìm cách dán các khẩu hiệu HS – TS – VN ở các nơi công cộng, xong bỏ chạy, tránh sự truy đuổi của cảnh sát. Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Phạm Thanh Nghiên bị tù do viết khẩu hiệu “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. Những người lên tiếng về chủ quyền biển đảo bị cho là là kích động chiến tranh. Luận điệu này hết sức bậy bạ. Chẳng lẽ không có quốc gia nào dám lên tiếng khẳng định chủ quyền của mình trước họa xâm lăng? Những người yêu cầu nhà cầm quyền phải cứng rắn hơn với Trung Quốc bị coi là những “phần tử phản động, cơ hội chính trị lại tìm mọi cách để xuyên tạc tình hình, gây bất ổn trong nước” (báo Hà Nội mới). Khác hẳn giai đoạn trước đó với 2 cuộc chiến tranh biên giới và một cuộc nội chiến, từ sau 1988, nhà cầm quyền lại nhún nhường một cách quá mức để tránh một cuộc chiến tranh. Không ai muốn chiến tranh xảy ra, nhưng điều này còn tùy thuộc vào đối phương. Trong vụ Trung Cộng cướp đảo Gạc Ma, phía Việt Nam nhún nhường tới mức không dám nổ súng. Các chiến sĩ hải quân bị biến thành bia chủ quyền, rồi trở thành bia sống cho quân xâm lược. Cuối cùng, đảo Gạc Ma vẫn mất. Nguyễn Thị Kim Ngân “giao thiệp” với Tập Cận Bình ngày 12 tháng Bảy, 2019. Ảnh Báo mới Gần đây nhất là vụ tàu HD 8 của Trung Cộng đến khiêu khích ở Bãi Tư Chính bắt đầu từ ngày 3 tháng Bảy, 2019. Lẽ ra, phía Việt Nam phải lên tiếng phản đối, dừng các hoạt động ngoại giao xã giao. Thế mà 12 tháng Bảy, Nguyễn Thị Kim Ngân lại sang Bắc Kinh ưỡn ẹo “giao thiệp” với Tập Cận Bình. Những hình ảnh Kim Ngân tươi cười, thân thiện, gần gũi họ Tập coi như không có chuyện gì xảy ra làm cho dư luận vô cùng phẫn nộ, gọi thị là kẻ bán nước. Sự mềm dẻo tới mức nhu nhược không thể bảo vệ được đất nước mà còn là tín hiệu cho kẻ thù yên tâm và quyết tâm hơn trong việc thực hiện mưu đồ xâm lược của chúng. Ngày 9 tháng Năm, 2014, Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã viết thư gửi giáo dân Việt Nam về tình hình Biển Đông. Bức thư có đoạn: “những thỏa ước tôn trọng tình hữu nghị giữa hai quốc gia láng giềng, giữa hai Đảng Cộng Sản (Việt Nam và Trung Quốc) thực tế đã cho thấy không mang lại lợi ích cho dân nước Việt Nam mà còn đưa đất nước vào tình trạng lâm nguy” (theo Wikipedia). Canh chừng nhau, rồi sao nữa? Trở lại tình hình mới nhất là nhóm tàu Trung Cộng đã vào tới giữa vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Như vậy, Trung Cộng đã dấn thêm một bước leo thang mới, đẩy xung đột ở Biển Đông ngày càng căng thẳng. Động thái mới từ phía Trung Cộng cho thấy, tình hình có thể nghiêm trọng hơn vụ giàn khoan HD 981 hồi tháng Năm, 2014. Những hành động tiếp theo của Trung Cộng là gì, điều này không ai có thể biết trước nhưng chắc chắn không phải là điều tử tế. Mỗi lần Trung Cộng gây hấn, hai bên đều dàn tàu ra để canh nhau, xịt vòi rồng hoặc huých vào nhau, chưa bên nào dám nổ súng. Mỗi bên đều tố cáo bên kia va chạm vài trăm lần. Sau đó, HD 981 đã rời đi, mỗi bên đều tuyên bố có lợi cho mình. Phía Trung Cộng nói là đã “hoàn thành việc khoan và thăm dò”. Phía Việt Nam cho rằng “đây là sự thành công về cuộc chiến về pháp lý, về ngoại giao của Nhà nước và Nhân dân Việt Nam”. Cả hai vụ giàn khoan HD 981 và vụ HD 8 ở Bãi Tư Chính, chưa có tiếng súng nổ nhưng va chạm thì quyết liệt. Phía Việt Nam không nổ súng do kiềm chế và phải chăng Trung Cộng cũng đợi Việt Nam nổ súng để gây chiến tranh. Lẽ thường, một quốc gia khi bị nước khác xâm phạm chủ quyền thì có quyền nổ súng. Thậm chí, Bắc Việt Nam còn vượt vĩ tuyến 17 để nổ súng vào Việt Nam Cộng Hòa, đánh thốc vào chiếm Sài Gòn luôn. Có một trận đánh ở Đồng Hới, Bắc Việt Nam cho máy bay MIC ném bom Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Lúc đó Hạm đội 7 đang đỗ ngoài khơi giống như tàu HD 8 của Trung Cộng bây giờ. Hồi đó, chẳng phải dè dặt đắn đo gì, thấy đối phương là chiến, thậm chí tìm đối phương để tiêu diệt. Bây giờ thì khác, vì “tình hữu nghị”, vì “đại cục” nên chẳng dám bắn vào kẻ thù trước. Thậm chí, kẻ thù nổ súng trước, chưa chắc đã dám bắn lại như bài học ở Gạc Ma. Thôi, cứ để “đảng và nhà nước lo” và để cho dân chửi. Nhưng chẳng lẽ cứ gầm ghè nhau, huých vào sườn nhau mãi. Khoảng cách 100 hải lý rất gần. Chẳng lẽ, nó đi đến đâu, ta theo đến đấy, may mà nó quay về thì tốt. Nhưng nhỡ nó đổ bộ lên Mũi Né thì sao? Liệu có phải vẫn một ông Việt Nam đi kèm một thằng giặc trên bộ xem nó làm gì, mong nó quậy chán thì về, đi theo tiễn. Đấy là nói đến trường hợp không có chuyện đọ súng xảy ra mặc dù ta có quyền bắn. Nhưng chủ quyền của ta dễ để cho quân thù ra vào tùy thích như vậy hay sao? 25/8/2019    
......

Cách chôn giấu chữ “hèn” của đảng

Van Nga DO Ông Cộng bị thằng cha hàng xóm đem hung khí sang đất nhà mình cướp mất cái ao của gia đình. Thế nhưng ông Cộng ém tin này làm con cái trong nhà không hay biết gì. Một lần thằng con được người khác mách lại sự tình nên mới vỡ lẽ nhà đang bị cướp, thế là ông con về nhà gân cổ la lên cầu cứu. Ông Cộng sợ mất lòng tên cướp nên đã dùng tay bịt mồm ông con lại. Ông con quyết không chịu câm, ổng vùng vẫy lấy hết sức cạy tay ông bố ra và la tiếp. Thấy bịt mồm ông con không được, ông bố vào nhà thả bầy chó dữ tấn công ông con để hắn không còn to mồm tố tên cướp kia nữa. Vâng, ông Cộng là ĐCSVN. Thằng cha hàng xóm sang nhà ông Cộng ăn cướp là ai chắc không cần phải nói. Phía bên ăn cướp đã cho tàu vượt ra khỏi khu vực Bãi Tư Chính rất xa để áp sát bờ biển Việt Nam và cách biển Phan Thiết chỉ có 185 km. Điều này cho thấy, Trung Cộng không chỉ tham vọng muốn chiếm nguồn dầu mỏ mà họ còn muốn chiếm nốt phần chủ quyền ít ỏi mà Việt Nam đang có. Dã tâm cướp thì đã rõ, thế nhưng chính quyền CSVN lại cho phong tỏa nguồn tin về tình hình tranh chấp trên báo chí nhà nước. Đây rõ ràng là hành động ém tin không cho dân biết. Đói tin, nên dân đành phải hóng các nguồn tin từ nước ngoài. Trong tình hình quân cướp nước tiến sát bờ, đảng đã không thông tin một lời nào cho dân biết mà còn xua thêm thành phần có vai trò tương tự như bọn chó dữ trong truyện ngụ ngôn kia tấn công đánh phá những ngòi bút đang truyền tải sự thật. Ngày 26/08/2019, trên báo Thanh Niên có đăng bài “Đảng viên trẻ phải học, đọc mới nhận diện được âm mưu của thế lực thù địch”. Trong tình hình ngoại xâm đe dọa như thế, nhưng Trung Ương đoàn và Học Viện Báo Chí tuyên truyền lại lên chiến dịch tấn công những người nói lên sự thật. Hàng loạt trang facebook có lượng follow cao và đưa tin nhanh chóng bị đám này đưa vào tầm ngắm. "Đàn chó" này đã lập ra nhóm gọi là “đội phản ứng nhanh”, những kẻ này đã lập những nick giả rồi report đánh sập các nick chính chủ. Mục đích của bọn này là làm tắt đi những nguồn tin cập nhật từ bên ngoài nhằm bảo vệ đảng khỏi mang tiếng hèn. Hành động hèn dù có bị tố hay không thì nó cũng in vào lịch sử. Dù cho hôm nay đảng có xua chó tấn công người lên tiếng thì với hành động như vậy của đảng thì cũng không cách nào gột rửa được chữ hèn trước lịch sử. Chữ hèn với đảng như là hình với bóng vậy. Có thể nói không ngoa rằng, chữ “hèn” là cái bóng của đảng trước ánh sáng sự thật. Mà một khi là cái bóng thì đảng bước một bước nó theo một bước, đảng đi đâu bóng theo đó. Đảng rất sợ cái bóng này cho nên đã xua một đàn chó trung thành đến cào bới vùng đất dưới chân mình thành cái huyệt. Ý đảng muốn là cho cái bóng đáng ghét ấy xuống huyệt và lấp lại để nó không còn đeo bám vào gót chân mình nữa. Thế nhưng khi lấp huyệt xong, cái bóng ấy vẫn xuất hiện chình ình bên trên ngôi mộ vừa lấp. Cái bóng ấy không hề nằm dưới mộ mà nó vẫn cứ bám gót đảng. Thực tế, đảng không thể chạy trốn chữ hèn được, trừ khi đảng đứng về phía dân. Vì sao? Vì dân ta không bao giờ hèn với ngoại xâm, lịch sử đã chứng minh điều đó. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://thanhnien.vn/…/dang-vien-tre-phai-hoc-doc-moi-nhan-…
......

Thoát Trung là con đường Nhà nước và Nhân dân phải cùng làm

Hà Sĩ Phu Thoát Trung là chống lại con đường Bắc thuộc mới đang hiện ra ngày càng khốc liệt. Sự nghiệp chống xâm lược của một quốc gia đương nhiên phải do Nhà nước của quốc gia ấy đảm đương và tổ chức. Nhưng việc chống xâm lăng Trung Cộng đối với Nhà nước Cộng sản Việt Nam là việc rất khó thực hiện vì hai lý do: – Do nhu cầu bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của một đảng Cộng sản nên ĐCSVN không muốn Thoát Trung. Việc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam lại mâu thuẫn với việc bảo vệ quyền lực độc tôn của đảng, mà lời TBT Nguyễn Văn Linh chính là một minh chứng khi ông đặt ĐCS của ông lên trên Tổ quốc: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất Đảng”. Lời đúc kết ấy, tuyên ngôn ấy “mãi mãi là một vết cắt lịch sử rất sâu vào da thịt Việt Nam”. – Nhưng đã có những văn bản ràng buộc khiến ĐCSVN không thể Thoát Trung. Điển hình nhất là Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng dưới sự chỉ đạo tối cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công hàm ấy tán thành công hàm của Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai xác định hải phận của Trung quốc, có bản đồ kèm theo, xác định Tây Sa và Nam sa (tức Hoàng Sa và Trường sa) là của Trung quốc, tức không phải của Việt Nam. Đó là căn cứ pháp lý mà Trung Quốc đã đưa vào hồ sơ pháp lý trình Liên hiệp quốc. Muốn bác bỏ giá trị pháp lý của công hàm Phạm Văn Đồng chỉ có cách duy nhất là lên án công hàm ấy chống lại chủ quyền của nhân dân Việt Nam, cũng tức là lên án chế độ Cộng sản mà Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đại diện. Đó không chỉ là một văn bản pháp lý bán nước mà còn nặng nề hơn. Bán tức là xác định quyền sở hữu trước đây của mình nhưng nay bán cho nước khác, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng công nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung quốc, không phải của Việt Nam, đó là sự chối bỏ chủ quyền, nay biết nói sao trước pháp luật quốc tế? Không chối bỏ cái công hàm tự diệt ấy thì làm sao mà kiện? Ấy mới là việc ở hải phận và biển đảo, còn sự xâm lăng nội địa và toàn diện tất nhiên còn có những ràng buộc khác cũng không kém phần rắc rối. Vì hai lý do như trên, muốn Thoát Trung tận gốc, để muôn đời thanh thản, chẳng có cách gì khác hơn là phải thoát ly khỏi thể chế cũ, cái thể chế đã bất đắc dĩ phải cho kẻ thù truyền kiếp mượn đường “môi răng” để tiến hành xâm lược ngọt như tằm ăn dâu. ĐCS đương nhiên không muốn Thoát Cộng, không thể tự Thoát Cộng. (Chính HCM trước đây đã nói tự Đảng khó sửa lỗi của mình nên cần có sự hỗ trợ của Nhân dân). Nhân dân sẽ hỗ trợ đảng bằng những áp lực. Hai áp lực thông thường nhất là những kiến nghị, yêu sách và các cuộc biểu tình đông đảo, ôn hòa, giúp Đảng biết lắng nghe mà sửa lỗi. Đảng giúp dân thực hiện các hoạt động ấy cũng là cách tự giúp mình thoát hiểm, trở về thành một đảng trong xã hội dân chủ đa nguyên, và mãi mãi sung sướng vì độc lập khỏi kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Dù dân không nêu khẩu hiệu Thoát Cộng nhưng cuối cùng vẫn phải động vào cái gốc ấy, cái chốt ấy, cái khóa ấy, mới giải quyết được mọi vấn đề. Trong điều kiện Nhà nước còn có khó khăn, nhiều con đường tại các làng xã, xóm thôn đã theo sáng kiến “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” nên thôn xóm khang trang, thanh thoát. Sáng kiến ấy rất hay, tôi nghĩ con đường Thoát Trung rất lớn lao này Nhà nước và Nhân dân cũng nên hiệp đồng, cùng làm như làm những con đường nơi thôn dã vậy.  ***  Những trở ngại trên con đường Thoát Trung: – Trở ngại từ trong ĐCS. Những yêu cầu của Trí thức và dân chúng có lẽ chỉ tập trung vào nhu cầu đối ngoại, như yêu cầu Nhà nước kiện Trung quốc ra Liên hiệp quốc chẳng hạn, nhưng muốn đáp ứng những yêu cầu ấy đương nhiên phải có những thay đổi sâu sắc từ bên trong đảng, từ bên trong thể chế, dần dà cũng là thay đổi từ gốc. Như trên đã nói, sự tự thay đổi này là rất quan trọng nhưng cũng thật là khó khăn. Đòi hỏi một hệ thống quyền lực tự mình giảm thiểu vì lợi ích sống còn của Dân tộc vẫn là chuyện không bao giờ dễ dàng. – Trở ngại về phía Nhân dân: Hơn nửa thế kỷ sống trong chiến tranh, trong bất an mà kết quả lại không như ý nên số đông người dân chán nản trước việc chung, từ cái gốc nồng nàn yêu nước nay dẫn đến vô cảm thờ ơ, mặc kệ việc đời, khi chưa thấy có ngọn cờ nào đủ sức gây lại cảm hứng ngày xưa, mà cứ ló ra ngọn cờ là đương nhiên bị diệt. – Trở ngại từ phía giặc Bành trướng. Trung quốc muốn Việt Nam cứ là Cộng sản nhược tiểu thân Tàu để tiếp tục “tàm thực” cho đến tận cùng. Nếu Trung quốc thấy phía VN có thay đổi, không nghe lời nữa tất nhiên họ phải có đối sách. Nếu họ dùng bạo lực chiến tranh thì cuộc xâm lược sẽ mau chóng hoàn toàn thất bại. Nếu VN thực sự muốn đi với thế giới văn minh để chống Bắc thuộc thì mọi sức mạnh bên trong và bên ngoài lập tức sẽ hình thành và hiệp lực thành sức mạnh vô địch không gì cản nổi. Điều lo ngại nhất là Tàu sẽ chơi nước cờ thâm hiểm: Trước đây Tàu dùng chư hầu nhưng không tạo được cho chư hầu một bộ mặt đẹp đẽ, thế là hạ sách. Nay nếu bên trong họ đẩy nhanh sự lấn át cho thành sự đã rồi, nhưng đồng thời bên ngoài cho phép chư hầu ca bài ái quốc oai hùng bằng miệng để dân bị lừa mà mừng rỡ, mà hy vọng thì đó là điều nguy hiểm không thể coi thường. Với nỗi niềm của một con dân nước Việt, biết mình chỉ là một công dân “tiểu tốt vô danh”, nhưng lòng chẳng thể yên, nên tôi cứ nghĩ xa thôi lại nghĩ gần mà trút hết nỗi lòng như vậy, mong được lượng thứ nếu còn những điều gì tác giả nghĩ chưa được thỏa đáng.  *
......

Chính sách ngoại giao mù

Đỗ Ngà Ngày 05/08/2019, bà Federica Mogherini - phó chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) và các đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại đã đến Hà Nội để bàn về việc, hai bên sẽ ký Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh (FPA) vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Sự kiện này làm cho một số người cho rằng, Việt Nam đang tìm kiếm mối quan hệ với các cường quốc nhằm cân bằng với sự đe dọa ngày một tăng từ phía Trung Quốc. Thật sự ý đồ của Hà Nội là vậy, nhưng đây là bước đi sai không phải bước đi đúng hướng để bảo vệ quyền lợi cho đất nước Việt Nam. Có thể nói rằng, EU là một hiệp hội của các quốc gia gần nhau tựa như tổ chức ASEAN nhưng mức độ hoàn chỉnh của nó hơn hẳng cái tổ chức của khu vực Đông Nam Á kia. EU đã có nghị viện chung và đồng tiền chung, nghĩa là định hướng của tổ chức này sẽ là tiến tới một quốc gia tựa như một cộng hòa liên bang khổng lồ trong tương lai giống Hoa Kỳ. Định hướng hay, nhưng việc tiến tới một quốc gia liên bang như Hoa Kỳ có thể nói là còn rất rất lâu nữa. Vì sao? Vì bên trong 28 quốc gia của khối này còn nhiều chia rẽ, mà cụ thể là vụ ly khai của Anh Quốc. Nói thế để chúng ta thấy, EU về kinh tế có GDP tương đương Hoa Kỳ, nhưng về sức mạnh quân sự nó là con số zero tròn trĩnh. Như vậy việc Việt Nam tiến tới ký Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh (FPA) với EU nghe như là một bước đi sáng suốt, nhưng thực ra nó là một nỗ lực để tìm kiếm một hiệp ước hữu danh vô thực. Trung Quốc họ không ngán những bước đi như vậy của phía Việt Nam. Hãy nhìn sang Hàn Quốc và Nhật Bản mà xem họ đã có những bước đi vững chắc như thế nào? Việc 2 quốc gia này chơi với Mỹ là một hình mẫu về sự khôn ngoan có tầm chiến lược. Chơi một đại ca tử tế hơn vạn lần bắt tay với trăm thằng ất ơ. Họ đã chọn chữ “chất” chứ không thèm quen biết kiểu vớ vẩn. 2 quốc gia này đã làm gì? Họ đã ký kết những hiệp ước quân sự với Mỹ, và trong các hiệp ước đó họ đã mời quân Mỹ đồn trú ở quốc gia họ. Cả Hạm Đội 7 của Mỹ hiện giờ đang đóng ở Yokosuka Nhật Bản, nó như là một lá chắn vững chắc canh giữ con cọp dữ Trung Cộng, con gấu Nga hung tợn và canh chừng cả cái ông nhóc láu cá Bắc Hàn. Đây là quan hệ cộng sinh giữa Nhật – Hàn và Mỹ để cân bằng sức mạnh quân sự với trục lưu manh của thế giới trong đó có Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia có tiềm lực quốc phòng mạnh và bên trong quốc gia này chứa rất nhiều mầm loạn đang chực chờ bùng phát. Mà thực tế cho thấy, khi mầm loạn bên trong Trung Quốc bùng phát thì chính quyền Bắc Kinh tìm cách trút những khó khăn đó ra bên ngoài lãnh thổ. Tựa như một quả bóng bị bơm căng hay một nồi áp suất quá đầy hơi, áp lực bên trong phá vỡ vị trí nào yếu nhất của vỏ bọc để giải phóng năng lượng từ phía đó. Với Trung Quốc, phía Bắc có Nga, phía đông có liên minh Hàn – Nhật – Mỹ, phía Đông-Nam có Ấn Độ vv.. Trong các hướng quanh Trung Quốc đại Lục thì hướng Nam yếu nhất. Vì sao? Vì ở hướng này có một ĐCS Việt Nam đang quý “16 chữ vàng 4 tốt” hơn là quyền lợi quốc gia nên Trung Quốc sẽ cho xả van theo hướng này để giảm áp tình hình trong nước. Hãy nhìn vào tình hình thực tế của mấy ngày nay chúng ta sẽ thấy, Mỹ cho leo thang thương chiến, dân Hồng Kông leo thang biểu tình thì kết quả là Tập Cận Bình cho leo thang tranh chấp Biển Đông với Việt Nam. Đây là một minh chứng rất rõ cho ý đồ của Bắc Kinh. Như vậy, để cân bằng với áp lực từ phía Bắc thì Việt Nam chỉ có thể chơi với kẻ mạnh hơn Trung Quốc. Mà không phải chơi theo kiểu đi thăm thú và bắt tay hữu hảo là xong, mà chơi phải cho ra trò. Nghĩa là sao? Nghĩa là khi chơi với Mỹ thì phải có hiệp ước quân sự với họ, phải mời được quân đội hùng mạnh của nước này đồn trú tại Việt Nam. Chỉ có thế thì mới có thể chặn được nút van của Trung Cộng đang chĩa vào Việt Nam. Ngoài cách đó ra thì mọi giải pháp ngoại giao kiểu đi khắp nơi bắt tay lung tung, làm bạn với tất cả nhưng chẳng có một hiệp ước quân sự mạnh mẽ nào với Mỹ, thì việc tìm kiếm giải pháp để vô hiệu hóa áp lực của Trung quốc chỉ là công cốc. Với cách làm của Việt Cộng hiện nay, đảm bảo Trung Cộng sẽ vẫn cứ lấn tới bất chấp Việt Cộng có cố “làm bạn” với ai. Với lối ngoại giao bế tắc kiểu Việt Cộng, thì chắc chắn rằng, tương lai của Việt Nam sẽ chịu một loạt nhưng bất ổn liên hoàn. Vì sao? Vì càng về sau nội tình Trung Quốc càng rối reng, mà khi rối ren thì Bắc Kinh sẽ gây hấn với Việt Nam. Đất nước Việt Nam từ lâu đã bị Bắc Kinh xem là cái bao bố để xả stress, và sau những cú xả stress như vậy thì hoặc lãnh thổ Việt Nam bị gặm mất một phần hoặc một phần quyền lợi nào đó của đất nước được ĐCS đem ra hy sinh. Đó là cái giá mà đất nước Việt Nam phải trả mà không biết trả đến bao giờ mới stop được. -Đỗ Ngà-  
......

Vì sao Hải Dương 8 rời Bãi Tư Chính để vào gần Phan Thiết?

Thường Sơn - (VNTB) Vụ tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và nhóm tàu hải cảnh hộ vệ cho nó tạm rời khu vực Bãi Tư Chính để đi vào vùng lãnh hải Việt Nam chỉ cách thành phố Phan Thiết có 180 km - được thông tin bởi hãng tin Reuters theo dữ liệu của trang web Marine Traffic theo dõi các chuyển động của tàu vào ngày 24/8/2019 - cho thấy các mục đích gây hấn của Trung Quốc là ‘phong phú’. Mục đích đầu tiên đương nhiên là tranh ăn dầu khí với Việt Nam. Tiếp theo ‘đường lưỡi bò 9 đoạn’ được Bắc Kinh điều chỉnh vào năm 2018 mà đã quét qua đến 67 lô dầu khi - chiếm phần lớn các mỏ dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông, Hải Dương 8 và hờm sẵn sau lưng nó có thể là những giàn khoan khổng lồ như Hải Dương 981 và Đông Phương nhằm gây sức ép buộc chính thể ‘đảng em’ Việt Nam phải chia phần dầu khí khai thác được tại các mỏ Cá Rồng Đỏ - là liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) với hãng dầu khí Reppsol của Tây Ban Nha, và mỏ Lan Đỏ - liên doanh giữa PVN với Tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga - cả hai đều nằm ở vùng biển đông nam Việt Nam. Và tốt nhất là Việt Nam chỉ được liên doanh với Trung Quốc mà không với bất kỳ quốc gia nào khác. Trong cả hai lần gây hấn tại Bãi Tư Chính vào tháng 7 năm 2017 và tháng 8 năm 2018, Trung Quốc đều đạt được mục đích tạm thời khi buộc Repsol phải ‘tháo chạy’ khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, còn đối tác Việt Nam thì phải cắm mặt bồi thường cho Repsol khoản chi phí mà tập đoàn Tây ban Nha đã ứng ra ban đầu để thăm dò dầu khí, có thể lên tới 300 - 400 triệu USD. Nhưng vụ tàu Hải Dương 8, vừa trở lại khu vực Bãi Tư Chính sau 5 ngày quay lại đảo Đá Chữ Thập để tiếp liệu đã lại rời khỏi Bãi Tư Chính để ‘tham quan’ vùng biển gần Phan Thiết, cho thấy Trung Quốc còn muốn vươn xa hơn mục đích đầu tiên. Vụ việc trên xảy ra trong bối cảnh một tin tức đang ngày càng cận kề: sau một thời gian khá dài được Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trung ương tận tình cứu chữa, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng đã gần như hồi phục khỏi cơn bạo bệnh và chuẩn bị cho chuyến thăm Washington - một chuyến đi đặc biệt quan trọng - không chỉ về danh thể của Nguyễn Phú Trọng mà còn do tính chất đối đầu đã tới lúc không thể khoan nhượng giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà theo đó Việt Nam đang rất cần đến lực lượng hải quân và không quân của Hoa Kỳ - đối trọng duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông - để bảo vệ Việt Nam khai thác dầu khí nuôi đảng. Vậy Trung Quốc muốn gì? Chẳng khó để hình dung ra rằng Tập Cận Bình chẳng thích thú gì với chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, và muốn gây sức ép buộc Trọng phải hủy bỏ chuyến đi đó. Hoặc nếu không hủy bỏ thì buộc Nguyễn Phú Trọng phải đi Trung Quốc trước khi đi Mỹ, như một biểu hiện ‘triều kiến’. Còn nhớ, việc thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng đã dược dự kiến trong nửa đầu năm 2019, nhưng do Trọng bị bạo bệnh tại Kiên Giang ‘nhà Ba Dũng’ nên đành phải tạm gác lại chuyến đi đó. Thay vào đó, Nguyễn Xuân Phúc đã được cử đi Bắc Kinh dự Hội nghị thượng đỉnh về sáng kiến ‘Một vành đai, Một con đường’ do Trung Quốc chủ trì, diễn ra vào tháng 4 năm 2019. Gần 3 tháng sau đó, vẫn không phải Nguyễn Phú Trọng mà là  Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đi Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình để ‘làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đối tác chiến lược’ và cả một từ ngữ cực kỳ mơ hồ và nghe có vẻ giễu cợt: ‘đại cục’. Đã hầu như chắc chắn là sau giai đoạn đầu cho tàu Hải Dương 8 vào quấy phá tại Bãi Tư Chính, Trung Quốc sẽ còn ra những đòn mới và lắm chiêu trò hơn nhằm hành hạ tinh thần ảo não của giới chóp bu Việt Nam. Sau vùng biển Phan Thiết, nhiều khả năng Hải Dương 8 sẽ còn ‘du hí’ tại những vùng biển khác của Việt Nam và chẳng biết đến khi nào mới chịu chấm dứt trò chơi đau khổ ấy, nhất là trong ngữ cảnh cả Bộ Chính trị Việt Nam tuyệt đối ‘cấm khẩu’, và trong bối cảnh toàn bộ lực lượng vũ trang Việt Nam bất động và bất lực./.
......

Khủng hoảng bãi Tư Chính: Bước ngoặt mới cho Việt Nam

Nguyễn Quang Dy - Viet-Studies    Biển Đông khủng hoảng “lần 2” tại bãi Tư Chính là tiền đề cho một cuộc “khủng hoảng kép” về đối ngoại và đối nội của Việt Nam. Nửa cuối năm 2019 sẽ chứng kiến một bước ngoặt mới cho Việt Nam khi đất nước phải “tái cân bằng” quan hệ chiến lược với Mỹ và Trung Quốc, đồng thời chuẩn bị đổi mới thể chế để cải cách kinh tế và chính trị cởi mở hơn. Bước ngoặt và “khủng hoảng kép” Về đối ngoại, đối đầu và triển vọng có thể mất bãi Tư Chính buộc Việt Nam phải nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược và tái cân bằng quan hệ với Trung Quốc để bớt lệ thuộc hơn. Dự kiến chuyến thăm Mỹ của TBT-CTN Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10/2019 (theo David Hutt) là thời điểm hệ trọng để điều chỉnh chiến lược, trước khi quá muộn. Về đối nội, diễn biến mới tại bãi Tư Chính và triển vọng điều chỉnh chiến lược buộc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, để tháo gỡ ách tắc đang làm triệt tiêu những tiềm năng và động lực phát triển đất nước. Việt Nam cần tiếp tục chống tham nhũng và kiểm soát quyền lực của các nhóm lợi ích thân hữu đang thao túng làm triệt tiêu động lực cải cách.   Nếu Việt Nam không tháo gỡ được hai vấn đề lớn nói trên đúng lúc (trước năm 2021) thì không chỉ mất bãi Tư chính mà còn có thể mất luôn chủ quyền quốc gia. Kinh nghiệm trong mấy thập kỷ qua cho thấy cơ hội mới đang đến, nhưng có thể tuột khỏi tay. Với tính cách thất thường của tổng thống Trump, cửa sổ cơ hội để điều chỉnh chiến lược đang khép lại. Trong một thế giới bất an với những hệ lụy bất ổn, quốc gia nào cũng phải dựa vào nội lực là chính, trên cơ sở chủ nghĩa dân tộc. Nhưng trong trật tự thế giới mới khó lường, không một quốc gia nào (kể cả Mỹ và Trung Quốc) có thể sống biệt lập mà không cần đồng minh và đối tác. Tuy đối ngoại là sự nối tiếp của đối nội, nhưng nó làm đòn bẩy cho đối nội. Đếm ngược bom nổ chậm Trung Quốc đủ mạnh để chiếm được bãi Tư Chính và kiểm soát được Biển Đông mà Mỹ và các nước đồng minh không làm gì được (ít nhất là cho tới lúc này). Nhưng Trung Quốc cũng có “gót chân A-sin” và giới hạn của quyền lực. Liệu Trung Quốc có thực muốn giành được bãi Tư Chính để đánh mất Việt Nam và các nước bạn bè còn lại hay không? Trung Quốc đủ mạnh để chiếm được Hong Kong và biến thành một tỉnh của Trung Quốc mà Mỹ và các nước đồng minh không làm gì được. Nhưng liệu Trung Quốc có thực sự muốn vậy không, vì kiểm soát Hong Kong (như Thượng Hải) có thể đánh mất Hong Kong như “con ngỗng đẻ trứng vàng”. Cái giá Trung Quốc phải trả cho việc này quá lớn. Nói cách khác, bãi Tư Chính và Hong Kong là hai quả bom nổ chậm, mà Trung Quốc đã châm ngòi dây cháy chậm. Cửa sổ cơ hội để tháo gỡ quả bom nổ chậm đang khép lại (trong gần 2 tháng tới). Trong khi đối đầu tại bãi Tư Chính đang kéo dài nguy hiểm, khủng hoảng chính trị tại Hong Kong đang xô đẩy cả hai bên vào “cái bẫy Thiên An Môn”. Trong khi Trung Quốc đau đầu đối phó với chiến tranh thương mại với Mỹ (hay “chiến tranh lạnh kiểu mới”) với hệ quả khó lường, thật là nguy hiểm nếu ông Tập Cận Bình chơi trò “bên miệng hố chiến tranh” (brinkmanship) tại bãi Tư Chính và Hong Kong cùng lúc. Không rõ lãnh đạo Trung Quốc vừa họp tại Bắc Đới Hà có ủng hộ điều đó hay không. Cập nhật về bãi Tư Chính Theo nguồn tin dầu khí, Việt Nam đã hợp tác với Sumitomo và Idemitsu (Nhật Bản) để khai thác dầu khí tại Mỏ Sao Vàng-Đại Nguyệt (lô 05-1b và 05-1c) tại bể Nam Côn Sơn của Việt Nam, làm Trung Quốc tức giận điều tàu thăm dò HD-8 và tàu hải cảnh tới bãi Tư Chính để ngăn cản. Khi tàu HD-8 rời bãi Tư Chính (6/8/2019) để tiếp liệu tại đá Chữ Thập, chân đế dàn khoan đã được chuyển tới mỏ Sao vàng tại bãi Tư Chính (12/8/2019) và hạ đặt thành công (18/8/2019). Tàu HD-8 và nhóm tàu hải cảnh đã trở lại bãi Tư Chính (13/8/2019). Cùng ngày (18/8/2019) Việt Nam điều tàu hộ vệ “Quang Trung” (HQ-016) là một trong 4 tàu hộ vệ mang tên lửa (thuộc lớp “Gepard” 3.9) đến bãi Tư Chính để bảo vệ dàn khoan. Tàu HQ-016 là chiến hạm hiện đại nhất của Hải quân Việt Nam, được trang bị hệ thống vũ khí chống hạm, chống ngầm, và phòng không mạnh. Nói cách khác, Việt Nam đã “quân sự hóa” vụ đối đầu với Trung Quốc tại Bãi Tư Chính, sau hơn một tháng các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư nhỏ hơn của Việt Nam phải đối phó với đội tàu hải cảnh hiện đại của Trung Quốc.  Tuy đây không phải lần đầu tiên Việt Nam dùng tàu hải quân để bảo vệ chủ quyền biển, nhưng động thái này đã làm thay đổi cuộc chơi (a game changer), đẩy Trung Quốc vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Nếu Trung Quốc điều tàu hải quân (hay dàn khoan) đến khu vực bãi Tư Chính để bắt nạt Việt Nam và khẳng định chủ quyền thì sẽ làm tăng khả năng đụng độ vũ trang trên biển. Dù muốn hay không, đối đầu tại bãi Tư Chính đang leo thang nguy hiểm. Cùng ngày (18/8/2019) đại tướng David Goldfein (tham mưu trưởng Không quân Mỹ) và đại tướng Charles Brown (tư lệnh không quân Mỹ tại Thái Bình Dương) đã đến thăm Việt Nam. Trong cuộc họp báo tại Hà Nội, Goldfein nói Mỹ tôn trọng các quyết định và hành động của Hà Nội liên quan đến việc tàu Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. “Chúng tôi kịch liệt phản đối các hoạt động thách thức chủ quyền của Việt Nam”. Ngày 20/8/2019, John Bolton (Chủ tịch NSC) nói “Leo thang gần đây của Trung Quốc đe dọa các nước đang khai thác tài nguyên tại Biển Đông là đáng lo ngại…Mỹ quyết ủng hộ các nước chống lại thái độ cưỡng ép và bắt nạt đe dọa hòa bình và an ninh khu vực”. Ngày 22/8/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Mỹ lên tiếng ủng hộ Việt Nam chống lại cố gắng của Trung Quốc đang đe dọa các nước muốn khai thác tài nguyên tại Biển Đông”. Cùng ngày, Việt Nam tuyên bố (lần đầu tiên) tham gia tập trận hải quân với Mỹ và ASEAN.       Ngày 22-23/8/2019, Thủ tướng Úc Scott Morrison đến thăm Việt Nam. Thời điểm của chuyến thăm này có ý nghĩa quan trọng, tuy Canberra đến nay vẫn giữ im lặng về vấn đề này. Là thành viên của “Bộ Tứ” (trong tầm nhìn Indo-Pacific) Úc cần có vai trò tích cực hơn, và là đối tác chiến lược của Việt Nam từ 3/2018, Việt Nam mong muốn Úc ủng hộ (như Mỹ) tại Biển Đông. Trong cuộc họp báo chung tại Hà Nội (23/8) cả hai thủ tướng đều bày tỏ “lo ngại sâu sắc” nhưng tránh nói đến Trung Quốc. Ông Morrison nói, “Tôi không đến đây để lên án hay làm điều gì đó như vậy. Chúng tôi không chọn bên nào” (We do not take sides).     Trung Quốc tại bãi Tư Chính    Để độc quyền hay “cùng khai thác” dầu khí tại Biển Đông, Trung Quốc phải tìm cơ hội để kiểm soát và khẳng định chủ quyền (vô lý) của họ bằng “đường chín đoạn”, bất chấp luật biển quốc tế 1982 (UNCLOS) và phán quyết của PCA 2016. Để biến bãi Tư Chính (trong vùng EEZ của Việt Nam) thành “khu vực tranh chấp”, Trung Quốc đang dùng tàu thăm dò HD-8 và đội tàu hải cảnh quấy phá và ngăn cản hoạt động của Việt Nam và đối tác (Nga và Nhật). Trung Quốc có thể ngăn Việt Nam và ExxonMobil khai thác mỏ khí “Cá Voi Xanh” (lô 128). Để ép các nước ASEAN chấp thuận dự thảo “COC” của họ với 3 điều kiện vô lý, Trung Quốc đề nghị: (1) ASEAN không được đưa nội dung UNCLOS vào COC; (2) Không được tập trận chung với bất kỳ nước nào bên ngoài ASEAN, nếu không được sự đồng ý của tất cả ASEAN và Trung Quốc; (3) Không được tiến hành các hoạt động kinh tế với bất kỳ nước nào bên ngoài ASEAN mà không được sự đồng ý của tất cả ASEAN và Trung Quốc. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”, chưa có hồi kết, với hệ lụy khó lường. Những dấu hiệu bất ổn về kinh tế (như tốc độ phát triển chậm lại, dự trữ ngoại tệ và thị trường chứng khoán suy giảm), và về chính trị (như bất đồng quan điểm trong nội bộ gần đây tại Bắc Đới Hà), ngày càng làm bộc lộ “gót chân A-sin” tiềm ẩn của Trung Quốc, mà các chuyên gia (như David Shambaugh, Paul Krugman) đã cảnh báo.   Trong cuộc đấu “bất đối xứng” tại bãi Tư Chính, Trung Quốc là “người khổng lồ chân đất sét” (theo Joseph Nye) trong khi Việt Nam nhỏ yếu hơn nhưng không khuất phục. Trong khi Trung Quốc dùng bãi Tư Chính làm nơi luyện tập cho các lực lượng tàu hải giám và dân quân biển (theo Derek Grossman), Việt Nam cũng dùng bãi Tư Chính để rút kinh nghiệm. Trong trò chơi này, Việt Nam không thể thiếu sự ủng hộ của dân chúng và quốc tế. Việt Nam tại bãi Tư Chính Bãi Tư Chính đối với Việt Nam còn quan trọng hơn cả Scaborough shoah đối với Philippines. Để mất Scarborough là một sai lầm lớn của Manila và Washington, nên họ phải cố giữ không để Trung Quốc quân sự hóa chỗ này (như “làn ranh đỏ”). Trong khi Trung Quốc bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính, họ cũng đang bắt nạt Philippines tại đảo Thị Tứ. Chắc Hà Nội đã nhận ra rằng, dù ông Deterte có xoay trục theo Bắc Kinh, thì Trung Quốc vẫn bắt nạt và lấn chiếm Philippines như vậy. Vì vậy, Hà Nội đã rút kinh nghiệm và quyết giữ bãi Tư Chính bằng được (như “làn ranh đỏ”). Bãi Tư Chính không chỉ hệ trọng về vị trí chiến lược, mà còn có ý nghĩa sống còn về chính trị, vì để mất Tư Chính là mất hết. Nếu Hà Nội càng nhân nhượng thì Bắc Kinh càng lấn tới, vì họ quyết lấn chiếm để từng bước thay đổi thực địa, biến Biển Đông thành cái ao của họ. Vì vậy, không ngạc nhiên nếu sắp tới Trung Quốc đưa dàn khoan vào bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền. Chính sách ngoại giao pháo hạm (gunboat diplomacy) của Trung Quốc là “mềm nắn, rắn buông”. Tuy khủng hoảng Biển Đông “lần hai” lặp lại khủng hoảng Biển Đông “lần đầu” (về quy luật), nhưng khác nhau (về tính chất). Trung Quốc gây ra khủng hoảng “lần hai” không chỉ để nắn gân Hà Nội và quốc tế xem phản ứng thế nào, mà còn là hành động “xâm lược mềm” hay “xung đột cường độ thấp” theo “chiến lược vùng xám” (grey area strategy). Thay lời kết     Theo một khảo sát của Pew Research (năm 2017), 64% người Việt được hỏi cho rằng kinh tế Trung Quốc phát triển xấu, trong khi 92% cho rằng ảnh hưởng của Trung Quốc đe dọa Việt Nam. Tâm trạng này ngày càng tăng bởi tình hình gần đây tại bãi Tư Chính. Nay Hà Nội đã nhận ra rằng nhân nhượng Trung Quốc không có tác dụng, mà chỉ càng làm cho họ rắn hơn để triển khai các hành động xâm lược mới, nên Hà Nội đang cứng rắn hơn. Trong bối cảnh Biển Đông khủng hoảng “lần 2” tại bãi Tư Chính, Việt Nam đứng trước bước ngoặt mới. Chuyến thăm Mỹ sắp tới của TBT&CTN Nguyễn Phú Trọng (dự kiến 10/2019) là thời điểm hệ trọng để Việt Nam xử lý cuộc “khủng hoảng kép”. Việt Nam cần điều chỉnh chính sách đối ngoại để “tái cân bằng” với Mỹ và Trung Quốc (cuối năm 2019), và chuẩn bị đổi mới thể chế toàn diện tại Đại Hội Đảng lần thứ 13 (đầu năm 2021). Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị (20/8/2019) là một chuyển động đúng hướng (tuy hơi chậm). NQD. 24/8/2019  
......

Nền giáo dục 3 chữ C

Phạm Nhật Bình - Viettan.org| Tại Diễn đàn giáo dục 2019 do 3 tổ chức giáo dục trong nước phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 17 tháng Tám vừa qua, Phó Viện Trưởng Viện Khoa Học Giáo Dục Việt Nam Lê Anh Vinh đã trình bày chủ đề “Những viễn cảnh giáo dục mới“. Khi một năm học mới sắp bắt đầu, hãy thử xem những gì diễn giả mô tả với nhiều mỹ từ đầy lạc quan dẫn người ta đi tới đâu. Trước hết, bỏ qua hàng hà sa số bệnh tật giáo dục dưới thời Bộ Nhạ, ông phó viện trưởng nhìn lại những kết quả mà ông cho là đáng tự hào trong giai đoạn từ 2011 đến nay. Những kết quả ấy bao gồm trong 3 chữ C được giải thích là Cam Kết – Công Bằng và Chất Lượng. Ông Lê Anh Vinh đã diễn giải ra như sau: Đầu tiên là Cam Kết. Nhà nước cam kết chắc như đinh đóng cột rằng “Giáo dục và đào tạo luôn là quốc sách hàng đầu”… trong các văn bản. Bằng chứng là mức đầu tư trong giáo dục nằm trong mức cao so với các nước trong khu vực, khoảng 5,8% GDP. Không tính đến mức độ khả tín của con số do thống kê nhà nước đưa ra, với GDP khoảng 220 tỷ USD thì 5,8% dành ra chưa tới 1 tỷ 500 triệu cho dân số suýt soát 100 triệu. Có nghĩa mức đầu tư cho giáo dục của Việt Nam chưa phải là cao “so với các nước trong khu vực” như diễn giả lạc quan. Sự cam kết ấy trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay rõ ràng chưa đem lại những thay đổi căn bản nào về triết lý giáo dục, phương pháp đào tạo, hệ thống sách giáo khoa cũng như kiến thức của người đi học. Cho nên Cam Kết ở đây phải hiểu là Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phải giữ cam kết với đảng, lái cổ xe giáo dục đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa cho đến ngày cả nước xuống hố. Đối với Bộ Nhạ, đây là một nhiệm vụ nặng nề nhưng đầy vinh quang. Mặc dù là một người luôn tỏ ra thiếu khả năng, nhưng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo dưới tài quản lý ông Nhạ đã hoàn tất vai trò đưa nền giáo dục hiện đại của Việt Nam oanh liệt tiến vào thị trường “bát nháo” như nhận định của một nhà giáo tại Hà Nội. Chữ C thứ hai, Công Bằng được ca ngợi là điểm mạnh được cả cộng đồng quốc tế công nhận, như phổ cập giáo dục tiểu học từ những năm 2000. Xét ra đây là chuyện không đáng khoe vì là chuyện mà thiên hạ đã làm từ lâu, ngay trong thời chiến tranh. Trên thực tế, trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2018 ít nhất có 4 tỉnh là Hà Giang, Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La thực hiện sự công bằng bằng cách sửa điểm thi, nói một cách nặng nề hơn là gian lận thi cử. Chuyện này không nghe diễn giả đề cập. Do đó chữ C thứ hai Công Bằng trong giáo dục chỉ là sửa điểm, nâng điểm cho con em cán bộ, những công tử đảng ham chơi hơn ham học. Vì dù thành tích học tập rất tồi nhưng những thành phần COCC này phải được đào tạo để trở thành những nhà lãnh đạo kiệt xuất trong tương lai. Và như bà Nguyễn Thị Quyết Tâm Phó Bí Thư Thành uỷ HCM từng nói: “Con em lãnh đạo làm lãnh đạo là điều hạnh phúc của dân tộc, không có gì phải nghi ngại.” Do đó, đây cũng là chiều hướng chỉ đạo “sáng suốt” của đảng cầm quyền để đào tạo cán bộ kế thừa. Chữ C thứ ba được nhà giáo dục Lê Anh Vinh giải thích là “Chất Lượng” mà đáng lẽ ông phó viện trưởng phải dùng chữ “phẩm chất” mới đánh giá chính xác nền giáo dục hiện nay. Nếu chỉ kể ra kết quả những cuộc thi Olympic quốc tế hay đánh giá của tổ chức PISA qua các cuộc khảo sát 3 năm một lần e chưa được đầy đủ và chưa nói hết được mức độ “bát nháo” mà một nhà giáo ở Hà Nội đã kể ra trong bài viết của mình. Như “bát nháo thị trường tham nhũng thi cử”, “bát nháo liên kết đào tạo sư phạm”, “bát nháo chứng chỉ ngoại ngữ, tin học”, “bát nháo thị trường cấp chứng chỉ xếp hạng giáo viên”, “bát nháo đường vào đại học và hệ luỵ”, v.v. Chính vì vậy “Chất Lượng” giáo dục được thể hiện hàng năm là sinh viên tốt nghiệp đại học không kiếm được việc làm thích hợp, cuối cùng các cử nhân chỉ chọn được con đường đi làm cu-ly cho nước ngoài. Trong khi ấy với chính phủ 4.0 thì chưa làm nổi một cái ốc vít nhưng… sản xuất được xe đời mới cạnh tranh với Honda, Toyota. Kết luận lại, nếu 3 chữ C của nền giáo dục Việt Nam được diễn giải đúng với thực tế thì không thể nói gì khác hơn là: Chạy Điểm – Chạy Chức – Chạy Trường, nền tảng của sự tụt hậu mọi mặt. Phạm Nhật Bình  
......

“Chó già giữ xương, Trọng già giữ chức!”

Nguyễn Văn Đài  Hàng năm vào dịp kỷ niệm cái gọi là “Cách mạng tháng Tám năm 1945” thì những người cầm đầu của đảng CS bao giờ cũng tổ chức vào viếng lăng HCM và mít tinh khá hoành tráng. Năm nay, hoàn toàn không thấy các cơ quan truyền thông báo chí của cộng sản đưa tin hay đả động đến. Hỏi thăm một số nguồn tin trong nước thì được biết Nguyễn Phú Trọng tuy đã phục hồi được phần nào sức khỏe, nhưng ông ta không dám tham dự các sự kiện ngoài trời, các sự kiện đông người và kéo dài vì sợ tái đột quỵ. Như vậy chỉ vì sức khỏe của cá nhân Nguyễn Phú Trọng mà ông ta cũng sẵn sàng hủy bỏ mọi hoạt động tưởng niệm, kỷ niệm truyền thống của người cộng sản. Sáng nay 20 tháng 8, họp Ban bí thư trung ương sơ kết 3 năm thực hiện chỉ thị 05/BCT, Nguyễn Phú Trọng cũng vắng mặt. Tham dự Hội nghị có Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng, … Có thể nói Nguyễn Phú Trọng giờ đây sức tàn lực kiệt, nhưng vẫn cố ngồi ôm, giữ hai ghế mà không chịu buông cho những kẻ khác trong đảng. Các cụ ta đã tổng kết cấm có sai: “chó già giữ xương!” Ngày nay, chúng ta có nói: “chó già giữ xương, Trọng già giữ chức”
......

Bãi Tư Chính, súng nổ, tàu cháy, lính chết, và….

Phạm Thành| Hôm 18.8.2019, truyền thông các luồng đều loan tin, ngày 15.8. Việt Nam điều tàu chiến Quang Trung có hộ vệ tên lửa của Việt Nam ra Biển Đông bảo vệ Bãi Tư Chính. Dư luận đặt câu hỏi: Liệu súng có nổ, có đối đầu thật sự với hành vi xâm lược của Tàu Cộng hay không? Tôi dự đoán: Rất có thể súng sẽ nổ. Nhưng đối đầu thật sự để bảo vệ lãnh thổ trước Tàu Cộng xâm lăng thì không. ất có thể súng nổ. Tàu ta bị tàu của Tàu Cộng bắn cháy vài cái, lính ta cũng chết vài, ba chục mạng và cuối cùng là rút chạy, bỏ lại Bãi Tư Chính cho Tàu Cộng quản lý. Vì rằng, súng nổ, cháy tàu, chết lính, có thể là một kịch bản mà Việt gian đã thống nhất với quan thầy của chúng là Tàu Cộng. Súng nổ, chết lính, cháy tàu để Việt gian cầm quyền Việt Nam lừa dân rằng: “Chúng ta đã chiến đấu bảo vệ đất nước, chứ không phải quỳ gối dâng đất nước cho Tàu Cộng như các lực lượng chống đối không phải Việt gian thường nói, nhưng Tàu nó quá mạnh, ta đành phải chịu thua thôi”. Nếu chính quyền Việt Nam thật tâm chống Tàu Cộng thì phải có tính toán chiến thuật, chiến lược, có vũ khí, có liên minh, và đặc biệt lãnh đạo Việt Nam cũng phải há mồm ra lên án Tàu Cộng, kêu gọi dân chúng đoàn kết chống giặc, vân vân, đằng này, không có những yếu tố này, Phú Trọng lại chỉ lo nhân sự cho đại hội XIII của đảng, thì đưa tàu, đưa người ra đối đầu với Tàu Cộng, thực chất chỉ làm mồi cho Tàu Cộng tập bắn mà thôi. Tài sản và xương máu dân Việt Nam đổ ra, chỉ phí phạm, chỉ làm thảm lót đường cho Việt gian tính công, lĩnh thưởng từ Trung Nam Hải mà thôi. Hãy tin tôi đi. Tôi chưa bao giờ dự báo sai về những hành vi của Việt gian cộng sản với Tàu Cộng./.
......

Việt Nam có còn cơ hội kiện Trung Quốc?

Một chiếc tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm trên biển Đông. (Hình: Getty Images) Phạm Chí Dũng/Người Việt|   Cứ mỗi năm ở Biển Đông, mỗi tháng ở Hoàng Sa và mỗi ngày ở bãi Tư Chính trôi qua, cơ hội của “đảng em” Việt Nam để kiện “đảng anh” Trung Quốc ra tòa án quốc tế lại càng thêm ít ỏi và khó thắng. Mưu tính nào sau cáo buộc Việt Nam? Sau ba lần lên tiếp xâm phạm bãi Tư Chính vào Tháng Bảy 2017, Tháng  Ba 2018 và Tháng Bảy 2019, rõ ràng là giới chóp bu Bắc Kinh có mối lo ngại về việc chính quyền Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về “đường lưỡi bò 9 đoạn” và vụ tàu Hải Dương 8, chứ không phải như một số tờ báo của Bắc Kinh luôn cho rằng Trung Quốc không hề sợ Việt Nam hay một quốc gia nào đó kiện cáo. Vào cuối Tháng Bảy 2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc là Hoa Xuân Oánh đã lên tiếng cáo buộc Việt Nam “vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi Tư Chính kể từ Tháng Năm,” “Trung Quốc đã thể hiện quan điểm của mình và đang liên lạc với phía Việt Nam” và “Chúng tôi kêu gọi phía Việt Nam xử lý phù hợp vụ việc.” Tuyên bố trên được đưa ra chỉ một ngày sau khi phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam là Lê Thị Thu Hằng cho biết Hà Nội đã “trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam,” một cử chỉ can đảm mang tính quá hiếm muộn của giới chóp bu Việt Nam về thế buộc phải đối đầu với “thiên triều.” Cách thức tuyên bố trên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc là rất tương đồng với chiến thuật lấn dần từng bước vào Biển Đông và biến các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, đặc biệt là những vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn mà Việt Nam đang tự khai thác hoặc liên doanh với những đối tác nước ngoài để khai thác, thành vùng “tranh chấp chủ quyền” giữa Trung Quốc và Việt Nam. Cách tuyên bố mang tính khẳng định về vùng chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính có thể sẽ khiến một số quốc gia trên thế giới – vốn không am hiểu lắm về lịch sử chủ quyền vùng biển của Việt Nam và những mưu tính lắt léo trong “đường lưỡi bò 9 đoạn,” tỏ ra dè dặt hơn nếu những nước này có ý muốn ủng hộ Việt Nam tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, hoặc tại một tòa án quốc tế trong trường hợp Việt Nam dám kiện Trung Quốc ra trước thế giới, cho dù Việt Nam được đặt vào ghế “thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc” vào năm 2019. Tuyên bố về “chủ quyền bãi Tư Chính” của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc còn cho thấy một ý định quá đáng sợ của Bắc Kinh mà khiến “đảng em” Việt Nam mất ngủ: Trung Quốc chưa hề có ý định rút tàu khỏi khu vực bãi Tư Chính. Thậm chí Trung Quốc còn có thể điều động thêm những tàu thăm dò địa chất và kể cả điều động một giàn khoan khồng lồ như cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014, vào khu vực bãi Tư Chính để khoan dầu, như một cách ăn cướp cực kỳ trắng trợn tài sản ngay trong nhà của người khác. Việt Nam “thế nước đang lên…” Vào năm 2014, Hải Dương 981 đã chỉ rút khỏi Biển Đông sau hơn 2 tháng ngự trị và đã “làm tình làm tội” giới chóp bu Việt Nam chưa đánh đã sợ đến mức “đái ra quần.” Nhưng đến năm 2019, quy mô chiến dịch gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông còn được đẩy lên một mức cao hơn so với vụ giàn khoan Hải Dương 981, đồng thời với việc tung ra một số lượng lớn từ 35-80 tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự bên cạnh tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, Trung Quốc đang cấp tốc triển khai cấp tốc thiết lập một căn cứ quân sự hải quân lớn tại Campuchia, nằm sát lãnh thổ Việt Nam. Những thông tin trên, tất nhiên không được cho biết bởi chế độ “chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động,” mà từ giáo sư người Úc (Carlyle Alan Thayer) công bố trên trang Twitter của ông. Trong khi đó, phía Việt Nam chỉ có khoảng một chục tàu. “Thế nước đang lên” của Việt Nam – như bài ca tự sướng của giới tuyên giáo đảng – so với Trung Quốc là hoàn toàn chổng ngược… Đã có thể khớp nối thông tin về căn cứ hải quân của Trung Quốc ở Campuchia với một phát ngôn công khai gần đây của quan chức bộ trưởng quốc phòng Việt Nam là Ngô Xuân Lịch về “chủ động đánh giá đúng tình hình biên giới Tây Nam.” Theo đó, giới quân sự Việt Nam đang phải cấp tốc điều quân đội và khí tài quân sự nhằm đối phó với “mặt trận thứ hai” của Trung Quốc tại vùng biên giới Campuchia-Việt Nam. Một dự luật về tình trạng tổng động viên cũng đang được Quốc Hội Việt Nam gấp rút xem xét. Tiêu chí đầu tiên của hành động này là tình trạng chiến tranh và tình trạng nguy cấp về quốc phòng. Nhưng vẫn là thói ươn hèn mãn tính? Vào năm 2014, vụ giàn khoan Hải Dương 981 rốt cuộc chỉ là cú răn đe của Bắc Kinh đối với Bộ Chính Trị Việt Nam, nhằm mục đích tranh cướp các lô dầu khí ở Biển Đông. Khi đó, Trung Quốc cũng cho nhiều tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu thương mại dân sự chạy vòng quanh giàn khoan Hải Dương 981, cùng xịt vòi rồng và đâm va ở mức độ nhẹ với tàu Việt Nam. Khoảng hơn hai tháng sau, trong lúc giới chóp bu Việt Nam vẫn hoàn toàn bất lực về đối sách với Trung Quốc và cũng chẳng dám có hành động mạnh mẽ nào trước Trung Quốc, Bắc Kinh chợt tuyên bố rút giàn khoan Hải Dương 981 về nước vì “đã hoàn thành nhiệm vụ.” Nhưng vụ bãi Tư Chính năm 2019 có vẻ không chỉ là dọa dẫm như năm 2014. Cho tới nay, tàu Hải Dương 8 và một số tàu hải cảnh của Trung Quốc vẫn “khiêu vũ” ngay trước mũi Bộ Chính Trị Việt Nam và trước một quân chủng hải quân có đến 6 tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga, nhưng giờ chẳng biết bỏ đâu (có ý kiến cho rằng chắc các tàu ngầm này còn phải lo chống ngập ở Hà Nội và Sài Gòn). Tình trạng vuốt mặt không thèm nể mũi trên đã kéo dài hơn một tháng, nếu không muốn nói là đã hơn hai tháng kể từ khi Trung Quốc điều tàu gây hấn tại mỏ Lan Đỏ – dự án liên doanh giữa Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam với Tập Đoàn Dầu Khí Rosneft của Nga. Cũng cho tới nay và rất tương đồng với tinh thần “hèn với giặc, ác với dân” của năm 2014 và tại nhiều thời điểm khác, chính quyền và giới quân sự Việt Nam vẫn “rúc mặt” mà không dám hành động mạnh mẽ trước Trung Quốc. Vào lần này, kịch bản mà có lẽ được giới chóp bu Việt Nam kỳ vọng nhất là đành chấp nhận một phần hải phận cho tàu Trung Quốc khai triển và thực thi chiến thuật” vờn tàu,” chờ cho đến khi “bạn vàng” phải tự động rút tàu, chủ yếu do gánh nặng chi phí. Nhưng đó chỉ là tính toán chủ quan của những kẻ bất lực, trong khi chẳng có gì bảo đảm là Trung Quốc sẽ rút hết tàu sau 2 tháng, thậm chí sau 3 tháng ngự trị ở khu vực bãi Tư Chính. Và thậm chí cho tới thời điểm này, Trung Quốc còn tạm thời giành được một lợi thế trên phương diện quan hệ quốc tế: Hội Nghị Các Bộ Trưởng ASEAN diễn ra ở Thái Lan vào cuối Tháng Bảy, đầu Tháng Tám 2019 đã chỉ đề cập khá chung chung và “quan ngại” về tình hình Biển Đông mà không hề nhắc đến cái tên Trung Quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ, đối trọng duy nhất của Trung Quốc trên thế giới, cũng là quốc gia đầu tiên và có lẽ duy nhất lên tiếng gián tiếp ủng hộ chính quyền Việt Nam phản đối Trung Quốc can thiệp vào bãi Tư Chính, đã trở nên dè dặt hẳn về những phát ngôn và hành động tiếp theo, sau khi chứng kiến giới chóp bu Việt Nam vẫn như bị vẹo xương sống trước “người đồng chí tốt.” Chưa có gì rõ ràng về triển vọng hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Hải Quân Mỹ, đang tiến hành tuần tiễu ở Biển Đông, sẽ can thiệp trực tiếp vào vụ bãi Tư Chính. Nếu khả năng tàu Trung Quốc kéo dài vụ xâm nhập bãi Tư Chính xảy ra, mà xác suất của khả năng này đang được giới phân tích chính trị cho là ngày càng lớn, Việt Nam sẽ phải đối phó ra sao? Tiếp tục phát cờ cho ngư dân để “thuyền ra biển lớn” và làm rộ lên câu vè dân gian “Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động”? Hay tiếp tục kêu gọi quốc tế mau chóng can thiệp? Liệu Hải Quân Việt Nam có dám nổ súng nếu tàu Trung Quốc gây hấn? Và nếu nổ súng, Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã chuẩn bị ra sao cho những kịch bản đen tối không thể tránh khỏi cho một cuộc xung đột quân sự ở quy mô nhỏ hoặc vừa, hay thậm chí là chiến tranh thực sự với Trung Quốc? Thói ươn hèn mãn tính là tác nhân của căn bệnh nhũn não dài hạn và mất đứt lãnh thổ. Ngay cả lúc bị kẻ cướp xông vào nhà mà còn không dám kiện thì làm sao tránh khỏi thân phận Trần Ích Tắc!   
......

Nguy cơ chiến tranh Việt - Trung có thể xảy ra?

Le Anh KHU TRỤC TỐI TÂN NHẤT CỦA VIỆT NAM ĐANG TIẾN VỀ BÃI TƯ CHÍNH - NGUY CƠ CHIẾN TRANH CÓ THỂ XẢY RA KHÔNG? Hôm 17 Tháng Tám, 2019, trên trang Twitter của Ông Ryan Martinson, nhà nghiên cứu về Hải Quân Trung Quốc, giảng viên tại Trường Hải Chiến Hoa Kỳ cho biết, hình ảnh trên vệ tInh cho thấy xuất hiện 2 tàu có tên Vpns Quangtrung và Truong Sa 401012 đang đi vào khu vực bãi Tư Chính. Xung quanh có tàu Hải cảnh Trung Quốc Haijing 37111 và Zhongguohaijing 33111 Ông Ryan cũng cho biết, Tàu Quang Trung đã rời cảng Cam Ranh từ ngày 15 tháng 8. Hiện nay vẫn chưa có thông tin gì thêm, xác định tàu Quang Trung có phải là tàu hộ vệ hỏa tiễn thứ tư thuộc lớp Gepard 3.9 được biên chế Lữ Đoàn 162. Đây là đơn vị tàu chiến đấu mặt nước tối tân nhất của Hải Quân Việt Nam. Được biết, vào thời điểm từ 2011 đến 2017, Việt Nam đã mua các loại tàu chiến của Nga. Hiện nay, Việt Nam đang sở hữu 4 Khu trục tối tân này. Đây là Loại tàu chiến có khả năng tàng hình, săn tàu ngầm, chống hạm, chống ngầm, chống các loại tàu chiến mặt nước, được trang bị các loại vũ khí tiên tiến nhất của Nga hiện nay. Cho đến giờ này, Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa lên tiếng về động thái này. Trước tình hình căng thẳng ngày càng leo thang, nhất là động thái về sự di chuyển của 2 tàu Hộ Vệ Việt Nam đang tiến về Bãi Tư Chính, nhiều người cho rằng, sẽ gia tăng nguy cơ đụng độ giữa Tàu Hải cảnh và Khu trục của Việt Nam?. Trước nguy cơ dẫn đến chiến tranh, nhà cầm quyền cộng sản phải quyết liệt hơn, không chỉ lên tiếng bằng phương thức ngoại giao mà còn phải tiến hành thêm một số biện pháp để gia tăng áp lực với Trung Quốc. - Kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế. - Phải tôn trọng và nêu cao lòng yêu nước của người dân, bằng cách kêu gọi toàn dân cùng đồng lòng, đoàn kết và trả tự do cho những người yêu nước còn đang bị giam giữ trong tù để cùng chống giặc. - Tạo điều kiện cho tất cả người dân, đủ mọi thành phần phản đối Trung Quốc. Chấm dứt tình trạng ngăn cản và bắt bớ những người biểu tình như mới vừa xảy ra vài ngày qua. - Ngoài ra, vận động quốc tế ủng hộ, đặc biệt là vận động các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc cùng tham gia. CSVN muốn tạo niềm tin đối với nhân dân Việt Nam hay không? CSVN có thật sự muốn chống ngoại xâm hay không thì phải chờ xem những động thái sắp tới?  
......

Bãi Tư Chính: Ví dụ rõ ràng về chiến lược hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông

ASEAN Today - Khánh Anh dịch Trung Quốc đang thao túng các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để khắc phục sự nhầm lẫn và mở rộng lợi ích kinh tế ở Biển Đông. Hoạt động ngoại giao và quân sự của Trung Quốc đang đẩy khu vực đến gần bờ vực xung đột. [Ban Biên Tập ASEAN Today] Căng thẳng đang bùng phát một lần nữa ở Biển Đông. Trong nhiều tuần, các tàu hải cảnh của Trung Quốc và Việt Nam đã đối đầu nhau ở Bãi Tư Chính, một rạn san hô đang tranh chấp ở quần đảo Trường Sa ngoài khơi Việt Nam. Tàu khảo sát của Trung Quốc Haiyang Dizhi 8 (HD 8) đã xâm nhập vùng biển gần Bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Việt Nam vào ngày 3 tháng Bảy để khảo sát địa chấn. Hộ tống tàu khảo sát là tàu hải cảnh nặng 12.000 tấn có máy bay trực thăng và một tàu hải cảnh nhỏ hơn với trọng tải 2.200 tấn. Động thái này đã thúc đẩy chính phủ Việt Nam đưa bốn tàu hải cảnh có vũ trang đến hiện trường và đưa hai quốc gia đến bờ vực đối đầu. Vụ việc đã gây ra một làn sóng chống Trung Quốc tại Việt Nam và trong khu vực, với việc Mỹ chỉ trích “hành vi ăn hiếp” trong khu vực của Bắc Kinh. Hoa Kỳ cáo buộc Trung Quốc “đã lặp đi lặp lại các hành động khiêu khích nhằm vào các dự án khai thác dầu khí ngoài khơi của các quốc gia khác” bằng cách “đe dọa an ninh năng lượng khu vực” và phá hoại “thị trường năng lượng Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và cởi mở ”. Trung Quốc muốn tiếp cận với dầu khí ở Bãi Tư Chính Lưu vực Bãi Tư Chính nằm trong rạn san hô cực tây của Trường Sa và có trữ lượng dầu khí phong phú. Chính phủ Việt Nam hiện có hàng chục giàn khoan dầu trong khu vực. Theo Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), rạn san hô này nằm trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ). Tuy nhiên, Bắc Kinh không thừa nhận điều này. Rạn san hô này nằm trong đường chín đoạn của Bắc Kinh, phân định yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc về quyền hàng hải ở Biển Đông. Đường chín đoạn chạy dài tới 2.000km từ lục địa Trung Quốc đến trong phạm vi cách Philippines, Malaysia và Việt Nam vài trăm km. Vào năm 2016, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực tại The Hague đã bác bỏ yêu sách của Bắc Kinh đối với các vùng lãnh thổ trong đường chín đoạn, một quyết định gây phẫn nộ cho chính phủ Trung Quốc. Bắc Kinh kêu gọi các thành viên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) bỏ qua phán quyết và tiếp tục đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC). Trung Quốc đang sử dụng các phương tiện ngoại giao và quân sự để đạt được ý nguyện Bắc Kinh đã đề xuất rằng các dự án phát triển ở Biển Đông phải được giới hạn đối với các quốc gia có tranh chấp , mà không có sự tham gia của các cường quốc ngoài khu vực. Nói cách khác, Bắc Kinh muốn Việt Nam, Malaysia, Philippines và các quốc gia yêu sách khác hạn chế liên doanh với các công ty dầu khí quốc gia khác. Đồng thời, chính phủ Trung Quốc tiếp tục tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực. Trung Quốc đã đưa lực lượng hải cảnh vào quân đội vào năm 2018 và đã củng cố năng lực đội ngũ này. Họ cũng xây dựng và khai hoang 7 hòn đảo ở Trường Sa và cho một đội quân hùng hậu trú đóng. Bắc Kinh thao túng các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để thúc đẩy lợi ích chiến lược riêng Theo thông lệ quốc tế, khi hai quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế trùng nhau, thì các quốc gia liên quan có thể tiến hành phát triển hàng hải chung cho đến khi các tranh chấp được giải quyết. Tuy nhiên, trong trường hợp của Bãi Tư Chính, thuộc khu vực EEZ của Việt Nam, đề xuất của Trung Quốc về phát triển chung hàng hải là một nỗ lực nhằm thao túng các luật lệ quốc tế để biến các vùng biển không bị tranh chấp thành tranh chấp. Vì Hà Nội thường dựa vào các biện pháp ôn hòa trên cơ sở luật pháp quốc tế để bảo vệ quyền chủ quyền của mình, Trung Quốc hy vọng sẽ buộc Việt Nam chấp nhận phát triển chung trên biển. Bằng cách tạo ra các tranh chấp mới ở Biển Đông, Trung Quốc cũng không khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư vào khu vực này. Hy vọng rằng những thiệt hại kinh tế đối với Việt Nam và các nước ASEAN khác sẽ thúc đẩy họ chấp nhận các đề xuất phát triển chung. Gia tăng quân sự hóa đang đẩy khu vực đến gần bờ vực xung đột Việc thử nghiệm tên lửa đạn đạo chống hạm gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông đánh dấu sự leo thang rõ ràng về quân sự hóa trong khu vực. Cuộc tập trận cùng với các cuộc thử nghiệm tiếp theo về tên lửa chống hạm trên đất liền là một màn trình diễn có chủ ý về sức mạnh hải quân của Trung Quốc nhằm đưa ra thông điệp cảnh báo tới Hoa Kỳ và các đối tác khu vực. Trung Quốc đang sử dụng “chiến lược bắp cải”, để mở rộng ranh giới trên biển, theo đó một khu vực tranh chấp được bao quanh bởi nhiều lớp an ninh để ngăn tiếp cận quốc gia đối thủ. Cuối cùng, lãnh thổ bị bao vây bị kẻ xâm lược xâm chiếm hoàn toàn. Cũng trong một phần chiến lược, Trung Quốc đưa dân quân đánh cá để quấy rối ngư dân các quốc gia khác. Các tàu đánh cá này được chính phủ trợ cấp, được đào tạo thu thập thông tin về các tàu nước ngoài và đã tham gia giải cứu các tàu đánh cá bất hợp pháp của Trung Quốc bị các chính phủ khác bắt giữ. Việc cho tàu HD 8 gần đây xâm phạm Bãi Tư Chính là việc thành lập một lớp khác trong “bắp cải bảo mật Trung Quốc”. Nhưng việc này đang đẩy khu vực tới gần xung đột hơn. Vào ngày 7 tháng Tám, hải quân Hoa Kỳ đã cho tàu USS Ronald Reagan đến Biển Đông. Trong một tuyên bố, Washington cho biết phương châm của hàng không mẫu hạm là “hòa bình thông qua sức mạnh”, và yêu cầu các quốc gia có yêu sách “tuân theo luật pháp quốc tế”. Việc hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan tới khu vực này có thể là mối đe dọa để Trung Quốc cần rút HD 8 khỏi Bãi Tư Chính. Quần Đảo Trường Sa cách Trung Quốc đại lục một quãng đường dài và có thể dễ dàng thấy chuỗi cung ứng của họ bị phá vỡ trong trường hợp xảy ra xung đột. Sự xuất hiện của hàng không mẫu hạm cũng báo hiệu rằng Hoa Kỳ đang cố gắng trấn an các đối tác trong khu vực và đối đầu sự thống trị của hải quân Trung Quốc. Tất cả đều chú ý đến bước đi tiếp theo của Trung Quốc. Khi cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra trên sân khấu kinh tế quốc tế, Biển Đông có thể là nhà hát tiếp theo để hai cường quốc trình diễn vũ lực. ASEAN Today – Khánh Anh dịch Nguyên bản Anh ngữ: Vanguard Bank is a clear example of Beijing’s South China Sea strategies in action, ASEAN Today, 15 tháng Tám, 2019 Nguồn: Việt Nam Thời Báo
......

Chính thể VN có chính danh trong vụ Bãi Tư Chính?

Phạm Chí Dũng -VOA| Ghi nhận duy nhất về tính chính danh của chính thể độc tài ở Việt Nam trong cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính lần 3 chỉ là động thái của Bộ Ngoại giao Việt Nam: trong một lần quá hiếm muộn của lịch sử quan hệ gấu ó Việt – Trung, cơ quan cấp bộ này đã hai lần liên tiếp gửi công hàm phản đối Trung Quốc về vụ tàu Hải Dương 8 xâm nhập Bãi Tư Chính và vụ Trung Quốc tổ chức tập trận ở Hoàng Sa. Nhưng những đặc trưng còn lại của đảng CSVN đều thiếu hẳn tính ‘công chính’. Cho tới nay và mặc dù đã phục hồi sức khỏe, đã tiếp đón các quan chức ngoại giao nước ngoài và xuất hiện đó đây trên cương vị chủ tịch nước, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn không hề hé răng về vụ Bãi Tư Chính. Tình trạng ‘cấm khẩu’ quá yếm thế như vậy khiến người ta liên tưởng lại vụ Hải Dương 981 vào năm 2014: năm đó đã dậy lên rất nhiều đồn đoán rằng Nguyễn Phú Trọng đã có đến hai chục lần gọi điện đến Bắc Kinh cho Tập Cận Bình để thương thảo về vụ rút giàn khoan Hải Dương 981, nhưng họ Tập đều kiêu ngạo từ chối tiếp chuyện. Rốt cuộc, Hải Dương 981 đã chỉ rút bởi thế chủ động rút của Trung Quốc sau hơn hai tháng trời hành hạ ‘đảng em’ Việt Nam và con dân nước Việt. Còn vào năm 2019, tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 cũng được Trung Quốc chủ động rút khỏi Bãi Tư Chính sau hơn một tháng ‘chính danh’ của lực lượng hải quân Việt Nam mà đã chẳng thể làm gì, thậm chí còn chẳng dám nói gì trước một kẻ cướp táo tợn lao vào nhà mình. “Thế 6 cái tàu ngầm lớp Kilo mà Bộ Quốc phòng Việt Nam mua của Nga đi đâu mất mà không ra Bãi Tư Chính ứng chiến với tàu địch?” – một số người dân cắc cớ hỏi. Trong lúc viên tướng có tới bốn sao trên cầu vai là Ngô Xuân Lịch vẫn im như thóc, một số người dân khác lại hỏi dồn: “Đừng có nói là mấy cái tàu ngầm lớp Kilo còn phải tác chiến ở Hà Nội, Sài Gòn, Phú Quốc, Đà Lạt… – những nơi đang ngập lụt đến lút đầu!”. Chẳng khác gì Bộ Quốc phòng, cả chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc và quốc hội của ‘tỷ phú áo dài’ Nguyễn Thị Kim Ngân cũng không thốt nổi từ nào để phản đối Trung Quốc – một hiện tượng rất đồng điệu với tinh thần câm nín triệt để vào năm 2014 khi nổ ra vụ Hải Dương 981. Điều trớ trêu là trong vụ Hải Dương 981, chính là Nghị viện Hoa Kỳ đã khẩn cấp và quyết liệt tung ra một bản nghị quyết về Biển Đông lên án sự can thiệp của Trung Quốc, còn giới quân sự Mỹ đã gợi ý Việt Nam về ‘đối tác chiến lược’ với Hoa Kỳ. Song tất cả đều bị phía Việt Nam lờ đi trong cơn mê sảng đu dây ngả ngớn với Bắc Kinh để cuối cùng đã phải nhận quả báo nhãn tiền. Còn vào năm 2019, không phải ‘nghị gật’ Việt Nam mà chính là một số nghị sĩ Mỹ tiếp tục chỉ trích và tố cáo Bắc Kinh vi phạm Công ước Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS 1982). Quả báo nhãn tiền rốt cuộc đã chính danh đến mức trong cả ba vụ Bãi Tư Chính vào các năm 2017, 2018 và 2019, hầu hết các ‘đối tác chiến lược’ – mà giới chóp bu Việt Nam thường tự hào lên đến cả tá – đã chẳng đếm xỉa gì đến cử chỉ cầu cứu của Hà Nội. Cay đắng nhất là ‘đối tác chiến lược’ Tây Ban Nha – nước có Tập đoàn dầu khí Repsol liên doanh với Việt Nam ở mỏ cá Rồng Đỏ, và Cộng hòa liên bang Nga – quốc gia có Tập đoàn dầu khí Rosneft liên doanh với Việt Nam khai thác mỏ Lan Đỏ, đều lặng tăm. Trái ngược hoàn toàn, ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất Trung Quốc’ – như cái cách ca tụng tận mây xanh của Bộ Chính trị Việt Nam – lại trở thành con cá mập hung dữ muốn nuốt trọn Bãi Tư Chính và Biển Đông. Rốt cuộc, tính ‘chính danh’ của chính thể độc đảng ở Việt Nam đã được tôn vinh trọn vẹn đến mức nếu không phải là hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của hải quân Mỹ tiến thẳng vào Biển Đông vào ngày 6/8 thì còn lâu, chứ không phải chỉ một ngày sau đó – 7/8, Trung Quốc mới chịu rút tàu Hải Dương 8 ra khỏi Bãi Tư Chính. Nhưng không chỉ ‘chính danh’ bằng chính sách ‘Ba không’, chính thể ‘đảng em’ Việt Nam còn cần được bổ sung thêm một ‘không’ nữa – một ‘không rất kiên định: Không kiện ‘đảng anh’ Trung Quốc. Quả là thế, ý chí kiện Trung Quốc đã chỉ lấp ló trên cửa miệng giới quan chức cao cấp Việt Nam vào mỗi lúc bị dư luận chỉ trích mạnh mẽ về chế độ này ‘hèn với giặc, ác với dân’, nhưng sau đó hồ sơ được xem là ‘kiện Trung Quốc’ lại bị tống vào ngăn kéo đầy bụi bặm. Tâm thế lộn ngược đó khiến cho con dân nước Việt, cứ mỗi khi nhắc tới ‘đảng quanh vinh’ và ‘chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam’, thì lại ngậm ngùi bởi nhớ tới câu thơ ‘Người ta đứng bởi mi quỳ gối’. Song cũng cần phải châm chước: chính thể độc tài Việt Nam vẫn còn vài đặc thù rất ‘chính danh’ khác: sẵn sàng đàn áp bất cứ tiếng nói bất đồng và người dân nào dám lên tiếng và xuống đường biểu thị tinh thần phản kháng ‘đảng anh’ Trung Quốc, như bao lần đàn áp dã man các cuộc biểu tình của người dân chống Trung Cộng kể từ năm 2011 đến tận giờ đây. Mùa hè năm 2019, bất chấp vụ Bãi Tư Chính đã bị Bắc Kinh đẩy vào cơn khủng hoảng lần thứ ba trong ba năm liên tiếp, những kẻ ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười Sáu Chữ Vàng’ ở Việt Nam vẫn kiên định rào dây kẽm gai trên các đường phố và xua các lực lượng công an và dân phòng trực chiến liên tục để tác chiến với nhân dân. Và kiên định không kém khi phát cờ cho ngư dân… Trong bầu không khí rũ rượi của câu vè ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ vẫn dồn nén châm chích đến buốt tim, giới quan chức mặt lầy mỡ tổ chức phát hàng chục ngàn lá cờ đỏ sao vàng cho những ngư dân xơ xác và thiểu não vì mất biển, mất kế mưu sinh và mất cả lòng tin vào lực lượng ‘quân với dân như cá với nước’, mưu biến những ngư dân này trở thành lá chắn sống lao ra biển đối đầu với tàu vũ trang của địch. Thế là lại nổi lên một câu vè nữa: “Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động!”./.  
......

Tại sao chúng ta lại tự từ bỏ chủ quyền ngay chính trên đất chúng ta?

Nguyen Ngoc Chu| 1. Uất ức Ngày 27 tháng Bảy, 2019 khi được tin khoảng 500 cảnh sát Công An Hải Phòng bắt giữ 380 tội phạm Trung Quốc trong đường dây đánh bạc ở khu đô thị Our City (Thành phố của chúng ta (của người Tàu)) dư luận xã hội tỏ thái độ vừa buồn vừa an ủi. Buồn vì trên đất Việt Nam mà bọn tội phạm Trung Quốc đến hành nghề tự do hơn cả đất Trung Quốc của chúng. An ủi vì Công an Việt Nam cũng bắt được một số ít băng nhóm. Buồn nhiều hơn an ủi. Đến ngày 1 tháng Tám, 2019 khi biết tin Bộ Công An phối hợp với Công An Hải Phòng bàn giao 380 tên tội phạm Trung Quốc phạm tội trên đất Hải Phòng cho Trung Quốc thì người dân Việt Nam vô cùng thất vọng. Nhiều người Việt uất ức. Uất ức là khi bắt được bọn Trung Quốc phạm tội trên đất Việt mà người Việt không xử tội theo luật pháp Việt, lại đi bàn giao cho Trung Quốc xử tội theo luật pháp Trung Quốc. Uất ức khác nữa là bọn tội phạm Trung Quốc này không chỉ phạm tội cờ bạc tự phát thông thường mà có kẻ chủ mưu tổ chức từ phía chính quyền Trung Quốc. Uất ức thêm nữa là bọn tội phạm Trung Quốc về Trung Quốc có thể được tha bổng. Uất ức hơn nữa là bọn tội phạm Trung Quốc này chẳng những không bị xét xử đúng tội, không bị bỏ vào xe tù cũi lợn chở đến biên giới (như những tù nhân Việt Nam phải chịu), mà còn được chuyên chở trong đoàn xe khách, lại được hộ tống bởi công an như đoàn khách danh dự quan trọng – kẻ phạm tội mà như khách trang trọng! Uất ức thêm hơn nữa là bọn tội phạm Trung Quốc về Trung Quốc có nhiều kẻ được tha bổng rồi quay lại Việt Nam tiếp tục gây tội. 2. Phẫn nộ Ngày 8 tháng Tám, 2019 được tin 3 tên tội phạm người Trung Quốc giết tài xế taxi người Việt Nam rồi ném xác xuống sông phi tang thì không người Việt Nam nào không căm phẫn. Ngày 13 tháng Tám, 2019 người Việt Nam phẫn nộ khi biết tin 3 tên giết người Trung Quốc không bị xét xử ở Việt Nam mà lại trao trả cho Trung Quốc. Phẫn nộ vì người Trung Quốc giết người Việt Nam ở đất Việt Nam mà không bị trừng trị theo pháp luật Việt Nam. Phẫn nộ khác nữa là vì gia đình nạn nhân người Việt Nam không được đền bù thích đáng. Phẫn nộ thêm nữa là vì bọn Trung Quốc cứ sang Việt Nam gây tội rồi được trả về Trung Quốc mà không biết có bị kết tội hay không. Phẫn nộ hơn nữa là bọn tội phạm Trung Quốc này có thể quay lại Việt Nam để tiếp tục phạm tội. Phẫn nộ thêm hơn nữa vì Việt Nam tự đánh mất chủ quyền ngay trên đất mình. 3. Tại sao lại tự từ bỏ chủ quyền? 1. Một nguyên tắc sơ đẳng trong luật pháp quốc tế được mọi nước thừa nhận và tôn trọng là: “Tội phạm xảy ra ở nước nào thì bị xử theo luật pháp của nước đó”. 2. Một cách nôm na, “Dẫn độ” là trường hợp tội phạm đã phạm tội ở nước khác chạy đến nước sở tại lẩn tránh bị nước sở tại bắt giữ và có quốc gia yêu cầu nước sở tại dẫn độ về cho quốc gia đó để xét xử tội phạm. Việc dẫn độ chỉ xẩy ra khi quốc gia sở tại bắt giữ tội phạm đồng ý cho dẫn độ – hoặc theo hiệp ước dẫn độ đã ký kết giữa 2 quốc gia, hoặc không có hiệp ước dẫn độ nhưng vẫn đồng ý cho dẫn độ. Nếu không có hiệp ước dẫn độ giữa 2 quốc gia, nước sở tại bắt giữ tội phạm có thể không đồng ý dẫn độ. 3. Việt Nam chưa ký Hiệp ước dẫn độ với Trung Quốc. Việt Nam chỉ ký với Trung Quốc Hiệp ước tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự, tương tự như đã ký với Bungari, Hàn Quốc… và các nước khác. Bởi thế, trường hợp người Duy Ngô Nhĩ (Tân Cương) trốn sang Quảng Ninh tháng Tư, 2014 có thể không trao trả cho Trung Quốc vì chưa có hiệp ước dẫn độ. Chưa nói đến khi bắt giữ để trao trả, họ đã cướp súng bắn người Việt Nam thì phải giữ lại để xét xử theo luật pháp Việt Nam, chứ không trả ngay cho phía Trung Quốc. 4. Đừng viện dẫn “Công Ước Vienna” (về Quan hệ Ngoại giao, thông qua năm 1961, có hiệu lực năm 1964). Vì “Công Ước Vienna” chỉ miễn trừ cho những người có hộ chiếu ngoại giao. 380 người Trung Quốc tổ chức đánh bạc ở Việt Nam là thường dân, không thể hưởng quy chế ngoại giao. 5. Không có lý do gì mà không xử tội bọn Trung Quốc phạm tội trên đất Việt Nam, nhất là chúng lại phạm tội giết người, và phạm tội có tổ chức của bọn tình báo giấu mặt. Không xử tội người Trung Quốc phạm tội trên đất Việt Nam là Việt Nam đã tự đánh mất quyền xét xử theo luật pháp Việt Nam – chính là đã tự từ bỏ chủ quyền ngay trên lãnh thổ mình. 4. Có phải chăng chúng ta đang thúc đẩy người Trung Quốc đến phạm tội ở Việt Nam? 1. Người nước ngoài đến nước mình phạm tội, nhiệm vụ mình xét xử mà mình lại không thực thi quyền xét xử sơ đẳng đương nhiên mà các nước thừa nhận, là mình không làm tròn bổn phận pháp lý như các quốc gia khác. 2. Người nước ngoài đến nước mình phạm tội, mà mình chịu trao cho nước khác, là tự xem luật pháp mình không có hiệu lực với người nước họ, là tự hạ giá công dân mình so với người nước họ, là đặt người nước họ ngoài vòng pháp luật trên đất mình. 3. Nói cụ thể, người Trung Quốc đến Việt Nam vi phạm pháp luật và gây tội khắp mọi nơi – từ mở phòng khám lừa đảo, lừa đảo tiền bạc, lừa đảo tình ái, lừa đảo hàng hóa, đánh người gây rối, cờ bạc trộm cắp, buôn bán ma túy… cho đến cả giết người trắng trợn mà Việt Nam không trừng trị theo pháp luật Việt Nam, lại trả về cho Trung Quốc, là đặt người Trung Quốc bất khả xâm phạm trên đất Việt Nam, là thúc đẩy người Trung Quốc đến phạm tội ở Việt Nam. 5. Không thể tự mình hạ thấp giá trị của chính mình Luật pháp của một nước là uy quyền của nước đó. Đến nước nào thì phải tuân thủ pháp luật của nước đó. Tại sao người Trung Quốc đến Việt Nam mà không tuân thủ pháp luật Việt Nam lại tuân thủ pháp luật Trung Quốc? Tại sao người Trung Quốc lại ngoài vòng pháp luật Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam? Người Việt Nam đi nước ngoài phạm tội ở nước sở tại có được nước sở tại trả về Việt Nam như người Trung Quốc phạm tội ở Việt Nam không? Chính chúng ta đang tự hạ thấp giá trị người Việt. Tự mình khinh rẻ mình thì làm sao được người nước khác tôn trọng? Một quốc gia mà không dám trị tội người của quốc gia khác phạm tội trên lãnh thổ mình là một quốc gia sợ hãi. Đã sợ hãi thì tất sẽ bị chèn ép. TS Nguyễn Ngọc Chu    
......

Liệu sẽ có một Hong Kong VIệt Nam?

Ngô Nhật Đăng|   Chắc chắn rất nhiều người cho rằng đó chỉ là mơ tưởng hão. Năm 2007, một phóng viên trẻ gọi điện cho tôi, giọng xúc động : “Anh ơi, ra 40 Nhà Chung”, tôi lúc đó đang ở Phú Quốc liền vội vã bay về Hà Nội. Một cảnh tượng thật ấn tượng, cả ngàn người ngồi đọc Kinh Thánh, trật tự và ôn hòa, một hiện tượng chưa từng có. Xung quanh khu vực Nhà Thờ Lớn dày đặc vòng vây cảnh sát, an ninh, mật vụ chìm nổi, côn đồ…trà trộn trong đám đông đánh, bắt người, một phóng viên nước ngoài cũng bị đánh và cướp mất máy ảnh. Những người biểu tình ngồi cũng bị đánh, một người máu chảy ròng ròng trên mặt mà anh vẫn coi như không. Về sau tôi được làm quen với anh, đó là Luật sư Lê Quốc Quân. Tất nhiên tôi không bỏ lỡ cơ hội tìm hiểu đám đông làm điều đó vì mục đích gì, thì ra không phải họ chỉ gìn giữ tài sản của giáo dân mà vì mục tiêu cao đẹp hơn nhiều, như bức thư ngỏ mà Đức Tổng Ngô Quang Kiệt đã viết, công bố về những tài sản của Nhà Thờ mà nhà nước đã “mượn” từ sau năm 54, những nơi dùng cho mục đích chung như Trường THCS Hoàn Kiếm và vài nơi khác : “Không bao giờ đòi” những nơi dùng để làm bệnh viện phục vụ nhân dân như bệnh viện Saint Paul thì : “ Không bao giờ dám đòi” nhưng những kẻ biến chất, tha hóa định biến những thứ đó thành của riêng thì không được. Quá rõ ràng. Và, cũng lần đầu tiên, một hình thức phản kháng xã hội mới xuất hiện, rất lạ, rất mới. Khi cuộc cầu Kinh Hòa Bình kéo dài được nửa tháng, bà Hằng (không phải Carrie Lam) phó chủ tịch thành phố gửi “tối hậu thư” cho giáo dân Hà Nội, nếu sau 2 ngày nữa giáo dân không tự giải tán thì “thành phố sẽ áp dụng biện pháp mạnh”. Ngay ngày hôm sau dù bị ngăn cản bằng mọi cách, hàng chục ngàn giáo dân ở các vùng lân cận HN đã kéo lên Bờ Hồ, nhiều người Hà Nội chưa quên được cảnh tượng đó. Ông Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng thời ấy đã xuống tận nơi, gặp Đức Tổng Ngô Quang Kiệt ngay trên vỉa hè, hứa với giáo dân đáp ứng yêu cầu hợp lý, hợp tình của họ, và, giáo dân giải tán. Kết quả thì như ta đã biết, khi tôi hỏi Linh mục Chánh xứ Chánh Tòa Hà Nội, Ngài chỉ cười : “ Hóa ra họ nói vậy mà không phải vậy bác ạ”. Con gái út tôi, lúc đó đang học lớp 5 trường Hoàn Kiếm (sát Nhà Thờ Lớn và cũng là tài sản của Nhà Thờ trước năm 54), cháu kể : “Bọn con hỏi cô giáo : “Thưa cô, nhà nước đúng hay Nhà Thờ đúng ạ ? Tụi con phải bênh bên nào?”. Cô giáo không trả lời và nhà trường thông báo cho nghỉ học. Tất nhiên, báo chí lá cải, lá ngón sẽ đồng thanh ca rằng : “Công giáo gây ra hỗn loạn để con em chúng ta không được đến trường”. Một ông tướng công an nói với các Cha : Chuyện nhỏ thế mà các cụ không nói với tôi để đến nông nỗi này. Bây giờ lớn chuyện quá rồi, tôi sẽ nói tụi Hoàn Kiếm dọn mấy cái quán trong khu đó đi, các cụ nói giáo dân rút về, rồi nhà nước trả lại đất cho Nhà Thờ nhẹ nhàng như thế cho đẹp mặt cả hai bên. Sau khi giáo dân về nhà, một buổi tối tôi đi qua Nhà Chung, hai đầu phố đã được chắn lại, có cả hàng rào dây thép gai, cảnh sát cơ động rải khắp phố, tôi nói dối là nhà ở phố Nhà Thờ nên được cho vào. Tôi hỏi một cảnh sát đang kìm sợi dây giữ con chó becgie to lớn, dữ tợn : “ Các em dùng cả những thứ này để đối phó với đồng bào mình à ?”. Cậu ta im lặng. Trong đêm đó, xe tải lũ lượt chạy, chở cây, chở hoa đến đặt ở 40 Nhà Chung, sáng hôm sau thành phố tuyên bố : “Đây là công viên công cộng phục vụ nhân dân”. Người Công giáo cười : “Giá họ nói ngay từ đầu đây sẽ làm vườn hoa công cộng thì chúng tôi đâu phản đối và Nhà Thờ sẵn sàng đóng góp tiền bạc, công sức để làm cho nó đẹp hơn”. Đêm Noel năm đó, lần đầu tiên trong đời tôi thấy Nhà Thờ Lớn đóng cửa im lìm. Những người Hà Nội “thật”cảm thấy trống vắng, lần đầu tiên người HN thấy ngôi Nhà Thờ ấy là một phần máu thịt của mình bất phân Lương, Giáo. Đêm đó tôi viết lên facebook của mình : “Rồi sẽ đến lúc cả dân tộc này phải cúi đầu cám ơn bà con Công giáo”. Khi người bạn là công an kể cho tôi nghe về Tam Tòa anh đã khóc và sau đó xin “ra khỏi ngành”, tôi bị sốc thật sự khi nghe anh kể về những “phương án tác chiến”, cảnh sát cơ động được đưa từ Đà Nẵng ra vì chắc chắn lực lượng tại địa phương sẽ không dám thẳng tay, họ đánh giáo dân bằng bất cứ cái có trong tay, đánh bất cứ vào chỗ nào trên cơ thể, đánh bất kể già trẻ, trai gái. Thú thực lúc đó tôi cảm thấy căm ghét từ “bất bạo động”, sao lại có thể chịu đựng như thế ? Có luật “Mắt trả mắt, răng đền răng” mà. Rồi năm 2012, vụ Con Cuông xảy ra….. Còn nữa.
......

LS Nguyễn Danh Huế: Đường sắt Cát Linh - Hà Đông

LS Nguyễn Danh Huế Đường sắt Cát Linh - Hà Đông là một sản phẩm mà bọn khốn nạn Trung Quốc kết hợp với bọn Việt gian bán nước tạo ra nằm chềnh ềnh giữa thủ đô đang thách thức và sỉ nhục nhân dân Việt Nam. Đây đúng là cục xương lơ lửng ở cổ họng, nuốt không nổi mà nhả ra cũng không xong. Chúng ta bỏ ra một số tiền khổng lồ, có thể gần bằng tiền làm tàu điện ngầm nhưng chỉ nhận được một sản phẩm vừa lạc hậu vừa quái thai, dị dạng. Có một số nguyên nhân khiến tuyến đường sắt này không biết đến bao giờ mới hoàn thành, đó là: 1. Thiếu tiền: Dự án nằm ngoài kiểm soát của phía VN nên nhà thầu TQ liên tục báo đội vốn mà vốn lại đi vay nên phải “năn nỉ” bọn Tàu để chúng cho vay thêm, rất mất thời gian để bổ sung vốn. 2. Nhà thầu không có kinh nghiệm: Do dự án này vay ODA của Tàu nên chủ nợ lựa chọn hình thức EPC, chúng chỉ định nhà thầu chưa từng có kinh nghiệm quản lý dự án lớn và chưa từng làm đường sắt trên cao bao giờ, vì thế, giờ chúng có muốn làm cho xong cũng khó vì không giải được bài toán về kỹ thuật và an toàn khi vận hành. 3. Ký kết hợp đồng bất lợi: Phía VN đã bị hớ hoặc ký theo kiểu “sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi” nên giờ bọn Tàu có kéo dài dự án đến 100 năm cũng chẳng làm gì được chúng vì không có chế tài xử lý khi vi phạm, đây là thứ lỗi sơ đẳng nhất khi ký hợp đồng mà không hiểu tại sao có thể xảy ra được. Đau là tiền nợ chúng vẫn thu đều cả gốc lẫn lãi mà dự án thì chưa biết bao giờ mới xong. Thủ tướng chính phủ đã nhiều lần ý kiến đến lãnh đạo cao nhất của TQ để họ chỉ đạo các nhà thầu sớm hoàn thành dự án tránh ảnh hưởng đến “tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân hai nước” nhưng phía TQ có vẻ chúng phớt lờ, chúng không thèm quan tâm và giữ thể diện quốc gia. Dự án này là quả đắng, rất đắng. Tuy nhiên chính phủ cần mạnh dạn dừng dự án này, phá bỏ và để lại 1 đoạn làm bảo tàng. Song song với đó là cấm cửa bọn Tàu tham gia các dự án ở Việt Nam, một việc nữa cũng không thể không làm là lôi cổ những thằng Việt gian khốn nạn đã rước cái dự án này về làm khổ nhân dân ra xét xử và cũng để nhân dân phỉ nhổ chúng. Fb LS Nguyễn Danh Huế    
......

Trần Thanh Tuấn: Tôi Đã Ra Khỏi Đảng Như Thế

TS. Trần Thanh Tuấn (bên trái) cùng đồng nghiệp đi biểu tình chống dự luật Đặc khu. Cả hai bị bắt đưa lên xe bus đưa về đồn Công an Long Biên. Tran Thanh Tuan Hôm nay tình cờ đọc được bài báo này mới thấy hóa ra mình là một trong gần 51 nghìn người đã bị xóa tên ra khỏi Đảng trong thời gian gần đây, tuy nhiên mình không phải là một trong 12.500 đảng viên bị kỷ luật khai trừ. Trước mình vào Đảng vì có nghe lời mọi người khuyên là nếu được mời vào mà từ chối nhiều là coi như thành phần chống đối. Thế là tặc lưỡi gật đầu, hậu quả là bây giờ chịu đủ. Thế mới thấy nhiều đồng nghiệp trẻ chỗ mình khôn thiệt, cứ mỗi khi được giới thiệu vào Đảng là cứ cười cười báo cáo là em chưa sẵn sàng. Giờ Đảng nhạt hơn rồi (đấy là lời bác TBT nói đấy nhé) nên cũng không ai ép các bạn ấy. Mới vào Đảng mình sinh hoạt tốt lắm, đi họp đầy đủ, đóng đảng phí rất có trách nhiệm. Chỉ hơi ghét là mỗi lần họp lại phải hát Quốc ca và cái bài Quốc tế ca gì đó. Quốc ca thì mình hát nhiệt tình lắm, chỉ tránh cái câu nhiều máu thôi. Còn quốc tế ca thì mình đứng nghe. Đầu tiên cũng chả nghe ra cái gì, toàn tèn tén ten. Rồi nghe nhiều cũng hiểu, cứ mỗi lần nghe thấy "bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình" mà chỉ tủm tỉm cười. Hèn chi. Rồi vụ đi tuần hành ngày 10/6, vì là Đảng viên gương mẫu nên sau khi họp hành giải trình với Đảng bộ Trường và Ban giám hiệu nhiều quá nên khi họp chi bộ mình thấy hối lỗi, do đó nhất quyết nhận hình thức kỷ luật "khai trừ khỏi đảng". Tiếc là chi bộ khoa Toán phân tích là mình không làm gì sai cả nên biểu quyết không kỷ luật. Quá trình làm việc với ông bí thư Đảng bộ (kiêm Hiệu trưởng), ông trưởng ban kiểm tra Đảng ủy (ông Phó hiệu trưởng) được nghe giáo huấn nhiều, mình thì thấy các tấm gương sáng nên chỉ biết vâng vâng dạ dạ và càng thấy cái sai của mình khi đã làm cái việc như vậy. Tuy nhiên khi biết chuyện ông bí thư Đảng bộ đang cuối nhiệm kỳ thì sửa tuổi (điều này là phi phạm nguyên tắc Đảng nghiêm trọng), ông trưởng ban kiểm tra thì cũng làm nhiều chuyện không hay trong cương vị đảng, thì hình tượng hai ông đại diện Đảng này mất hết. Mình tuyên bố ra khỏi Đảng. Tuyên bố là một chuyện nhưng ra được phải là một chuyện khác. Cũng phải quyết liệt lắm mới thành công. May là chi bộ khoa Toán hiểu và ủng hộ cho ra ngay. Giờ thôi, dân thường đúng nghĩa, đầu óc nhẹ tênh.  
......

"Lẩn Tránh Hay Nhượng Bộ Không Bao Giờ Yên Thân Được"

  Đó là khẳng định trong bài bình luận của Vn Youtuber ngày 8/8/2019. Nguyễn Ngọc Dương Người dân Việt Nam yêu nước lâu nay thường trăn trở về cách hành xử của Lãnh đạo Việt Nam (VN) với nhà cầm quyền Trung Quốc (TQ), nhất là sau hơn 1/4 thế kỷ qua, khi có hiệp ước “Bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc”. Những “sáng kiến” của TQ đưa ra trong các hội đàm song phương đều có vẻ rất hay ho, như: “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “4 tốt”, “16 chữ vàng”, “Vì đại cục”…, nghe rất ngọt ngào. Tuy nhiên, nghiệm ra thì thấy TQ cứ nói cho hay thế thôi, chứ thực tế họ có vô số hành động đi ngược với lời nói mà chỉ bằng mắt thường, người dân VN ai cũng thấy. TQ tìm mọi cách chèn lấn VN trong trong nhiều lĩnh vực. Sau khi hoan hỉ “thành công” trong việc cắm lại mốc biên giới trên bộ thì thác Bản Giốc của VN mất toi một nửa và một số địa điểm khác, cột mốc được di chuyển ít nhiều về phía Nam. TQ đầu tư hàng nghìn dự án kinh tế vào VN, nhưng hầu như đều gây ra quá nhiều tai tiếng, hệ lụy như đội vốn, công nghệ lạc hậu, chậm tiến độ, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên… Điển hình như Bô xít Tây Nguyên, Formosa Hà Tĩnh đội lốt Đài Loan, hàng loạt Nhà máy nhiệt điện, Đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông, Gang thép Thái Nguyên…. Ngoài biển Đông, TQ ra sức cải tạo các bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa của VN, xây dựng căn cứ quân sự, lập đơn vị hành chính trái phép trên đảo Phú Lâm thuộc Quần đảo Hoàng Sa của VN…Tất cả đều bất chấp Luật pháp quốc tế. Năm 2014, TQ ngang nhiên đưa Giàn khoan 981 vào thăm dò tài nguyên ở vùng lãnh hải VN trên vịnh Bắc Bộ. Họ còn gây ra quá nhiều những vụ chèn ép, đâm chìm tàu cá của ngư dân VN, khiến ngư dân không thể yên bề mưu sinh trên vùng biển Tổ Quốc mình. Gần nhất là vụ Bãi Tư Chính. Bắt đầu từ tháng 5/2019, khi VN cho phép một giàn khoan dầu của Nhật Bản thuê khoan dầu cho Liên doanh Nga – Việt, thì Bắc Kinh tuyên bố khu vực này nằm trong đường 9 đoạn mơ hồ do họ tự vẽ để yêu sách gần 90% biển Đông. Để trả đũa, TQ triển khai tàu Hải Dương địa chất 8, đưa các tàu cảnh sát biển vũ trang và các tàu đánh cá bán quân sự hộ tống vào Bãi Tư Chính hoàn toàn thuộc lãnh hải của VN… Còn ứng xử từ phía VN? Lãnh đạo VN rất thật thà, hai bên nói với nhau thế nào thì “chấp hành” rất nghêm chỉnh, không hề lật lọng. Thậm chí còn không cho dân biểu tình phản đối những hành động ngang ngược của phía TQ. Tất cả vì lý do “để giữ gìn hòa bình, ổn định và an ninh Khu vực”. Tuy nhiên, VN càng nhún nhường, nhẫn nhục thì TQ càng lấn tới, càng tưởng rằng VN quá sợ hãi bởi thân phận nhỏ bé của mình! Vụ Dàn khoan 981, người dân VN ở một số thành phố lớn, bất chấp sự ngăn cản của Chính quyền vẫn liều mình xuống đường phản đối. Và Chính phủ buộc phải có những tiếng nói mạnh mẽ hơn với phía TQ. Tuy nhiên, hồi tháng 7/2017 và tháng 3/2018 khi có tin tức nói TQ đã đe dọa quân sự nếu VN không chịu ngừng khai thác dầu khí trong các khu vực “tranh chấp” ở biển Đông, thì VN đành nhắm mắt rút các tàu của mình về. Thực ra khái niệm “tranh chấp” là do TQ bịa ra, chứ anh vào nhà tôi tự tiện lục soát, tôi đuổi, anh lại bảo là “tranh chấp”, thì thật lạ lùng. Năm ngoái, với sức ép của TQ, VN đã phải bỏ Dự án khai thác dầu mỏ với hãng năng lượng Repsol của Tây Ban Nha trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, chịu mất trắng 200 triệu USD… Lần này, cuộc đối đầu tại Bãi Tư Chính từ 3/7 cho đến 17/7, phía VN vẫn nhũn nhặn. Chủ tịch Quốc hội vẫn sang thăm TQ; UV BCT-Trưởng ban TGTƯ vẫn sang TQ hội thảo về lý luận (!). Đến khi cuộc đối đầu ngày càng căng thẳng, VN mới lên tiếng “yêu cầu tàu NƯỚC NGOÀI phải rút khỏi vùng đặc quyền lãnh hải của VN”. Nhưng cho đến ngày 18/7, nghĩa là vừa tròn nửa tháng, người phát ngôn ngoại giao Lê Thị Thu Hằng mới chính thức nhấn mạnh rẳng, TQ đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN, “yêu cầu TQ ngay lập tức rút mọi tàu khảo sát và tàu hộ tống khỏi vùng biển VN”. Sau đó, Bộ Ngoại giao VN đã chính thức công khai gửi phản đối tới các cơ quan liên quan của TQ và kêu gọi sự ủng hộ Quốc tế dành cho mình. VN cũng tuyên bố, sẽ tiếp tục khai thác chung với Nga ở khu vực này. Và lần này, 'VN không đàm phán qua các kênh hậu trường như cách mà hai bên đã làm trong quá khứ để lắng dịu các sự cố trên biển' (Vn Youtuber). Có thể nói, ít nhất những hành xử mạnh mẽ như vậy khiến người dân yên tâm hơn. Nhân dân VN rất mong muốn hòa bình, nhưng cũng luôn mong mỏi Nhà nước có những hành xử kịp thời, thỏa đáng trước những hành động bắt nạt quá đáng của TQ, coi thường pháp luật Quốc tế. Đó cũng là hành động cần thiết để khẳng định tính chính danh về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của VN đối với phần lãnh hải đã được pháp luật quốc tế công nhận. Hôm 6/8, trên mục “Góc nhìn”, báo VnExpress đăng bài “Những kẻ bắt nạt” của ông Jesse Peterson, một giáo viên người nước ngoài ở Việt Nam. Với chủ đề bài viết, tác giả đã đưa ra nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trở thành bài học trường đời. Thật ấn tượng khi Peterson viết: “Tôi từng có một con ngựa xấu tính, sẵn sàng đá vào mặt tôi bất cứ lúc nào. Bố đã dạy tôi bước tới, không sợ hãi, và quát nó thật to… Những câu chuyện ngụ ngôn của Jesse Peterson chắc chắn không phải đăng cho vui, mà nó là một thông điệp chuyển đến những người có trách nhiệm của đất nước về cách ứng xử thỏa đáng với Bắc Kinh. Trong bài bình luận có tựa đề “Cũng là Tư Chính, vì sao lần này Việt Nam cứng rắn hơn?” trên trang VN Youtuber ngày 8/8/2019 có đoạn: “Lẩn tránh hay nhượng bộ không bao giờ yên thân được. Muốn hết bị bắt nạt thì chỉ có cách là phải chống lại kẻ bắt nạt. Hoặc là ít nhất phải làm điều gì đó để cho kẻ bắt nạt biết rằng, nếu đụng vào ta thì sẽ gặp rắc rối”. Chắc chắn, việc rút các tàu ra khỏi Bãi Tư Chính vừa qua không phải là thái độ thiện chí của Bắc Kinh, càng không phải sự “sự chiến thắng” của chúng ta như ai đó huênh hoang. Đó chỉ là sách lược “rút củi đáy nồi”. Khi mưu đồ xâm lược của Bắc Kinh đã là bản chất thì trước sau họ cũng chưa ngơi “cơn khát” biển Đông trong vùng đặc quyền kinh tế của VN. Vì thế, việc chuẩn bị Hồ sơ để kiện TQ ra Tòa án quốc tế theo tôi, vẫn cần phải xúc tiến và sẽ thực hiện vào một thời điểm thích hợp. Dân tộc Việt Nam dù nhỏ bé, nhưng truyền thống bất khuất trước kẻ xâm lược thì lịch sử nghìn năm đã ghi nhận, cả thế giới đã đã nhiều lần nghiêng mình, ngưỡng mộ. Đầu tháng Tám/2019 Nguyễn Ngọc Dương
......

Bà Phạm Chi Lan: “Quá mạo hiểm, quá rủi ro, quá khờ dại”

chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan Chau Doan (Đoàn Bảo Châu ) Chiều ngày 9/8/2019, nhà báo tự do Đoàn Bảo Châu, trên trang facebook cá nhân của mình (Chau Doan), đã thực hiện một cuộc phỏng vấn Live Stream với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, xung quanh sự kiện Tàu Hải Dương địa chất 8 của Trung Quốc xâm phạm Bãi Tư Chính thuộc lãnh hải Việt Nam. Bà Phạm Chi Lan là một trí thức có nhiều phát ngôn trí tuệ, mang tính khai trí rất cao, được nhân dân rất quý trọng, đã giúp rất nhiều cho những người dân hiểu nhiều vấn đề về Chính trị, Kinh tế, Xã hội của đất nước. Bài trả lời phỏng vấn của bà Phạm Chi Lan trong khoảng 50 phút. Chỉ sau vài giờ đã có trên 1500 lượt thích, hơn 600 bình luận, hơn 1 nghìn lượt chia sẻ và gần 30 ngàn người theo dõi. Tôi không có điều kiện gỡ băng toàn bài, chỉ xin trích một đoạn ngắn bà nói về một sự kiện mà dư luận cả nước rất quan tâm: NGUY CƠ CÁC NHÀ THẦU TRUNG QUỐC THAM GIA LÀM ĐƯỜNG BỘ CAO TỐC BẮC NAM. Nguyên văn đoạn trích như sau: “… Có thể là từ những cái ám ảnh về mặt chính trị rồi đến quyết định kinh tế mà đã để cho họ (Trung Quốc) làm quá nhiều, thì bất chấp những bài học như đường sắt Cát Linh – Hà Đông, bất chấp 12 dự án thua lỗ chổng gọng ra của Bộ Công thương, hay là như con đường Đà Nẵng – Quảng Nam, tuy là đường cao tốc do tập đoàn Việt Nam làm, nhưng cái đoạn mà nhà thầu TQ làm lại là đoạn gây ra những chuyện lớn nhất… Bất chấp tất cả những chuyện như thế, người ta vẫn cứ luôn luôn nghĩ đến chuyện là Trung Quốc tham gia. Tôi nghĩ ĐẤY LÀ CÁI ĐIỀU RẤT LÀ TỆ. Trong bối cảnh hiện nay thực sự là cần thay đổi một cách triệt để. “Theo tôi hiểu theo quan hệ quốc tế thì khi giữa hai nước có quan hệ căng thẳng với nhau về lãnh thổ, về an ninh quốc phòng, như là Trung Quốc liên tục có những hành vi xâm lấn, thậm chí mưu đồ muốn chiếm đoạt biển Đông rất rõ ràng như vậy thì Việt Nam hoàn toàn có quyền loại Trung Quốc ra, không để tham gia vào những dự án quan trọng về kinh tế cũng như về an ninh quốc phòng của Việt Nam, như đường Cao tốc Bắc Nam, như đường sắt cao tốc Bắc Nam trong tương lai hoặc là sân bay Long Thành. Có thể hoàn toàn loại hẳn ra ngoài. “Vì trong tình hình căng thẳng như vậy không ai lại để cho cái kẻ thù đang đe dọa ở ngay cửa trước của mình, lại nhẩy vào cửa sau, ngay trong chính sân nhà mình, trong ngôi nhà của mình như thế cả! Làm như vậy thì quá mạo hiểm, quá rủi ro, quá khờ dại. Không ai có thể chấp nhận như vậy được cả. “Thì thà, nếu không có nhà thầu nào đủ điều kiện để làm thì hoãn các dự án lại, không sao cả. Chưa phải quá cấp bách lúc này đến mức phải chấp nhận cho Trung Quốc làm”. Bà Phạm Chi Lan nói trong tâm trạng bức xúc. Thực hiện gỡ băng: Nguyễn Ngọc Dương
......

Đại hội đảng CSVN lần thứ XIII chỉ còn là một vở kịch?

Nguyễn Văn Đài| Vào đầu năm 2021, tức là còn gần một năm rưỡi nữa thì đảng Cộng sản Việt Nam mới tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ XIII để bầu các ủy viên trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư và người lãnh đạo đảng là Tổng bí thư. Nhưng ngay từ cuối tháng 6 năm 2019, tại cuộc họp của Bộ chính trị dưới sự điều hành của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phê duyệt quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa 13, nhiệm kỳ 2021-2026. Việc đảng CSVN tiến hành quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 được chính thức thảo luận tại hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khoá 12 vào cuối tháng 12 năm 2018. Bộ chính trị đã yêu cầu tất cả 116/116 địa phương, cơ quan, đơn vị giới thiệu và đã có gần 250 nhân sự. Bộ chính trị đã thống nhất giới thiệu để Trung ương cho ý kiến với hơn 200 nhân sự. Sáng 6-8, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức lễ khai giảng lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng (lớp 1 và lớp 2). Ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư dự và phát biểu chỉ đạo. Lớp bồi dưỡng gồm 95 nhân sự được quy hoạch vào Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN khóa XIII. Trong 2,5 tháng, các học viên sẽ nghiên cứu, trao đổi, thảo luận 46 chuyên đề, trong đó 37 chuyên đề do các chuyên gia trong nước và 9 chuyên đề do các chuyên gia quốc tế thực hiện. Nội dung chương trình học tập được chia làm 6 phần: Nền tảng tư tưởng, lý luận của đảng; kinh tế; văn hóa-xã hội; xây dựng đảng và hệ thống chính trị; quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kỹ năng lãnh đạo và quản lý. Lớp bồi dưỡng còn có hoạt động đi khảo sát thực tế tại địa phương và ở nước ngoài để các học viên nghiên cứu, tìm hiểu thêm một số kinh nghiệm thực tiễn. Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng cho biết, hai lớp bồi dưỡng đầu tiên trong chương trình bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược của nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII sẽ được tổ chức từ nay cho đến khoảng đầu năm 2020. Học viên là những nhân sự được phê duyệt quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII); quy hoạch chức danh cấp trưởng các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị-xã hội ở Trung ương, giai đoạn 2020-2025; quy hoạch chức danh bí thư các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương giai đoạn 2021-2026. Như vậy có thể nói toàn bộ các ủy viên trung ương của đảng CSVN khóa 13 nhiệm kỳ 2021-2026 đã được quyết định trước khi Đại hội toàn quốc của đảng CSVN diễn ra vào đầu năm 2021. Những đảng viên đảng CSVN không được qui hoạch, không trải qua các khóa học bồi dưỡng thì họ sẽ mất hoàn toàn quyền ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của đảng theo qui định tại khoản 2 điều 3(Điều lệ đảng CSVN). Cho dù những đảng viên có tài, có đức có tự ra ứng cử thì cũng không được bầu bởi danh sách nhân sự các ủy viên trung ương khóa 13 đã được Ban chấp hành trung ương khóa 12 quyết định và trở thành nghị quyết để triển khai tới các đảng bộ các tỉnh, thành, bộ là nơi sẽ có các đoàn đại biểu tới dự Đại hội 13. Và như vậy, khi Đại hội đảng CSVN 13 diễn ra, danh sách các ứng cử viên trung ương sẽ được đưa ra giới thiệu. Và các đại biểu chỉ có thể bầu cho các ứng cử viên đã được quyết định trước. Theo qui định tại khoản 1 điều 9(Điều lệ đảng CSVN) thì Cơ quan lãnh đạo các cấp của đảng do bầu cử lập ra. Khoản 2 qui định: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).” Như vậy, Ban chấp hành trung ương khóa 12 đã tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu tới dự Đại hội đảng toàn quốc 13. Trong nhiều thập kỷ qua, đã có rất nhiều nhà trí thức có tâm huyết ở trong và ngoài đảng CSVN kêu gọi những người lãnh đạo cao nhất của đảng CS tiến hành dân chủ hóa trong đảng và tiến tới dân chủ hóa đất nước. Nhưng những yêu cầu, đòi hỏi chính đáng, hợp lý của các nhà trí thức đã không được các quan chức lãnh đạo của đảng CS quan tâm. Khi bản thân đảng CSVN đang nắm quyền cai trị đất nước mà không có dân chủ ngay bên trong nội bộ của đảng thì Nhân dân Việt Nam không mong đợi gì có được tiến trình dân chủ hóa đất nước do đảng CSVN khởi xướng. Mặc dù Đại hội đảng toàn quốc XIII còn một năm rưỡi nữa mới diễn ra, nhưng gần như toàn bộ các ủy viên Ban chấp hành trung ương khóa 13 đã được qui hoạch và quyết định. Và như vậy, việc tiến hành Đại hội XIII chỉ còn là hình thức hay nói chính xác hơn là một vở kịch./.  
......

Báo Cáo Bản Tuyên Bố Chung Về Quyền Tự Do Đi Lại Bi Xâm Phạm.

Công ước quốc tế về quyền tự do đi lại Ngày 9/8/2019 BÁO CÁO VỀ VIỆC QUẢNG BÁ BẢN TUYÊN BỐ CHUNG CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO ĐI LẠI. Thưa các bạn đã tham gia ký tên và thưa bà con khắp nơi, Cho đến nay chúng tôi đã gởi Bản tuyên bố chung bằng tiếng Việt và tiếng Anh đến các sứ quán, lãnh sự quán của các nước: Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh, Pháp, Đức, New Zealand, Thụy Điển (Sweden), Thụy Sĩ (Switzerland), và Na Uy (Norway). Chúng tôi đang tiếp tục vận động để đưa văn kiện này đến các diễn đàn quốc tế về nhân quyền và đưa vào các buổi Đối thoại Nhân quyền với nhà nước Việt Nam. Các anh chị nào đã hoặc đang bị vi phạm quyền đi lại và muốn thêm tên mình vào danh sách, xin vui lòng cho biết họ tên, nghề nghiệp , nơi cư trú, khoảng thời gian bị vi phạm quyền đi lại, và gởi về địa chỉ email tudodilai2019@gmail.com Sau đây là nội dung Bản tuyên bố chung để các bạn tiện tham khảo. ==== BẢN TUYÊN BỐ CHUNG CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO ĐI LẠI. • Xét rằng: Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. • Xét rằng: Quyền con người, trong đó có quyền tự do đi lại của công dân là bất khả xâm phạm. Quyền này đã được minh định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, các Công ước Quốc Tế, và Hiến pháp Việt Nam về quyền con người. • Xét rằng: Việt Nam đã gia nhập, ký kết, và cam kết thực thi các điều ước quốc tế về quyền con người. Hiến pháp Việt Nam khẳng định quyền tự do đi lại của công dân là bất khả xâm phạm, đấu tranh bảo vệ quyền con người là quyền và trách nhiệm của Nhà nước và công dân. I. THỰC TRẠNG: Chúng tôi, những công dân Việt Nam, thường xuyên bị những người lạ mặt vô cớ ngang nhiên xâm phạm, ngăn cản thô bạo quyền tự do đi lại của chúng tôi. Hành vi này đã vi phạm nghiêm trọng quyền tự do của công dân đã được minh định trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam; Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945; Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc; các Công ước Quốc Tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết và cam kết thực hiện. Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do cơ bản của con người là nguyên tắc của mọi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quyền con người, quyền tự do đi lại của công dân đã và đang bị xâm phạm nghiêm trọng trên phạm vi cả nước. Có rất nhiều công dân bị những người lạ mặt vô cớ ngang nhiên tới ngồi trước cửa nhà ngăn cản thô bạo không cho ra khỏi nhà. Chỉ riêng tại Tp.HCM đã có khoảng 600 người. Những người lạ mặt này không xuất trình được lệnh điều động tới canh giữ chúng tôi. Trong nhiều trường hợp họ dùng những lời lẽ thô tục, vô văn hóa xúc phạm danh dự và nhân phẩm chúng tôi. Thậm chí nhiều khi họ còn dùng vũ lực ngăn cản, xâm phạm về thân thể gây tổn hại sức khỏe, đe dọa đến tính mạng chúng tôi. Những hành vi này vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam cần phải xử lý theo quy định pháp luật. II. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ: 1. Hiến pháp Việt Nam quy định: Điều 14: Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Điều 16: Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 20: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Điều 23: Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. 2. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Khoản 1, Điều 33: Cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Khoản 1, Điều 34: Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 3. Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về Tội làm nhục người khác: Làm nhục người khác được hiểu là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Người phạm tội có hành vi, bằng lời nói hoặc hành động, xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác như lăng mạ, chửi rủa, cạo đầu, cắt tóc, lột quần áo, quay hình ảnh. Người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực như bắt trói, tra khảo, đấm đá, đe dọa, ép buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình. 4. Ngoài ra, quyền con người và quyền tự do đi lại còn được minh định trong Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, các Công ước Quốc Tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và cam kết thực hiện. III. TỪ NHỮNG THỰC TRẠNG VÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ TRÊN, CHÚNG TÔI TUYÊN BỐ: 1. Chúng tôi là những công dân có đầy đủ quyền con người, quyền công dân theo luật định. Chúng tôi không bị hạn chế quyền công dân theo pháp luật Việt Nam. 2. Mọi hành vi xâm phạm quyền tự do đi lại, xâm phạm thân thể, danh dự và nhân phẩm của chúng tôi đều là những hành vi vi phạm pháp luật. 3. Để chấm dứt tình trạng ngang nhiên phạm pháp kéo dài rất lâu này, chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam thực thi đúng trách nhiệm. Hãy chỉ đạo các cơ quan chức năng gấp rút có biện pháp ngăn chặn, xử lý những người vô cớ xâm phạm quyền tự do đi lại của chúng tôi theo quy định pháp luật. 4. Nếu những người nói trên vẫn tiếp tục vô cớ xâm phạm quyền tự do đi lại của chúng tôi, chúng tôi sẽ thực hiện “Quyền phòng vệ chính đáng” theo quy định tại Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015. Mọi hậu quả gây ra do xô xát, hay gây ra án mạng thì nhà cầm quyền Việt Nam và các cơ quan chức năng phải chịu trách nhiệm. IV. KẾT LUẬN: Chúng tôi cho rằng trong thể chế “nhất thể hóa”, dưới sự lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản Việt Nam thì Luật hiến pháp được vận dụng tùy tiện theo ý chí của đảng. Hôm nay chúng tôi bị xâm phạm, ngày mai sẽ là người thân bạn bè của chúng tôi, và cuối cùng là toàn dân Việt Nam phải sống trong một nền pháp luật tùy tiện. Bằng TUYÊN BỐ CHUNG này, chúng tôi xin thông báo với đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước; Các tổ chức Nhân quyền Quốc tế và Chính phủ các quốc gia yêu chuộng công lý về thực trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam. Chúng tôi tha thiết kêu gọi các quốc gia, các tổ chức quốc tế xem quyền con người là một trong những tiêu chí không thể thiếu khi quan hệ bang giao với Việt Nam, cần có biện pháp chế tài mạnh nếu Việt Nam vi phạm các cam kết. Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam chấm dứt ngay vi phạm quyền tự do của công dân để pháp luật được nghiêm minh, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Làm tại Việt Nam ngày 24 tháng 5 năm 2019 KÝ TÊN (Signed by) 01. Lm Nguyễn Hữu Giải, Nhà Hưu dưỡng Tổng Giáo Huế. 02. Lm Nguyễn Văn Lý, Nhà Hưu dưỡng Tổng Giáo Huế. 03. Lê Bảo Nhi, nhà báo tự do, Sài Gòn. 04. Trần Bang, kỹ sư, Sài Gòn. 05. Lê Công Định, luật sư, Sài Gòn. 06. Nguyễn Hồng Quang, mục sư, Sài Gòn. 07. Nguyễn Mạnh Hùng, mục sư, Sài Gòn. 08. Phạm Ngọc Thạch, mục sư Sài Gòn. 09. Ngô Thị Thứ, giáo viên, Sài Gòn. 10. Võ Văn Tạo, nhà báo tự do, Nha Trang. 11. Đinh Đức Long, bác sĩ, Sài Gòn. 12. Nguyễn Chí Trung, buôn bán, Sài Gòn. 13. Trương Văn Kim, cựu TNLT, Lâm Đồng. 14. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, Sài Gòn. 15. Nguyễn Thị Thái Lai, TNV chương trình tri ân TPB VNCH, Nha Trang. 16. Lê Thị Ngọc Đa, dân oan, Long An. 17. Mai Thị Nguyệt, dân oan, Long An. 18. Trương Minh Tâm, dân oan, Long An. 19. Lê Xuân Lộc, linh mục, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn. 20. Nguyễn Thanh Loan, nghề nghiệp tự do, Sài Gòn. 21. Trịnh Toàn, nghề nghiệp tự do, Sài Gòn. 22. Nguyễn Ngọc Tân, nghề nghiệp tự do, Vĩnh Long. 23. Chu Vĩnh Hải, nhà báo độc lập, Bà Rịa - Vũng Tàu. 24. Đinh Quang Tuyến, nghề nghiệp tự do, Sài Gòn. 25. Phạm Ngọc Hoa, dân oan, Sài Gòn, 26. Đỗ Thị Hồng Nhung, dân oan, Sài Gòn. 27. Lê Thanh Dương, TPB/VNCH, Sài Gòn. 28. Nguyễn Thị Thanh, hưu trí, Sài Gòn. 29. Phạm Bang, nhà giáo hưu trí, Thanh Hóa. 30. Đoàn Thị Nữ, dân oan, Tiền Giang. 31. Trương Thanh Quang, dân oan, Tiền Giang. 32. Trần Thị Thảo, giáo viên hưu trí, Hà Nội. 33. Bùi Nghệ, hưu trí, Sài Gòn. 34. Vũ Mạnh Hùng, nhà giáo, Hội Giáo Chức Chu Văn An, Hà Nội. 35. Trương Văn Dũng, nghề nghiệp tự do, Hà Nội. 36. Nguyễn Thị Kim Thủy, dân oan Tiền Giang. 37. Lê Thị Ánh Nga, dân oan, Tiền Giang. 38. Phạm Thị Quẩn, dân oan, Long An. 39. Nguyễn Thị Tâm, dân oan, Long An. 40. Trần Thị Hồng, dân oan, Bến Tre. 41. Mai Bá Quang, dân oan, Bến Tre. 42. Nguyễn Thuý Hạnh, nghề nghiệp P.R., Hà Nội. 43. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Hà Nội. 44. Đặng Bích Phượng, nghỉ hưu, Hà Nội. 45. Ngô Duy Quyền, nghề nghiệp tự do, Hà Nội. 46. Lê Thị Công Nhân, nghề nghiệp tự do, Hà Nội. 47. Nguyễn Thị Tâm, dân oan Dương Nội, Hà Nội. 48. Trương Minh Hưởng, dân oan, Hà Nam. 49. Phan Trọng Khang, thương binh, Hà Nội. 50. Nguyễn Vũ Bình, nhà báo, Hà Nội. 51. Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hà Nội. 52. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư, Khánh Hòa. 53. Phạm Thành (Bà Đầm Xoè), nhà văn, Hà Nội. 54. Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà văn, Hải Phòng. 55. Cấn Thị Thêu, dân oan Dương Nội, Hà Nội. 56. Huỳnh Hoàng Nhật, nghề nghiệp tự do, Sài Gòn. 57. Trần Thị Hoàng, dân oan, Tiền Giang. 58. Nguyễn Thị Ngọc Thu, dân oan, Long An. 59. Đàm Ngọc Tuyên, nhà báo độc lập, Quảng Ngãi. 60. Trần Đức Thạch, nhà thơ, cựu TNLT, Nghệ An. 61. Phạm Đình Trọng, nhà văn, Sài Gòn. 62. Lê Phú Khải, nhà báo, Sài Gòn. 63. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội. 64. Nguyễn Văn Lịch, nghỉ hưu, Hà Nội. 65. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, Sài Gòn. 66. Nguyễn Quang A, kỹ sư, Hà Nội. Trong 3 năm bị cản trở hơn 26 lần (23 lần câu lưu). 67. Kha Lương Ngãi, thành viên CLB LHĐ, Sài Gòn. 68. Huỳnh Thục Vy, kinh doanh tự do, Đắc Lắc. 69. Nguyễn Thái Sơn, lao động tự do, Đà Nẵng. 70. Hoàng Hưng, làm báo, dịch sách, làm thơ, Sài Gòn. 71. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu. 72. Hoàng Thị Hà, giáo viên nghỉ hưu, Hà Nội. 73. Dương Thị Tân, hoạt động xã hội, cựu TNLT, Sài Gòn. 74. Lê Nguyễn Phương Trâm, giáo viên, Sài Gòn. 75. Lê Trung Hiếu, thợ nhôm kính, Đà Nẵng. 76. Phạm Văn Điệp, doanh nhân, Thanh Hóa. 77. Tuấn Khanh, nhạc sĩ, nhà báo tự do, Sài Gòn. 78. Đỗ Trung Quân, nhà thơ, Sài Gòn. 79. Lê Thân, nhà hoạt động xã hội, Sài Gòn. 80. Nguyễn Viện, nhà văn, Sài Gòn. 81. Trương Minh Tuấn, kinh doanh, Đồng Nai. 82. Trần Thị Liễu, dân oan, Tiền Giang. 83. Trần Thị Lệ Sương, dân oan, Long An. 84. Mai Thị Bé Trang, dân oan, Long An. 85. Nguyễn Thị Huyền, dân oan, Long An. 86. Nguyễn Thị Thanh Tuyền, dân oan, Long An. 87. Lê Thị Nhài, dân oan, Long An. 88. Nguyễn Thị Bé Hai, dân oan, Đồng Tháp. 89. Vi Đức Hồi, cựu tù nhân lương tâm, Lạng sơn. 90. Hà Chí Hải, tư doanh, Hà Nội. 91. Trịnh Đình Hòa, hưu trí, Hà Nội. 92. Trần Văn Toàn, nghề tự do, Hà Nội. 93. Vũ Quốc Ngữ, nhà báo tự do, Hà Nội. 94. Khúc Thừa Sơn, nhà báo tự do, Đà Nẵng. 95. Đặng Doanh, kinh doanh, Đắk Nông. 96. Ngô Thị Hồng Lâm, chuyên ngành nghiên cứu lịch sử đảng, Vũng Tàu. 97. Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư tin học, Sài Gòn 98. Nguyễn Công Thanh, lao động tự do, Sài Gòn. 99. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nhà báo, Đà Lạt. 100. Mai Văn Tám, cơ khí tư nhân, Quảng Bình. 101. Nguyễn Đình Thục, linh mục giáo phận Vinh, Nghệ An. 102. Nguyễn Văn Bạn, làm ruộng, dân oan Long An. 103. Đỗ Văn Bền, làm ruộng, dân oan, Long An. 104. Lê Thị Bảy, làm ruộng, dân oan, Long An. 105. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, Sài Gòn. 106. Trần Nam Hưng, buôn bán, Sài Gòn. 107. Đặng Thị Kinh, dân oan, Bến Tre. 108. Phạm Ngọc Thinh, dân oan, Bến Tre. 109. Võ Thị Kim Chi, làm ruộng, dân oan, Bến Tre. 110. Cao Minh, nghề nghiệp tự do, Phú Yên. 111. Nguyễn Thị Kim Chi, nghệ sĩ ưu tú, thành viên CLB-LHĐ, Sài Gòn. 112. Lã Minh Luận, nhà giáo, Hà Nội. 113. Nguyễn Trường Chinh, dân oan, Hải Dương. 114. Lê Thị Ghi, làm ruộng, dân oan, Bến Tre. 115. Lê Thị Đành, làm ruộng, dân oan, Bến Tre. 116. Nguyễn Thị Đuột, dân oan, Bến Tre. 117. Trần Thị Tràng, làm ruộng, dân oan, Bến Tre. 118. Phan Minh Hùng, cựu chiến binh, Sài Gòn. 119. Huỳnh Thị Hường, làm ruộng, dân oan, Bến Tre. 120. Hồ Thị Đậy, làm ruộng, dân oan, Bến Tre. 121. Đậu Văn Dương, cựu TNLT, Nghệ An. 122. Trần Hữu Đức, cựu TNLT, Nghệ An. 123. Huỳnh Thị Cúc, nội trợ, dân oan, Sài Gòn. 124. Nguyễn Thị Lập, buôn bán, dân oan, Sài Gòn. 125. Nguyễn Thanh Hà, nghề nghiệp tự do, Hà Nội. 126. Trịnh Bá Phương, dân oan Dương Nội, Hà Nội. 127. Vũ Văn Hùng, giáo viên mất việc, CTNLT, Hà Nội. 128. Trịnh Bá Tư, dân oan Dương Nội, Hà Nội. 129. Phan Văn Bách, lái xe taxi, Hà Nội. 130. Nguyễn Tiến Dân, nhà giáo Hội Giáo chức Chu Văn An, Hà Nội. 131. Lai Tiến Sơn, nghề nghiệp tự do, Hà Nội. 132. Nguyễn Văn Sơn, nghề nghiệp tự do, Hà Nội. 133. Nguyễn Tường Thụy, nhà báo độc lập, Hà Nội. 134. Lê Dũng, nhà báo tự do, Hà Nội. 135. Trần Thị Khánh Linh, nhà báo tự do, Hà Nội. (135 người ký tính đến ngày 20 tháng 6 năm 2019)  
......

Tang Thương Ngập Lụt Tây Nguyên

Theo tin Soha VN, đến chiều tối 10.8.2019 mưa lũ tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ trong những ngày qua đã làm 10 người chết. Cụ thể, Gia Lai 1 người, Đắk Lắk: 1 người; Đắk Nông: 5 người; Kom Tum: 2 người; Lâm Đồng: 1 người. Người bị mất tích: 1 người ở Đồng Nai và bị thương: 5 người, trong đó, Đắk Lắk: 1 người và Lâm Đồng: 4 người. Về nhà ở: 3.883 nhà bị ngập nước (Đắk Lắk: 1079 nhà, Đắk Nông: 60 nhà, Bình Thuận: 252 nhà,Lâm Đồng: 2.430 nhà...); 1.437 nhà phải di dời (Đồng Nai: 869 nhà; Lâm Đồng: 548 nhà; Đắk Lắc: 20 nhà). Về nông nghiệp: 20.976ha lúa, hoa màu bị ngập; 1.069ha cây trồng lâu năm, 2.582ha cây trồng hàng năm, 1.083ha cây ăn quả bị thiệt hại; 299 con gia súc, 120.741 con gia cầm bị chết, cuốn trôi, Bên cạnh đó, đã có 53,13km kênh bị sạt; 4 đập bị hư hỏng; 23,9km đường giao thông bị sạt lở; 5 cống và 21 cầu bị hư hỏng. Ngoài ra, đã có 142ha nuôi cá truyền thống, 4.300m3 lồng bè bị thiệt hại. Ước tính sơ bộ đợt mưa lũ này đã gây tổng thiệt hại trên 1.002 tỷ đồng. Liên quan đến sự cố hồ chứa thủy điện Đắk Kar (Đắk Nông), theo Ban chỉ đạo, sáng nay, mực nước hồ đang giảm. Cụ thể, đến 6h30 11/08 mực nước hồ ở +473,73m, giảm 4,27m so với thời điểm mực nước cao nhất và 2,22m so với sáng 10/8. Cửa tràn bên trái đã nâng được 0,8m/8,5m, cửa tràn bên phải đã nâng được 0,6m/8,5m. Trước đó, tối ngày 10/8, van xả của hồ thủy điện Đắk Kar đã được mở. Việc này đã giúp cho mực nước của lòng hồ tiếp tục giảm mạnh, dần về ngưỡng an toàn, thoát nguy cơ vỡ. **** "THIÊN ĐƯỜNG" NHƠ NHUỐC Nguyễn Quốc Việt Ai nói con ở thiên đường ? Ai khoe xã hội tình thương tràn trề? Tràn quá, tình phải vỡ đê Điên thường nó đẩy con về thiên tai Thiên tai nhờ đám "thiên tài" Ngăn dòng, đắp đập, miệt mài đốn cây Cao nguyên nước lại dâng đầy Thiên tài ngoảnh mặt, rừng thay được tiền Đô, điền... khổ bởi đồ điên Ăn tàn, phá hại...huyên thuyên "quy trình" Từ ngày xuất hiện yêu tinh Đất nước ngập ngụa, bùn sình bẩn nhơ ! ........10/08/19......NQV..... Ngai vàng Nông Đức Mạnh Gỗ quý lộng vàng quan biệt phủ Rừng thưa đồi trọc thú kêu vang Trẻ thơ phơi xác dòng lũ dữ Quê hương tan tác những đại ngàn. Ai còn thương xót mảnh dân đen Đêm ngày thấp thỏm mái tranh tàn Với bao dự án làm thủy điện Chỉ vì chăm chú gỗ rừng hoang?! Chùa to tượng lớn không che nổi Nát tan đạo lý Phật suy tàn Những nén hương to tìm cứu rỗi Chờ ngày về cho lủ tham quan. Đau xót muôn dân lòng nhỏ lệ Thương quê hương giờ lắm ngổn ngang Biển xa hải phận còn hay mất?! Non sông giờ đã thấy lụi tàn… Minh Tuấn Phạm (20190809)  Minh Tuấn Phạm Tây Nguyên  sau trận mưa. Cha tìm con khóc trong vô vọng Vợ tìm chồng trong đất đỏ bùn mưa Con bơ vơ lạc vào dòng lũ cuốn Cảnh người già rơi lệ ngồi thẫn thờ Chim tìm tổ kêu hú bầy tan tóc Lợn bò dê tan tác trôi đi rồi Cây tìm gốc, chẳng biết gốc ở nơi nào Oán thán thay kẻ ngăn sông, dựng đập Kẻ chặt cây,đốn hạ cả rừng xanh Kẻ đào nhôm ,xới tung cả Cao Nguyên Kẻ làm ngơ, cho kẻ vơ vét Kẻ vơ vét, mặc kệ dân tình Nóc nhà kia giờ là cồn trơ trụi Mưa một lần mà như mưa ngàn thế kỷ Nước bây giờ chạy tuột chảy trơ Cuốn đi bao niềm vui và nhung nhớ Để dân kia cảnh chiếu đất không nhà Oán ai đây, khi nhà chung không giữ Con một mẹ, cũng chẳng khóc than Khốn kiếp thay, kẻ lòng dạ sói đọc Tâm hoang cầm, tanh bẩn máu dân đen Biết bao thay ai mà thấu nổi Nỗi đau này biết bao giờ nguôi ngoai Kẻ hưởng lợi, người chịu đắng cay Peter An Peter An  
......

Liệu hết Hải Dương 8 sẽ tới giàn khoan Đông Phong?

Phạm Chí Dũng - VOA| Trong khi vẫn chưa biết nguyên nhân nào đã khiến Trung Quốc rút tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 ra khỏi khu vực Bãi Tư Chính vào ngày 7/8/2019, một ẩn số kèm thách thức mới dành cho giới chóp bu (chứ không phải người dân) Việt Nam là Hải Dương 8 sẽ ‘một đi không trở lại’ và đặt dấu chấm hết cho chiến dịch ‘tống tiền’ của Bắc Kinh đối với các lô dầu khí ngon lành mà Việt Nam cùng các đối tác Tây Ban Nha và Nga đang khai thác ở Bãi Tư Chính, hay chỉ là chiến thuật rút tàu tạm thời để rồi sau đó hoặc cho tàu Hải Dương 8 quay trở lại Bãi Tư Chính, hoặc thay thế tàu này bằng một tàu khảo sát địa chất khác có tầm vóc tương đương hoặc vượt trội Hải Dương 8. Rút tàu hay chuẩn bị cho kịch bản tồi tệ? Hay ứng với kịch bản được cho là tồi tệ nhất hiện nay, nếu chưa tính đến kịch bản Trung Quốc gây ra một cuộc xung đột quân sự trên biển với lực lượng tàu chiến áp đảo hải quân Việt Nam, là tàu Hải Dương 8 sẽ được thay thế bằng một giàn khoan lớn, tức ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất của Việt Nam’ chẳng còn muốn ngụy trang bằng việc thăm dò khảo sát địa chất biển nữa, mà sẽ lao thẳng vào Bãi Tư Chính nhằm ăn cướp dầu - nguồn tài nguyên thên nhiên gần như duy nhất còn lại để chính thể độ tài ở Việt Nam dùng để nuôi đảng… Vẫn chưa có gì đáng để giới chóp bu Việt Nam ăn mừng trước tin tức Trung Quốc rút tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính. Nếu kịch bản tồi tệ trên xảy ra, những quan chức Việt vẫn tụng niệm ‘Bốn Tốt’ và Mời sáu Chữ Vàng’ sẽ đối phó ra sao? Nếu chỉ với tàu Hải Dương 8 mà hải quân Việt Nam còn bất lực và Bộ Chính trị Việt Nam còn lúng túng như gà mắc tóc trên cả trường quốc tế lẫn quốc nội, thì làm cách nào có thể đẩy đuổi cả một giàn khoan khổng lồ được hộ vệ bởi hàng trăm tàu chiến của Trung Quốc? Kịch bản tồi tệ trên không phải chỉ là một dự báo mang tính phòng xa, mà trong thực tế đã có những cơ sở khá gần về tính nguy cơ và về mặt địa lý. Đông Phương có tái hiện Hải Dương 981? Vào tháng 4 năm 2019, Trung Quốc đã thình lình tung ra động thái đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Đông Phương vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông. Giàn khoan này nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá và không thua kém gì giàn khoan Hải Dương 981 mà đã ngự trị ở Biển Đông trong năm 2014. Vụ Đông Phương hờm sẵn kịch bản tái hiện hải Dương 981 hiện ra trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại). Vào thời điểm trên, chiến thuật ép và lấn từng bước của Trung Quốc là quá dễ nhìn ra: tùy thuộc vào thái độ của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình ra sao và liệu Trọng có ‘đi Trung trước, Mỹ sau’ hay không mà giàn khoan Đông Phương hoặc nằm yên ở vùng chồng lấn biển hoặc lao thẳng vào hải phận Việt Nam theo đúng cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014 - như một cú tát tai nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị ở Hà Nội, nhất là với những quan chức Việt vẫn còn mộng mị ngủ ngày mà đã biến thành cơn mê sảng bi kịch trong thói đu dây quốc tế giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Song trong vụ Hải Dương 981, nguồn cơn chính yếu lại là ‘chiến tranh dầu khí’. Vào thời điểm đó, đã xuất hiện những kế hoạch khai thác dầu khí ở giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) với những đối tác nước ngoài là Repsol (Tây Ban Nha) tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở vùng biển Đông Nam, và với Tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga tại mỏ Lan Đỏ, cũng như bắt đầu có kế hoạch thăm dò khai thác với tập đoàn dầu khí khổng lồ ExxonMobil của Mỹ tại mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi. Biến cố Hải Dương 981 đã kéo dài suốt vài tháng và gây ra một cơn chấn động lớn trong nội bộ đảng CSVN. Nhưng trong lúc toàn bộ đảng này không hề dám có một phản ứng ra mặt nào mà chỉ im thin thít, còn quốc hội cũng không phát ra nổi một nghị quyết về Biển Đông mà chỉ nói như vẹt về từ ngữ ‘tàu lạ’, hàng chục ngàn người dân Việt Nam đã rùng rùng phẫn nộ xuống đường biểu tình để phản kháng cú khiêu khích của Trung Quốc thông qua Hải Dương 981. Khi đó, một lần nữa châm ngôn ‘hèn với giặc, ác với dân’ đã ứng nghiệm: làn sóng biểu tình này đã bị chính quyền và công an Việt Nam đàn áp thô bạo và dã man. Trong suốt thời gian hai tháng trời phải đối mặt với Hải Dương 981, phía Việt Nam đã chỉ ‘vận động thuyết phục’ và đánh võ miệng trên mặt trận ngoại giao, nhưng không dám có bất cứ hành động đủ mạnh mẽ nào nhằm đẩy đuổi giàn khoan Trung Quốc. Thậm chí, cơ hội quá đầy đủ cho việc kiện Trung Quốc theo Công ước Liên hiệp quốc về luật Biển UNCLOS 1982 cũng không được giới chóp bu Việt Nam tận dụng. Rốt cuộc là giới lãnh đạo Bắc Kinh đã nắm thóp được não trạng chưa đánh đã sợ và tâm lý tác chiến đến mức ‘đái ra quần’ của những đồng chí tốt ở Việt Nam. Nhân đà đó, Hải Dương 981 đã có một màn khiêu vũ lòng vòng ở biển Đông, hết nằm một chỗ lại di chuyển vòng quanh nhưng chưa chịu ra khỏi vùng chồng lấn. Chỉ sau một thời gian diễu binh như thế, giàn khoan này mới thực sự rút về nước. Giờ đây, kịch bản Hải Dương 981 hoặc Đông Phương vẫn có thể tái hiện sau vụ tàu Hải Dương 8. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì Một cách ‘nhẹ nhàng’ nhất, cho dù tuyên bố rút Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính, Trung Quốc vẫn có thể cho tàu địa chất này xuất hiện trở lại vào bất kỳ lúc nào, hoặc thay thế Hải Dương 8 bằng những tàu Hải Dương khác, cho đến khi nào chán thì thôi. Trong lúc đó, các tàu hải cảnh, tàu dân quân biển và tàu thương mại dân sự vẫn thả sức chơi trò ‘vờn tàu’ với phía hải quân và ‘lực lượng ngư dân tự vệ’ được trang bị hàng chục ngàn lá cờ của Việt Nam, và nếu hứng thú thì tổ chức xịt vòi rồng hoặc đâm va… Đó là một kiểu hành hạ tinh thần giới chóp bu Việt Nam, hệt như cái cách chính quyền và công an Việt Nam đã hành hạ tinh thần và thân xác nhiều người dân bất đồng chính kiến lên tiếng phản đối vô số bất công của chế độ cầm quyền và dám xuống đường chống Trung cộng. Một khi bộ phim Bãi Tư Chính đã được Trung Quốc công diễn đến 3 lần trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019, thì chẳng có gì ngạc nhiên nếu cuốn phim này sẽ được tái diễn vào những năm sau, đều đặn mỗi năm một lần hoặc có thể đến hai lần. Còn nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ - như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì. Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ - đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông. Việc Bộ Ngoại giao Việt Nam mau mắn ra tuyên bố ‘tôn trọng tự do hàng hải’ - đồng thời với động thái hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Mỹ tiến vào Biển Đông - đã cho thấy ‘nghĩa cử’ không còn lựa chọn nào khác của một chế độ ‘văn dốt võ dát’.  
......

Tại Sao Trung Quốc Rút Khỏi Bãi Tư Chinh

Trung quốc cộng sản bạo ngược và nham hiểm hơn Trung quốc phong kiến. Nguyen Ngoc Chu ĐỪNG MẮC MƯU BẮC KINH THÊM MỘT LẦN NỮA 1. Nhiệt liệt hoan nghênh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, tuy số lượng ít hơn, vẫn kiên trì đeo bám tàu Hải dương 8 và đối đầu với lực lượng Hải cảnh Trung quốc trong suốt hơn một tháng qua ở vùng biển Bãi Tư chính. Sự không lùi bước của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã khẳng định 2 điều cốt lõi: Bãi Tư chính là của Việt Nam; Và Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. 2. Nhưng cũng phải nhìn thẳng vào 3 sự thật sau đây. Một là, từ 03/7/2019 – 06/8/2019 tàu Hải dương 8 đã thăm dò địa chất và thu được các dữ liệu địa chất trên một vùng biển rất rộng lớn của Việt Nam mà Việt Nam không có phương tiện để chống phá hiệu quả. Hai là, sự rút lui của tàu Hải dương 8 là thuộc quyền tự quyết của Trung Quốc; Nếu Trung quốc tiếp tục ở lại Việt Nam vẫn chưa có cách nào đuổi đi được. Ba là, Trung quốc sẽ còn đến Bãi Tư chính nhiều lần nữa theo tùy thích của Trung quốc. TẠI SAO TRUNG QUỐC RÚT KHỎI BÃI TƯ CHÍNH? Có rất nhiều nguyên nhân. Chỉ xin nêu 5 nguyên nhân chính sau đây. 1. Trung quốc đã thu được những dữ liệu địa chất cần thiết. 2. Trung quốc đã chứng minh qua hành động thực tế, chứ không chỉ tuyên bố suông, rằng Bãi Tư Chính là của Trung quốc - bằng cách ngang nhiên đưa tàu Hải dương 8 đến khảo sát nhiều ngày, đưa hàng chục tàu hải cảnh đến đi lại nghênh ngang để khẳng định chủ quyền. Như vậy Trung quốc đang trên con đường biến vùng biển Việt Nam thành vùng biển tranh chấp với Trung quốc. 3. Trung quốc đã biết được phản ứng của Việt Nam và cộng đồng quốc tế. 4. Trung quốc không muốn để Việt Nam rời xa hơn Trung quốc để nghiêng hơn về phía Mỹ. 5. Trung quốc không muốn để Việt Nam kiện Trung quốc ra Tòa án quốc tế. ĐỪNG MẮC MƯU TRUNG QUỐC CỘNG SẢN Chính quyền Bắc kinh đang chơi sách lược của kẻ cướp già đời: Vừa ăn cướp vừa la làng; Vừa đấm vừa xoa. Sự rút lui của tàu Hải dương 8 chỉ là sự rút lui chiến thuật: Đủ để cho Hà nội không kiện Bắc Kinh ra Tòa án quốc tế; Đủ để cho Hà Nội không nghiêng hẳn về Washington hay tìm kiếm thêm các đồng minh khác. Rồi Trung quốc sẽ trở lại Bãi Tư chính nhiều lần khi chúng thấy cần thiết. Bởi thế, các biện pháp cần thiết nhất trong các biện pháp là: 1. Kiện ngay Trung quốc ra Tòa án quốc tế, trước khi Trung quốc đi những nước cờ nham hiểm, kể cả rời bỏ hoàn toàn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). 2. Phải nhìn rõ bản chất của Bắc Kinh mà xác định rõ ràng mối quan hệ với Bắc kinh, và rằng dứt khoát không có gì chung ý thức hệ với Bắc Kinh. 3. Dứt khoát phải có quan hệ đồng minh với các nước khác. 4. Dứt khoát phải tìm kiếm sự ủng hộ sâu rộng của cộng đồng quốc tế. 5. Khẩn cấp tăng cường lực lượng Cảnh sát Biển, Hải quân và các lực lượng cùng phương tiện bảo vệ biển đảo khác. 6. Phải nghĩ ngay sách lược để Trung quốc không thể vào lại được Bãi Tư chính. Phải có công nghệ và phương tiện kỹ thuật để cản phá không cho Trung quốc thu được dữ liệu địa chất trong vùng biển Việt Nam ngay cả khi chúng ngang ngược xâm phạm. 7. Khẩn trương hợp tác với nước lớn để khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Trung quốc cộng sản bạo ngược và nham hiểm hơn Trung quốc phong kiến. Đừng mắc mưu Trung quốc cộng sản.
......

Dây thòng lọng tên “Bãi Tư Chính”

Ngay trong lúc ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao, nêu đích danh Trung Quốc là xâm phạm lãnh hải của Việt Nam trong phiên họp khoáng đại Ngoại Trưởng Khối ASEAN với một số Ngoại Trưởng Mỹ, Trung Quốc, Úc Châu, Tân Tây Lan, Nga… hôm 31 tháng Bảy tại Bangkok, thì Bắc Kinh đã nâng số tàu hải giám, cảnh sát biển lên gần 80 tàu quanh khu vực Bãi Tư Chính. Hành động này của Trung Quốc rõ ràng là họ không những coi thường các lên tiếng của phía CSVN, từ nhẹ là gửi công hàm phản đối lên đến mạnh hơn là tố cáo công khai Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền, mà còn bỏ ngoài tai những phản đối khác như Thông cáo chung về Biển Đông của Ngoại Trưởng Khối ASEAN, kể cả các lên tiếng chỉ trích từ Tổng Thống Trump, Bộ Ngoại Giao, và Chủ Tịch Ủy ban Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Không những thế, Bắc Kinh còn ngang ngược khẳng định rằng Bãi Tư Chính nằm trong vùng Trường Sa (mà họ gọi là Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Từ luận cứ này, Trung Quốc trơ trẽn kết án người bạn “16 vàng – 4 tốt” Việt Nam là kẻ đã xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc. Thái độ của Trung Quốc đã quá rõ ràng. Họ chủ trương cướp Bãi Tư Chính như đã từng cướp Hoàng Sa năm 1974 cùng 7 đảo và bãi đá chìm của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa năm 1988, và cướp Scarborough của Phi Luật Tân năm 2012. Có 2 lý do khiến Trung Quốc sẽ ra tay lần này: Một, sự bế tắc đàm phán với Hoa Kỳ và nhất là biến động kéo dài bất ngờ tại Hong Kong đã cảnh báo cho họ Tập thấy là dân chúng Hoa Lục đang mất kiên nhẫn chờ đợi và có thể bộc phát thành làn sóng chống đối. Họ Tập phải làm dậy sóng ở Biển Đông để dùng nó như một lý cớ siết chặt nội bộ, vừa tạo mục tiêu chiến tranh với thế lực bên ngoài để lèo lái sự phẫn nộ của người dân vào một mục tiêu khác, và để phục hồi tư thế của mình trước những biến động mang tính thách đố quyền lực. Nói cách khác, việc chiếm Bãi Tư Chính là thủ thuật nhằm bảo vệ “quyền lực độc tôn” của họ Tập trong lúc nội bộ phân hóa vì cuộc thương chiến với Mỹ. Hai, sự thủ lợi của CSVN trong cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, sẽ tạo cơ hội cho Hà Nội thoát Trung, đi gần với Hoa Kỳ. Đây là điều mà họ Tập không muốn vì sẽ phá đổ chiến lược và tham vọng “đại cục” vốn kiềm chế Hà Nội từ năm 1990 đến nay. Vì thế, việc các quan chức bên Bộ Ngoại Giao CSVN đã hợp xướng cùng với Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ sự xâm phạm của Trung Quốc lần này đã làm cho Bắc Kinh càng phải leo thang sự hiện diện ở Bãi Tư Chính. Nhìn thấy rõ dã tâm của Tập Cận Bình như vậy, Việt Nam sẽ không chỉ mất Bãi Tư Chính mà sẽ còn mất nhiều biển đảo và lãnh thổ khác, nếu tiếp tục thái độ nhu nhược của lãnh đạo CSVN như hiện nay. Đừng sai lầm nghĩ rằng việc lãnh đạo Hà Nội lên tiếng mạnh mẽ phản đối Trung Quốc, và nhất là nộp đơn kiện Bắc Kinh ra Tòa Án Trọng Tài Liên Hiệp Quốc về Biển Đông, là ngã theo Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc. Hãy chấm dứt não trạng “du dây” với chủ trương “ba không” trong quan hệ chiến lược với các quốc gia. Thử hỏi trong số 12 quốc gia mà Việt Nam nâng lên tầm “đối tác chiến lược” đã có quốc gia nào lên tiếng hậu thuẫn mạnh mẽ các quan điểm của Việt Nam đối với các vi phạm của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính, ngoài Hoa Kỳ. Muốn bảo vệ Bãi Tư Chính và cho thấy sức mạnh của Việt Nam, lãnh đạo CSVN hãy chấm dứt tư duy nô lệ và để cho người dân Việt Nam bảo vệ lãnh hải bằng chính ý chí và lòng yêu nước. Hà Nội phải coi cuộc thương chiến Mỹ Trung là cơ hội để Việt Nam bước ra khỏi cái bóng “đại cục”. Muốn làm được điều này, những hành động tối thiểu sau đây phải được chuyển động gấp. Thứ nhất, phải thiết lập hồ sơ và nộp đơn kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng Tài Liên Hiệp Quốc càng sớm càng tốt. Thứ hai, phải trả tự do ngay tức khắc những tù nhân lương tâm đã bị bắt giữ và bị đàn áp chỉ vì họ đã dám đứng lên chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Đây là điều kiện tiên quyết để cho thấy Hà Nội muốn bước ra khỏi bóng đen “đại cục” Thứ ba, phải chấm dứt việc theo dõi, ngăn chặn và trù dập những đồng bào, trí thức, thanh niên sinh viên… yêu nước kêu gọi nhau tụ họp trước tòa đại diện của Trung Cộng để phản đối hành vi xâm lược. Hà Nội còn phải có bổn phận giúp cho các nhân sĩ, trí thức tổ chức những buổi đàm thoại về tình hình Biển Đông và góp ý cùng nhau bảo vệ sự toàn vẹn biển đảo và lãnh thổ. Tóm lại, thách thức tại Bãi Tư Chính lần này ở tầm mức rất nghiêm trọng, nhưng đã mở ra cho lãnh đạo Hà Nội một cơ hội để trở về với dân, đứng cùng với dân trong một chiến tuyến chống kẻ xâm lược bá quyền Trung Quốc. Chỉ trong thế toàn dân và khai dụng thế liên minh với các quốc gia bạn, Việt Nam mới chứng tỏ được sức mạnh đối đầu để ngăn chặn được bước chân xâm lược ngông cuồng của Trung Quốc. Nếu không, những biến động tại Bãi Tư Chính có thể biến thành dây thòng lọng siết cổ chế độ CSVN một khi bá quyền Bắc Kinh nổi giận và chính người dân Việt Nam vùng lên cứu quốc. Bài học lịch sử chống quân xâm lược chưa hề phai trong tâm trí người Việt. Trung Điền
......

Việt Nam có mạnh lên nhờ ‘hợp tác quốc phòng’?

Mạnh Kim – VOA Khó có thể nói chính quyền Việt Nam không làm gì trước sự đe dọa và lấn lướt của Trung Quốc ở biển Đông. Hợp tác quốc phòng là một trong những chính sách lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này dường như có gì không ổn… Asia Times (1-8-2019) cho biết, ngày 5-8-2019, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) ký thỏa thuận mới về quốc phòng, trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng (thỏa thuận thứ tư mà EU ký với một quốc gia Đông Nam Á – sau Úc, New Zealand và Hàn Quốc). Tháng 4-2019, Jean-Christophe Belliard, Bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao EU, đến Hà Nội gặp Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh. Tháng 5, ông Vịnh sang Brussels họp, theo lời mời Claudio Graziano – Chủ tịch Ủy ban Quân sự EU. Cũng trong tháng 5-2019, cuộc họp đầu tiên trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác và đối tác toàn diện EU-Việt Nam cũng được tổ chức… Xét ở cấp độ song phương với các thành viên EU riêng lẻ, Việt Nam và Pháp cũng “nâng cấp” quan hệ quốc phòng. Hai nước ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 2009 và bắt đầu chương trình Đối thoại chính sách quốc phòng cuối năm 2016. Cuộc họp cấp thứ trưởng về an ninh-quốc phòng giữa Việt Nam và Pháp đầu tiên đã được tổ chức vào tháng 9-2018, với kết quả hai bên lập ra các “sáng kiến quốc phòng song phương” đến năm 2028. Ngày 28-5-2019, khu trục hạm Pháp FS Forbin cập cảng Hiệp Phước (huyện Nhà Bè, Sài Gòn). Đây là “hoạt động thăm viếng” đầu tiên bằng hình thức này của Hải quân Pháp với Việt Nam. Không quốc gia phương Tây nào mà Việt Nam xây dựng quan hệ quốc phòng mạnh bằng với Mỹ. Từ năm 2008, hai nước đã tiến hành các cuộc đối thoại quốc phòng-an ninh-chính trị hàng năm giữa hai Bộ Ngoại giao. Đến năm 2010, các cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa cấp cao quân đội hai nước bắt đầu được thực hiện. Tính đến cột mốc ngày 16-12-2013, khi Ngoại trưởng John Kerry và đồng cấp Phạm Bình Minh ra thông cáo báo chí chung tại Hà Nội trong đó có có đoạn “Hôm nay tôi rất vui mừng loan bố khoản viện trợ Mỹ trị giá 32,5 triệu USD cho lực lượng cảnh sát biển các nước Đông Nam Á” (trong đó có 18 triệu USD cho Việt Nam), quan hệ quân sự Việt-Mỹ đã tiến một bước dài. Một tháng sau tuyên bố “Mỹ có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải tại biển Đông” của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Hà Nội, ngày 10-8-2010, khu trục hạm USS John McCain đã xuất hiện tại Đà Nẵng. Hai ngày trước đó, một nhóm quan chức Việt Nam cũng được chở ra hàng không mẫu hạm USS George Washington… Trước đó, quan hệ quân sự hai bên bắt đầu bằng những bước dò đường. Năm 2000, William Cohen trở thành bộ trưởng quốc phòng Mỹ đầu tiên đến Hà Nội. Năm 2003, tàu chiến Mỹ bắt đầu ghé thường niên các cảng Việt Nam. Tháng 12 cùng năm, tướng Phạm Văn Trà kinh lý Mỹ. Tháng 6-2006, Bộ trưởng Donald Rumsfeld đến Hà Nội. Năm 2007, Nội các Bush điều chỉnh Luật mua bán vũ khí quốc tế (ITAR) nhằm cho phép cấp “giấy phép việc xuất nhập khẩu các hạng mục quốc phòng không sát thương” theo từng trường hợp. Tháng 6-2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kinh lý Mỹ. Hai bên đồng ý tổ chức thường niên các cuộc đối thoại an ninh-chiến lược cấp thứ trưởng và trợ lý thứ trưởng. Cuộc đối thoại đầu tiên được tổ chức tại Washington vào tháng 10 cùng năm. Tháng 12-2009, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đi Mỹ. Tháng 6-2012, Bộ trưởng Leon Panetta qua Việt Nam… Chuỗi sự kiện liên quan quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt sau đó có thể được tóm tắt bằng loạt ghé thăm của tàu chiến Mỹ và việc mở cửa quân cảng Cam Ranh cho tàu Mỹ vào sửa chữa bảo trì. Giới chức quân sự Việt Nam cũng nhiều lần được chở ra thăm các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên gửi quan sát viên tham dự cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương. Tháng 6-2013, tướng Đỗ Bá Tỵ đến Lầu năm góc (vài tuần trước chuyến ghé Nhà trắng của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang). Tháng 10-2013, Việt-Mỹ tổ chức hai cuộc họp thường niên quan trọng về an ninh: Đối thoại quốc phòng-an ninh-chính trị lần thứ 6; và Đối thoại chính sách quốc phòng lần thứ 4… Gần đây hơn, tháng 4-2019, Philip Davidson, chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn-Thái Bình Dương của Mỹ, đã đến Việt Nam. Năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis đến Việt Nam không chỉ một mà là hai lần (tháng 1 và tháng 10). Và trước khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng vào tháng 5-2018, tháng 10-2017, Nguyễn Chí Vịnh đã trở thành quan chức cao cấp nhất của Việt Nam đặt chân lên chiến hạm này (vài ngày sau khi Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Phạm Quang Vinh, tham quan hàng không mẫu hạm USS George H.W. Bush tại Norfolk, bang Virginia)… Vấn đề cần chú ý không chỉ là những cuộc tiếp xúc, ký kết, trao đổi… liên quan hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với phương Tây. Trong thực tế, hầu hết các cuộc mở rộng hợp tác quốc phòng dường như vẫn giới hạn ở khuôn khổ đối ngoại hơn là “có thực chất”. Chúng truyền tải những thông điệp nhằm cho Bắc Kinh thấy Việt Nam luôn xoay chuyển ứng biến trước mối đe dọa Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Việt Nam ráo riết và tích cực trong việc “thắt chặt”, “nâng cấp” và “đi vào chiều sâu” trong các quan hệ quốc phòng với các nước dường như vẫn không đủ để làm Trung Quốc… “sợ”. Chính sách quốc phòng Việt Nam có lẽ không đạt hiệu quả đủ mạnh để Trung Quốc có thể “ngán”, đặc biệt khi Hà Nội vẫn chưa dám bước sang “lằn ranh” để đưa quan hệ Mỹ-Việt trở thành “đối tác chiến lược”. Theo công thức đối ngoại Việt Nam, quan hệ ngoại giao được thiết lập theo các cấp độ: thấp nhất là “đối tác”, rồi “đối tác toàn diện”, “đối tác chiến lược”, và cao nhất là “đối tác chiến lược toàn diện”. Cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn đặt Mỹ ở cấp độ “đối tác toàn diện” (ký kết vào tháng 7-2013). Trong khi đó, tính đến thời điểm này, Việt Nam đã ký kết “đối tác chiến lược” với 16 quốc gia (Nga-2001; Nhật-2006; Ấn Độ-2007; Trung Quốc-2008; Hàn Quốc và Tây Ban Nha-2009; Anh-2010; Đức-2011; Pháp, Indonesia, Ý, Singapore, Thái Lan-2013; Malaysia và Philippines-2015; Úc-2017). Các quan hệ này đã được điều chỉnh theo thời gian. Năm 2009, quan hệ với Hàn Quốc được nâng lên “đối tác hợp tác chiến lược”; năm 2014, quan hệ với Nhật được nâng lên “đối tác chiến lược mở rộng”; năm 2012, quan hệ với Nga thành “đối tác chiến lược toàn diện” và tương tự với Ấn vào năm 2016. Với Trung Quốc, Hà Nội đã nâng lên đến cấp độ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, vào năm 2009. Như vậy, xét theo chính sách ngoại giao Hà Nội, Trung Quốc hiện là “đối tác” quan trọng nhất; trong khi Mỹ là “ít quan trọng nhất” (cùng chung “hạng” với Argentina, Brazil và Bồ Đào Nha!), thậm chí Mỹ còn kém hơn Myanmar, nước mà Hà Nội xếp vào nhóm “đối tác hợp tác toàn diện” hồi năm 2017. Có gì khác nhau giữa “đối tác toàn diện” và “đối tác chiến lược”? Trả lời phỏng vấn báo Chính Phủ (14-12-2015), ông Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Học viện Ngoại giao, giải thích: “Đối tác chiến lược có đặc điểm nổi bật là không chỉ có sự hiểu biết lẫn nhau sâu sắc, mà hai bên còn có lòng tin chính trị ở mức cao. Giữa hai nhà nước, giữa lãnh đạo cấp cao thường xuyên có trao đổi, thăm viếng lẫn nhau. Giữa hai nước hình thành nên các cơ chế hợp tác toàn diện, trong đó ưu tiên cho một số lĩnh vực hợp tác chiến lược… Còn đối tác toàn diện ở cấp độ thấp hơn một chút, chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh hợp tác toàn diện, cùng có lợi. Nói tóm lại, đối tác chiến lược có ý nghĩa quan trọng cả về chính trị và các cơ chế hợp tác cùng có lợi, trong khi đối tác toàn diện chủ yếu tập trung vào khía cạnh hợp tác cụ thể”. Theo đó, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đặt trên cơ sở “có lòng tin chính trị ở mức cao”; trong khi Việt Nam với Mỹ là “hợp tác toàn diện, cùng có lợi”. Trong thực tế, ngôn ngữ dùng để “minh họa” cho quan hệ Việt-Trung mà giới ngoại giao-viên chức Việt Nam sử dụng luôn vượt khỏi khuôn khổ ngoại giao bình thường. Nó luôn được trang điểm bằng những từ vựng màu mè nhất có thể và nó đã là thứ sáo ngữ quen thuộc được dùng xuyên suốt từ thời Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông đến nay. Tháng 5-2019, tại Hà Nội, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tiếp đồng cấp Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa. Báo Nhân Dân (27-5-2019) cho biết, hai bên đã “tập trung đánh giá kết quả triển khai Nghị định thư về hợp tác quốc phòng song phương năm 2003, Tuyên Bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025 của Bộ Quốc phòng hai nước đã ký năm 2017… Nổi bật là, hoạt động tiếp xúc cấp cao và các chuyến thăm của lãnh đạo quân đội hai nước được thúc đẩy duy trì thường xuyên; một số cơ chế hợp tác được thiết lập, mở rộng về nội dung và hình thức như: Đối thoại Chiến lược quốc phòng, giao lưu sĩ quan trẻ, tuần tra liên hợp trên Vịnh Bắc Bộ, giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới, hợp tác công tác đảng, công tác chính trị, đào tạo; hợp tác giữa các quân khu giáp biên giới hai nước”… Hai bên cũng “xác định”, rằng “năm 2019 là năm bản lề mang tính đột phá trong quan hệ hai quân đội hướng tới chào mừng 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước vào năm 2020. Trong đó, thống nhất, thời gian tới tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng trên các lĩnh vực: công tác đảng, công tác chính trị; hoàn thành các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử, phim tài liệu; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực quân y; hợp tác giữa các quân chủng Hải quân, Phòng không – Không quân, lực lượng bảo vệ biên giới, công nghiệp quốc phòng, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới Chương trình Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới và quan hệ giữa các quân khu, biên phòng, Hải quân, Không quân của Việt Nam với Chiến khu Miền Nam của Trung Quốc…”. Chưa bao giờ có bất kỳ thỏa thuận hợp tác quốc phòng nào giữa Việt Nam với các nước lại “toàn diện” như những gì Việt Nam “cam kết” với Trung Quốc. Do đó, cho dù có tổ chức bao nhiêu cuộc gặp với giới chức quân sự phương Tây, cho dù đón bao nhiêu tàu chiến Mỹ, cho dù mua bao nhiêu vũ khí, Việt Nam vẫn không thể xây dựng được niềm tin với các “đối tác” và khiến cho Trung Quốc chùn tay. Việt Nam không thể vừa là đối thủ quân sự “đáng sợ” khi mà Việt Nam cùng lúc nằm chung “chiến hào” với chính “đồng chí” vốn to khỏe hơn gấp nhiều lần. Những thông điệp “hợp tác quốc phòng với EU” hay cái bắt tay với tướng lĩnh Mỹ dường như cũng chỉ là những tín hiệu để mặc cả giúp hạn chế bớt cái nút thắt của sợi thòng lọng Trung Quốc. Một khi Việt Nam còn chưa nhận ra vấn đề chủ quyền và tương lai dân tộc không phải nằm ở cái gọi là “lời nguyền địa lý” mà chính là “lời nguyền thể chế” thì mọi nỗ lực vận động đối ngoại và hợp tác quốc phòng cũng chỉ là những thông điệp có “hàm lượng” “răn đe” nhẹ đến mức không đủ để làm gợn nổi một ngọn sóng biển Đông./.  
......

Công an giải tán cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người dân Hà Nội

Cô Nguyễn Thúy Hạnh tham gia biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ngày 6 tháng 8 ở Hà Nội Lực lượng công an xuất hiện và yêu cầu nhóm 10 nhà hoạt động thuộc nhóm NO-U biểu tình trước Đại sứ Quán Trung Quốc ở Hà Nội hôm 6 tháng 8để phản đối việc Bắc Kinh tiến hành hoạt động thăm dò trên vùng biển chủ quyền Việt Nam. Ảnh Cô Thao Teresa   tham gia biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ngày 6 tháng 8 ở Hà Nội Sự việc diễn ra trong vòng 20 phút trưa ngày 6/8/2019, không có hành động bắt bớ nào đến từ lực lượng an ninh diễn ra như thường thấy. Tin từ trong nước cũng như của hãng Reuters loan đi thì vào giờ gần trưa ngày 6/8/2019, một số người dân bao gồm các nhà hoạt động dân sự tiến hành căng băng rôn, hô khẩu hiệu chống Bắc Kinh ngay trước Tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Băng rôn có nội dung cụ thể "Yêu cầu chính phủ Việt Nam nộp đơn kiện Trung Quốc lên tòa quốc tế". Ngoài ra những người tham gia biểu tình hô vang các khẩu hiệu: "Hoàng Sa, Việt Nam! Trường Sa, Việt Nam! Đả đảo Trung Quốc xâm lược Bãi Tư Chính!"... Chị Hoàng Thị Hồng Thái, một người tham gia biểu tình cho Đài Á Châu Tự Do biết: “Các anh chị rất bức xúc trước việc Trung Quốc đang gây hấn ở Biển Đông và  họ cũng rất bức xúc việc chính phủ Việt Nam không có thái độ dứt khoát về điều đó. Thành ra có những anh chị như Thảo Teresa, anh Hưng, anh Lê Hoàng, Phương và mấy người nữa đến. Mục đích của cuộc biểu tình bất ngờ hôm nay là muốn chính phủ Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về điều đó.” Anh Lê Hoàng thì cho biết thái độ của lực lượng an ninh đối với những người tham gia biểu tình vào ngày 6 tháng 8 ở Hà Nội: “Họ có ra và ý họ cũng như bảo thôi, không cho thể hiện như thế nữa. Lần này họ cũng ôn hòa chứ không như những cuộc biểu tình trước là giật băng rôn, khẩu hiệu, máy quay hay che bằng ô. Những hành động như thế rất là vô lý nhưng hôm nay theo tôi nghĩ chắc cũng có gì đó. Thực ra cũng là lòng dân nên họ cũng chỉ xua và nói thôi thôi.” Trong thực tế, tàu khảo sát thăm dò dầu khí Hải Dương Địa Chất số 8 cùng đội tàu hộ tống của Trung Quốc trong một tháng qua tiến hành thăm dò trái phép trong vùng biển Việt Nam gây nên đối đầu giữa 2 nước. Hôm 5/8, Cục Hải sự đảo Hải Nam thông báo sẽ cho quân đội tập trận ở vùng biển Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Thông tin mới nhất được Giáo sư Carl Thayer thuộc Trường Đại học New South Wales, đưa trên Twitter hôm 3 tháng 8 cho thấy Trung Quốc đã điều 35 tàu các loại vào vùng biển Việt Nam, trong này có những tàu trang bị vũ khí hạng nặng. Lúc đỉnh điểm số tàu lên đến 80 chiếc. Trước đó, hôm 30/7, truyền thông Ấn Độ dẫn các nguồn tin ngoại giao khác nhau cho biết phía Việt Nam đã thông báo cho Ấn Độ về những căng thẳng ở Bãi Tư Chính và xác nhận đã có khoảng 35 tàu Trung Quốc có mặt ở khu vực này. Đây cũng là khu vực gần những lô dầu khí mà Việt Nam đã cho Ấn Độ khai thác. Theo các thông tin đã được nhiều nguồn xác định, vào tháng 5 vừa qua, công ty Rosneft của Nga đã ký hợp đồng với một công ty Nhật Bản để giàn khoan Hakuryu 5 tiến hành khoan ở lô 06.1 ở bể Nam Côn Sơn. Hai tàu hậu cần của Việt Nam thường xuyên đi lại giữa Vũng Tàu và lô 06.1 để cung cấp hậu cần cho giàn khoan. Bộ Ngoại giao Trung Quốc mới đây cho biết từ tháng 5, Trung Quốc đã yêu cầu Việt Nam không được khoan dầu. Trung Quốc coi toàn bộ vùng nước và các thực thể nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này vẽ ra ở Biển Đông thuộc ‘vùng nước lịch sử’ của Trung Quốc. Bãi Tư Chính với lô 06.1 nằm trong khu vực này, dù bãi này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam căn cứ theo Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982. Theo Trang Minh Bạch Hàng Hải, từ ngày 16/6, tàu Hải cảnh Haijing 35111 đã đi vào gần khu vực lô 06.1 nằm ở phía tây bắc Bãi Tư Chính. Tàu này luôn đi gần các tàu hậu cần của Việt Nam nhằm đe dọa các tàu này. Ngày 2/7, tàu 35111 thậm chí đi với tốc độ nhanh và chỉ cách các tàu hậu cần của Việt Nam khoảng 100 mét mỗi tàu. Ngày 3/7, Trung Quốc điều tàu Hải Dương 8 được hộ tống bởi 4 tàu Hải Cảnh và một tàu dân binh, trong đó có tàu Hải cảnh 3901 là tàu hạng nặng cỡ 12.000 tấn tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính. Đối mặt với các tàu Trung Quốc vào lúc đó chỉ có 4 tàu Cảnh sát biển của Việt Nam. Trong khi tại khu vực Bãi Tư Chính đang có căng thẳng như vừa nêu thì tin cho hay  nhóm tàu tác chiến của Hoa Kỳ dẫn đầu bởi hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan vào ngày 5 tháng 8 tiến vào vùng biển của Philippines. Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan hiện là một trong những tàu sân bay lớp Nimitz của Hải quân Hoa Kỳ. Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan từng là chiến hạm lớn nhất của Mỹ cho đến năm 2017 khi Hàng không mẫu hạm USS Gerald Ford xuất hiện; tuy nhiên đến nay USS Gerald Ford vẫn chưa được triển khai.  
......

Khi đảng cần xương máu của dân với luận điệu: “vận nước không của riêng ai”.

Bạch Hoàn Thật kỳ lạ. Người ta đang đặt trách nhiệm lên vai người dân rằng “vận nước không của riêng ai”, nghĩa là lúc nghĩ đến nguy cơ xung đột, cần tiền và máu, cần mất mát và khổ đau thì người ta tìm đến dân để nói đất nước này không của riêng ai. Đất nước không của riêng ai, vận nước không của riêng ai, nhưng người dân có được biết đầy đủ về những gì đang xảy ra trên đất nước khốn khổ này không? Đất nước không của riêng ai, vận nước không của riêng, nhưng ai đang xài xể tài nguyên, ai đang cào cấu và vơ vét nguồn lực quốc gia, bao nhiêu người được lợi và bao nhiêu triệu người phải chịu đựng hậu quả? Liệu người ta có dám nói đất nước không của riêng ai với những người dân Hà Tĩnh sau thảm hoạ Formosa không? Liệu người ta có dám nói vận nước không của riêng ai với người dân Bình Thuận xuống đường biểu thị lòng yêu nước khi Quốc hội mang dự Luật Đặc khu ra hăm he thông qua và rồi họ bị những tay bồi bút chụp mũ là một lũ nghiện ngập, là phá hoại không? Liệu người ta có dám nói đất nước không của riêng ai với người dân Văn Giang, Dương Nội, với người dân Thủ Thiêm, với những mảnh đời vất vưởng Vườn Rau Lộc Hưng, với những người đã mất đất mất nhà vào tay những dự án của ông này bà kia trên khắp đất nước này không? Liệu người ta có dám nói vận nước không của riêng ai với những người người dân yêu nước bị chụp mũ nhận 300.000 đồng khi xuống đường vì lo cho vận mệnh quốc gia không? Liệu người ta có dám nói đất nước này không của riêng ai với những người có lý tưởng, có khát khao xây dựng đất nước này đã bị đánh đập, bỏ tù? Liệu người ta có đủ can đảm để nói đất nước không của riêng ai với tử tù Đặng Văn Hiến hay không? Nếu có đủ độ dày mặt để nói đất nước không của riêng ai, vận nước không của riêng ai với những người dân khốn cùng ấy, nếu trơ lì được tới mức đó thì hãy mở miệng nói với những người còn lại.  
......

Nguy Hiểm Tột Cùng

Kao Phú CÁC BẠN có biết tại sao TQ quyết liệt giành thầu đường cao tốc bắc nam ko? - Các bạn nghĩ nó cần mấy tỷ đô lời lãi ư? Muỗi! - Các bạn sợ nó sẽ dây dưa kéo dài phá kinh tế ta ư? Chuyện vặt! ... ...! Nguyên nhân chính và thật kinh khủng là đây nè: DỌC ĐẤT NƯỚC TỪ Lạng sơn đến Cà mau hơn 2.000 km cao tốc, theo luật cứ 70 km được đặt một trạm thu phí (BOT). Đương nhiên, TQ đầu tư thì người TQ phải thu phí. Mỗi trạm thu phí có ít nhất 100 đến 200 nhân viên từ TQ sang. Nó có quyền xây một khu nhà ở cho nhân viên trú ngụ. Mỗi khu nhà ở ấy, chỉ sau ít năm lấy vợ, sinh con đẻ cái sẽ biến thành làng TQ. Làng ấy sẽ có trường học, trạm xá, khu phố xóm ấp riêng... kiểu TQ. - Khi bình thời làng ấy là ổ gián điệp thu lượm tin tức. - Khi có chiến tranh, làng ấy biến thành trạm trung chuyển vũ khí, trạm giao liên, thành pháo đài bắn ra từ trong ruột gan mình thì chống thế nào? Nhất là chiến tranh trực diện với TQ thì lúc ấy đỡ làm sao...? Trời ơi! Nghĩ đến thôi đã sợ dựng cả tóc gáy. NGUY HIỂM TỘT CÙNG! Hỡi những người tử tế của bộ giao thông! Các bộ Công an, BỘ QUỐC PHÒNG, Đảng và Chính phủ ơi...!!!??? PHỤ LỤC - Đường cao tốc bắc nam đang được phát ngôn của bộ GT hướng rằng chỉ Nhà thầu TQ mới đủ năng lực xây dựng. Xin hỏi vài điều: - Đường sắt Cát linh Hà đông, Apatit Lao cai, Gang thép Thái nguyên... do nhà thầu nào? Thi công tiến độ, chất lượng... ra sao? - TQ trúng thầu ta có cản được họ đưa máy móc thiết bị cũ kỹ mà họ đã đào thải vào VN ko? Có cấm hoặc hạn chế được công nhân TQ tràn vào ko? - Nếu họ cứ chây ì kéo dài 15 - 20 năm chưa xong như Cát linh Hà đông thì bộ GT làm thế nào? Kinh tế VN ngóc lên bằng cách nào? ... ...? - Nhìn trên bản đồ thì cao tốc rất tiện cho xe tăng tràn vào. Với tốc độ 80km/h, đánh từ Lạng sơn đến Cà mau chỉ 30 tiếng. Từ các trạm BOT nống ra theo chiều ngang cả nước khoảng mươi tiếng nữa...
......

Sau hí hửng EVFTA, chóp bu CSVN phải đối mặt với điều gì?

Ông Nguyễn Văn Đài (thứ hai từ phải) khi đến Brussel, Vương quốc Bỉ trong trong hai ngày 9 và 10 Tháng Bảy để vận động các nghị sĩ trong Nghị Viện Âu Châu quan tâm đến tình trạng nhân quyền rất xấu tại Việt Nam trước khi xem xét thông qua EVFTA. (Hình: Viettin.de) Phạm Chí Dũng – Người Việt   Sau cơn đắc chí được ký kết không chỉ EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Châu Âu-Việt Nam) mà còn cả EVIPA (Hiệp Định Bảo Hộ Đầu Tư Với Liên Minh Châu Âu) tạm lắng xuống, giờ đây chính thể độc tài Việt Nam có lẽ không còn quá hí hửng khi nhận ra họ mới chỉ bò được một đoạn trong số những đoạn đường để mới có thể “ăn” được hai hiệp định thương mại mang tính cứu cánh chế độ chính trị đó.   Cửa ải mới   Ngay trước mắt là một cửa ải mới: làn sóng vận động trong giới nghị sĩ Châu Âu – nhằm gây áp lực chính thể Việt Nam phải cải thiện nhân quyền – đang hình thành một cách có hệ thống và có trách nhiệm. Làn sóng này được cung cấp thông tin, xúc tác và hỗ trợ bởi nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và người Việt hoạt động về nhân quyền trên thế giới.   Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài, người được trả tư do trước thời hạn vào năm 2018, bị chính quyền Việt Nam tống xuất ra nước ngoài và hiện đang cư trú ở Đức, cho biết có tới gần 60% số nghị sĩ được bầu mới trong cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu vào Tháng Năm, 2019. Phần đông các nghị sĩ này không thích các chế độ Cộng Sản, đặc biệt họ rất phẫn nộ khi nghe tới các vi phạm nhân quyền.   Cần nhắc lại, nghị viện Châu Âu đã được bầu cử lại với nhiều gương mặt nghị sĩ mới thay thế cho những nghị sĩ cũ. Gương mặt mới lại đại diện cho quan điểm và cách nhìn mới về các vấn đề quốc tế, trong đó có vấn đề Việt Nam và tình trạng vi phạm nhân quyền cực kỳ trầm trọng tại đất nước bị ví là “lệ tuôn hình chữ S” này.   Vào gần trung tuần Tháng Bảy, 2019, tức chỉ ít ngày sau khi Liên Minh Châu Âu (EU) và Hà Nội ký hai hiệp định EVFTA và EVIPA, nhóm vận động của Luật Sư Nhân Quyền Nguyễn Văn Đài đã đến thủ đô Brussels của Vương Quốc Bỉ, nơi đặt trụ sở của EU. Nhóm này đã gặp các nghị sĩ đang làm việc trong lĩnh vực nhân quyền và thương mại, đặc biệt có sự hiểu biết và quan tâm đến nhân quyền tại Việt Nam và cũng có ảnh hưởng tới các nghị sĩ khác trong nghị viện Âu Châu. Trong số đó có Nghị Sĩ Pascal Durand đại diện của CH Pháp, Nghị Sĩ Ismael Ertug và Nghị Sĩ Anna Cavazzini đại diện của CHLB Đức, Nghị Sĩ Miapetra Kumpula Natri đại diện của Phần Lan, Nghị Sĩ và là Tân Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Quyền Maria Arena đại diện của Vương Quốc Bỉ, cô Miriam Lena Horn cố vấn chính sách thương mại cho Nghị Sĩ Joachim Schuster.   Khi nghe nhóm của Luật Sư Nguyễn Văn Đài trình bày về những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, sự hủ bại, tham nhũng của chế độ Cộng Sản, đặc biệt là việc đàn áp các tù nhân lương tâm trong các nhà tù, các nghị sĩ đều rất bất bình, thậm chí phẫn nộ. Các nghị sĩ đều hứa sẽ quan tâm đặc biệt tới tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và cũng sẽ chia sẻ thông tin với các đồng nghiệp của họ. Các nghị sĩ sẽ chuyển các câu hỏi và các yêu cầu để phái đoàn của Ủy Ban Thương Mại EU chất vấn nhà cầm quyền CSVN trong chuyến làm việc ở Việt Nam dự kiến vào Tháng Mười tới đây.   Cũng theo Luật Sư Đài, tân Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Quyền Maria Arena đã hứa sẽ tổ chức buổi điều trần về nhân quyền Việt Nam để giúp các nghị sĩ trong nghị viện Âu Châu hiểu rõ hơn về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và để họ có quyết định đúng đắn về EVFTA.   Nghị quyết 2018/2925 (RSP) sẽ bị vô hiệu?   Để EVFTA được thông qua, chỉ cần có sự chấp thuận của các cơ quan như Ủy Ban Thương Mại Châu Âu, cộng đồng Châu Âu và cuối cùng là nghị viện Châu Âu. Nhưng tỷ lệ áp đảo hơn 60% nghị sĩ Châu Âu với những gương mặt mới là một ẩn số không thể đoán định trước. Nếu chính thể Việt Nam đã có thể vận động được một số nghị sĩ Châu Âu trong nghị viện cũ nhằm ký kết EVFTA và EVIPA, tương lai những nghị sĩ mới có bỏ phiếu thông qua hay không đối với hai hiệp định này là không thể biết trước, và Hà Nội cũng không có nhiều thời gian để lân la làm quen lẫn lobby hành lang như cái cách mà họ đã làm đối với Eurocham (Phòng Thương Mại Châu Âu) ở Hà Nội và lợi dụng cơ quan này để bắc cầu lobby một số nghị sĩ trong nghị viện Châu Âu (cũ).   Còn với EVIPA thì lại “rách việc” hơn nhiều. Khác nhiều với EVFTA, EVIPA mới chính là cái mà một chính thể luôn muốn “ăn sẵn” và “ăn đậm” như Việt Nam cần kíp. Nhưng muốn có được EVIPA để mang lại lợi nhuận cụ thể chứ không phải một thứ danh dự trừu tượng và an ủi như EVFTA, Việt Nam lại cần “vận động” đủ 28 quốc gia thành viên của khối EU, mà nếu 4 trong số các quốc gia đó không đồng ý thì EVIPA không thể được ký kết và phê chuẩn, cũng đồng nghĩa với EVFTA sẽ “toi” dù có được EU phê chuẩn.   Trong dĩ vãng gần, đã có tiền lệ về việc giới nghị sĩ Châu Âu lên tiếng cảnh báo và cảnh cáo về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Đó là cuộc điều trần EVFTA – nhân quyền tại Brussels vào Tháng Mười năm 2018.   Trong cuộc điều trần trên, nhiều nghị sỹ đã yêu cầu Việt Nam phải sớm thông qua 3 công ước còn lại của Công Ước Quốc Tế về Quyền Lao Động nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động Việt Nam một khi có công đoàn độc lập.   Trong khi điều mà những người tham gia muốn biết là Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nhân quyền; kế hoạch cụ thể để cải thiện nhân quyền là gì; Việt Nam cần thể hiện bằng hành động để chứng minh sẽ và có thể thực hiện các cam kết, ngoài ra cũng yêu cầu rằng 3 công ước còn lại của ILO cần phải được Việt Nam ký chính thức trước khi EU bỏ phiếu chấp thuận EVFTA, thì phái đoàn Việt Nam tham dự cuộc điều trần trên đã không thể trả lời và đánh bài lờ.   Một trong những đại biểu – bà Granwander Hainz – đã chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của Việt Nam chỉ là lời hứa suông từ trước giờ vì chưa có gì được thực hiện, cũng như các cam kết về nhân quyền chỉ toàn có tiêu đề mà không có nội dung cụ thể…   Thế nhưng cho đến ngày 30 Tháng Sáu, 2019 khi đặt bút ký kết hai hiệp định EVFTA và EVIPA tại Hà Nội, chỉ mới một phần rất nhỏ trong toàn bộ nội dung rất rộng và sâu của bản nghị quyết về nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2018/2925 (RSP) do nghị viện Châu Âu tung ra vào giữa Tháng Mười Một, 2018 được phía Việt Nam đáp ứng. Bản nghị quyết này còn cứng rắn hơn cả bản nghị quyết về vấn đề nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2016/2755 (RSP) công bố vào Tháng Sáu, 2016.   Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925 (RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, nạn bắt bớ người hoạt động nhân quyền, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…   Trước yêu cầu phải ký 3 công ước quốc tế còn lại của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), chính thể Việt Nam đã chỉ mang ra quốc hội bàn việc ký và phê chuẩn Công Ước 98 mà không nói gì đến hai công ước quốc tế còn lại về lao động, còn Công Ước 105 về chống cưỡng bức lao động được hứa hẹn ký vào năm 2020. Nhưng bỉ bôi nhất vẫn là Công Ước 87 – công ước then chốt quy định bắt buộc về quyền của người lao động được tự do thành lập công đoàn độc lập – bị phía Việt Nam treo đến năm… 2023.   Nhưng chẳng có gì chắc chắn là đến năm đó Công Ước 87 sẽ được ký. Và nhất là sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc.   Còn việc sửa đổi Bộ Luật Lao Động và Luật Công Đoàn cũng trí trá và ma mãnh không kém khi dự thảo này tuyệt đối không đề cập đến khái niệm “công đoàn độc lập,” trong khi dựng lên một núi thủ tục hành chính để làm nản lòng những công nhân muốn tự tay thành lập công đoàn phi nhà nước.   Trong khi đó, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Công an Việt Nam vẫn liên tiếp bắt bớ và hành hung dã man những người hoạt động nhân quyền và xã hội dân sự. Vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một “cải thiện nhân quyền” nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế…   Kẻ mò mẫm trong đêm trường tối thẫm   Những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng “vươn lên một tầm cao mới” của chính thể độc tài ở Việt Nam chắc chắn sẽ là những gì mà nhiều nghị sĩ EU không thể bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp Định EVFTA. Một cái gật đầu dễ dãi của nghị viện Châu Âu đối với EVFTA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này yêu sách vào Tháng Mười Một năm 2018, khiến uy tín lẫn hình ảnh của nghị viện Châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.   Cũng những bằng chứng sống động cay đắng về đàn áp nhân quyền trên sẽ là quá đủ để khiến nhiều Quốc Hội ở những quốc gia trong khối EU, đặc biệt là Đức, Slovakia, Czech – những quốc gia hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp bị biến thành nạn nhân của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh – thậm chí sẽ có thể phải ban hành những nghị quyết riêng của từng nước về nhân quyền Việt Nam, trải thêm hàng tá hoa hồng có gai nhọn trên “đường cao tốc nối Việt Nam với EU” (câu ví von của quan chức thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) mà giới chóp bu Hà Nội đang mò mẫm trong đêm trường tối thẫm.   Phạm Chí Dũng  
......

Pages