Sự nói dối cưỡng bức?

Bản chất của sự nói dối là biết sự thật nhưng cố ý nói khác đi một cách có ý thức, với mục đích che giấu hay tránh né sự thật. Nói khác sự thật, do tình thế cưỡng bức không thể nói sự thật, phải gượng lòng nói dối, tạm gọi là nói dối cưỡng bức. Bà “Doan Phó Chủ tịch nước” từng nổi tiếng với phát biểu: Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản. Sự nói dối cưỡng bức được lặp lại nhiều lần, rồi quen đi, nó trở thành tính, thành nết, thành tật xấu, cuối cùng là hình thành sự ngụy tín cho chính mình. Sự nói dối bấy giờ trở nên trơn tru, hồn nhiên, giống y như nói thật, mà người nghe thì thấy nó trần trụi, nó gợi lên một cảm nhận trơ trẽn.   Trẻ em nói dối thì bị quở mắng, có khi bị trừng phạt. Người lớn – với tư cách là người dân bình thường – nói dối thì hàng xóm, bạn bè tránh xa không muốn chơi, người thân thì không thể tin cậy. Người có cương vị xã hội mà nói dối thì bị nhiều người coi khinh; cương vị xã hội càng lớn, thì sự coi khinh càng nhiều, càng báo hiệu sự nguy hiểm. Sự nói dối về dân chủ, nhân quyền ở nước ta ngày càng trở thành đề tài thời sự nóng hổi trên các diễn đàn, cả ở diễn đàn quốc tế. Cứ mỗi lần một nhân vật cao cấp nói về dân chủ, nhân quyền là họ đã thảy một mồi lửa vào đống rơm khô, tức thì gây nên bất bình rộng khắp và không cưỡng được. Người ta không tin rằng những con người ấy có tính nói dối bẩm sinh, cũng không thể tin rằng họ không biết sự thật, một sự thật mà người dân thường cũng hiểu được, với nhan nhản sự kiện đầy ắp trên trang báo, trang mạng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi năm và năm này qua năm khác. Chỉ có thể lý giải rằng đây là sự nói dối cưỡng bức, tức là bị bắt buộc phải nói dối. Thử đặt vài câu hỏi: - Nhưng ai có thể cưỡng bức họ, khi họ có quyền lực cao? - Điều gì khiến họ chịu sự cưỡng bức dài hơi, lâu ngày đến thế? - Và nó đã trở thành sự nói dối hồn nhiên? 1- Cách đây không lâu, bà Phó Chủ tịch nước nói: Dân chủ của Việt Nam là “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Câu nói ấy đã gây nhiều phản ứng, nhưng không phải là nói dối nếu so với giáo trình Mác-Lênin [Thực ra, so với Lenin, bà Phó Chủ tịch nước đã rất khiêm tốn, vì Lenin quả quyết: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền xô-viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần.” (V. I. Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tr. 39). Hay đơn giản là vì bà không thuộc sách vở kinh điển Lenin? Khó tin, vì bà là Giáo sư Tiến sĩ, có trình độ cao cấp về lí luận chính trị, trong khi câu nói “nổi tiếng” trên đây của Lenin đã được đưa ra giảng dạy trong nhà trường Việt Nam xã hội chủ nghĩa mấy chục năm nay, đến mức thầy giáo rất hay lấy làm đề thi cho học trò, chẳng xem ở đây hay ở đây – BVN]. Còn so với thực tế, nó rất vô nghĩa, một so sánh định lượng “quá mức tình cảm”, hoặc do quán tính thuần túy… Nhưng câu nói ấy không gây nên sự phẫn nộ từ dân chúng, mà chỉ gây nên một nỗi buồn đến kinh hoàng về sự tụt hậu của trình độ “suy thoái tư tưởng” mang tính biểu trưng của tầng lớp lãnh đạo. Nếu hiểu về mặt đạo đức của sự “trung thành” hay “kiên định” với ý thức hệ, thì cái đạo đức ấy cũng gây kinh hoàng không kém. Chỉ vì cái đức tin đặt nhầm vào chỗ không phải của tôn giáo. Nó làm buồn nhân dân suốt cả năm, cũng chỉ vừa mới nguôi ngoai. 2- Nay lại đến phiên ông Chủ tịch nước! Người ta hỏi rằng bây giờ ông có đang đói bụng không, ông trả lời một cách biện chứng rằng, vì hôm qua ông có ăn nên hôm nay không thể đói được! Vì rằng nước ông (Việt Nam) đã từng chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc cả trăm năm qua, nên đương nhiên có ý chí – thậm chí rất mãnh liệt – về khát vọng dân chủ và nhân quyền. Và vì “có” khát vọng đó, nên đương nhiên dân chủ, nhân quyền phải “có” thôi! Cái lý nó thế. Phải mượn tạm lịch sử chứ biết nói sao! Cũng như mượn tạm cái bức thư của "Chủ tịch Hồ Chí Minh" cách đây 2/3 thế kỷ, khi sang Mỹ tháng trước, để gởi cho ngài Obama. Đây cũng không phải là lời nói dối thuần túy, mà chỉ là nói tránh/trớ/né thôi. Tính của ông Chủ tịch như đã từng thể hiện, ít khi nói thẳng, có lẽ không phải vì thiếu dũng khí, mà vì tính “nói khéo” có phần nổi trội. Thí dụ, đồng chí X. Nhưng cái dẫn chứng mà ông đưa ra, mới gây nên chuyện, vì là nói dối đủ 100% . Nhiều báo trích nguyên văn, xin lặp lại: “Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do. Do vậy, ở ngoài thì đồn đại rất nhiều nhưng để hiểu Việt Nam nhiều hơn, hiểu về đời sống chính trị của Việt Nam thì xin mời các bạn hãy đến Việt Nam. Mặc dù chúng tôi còn nghèo nhưng cũng có trên dưới 200 kênh truyền hình, 700 tờ báo và không dưới 17.000 phóng viên...” (Phát biểu của Chủ tịch nước với báo chí tại Đan Mạch, đăng trên Thanh Niên, nhưng bị rút xuống.Xin xem ở đây – BVN)http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://www.thanhnie... Biến đổi hàng giờ vì phải liên tiếp thay hình đổi dạng, tự chết đi để tìm cách sống dậy. Mà dù có sự phát triển, thì không phải là sự vui mừng, mà là nỗi lo ngay ngáy của phía nhà nước. Rất tự do lại như một cơn gió độc quất vào mặt các blogger dù họ đang ở trong nhà tù kín gió. Cái đội ngũ hùng hậu về người và phương tiện: 17.000 phóng viên, 700 tờ báo, 200 kênh truyền hình..., đúng là đất nước còn nghèo (ông Chủ tịch khẳng định), nhưng rất thích chơi sang! Chừng ấy là chưa tính tới bao nhiêu cái loa phường, mỗi phường một loa thôi, trên khắp đất nước, cũng quá đủ để trấn áp hệ thần kinh người dân. Lực lượng hùng hậu mà Chủ tịch dẫn chứng, có số người đông như bộ máy an ninh cảnh sát, có phương tiện truyền thông dồi dào vô địch, được hiểu một cách hùng hồn chỉ là một bộ máy đàn áp. 17.000 phóng viên ư? Trong đó biết bao nhiêu tiếng thở dài? Bao nhiêu tiếng hò reo cùng với kèn trống? Với một nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, chỉ một bài báo, trong chỉ một ngày là bị đuổi việc. Nhanh và nhạy vô cùng. Nhưng còn bao nhiêu sự kiện, sự cố diễn ra hằng ngày, cụ thể, ngoài sự phản ảnh của truyền thông và báo chí? Nói không đúng sự thật như trên, kể ra ông Chủ tịch cũng đã có dũng cảm. Nhưng dũng cảm nhất, và khách khí nữa, là “Mời các bạn đến Việt Nam” thì… biết liền! Có lẽ, không cần đến Việt Nam, họ cũng có khả năng biết liền. Ông Chủ tịch còn hồn nhiên phản kích: “Ở ngoài [nước ngoài] thì đồn đại rất nhiều, nhưng…”, có nghĩa là báo chí nước ngoài nói dối (đồn đại = thổi phồng, nói càn, ít xít ra nhiều). Ông Chủ tịch và các ông lãnh đạo khác không thể không biết chính những điều mà các ông đã và đang làm, về dân chủ và nhân quyền bao nhiêu năm qua, ở cái xứ sở khốn khổ này. Một đất nước tràn trề tham nhũng mà lại có dân chủ và nhân quyền được sao, lạ thật! Thế nhưng không thể nói thật. Là “nói dối cưỡng bức” hay đã trở thành ngụy tín? Hầu hết trong bộ máy nhà nước, từ cao đến thấp, đều như thế! Nghĩa là cùng trong tình thế cưỡng bức. Và sự ngụy tín đã trở nên toàn diện, bao trùm. Nhưng ai có thể cưỡng bức họ? Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật. Vì cơ chế đó được đặt trên một tiền đề không có thật nốt: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Quả là bi hài! Bị kẹp chặt và bẹp dí như con mắm, mà còn làm chủ được sao? Thế là sự nói dối “dân làm chủ” cứ chễm chệ trên ngai, như lời hô vạn tuế trên môi các quan chức suốt gần 4 thập niên qua, cho cái ông vua “làm chủ” khốn khổ ấy, kể từ khi đất nước thống nhất. Từ đó, mọi sự nói dối và suy đồi các loại phát triển, lan rộng và nhanh như cỏ mọc, thành “tập thể nói dối cưỡng bức”, hùng hậu ở mọi lãnh vực: dân chủ, nhân quyền, kinh tế, văn hóa xã hội, cả sự nói dối về đạo đức, tư tưởng. Sự nói dối còn di căn sang một bộ phận thanh niên có quan hệ gần gũi với bộ máy cầm quyền, trở thành dạng nói dối ngu muội hồn nhiên. Một bộ máy có thể kẹp chặt người dân như thế, thì cán bộ dù cao đến đâu, cũng không thoát khỏi thân phận chung của người dân, dù là lãnh đạo của bộ máy. Vì cái thân phận lâu dài của anh ta vẫn là người dân, trước khi làm quan và sau khi làm quan. Những người về hưu có thể rất cay đắng với một quãng đời nói dối hồn nhiên hoặc nói dối cưỡng bức của mình, khi thoát được khỏi tình trạng ngụy tín! Nhưng vì sao họ có thể chịu đựng lâu dài, bền bỉ đến thế? Câu trả lời thì dễ, nhưng vấn đề lại hết sức gay go. Đó là quá trình hy sinh và gắn bó với nhiều ràng buộc của quyền và lợi. Sự hy sinh của những ai đó có thể chưa nhiều lắm, mà sự gắn bó thì nhiều hơn, nhất là những cái chức đã mua bằng tiền, hoặc bằng sự thân quen nâng đỡ. Cách vận hành của lối sống này lại được sự bồi dưỡng tích cực của triết học Mác-Lênin: “Vật chất quyết định ý thức”. Theo đà giục giã của vật chất cứ thế tiến lên, tiến lên nữa… Riêng những người đã chết, và những Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì nằm lại thôi. Còn người dân, họ đang “làm chủ” theo thân phận “con mắm”. Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình!Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru… Dân chủ, nhân quyền tuy là những danh từ chung, nhưng không phải là trừu tượng. Nó có nội dung được thể hiện bằng những thiết chế cụ thể, có hệ thống, được thừa nhận trong một Hiến pháp đúng nghĩa, trong hệ thống luật pháp minh bạch. Vì thế không thể muốn nói gì thì nói. Các cách nói dối cần được thẩm định, phê phán bằng truyền thông tự do để nhanh chóng chấm dứt nó. 3- Lại không công bằng nếu không đề cập đến một dạng “nói dối đạo đức” (là nói dối về phương diện đạo đức) đang ồn ào diễn ra ở vị lãnh đạo cấp cao. “Các đồng chí cần thường xuyên học hỏi, rút những bài học tốt từ những thế hệ trước để tiếp tục đi xa. Bài học đó là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân, chứ không phải chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường.” (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Văn nghệ không chỉ là nơi cuộc sống hiện hình) Thật hiếm có một vị chính khách nào trên thế giới, như Tổng thống, Thủ tướng, hay nguyên thủ quốc gia, dám cao giọng dạy cho ai đó với kiểu cách của một thầy giáo, hay của bậc cha mẹ. Nếu vị ấy có học hàm học vị, được tín nhiệm mời vào dạy ở một trường học, thì cũng chỉ được phép dạy chuyên môn của mình có và dạy cho sinh viên của mình. Chính khách khi tham gia các hội thảo khoa học cũng chỉ phát biểu quan điểm của cá nhân. Ai dạy ai trong thời đại này trở nên vô cùng khó. Sự khiêm tốn đích thực đã là một trong những phẩm giá quan trọng cho mỗi nhân cách. Chỉ riêng trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, thì Tổng Bí thư Đảng Cộng sản luôn khả năng dạy tất cả mọi người, mọi lãnh vực, nếu muốn. Lênin đã làm như thế, và mọi ông Tổng Bí thư đều có thể làm như thế. Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa mới lên lớp về đạo đức trong sáng tạo văn học nghệ thuật cho những người làm văn học nghệ thuật trong nước, cấp trung ương. Hãy lắng nghe: “Các đồng chí cần thường xuyên học hỏi, rút những bài học tốt từ những thế hệ trước để tiếp tục đi xa. Bài học đó là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của nhân dân.” Đoạn văn này khá văn hoa bay bổng. Cái “khát vọng lớn lao và lý tưởng cao cả” khó ai dạy cho ai được. Ông Tổng Bí thư muốn áp đặt cái khát vọng nào là lớn lao, lý tưởng nào là cao cả cho mọi người? Ông bổ sung làm rõ thêm cho mệnh đề rất ư lửng lơ trên, là: “hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc”. Sự hòa nhịp đập trái tim của hai nam nữ yêu nhau cũng đã khó, huống là! Nhà lý luận “nổi tiếng” về chủ nghĩa duy vật biện chứng của học thuyết Mác-Lênin, bỗng trở thành duy tâm đến độ cao. Muốn nói đến sự thống nhất ý chí của toàn dân hướng đến cùng một mục tiêu chung, mà không nói đến cơ chế dân chủ, công bằng được sao?! Và ông yêu cầu “lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân”. Nghe thế nào ấy! Vừa sáo rỗng, vừa có vẻ lấy lòng nhân dân, lại vừa như châm biếm mỉa mai chứ không phải là ngợi ca. Đau khổ, chết chóc của những “con mắm” chẳng bao giờ là vĩ đại cả. Thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân cần học hỏi, phải chăng là rút ra từ tiếng súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn, hay những phát súng đòi công lý của Đặng Ngọc Viết? Nhưng không thể trách, vì ông đã sinh ra từ điều 4 Hiến pháp thiêng liêng có tính mặc khải, đã men theo con đường Đảng mà “thành đạt”! Vị trí đó cho ông mọi quyền, kể cả quyền mắng mỏ bất cứ ai ông muốn. Ông đã từng mắng những người tham gia góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp là “suy thoái” và toan tính xử lý. Nay ông mắng các nhà làm văn học nghệ thuật (của ông): “không chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”. Sao ông Tổng Bí thư có thể nói vậy được? Sao nói đội ngũ ấy “gặm nhấm”? Vì sự gặm nhấm là chỉ của loài gặm nhấm. Cái đội ngũ cấp Trung ương ấy đã “lấy tiểu xảo thay cho tài năng”. Thật thế sao? Lại “nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp”. Trong bối cảnh nào mà cái xấu phát sinh như thế? Thật ra, con người ai chẳng đi ra từ chỗ “chật hẹp”, và nhìn đời qua chỗ “chật hẹp” ấy? Và từ đó trở nên bao la, có vợ chồng, có con cái, có anh em, có đồng bào, có cái toilet, có mái nhà, có miếng ruộng vườn để cày xới… Thế mà tất cả trở thành khó khăn, trở thành bấp bênh, vì có thể bị cưỡng đoạt bởi những người nhân danh sự “lớn lao”, sự “cao cả”! Ông băm vằm tiếp: “[…] thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”. Thế là, văn nghệ không phải là thú vui, không phải là để giải trí, cũng không phải là cuộc chơi. Thật thế sao? Tất cả chỉ là “đam mê tầm thường”? Phải chăng, trong cái khát vọng lớn lao, trong cái lý tưởng cao cả, trong cái lý luận mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã muốn giáo dục, “không có bóng dáng con người” như lời của GS Trần Đức Thảo đã nói cách đây khá lâu? Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, và đại diện lãnh đạo các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành của Trung ương đã ra nông nổi nào và xứng đáng chăng để nhận những lời giáo huấn như băm như vằm nói trên? “Xứng đáng cao”, “xứng đáng”, và “xứng đáng thấp”, như ba cái bậc thang tín nhiệm mà Quốc hội đã sáng tạo? Nó đang xoáy vào tim gan của những người có lòng tự trọng, dù người có làm văn học nghệ thuật hay không. Kẻ ngoại đạo này nghĩ rằng, trong số thành phần kể trên, hẳn là có một số thuộc loài gặm nhấm (như sự ám chỉ của Tổng Bí thư), thì xin hãy tiếp tục kiên trì “gặm nhấm” những lời giáo huấn của thầy Tổng Bí thư, và cố thoát ra khỏi cái góc nhìn “chật hẹp” mà thầy đã công phu chỉ ra. Riêng bài nói chuyện của Tổng Bí thư, đã là “sự sáng tạo văn học nghệ thuật với tài năng, tâm hồn, nhân cách và bản lãnh” của ngài. Tôi trộm nghĩ thế! 25-9-2013H. Đ. N. Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Độc tài: Mạnh hay yếu?

Người ta thường dễ có ấn tượng là các chế độ độc tài đều mạnh: Chúng có quân đội, có công an, có mật vụ, có chỉ điểm viên (và gần đây, ở một số nước, có “dư luận viên”) trùng trùng điệp điệp. Song song với các lực lượng ấy, chúng có súng đạn, tòa án, nhà tù và các bãi bắn hoặc phòng chích thuốc độc. Nếu các yếu tố trên chưa đủ để khiến mọi người khiếp sợ, các chế độ độc tài còn có thêm một yếu tố này nữa để “thuyết phục” mọi người nên tiếp tục khiếp sợ: Chúng thường có một lịch sử rất dài hoặc khá dài. Trước hết, nên lưu ý: trong lịch sử nhân loại, độc tài có “tuổi thọ” cao hơn hẳn dân chủ. Dân chủ chỉ là một hiện tượng mới. Thực sự là dân chủ lại càng mới. Mới và lạ: Không phải ở đâu người ta cũng thấy được mặt mũi của dân chủ. Chính vì sống quá lâu với độc tài, từ độc tài phong kiến đến độc tài thực dân và độc tài Cộng sản như vậy, nhiều người cảm thấy quen thuộc, ngỡ nó là số mệnh, như một cái gì đương nhiên. Không thể thoát được. Sự chấp nhận dễ dàng ấy càng làm cho độc tài có vẻ mạnh mẽ hơn. Độc tài càng có vẻ mạnh hơn nữa khi người ta so sánh nó với dân chủ. Dân chủ, ngay cả khi được xem là hình thức tổ chức hoàn hảo nhất trong tiến trình phát triển của nhân loại, như một điểm “tận cùng của lịch sử” không bao giờ gợi lên ấn tượng về sự mạnh mẽ. Một xã hội càng dân chủ bao nhiêu càng làm cho người ta quên cảm giác về quyền lực bấy nhiêu. Không bị ám ảnh về quyền lực, người ta cũng không có ý niệm về sức mạnh của nó. Thật ra, tất cả các ấn tượng trên đều giả. Từ góc độ thực tế, các nước dân chủ bao giờ cũng giàu, mạnh và ổn định hơn hẳn các nước độc tài. Từ góc độ lịch sử, xu hướng phát triển chung của nhân loại là chiến thắng của dân chủ trên độc tài chứ không phải ngược lại. Từ góc độ lý thuyết, chính phủ dân chủ bao giờ cũng là chính phủ của đa số, hơn nữa, vì được xây dựng trên nền tảng hiến pháp và luật pháp vững chắc và công minh, luôn luôn bị áp lực của các lực lượng đối lập và của xã hội dân sự mạnh mẽ, chính phủ dân chủ nào cũng cố gắng trở thành chính phủ của toàn dân, của mọi người chứ không phải chỉ giới hạn trong những người đã ủng hộ và bỏ phiếu cho mình. Chính phủ độc tài, ngược lại, bao giờ cũng là chính phủ của thiểu số. Không bao giờ có thiểu số tuyệt đối: Ngay ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, mọi quyền lực hầu như tập trung hết vào tay nhà vua, kẻ được xem là con Trời. Nhưng vua bao giờ cũng tìm cách liên minh với tầng lớp quý tộc và quan lại để tạo thế lực. Do đó, chính nhà vua cũng phải tự động san sẻ quyền lực với những người khác. Thời hiện đại, các nhà độc tài cũng tìm cách san sẻ quyền lực và quyền lợi với người khác, chủ yếu qua hệ thống đảng mà họ lãnh đạo. Nhưng dù mở rộng đến mấy thì đó cũng vẫn là thiểu số. Ở Đức, dưới thời Hitler, đảng Nazi chỉ có trên năm triệu đảng viên trên tổng số khoảng 80 triệu dân. Ở Việt Nam hiện nay, trên tổng số gần 90 triệu dân, số đảng viên Cộng sản chỉ có khoảng bốn triệu. Vẫn là thiểu số. Chỉ cần làm một bài tính nhẩm cũng có thể thấy ngay thế yếu của các chế độ độc tài: Đó là sự đối đầu của thiểu số đối với đa số, của một nhóm người ít ỏi với một đám quần chúng đông đảo. Các nhà độc tài thừa hiểu điều đó nên bao giờ cũng tìm cách củng cố sức mạnh của họ bằng ít nhất ba biện pháp chính: Thứ nhất, trong khi củng cố tổ chức của họ thật chặt chẽ, họ tìm cách phân hoá cái khối đa số quần chúng đông đảo kia, không cho phép quần chúng tập hợp lại và thống nhất với nhau. Thứ hai, dùng biện pháp tuyên truyền để, một mặt, khuếch đại sức mạnh của mình, mặt khác, để tạo ảo tưởng là họ đang đại diện cho đa số, thậm chí, đại đa số, hơn nữa, của mọi người. Và thứ ba, sử dụng bạo lực để đàn áp và khủng bố mọi người. Có thể nói, sức mạnh của các chế độ độc tài chủ yếu được xây dựng trên ba nền tảng chính: Một, phân hoá dân chúng, hai, lừa dối, và ba, khủng bố. Biện pháp đầu làm cho người ta nghi ngờ nhau; hai biện pháp sau làm cho người ta sợ hãi. Cũng có thể nói, sức mạnh các chế độ độc tài không nằm ở bản thân nó mà chủ yếu nằm ở sự chia rẽ và  khiếp nhược của mọi người. Khi, vì lý do nào đó, mọi người đoàn kết và can đảm đòi hỏi quyền lợi và quyền lực cho mình thì các nhà độc tài chỉ có thể làm giống như Muammar Gaddafi ở Libya năm 2012: chui xuống ống cống.  
......

Hoa Kỳ, đi tìm sứ mệnh

Lang ba vi bộ trong vũ điệu Ba Tư Tuần này - chỉ tuần này thôi - truyền thông sẽ rọi đèn vào quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Hồi giáo Iran của dân Ba Tư. Ðó là khi lãnh đạo hai nước có thể bất ngờ gặp nhau nhân kỳ họp hàng năm của Ðại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Lồng bên dưới là việc Ngoại Trưởng John Kerry sẽ họp với Ngoại Trưởng Iran là Javad Zarif trong khuôn khổ hội nghị của nhóm P-5 + 1 với Iran. Nhóm P-5 +1 là năm thành viên thường trực của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Tầu), cộng thêm đệ nhất cường quốc Âu Châu là Cộng Hòa Liên Bang Ðức. Nói về nước Ðức, chính trường xứ này vừa qua trận động đất với thắng lợi lịch sử của Thủ Tướng Angela Merkel và việc đảng Tự Do Dân Chủ FDP bị đại bại lần đầu tiên kể từ sau Thế Chiến II. Chi tiết đối ngoại đáng chú ý là ảnh hưởng gia tăng của khuynh hướng chống việc hội nhập vào khối Euro. Ðáng chú ý hơn vậy là cử tri không quan tâm đến vụ Syria. Việc khủng bố Hồi Giáo al Shabaab tấn công và tàn sát con tin ngoài đạo Hồi, kể cả dân Tây phương, trong một thương xá ở thủ đô Nairobi của Kenya đã xảy ra khi dân Ðức đi bầu cũng chẳng ảnh hưởng gì đến lá phiếu. * Bốn Tổng thống, hai phe. Một bên là Barack Obama, bên kia là Hassan Rouhani của Iran, Bashar al Assad của Syria và Vladimir Putin của Nga * Nhiều người cho là liên minh Âu-Mỹ bỏ qua nhiều hồ sơ nóng của thế giới, hết thiết tha đến lý tưởng nhân đạo đã từng chi phối chánh sách đối ngoại của các nước dân chủ mà quay vào lo chuyện nội bộ. Ðiều ấy không sai, khi chính trường Hoa Kỳ hết sôi động với vụ Syria và đang mở ra một trận đánh nữa về ngân sách, lồng trong việc hạn chế các khoản chi cho chế độ bảo dưỡng y tế từ đạo luật “Obama Care”. Nhưng chuyện ấy liên hệ gì đến vụ Iran? Và đến nước Mỹ, nhìn từ bên ngoài? *** Từ năm 1979, sau cuộc “Cách mạng Hồi giáo” tại Iran và vụ 52 kiều dân Mỹ bị bắt làm con tin trong 444 ngày, hai nước đồng minh cũ đã đoạn giao. Quan hệ căng thẳng chỉ tạm lắng dịu khi Hoa Kỳ mở chiến dịch A Phú Hãn cuối năm 2001, với sự hợp tác ngầm của Iran để tấn công kẻ thù chung là lực lượng khủng bố Al-Qaeda và chế độ Taliban. Sau đó, với chiến dịch Iraq năm 2003, Hoa Kỳ dọn cỗ cho các Giáo chủ Iran khi tiêu diệt chế độ Saddam Hussein của hệ phái Sunni tại Baghdad: hệ phái Shia thân Iran thắng lớn và kiểm soát được một xứ cừu thù của Iran. Nhưng các giáo chủ tại Tehran không dừng tại đó. Họ phất cờ lãnh đạo thế giới Hồi giáo, cạnh tranh tư thế với hệ phái Sunni và Saudi Arabia, qua trung gian của Syria yểm trợ các lực lượng khủng bố cùng hệ phái, như Hamas tại Israel, hay Hezbollah tại Lebanon, và theo kiểu Bắc Hàn, thông báo kế hoạch chế tạo võ khí hạch tâm để bắt bí thiên hạ.... Vì kế hoạch này, Iran bị cấm vận và tự cô lập dần. Những hội nghị xuân thu nhị kỳ, khi có khi không, của nhóm P-5 + 1 không có kết quả, một phần cũng nhờ vai trò yểm trợ của Liên Bang Nga và Trung Quốc. Hai cường quốc này giúp các chế độ hung đồ tồn tại để gây rối cho Hoa Kỳ và các nước Âu Châu. Họ muốn tiến tới một trật tự khác và chấm dứt tư thế siêu cường độc bá của nước Mỹ. Vì những lý do quá phức tạp đó, chuyện Iran hay Syria cũng là mâu thuẫn giữa hai hệ phái lớn của Hồi giáo, với các nhóm cực đoan cùng áp dụng phương pháp khủng bố, và với sự hà hơi tiếp sức của Moscow và Bắc Kinh. Việc Hoa Kỳ và các nước Âu Châu lúng túng gần một tháng trời rồi mở cửa cho Putin bước vào Trung Ðông với một “giải pháp ngoại giao” cho Syria là một sự thất thế nhất thời, làm nhiều người lý tưởng thất vọng về khả năng can thiệp của các nền dân chủ để bảo vệ nhân quyền và phát huy chủ nghĩa nhân đạo trên thế giới. Trong hoàn cảnh đó, các Giáo chủ Tehran mới bật tín hiệu về việc nên đàm hơn nên đánh. Khi nước Mỹ có vẻ yếu thế và nhân cơ hội xuất hiện của một Tổng thống vừa đắc cử là Hassan Rouhani, những người lãnh đạo thật của Iran là các giáo chủ dưới quyền của Lãnh tụ Tối thượng Khamenei đã học thói Vladimir Putin của Nga mà đưa ra cái sào cho Tổng thống Barack Obama. *** Lý do dịu giọng đầu tiên là kinh tế, mà kinh tế cũng là chính trị. Iran sản xuất và xuất cảng năng lượng - 80% trị giá xuất cảng và 50% nguồn thu ngân sách. Khi bị Hoa Kỳ là Liên Âu phong toả kinh tế, xứ này thấm mệt. Năm ngoái dầu xuất cảng giảm 42% và cán cân thương mại sa sút đánh sụt dự trữ ngoại tệ lẫn mức sống người dân. Nếu nói chuyện song phương với Mỹ, lần đầu tiên từ năm 1979, rồi đàm phán về việc giải tỏa cấm vận và có khi tái lập bang giao, lãnh đạo Tehran có thể đạt thắng lợi lớn với thần dân ở nhà, và với các nước Hồi giáo khác. Sự yếu thế của Hoa Kỳ là một cơ hội không thể bỏ qua. Phần mình, khi được các Giáo chủ Iran mời vào vũ điệu Ba Tư, Chính quyền Obama có thể nhắm vào nhiều mục tiêu. Vừa có thêm một đòn bẩy cho vụ Syria quá tệ, vừa thêm kẻ đồng hành ngăn ngừa phong trào khủng bố xưng danh Thánh Chiến của hệ phái Sunni - tái diễn sự kết hợp năm xưa trên chiến trường A Phú Hãn. Và thứ ba, chứng minh giá trị của chính sách hòa giải với khối Hồi giáo mà ông Obama theo đuổi từ khi nhậm chức. Nhưng sự tình lại không nhịp nhàng như vậy. Mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Iran thuộc lãnh vực chiến lược không thể hàn gắn bằng vài dấu hiệu ngoại giao chỉ có kích thước chiến thuật. Hoa Kỳ đang có nhiều đồng minh chiến lược tại Trung Ðông, như Saudi Arabia, Turkey, Ai Cập, các nước Á Rập trong vùng Vịnh Ba Tư, và Israel. Hâm nóng quan hệ với Iran là xối nước lạnh vào tình đồng minh trong khu vực. Và càng chứng tỏ Hoa Kỳ là một đồng minh không đáng tin. Chưa kể là còn tạo ra một tiền lệ rất xấu với một chế độ hung đồ khác, là Bắc Hàn. Vả lại, xứ Iran của sắc tộc Ba Tư cũng thấy rõ sự rã rời của các nước Á Rập Hồi giáo từ Mùa Xuân Á Rập năm kia. Họ muốn được Hoa Kỳ tôn trọng, đối thoại ngang hàng, để khai thác cơ hội này mà bành trướng ảnh hưởng trong thế giới Hồi giáo. Nếu có thêm võ khí hạch tâm thì càng hay, mà không có thì cũng thừa thế lực xưng hùng xưng bá. Vì vậy, chuyện gặp gỡ và đàm phán giữa đôi bên sẽ có những trở ngại khó khắc phục ngay từ phía Hoa Kỳ: kéo dài mà không kết quả. Nếu có thì sẽ là hình ảnh của một nước Mỹ lang ba vi bộ, chạy lòng vòng không định hướng trong một vũ điệu Ba Tư đầy vẻ huyền ảo. Vài tuần sau là lại trôi vào quên lãng.... Cho tới khi Hoa Kỳ tìm ra và định lại cho mình một sứ mệnh khác, phù hợp với đạo lý chính thức mà cũng đáp ứng nhu cầu thực tế của quyền lợi. Chỉ có tại nước Mỹ Không chỉ có Tổng Thống Obama mới ân hận về chuyện “lằn ranh đỏ” với vụ Syria. Cảnh sát tại Apopka của Florida đã hỏi giấy, còng tay và tống giam Mark E. Schmidter vì tội vi phạm luật lệ cho khách bộ hành. Ðương sự lãnh họa vì rải truyền đơn vận động bỏ phiếu về máy thâu hình ở ngã tư. Lý do vận động không để bảo vệ quyền tự do riêng tư của người dân mà vì anh gàn này cho rằng việc gắn máy chỉ là âm mưu làm tiền bất chính. Viên cảnh sát thi hành việc tống giam đã trả lời, tỉnh bơ, rằng vì Mark Schmidter “không có giấy phép phản đối đèn đỏ”. Cứ tưởng là chuyện Hà Nội! __._,_.___ Nguồn: dainamaxtribune.blogspot.de
......

Nhiều blogger bị bắt giữ vô cớ ở Hà Nội

Theo tin chúng tôi vừa nhận được, chiều nay 25/09/2013 vào khoảng 18 giờ Việt Nam, khoảng 20 nhân viên công an mặc sắc phục lẫn thường phục đã vào nhà blogger Nguyễn Tường Thụy tại Hà Nội, bắt đi những người đang có mặt tại đây. Trong số những người bị bắt có mẹ con sinh viên Nguyễn Phương Uyên, bà Dương Thị Tân (vợ blogger Điếu Cày(, ông Phạm Bá Hải, ông Lê Quốc Quyết (em luật sư Lê Quốc Quân)… Trả lời RFI Việt ngữ trong lúc đang bị giữ tại công an, blogger Nguyễn Tường Thụy cho biết: Tôi đang ở một cơ sở của công an huyện Thanh Trì, ở xã Liên Ninh. Mỗi người bị giam một nơi, tôi ở đây, còn Phạm Bá Hải bị giam một mình ở một cơ sở khác. cô Tân, vợ con tôi, mẹ con cô Uyên, Lê Quốc Quyết…nói chung những người còn lại trong đoàn không biết giam ở đâu. Thưa, lúc nào và lý do vì sao anh có biết không? Không, tôi cũng không hiểu nữa. Tự nhiên họ ào vào rất là đông, khoảng hai mươi người, cứ thế xông vào bắt thôi, mặc cho mọi sự phản đối. Con gái tôi vừa mới nhập học đại học thì cũng bị bắt, vợ tôi nó cũng bắt. Anh Phạm Bá Hải, chị Dương Thị Tân, chị Nguyễn Thị Nhung, bé Phương Uyên, Lê Quốc Quyết, Đinh Văn Thi… Hiện nay trước khi đi nhà tôi chỉ còn có một người nữa chắc là họ khống chế nốt. Hiện nay một mình tôi ở đây, còn những người khác như anh Hải bị giam riêng ở một cơ sở khác, còn những người còn lại như, vợ con tôi, anh Quyết… như thế nào tôi cũng chưa rõ. Mà tôi gọi điện thì tất cả đều tắt máy hết. Mà chúng nó hành xử như là một lũ côn đồ, đầu gấu, xã hội đen ấy! Chúng nó rất hung hăng ào vào nhà tôi, chúng tôi không thể trấn giữ được. Riêng anh Đinh Văn Thi thì bị đánh, bốn năm đứa nó đánh trước mặt tôi. Còn ở nhà hiện nay thì họ làm chủ hoàn toàn ở trong nhà rồi. Tôi nghĩ đến chuyện họ khám nhà, khám máy móc, tài liệu… rồi thậm chí có thể cài thêm tài liệu vào hoặc ném thêm vật chứng vào. Thì đấy, họ dùng cách này cũng chưa biết chừng! Họ tinh quái như bọn xã hội đen, mà xã hội đen cũng không đến nỗi như thế này… Người ta đặt câu hỏi, trong bối cảnh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang ở thăm Paris, Việt Nam và Pháp vừa ký kết Hiệp định quan hệ đối tác chiến lược, phải chăng đây là một động thái nhằm ngăn trở nỗ lực hướng về phương Tây của Hà Nội ? Đặc biệt là hôm nay, Thủ tướng Pháp Jean-Marc Ayrault nhấn mạnh đến quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, cho biết Paris sẽ thúc đẩy giải quyết tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Theo tin mới nhất, những người bị bắt đã được thả, nhưng vẫn tập trung phía trước đồn công an để phản đối việc bắt người trái phép. Các blogger Nguyễn Tường Thụy, Trương Văn Dũng, Lê Quốc Quyết vẫn ở lại để đòi trả lại điện thoại. Blogger Nguyễn Tường Thụy kể lại : Bây giờ bọn tôi với Quyết và Trương Văn Dũng đang ở trong đồn đợi Quyết giải quyết vấn đề điện thoại của Quyết đã. Điện thoại giá trị không lớn, nhưng mà có rất nhiều thông tin quan trọng ở trong ấy. Riêng Lê Quốc Quyết bị đánh rất là đau, năm sáu thằng dẫm đạp lên mặt, mặt mũi, môi sưng hết lên rồi, áo rách tả tơi. Trương Văn Dũng bị xé áo hết cả, Quyết thì quần áo lấm như là ở dưới ruộng bùn lên – năm, sáu thằng quần thảo rất là đông. Chính mắt tôi nhìn thấy, đánh trước mặt tôi luôn, ngay trước cửa nhà tôi ! Có lẽ vì sợ sự hỗ trợ cho Ls. Lê Quốc Quân, đặc biệt cho phiên tòa ngày 2/10 này, nên công an đang tìm cách dập tắt?   Mọi người hiện đang còn ở nguyên ngoài cổng, đang hô "Đả đảo công an !", "Đả đảo bắt người trái pháp luật, phi pháp !". Được biết Phương Uyên và mẹ của Phương Uyên bị công an bắt lên máy bay về lại Sài Gòn.   Nguồn: RFI
......

Khi toàn bộ guồng máy tuyên giáo tập trung nhắm vào vị giám mục tại Vinh

Tin theo lời hứa của Chủ tịch xã Nghi Phương và các quan chức của huyện Nghi Lộc, người dân giáo xứ Mỹ Yên đến đón những đồng đạo bị nhà cầm quyền bắt cóc từ mấy tuần trước đó. Tuy nhiên, chẳng những không thả người như đã hứa, nhà cầm quyền còn điều quân đội, cảnh sát cơ động, và nhiều côn đồ đến để dàn trận đàn áp. Trước tiên họ cho côn đồ trà trộn vào giáo dân ném đá vào lực lượng vũ trang để quay phim chụp hình, rồi xua công an xông vào đánh "các giáo dân chung quanh những kẻ ném đá". Cuộc đàn áp để lại hơn 30 giáo dân với thương tích trầm trọng. Có người phải đem vào mổ cấp cứu vì đọng máu trong não. Có người máu me và bầm tím khắp thân thể. Hình ảnh các nạn nhân tại bệnh xá của giáo phận ở Xã Đoài đã được loan ra khắp thế giới. Trước sự tàn bạo của nhà cầm quyền đối với giáo dân Mỹ Yên Tòa Giám Mục giáo phận Vinh đã buộc lòng phải lên tiếng vạch trần các thủ thuật của công an. Và Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, vị chủ chăn của giáo phận đã phải than thở: “Chúng tôi muốn hòa bình, tự do và tôn trọng phẩm giá con người ... nhưng bất hạnh thay, điều đó không tùy thuộc vào thiện chí của chúng tôi.” Nhưng dù có đủ các hình ảnh, âm thanh, văn bản làm chứng cớ về các thủ thuật mờ ám của công an và các cảnh bạo hành phi pháp của họ, nhà cầm quyền CSVN vẫn tự tin vào khả năng bẻ cong sự thật và lấn lướt dư luận qua hệ thống tuyên truyền toàn quốc của họ. Một chiến dịch toàn quốc được tung ra lập tức để chụp mũ, vu khống, bôi đen sự việc tại Mỹ Yên, và quan trọng hơn cả là chỉa hầu hết mũi dùi vào cá nhân Đức Giám mục Nguyễn Thái Hợp.Những kẻ xa lạ, không phải giáo dân,đang ném đá về phía công an Những giáo dân không hề ném đá lại đầy thương tích Ròng rã từ ngày 4/9/2013 đến nay, từ Thông Tấn Xã VN, đến hàng trăm tờ báo, đặc biệt là các báo tại Nghệ An, đến hàng trăm trang mạng, đến các đài truyền hình, đến các buổi họp báo, và đặc biệt quanh vụ việc này còn kéo vào một số luật sư đóng vai "chuyên gia pháp luật". Các luận điểm tấn công cũng đầy đủ cấp độ, từ những ám chỉ vu vơ như "Ai là kẻ đạo diễn và cho mục đích gì?"; đến các kết luận chẳng cần lý lẽ như "Vi phạm pháp luật trong vụ việc ở giáo xứ Mỹ Yên", "Kích động, vu khống chính quyền"; đến các kết án chẳng cần phiên tòa nào như " tiếp tay cho kẻ địch", "ủng hộ, tiếp tay cho phản động". Bên cạnh hàng loạt những tĩnh từ hỗn xược, bằng đó lời lẽ vu cáo, kết án của hơn 700 báo đài thật ra chỉ gom về 2 luận điểm chính được Ban Tuyên Giáo Trung Ương chỉ thị để tấn công Đức Cha Hợp là: (a) Ông không biết về luật pháp nên dựa vào lời hứa của quan chức cấp xã; và (b) Ông làm tay sai cho thế lực phản động nước ngoài. Nhưng cả 2 luận điểm này vừa không thuyết phục được mấy ai, mà chỉ lập tức làm nảy sinh rất nhiều câu hỏi khác từ người đọc báo, đọc mạng và xem truyền hình: 1- Trước hết, trong thực tế tại Việt Nam hiện nay, có thật cán bộ và công an cấp xã không có thẩm quyền bắt nay thả người hay không? Mỗi ngày, có bao nhiêu ngàn vụ người dân bị công an xã bắt bớ, đem về trả khảo, trấn lột rồi đuổi về? Trong số đó còn có những người bước vào đồn công an xã mà không bao giờ bước ra. Chỉ có thân nhân họ đến nhận xác về với những lý do "lên cơn bệnh", "tự thắt cổ", "tự đập đầu vào tường", ... mà chết. Đây là những tin tức đăng nhan nhản trên báo lề đảng. Những người như luật sư Hoàng Văn Hướng thuộc đoàn luật sư Hà Nội chẳng lẽ không hề đọc chính báo của Đảng? Ban Tuyên Giáo càng đưa những người như ông Hướng ra làm "chuyên gia pháp luật" chỉ càng làm dân thêm bực và khinh cả người mướn lẫn người nói thuê. Luật sư Hoàng Văn Hướng thuộc đoàn luật sư Hà Nội trên VTV 1 2- Tại sao báo đài và các "chuyên gia pháp luật" không dám phân tích việc nhà cầm quyền thoạt đầu nhờ Đức Cha Hợp làm trung gian hòa giải nhưng lại cố tình đưa cho ông tờ "giấy cam kết lừa đảo" để dùng ông đánh lừa giáo dân. Và với các vụ bất bình liên tục tại khắp Giáo Phận Vinh vì những hành động trấn áp Công giáo trong mấy năm qua, từ Con Cuông, Trại Gáo, đến Xã Đoài, chắc chắn mọi hành động đối phó, mọi thủ thuật mà giới chức cấp xã tại Mỹ Yên dùng đều do chỉ thị từ cấp tỉnh hoặc trung ương đưa xuống như trong tất cả các vụ tương tự. 3- Tại sao báo đài và các "chuyên gia pháp luật" không dám đặt câu hỏi tại sao công an Nghệ An không truy tố những kẻ ném đá công an khi họ có đầy đủ phim ảnh chụp tại hiện trường? Và họ càng cố làm ngơ khi chính Đức Cha Hợp vạch ra thủ thuật bất lương và phi pháp này. Phải chăng nếu truy tố sẽ lòi ra đây toàn là những công an trá hình hay côn đồ được chính công an thuê mướn? Và nếu trưng ra các thước phim ném đá cũng sẽ khó dấu các khúc phim công an xông vào hành hung và chỉ hành hung những người KHÔNG ném đá? 4- Tại sao báo đài và các "chuyên gia pháp luật" không dám đặt vấn đề về nguồn gốc của toàn bộ vụ việc, đó là việc công an chìm đi đón đường, bắt cóc 2 giáo dân Mỹ Yên không cần trát tòa, không cần thông báo cho gia đình sau khi bắt, không cần tôn trọng thời hạn tạm giữ, tạm giam, v.v... như luật định? Ai đã ra lệnh bắt người tùy tiện, phi pháp và đầy tính côn đồ như trên? Quan chức cấp xã hay cấy tỉnh hay cấp trung ương? 5- Tại sao báo đài và các "chuyên gia pháp luật" không dám phân tích xem luật pháp ở đâu khi công an chìm hành động như côn đồ, tùy tiện rình mò, hà hiếp, đánh dân ngay trong vùng Mỹ Yên và khắp giáo phận Vinh? Đến khi dân chúng kéo lại bảo vệ nhau thì những kẻ này lập tức vu cáo ngược là dân "bắt giữ người trái phép", "chống người thi hành công vụ", "cố ý gây thương tích cho công an",… Luật nào cho phép công an hòa lẫn với côn đồ và hành xử như côn đồ? Luật nào cấm dân không được tự vệ khi bị côn đồ tấn công? Luật nào cho phép các giới chức cầm quyền thuê mướn, bảo kê cho côn đồ đánh dân? Chắc chắn các giáo dân tại Vinh không ai rỗi hơi rỗi việc đến độ đi kiếm công an để gây chuyện. 6- Báo đài và các "chuyên gia pháp luật" lại càng có đủ tư cách để nói về pháp luật không khi chính họ đang coi thường và đang vi phạm pháp luật khi cố tình mạ lị, gán ghép cho Đức Cha Hợp đủ loại tội trạng mà chẳng cần đến chứng cớ hay tòa án? Trong số các cáo buộc này, có lẽ nặng nhất là những lời lẽ trên báo Nghệ An: "Không phải ai khác mà một số chức sắc cực đoan như ông Nguyễn Thái Hợp và Đặng Hữu Nam đã có những hành vi, lời nói kích động, xuyên tạc, vu khống chính quyền khiến “quần chúng bức xúc”, “hoang mang”. Cũng chính những người này đã “xúc phạm nặng nề niềm tin tôn giáo” khi lợi dụng đức tin của một số giáo dân nhẹ dạ để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc và sâu xa hơn là ủng hộ, tiếp tay cho nhóm phản động Việt Tân và các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…". Hiện nay đã có một số nguồn tin cho biết giới lãnh đạo CSVN lại đang lên kế hoạch để buộc Giám mục Nguyễn Thái Hợp phải rời khỏi Giáo Phận Vinh như họ đã từng làm đối với Giám mục Ngô Quang Kiệt tại Giáo Phận Hà Nội sau vụ cướp tòa khâm sứ và các hà hiếp đối với giáo xứ Thái Hà vào năm 2008. Tiến trình được lập lại đã khá rõ. Sau khi khai hỏa chiến dịch tấn công tràn ngập trên báo đài, một phái đoàn của Ban Tôn giáo Chính phủ CSVN đã đến Vatican. Phái đoàn này do Thứ trưởng Bộ Công An kiêm Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Phạm Dũng dẫn đầu. Ông Phạm Dũng mang hàm Trung tướng Công An, từng là người đứng đầu Tổng cục An ninh II, tức cơ quan chuyên trách về an ninh nội địa của Bộ Công an. Ông thừa kế vai trò của "hung thần công an" Nguyễn Văn Hưởng. Câu hỏi còn lại là bà con Công giáo và những người Việt yêu dân tộc trên cả nước và trên khắp thế giới có để Giám Mục Nguyễn Thái Hợp phải đối diện một mình với cả guồng máy tuyên giáo và công an của chế độ không? Võ Thành Văn DienDanCTM
......

Tự xử dân chúng hay tự xử chính quyền?

Thói hoang tưởng quyền lực được sinh thời bởi ý thức hệ cầm cố đã tạo nên vô số món nợ phải đòi trong đầu óc dân quyền. Tự xử của dân cũng vì thế mang hơi hướng tự xử của chính quyền. 5 ngày sau vụ Đặng Ngọc Viết bắn các cán bộ quản lý quỹ đất ở Thái Bình, một số đại biểu quốc hội Việt Nam mới lần đầu tiên “thảo luận tập trung” về hiện tượng “tự xử” đang có chiều hướng lan rộng và “có dấu hiệu nguy hiểm” trong dân chúng. Tự bắt trộm chó, tự thuê xã hội đen đòi nợ, tự thiêu, tự bắn cán bộ… - những hành tung mang tính “tự xử” đã xảy ra suốt mấy năm suy thoái kinh tế vừa qua, nhưng cho đến tận bây giờ mới được thừa nhận “có phần trách nhiệm của chính quyền địa phương”. Cho đến khi cơn khủng hoảng chết chóc đã cận kề ngay trước mũi, vài người đại diện cho dân chúng mới dám hé lộ ngoài hành lang về tình trạng “chính quyền địa phương bất động”. Với tất cả những động thái “hành là chính” đang có chiều hướng bất động một cách nguy hiểm như thế, hẳn đó cũng là một nguồn cơn để nảy sinh ra lời “hiệu triệu cứu quốc” dưới đây. Hiệu triệu cứu quốc! “Thông báo với toàn thể nhân dân. Hiện nay đang có một đám người lạ mặt, đầu trọc, xăm trổ đầy mình, có hành vi côn đồ, dùng kiếm, dùng dùi cui, đuổi đánh, dọa đâm, chém, giết dân lành. Mọi người, ai có cuốc, xẻng, gậy gộc ra ứng cứu. Giặc đang càn quấy dân làng, mọi người tập trung mau để đánh giặc! Loa, loa, loa…” - ông trưởng thôn Đồng Quân gào vào loa phóng thanh, và từ chiếc loa này như vang dội âm thanh hiệu triệu một mất một còn vào những ngày kháng chiến cứu quốc. Tháng 6/2013, xóm núi heo khuất ở vùng Ninh Bình lại một lần nữa giận dữ cùng rạo rực. Người dân đang nhìn thấy một đám cướp cạn giữa ban ngày ban mặt. Nhưng người dân cũng đang phải chứng kiến một biểu tả không thể bàng quan hơn của các nhân viên công lực địa phương khi để mặc đám côn đồ thỏa sức hành hung những người bám đất. Đã hơn 25 năm qua, bãi đất nơi xảy ra tranh chấp giữa người dân Đồng Quân với Công ty cổ phần du lịch Cúc Phương là nguồn sống của dân, bằng chăn nuôi gia súc, trồng ngô và trồng đậu. Cư trú trên địa bàn này chủ yếu là người dân tộc Mường, được di dời từ rừng quốc gia Cúc Phương ra từ năm 1988. Khoảng gần chục năm trước, Công ty Cúc Phương bắt đầu về xây dựng trên khoảng 15 ha bãi đất. Nhưng vài năm trở lại đây, công ty này lại có những hành vi định chiếm nốt 25 ha đất còn lại. Ở một thái cực còn lại, ông trưởng thôn Đồng Quân khẳng định là không hề nhận được thông báo nào từ chính quyền về việc cho công ty Cúc Phương thầu thêm 25 ha đất. “Cho dù có thông báo thỏa thuận từ chính quyền về việc sang nhượng đất, chúng tôi cũng không bao giờ đồng ý. Vì 25 ha đất này là nguồn mưu sinh của người dân, bán nốt thì biết làm gì để sống!” - một người dân địa phương thét lên. Nhưng vào lúc việc tranh chấp còn chưa ngã ngũ thì Công ty Cúc Phương đã liên tục điều “xe múc” vào đào đất. “Người dân ngăn cản là đương nhiên. Vì thế mà cho côn đồ đến hành hung dân lành là điều không thể chấp nhận được!” - ông trưởng thôn quyết liệt. Thái độ không khoan nhượng của người dân xóm núi Đồng Quân đã được biểu thị ngay tức thì: ngay sau tiếng loa xé nát buổi trưa hè yên ả, nhân dân hai thôn từ người già, thanh niên đến phụ nữ lập tức túa ra đầy đường. Dân hai đầu dồn lại đánh trả đám côn đồ. Từ bộ dạng hung tợn lúc đầu, bọn côn đồ phải dần rút lui, để cuối cùng đã phải nhận một trận đòn nhớ đời. “Người dân xóm núi đại thắng!” - một tờ báo trong nước giật tít đầy hả hê. Nhưng còn hả hê hơn nhiều, vào một lần hiếm hoi “luật rừng” đã thành công. Trong cái tâm cảm “luật rừng” ấy, cả hai phía chính - tà đều hiện diện. Nhưng nhân tố đáng ra phải có mặt - lực lượng bảo vệ pháp luật - thì lại vắng bóng đến không thể hiểu nổi. Như một thói quen đã trở thành cố tật, chỉ sau khi trận đánh không chính danh trên kết thúc, công an huyện Nho Quan mới chính thức ló mặt tại hiện trường để làm nốt công đoạn cuối của việc “phá án”. Tự xử dân chúng Những tay blogger có đầu óc hài hước nhất vẫn thường chua chát giễu cợt” Việt Nam có cả một rừng luật, nhưng chỉ có một thứ duy nhất được dùng là luật rừng”. “Phép vua thua lệ làng” cũng từ cổ chí kim được viện dẫn và hành xử như một thói quen văn hóa độc đáo của người dân Việt, đặc biệt ở những vùng nông thôn miền Bắc. Từ năm 2010 về trước, khi kinh tế còn tạm đủ sức cầm cự với lạm phát và phân hóa xã hội chưa lộ ra cái hố đen ngòm ngoác rộng của nó, phân cực dân sinh cũng âm thầm tiềm ẩn hơn chứ chưa bị đẩy tình thế vào cảnh hỗn mang như hiện nay. Nhưng khi hiện tượng “rào làng” bắt đầu xuất hiện ở những địa phương như vùng phố núi Ninh Bình, người ta cũng bắt đầu chứng kiến cảnh đồng tâm hiệp lực giữa những gia đình cùng làng xã để bảo vệ quyền lợi “giết trộm”. Cảnh sắc đó đã vừa diễn ra ở Bắc Giang, nơi có đến 800 người dân đồng ký vào một lá đơn chưa từng có tiền lệ: nhận tội danh đánh đến chết những kẻ trộm chó. Trước hành động phản ứng chưa từng có trên, chính quyền và ngành công an Bắc Giang trở nên lúng túng và rơi vào thế bị động. Thay cho việc bắt giữ vài người dân đầu trò trong vụ đánh chết cẩu tặc, vào lúc này nhà chức trách phải đối mặt với một thái độ có thể được xem là vượt qua sợ hãi để “sống chết có nhau” của dân làng. Tinh thần tập thể hành động như thế hẳn làm dư luận nhớ đến 13.000 người dân ở làng Ô Khảm của Trung Quốc, vào năm 2011 đã rào làng để phản kháng chế độ trưng thu đất đai vô lối mà đã gây ra cái chết của một trong những người cầm đầu nhóm phản kháng trong đồn công an địa phương. Không hề có dấu hiệu hoang tưởng từ những người dân Bắc Giang, mà tinh túy hơn thế nhiều, 800 người dân đồng ký đơn nhận tội ở Bắc Giang đã công khai phơi bày một chủ đích có tính toán và mang dấu ấn thách thức chính quyền. Suy luận đơn giản là chính quyền không thể khởi tố tất cả dân làng, nhưng suy diễn phức tạp hơn là không phải chính quyền muốn làm gì thì làm trong bối cảnh đầu óc dân chúng đã tràn ngập tư tưởng bất mãn và sẵn sàng đối đầu nếu “cần thiết”. Bắc Giang lại là địa phương mà đã nổ ra những vụ đòi đất tập thể, tương tự Hưng Yên, Thái Bình, ngoại thành Hà Nội, Hà Tĩnh, Nghệ An, Nam Định… Đến lượt những địa phương này lại nằm trong cách nhìn thường trực của chính quyền về một loại “điểm nóng” cần phải tiễu trừ. Đất đai đã làm nên một biến động lịch sử khôn lường ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, kể cả không khí manh nha “hồi tố” như trong cuộc cải cách ruộng đất vào giữa thế kỷ 20. Trước vụ Đặng Ngọc Viết, một thanh niên ở Quảng Nam cũng đã dùng dao đâm vài cán bộ hiệp thương giá đền bù đất đai. Người thanh niên này say khi gây án đã chạy về nhà đâm dao vào ngực mình. Nhưng rất may trong vụ đó cả hung thủ lẫn nạn nhân đều bảo toàn được mạng sống. Còn với trường hợp Đặng Ngọc Viết, động cơ trả thù đã trở thành đỉnh điểm của công tác “hồi tố”. Những quan chức nhà nước thực thi mệnh lệnh cao cả về thu hồi đất của dân với giá bèo đã phải trả một cái giá đắt ngang với sinh mạng của họ. “Tự xử” cũng vì thế đã biến diễn đến mức cực đoan và chắc chắn vượt trên rất nhiều “dấu hiệu nguy hiểm” mà các đại biểu quốc hội đang than thở. Tự xử chính quyền Một lần nữa trong rất nhiều lần, dư luận và công luận Việt Nam phải khẩn thiết nhắc lại “cách mạng Thái Bình” mười sáu năm trước. Thế nhưng sự bất hạnh lại lộ đến chân tơ kẽ tóc: đã chẳng có một bài học nào được những người cầm cân nảy mực rút ra từ lịch sử. Mọi chuyện và thế sự vẫn trì miết trong một lối mòn tham lam, lũng đoạn và không kém ngu ngốc. Thói hoang tưởng quyền lực được sinh thời bởi ý thức hệ cầm cố đã tạo nên vô số món nợ phải đòi trong đầu óc dân quyền. Vụ xả lũ bị coi là hành động “giết sống” người dân mới xảy ra vào tháng 9/2013 ở Đắc Lắc cũng là một ý thức hệ táng tận lương tâm của giới quan chức điều hành thủy điện và chính quyền địa phương. Thời điểm ấn định xả lũ là vào 8 giờ sáng, nhưng phải đến một tiếng rưỡi đồng hồ sau thông báo này mới được phát ra. Đó cũng là khoảng thời gian vừa đủ để dòng lũ đỏ ngầu cuốn tung mọi thứ, từ tài sản tích góp cả đời đến ít nhất 12 sinh mạng con người, xuống vùng trũng niềm tin dân chúng… Với những gì đã hiện tồn cay đắng đến thế, điều bị xem là “vô cảm quan chức” vẫn còn là lời cảnh báo đầy tính nhân đạo. Giờ đây, vượt hơn thế nhiều, nhiều chính quyền địa phương càng như chìm trong cơn hôn mê vô trách nhiệm và chẳng hề đồng cảm với đồng loại. Hàng loạt điểm nóng có thể dẫn đến điểm nổ về đất đai, môi trường, tôn giáo… đã chỉ bị ụp lên bởi hàng núi công văn giấy tờ “xin ý kiến chỉ đạo”, trong đó không thiếu lời quy kết cho hành động của người dân là “xách động, manh động, chống đối…”. Tâm trạng xã hội rối loạn trong dân chúng cũng tương tác hầu như trực tiếp với tâm lý thoái thác trách nhiệm ở các cấp chính quyền. Vụ việc càng “nhạy cảm” thì các cơ quan từ địa phương đến trung ương càng gia cố sức ép đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, và trên hết là quá khó để nhận ra một lãnh đạo nào dám chịu trách nhiệm cuối cùng. Trong khi đó, thời gian không ngừng trôi và hậu quả chẳng bao giờ ngừng lại. Rất thường là đến một thời điểm nào đó, tình hình trở nên xấu tệ để mọi chuyện có thể nhanh chóng rơi nhanh vào tình trạng mất kiểm soát. Tự xử của dân chúng cũng rất có thể dẫn tới hành động tự phát nối kết, liên kết và gắn bó với nhau giữa các nhóm dân đấu tranh cho quyền lợi, cho dù không phải bao giờ quyền lợi của dân cũng đồng nhất với nhau. Đó cũng gần như là hình ảnh chan hòa giữa những dân oan không tôn giáo với các tín đồ - một hiện tượng đã và đang diễn ra ngày càng rộng tại vùng đáy niềm tin chính thể. Nếu hiệu ứng vô chính phủ xảy ra, không thể nói khác hơn là tình trạng mất kiểm soát ở Việt Nam có thể trở nên vô phương cứu chữa, rút ngắn tính chính danh của chính thể và ghê gớm hơn nhiều là xâm hại những gì còn lại của một lịch sử văn hóa. Tự xử của dân cũng vì thế mang hơi hướng tự xử của chính quyền. Tất cả những gì mà một chính thể không thể đáp ứng sẽ luôn phải trả bằng cái giá chân đứng của chính quyền từ bị mài mòn đến tự mục rã. Nông thôn và một số đô thị ở miền Bắc đang chứng thực xu hướng chuyển động có tính song trùng tự xử rệu mục như thế. Dù chưa có một nghiên cứu nào phân tích về khả năng song trùng này, nhưng đáp án rõ rệt cho bài toán tự xử luôn là một điểm giao thoa, tại một thời điểm được xác định, giữa hai hành động vừa đồng pha vừa ngược chiều nhau – một thuộc về chính quyền và hành động kia bùng phát từ dân chúng. P.C.D. Nguồn: boxitvn.blogspot.com
......

Chiến tranh vì nhân đạo

Ngoài chiến tranh vì quyền lợi hay ý thức hệ còn có hình thái chiến tranh vì lòng nhân đạo... Ca sỹ Beyonce biểu diễn ca khúc I Was Here trước Đại hội đồng LHQ để kêu gọi nhắn tin cho Ngày Nhân đạo thế giới   Trong suốt bốn tuần qua, bên lề vụ khủng hoảng chính trị tại Mỹ về việc can thiệp hay không vào cuộc nội chiến ở Syria, chúng ta thấy nổi lên một câu hỏi khác. Vì sao đa số dân Mỹ lại không muốn Hoa Kỳ tấn công Syria, dù qua một biện pháp rất hạn chế như chính quyền Obama đề nghị? Hỏi ngược lại, tại sao phải can thiệp, với rủi ro là gây ra một cuộc chiến nữa? Cuộc tranh luận ấy dẫn tới một lý luận mới chỉ xuất hiện từ sáu chục năm nay: các nước có thể can thiệp vào xứ khác vì lý do nhân đạo, dù rằng việc can thiệp có thể dẫn tới chiến tranh. Nghĩa vụ cứu người Từ cổ chí kim, các nước có thể gây chiến tranh vì hai lý do căn bản nhất, vật chất và tinh thần. Đầu tiên và sâu xa lâu dài hơn cả là chiến tranh vì quyền lợi, để bảo vệ hay bành trướng quyền lợi hoặc quyền lực quốc gia. Sau đó là chiến tranh ý thức hệ, để bảo vệ hay bành trướng một hệ thống tư tưởng từ thần quyền đến thế quyền, từ tôn giáo đến chính trị, mà người ta coi là có giá trị. Hai hình thái chiến tranh ấy có thể biệt lập hoặc đan kết với nhau. Từ những cuộc Thập Tự Chinh đến việc bành trướng chủ nghĩa cộng sản, chiến tranh ý thức hệ có khi ngụy trang hay biện minh cho chiến tranh vì quyền lợi. Bên cạnh những người tử vì đạo hoặc hy sinh cho cách mạng còn có bọn thương nhân hay những kẻ cướp vàng cướp đất... Nhìn theo một khía cạnh nào đó cuộc chiến “giải phóng miền Nam” tại Việt Nam là chiến tranh ý thức hệ, nhưng lồng bên trong là việc cải tạo để tiếp thu tài nguyên ở trong Nam, và để Trung Quốc bành trướng quyền lợi trên cả nước. Đến hậu bán thế kỷ 20, sau Đại Chiến II, người ta thấy xuất hiện một loại chiến tranh khác. Một lý do ban đầu có thể là nạn hỏa thiêu và tàn sát sáu triệu người Do Thái khiến cho làm ngơ trước tội ác cũng là một cái tội. Và can thiệp vào xứ khác để ngăn ngừa tội ác là một nghĩa vụ. Đấy là chiến tranh vì lý do nhân đạo. Nó xuất phát từ các nước dân chủ, chính yếu là từ Âu Châu và Hoa Kỳ, và nhắm vào nội chiến ở nơi khác khi mà thường dân vô tội bị tàn sát. Cuộc nội chiến lan rộng khi Liên Bang Nam Tư tan rã, nạn thanh tẩy chủng tộc tại Rwanda, hay vụ tàn sát thường dân ở Sudan, rồi nội chiến Libya hay gần đây, vụ Syria là cơ hội khiến người ta đòi phải có biện pháp can thiệp. Tương đối thành công là vụ Bosnia, hay Kosovo, hoặc thậm chí Sudan khi xứ này chia hai. Ở nhiều nơi khác, tình hình vẫn là bất phân thắng bại, thí dụ như Libya. Và chính là kinh nghiệm Libya khiến các nước phải chùn tay ở Syria và tranh luận về lẽ chính đáng hay không của một cuộc chiến vì lòng nhân. Không chịu can thiệp thì có thể mang tội thờ ơ trước tội ác, can thiệp thì bị đả kích là hiếu chiến, hoặc không tưởng. Chúng ta nên nhìn lại chuyện này từ nhiều giác độ khác.   Những trở ngại của thực tế Những người chủ trương can thiệp có thể minh định những động lực và tiêu chuẩn khá rõ ràng. Trong một cuộc nội chiến ở xứ khác, có hai phe tham gia. Phe mạnh là những kẻ có võ khí và phương tiện tàn sát phe yếu. Phe mạnh thường là một chính quyền độc tài và phe yếu là các nhóm võ trang còn ô hợp, khi giao tranh bùng nổ, thường dân không có khả năng tự vệ là nạn nhân ở giữa. Việc can thiệp vào cuộc nội chiến này phải có tính chất trung lập, không nghiêng vào phe nào, chỉ nhắm vào việc bảo vệ thường dân khỏi bị tàn sát nữa, sau khi đã bị tàn sát. Nếu không can thiệp, nhân loại mắc tội vô tâm vô cảm, một nhược điểm về đạo đức. Từ lý luận có tính chất đạo tặc, quy tắc đạo đức, người ta cho rằng cộng đồng quốc tế phải có nhiệm vụ can thiệp để ngăn ngừa một vụ tàn sát, một nạn diệt chủng. Ở đây, sau Thế Chiến II, “cộng đồng quốc tế” thường được hiểu là Liên Hiệp Quốc (LHQ). Nhưng việc kêu gọi định chế quốc tế này can thiệp lại gặp một trở ngại chính thức, che giấu một khó khăn thực tế. Hiến chương LHQ có quy định rõ ràng về quyền tự quyết, về chủ quyền toàn vẹn của các quốc gia. Trong một cuộc nội chiến, khi can thiệp để bảo vệ thường dân, người ta có thể vi phạm chủ quyền của một nước, dù đang được “phe mạnh” lãnh đạo và tàn sát “phe yếu.” Liên Bang Nga và Trung Quốc hay viện dẫn Hiến chương LHQ để ngăn cản việc can thiệp và mặc nhiên bảo vệ phe mạnh. Đây là một trở ngại thực tế của việc can thiệp dưới lá cờ LHQ. Trong vụ Libya, các nước Tây phương đã khai thác một hớ hênh của Liên Bang Nga khi cài được một điều khoản là “bảo vệ người vô tội” vào một nghị quyết rồi viện dẫn điều khoản ấy để xin can thiệp. Vladimir Putin không ngăn được chuyện ấy nên có kinh nghiệm trong vụ bảo vệ phe mạnh, là chế độ Bashar al-Assad tại Syria. Thói thường thì chỉ một (hay nhiều) nước mạnh mới có khả năng can thiệp vào tình trạng nội chiến trong một nước yếu. Với một nước mạnh thì khác. “Cộng đồng quốc tế” hoàn toàn câm nín khi Trung Cộng thôn tính Tây Tạng năm 1950, 1959, hay đàn áp dân Hồi Giáo ở Tân Cương từ 1949 đến nay. Cộng đồng ấy cũng bất lực khi Liên Xô đàn áp dân lành ở Hung Gia Lợi năm 1956 và tấn công Tiệp Khắc năm 1968, hay Liên Bang Nga tại Georgia năm 2008, tại Chechnya từ 1995 đến sau này. Khi chủ trương can thiệp vì lòng nhân đạo, với tiêu chuẩn vô tư, công bằng và trung lập, tức là không thiên về một phe nào trong cuộc nội chiến, mà chỉ để tránh cho thường dân lại bị sát hại, chủ nghĩa nhân đạo này còn đụng vào một khó khăn thực tế khác. Mọi việc can thiệp đều làm lệch tương quan lực lượng trong nội chiến. Chủ trương can thiệp vì lòng nhân chỉ có hy vọng thành hình và thành công khi là nước lớn bước vào cứu dân lành trong một nước nhỏ yếu. Nhưng dù nêu cao tiêu chuẩn trung lập, việc can thiệp vẫn thực tế thiên về phe yếu và có thể tiêu diệt phe mạnh, chính quyền thủ phạm của vụ tàn sát. Nghĩa là việc can thiệp vô tư này làm thay đổi cục diện nội chiến và có khi dẫn đến việc thay đổi chế độ. Sau đó là gì thì không ai biết được. Chuyện Libya là một điển hình, đang được hâm nóng trong chính trường Hoa Kỳ qua vụ tàn sát năm ngoái tại Benghazi. Một trở ngại bất ngờ khác của việc can thiệp để giải trừ tội ác là sự xuất hiện của Tòa án Hình sự Quốc tế tại thành phố The Hague. Từ kinh nghiệm của tòa án quốc tế Nuremberg để xét xử giới lãnh đạo cao cấp của chế độ Đức Quốc Xã và tiền lệ là Tòa án Quốc tế xét xử việc tàn sát sau khi Nam Tư tan rã, các nước Âu Châu quyết định truy tố lãnh tụ của phe mạnh trong các cuộc nội chiến. Thí dụ như việc bắt giữ và xử án Slobodan Milosevic của Cộng Hòa Serbia. Milosevic quyết định buông tay để khu vực Kosovo của Serbia được tự trị và độc lập, tưởng rằng như vậy là xong. Sau cuộc cách mạng dân chủ tại Serbia, ông ta vẫn bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy tố không vì tội gian lận trong bầu cử, là chuyện nội bộ của Serbia, mà vì tội danh trầm trọng hơn, xảy ra trước đó, tội ác trong chiến tranh và tội ác chống nhân loại. Thề rồi nhân danh việc bảo vệ nhân loại, nguyên tắc công lý chính đáng này gây khó khăn cho việc bảo vệ dân lành trong một cuộc nội chiến. Muammar Gadhafi tại Libya năm kia và Bashar al-Assad năm nay không thể quên được cái án chung thân của Milosevic nên nhất quyết không rời khẩu súng, và tàn sát thường dân cho đến viên đạn hay giọt máu cuối cùng. Họ nương vào nguyên tắc của hiến chương LHQ là không xâm phạm chủ quyền xứ khác và tựa vào sức bảo vệ của Liên Bang Nga, Trung Quốc, hay Iran... Chiến tranh vô nhiễm leo thang thành chiến tranh vô tận Khi vận động can thiệp vì lý do nhân đạo, mọi người trong cuộc đều nêu rõ chủ trương là có giới hạn, đến độ “nhỏ xíu không thể tin nổi” như lời trấn an của Ngoại Trưởng John Kerry về cách ngăn cản một vụ tàn sát thường dân bằng võ khí hóa học tại Syria. Lý tưởng là một cuộc chiến tranh thu gọn và sạch sẽ, vô nhiễm. Ban đầu có thể là một quyết định “cấm bay” (no-fly zone) để tê liệt không quân của phe mạnh, rồi việc phá hủy hệ thống phòng không của chế độ để bảo vệ không quân của phe can thiệp vì chính nghĩa. Nhưng sự thể lại không ngừng ở đó. Các chính quyền chủ trương can thiệp đều nói rõ là “không đổ quân vào trận địa,” mà vẫn phải tung biệt kích, để làm gì thì không ai biết rõ. Biết rõ nhất mà cũng mơ hồ nhất chính là các đơn vị tác chiến bí mật này. Để thu lượm tin tức tình báo quân sự về đối phương và chấm tọa độ cho phe mình oanh kích ? Để liên lạc hay tiếp tế võ khí cho các nhóm nổi dậy? Để làm suy yếu một chế độ mà họ không có quyền lật đổ? Chuyện thông thường, các chế độ này lại không bị suy yếu, nhất là khi lãnh tụ ở trên không quên cái án treo của Tòa án Hình sự Quốc tế đang lơ lửng trên đầu. Họ trả đũa kịch liệt hơn, hoặc tuyệt vọng hơn, khiến thường dân chết nhiều hơn, chưa kể nạn chết oan vì “hỏa lực bạn”... Tức là thay vì minh danh nói rõ là can thiệp nhanh gọn để lật đổ một chế độ tàn ác, chủ nghĩa chiến tranh vì nhân đạo dẫn tới thực tế bất ngờ là chế độ này vẫn tồn tại, chiến tranh lan rộng hơn và dân vô tội tiếp tục chết oan. Nghịch lý này xuất phát từ một chân lý chính trị là trong các nước dân chủ, quần chúng ở dưới và giới đại diện dân cử (Quốc Hội) ở trên rất khó cho Hành pháp quyền sử dụng võ lực để lật đổ lãnh đạo một xứ khác. Chính quyền thường phải kín đáo ra tay trong chớp nhoáng và triệt thoái trước khi nội vụ đổ bể hay lây lan, thời hạn thường là 60 ngày đi vào cộng 30 ngày đi ra trước khi Quốc Hội lên tiếng. Vì lẽ đó, chủ trương can thiệp vì lòng nhân mới phải giao hẹn một chiến dịch quân sự có hạn chế. Mà cũng vì vậy khó kiểm soát được tình hình, làm chiến tranh leo thang. Chiến tranh có thể không leo thang, nhưng chấm dứt với kết quả trái ngược với đạo lý ban đầu. Chúng ta trở về tương quan mạnh/yếu trong cuộc nội chiến. Phe mạnh là chế độ có đặc tính phi nghĩa vì mang tội tàn sát. Phe yếu lẩn trong thường dân vô tội là các lực lượng võ trang khác, mỗi lực lượng lại theo đuổi một mục tiêu bị khỏa lấp vì chính nghĩa chống độc tài. Đặc tính của họ chỉ là sự yếu thế. Khi chế độ tàn ác kia bị lật đổ, như tại Libya hay cả Iraq trước đó, phe yếu thế lại biến thành phe mạnh và không nhất thiết trở thành lực lượng xây dựng dân chủ. Nhẹ nhất thì nội chiến kết thúc bằng nội loạn hay loạn sứ quân. Nặng nhất là sự xuất hiện của một chế độ mới, còn độc tài và hiếu sát hơn chế độ bị tiêu vong. Trong thế giới Hồi Giáo, nặng hơn cả là sự thắng thế của lực lượng khủng bố. Và chiến tranh vô nhiễm có khi kéo dài đến vô tận, và lây lan qua xứ khác. Xuất phát từ một lý do đạo đức chính đáng, lý tưởng can thiệp để bảo vệ dân lành có khi lại gặp hậu quả bất lường. Đây là nguyên nhân khiến người dân đầy từ tâm và rộng lượng như dân Mỹ lại từ chối lời kêu gọi của Tổng Thống Obama. Sau đó, tuần qua, nhiều người tự hỏi rằng Hoa Kỳ có còn những giá trị tinh thần cao quý mà thiên hạ trông đợi hay chăng? Kết luận ở đây là gì? Nhiều người lầm tưởng rằng trong chính trường Mỹ, đảng Cộng Hòa có đặc tính diều hâu chủ chiến và đảng Dân Chủ là phản chiến chủ hòa. Sự thật lại không ngây ngô như vậy. Đa số những người chủ trương việc can thiệp thuộc cánh tả lý tưởng của đảng Dân Chủ. Họ là trí thức theo xu hướng “can thiệp quốc tế” đối lập với xu hướng thực dụng và tự cô lập đến ích kỷ bên cánh hữu của đảng Cộng Hòa. Hồ sơ này quá dài nên xin miễn nêu danh những người nổi tiếng nhất hiện đang ở trong chính quyền Obama (Suzan Rice, Samantha Power, v.v...). Xuất phát từ lòng nhân, lý luận can thiệp của họ lại gần với khuynh hướng được gọi là “tân bảo thủ” (neo-conservative) bên cánh hữu: phát huy dân chủ trên thế giới cũng là một cách ngăn ngừa chiến tranh và khủng bố. Người ta không nên ngạc nhiên: đa số trí thức “tân bảo thủ” đều xuất thân từ cánh tả và thất vọng với tinh thần phản chiến bên đảng Dân Chủ. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Nhân sĩ trí thức VN khởi xướng “Phong trào dân sự và chính trị”

Nhân sĩ trí thức Việt Nam hôm 20-9-2013 đã khởi xướng “Phong trào dân sự và chính trị” đòi chế độ CSVN trả các quyền công dân theo quy định của Hiến pháp hiện hành, cũng như quy ước Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị mà nhà nước Việt Nam đã ký tham gia từ năm 1982 Các nhân sĩ trí thức trong lần trao kiến nghị 72 về sửa đổi Hiến pháp 1992   Các nhân sĩ trí thức khởi xướng phong trào này kêu gọi ký tên, ủng hộ một bản Tuyên bố về thực thi quyền Dân sự và Chính trị với nhận định rằng “trước tình hình trong và ngoài nước hiện nay, chúng tôi thấy rằng giới blogger, các tổ chức, nhóm quyền dân sự-chính trị cần nói lên tiếng nói, quan điểm của mình để cải thiện tình trạng tham nhũng, tụt hậu, nghèo đói, bất công ở Việt Nam. Sự tham gia của quý vị thể hiện tình yêu đất nước, khẳng định quyền công dân; đồng thời, góp phần thúc đẩy hình thành xã hội dân sự tại Việt Nam…” Trong Bản tuyên bố phổ biến ngày 20-9, với 108 nhân sĩ trí thức cùng ký tên yễm trợ nhóm khởi xướng, xác định rằng “Dân sự và chính trị là những quyền thiêng liêng của con người. Từ xưa đến nay, trên toàn thế giới, nơi nào quyền dân sự và chính trị được thực thi thì nơi đó có con người được đảm bảo những điều kiện phát triển tốt nhất”, và chính hiến pháp hiện hành ở Việt nam cũng đã có những quy định nhằm bảo vệ các quyền chính đáng ấy song song với những công ước nhân quyền quốc tế về những quyền dân sự và chính trị. Cũng theo Bản tuyên bố, “để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, qua đó phát huy sức mạnh hòa giải và đoàn kết dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia….” Dưới đây là nguyên văn Bản tuyên bố của nhân sĩ trí thức khởi xướng Phong trào dân sự và chính trị:   TUYÊN BỐ VỀ THỰC THI QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ   Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định tại điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (mà Nhà nước Việt Nam ký tham gia ngày 24/9/1982) quy định cụ thể về quyền bày tỏ quan điểm, quyền hội họp và lập hội: “Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia” (trích điều 19[1]); “Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận” (trích điều 21); “Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình” (trích điều 22). Những quy định tương tự cũng có trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố ngày 10/12/1948 mà mọi quốc gia thành viên đếu phải tôn trọng [2] . Căn cứ vào những quy định đó, các ý kiến đóng góp cho việc sửa đổi Hiến pháp khác với quan điểm của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội lập, đặc biệt là về những điều cơ bản của thể chế chính trị (như Kiến nghị do 72 người ký trực tiếp ngày 19-1-2013, thường được gọi tắt là Kiến nghị 72, Tuyên bố của Hội đồng Giám mục, Tuyên bố công dân tự do, ý kiến trên trang mạng Cùng viết Hiến pháp, và nhiều ý kiến của đồng bào trong và ngoài nước trên các trang thông tin điện tử) là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp và Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (dưới đây gọi tắt là Công ước quốc tế). Điều đó cũng đúng với nhiều tiếng nói đòi dân chủ và thực hiện các quyền tự do đã được quy định trong Hiến pháp, gắn liền với yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, hòa nhịp với các hình thức đấu tranh của nông dân bị mất đất, của công nhân đòi việc làm và cải thiện đời sống. Những tiếng nói đó của các tổ chức và nhóm như Hội đồng Giám mục, nhóm các chức sắc tôn giáo, nhóm công dân tự do, nhóm Tuyên bố 258, câu lạc bộ NoU, v.v., hoặc của nhiều cá nhân ở trong và ngoài nước mang tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ, đều được bày tỏ một cách ôn hòa, hợp pháp. Chúng tôi, những người ký tên dưới đây hoan nghênh ý thức xây dựng của những tiếng nói đó và thấy rằng để phản ảnh yêu cầu của đông đảo nhân dân, cần khởi xướng một Diễn đàn trao đổi và tập hợp các ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Đó là mục đích hoạt động của Diễn đàn, hoàn toàn phù hợp với hiến pháp của nước ta và Công ước quốc tế. Diễn đàn này mang tên “Diễn đàn xã hội dân sự” và có trang thông tin điện tử là nơi bày tỏ ý kiến của các tổ chức, các nhóm, các cá nhân cùng theo đuổi mục đích nêu trên, với mong muốn xã hội dân sự ở nước ta phát triển đúng với yêu cầu của một nước dân chủ. Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền. Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền. Việc sửa đổi Hiến pháp đang còn ý kiến khác nhau về những vấn đề cơ bản của thể chế chính trị. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi dự định trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp cuối năm tuy có một số điều chỉnh chi tiết nhưng về cơ bản vẫn duy trì thể chế toàn trị của giới cầm quyền nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Đó là nguyên nhân gốc rễ khiến nước ta lâm vào khủng hoảng trên nhiều mặt: kinh tế suy giảm nặng và không ổn định, văn hóa suy đồi, đạo đức băng hoại, môi sinh bị tàn phá, trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh thua kém nhiều nước trong khu vực, dân mất lòng tin đối với bộ máy cầm quyền; trong khi đó, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị thế lực bành trướng Trung Quốc gia tăng các hành động xâm phạm. Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, qua đó phát huy sức mạnh hòa giải và đoàn kết dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. ĐCSVN, với vị trí là đảng đang cầm quyền, tự nhận vì nước vì dân, có trách nhiệm thúc đẩy quá trình chuyển đổi đó một cách chủ động, mở đầu bằng việc sửa đổi Hiến pháp. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống và cũng là phương án tối ưu cho sự chuyển đổi thể chế chính trị một cách ôn hòa ở nước ta. Nếu Hiến pháp sửa đổi vẫn duy trì thể chế toàn trị được thông qua và ban hành chính thức thì các thách thức mà đất nước và dân tộc đang đối mặt càng thêm nghiêm trọng dẫn tới hệ quả khôn lường, dân càng thất vọng và bất bình, uy tín của nước ta trong quan hệ quốc tế càng giảm sút. Đó thật sự là tai họa cho đất nước mà trách nhiệm thuộc về giới cầm quyền. Vì vậy, Diễn đàn xã hội dân sự yêu cầu Quốc hội dừng việc thông qua bản Hiến pháp sửa đổi trong đó thể chế chính trị hiện hành vẫn được duy trì về cơ bản, kéo dài thời gian thảo luận về Hiến pháp và thật lòng tổ chức nghiên cứu, tranh luận một cách thẳng thắn, nghiêm túc và công khai về những điều cơ bản của thể chế chính trị đang còn ý kiến khác nhau. Tuyên bố này được gửi tới các thành viên cơ quan lãnh đạo ĐCS và Nhà nước; đồng thời được công bố trên mạng xã hội để phổ biến rộng rãi, mong đồng bào trong và ngoài nước biểu thị sự đồng tình, hưởng ứng.   Ngày 23 tháng 9 năm 2013Những người khởi xướng Diễn đàn xã hội dân sự Ghi chú: - Ý kiến hưởng ứng Tuyên bố này xin gửi về địa chỉ e-mail: diendanxahoidansu@gmail.com - Cách thức tham gia Diễn đàn sẽ được thông báo sau.     DANH SÁCH 130 NGƯỜI KÝ TÊN TUYÊN BỐ THỰC THI QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ tính đến ngày 23-9-2013 (Theo Bauxite Việt Nam) * Danh sách ký tên Thông Tin Đức Quốc đăng trong 48 giờ qua có vài khác biệt với các danh sách khác nên chúng tôi tạm thời lấy xuống để chờ phối kiểm (BBT TTĐQ) ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- [1] Điều 19 của Công ước này còn có khoản kế tiếp như sau: 3-Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a-Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác. b-Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý. [2] Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định tại điều 19: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới” và điều 20: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể”.
......

Xả lũ “giết sống” ở Đắc Lắc: Phải có án cho những kẻ gây án!

Đáy trách nhiệm quan chức luôn là đỉnh phẫn uất của nhân dân. Giết sống!   Mùa mưa lũ 2013, người dân nghèo Đắc Lắc lại có thêm một bằng chứng không cần che giấu về cái đáy mà họ đang phải đối mặt. Cú xả lũ vào vùng trũng lòng dân của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) vào giữa tháng 9/2013 là một chứng thực mang tính bất chấp như thế. Lũ cuốn trôi nhiều ngôi nhà chiều 17/9   Vụ việc nhẫn tâm này xảy ra tại địa bàn xã Cư K'bang, huyện Ea Súp, nơi có đến 11 người mất tích trong khi đi làm rẫy tại vùng giáp ranh với xã Ia Lơi. Theo tường thuật của báo Lao Động, trong số người mất tích, lực lượng cứu hộ chỉ tìm thấy thi thể một người chết treo trên ngọn cây, nhưng do nước chảy xiết nên vẫn chưa đưa được vào bờ.   Thống kê chưa đầy đủ cho thấy tại huyện Ea H'leo có 91 ngôi nhà bị ngập, 14 nhà bị cuốn trôi hoàn toàn, 3 nhà bị sập do mưa lũ. Nguyên nhân chủ yếu do việc xả lũ hồ chứa nước thị trấn Ea Đrăng. Một lần nữa trong không ít lần từ nhiều năm qua, vô cảm quan chức đã dồn tình cảnh dân chúng xuống những gì mà kịch tác gia vô sản Marxim Gorki đã thẳng thừng lột tả trong vở “Dưới đáy” của ông vào đêm trước Cách mạng tháng Mười Nga. “Dưới đáy” ở Việt Nam cũng là đêm không ngủ. Không một quan chức nào từ cấp địa phương đến ấp trung ương lại thuộc về số nạn nhân chỉ trong phút chốc đã bị mất toàn bộ tài sản nhỏ nhoi và miếng ăn còn sót lại, cũng đã không một hành động nào được các “đầy tớ” làm sáng tỏ cho những cái chết trong quá khứ để tránh thoát những cái chết vừa mới xảy ra. “Vô cảm” xem ra vẫn là từ ngữ nhẹ nhàng và lịch sự mà báo giới và dư luận dành để mô tả về quan chức thời nay. Phú Yên những năm trước đã là một điển hình về sự vô lương tâm chưa hề có đáy. Liên tiếp những cú xả lũ của Thủy điện sông Hinh và Thủy điện sông Ba Hạ đã làm cho gần hết Tuy Hòa ngập chìm trong biển nước. Một người đàn ông bị lật xuồng và một người phụ nữ khác bị lũ cuốn trôi. Nhưng đau đớn đến tận cùng là những nạn nhân tuổi còn đi học đã bị lũ cuốn phăng tuổi xuân khi dắt xe qua cầu. Khi nước lũ rút, hàng xóm tìm thấy thi thể ba người cùng một gia đình quấn chặt lấy nhau bằng dây. Thì ra trong phút lâm chung, những người hấp hối vẫn không muốn bị mất xác nhau. Những nén nhang và tiếng khóc thảm thiết của người dân huyện Đồng Xuân ở Phú Yên vẫn còn đó. Chết mà không biết vì sao sinh mạng lại bị kết thúc đột ngột đến thế, cũng không biết kẻ nào đã cướp đi đời mình mà không một lời tạ tội. Tội ác! Tất nhiên, EVN và nhà chức trách địa phương luôn có lý do để bao biện cho hậu quả kinh khủng trên, với điều thường được viện dẫn là do “hoàn cảnh khách quan bão lũ” mà khiến việc xả lũ là không tránh khỏi, nếu không muốn làm ảnh hưởng đến tính mạng của hàng ngàn hộ dân trong vùng trũng. Tuy thế, cũng như nhiều lần lũ hồ thủy điện bị xả đột ngột vào dân như trước đây, nhiều người dân Đắc Lắc cho biết đã không nhận được bất kỳ thông báo sơ tán, di dời nào từ cấp chính quyền địa phương. Vậy trách nhiệm cuối cùng thuộc về ai – chính quyền địa phương hay EVN? Giờ đây, sau tất cả những hậu quả khó tha thứ, giới quan chức mới như nén cười để bàn thảo với nhau về cái được gọi là “cần có quy chế phối hợp trong việc xả lũ”. Nhưng sau hàng loạt vụ xả lũ như một cách giết sống người dân, vẫn không có bất kỳ một quan chức nào bị đưa ra truy tố và xét xử. Mọi việc vẫn treo nguyên vẹn ở đó, hệt như dòng lũ trắng luôn treo lơ lửng trên đầu người dân vùng rốn lũ. Tội ác đã đến từ cấp độ không chỉ vô cảm, mà còn hơn thế nhiều, rất nhiều. Trước khi xả lũ vào vùng trũng nhân dân, Tập đoàn EVN đã từng bị xem là một trong những cái rốn “cặn bã” nhất của khối doanh nghiệp độc quyền và đặc lợi ở Việt Nam. Suốt trong những năm 2007-2008, doanh nghiệp được xem là “cậu ấm hư hỏng” nhưng cũng là đứa con cưng của Bộ Công thương đã làm nên một một kỷ lục ghê gớm về số lỗ do đầu tư trái ngành vào bất động sản, chứng khoán, để vào năm 2013, một báo cáo của cơ quan chức năng mới cho biết số lỗ còn treo mà EVN bị nhấn chìm trong đó lên tới hơn 34.000 tỷ đồng, tương đương với hàng trăm ngàn ngôi nhà tình nghĩa. Cũng từ khi trở thành “nạn nhân” của đầu tư trái ngành, EVN đã hóa thân như một trong những tác nhân ghê gớm nhất trút lỗ lên đầu người dân, với các chiến dịch tăng giá điện được tiến hành không ngưng nghỉ, liên tiếp gây sức ép lên đời sống dân sinh cùng kích động lạm phát. Dư luận cũng dội lên một nghi ngờ rất lớn là cơ quan chủ quản của tập đoàn này – Bộ Công thương – cũng đã không ít lần “đi đêm” cho những đợt tăng giá làm khốn đốn dân tình. Một lần nữa, giới báo chí phải thổn thức về điều được gọi là “trách nhiệm” của EVN với câu hỏi cay đắng: liệu EVN có nghĩa vụ gì đối với việc bồi thường về những tài sản bị phá hoại của người dân trong đợt xả lũ đột ngột và gây chết người thảm thương vừa qua ở Đắc Lắc? Và nếu trách nhiệm ấy được thực thi, liệu tập đoàn này có lấy đó làm cái cớ để một lần nữa “bù lỗ vào dân” như đã từng hành xử không nương tay trong mấy năm qua? Những năm qua, không một tiếng nói có trách nhiệm và đủ tự trọng nào được cất lên từ Bộ Công thương, Bộ Tài chính hay Chính phủ để kềm giữ hành động đổ lỗ lên đầu người dân của EVN. Thói vô lương tâm của quan chức vẫn luôn dẫn tới vô số trác táng trên bàn tiệc và những cuộc chơi bất tận thâu đêm, bất kể cảnh khốn cùng và bất chấp lời nguyền rủa từ những kẻ đóng thuế bất hạnh. Kết án! Với nhiều người dân và cả những công chức vẫn thê thiết trong thói quen cam chịu, âu đó cũng là bi kịch của một đất nước kém phát triển. Phát triển càng tụt hậu, đạo đức càng lụn bại thì càng khó có chuyện chịu trách nhiệm hành chính về những hậu quả đã quá đủ để kết tội hình sự. Người ta vẫn không thể quên hậu sự Bộ trưởng Giao thông Hàn Quốc đã phải từ chức chỉ sau vụ một cây cầu bị sập, hoặc Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản phải ra đi sau một vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra tại một trường học… Ở nhiều quốc gia phát triển, người ta luôn chứng kiến người dân sẵn lòng biểu tình để biểu thị sự phẫn nộ chính đáng trước những chính sách bất hợp lý và hậu quả xã hội mà giới quan chức gây ra. Vào đầu năm 2013, cuộc xuống đường của hàng chục ngàn người dân thủ đô Sophia ở Bulgaria phản kháng hành động tăng giá điện của hai tập đoàn điện lực tư nhân đã khiến chính Thủ tướng của quốc gia này phải nghẹn lòng từ chức. Nhưng với Việt Nam, vẫn chưa có một cuộc biểu thị phẫn uất tương xứng với quá nhiều hậu quả khủng khiếp về kinh tế và dân sinh, và vẫn còn lâu mới có được “văn hóa từ chức”. Tất cả vẫn đang bị kìm nén bởi chính những đạo luật về quyền tự do lập hội và quyền tự do biểu tình có lẽ còn lâu mới được đẻ muộn bởi bà mẹ Hiến pháp. Ở một đất nước được xem là “đang trên đường phát triển” như Việt Nam, người ta vẫn cố nén lòng nhẫn nhịn không thể hiểu nổi và còn chưa hồi kết. Tâm thế trầm cảm trùm mền không thể diễn tả ấy lại vẫn lắng đọng trong vô số hiện tồn ngổn ngang và vẫn ngày đêm hành hạ lương tâm của những người còn rơi rớt lương tâm. Nhưng cũng bởi chính tâm lý cam phận như thế của đại đa số người dân mà trong não trạng của những nhóm lợi ích đặc quyền và đặc lợi, ngay cả lương tâm cũng là một thứ có thể “ăn” được. Đó cũng là lời cảm thán chẳng đặng đừng mới đây của bà Nguyễn Thị Doan – Phó Chủ tịch nước – về chuyện “Ăn của dân không chừa thứ gì”, cho dù cách đây không lâu chính khách xót xa này còn giương cao khẩu hiệu “Dân chủ nước ta gấp vạn lần tư bản”. Xót xa thực chất phải cộng hưởng với cùng khổ không lối thoát. Dân chủ không phải và không thể là những từ ngữ mị dân xen giả dối, mà phải bắt nguồn từ chính miếng cơm manh áo của dân nghèo – điều mà tiền nhân của những người cộng sản là Hồ Chí Minh đã sống và làm đúng như thế, nhưng lớp hậu bối xem ra lại quá bất cẩn, giáo điều và giả tạo trong việc “học tập và làm theo” tấm gương của ông. Không thể nói khác hơn, những vụ việc vô lương tâm của EVN và ngành thủy điện đang đẩy trách nhiệm của giới quan chức xuống một cái đáy chưa tận cùng, đồng thời thúc tình cảm phẫn nộ của các nạn nhân lên đến cận đỉnh điểm. Hiện tình, cái được giới quan chức khối nội chính xem là “điểm nổ” chắc chắn đã tiến xa hơn nhiều so với khái niệm “điểm nóng” trước đây, biến hình tâm trạng người dân vào một cơn lũ mới với lưu lượng không thể tính được từ động lượng phẫn nộ, mà mức đỉnh của nó có thể dâng vượt mặt của giới chức chính quyền trong một tâm thế không còn gì để mất. Không thể nói khác hơn, một trong một số ít việc còn lại để hy vọng lấy lại những gì đã mất là phải mổ xẻ đến tận cùng hành vi bị coi là tội ác của EVN đối với nhân dân. Không cần và không còn thời gian để bàn về “quy chế phối hợp xả lũ” nữa. Mưa lũ vẫn đang và vẫn sẽ tiếp diễn, ập xuống từ trên trời nhưng cũng sẽ dội lên từ lòng đất. Sẽ còn những cái chết, nhiều sinh mạng bị đánh cắp và đánh cướp. Phải có án cho những kẻ gây án! P. C. D. Nguồn BVN  
......

Tuyên bố của Linh mục đoàn giáo phận Vinh

Về vụ trấn áp giáo dân tại Mỹ Yên Xã Đoài, ngày 16 tháng 9 năm 2013 Chúng tôi - Giám mục và Linh Mục Đoàn giáo phận Vinh, đại diện hơn 526.000 giáo dân giáo phận Vinh đang sống và làm việc tại ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình - theo dõi cách hành xử của chính quyền Nghệ An về vấn đề tôn giáo và nhân quyền trong thời gian qua, đặc biệt qua vụ đàn áp tại giáo xứ Mỹ Yên, tuyên bố:   1. Hiệp thông sâu xa, đồng quan điểm với Tòa Giám mục và Giám mục giáo phận trong các văn bản: Thông cáo số 01/13 – TG, ngày 05/9/2013 của Văn phòng Tòa Giám mục; Thư Chung ngày 06/9/2013 của Đức Giám mục giáo phận; Văn thư số 02/13 – TG, ngày 07/9/2013 của Tòa Giám mục Xã Đoài; Bản Tường Trình số 03/13 – TG, ngày 10/9/2013 và Văn thư số 04/13 – TG ngày 15/9/2013 của Văn phòng Tòa Giám mục, lên án bạo quyền, nhằm bảo vệ sự thật, bảo vệ nhân quyền vốn bị đàn áp trên địa bàn Nghệ An trong thời gian qua. 2. Vụ việc tại giáo xứ Mỹ Yên vừa qua là hậu quả của vụ gây rối tối 22/5/2013, tại giáo họ Trại Gáo do các “chiến sỹ công an” mặc thường phục ngăn cản người đi dự lễ, gây bất bình cho quần chúng và đánh thức bản năng tự vệ của nhân dân, dẫn đến những bức xúc bộc phát thiếu kiểm soát, gây hậu quả nghiêm trọng! Tất cả hậu quả quy về nguyên nhân, vì thế, trách nhiệm thuộc về những “chiến sỹ công an” và cơ quan chủ quản của các “chiến sỹ” ấy. 3. Việc tùy tiện bắt ông Ngô Văn Khởi và ông Nguyễn Văn Hải ngày 27/6/2013 không chỉ vô căn cứ, mà còn trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, phi đạo đức và trái truyền thống nhân ái của dân tộc. Đây là hậu quả của việc bao che hành vi sai trái của cán bộ công quyền và là nguyên nhân dẫn đến việc người dân tập trung ôn hòa đến UBND xã Nghi Phương, làm cớ để nhà cầm quyền dùng vũ lực và côn đồ trấn áp quần chúng. 4. Vụ đàn áp đẫm máu ngày 04/9/2013, tại giáo xứ Mỹ Yên là hành động bất nhân và trái pháp luật, do Công an Nghệ An dàn dựng công phu và tổ chức thực hiện. Chúng tôi lên án hành vi bạo lực đối với dân lành! Việc đột nhập nhà anh Nguyễn Văn Văn đánh và bắt người, phá tài sản, là vi phạm quyền bất khả xâm phạm chỗ ở (Điều 73 Hiến Pháp 1992, sửa đổi 2001), quyền bất khả xâm phạm thân thể (Điều 71 Hiến Pháp Việt Nam 1992 sửa đổi 2001), quyền sở hữu hợp pháp (Điều 58 Hiến pháp 1992, sửa đổi 2001). Đặc biệt, việc đập phá tượng thánh trên bàn thờ tư gia là hành vi phạm thánh, xúc phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo (Điều 70 Hiến Pháp Việt Nam 1992, sửa đổi 2001). Những hành động này hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế về nhân quyền (Điều 1, 2, 3, 5, 9 và 12, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948, Việt Nam ký cam kết thực hiện từ ngày 20/9/1977; Điều 9, 17 và 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966, có hiệu lực 1976 mà Việt Nam ký cam kết thực hiện từ ngày 24/9/1982). Mặt khác, qua vụ đàn áp này, Công an Nghệ An đã giẫm đạp lên Quốc huy Nhà nước khi phủ nhận giá trị pháp lý Giấy cam kết thả người của UBND xã Nghi Phương. 5. Nhà cầm quyền dùng báo đài và Công văn 139/UBND-NC ngày 08/9/2013 của UBND tỉnh Nghệ An để lấp liếm sự thật, vu cáo Giám mục, nói xấu hàng Linh mục, đánh lừa dư luận là đổ thêm dầu vào lửa và gây rất nhiều khó khăn cho việc đối thoại vốn được xây dựng công phu giữa giáo phận Vinh và nhà cầm quyền Nghệ An. Tóm lại, vụ đàn áp tại Mỹ Yên là do chính quyền tổ chức và trực tiếp chỉ đạo, nên chính quyền phải chịu toàn bộ trách nhiệm. Các Giám mục, Linh mục, bà con Giáo dân và Nhân dân trong vùng chỉ là nạn nhân của vụ đàn áp nên cần được bảo vệ. Chúng tôi hiệp thông sâu xa với Giám mục giáo phận của chúng tôi để bảo vệ sự thật, lên án bạo quyền và bảo vệ dân lành. Chúng tôi không ngừng yêu cầu nhà cầm quyền làm rõ trách nhiệm của các cán bộ và cơ quan liên quan đến vụ việc, đồng thời trả tự do cho ông Ngô Văn Khởi và Nguyễn Văn Hải. Trân trọng! Chúng tôi đồng ký tên Linh mục Gioan Nguyễn Hồng Pháp, Thư ký Hội đồng Linh mục Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Vinh, Phó chủ tịch Hội đồng Linh mục Cùng với chữ ký của Đức Giám mục Phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Viên, Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên và 199 linh mục Giáo phận Vinh.      
......

Đức Giáo hoàng Phanxicô thúc giục người Công giáo tham gia chính trị

Người Công giao không nên thờ ơ với chính trị – Đức Giáo hoàng Phanxicô nói – nhưng cần đưa ra các đề nghị, cũng như cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo biết phục vụ lợi ích chung trong khiêm nhường và lòng mến. Trong bài giảng lễ thường hôm 16-9 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Giáo hoàng bác bỏ ý kiến cho rằng “một người Công giáo tốt không can thiệp vào các vấn đề chính trị”. “Điều đó không đúng. Đó không phải là con đường tốt - Theo đài phát thanh Vatican, Đức Giáo hoàng nói - Một người Công giáo tốt cần tham dự vào các vấn đề chính trị, cống hiến tất cả những gì tốt nhất có thể, nhờ đó những ai đang cai trị biết cách cai trị”. “Không ai trong chúng ta có thể nói: Tôi chẳng có gì để làm với chuyện này, để họ cai trị” – Đức Phanxicô nói với những người tham dự Thánh lễ. Thay vào đó, các công dân có trách nhiệm tham gia vào chính trị theo khả năng của mình, và bằng cách này họ chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của họ. “Chính trị, theo Học thuyết xã hội của Giáo hội, là một trong những hình thức đức ái cao nhất, bởi nó phục vụ lợi ích chung” – ngài giải thích – Tôi không thể phủi tay, phải không? Tất cả chúng ta cần phải cho đi một điều gì đó”! Ngài lưu ý rằng bình thường người ta hay chỉ trích các lãnh đạo của họ, than phiền về “những điều không đúng”. Thay vì chỉ than phiền, chúng ta cần phải cống hiến – ý tưởng, đề nghị và nhất là lời cầu nguyện của mình, Đức Thánh cha nói. Ngài nhìn nhận cầu nguyện là “phương thế tốt nhất chúng ta có thể làm cho các nhà lãnh đạo” và ngài trích thư thánh Phaolô gởi Timôthê mời gọi cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo biết thay đổi và lãnh đạo vững vàng. vietnam.ucanews dịch từ Catholic News Agency Pope calls faithful to pray, participate actively in politics Pope Francis gives the homily during Mass in St. Peter's Basilica on July 7, 2013. Credit: Lauren Cater/CNA. Vatican City, Sep 16, 2013 / 11:48 am (CNA/EWTN News).- Catholics should not be indifferent to politics, Pope Francis said, but should offer their suggestions, as well as prayers that their leaders may serve the common good in humility and love. In his Sept. 16 daily homily at Santa Marta, the Pope rejected the idea that “a good Catholic doesn’t meddle in politics.” “That’s not true. That is not a good path,” he said, according to Vatican Radio. “A good Catholic meddles in politics, offering the best of himself, so that those who govern can govern.” “None of us can say, ‘I have nothing to do with this, they govern,’” Pope Francis told those present for the Mass. Rather, citizens are responsible for participating in politics according to their ability, and in this way are responsible for their leadership. “Politics, according to the Social Doctrine of the Church, is one of the highest forms of charity, because it serves the common good,” he explained. “I cannot wash my hands, eh? We all have to give something!” He noted that it is sometimes common for people to speak only critically of their leaders, to complain about “things that don’t go well.” Instead of simply complaining, we should offer ourselves – our ideas, suggestions, and most of all our prayers, the Holy Father said. Observing that prayer is “the best that we can offer to those who govern,” he pointed to St. Paul’s letter to Timothy inviting prayer for the conversion and strong leadership of those in authority. Even if they believe certain politicians to be “wicked,” Christians should pray “that they can govern well, that they can love their people, that they can serve their people, that they can be humble,” he said. At the same time, the Pope reflected on the role of those who hold political power, stressing the need for humility and love. Reflecting on the Gospel of the centurion who humbly and confidently asked for the healing of his servant, the Holy Father explained that “a leader who doesn’t love, cannot govern – at best they can discipline, they can give a little bit of order, but they can’t govern.” In addition, he emphasized, “You can’t govern without loving the people and without humility!” “And every man, every woman who has to take up the service of government, must ask themselves two questions: ‘Do I love my people in order to serve them better? Am I humble and do I listen to everybody, to diverse opinions in order to choose the best path?’” “If you don’t ask those questions, your governance will not be good,” Pope Francis continued. “The man or woman who governs – who loves his people is a humble man or woman.” Tags: Politics, Pope Francis
......

Những viên ngọc quí trong tù ngục

Ngày 2 tháng 9 đến rồi đi, để lại nỗi thất vọng trong lòng nhiều người. Theo sau chuyến đi của ông Trương Tấn Sang đến Hoa Kỳ hội kiến với ông Obama, trong giới blogger đã có không ít người hy vọng một giai đoạn mới trong hồ sơ nhân quyền Việt Nam bắt đầu. Đó là hy vọng giới lãnh đạo Việt Nam sẽ theo chân Miến Điện thả - nếu không tất cả thì cũng rất nhiều - tù chính trị nhân dịp ngày 2 tháng 9. Nhưng thay vì các tin vui về thái độ đối xử mới văn minh hơn, người ta chỉ thấy các cảnh bao vây các nhà dân chủ ngặt nghèo hơn và các đợt đàn áp tôn giáo mới từ Nam chí Bắc.   Nhưng cũng trong tháng 9 này, người Việt Nam cùng nhớ có ít là 5 sinh nhật trong tù của các anh chị Điếu Cày. Tạ Phong Tần, Nguyễn Tiến Trung, Lê Quốc Quân, Đậu Văn Dương; và 1 sinh nhật của anh Nguyễn Xuân Anh vừa ra tù. Những ngày đánh dấu thời điểm bắt đầu của 6 cuộc đời này và những cuộc đời khác nữa đang hy sinh trong tù ngục vì tương lai của người khác để lại trong chúng ta không ít khắc khoải. Ai trong chúng ta lại chẳng biết tình trạng xã hội bế tắc, đất nước suy đồi, nguy cơ mất dần đất nước vào tay Trung Quốc ngày càng rõ nét hiện nay cần phải được chấm dứt. Ai lại chẳng biết đây là những việc mà chính dân tộc Việt Nam phải đứng lên giải quyết chứ không thể trông chờ hay nhờ vả ai khác. Nhưng câu hỏi thách thức to lớn nhất vẫn là: AI TRONG CHÚNG TA SẼ ĐỨNG LÊN ĐẦU TIÊN để làm những việc cần thiết đó??? Xin thưa chính là những trái tim yêu nước, yêu người tha thiết đang ngồi trong tù ngục hiện nay! Những con người xem bề ngoài có vẻ bình thường ấy đã từng sống ngay bên cạnh chúng ta nhưng ít người nhận ra họ. Dưới sự cai trị nghiệt ngã và hung bạo của chế độ độc tài CSVN suốt 3/4 thế kỷ qua, ai nấy, dù già hay trẻ, đều biết loại chuyện gì sẽ ập xuống đầu những người dám đứng lên cảnh báo về những nguy hiểm cho đất nước, những đau khổ cho dân tộc, và quan trọng hơn nữa là chỉ ra nguồn gốc của các nguy hiểm đó chính là chế độ đang cai trị đất nước. Và không chỉ riêng họ, mà cả gia đình, bè bạn của những người nói lên tiếng lương tâm này cũng bị vạ lây. Và cũng từ 3/4 thế kỷ sống dưới sự trấn áp đến độ luôn tự kiểm duyệt suy nghĩ của chính mình đó, mà rất nhiều người trong chúng ta không hiểu nổi tiếng gọi lương tâm là gì mà lại đủ sức thúc giục những người dám đứng lên làm chuyện "điên rồ" ấy. Thật vậy, trong nhiều giai đoạn trong quá khứ, những người như nhà thơ Hữu Loan, nhà văn Trần Dần, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, v.v... bị xem là "những anh dở hơi", "hâm", "mắc bệnh tâm thần". Nhưng những trái tim khát khao danh dự cho đất nước và nhân phẩm cho dân tộc này không chỉ bất chấp các đòn phép trấn áp của bạo quyền mà còn bất chấp cả ánh mắt ngờ vực của nhiều người chung quanh, để tập trung vào những mục tiêu mà họ muốn xả thân phục vụ. Họ là những Dương Kim Khải, Trần Thị Thúy, Lê Thị Kim Thu, Lê Thị Ngọc Đa,… những người dân bình thường nhưng quên cả những oan khuất của chính mình để giúp bà con dân oan khác đòi công lý, đòi lại miếng đất kiếm sống duy nhất của gia đình. Đây là những người cùng sống lê lết trên vỉa hè với các nạn nhân khác, cùng chịu những cú đòn dã man của công an, và nay đang bị các cai tù cố tình đày đọa hơn cả những tù nhân khác. Họ là những Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương,... những người xót xa trước cảnh các công nhân Việt đang bị chính chế độ của giai cấp Công Nông tiếp tay với tư bản nước ngoài hà hiếp, đánh đập, và ngay cả quịt lương. Nay trong lao tù, đảng của giai cấp Công Nông lại căm thù họ hơn xa cả mối thù tư bản trước kia. Những tin tức về các trận đánh đập và các căn bệnh trên người Đỗ Thị Minh Hạnh đang làm rơi nước mắt nơi những người còn lương tâm trên khắp thế giới. Họ là những Lm. Nguyễn Văn Lý, Ms. Nguyễn Công Chính, Lê Văn Sơn, Đặng Xuân Diệu, Nông Hùng Anh, Nguyễn Văn Duyệt, Thái Văn Dung, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Đình Cương, Trần Minh Nhật, Hồ Văn Oanh, Nguyễn Xuân Anh, Hồ Đức Hòa, ... những người chỉ muốn mọi người dân Việt dù theo tín ngưỡng nào cũng có quyền sống đạo và có thể góp phần băng bó lại xã hội đang tan nát, băng hoại về mọi mặt. Họ là những Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Ngọc Minh,… những người đau thắt ruột gan nhìn từng phần đất, phần biển đảo rời khỏi thân thể tổ quốc. Không những thế, các ngư dân Việt bị giặc Tàu cướp bóc, đánh đập, bắn giết trên biển Đông. Rồi từng đoàn, từng vùng biệt lập của quân đội Tàu trá hình cứ mọc lên như nấm tại những nơi hiểm yếu của đất nước, kể cả trên "nóc nhà Đông Dương" và dọc theo biên giới. Những trái tim yêu nước này đã phải lên tiếng dù biết đang làm phật lòng giới lãnh đạo tại cả Hà Nội và Bắc Kinh. Họ là những Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim, Lê Quốc Quân, Vi Đức Hồi,... những người thấy xa hơn tương lai tụt hậu và bần cùng của đất nước dưới ách cai trị độc tài hiện nay. Họ tha thiết kêu gọi dân tộc Việt hãy chọn một con đường mới cho Việt Nam. Hiển nhiên khi cái nhãn "tâm thần" không còn hữu hiệu như trong quá khứ nữa, ban tuyên giáo và báo đài của đảng đã thử dán lên những người Việt yêu nước này đủ loại nhãn hiệu xấu xa khác, như "những phần tử bất mãn", "những kẻ hám danh", "tranh đấu để kiếm thu nhập", "thi hành các chỉ thị của những thế lực thù địch nước ngoài",... Bên cạnh đó là những lời khuyên can ngon ngọt, như "yêu nước thế là tốt rồi, nay về đi để nhà nước lo", "chuyện ngoại giao lớn lao dân biết gì mà lo, hãy tin vào lãnh đạo", "tuổi trẻ hãy lo học hành và ngành nghề chuyên môn", "đất nước cần ổn định để phát triển",... Nhưng những lời này không làm rúng động hay lừa bịp được những con dân Việt nêu trên vì họ không chỉ nhớ mà còn dùng lịch sử Việt Nam để thuyết phục người chung quanh. Trong dòng lịch sử của dân tộc những lời xỉ vả và ru ngủ mà ban tuyên giáo đảng CSVN đang dùng đã xuất hiện vô số lần. Chắc chắn đã có những kẻ từng khuyên Trần Quốc Toản là còn nhỏ không nên lo chuyện đất nước, hay khuyên Phạm Ngũ Lão chỉ nên tập trung vào ngành nghề chuyên môn, chuyện quốc gia đại sự hãy để người khác lo. Chắc chắn chế độ nhà Minh từng phê phán cái làng của dòng họ Lê Lợi chỉ là đám phá hoại ổn định xã hội. Chắc chắn đã có những người từng tố cáo vua Quang Trung giữ ý đồ phá hoại quan hệ hữu hảo với Bắc Triều mà vua Lê đã dày công xây đắp với vua Thanh. Chắc chắn có những kẻ từng khuyên Ngô Thì Nhậm cứ nhắm mắt cầm chắc sổ hưu dù phục vụ triều đình nào cũng được. Chắc chắn đã có các quan tòa của chế độ thực dân Pháp từng lên án những người đòi chủ quyền cho Việt Nam là lũ lạm dụng quyền tự do dân chủ để tuyên truyền nói xấu chế độ, để âm mưu lật đổ, để khủng bố và phá hoại sự phát triển trong ổn định,... Và một điều nữa cũng đã trở thành qui luật: Trong suốt dòng lịch sử Việt Nam, sinh mạng dân tộc vẫn luôn phụ thuộc vào những con dân Việt như vậy. Chính họ, những con người bình thường nhưng ý chí cao vòi vọi và niềm tin sắt đá vào công lý, lẽ phải, và truyền thống dân tộc; đang sẵn sàng hy sinh bản thân họ cho niềm tin đó. Sự hy sinh này đang làm thay đổi suy tư của cả một dân tộc sau gần 7 thập niên bị đảng CS thuần hoá trong tư cách sống dưới cả gà vịt (nếu dùng từ ngữ của nhà văn Võ Thị Hảo). Con đường trước mặt cho dân tộc đã mở ra và đã được trả giá bằng những hy sinh cao quí. Đã đến lúc chúng ta, phần còn lại của dân tộc, mạnh dạn bước tới, theo gương những anh chị đã mở đường. Chúng ta sẽ tập trung với tất cả quyết tâm vào mục tiêu trước mặt là tương lai tự do, phú cường, nhân phẩm và hạnh phúc cho dân tộc, bất chấp các trò bạo hành và mọi loại chướng ngại khác dọc đường. Nguồn: viettan.org
......

Phẩm cách của dân tộc

Hồi đầu tháng trước, tuần báo The Economist mới viết về việc quán McDonald's đầu tiên sắp mở tại Sài Gòn. Ai cũng biết McDonald là một nhãn hiệu quán “ăn nhanh” lớn, chuyên bán “hamburger,” tiêu biểu cho văn hóa ẩm thực của Hoa Kỳ. Chủ nhân tương lai McDonald ở Sàigòn là  Henry Nguyên là con rể của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng   Ðến thành phố lớn nào trên thế giới người ta cũng thấy hình ảnh chữ M cong cong của quán này, mầu vàng trên nền mái ngói đỏ. Họ có 35,000 quán ăn McDonald khắp thế giới. Tôi chỉ thấy ở Cusco, một thành phố du lịch tại Peru, họ không cho phép McDonald's cũng như Starbuck treo những nhãn hiệu lòe loẹt, quán nào cũng chỉ được đề tên giản dị như các cửa hàng ăn uống khác. Bài báo cho biết hãng McDonald's đã quảng bá việc mở quán ăn đầu tiên của họ ở Sài Gòn với một niềm hãnh diện, cho biết chủ nhân của cái quán McDonald's sắp mở là một nhà kinh doanh lớn, một công dân Mỹ gốc Việt. Thuở còn đi học, Henry Nguyên đã từng làm việc trong các quán McDonald ở Mỹ. Henry say mê McDonald, và đã nuôi ý định sau này sẽ làm chủ một cái quán tương tự ở quê hương cha mẹ mình. Bây giờ giấc mộng đó sắp thành sự thật. Ðúng là một hình ảnh lý tưởng, tiêu biểu cho “giấc mơ” của các thanh niên lớn lên ở Mỹ. Khi hãng McDonald's chọn Henry làm người mở quán ăn đầu tiên, theo bản thông cáo gửi báo chí, họ nêu lý do là họ nhận thấy ông ta có “một tập hợp lý tưởng của tài kinh doanh, thành tích kinh doanh đã tạo được, có lòng nhiệt thành và khả năng.” Báo The Economist nêu lên một chi tiết mà bài quảng cáo của hãng McDonald's đã quên không nhắc tới. Henry Nguyên là con rể của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Bài báo này giới thiệu với các độc giả, cho biết thêm: “Bố vợ của Henry Nguyên từ năm 2006 đã làm cho lòng tin tưởng của công chúng Việt Nam bị xoi mòn quá nhiều.” Các thành tích của ông Nguyễn Tấn Dũng được báo này kể ra sơ sài như sau: “Ông Dũng đã chỉ huy các vụ đàn áp những người chống lại ông, hoặc đòi tự do dân chủ, trong nhiều năm qua; thêm vụ phá sản của một công ty làm tầu thủy không trả được món nợ ngoại quốc 600 triệu đô la; và gần đây là tình trạng trì trệ của nền kinh tế khiến các nhà đầu tư nước ngoài hết tin tưởng.” Cũng trong bài báo này, The Economist liệt kê thành tích lo cho con cái của ông Nguyễn Tấn Dũng: “Con đầu là Nguyễn Thanh Nghị đứng xây tòa nhà Bitxco cao nhất Sài Gòn. Con rể là Henry Nguyên, không những là chủ nhân tương lai của quán burger mà còn từng làm giám đốc của IFB Holdings, đã làm chi nhánh của các công ty thực phẩm Pizza Hut cùng với Coffee Bean & Tea Leaf. Con gái là Nguyễn Thanh Phượng thì làm quản trị cao cấp của quỹ đầu tư Viet Capital.” Người Việt Nam còn biết nhiều thành tích khác nữa! Ngoài ông Nguyễn Tấn Dũng, bài báo cũng nhắc tới các “vương tôn công tử” khác đã được cha anh cất nhắc lên các chức vụ lớn và chỗ ngồi béo bở. Như năm 2011, cậu Nông Quốc Tuấn, con Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh về hưu, chỉ làm bí thư tỉnh 5 tháng đã được đưa vào Trung Ương Ðảng. Năm 2007, Phạm Thanh Bình, chủ tịch công ty sắp phá sản Vinashin, đã đưa cậu con 27 tuổi lên làm phó chủ tịch một viện nghiên cứu chế tạo tầu thủy, rồi sau đó cậu được đưa ngay lên ba chức vụ quan trọng khác. Ông Bình còn đưa anh em rể (hoặc anh, em vợ) của mình lên các chức vụ quan trọng, qua mặt hội đồng quản trị. Tờ báo cũng không quên cô Tô Linh Hương, con gái ông Tô Huy Rứa, tốt nghiệp về báo chí, năm 2012 lên làm chủ tịch công ty xây dựng Vinaconex, bị tai tiếng quá nên mấy tháng sau phải từ chức. Dân Việt Nam thường nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Nhưng trong quá khứ, việc lợi dụng quyền hành để giúp bà con thân thuộc còn bị giới hạn bởi hai thứ: Luật pháp và Phong hóa. Về luật pháp, ngay dưới thời vua quan phong kiến, thân nhân của các người làm quan vẫn bị cấm không được kinh doanh trong phạm vi trách nhiệm của ông quan. Một người được cử làm chủ khảo kỳ thi mà có con cháu dự thi là phải xin ngưng (hồi tị). Các biện pháp đó nhằm tránh “quyền lợi công tư xung khắc” (conflict of interests), một quan niệm rất phổ cập ở các nước dân chủ tự do. Nhà văn Phan Khôi đã từng tố giác “dưới chế độ Hồ Chí Minh có những nhà văn vừa làm chủ khảo vừa dự thi các giải văn chương,” mà kết quả là chính họ được trao giải thưởng! Nhưng ngay trong thời phong kiến, luật pháp cũng không đủ chặt chẽ và bao quát để ngăn ngừa các vụ lạm dụng quyền lực cho vợ con, thân nhân của các quan làm giầu. Cho nên trong xã hội còn một mạng lưới thứ hai ngăn ngừa các “quyền lợi công tư xung khắc.” Ðó là phong hóa. Khi tất cả mọi người trong xã hội nhìn vào các hành động lạm dụng quyền hành với con mắt khinh bỉ, thì chính những kẻ có ý định lợi dụng cũng ngần ngại. Hoặc họ phải từ bỏ ý định xấu, hoặc phải giảm bớt việc lạm dụng, hoặc tìm cách che đậy các hành động của mình. Ở nước ta hiện nay, phong hóa đó đã bị chế độ cộng sản tiêu diệt. Người ta lạm dụng chức vụ để giúp con cháu, họ hàng làm giầu mà không cần che đậy, vì không hề biết hổ thẹn. Anh ngồi trên lạm dụng quyền lực, anh đứng dưới cũng làm theo. Từ trên xuống dưới không còn ai biết xấu hổ. Con cái thấy cha mẹ lợi dụng chức vụ làm giầu, lớn lên sẽ coi đó là luân lý bình thường! Ðứa nào không biết lợi dụng còn bị bạn bè chê là ngu dốt! Người chung quanh chứng kiến cảnh đó bao nhiêu năm nay, từ khi thời đại Hồ Chí Minh bắt đầu đã hơn nửa thế kỷ, cũng thấy quen dần và coi cảnh tượng đó là chuyện tự nhiên trong đời sống. Tâm lý “quen dần với cái xấu” phá hoại cho truyền thống của dân tộc. Óc trục lợi mỗi ngày càng phát triển trong cả xã hội. Người nghèo khó chỉ chăm chắm làm sao kiếm được đồng tiền nuôi gia đình. Người khá giả cũng chỉ lo kiếm thêm tiền để không thua kém người khác. Tiểu gia hay đại gia, ai cũng chỉ lo kiếm tiền mà thôi. Học sinh nhìn thấy thầy giáo, cô giáo quá túng thiếu, có lúc phải lợi dụng địa vị nhỏ nhoi của họ bắt các em phải “học thêm.” Khi lớn lên các em sẽ coi việc kiếm tiền là mục tiêu lớn nhất của cả cuộc đời. Nhưng dân tộc Việt Nam vốn không sống như vậy. Nguyễn Ðình Chiểu đã nhất định không nhận tiền do các quan cai trị người Pháp mang biếu. Người Pháp đã lễ phép giải thích rằng ở nước họ vẫn có tục lệ chính phủ trợ cấp các nhà văn lúc về già; họ chỉ đem phong tục đó áp dụng ở thuộc địa Nam Kỳ mà thôi. Nhưng Nguyễn Ðình Chiểu khẳng khái từ chối. Khi làm lễ truy điệu các chiến sĩ nghĩa quân nổi lên ở Cần Giuộc, cụ Ðồ Chiểu đã chỉ bày một cái bàn với chén nước, nén hương để quỳ lễ đọc bài văn tế. Tinh thần “trọng nghĩa khinh tài” này là một di sản tinh thần của dân tộc, chắc chắn chúng ta sẽ không bỏ mất. Nếu hiện nay nhiều người đã quên nền luân lý cổ truyền đó, cũng chỉ vì dân Việt Nam đã phải sống nửa thế kỷ dưới một chế độ phá hủy đạo lý cổ truyền để theo một chủ nghĩa ngoại lai vớ vẩn. Cần gây nên một phong trào phục hồi văn hóa, chắc chắn dân Việt Nam sẽ nhìn thấy chúng ta phải sống như thế nào mới thật là một cuộc sống đẹp đẽ, văn minh. Chúng ta phải gây ngay một phong trào như vậy. Ngay ở một nước tiến bộ kinh tế mà vẫn giữ được truyền thống như Nhật Bản, người ta cũng đặt vấn đề này. Năm 2006, cuốn sách bán chạy hạng nhất ở nước Nhật là một tiểu luận mang tựa đề Phẩm Cách Quốc Gia (Kokka no Kinkaku) của Mashahiko Fujiwara, bản tiếng Anh dịch là The Dignity of a State (số bán chỉ thua bản dịch cuốn truyện mới về Harry Potter). Trong vòng một năm người Nhật mua 2 triệu cuốn sách này. Có thể nói tác giả đã “lên án” tình trạng dân Nhật chạy theo văn minh Tây phương, nhất là văn minh Mỹ. Mashahiko Fujiwara (tên đọc ngược lại, theo lối Hán Việt là Ðằng Nguyên Chính Ngạn) kêu gọi người Nhật hãy trở lại với truyền thống cũ để khỏi “mất linh hồn.” Là một giáo sư toán, nhưng Mashahiko Fujiwara chống lại quan niệm sống dựa trên lý trí thuần túy của văn minh Tây phương, mà một hệ quả là tinh thần duy lợi. Ông cho là truyền thống Nhật Bản không sống như vậy. Tổ tiên họ sống bằng tình cảm, không quá thiên về lý trí. Họ trọng nghĩa, khinh lợi. Bây giờ, người Nhật sống ra sao? Trong một nửa thế kỷ qua, Fujiwara thấy đồng bào của ông chú trọng đến việc làm giầu nhiều quá, ảnh hưởng của kinh tế thị trường theo lối Mỹ. Nước Nhật đã thành công trên thị trường thế giới, nhưng họ đã bị ám ảnh quá nhiều về vật chất. Bây giờ là lúc họ đặt lại những câu hỏi căn bản, tự hỏi dân tộc họ phải sống như thế nào mới đúng. Nhưng dân Nhật Bản còn may mắn, vì nền giáo dục của họ còn coi trọng luân lý, theo truyền thống Khổng Mạnh. Chế độ cộng sản đã phá hủy nền tảng tinh thần của dân tộc Việt Nam. Bây giờ, kinh tế tư bản thời hoang dã còn tiếp tay phá hoại trên nền luân lý nhiều hơn nữa. Vì kinh tế tư bản đặt trên căn bản duy lợi, với giả thiết rằng khi tất cả mọi người cùng lo kiếm lợi, kinh tế sẽ phát triển. Nhưng chế độ tư bản ở các nước Tây phương ra đời cùng thời gian khi các định chế dân chủ tự do bắt đầu xuất hiện. Chính nhờ được sống dân chủ nên người ta biết dùng luật pháp đặt ra những giới hạn trên tinh thần duy lợi. Cũng nhờ nếp sống dân chủ cho nên những tiếng nói bảo vệ đạo lý được tự do phát biểu. Người dân được phê phán những hành động gian tham của những người cầm quyền và giầu tiền. Hiện nay nước ta đang thiếu cả hai điều kiện đó. Vì những kẻ cầm quyền đang dùng quyền hành để kiếm tiền, trục lợi. Họ vừa bất chấp pháp luật, vừa khinh thường dư luận. Họ bịt miệng dân không cho phê phán, đã kiểm soát hết các báo, các đài, lại còn đàn áp các mạng thông tin Internet, bỏ tù các blogger. Muốn phục hồi phẩm cách của dân tộc thì phải chấm dứt chế độ độc tài đảng trị này. nguồn: nguoi-viet.com
......

Hết khả năng thức tỉnh???

Chế độ Cộng sản xưa nay thường ngoác miệng tự xưng là "đỉnh cao trí tuệ loài người" với "nền dân chủ gấp triệu lần tư bản". Đó là kiểu cách "Xấu hay làm tốt! Dốt hay nói chữ! Dữ hay giả hiền!" Thực tế, trong lịch sử nhân loại, không có chế độ chính trị nào mù quáng mê muội bằng nó. Mù quáng vì tin tưởng rằng bạo lực và dối trá sẽ làm được việc, sẽ đưa đến chiến thắng, sẽ giúp CS tồn tại dài lâu. Mù quáng vì đẩy ba bản năng: sinh tồn, truyền sinh và nhất là quyền lực đến cực điểm, tới độ luôn tìm cách đoạt mọi sức mạnh, vơ mọi của cải, hưởng mọi lạc thú cho riêng mình mà không biết rằng việc chiếm trọn đó đã tiềm ẩn nguy cơ tự hủy và gây nên nguy cơ phản lực. Nó say sưa với sự thành công của các cuộc "cách mạng", với sự vững chắc của bộ máy nhà nước, với sự khít rịt của hệ thống pháp luật, với sự bao trùm của mạng lưới công an, với sự tuyên truyền của lực lượng báo chí, với sự nhồi sọ của giáo dục học đường.... mãi cho tới khi nó sụp đổ tan tành nhanh chóng như tại Liên Xô và Đông Âu cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Chó săn của Đảng (Babui - Danchimviet.info) Cái sự mù quáng mê muội này đang là căn tính của Cộng sản Tàu và nhất là Cộng sản Việt. Cộng sản Tàu mù quáng theo kiểu trình bày gian trá và lý luận ngụy biện để chứng minh Biển Đông là lãnh hải của mình xét theo lịch sử, bất chấp những bằng chứng và tài liệu chân chính trái ngược nơi nhiều dân tộc từ xưa tới nay. Mù quáng theo kiểu sử dụng từ quyền lực cứng (vũ khí hăm dọa) đến quyền lực mềm (ngoại giao lừa dối) để biến Đường lưỡi bò thành hiện thực, bất chấp sự tố cáo hay kiện tòa của của nhiều quốc gia lân bang. Mù quáng theo kiểu nuôi mộng thống trị thế giới và nô dịch nhân loại bằng chính sách xâm lấn thẩm nhập mọi nơi và bành trướng thế lực quân sự mọi kiểu mà không để ý sự cảnh giác và đề phòng ngày càng cao độ của năm châu hoàn vũ. Mù quáng theo kiểu đem những sản phẩm độc hại, những kiểu thói gian thương, những ứng xử bất nhân để làm hại tới sinh mạng, xã hội hay công việc của thiên hạ trong lúc chính nước Tàu, dân Tàu cũng đang là nạn nhân của các thứ như vậy: ô nhiễm môi trường, buôn gian bán lận, bạo loạn xã hội... Cộng sản Việt thì khỏi nói. Sự mù quáng mê muội, hay nói cách khác, sự tiêu biến khả năng thức tỉnh, là hằng tính ngày càng đậm nét nơi hàng lãnh đạo. Nó bộc lộ ra trên các phương diện chính trị đối ngoại lẫn chính trị đối nội, nơi lý thuyết luật pháp lẫn nơi thực tế hành xử. Về chính trị đối ngoại, cụ thể là với lân bang phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, xem ra các lãnh đạo CS kể từ Hồ Chí Minh đến bộ sậu Ba Đình hiện thời không học được bài học lịch sử của tiền nhân, dân tộc cũng như của chính bản thân mình. Sự cuồng tín mê muội về tình đồng chí anh em, về mối tương trợ quyền lực, về tinh thần quốc tế vô sản đã khiến cho lãnh đạo Hà Nội khư khư ôm lấy anh Ba Tàu, để hắn ta siết trên đầu vòng kim cô "16 chữ vàng, 4 chữ tương, 4 chữ hảo" bất chấp kinh nghiệm ngàn năm Bắc thuộc đầy đau thương, kinh nghiệm cố vấn cải cách ruộng đất đầy tàn khốc, kinh nghiệm chiến tranh xâm lấn hải đảo và biên giới đầy tai họa, kinh nghiệm thẩm lậu vào kinh tế, chính trị, lãnh thổ, văn hóa, giáo dục quốc gia đầy tác hại... Đỉnh cao cho sự mù quáng mê muội này là Tuyên bố chung Việt-Trung 8 điểm và 10 văn kiện hợp tác (đúng ra là lụy phục) toàn diện ký hôm 21-06. Từ nay, "nhờ" đảng CS Ba Đình, nước Việt sẽ vĩnh viễn liên kết vận mệnh với nước Tàu để đến lúc nào đó, trở thành một tỉnh tự trị rồi một thành phần của đại quốc TH, như số phận đầy máu và nước mắt hiện nay của các dân tộc Mông Mãn Tạng Hồi. Về chính trị đối nội, qua gần 60 năm cầm quyền, chuỗi dài lãnh đạo từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Phú Trọng đã phạm từ sai lầm này đến sai lầm khác, từ tội ác này tới tội ác nọ đối với đất nước và dân tộc nhưng vẫn mù quáng u mê, thản nhiên vô cảm. Họ xem đồng bào và tổ quốc chỉ là con chuột bạch để làm những cuộc thí nghiệm cho chủ nghĩa cộng sản, cho chính sách cai trị mà tất cả chỉ dẫn đến tai họa, thảm cảnh và tệ nạn, dù vậy họ vẫn không tỉnh ngộ. Xem ra họ chẳng hề động tâm thổn thức trước sự tiêu diệt nông dân giỏi giang, sự trấn áp trí thức tài năng, sự khai trừ đồng chí tâm huyết, sự tàn phá cơ cấu làng xã tốt đẹp, sự tiêu trừ đạo đức gia phong thuần hậu sau vụ Cải cách Ruộng đất, vụ Nhân văn Giai phẩm và vụ Xét lại Chống đảng. Xem ra họ chẳng hề băn khoăn tâm trí trước sự khánh kiệt và khốn khổ của miền Bắc một đàng vì quản lý ngu dốt và thất đức, một đàng vì dồn lực phá hoại và xâm lăng miền Nam, cả hai đều là giang sơn của giống dòng Lạc Việt. Xem ra họ chẳng hề tự vấn lương tâm trước cảnh tan hoang của nền kinh tế toàn quốc sau "mùa xuân đại thắng", trước cảnh bỏ đi của hàng triệu đồng bào sau cuộc "giải phóng đổi đời", trước cảnh hỗn loạn của đất nước sau cuộc "xây dựng xã hội chủ nghĩa". Ngoại trừ ít trang bàu chữa bênh vực vài cán bộ cao cấp, toàn bộ tác phẩm "Bên thắng cuộc" đang lưu hành vừa là bức tranh minh họa rõ ràng những điều đó vừa là cáo trạng hùng hồn đối với bộ sậu lãnh đạo Hà Nội, một bản cáo trạng có thể tóm gọn trong mấy chữ: "ngu dốt, tham lam, bạo tàn, gian xảo"! Và mãi tới hôm nay, chính sách đối nội của nhà cầm quyền CS vẫn là xem quốc dân đồng bào như con cái để dạy dỗ, như con ở để sai khiến, như con tin để mặc cả, bất chấp thực tế là đất nước ngày càng hà khắc về chính trị, suy thoái về kinh tế, hỗn loạn về xã hội, điêu đứng về cuộc sống, băng hoại về đạo đức và bấp bênh về an ninh quốc phòng; bất chấp thực tế là khắp nơi trong nước đang đứng dậy ngày càng đông và ngày càng mạnh để đòi quyền làm người, quyền làm dân, và năm châu hoàn vũ đang lên tiếng để tố cáo và kết án liên tục việc vi phạm quyền công dân, quyền con người của Hà Nội. Trên lý thuyết luật pháp, lãnh đạo Ba Đình vẫn mù quáng để hình thành cho được một bản tân Hiến pháp tiếp tục giành quyền độc tài cai trị, độc hữu tài nguyên và độc dụng quân lực cho đảng, và như thế tiếp tục biến công dân thành thần dân, biến con người tự do thành nô lệ, bất chấp kiến nghị của các vị trí thức nhân sĩ, phê bình của các bậc lãnh đạo tinh thần, phản kháng của các nhà đấu tranh dân chủ và bất chấp những tai hại của chế độ độc đảng độc tài toàn trị. Cái Quốc hội gia nô -dù nghe bao tiếng lòng của nông dân, thấy bao tiếng khóc của oan dân, nhận ra cảnh ruộng vườn bị bỏ hoang vì canh tác thua lỗ, cảnh nhà đất nhân dân bị cướp đoạt vì cán bộ tham tàn- vẫn cứ bảo lưu Luật đất đai với nguyên tắc quái đản "nhà nước nắm toàn quyền sở hữu, người dân chỉ có quyền sử dụng", với kiểu cách uốn éo câu chữ để cuối cùng nhà nước vẫn là đại địa chủ độc nhất. Mặc cho các giáo hội lên tiếng đòi hỏi quyền độc lập trong tổ chức và tự do trong sinh hoạt để đóng góp điều hay lẽ phải cho đất nước, luật về tôn giáo vẫn siết chặt với Nghị định 92 trong ý đồ công cụ hóa hay ít nhất tê liệt hóa các thế lực tinh thần, thay vì thức tỉnh trước sự băng hoại lương tâm, tiêu tùng đạo đức, lụn bại văn hóa do chỗ các tôn giáo không được thong dong truyền bá, rao giảng giáo lý giải thoát con người, chấn hưng xã hội. Mặc cho các công dân trong nước và các công ty ngoài nước lên tiếng đòi hỏi quyền tự do ngôn luận và tự do internet hầu góp phần cổ vũ chân thiện mỹ cho cuộc sống, lành mạnh hóa bộ máy chính quyền, xây dựng một quốc gia văn minh tiến bộ, luật về thông tin vẫn siết chặt với Nghị định 72 trong ý đồ công cụ hóa các công ty dịch vụ tin học (vì buộc họ phải khai báo người sử dụng, do đó đồng lõa với chủ trương áp bức của nhà cầm quyền) và ngu đần hóa các công dân (vì khiến họ hoàn toàn mù mờ và bất động trước những sai trái và tội ác của lãnh đạo Việt cộng, trước những lộng hành và xâm lấn của lân bang Tàu cộng). Trên thực tế hành xử, đảng Cộng sản Ba Đình ngày càng điên cuồng dùng bạo lực và dối trá như một cách thức để cai trị nhân dân, quản lý xã hội. Nổi bật nhất là việc ngày càng gia tăng và củng cố lực lượng công an với việc phong hàng loạt tướng (ngành này hiện có 180 tướng, BBC 24-07-2013), dành cho nhân viên công an ngày càng nhiều đặc quyền (ví dụ có đề xuất cho phép họ bắn kẻ bị coi chống người thi hành công vụ, một số nhà báo phanh phui các vụ công an giao thông tham nhũng bị bắt và xử tòa, vô số công an giết dân giữa đường hoặc trong đồn vẫn ung dung an toàn hoặc án tù rất nhẹ, lắm côn đồ xã hội đen được ngành công an tuyển dụng như tay chân...). Nhiều đặc lợi cũng được dành cho họ và gia đình họ, như lương bổng cao, con cái được miễn học phí, thân nhân được trợ cấp hậu hĩ. Đang khi họ ngày càng tỏ ra hung hãn tàn nhẫn trong các vụ dân oan biểu tình đòi ruộng đất (như tại Văn Giang và Thanh Hóa...), tín đồ biểu tình đòi công lý (như tại Cồn Dầu và Mỹ Yên...), công dân biểu tình đòi dân chủ (như tại Sài Gòn và Hà Nội...). Cũng nổi bật là việc ngày càng gia tăng và củng cố lực lượng báo chí công cụ, bồi bút nô ngôn, dư luận viên đầy tớ, luôn sẵn sàng để tô son trát phấn cho đảng và nhà cầm quyền, vu khống và thóa mạ những công dân đối kháng, lèo lái và đầu độc công luận xã hội (báo đài Nghệ An nhân vụ giáo xứ Mỹ Yên là một thí dụ), bất chấp thực tế là lực lượng dân báo, lề trái ngày càng chiếm lĩnh các diễn đàn thông tin đại chúng với tất cả năng lực, uy tín và sự chân thực lẫn chân thành. Tiếng súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn cách đây gần hai năm (dù chẳng làm chết ai) đã là lời cảnh báo cho chế độ về thói hành xử côn đồ cướp bóc của toàn thể bộ máy cai trị tại Hải Phòng. Nhiều người đã tưởng là nhà cầm quyền có phần thức tỉnh khi thủ tướng CS nhảy vào cuộc, với lời phê phán về hành vi của quan chức địa phương. Nhưng rồi anh em Đ.V.Vươn vẫn y án y tội trong phiên tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm. Tay đại tá từng dẫn quân cướp của phá nhà của họ thì được thăng tướng. Nay tiếng súng lục của Đặng Ngọc Viết vừa vang lên, cướp đi sinh mạng và sức khỏe của nhiều cán bộ nhà đất rồi của chính anh, cũng là lời cảnh báo cho chế độ cách mạnh mẽ hơn về chính sách chiếm đoạt đất đai của người dân với danh nghĩa "thu hồi" và trấn an cuộc sống của người dân với phương cách "đền bù" mà sau đó sẽ chỉ là điêu linh cơ cực. Nhưng liệu lần này đảng CS có thức tỉnh chăng, hay vẫn mù quáng lao vào con đường tiếp tục cướp bóc tài sản nhân dân để mau nhét cho đầy túi hầu sẽ an cư hưởng thụ một khi chạy ra nước ngoài lúc nhân dân đứng lên thanh toán chế độ? Trước mắt thì vẫn thấy truyền thông lề phải ra sức vu cáo cho anh Đặng Ngọc Viết đủ mọi chuyện (VOV Online 12-09-2013) và Quốc hội gia nô vẫn không nhân cơ hội này để xét lại toàn bộ vấn đề đất đai! Ban Biên Tập Bán Nguyệt San TDNL ngày 15-9-2013
......

Thấu hiểu ý dân là thế

Một băng ghi âm về buổi nói chuyện kín trong dịp Tết âm lịch 2013 đang làm xôn xao dư luận. Kín vì người nghe được chọn lọc, không ghi âm. Ngay sau buổi nói chuyện ban tuyên huấn trung ương đảng CS có ý muốn thu hồi gấp 2  băng 4 mặt được sao chép, nhưng lại e sẽ chỉ  quảng cáo thêm cho buổi nói chuyện.   Đó là buổi nói chuyện vào ngày 19/2/2013 tại Câu lạc bộ Thăng Long Hà Nội của chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Đây là Câu lạc bộ riêng của cán bộ cao cấp về hưu và tại chức của đảng CS, Mặt trận Tổ quốc trung ương. Chủ nhiệm Câu lạc bộ Thăng Long hiện là ông Vũ Oanh, một thời là ủy viên bộ chính trị, nay là Chủ tịch Hội khuyến học và Chủ tịch Hội người cao tuổi. Dư luận sau đó dịu đi vì người ghi âm là ông Đoàn Sự trong ban phụ trách Câu lạc bộ Thăng Long, ông cho rằng bài nói hay, bổ ích, nên phổ biến rộng. Và rồi báo Đại đoàn kết của Mặt trận ngày 6/9 cũng đưa tin như sau về buổi gặp này. Ông Tư Sang đã nói những gì tại Câu lạc bộ Thăng Long?  ngay lời mở đầu ông hứa nói thật mọi điều, không quanh co rào đón, một buổi tâm tình cởi mở đầu năm. Thật ra phần lớn ý kiến của ông là nói theo tập thể bộ chính trị, như viện dẫn « nguy cơ diễn biến hòa bình do đế quốc và bọn phản động ở nước ngoài tác động, tấn công vào chế độ XHCN ưu việt ». Ông than vãn về sự suy thóai trong đảng ngày càng phức tạp và nguy khốn, việc phê bình và tự phê bình không hiệu quả, chống tham nhũng lừng khừng, lối sống đồi trụy theo chủ nghĩa cá nhân ích kỷ hưởng lạc lan rộng, tệ nể nang phổ biến. Trên đà cởi mở tấm lòng, ông tâm sự : « những chuyện bê bối kéo dài, đến trẻ con cũng biết »; « Họ nói thẳng với chúng ta : ăn vừa thôi, các ông bà ơi ! Còn để lại cho dân với chứ ! ». Họ còn bảo chúng tôi « không làm được thì xuống đi để người khác làm, để chúng tôi lên làm ». Trên đà bi quan, cảm thấy bế tắc, ông thổ lộ : Thấy rõ khuyết điểm, sai lầm, chúng tôi đề nghị kỷ luật một số đồng chí thì không được ban chấp hành trung ương đồng tình, vậy làm sao mà sửa được sai lầm. Kỷ luật không nghiêm, đó là một bức xúc với dân. Kinh tế tụt lớn, GDP sẽ chỉ đạt thấp,  năm nay xuống 5,2%, rồi nợ xấu tích tụ lớn, cơ cấu lại Vinashin, Vinalines chưa biết ra sao cả. Vẫn chỉ những lời than. Rồi lại vài phút chân thật, ông tâm sự : chủ nghĩa cá nhân hoành hành, tham nhũng, tiêu cực tràn lan, suy thoái trong đảng, trong xã hội nặng nề thêm. Dân ta biết hết. « Anh xe ôm, bà hàng nước bên vỉa hè biết hết, họ kể ra đủ thứ ». Ông như muốn nhắn nhủ với các đồng chí cao cấp trong đảng của ông là chớ có chủ quan, không che giấu nổi con mắt nhân dân đâu, phải cẩn thận. Nhân dân ta tinh khôn lắm đó, chớ coi thường. Số đông người nghe chờ đợi ở ông những giải pháp hữu hiệu cho tình hình ngiêm trọng, cho đà suy thoái, cho lòng dân không yên, thì ông không hé ra một điều gì. Mọi người như bị hẫng. Sau những phút thật lòng về thực trạng bi đát, ngổn ngang, ở người lãnh đạo chỉ có những tiếng thở vắn than dài. Thế rồi trong đà tùy hứng, ông buột mồm, hé ra ước mong riêng thầm kín : chủ tịch nước kiêm luôn chức tổng bí thư đảng, là tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang, quân đội và an ninh -  như ở nước láng giềng Trung Quốc -, để có đủ sức đối phó với mọi tình huống phát sinh từ trong nước hay từ nước ngoài. Thế rồi…  hết. Ông chào, chúc Tết mọi người. Thật ra buổi nói chuyện nội bộ của ông Tư Sang từ hơn nửa năm trước chẳng có gì bí mật, cũng chẳng có gì là mới mẻ. Cánh tuyên huấn giáo điều chỉ lo sợ hão rằng phải chăng ông Tư đã đi quá xa tách mình ra với tập thể bộ chính trị. Không phải vậy. Ông chỉ nói lên tình thế chính trị nghiêm trọng của đảng và chế độ, cả xã hội đều cảm thấy rõ ràng trong cuộc sống hàng ngày, không thể che giấu ai. Ai cũng hiểu đảng hiện hoàn toàn tê liệt và bất lực, không có biện pháp nào để khắc phục. Ông chỉ buột mồm than thở, chứ ông vẫn như chưa nghe thấu tiếng dân. Bộ chính trị hiện nay giữa cơn bế tắc chỉ có một thái độ chung là ôm chặt những giáo điều đã phá sản để « kiên định », -  từ kiên định chủ nghĩa Mác Lenin đã hết sức sống, kiên định chủ nghĩa xã hội ảo tưởng mơ hồ, đến kiên định Điều 4 hiến pháp do đảng CS tự phong, chưa bao giờ được nhân dân thừa nhận dưới bất kỳ hình thức nào. Cho đến nay, sau chuyến đi Bắc Kinh rồi chuyến đi Washington, ông Tư Sang vẫn là một chính khách không rõ nét, thiếu phương hướng và quả đoán. Có nhà bình luận cho rằng ông và vài ủy viên bộ chính trị nữa đã có định hướng mới, « xoay trục sang phương Tây », và rồi đây sẽ có một chuỗi sự kiện đáng hoan ngênh theo định hướng mới, chứng minh cho sự xoay trục thức thời ấy. Được như vậy có gì đáng mừng hơn; nhưng e đó vẫn chỉ là mong muốn chủ quan của một số người lạc quan quá sớm, lấy mong muốn làm hiện thực. Nên nhớ, trong chuyến đi Bắc Kinh của chủ tịch nước, ông phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và tướng Nguyễn Chí Vịnh – 2 nhân vật trung kiên của Trung Nam Hải  -  đã đóng vai trò tiền trạm cho một loạt hơn một chục văn kiện, hiệp định gắn bó về chiến lược toàn diện giữa 2 đảng, 2 nhà nước XHCN, để buộc ông chủ tịch nước phải chui vào tròng của họ, ký không sửa một dấu phẩy. Rồi trong chuyến đi Washington, khi ông Sang hội đàm với tổng thống Hoa Kỳ trong phòng bầu dục của Nhà Trắng, lại có mặt tướng Nguyễn Chí Vịnh và thêm tướng công an – tình báo Tô Lâm cũng là người của thế lực Trung Nam Hải. Tai mắt của Bắc Kinh bám sát đến tận đây thì ông Tư Sang có thể cựa quậy nói ra điều gì mới và khác ? Điều trên đây giải thích vì sao cuộc Đặc Xá nhân ngày Quốc khánh 2/9 đã không có một tù nhân chính trị nào được tự do trong số 15 ngàn người được trở về với gia đình, mặc dù điều ấy hoàn toàn nằm trong tầm tay của chủ tịch nước. Cuộc « xoay trục » nếu có sao mà nặng nề vất vả đến thế.  Chuỗi sự kiện mong đợi đã bị cắt đứt ở khâu nào vậy. Hãy cố chờ xem. Suốt trong buổi nói chuyện hơn 2 giờ, ông Tư chỉ có vài phút sự thật, thổ lộ là đã nghe thấy tiếng chê bai của người dân, của anh lái xe taxi, của bà hàng nước bên vỉa hè. « Các người ăn bẩn quá đáng rồi, phải nghĩ đến người dân nữa chứ », và «  không làm nổi thì xuống đi, để người khác làm thay ». Khả năng lắng nghe dân, thấu hiểu nguyện vọng của dân để hình thành đường lối chính sách cai trị của cả Bộ chính trị vẫn cực kỳ yếu ớt. Kiến nghị về dự thảo hiến pháp mới do 72 trí thức đề xuất, rồi Kiến nghị tiếp theo bác bỏ dứt khoát bản dự thảo được quốc hội thông qua mang 14.785 chữ ký, đó là đích thị tiếng dân đấy, lòng dân đấy, trí tuệ và tâm huyết cô đọng của dân. Nó là tích tụ tiếng nói, khát vọng của hàng vạn anh lái xe taxi, hàng vạn bà hàng nước, của hàng triệu lao động, công nhân, nông dân, tiểu thương tiểu chủ, các chủ doanh nghiệp bị phá sản hàng loạt đó, của hàng triệu tín đồ các tôn giáo khao khát tư do đó. Chính đó mới là điều ông Tư Sang cần nghe cho thủng, hiểu cho kỹ vì đó là kết tinh của sự thật, của tư duy trong sáng, của túi khôn dân tôc, của Minh Triết Việt Nam, là biện pháp cơ bản để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, cũng là con đường thoát Trung, thoát cái bẫy của bành trướng, thoát khỏi giặc nội xâm tham nhũng dai dẳng, mở ra chân trời sáng rộng cho đất nước. Tập thể công dân có tâm và có tầm ấy đang thu hút thêm những tinh hoa có tư duy trẻ trung của thời đại, thành kho dự trữ nhân tài cứu nước và quản lý đất nước mới mẻ, để rồi đây thay cho lớp quan liêu tham nhũng, nghèo nàn tư duy, mụ mẫm vô cảm vì tham lam, phá của hiện nay. Hãy lắng nghe và nghiền ngẫm chính kiến lập luận của họ. Hiểu rõ lòng dân, nghe rõ tiếng dân, cảm nhận năng khiếu mẫn cảm chính trị của dân lành ưa điều thiện, chuộng công bằng xã hội, ông Tư Sang hoặc bất cứ ai trong bộ chính trị còn có tư duy độc lập, yêu nước thật lòng, thương dân thật lòng hãy nắm lấy cơ hội này, dựa hẳn vào khối trí thức dân tộc đang phấn đấu cho một cuộc cách mạng có hệ thống, một chuyển đổi lịch sử từ độc đảng toàn trị sang đa đảng – pháp quyền, dân chủ và tự do, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước. Đó là chiếc đũa thần kỳ có thật, đó là điểm tựa tạo thế chiến lược để sức mạnh dân tộc bật mạnh đúng hướng thời đại. Đó mới là gần dân, trọng dân, hiểu dân và cùng nhân dân hành động để cứu nước, cứu dân và cứu mình, viết tiếp lịch sử oai hùng của cha ông và mở đường sáng cho các thế hệ tiếp theo. Nguồn: VOA
......

Gửi những người đang sắp tự sát ở Việt Nam

Đây là những lời thật gửi cho những con người có thật đang nung nấu ý định tự sát ở Việt nam bằng tự thiêu, bằng súng đạn và bằng vô vàn cách khác. Thông thường, khi bị dồn vào đường cùng, con người ta mới phải tìm đến cái chết để đòi sự công bằng, giải tỏa nỗi oan ức, đó là điều phải đến khi người ta bị bế tắc hoàn toàn…   Sự việc anh Đặng Ngọc Viết nổ súng tiêu diệt những tên cán bộ đảng viên Đảng Cộng Sản mà anh căm thù ở Thái Bình và đã tự sát ngay sau đó trong ngày 11/09/2013, chính thức gióng lên hồi chuông cảnh báo về nạn tự sát của người dân thấp cổ bé miệng, họ không còn gì để mất, sẵn sàng tự thiêu để kêu oan, đổi mạng bằng cách trực tiếp nổ súng vào kẻ cầm quyền để tự đòi công lý cho mình. Trước hết, người viết bài này xin có một lời khuyên: Bạn không nên tự sát vì không có bất cứ thứ gì quý hơn cuộc sống của chính bạn. Nhưng nếu một khi bạn không còn cách nào khác, không còn con đường nào khác thì bạn hãy chọn cho mình một cái chết có ý nghĩa – đó chính là cách đánh đổi với giá cao nhất  – Và bạn có thể thanh thản vì cuối cùng nếu có phải hy sinh mạng sống thì bạn vẫn là người chiến thắng! Con giun xéo lắm cũng quằn – người xưa đã nói như vậy. Sức chịu đựng của con người có hạn, không thể làm con sâu cái kiến mãi được. Đến nước đường cùng, những người liều thân sẽ nghĩ: Đời người chẳng ai sống mãi được, đến khi quá già ắt con người phải chết, chết trước chết sau chẳng khác nhau là mấy, và họ sẽ làm liều… Trường hợp anh Viết lại tương đối khác, anh đã chọn con đường phản kháng bằng bạo lực và chấp nhận đánh đổi mạng sống của bản thân với vài viên cán bộ nhà nước. Đây có lẽ là một kế hoạch có tính toán nghiêm túc nhiều ngày của anh Viết trước khi hành động, và đó chắc chắn là một hành động có logic hợp lý, nhưng chưa hoàn toàn thông minh.  Những người như anh Đặng Ngọc Viết cần phải nhìn thấy rõ đâu là căn nguyên gây nên sự bất công của gia đình anh, kẻ xứng đáng phải bị anh giết chết là kẻ nào? Cứ cho là anh Viết đã giết chết được dăm mười tên cán bộ tham nhũng áp bức nhân dân tại Thái Bình, nhưng còn hàng trăm ngàn kẻ khác từ Bộ chính trị Trung ương ĐCSVN đến cấp thôn xã, phường ấp, khắp cả nước, vẫn đang sống nhởn nhơ trên mồ hôi xương máu đồng bào thì làm sao mà giết hết được chúng? Một khi đã dám chết như anh Viết thì nên chọn cho mình một cách đấu tranh khác có thể chết, nhưng rất nhiều khả năng không bị chết mà chỉ bị đàn áp, tù đày, nhưng cơ may chiến thắng là rất lớn đang rộng mở, đó là nhắm vào chế độ, nhắm vào cái nguồn gốc sinh ra những tên cán bộ tham lam tàn ác, là Đảng Cộng Sản Việt Nam, là nhà nước Việt Nam hiện nay do họ lãnh đạo. Những người gánh chịu bất công nếu nổi loạn làm liều, nổ súng vào bọn cướp nhà cướp đất, cướp miếng cơm manh áo của người dân cùng khổ như gia đình anh Đoàn Văn Vươn hồi năm 2011 hay anh Đặng Ngọc Viết vừa qua, chỉ có thể giết được vài con tép riu, trong khi đó những con cá mập đáng chết lại nhởn nhơ ngoài tầm với của các anh, và chúng mới chính là kẻ đáng phải ăn đạn nếu không thể khác. Đúng, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nguồn gốc của mọi nguồn gốc dẫn đến bất công, bất bình đẳng, kẻ ăn không hết người lần không ra, đó chính là nước ta có sự cầm quyền của một tập đoàn độc tài độc đảng, là bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương gồm toàn cán bộ là những kẻ sâu dân mọt nước! Nếu ai đó bị oan ức, bị hà hiếp, bị cướp nhà cướp đất, bị ngược đãi.., hãy đừng làm đơn xin xỏ chính quyền làm gì cho mất công tốn sức vì rốt cuộc sẽ chẳng đòi được sự công bằng. Cán bộ nhà nước các cấp công khai bao che cho nhau vì chúng là một guồng máy Mafia gồm 100% đảng viên Đảng Cộng Sản từ trung ương đến địa phương. Chúng không thể triệt hạ nhau vì quan hệ móc xích “tiền – quyền” đã gắn chặt chúng với nhau thành một thể thống nhất… Vậy người dân phải nhắm vào những nhóm đầu sỏ, những kẻ có khả năng tác động vào hệ thống pháp luật và hệ thống công quyền ở thượng tầng bộ máy nhà nước. Muốn hạ đo ván chúng người dân phải làm gì, đây là câu hỏi rất dễ trả lời: Phải có đông người ủng hộ mình, phải có quốc tế ủng hộ mình và mình phải cương quyết, khôn khéo mới được… Nhìn lại những phản kháng thành công tại một loạt các nước Cộng Sản Đông Âu cách nay trên dưới 20 năm, ta thấy chỉ khi có hàng trăm ngàn, hàng triệu người nhất tề đứng lên thì chế độ Cộng Sản mới chịu sụp đổ. Nhưng nói thì dễ còn khi hành động lại nảy sinh muôn vàn cái khó, một khi những người đấu tranh chưa có sự ủng hộ của số đông. Những người đang có suy nghĩ trả thù rồi tự sát như anh Đặng Ngọc Viết hãy cố nghĩ rằng: Nếu dùng cái tay, ta chỉ diệt được vài con rận, còn nếu dùng cái đầu ta có thể giết được hàng trăm con hổ dữ. Và muốn làm vậy thì hoàn toàn không thể nóng vội. Đầu tiên ta hãy nói với những người anh em của ta, bạn bè của ta, người quen của ta (tất nhiên là nhất là cả những người ta quen trên mạng Internet) rằng hãy ủng hộ ta vì ta ghét lũ cán bộ ăn trên ngồi chốc, ghét những kẻ giàu có ngạo mạn khinh người, ta sẽ lên án bọn chúng mọi nơi mọi lúc có thể… Bước thứ hai, ta hãy nói với mọi người là ta sẽ đòi thay đổi chế độ, ta bí mật đi rải truyền đơn tố cáo nhà nước cầm quyền, kêu gọi người dân cất tiếng nói chống áp bức bất công… Những việc làm đó thực ra là quyền bất khả xâm phạm của con người, nhưng với chế độ Cộng Sản thì chúng quy kết là tội “tuyên truyền chống nhà nước”, vì vậy phải khéo léo mà hoạt động. Nhiều năm qua đã có những con người mạnh mẽ, dám hy sinh mạng sống, đã dũng cảm chống lại cường quyền như blogger Điếu Cày, tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, chị Bùi Thị Minh Hằng, cô Phạm Thanh Nghiên, cô Hồ Thị Bích Khương, sinh viên Phương Uyên, Nguyên Kha vv… Thực tế chứng minh rằng họ là những người hoàn toàn không sợ chết giống như anh Đặng Ngọc Viết. Nhưng họ đã chọn con đường khác thông minh hơn… Có người sẽ nói rằng làm như anh Viết mới đúng, còn làm như những nhà đấu tranh dân chủ kể trên chẳng bõ gãi ngứa cho chế độ. Đây là quan điểm rất sai lầm, vì những người như anh Viết chỉ giải tỏa cho bản thân chút căm giận ngắn ngủi, báo chí làm ồn ào lên, rồi sự việc sẽ lại chìm vào quên lãng. Nhưng chọn phương án hành động như các nhà đấu tranh ôn hòa đang làm mới khiến cho chế độ khiếp sợ và chỉ có con đường đó mới có thể thay đổi được gốc rễ vấn đề… Tuy nhiên nếu trong tay bạn đang có hàng chục ngàn tay súng, có vũ khí khí tài hiện đại để “chiến” thì vấn đề lại khác. Vậy những việc làm nhỏ lẻ như của anh Viết rất ít giá trị. Mặc dù có thể nó cũng khiến cho nhà cầm quyền phải có những phương án đối phó, đôi khi là nhả ra cho dân (người liên quan trong vụ việc) đôi chút quyền lợi. Nhưng về cơ bản trên toàn quốc thì đâu vẫn hoàn đấy mà thôi. Bằng chứng về vụ án Đoàn Văn Vươn còn đó, nghĩa là chẳng thể thay đổi được gì nhiều. Ấy là chưa nói đến chuyện nếu anh em nhà anh Đoàn Văn Vươn ngày đó mà bắn chết vài ba viên cán bộ công quyền thì chắc chắn có người trong nhóm của họ sẽ phải lãnh án tử hình… Mấy ngày gần đây trên mạng Internet cũng đã có nhiều phát biểu tung hô anh Đặng Ngọc Viết: Nào là anh hùng, nào là dũng cảm, nào là ghi tên vào lịch sử vv… Những hãy thử nhìn ra những nước và khu vực như Apganixtan, Iraq, miền nam Thái Lan, Pakistan vv.., liên tục có những vụ giết người hàng loạt nhằm vào cảnh sát, quân đội, chính quyền, nhưng họ không thể làm gì được hơn là vô tình giết hại những thường dân vô tội là chính, nhà cầm quyền tại các nước đó lại càng có cơ sở để lên án những người chống đối là những kẻ khủng bố… Nếu hàng loạt những vụ bắn giết xảy ra như anh Viết đã làm thì cũng chỉ làm xáo trộn chút nào xã hội và gây hoang mang cho bản thân những người dân lành vô tội, còn những kẻ có thực quyền thì chúng có đủ lực lượng bảo vệ đến từng cọng tóc, chẳng ai làm gì chúng được. Điều đó còn tạo cơ hội cho nhà cầm quyền có cớ thẳng tay giết hại những người đấu tranh. Như vậy nếu ai đã dám quên mạng sống của mình thì hãy dấn thân, vì họ coi như mình đã chết (thậm chí chẳng cần phải đến mức như vậy) nên hãy mạnh mẽ đương đầu với nhà cầm quyền. Họ chỉ cần biết học hỏi một số phương cách đấu tranh bất bạo động là sẽ có thể trở thành một ngôi sao thực thụ. Trong trường hợp bị bắt bớ tù tội thì đó vẫn sẽ là cơ hội cho họ tiếp tục đấu tranh tại các phiên tòa và ngay trong nhà tù như các anh Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày đã từng làm thành công… Những người sắp tự tử vì thất bại, vì bị áp bức, vì bị cướp bóc, vì bế tắc trong cuộc sống, hãy chọn cho mình con đường hành động dài hơi có ích cho đất nước là hơn. Không những họ sẽ không chết vì ngày nay chẳng ai có thể kết tội tử hình cho một người đấu tranh ôn hòa, mà họ còn có cơ hội ghi tên mình vào lịch sử. Rồi mai đây, khi nước nhà có tự do dân chủ, những con người như Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Phương Uyên, Nguyên Kha vv.., sẽ được xã hội tấn phong. Vẫn biết mọi người đều có quyền hành động theo ý mình muốn, ngay cả trong trường hợp tự sát. Nhưng theo bạn, giữa việc nổ súng giết vài tên cán bộ hạng ruồi muỗi và dấn thân vào con đường tranh đấu không bạo lực nắm chắc phần thắng, bạn nên chọn cách nào? Nguồn: lenguyenhong.blogspot
......

Đi thăm Ls. Lê Quốc Quân

Khi mình lâm nạn, mình sẽ hiểu thế nào là cô đơn khi không có ai bên cạnh. Ngoài sự thờ ơ, còn thêm cả tâm lý sợ hãi nếu ai đó dám chia sẻ với những người bị nạn, đặc biệt là có dính tới yếu tố “chính trị”. Hôm nay nhân dịp sinh nhật Lê Quốc Quân, bạn bè theo chân gia đình Quân vào gửi đồ tiếp tế cho Quân đang bị giam ở Hỏa Lò. Biết là chẳng được gửi bánh sinh nhật và hoa, nhưng vẫn phải có chứ. Bạn bè kéo nhau ra chụp ảnh để có dịp gửi cho Quân, cũng là một cách cho cậu ấy ấm lòng khi nhìn thấy anh em bạn bè. Vừa chụp xong thì công an xuất hiện liền, bảo cấm chụp ảnh. Tất cả chúng tôi đều phản đối. Chỗ chúng tôi đứng chụp còn cách xa biển cấm chụp ảnh mấy chục mét. Họ bảo, nhưng các anh chị chụp lại lấy cảnh cơ quan phía sau là không được. Ô hô! Nếu các anh không muốn có cơ quan đằng sau chỗ chúng tôi đứng chụp ảnh, thì các anh nên xây một bức tường che kín nó đi. Chứ cơ quan các anh ở đó, chúng tôi đứng xa cả ki lô mét, dùng ống kính tê lê chụp vào thì cũng cấm được à? Cách đây 2 năm, bạn bè đến đón chúng tôi ở đây, vẫn chụp chiệc bình thường, có thấy cấm gì đâu? Tranh cãi một hồi rồi các chú cũng lại rút lui. Sao cứ phải phức tạp hóa vấn đề thế nhỉ? Mọi người theo gia đình Quân vào khu vực gửi đồ tiếp tế. Đang đứng nói chuyện thì khoảng năm sáu chú công an kéo vào, hỏi chúng tôi vào tiếp tế cho phạm nhân nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại: - Sao anh lại hỏi chúng tôi thế? Khi nào chúng tôi vào gửi đồ khắc biết mà. Có mỗi vậy mà lắm công an vào đây thế? Đến đó lại xoay ra vấn đề chụp ảnh. Lại vẫn nói từng ấy câu. Lại rút lui sau khi đề nghị nếu chúng tôi chỉ đi cùng thì xin mời ra ngoài. OK! Thì chúng tôi ra ngoài. Mỗi người tản mát mỗi nơi trong khi chờ đợi. Tôi cùng 2 người nữa đứng ngoài cổng. Chuyện trò một lúc, tự nhiên chú lính gác ra mời chúng tôi sang bên kia sân đứng. Lại hỏi tại sao. Lại tranh cãi một hồi. Một chú nữa ra tiếp ứng. Rốt cục lại mời cô chú vào trong nhà đứng. OK! Thì cô lại vào. Vừa nãy đuổi cô ra, bây giờ lại đuổi cô vào. Chả hiểu ra làm sao. Lê Quốc Quyết cười bảo tôi, lẽ ra họ không cho mặc váy vào đây đâu. Em quên dặn chị. Lần trước em em mặc váy, họ không cho vào đấy. Lại thêm một điều phi lý nữa. Đúng nghĩa là luật ở mồm họ. Tôi có cảm giác, khi một người phạm tội, bất kể là tội to nhỏ đến đâu, không chỉ bản thân người phạm tội mà cả những người thân của họ cũng trở thành nạn nhân của đủ thứ luật rừng. Họ mà phản ứng thì lập tức bị gây khó dễ đủ đường. Rốt cuộc, họ sẽ nghĩ mình là ông trời nếu chúng ta cứ chịu bị đè nén một cách phi lý như thế. Nguồn: https://www.facebook.com/phuong.dangbich?directed_target_id=0
......

Mười một tháng chín...

(Tặng đồng đội tôi, những người bị bắt trong mùa thu 2008). Mười một tháng chín năm 2001 không chỉ là ngày tồi tệ trong lịch sử nước Mỹ mà còn trở thành biểu tượng về nỗi kinh hoàng cho nhân loại. Trong khi cả thế giới đang tưởng niệm bẩy năm ngày xảy ra “sự kiện 11 tháng 9” thì một chiến dịch khủng bố khác đã được thực hiện. Vụ khủng bố không xảy ra ở nước Mỹ, thủ phạm không phải Osama Bin Laden và không có ai bị chết. Mười một tháng chín năm 2008, chính quyền cộng sản đã tiến hành một chiến dịch bắt bớ với quy mô lớn nhằm vào những nhân vật đấu tranh cho Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam.   Trong số những nhân vật đầu tiên bị bắt đi vào ngày 11 tháng 9 là các ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Văn Trội, Nguyễn Văn Túc. Lần lượt những ngày kế tiếp là các nhân vật tranh đấu khác gồm: Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Tính, Ngô Quỳnh, Vũ Hùng, Trần Đức Thạch, Nguyễn Kim Nhàn và tôi, Phạm Thanh Nghiên. Hơn bốn mươi năm tù là “phần thưởng” dành cho chúng tôi, dành cho khát vọng Tự do và những giá trị tốt đẹp của Con người. Ngày hôm nay, 11 tháng 9 năm 2013, tròn 12 năm kể từ ngày khủng bố mười một tháng chín trên đất Mỹ. Và cũng đã năm năm kể từ ngày cộng sản tiến hành “chiến dịch bắt bớ mùa thu 2008”, chúng tôi đều đã lần lượt ra tù. Nhưng có một người vẫn còn nằm lại, ở một trong những nhà tù khắc nghiệt nhất của hệ thống nhà tù cộng sản: nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, người nhận bản án nặng nề nhất trong số chúng tôi. Trong năm năm qua, nhà văn của chúng ta đã trải qua bốn nhà tù. Không ít lần trong thời gian năm năm ấy ông đã bị biệt giam, bị phân biệt đối xử, bị nhốt trong buồng kỷ luật với lý do “vi phạm nội quy trại giam” mà trên thực tế là một hình thức trả thù hèn hạ vì ông đã đấu tranh để phản đối sự vô nhân đạo của cai tù áp đặt lên ông và những người tù khác. Sự tàn bạo của chế độ nhà tù cộng sản không  còn là điều xa lạ nhưng chúng ta vẫn không khỏi ngỡ ngàng nhận tin ông bị cùm chân ngay trên giường bệnh hồi cuối năm 2012. Khí phách và sự khảng khái của một nhà văn yêu nước không chỉ làm cho chúng ta xúc động, khâm phục mà còn khiến những tên cai tù máu lạnh đang lăm lăm chiếc cùm sắt phải chùn tay, lùi bước: “Nếu các anh cùm chân tôi, thì tôi sẽ chọn cái chết ngay trên giường bệnh này!” Cách đây không lâu, sự kiện Blogger Điếu Cày tuyệt thực trong tù trở thành một trong những sự kiện khiến công luận trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Người ta đếm từng ngày anh tuyệt thực và gọi đó là “lịch Điếu Cày”. “Lịch Điếu Cày” chỉ dừng lại ở con số 36 khi anh ngừng tuyệt thực đồng nghĩa với việc cai tù buộc phải đáp ứng những yêu cầu chính đáng của một người tù lương tâm bất khuất. Người đã bất chấp hiểm nguy để báo tin Điếu Cày tuyệt thực chính là ông, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa. Dùng từ “hiểm nguy” không quá vì đối với một Tù nhân lương tâm, khi trao đổi với người thân trong những cuộc thăm gặp thì dù là thông tin liên quan đến bản thân mình còn bị cho là cấm kỵ. Huống hồ đó là thông tin về một Tù nhân lương tâm khác, nhất lại là thông tin vào diện “nhạy cảm”. Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Nga, vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa thì khi vừa thông báo tin này cho bà biết, “ông Nghĩa lập tức bị công an bịt mồm, lôi đi xềnh xệch” và đương nhiên, cuộc gặp bị hủy bỏ. Ngay sau đó, ông Nghĩa được chuyển từ buồng tập thể sang buồng giam chỉ có hai người. Không phải ngẫu nhiên Trần Văn Tiến, tên tội phạm làm gián điệp cho Trung Quốc, lại từng có “thành tích” đánh người (trước đó đã đánh một Tù nhân lương tâm khác là ông Nguyễn Kim Nhàn) được bố trí để ở chung với nhà văn, một người rất quyết liệt trong đấu tranh chống bá quyền Trung Quốc. Vào lần thăm gặp gần đây, bà Nga cho biết chồng bà không chỉ bị tên Tiến đánh, mà còn liên tục bị đe dọa và xúc phạm đến nhân phẩm. Hắn từng ngang nhiên tuyên bố: “Mày (Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa) sẽ chết trước khi kịp bước chân vào nhà”. Lời đe dọa nghe giống với thông điệp của chính quyền gửi đến “kẻ chống đối” hơn là của một người tù nói với một người tù. Năm trong số sáu năm tù nhà văn đã trải qua với bao nhiêu hiểm nguy và thử thách. Một năm còn lại, có thể những hiểm nguy và thử thách sẽ nhiều hơn nhưng chúng ta tin, một con người luôn hướng đến tương lai như ông sẽ vượt qua tất cả để trở về trong chiến thắng. Những Tù nhân lương tâm khác đều sẽ trở về trong Chiến thắng. Vì tương lai là của chúng ta. Hôm nay, để kỷ niệm năm năm ngày nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và các đồng đội của ông bị bắt, xin được tặng lại quý độc giả bài thơ “Cầu xin đau cả loài người” ông viết hồi tháng 9 năm 2007, một năm trước khi bị bắt. Bài thơ - như ông tâm sự- là để “kính viếng hương hồn những người dân Myanmar đã ngã xuống trong cuộc biểu tình chống chế độ quân phiệt cuối tháng 9 năm 2007”.                            “Người đã ngã trên đường Yangon                             Tôi sẽ ngã trên đường Hà Nội”. Không lâu sau khi tôi, ông và nhiều anh em khác bước chân khỏi căn nhà quen thuộc của mình để đối mặt với cuộc sống ngục tù thì đường phố Yangon đã không còn thêm những xác người. Người dân Miến Điện đã được Tự do. Một kết thúc có hậu cho một Dân tộc từng trải qua nhiều đau thương, mất mát. Việt Nam có thể phải rất lâu hoặc có thể không bao lâu nữa để có một cuộc xuống đường như mong muốn.Trong số những người “sẽ ngã” có thể có ông-nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa- có tôi, bạn hay bất cứ một người dân Việt Nam nào. Nhưng, chúng ta sẽ ngã cùng với nụ cười nở trên môi: Nụ cười Việt Nam. Nụ cười Chiến thắng. Nhưng trước mặt chúng tôi đã có đoàn người vững vàng tiến tới và đang ca bài Chiến thắng.                                 Cầu xin đau cả loài người                                                                            Nguyễn Xuân Nghĩa            Người đã ngã trên đường Yangon           Ngực áo cà sa đang thủng           Tiếng súng độc tài vang trên xứ sở chùa chiền           Sao người bên ấy giống mẹ tôi,           Người giống bố tôi.          Con trâu lưỡi cày chung gốc          Cây lúa, cây ngô một hạt phân cành        Sao đất nước của người giống đất nước của tôi        Hoa văn mái chùa chung nét        Tiếng chuông phương Nam, tĩnh hồn phương Bắc        Gốc Bồ Đề, tràng hạt cầm chung.        Kẻ cầm quyền bên người sao giống bên tôi       Viên đạn giống nhau ngôn từ cũng giống       Cái người mất là cái tôi đang mất       Tiếng thét bên kia nghe ở bên này       Người đã ngã trên đường Yangon       Tôi sẽ ngã trên đường Hà Nội.       Giọt máu trộn chung, đỏ hai mảnh đất       Cầu xin đau cả loài người. nguồn: phamthanhnghien.blogspot
......

Các Chức Sắc Tôn Giáo: Hiệp thông với giáo phận Vinh, lên án chính quyền tỉnh Nghệ An

Trưa ngày 10.09.2013, Các chức sắc tôn giáo Việt Nam đã công bố Bản Lên Tiếng về Về vụ việc tại Giáo xứ Mỹ Yên, thuộc Giáo phận Vinh.   Bản Lên Tiếng: Chân thành hiệp thông đồng cảm với Đức Giám mục và toàn thể Giáo phận Vinh, nhất là với các nạn nhân vô tội trong vụ việc kéo dài từ 22-05-2013 tới nay. Cực lực phản đối nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An đã không có thiện chí giải quyết vụ việc ngay từ đầu, lại còn rắp tâm trả thù giáo dân kiểu hèn hạ bằng cách bắt cóc người và đàn áp dân. Mạnh mẽ nhắc nhở nhà cầm quyền và các lực lượng công an, quân đội rằng: mọi tội ác chống lại con người không sớm thì muộn sẽ phải bị truy tố trước tòa án của nhân dân, của quốc tế, của lịch sử (chưa kể của Các Đấng Thiêng liêng). Thiết tha kêu gọi Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như các Chính phủ dân chủ, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Cơ quan truyền thông hoàn vũ tiếp tục phơi bày tội ác của Cộng sản, áp lực đủ cách lên nhà cầm quyền Việt Nam và bày tỏ lòng hiệp thông hữu hiệu với những dân lành vô tội.   BẢN LÊN TIẾNG                                                                                                                                                                        Của các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam Về vụ việc tại Giáo xứ Mỹ Yên, thuộc Giáo phận Vinh —— - Xét rằng chiều ngày 22-05-2013, trước khi diễn ra phiên xử phúc thẩm 14 thanh niên Công giáo và Tin Lành tại thành phố Vinh, có đoàn xe giáo dân thuộc giáo xứ Mỹ Yên, thuộc giáo phận Vinh, hành hương đến Linh địa Trại Gáo để cầu nguyện cho họ thì bị 3 người mặc thường phục chặn lại và đòi xét cả hành lý. Quá bất bình trước thái độ ngang nhiên này, giáo dân đã xô xát rồi bắt giữ những kẻ lạ mặt và mới khám phá ra đó chính là công an nhưng sau đó đã thả họ ra. Đây là hành vi hết sức sai trái và xâm phạm tự do tôn giáo của nhân viên công lực. - Xét rằng vào ngày 27-06-2013, hai giáo dân Mỹ Yên đã bị công an và cảnh sát chặn giữa đường, bắt cóc theo kiểu bọn khủng bố, chẳng có lý do và không thông báo ngay cho thân nhân. Đó là ông Ngô Văn Khởi bị 5 công an bịt mặt bắt khi đi đám cưới người cháu về; còn ông Nguyễn Văn Hải bị bắt đang khi chở cháu bé đi khám bệnh. Một tuần sau, gia đình mới nhận được giấy bắt với lý do hai ông này gây rối trật tự. Đây là hành vi vi phạm trầm trọng Luật Tố tụng Hình sự (Điều 80, 84, 85) đồng thời là sự vu khống trắng trợn (nhằm trả thù dân) của Công an cộng sản. - Xét rằng vào ngày 27-08-2013, khi giáo dân giáo xứ Mỹ Yên tập trung về trụ sở ủy ban nhân dân xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để đòi tự do cho hai giáo dân nói trên, nhà cầm quyền có hứa miệng là sẽ thả họ 4 ngày sau đó. Thế nhưng họ không thực hiện lời hứa, khiến hôm 03-09-2013, giáo dân lại tiếp tục đến trụ sở ủy ban để yêu cầu thả người, và ông chủ tịch xã đã viết giấy cam kết sẽ thả người trước 16 giờ ngày 04-09-2013. Thế nhưng, khi giáo dân đến đón 2 tù nhân vô tội thì đã bị hơn 500 công an, dân phòng, côn đồ… trang bị thuốc nổ, hơi cay, lựu đạn khói, chó nghiệp vụ xông vào tấn công. Nhiều người đã bị bắt về đồn. Ít nhất 30 người bị thương, trong đó có cả phụ nữ và thiếu niên, một số nạn nhân còn trong tình trạng nguy kịch tính mạng. Vài người được đưa đến bệnh viện công còn bị côngg an ngăn cản y bác sĩ cứu giúp. Ngoài ra, rất nhiều quân nhân được trang bị súng ống đã bao vây giáo xứ Mỹ Yên, sẵn sàng nhả đạn; 500 công an khác chặn đường và đánh đập nhiều giáo dân thuộc các giáo xứ bạn đến tiếp cứu. Đây vừa là hành vi dối trá lật lọng, vừa là hành vi bạo lực trấn áp, vừa là hành vi tàn nhẫn ác độc của nhà cầm quyền Cộng sản Nghệ An và các lực lượng công cụ. - Xét rằng báo Nghệ An điện tử (baonghean.vn) trong thời gian gần đây đã có nhiều bài báo sai sự thật: “Nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật có tính hệ thống của một số đối tượng quá khích ở Nghi Phương, Nghi Lộc, Nghệ An”, “Đặt vấn đề Ông Nguyễn Thái Hợp đã làm tròn trách nhiệm và bổn phận?”, “Đoàn kết không có nghĩa là đồng lõa, bênh vực cho những sai phạm”, để phối hợp với nhà cầm quyền trong chiến dịch đánh hội đồng giáo dân Mỹ Yên và vị Giám mục cai quản giáo phận, nghĩa là đánh toàn bộ giáo dân giáo phận Vinh, bằng những kiểu trình bày gian trá, lý luận ngụy biện và phê phán sai lạc nhằm đầu độc công luận. Đây là sự gian dối tráo trở và là sự đồng lõa chà đạp pháp luật của các kênh thông tin nhà nước, cụ thể tại Nghệ An. Các chức sắc tôn giáo tại Việt Nam tuyên bố: - Chân thành hiệp thông đồng cảm với Đức Giám mục và toàn thể Giáo phận Vinh, nhất là với các nạn nhân vô tội trong vụ việc kéo dài từ 22-05-2013 tới nay. Xin chung lòng hợp trí với Thư Chung ngày 06-09-2013 của Đức Giám mục để cầu nguyện cho hai tù nhân và các nạn nhân của bạo lực sớm tai qua nạn khỏi, cho giáo phận Vinh được bình yên, cho nhà cầm quyền biết sử dụng quyền bính để phục vụ công ích, biết tôn trọng phẩm giá người dân và tôn trọng niềm tin tôn giáo. - Cực lực phản đối nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An đã không có thiện chí giải quyết vụ việc ngay từ đầu, lại còn rắp tâm trả thù giáo dân kiểu hèn hạ bằng cách bắt cóc người. Đến khi nhân dân tụ tập đòi công lý thì giả cam kết để đánh úp họ bằng tất cả bạo lực và dối trá của những công cụ lẽ ra phải phục vụ nhân quần xã hội. Điều này thêm một lần nữa củng cố danh ngôn ô nhục: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy nhìn những gì Cộng sản làm”. Chớ biến câu này thành bia miệng ngàn năm. - Mạnh mẽ nhắc nhở nhà cầm quyền và các lực lượng công an, quân đội rằng: mọi tội ác chống lại con người không sớm thì muộn sẽ phải bị truy tố trước tòa án của nhân dân, của quốc tế, của lịch sử (chưa kể của Các Đấng Thiêng liêng). Lúc đó, theo quy định quốc tế và từ kinh nghiệm các chế độ độc tài bị lật đổ, những kẻ ra lệnh và những kẻ thừa hành đều phải chịu chung trách nhiệm, không thể đổ lỗi cho nhau. - Thiết tha kêu gọi Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như các Chính phủ dân chủ, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Cơ quan truyền thông hoàn vũ tiếp tục phơi bày tội ác của Cộng sản, áp lực đủ cách lên nhà cầm quyền Việt Nam và bày tỏ lòng hiệp thông hữu hiệu với những dân lành vô tội. Làm tại Việt Nam, ngày 10.09.2013 CÁC CHỨC SẮC TÔN GIÁO VIỆT NAM Đồng ký tên - Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593) - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công giáo (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công giáo (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công giáo (đt: 0993.598.820) - Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài giáo (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân, Cao Đài giáo (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng, Cao Đài giáo (đt: 0988.477.719) - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Tin Lành (đt: 0949.275.827) - Mục sư Hồ Hữu Hoàng, Tin Lành (đt: 0902.761.057) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Tin Lành (đt: 0906.342.908) - Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082) - Ông Trần Nguyên Hưởn, PGHH (đt: 0167.341.0139) - Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Tin Lành (đt: 0162.838. 7716) Nguồn: VRNs
......

Ls Lê Quốc Quân và Tôi

Anh Quân và tôi chưa từng gặp nhau, chưa từng nói chuyện điện thoại, email hay những phương tiện liên lạc khác, nhưng anh đã để lại trong tôi sự kính trọng, yêu mến và nể phục. Suy nghĩ của anh sâu sắc, tinh thần thì can đảm giám dấn thân, đấu tranh cho “công lý, toàn vẹn lãnh thổ và nhân quyền của người Việt Nam”. 13.09 sinh nhật LS Lê Quốc Quân trong  lao tù Tôi và anh Lê Quốc Quân là hai thế hệ khác nhau, anh hơn tôi nhiều tuổi và sống ở hai vùng miền khác nhau. Tôi lần đầu tiên nghe tên anh vào năm 2008 liên quan đến sự kiện đấu tranh đòi lại đất Tòa Khâm Sứ và Thái Hà. Thông qua những gì tôi lĩnh hội, và tìm hiểu qua những bài viết được đăng trên Blog của anh, tôi đã hiểu nhiều hơn nữa về con người, lý tưởng của anh. Tôi muốn được chia sẻ một vài suy nghĩ, cảm xúc về con người mang tên Giuse Lê Quốc Quân, trước khi nhà nước Việt Nam mở phiên toà hài kịch, ghán ghép tội danh ‘kinh tế’, để xử anh. 1. Cuộc sống Gia Đình: Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công Giáo, có nền tảng đức tin, đạo hạnh, anh đã quan tâm và nhiệt thành đấu tranh cho công lý, công bằng xã hội. Là một Luật sư, có bằng cấp Thạc sĩ kinh tế loại giỏi nên việc tìm ‘Vinh Hoa - Phú Quý’ cho bản thân và gia đình anh là chuyện dể dàng. Nhưng anh lại không màng ‘danh-lợi’ riêng tư. Ngược lại, anh dấn thân đấu tranh cho Công Lý & Hòa Bình - Nhân Quyền & Dân Tộc. Anh sẳn sàng chấp nhận hy sinh kể cả cảnh tù tội. Anh biết rất rõ, nhà cầm quyền độc tài đảng trị Việt Nam xem anh là thành phần nguy hiểm cho chế độ, cần phải bị tiêu diệt. 2. Mở mang kiến thức: Mong muốn xã hội VN phát triển về tình con người, khơi dậy tính hiếu học của người Việt và lo cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước, anh đã bỏ công sức và của cải kết hợp, kêu gọi những cá nhân và tổ chức quan tâm đến tương lai Dân Tộc Việt. Anh đã triển khai mô hình “Tủ Sách” đầu tiên cho những vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh. Tính tới thời điểm này, tôi biết là đã triển khai được khoảng 29 địa điểm thuộc các tỉnh phía Bắc Việt Nam. 3. Công lý - Hòa bình: Là thành viên quan trọng trong Ủy Ban Công Lý - Hòa Bình Giáo Phận Vinh. Là người am hiểu luật pháp, yêu chuộng công lý và sự thật, anh cổ xuý cho các giá trị nhân bản và đấu tranh cho quyền sống, làm người của nhân dân Việt Nam. Những thao thức của anh đã được anh trình bày trong các bài tham luận, với những luận chứng “Công Lý” bị giết chết trong hệ thống Pháp Luật Việt Nam hiện nay được đăng tải trên trang Blog của anh. Anh đã phải chứng kiến liên tục hình ảnh người dân Việt Nam phải sống trong cảnh “Một Cổ 2 Tròng”, “Chân lý thuộc về kẻ mạnh” hay nói dân dã hơn “lấy thịt đè người, cá lớn nuốt cá bé….”. của xã hội Việt Nam và tình trạng đó ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. 4. Nhân quyền & Dân tộc: Ls Lê Quốc Quân là người bảo vệ “Nhân Quyền”, là người sẵn sàng “hy sinh cho Dân tộc”? Đứng trước thực trạng quyền làm người bị xâm hại trắng trọn, tư tưởng coi mạng người như “cỏ rác” trong hệ thống luật pháp của VN, nhưng kẻ cầm quyền đã nhào nặn ra những thứ luật pháp chỉ phục vụ riêng cho quyền lực của họ, phục vụ lợi ích riêng của họ mà không màng tới nhân mạng của người khác. Ls Lê Quốc Quân đã can đảm giám góp ý, giám nói lên sự thật những hành động phi nhân tính đó của nhà cầm quyền VN. Nhưng bù lại phần thưởng của nhà cầm quyền dành cho anh là gì? Là những lần khủng bố, sách nhiễu, đe dọa, bắt giam và bị “côn đồ đỏ” tấn công… Trong những thập niên gần đây, chủ quyền Dân tộc không ngừng bị đe dọa, “người anh trai tốt của ĐCSVN” là "Hán Cộng" không ngừng xâm chiếm lãnh thổ và lãnh hải của Tổ Quốc Việt Nam trên cả hai phương diện “Vừa Đấm Vừa Đàm”. Ls Lê Quốc Quân lên án hành động “hèn với giặc ác với dân, coi giặc là anh em” của nhà cầm quyền VN. Trong những lần tuần hành biểu tình chống Trung Quốc xâm lược cùng với những người yêu nước, anh và mọi người bị đàn áp dã man bởi những người mang danh là “Chính Quyền”, nhưng ngọn lửa yêu nước, yêu Dân tộc trong anh không hề tắt mà còn bùng cháy mạnh hơn, kể cả lúc này anh đang bị giam trong ngục tối, nhưng tinh thần yêu dân tộc, yêu đất nước của anh vẫn thiêu đốt tâm can của anh thể hiện qua bài thơ “ Hỏa Lò Vọng Sóng Biển Đông” anh vừa mới viết và gởi ra từ trại giam Hỏa Lò, Hà Nội mấy hôm vừa qua. Nhà cầm quyền CSVN có thể giam được thân thể anh, nhưng không thể giam nổi ý chí của anh, họ có thể giam anh không cho đi tuần hành chống Trung Cộng, nhưng không thể giam nổi lòng yêu nước của anh. Trước ngày anh bị đưa ra xét xử về tội “trốn thuế”, những câu hỏi về sự việc của anh cứ vẫn vơ trong tâm trí tôi. Theo như lời anh Lê Quốc Quyết em trai của Ls Lê Quốc Quân (người có chứng cớ về thuế của công ty anh Quân) thì công ty anh Quân là một trong những công ty xuất sắc trong việc đóng thuế cho nhà nước, không những xuất sắc mà còn đóng dư trước cho nhà nước là 172 triệu. Trước những hồ sơ, chứng cớ của cơ quan thuế rõ ràng như vậy thì việc kết án trốn thuế chỉ mang tính lý cớ bắt giam và hạ uy tín của anh. Đây là âm mưu đê tiện của nhà cầm quyền Việt Nam. Nhưng qua những bản lên tiếng của các chính phủ, tổ chức đoàn thể quốc tế, những buổi thắp nến cầu nguyện liên tục tại các nhà thờ trong thời gian vừa qua, âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền đã bị phản tác dụng. Còn rất nhiều và rất nhiều việc mà anh đã làm mà tôi chưa liệt kê hết, nhưng tôi điểm qua những gì mà tôi cảm nhận được thì anh là người tôi rất khâm phục và kính trọng. Kính trọng vì anh là người “Chính nghĩa”, giám nói giám làm. Khâm phục vì anh là người “Can Đảm” biết con đường phía trước là “Chông và Gai”, “Sỏi và Đá” mà anh vẫn “ Hiên Ngang Tiến Bước” để tạo con đường cho cho thế hệ trẻ như chúng tôi và cho cả tương lai của Dân Tộc Việt Nam. “Tôi muốn làm con Ruồi Trâu đốt vào mông đít Xã hội để nó nhảy lên phía trước” đó là câu châm ngôn trên Blog của anh Nguyện xin Thiên Chúa ban bình an xuống trên anh và đại gia đình anh trong tương lai, đặc biệt là những ngày tới đây. Như lời chúa dạy “Sự Thật Sẽ Giải Phóng Anh Em”. Nguồn: thanhnienconggiao.blogspot.com
......

Hãy cứ đi con đường gian truân

Tình hình đảng CSVN giống như con bệnh ung thư chờ ngày chết. Đìều này không phải là một mơ ước viển vông, chủ quan nói theo người Mỹ là “wishful thinking”; mà nó dựa vào những nguyên tắc có tính qui luật và các diễn tiến cụ thể, đã từng xảy ra trong quá khứ theo một tiến trình lịch sử rất tự nhiên. Vì vậy, nếu có xảy ra cho đảng CSVN thì đó là tiến trình bình thường, nếu không xảy ra mới là bất bình thường.   Cuộc cách mạng ở Đông Âu kéo đổ hàng loạt các chế độ cộng sản. Chính sách cải tổ của cựu Tổng Bí thư đảng CS Liên Xô, ông Gorbachev đã tác động vào tiến trình cách mạng không những ở Liên Bang Sô Viết mà ngay cả các nước cộng sản anh em. Mặc dù bản thân ông Gorbachev đã tìm mọi cách để ngăn chận ảnh hưởng của trào lưu dân chủ nhưng quá trể. Cơn cuồng phong của cách mạng đã giựt xụp chủ nghĩa Cộng sản, một chủ nghĩa man rợ mà tội ác đã được 46 Quốc gia Âu Châu thông qua Nghị Quyết 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng hóa với tội ác chống lại nhân loại. Thí dụ, điều 2, trong Nghị Quyết xác nhận: “…Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ 20 và một số chế độ cộng sản hiện vẫn còn cầm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền.…”. Điều 3….” Nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh…..Hầu hết nạn nhân chế độ cộng sản chính là công dân của nước đó…”. Và điều 9….” Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để biện hộ, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại…” Bối cảnh lịch sử như vậy, nên chế độ độc đảng CSVN đang bị thử thách hàng ngày là điểu hiển nhiên. Trong lúc đó, nền kinh tế “chỉ đạo quốc doanh” gặm nhấm tài sản đất nước và là môi trường tốt để nuôi dưỡng tham nhũng. Các nhóm kinh tế lợi ích, bám vào đặc quyền chính trị và đặc lợi kinh tế, đang ngày đêm đục khoét và bòn rút của công, đưa ra những chính sách kinh tế đầu voi đuôi chuột, mà hệ quả là viễn ảnh của sụp đổ kinh tế là điều khó có thể tránh khỏi. Hệ thống độc đảng CSVN cai trị từ những năm 1945 tại miền Bắc và 1975 tại miền Nam đã chứng tỏ bản chất “bất khiển dụng”. Cả một guồng máy độc tài vận hành theo quán tính, cai trị đất nước theo kiểu “Leninist-Stalinist”, chỉ biết chuyên chính với nhân dân, mà chế độ coi là kẻ thù. Hệ quả là những tiếng nói đối kháng đều bị trù dập, mọi nổ lực chính trị để đưa đất nước thoát ra khỏi qủy đạo độc tài, độc đảng đều thất bại vì sự đàn áp tàn bạo của chế độ. Để có một con số cụ thể, chỉ trong vòng 3 năm, từ 2010 -2013, đảng CSVN đã tuyên án gần 1000 năm tù cho các chiến sĩ dân chủ Việt Nam. Khi đưa những danh sách tù nhân và chứng liệu cho giới chức Hành Pháp và Lập Pháp Hoa kỳ, họ choáng và không thể ngờ là đảng CSVN đã phạm tội ác, đã gieo rắc nghiệp báo lên chính dân tộc Việt Nam như vậy. Và điều này, ngay cả những quan chức Cộng sản, những người đã ban hành những bản án hét ra lửa trong suốt ba năm qua, cũng có thể đã không đo lường hết được tội ác của họ. Tuy nhiên, thời kỳ đảng CSVN làm mưa làm gió trên vũ đài chính trị chắc sẽ đếm từng ngày. Giống như con bệnh đang nằm chờ chết, mọi nỗ lực, tham vọng níu kéo đều không thể làm chủ được tình hình. Bối cảnh đấu tranh ở thế kỷ 21 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nỗ lực cách mạng được nuôi dưỡng và hình thành. Gần đây, những tiếng nói mạnh mẽ của tuổi trẻ Việt Nam, cụ thể là giới viết blog đã công khai đối đầu, vượt lên trên nỗi sợ hãi và tính thụ động, đi tiên phong trong những nỗ lực đấu tranh. Đây là những nỗ lực rất đáng khích lệ, cần được nuôi dưỡng và ủng hộ bằng tất cả mọi phương tiện. Cũng vậy, sự kiện kêu gọi thành lập đảng đối lập tại Việt Nam của ông Lê Hiếu Đằng là một mũi nhọn về mặt chính trị đang làm chế độ độc tài lo sợ. Chỉ cần nhìn vào lượng các tờ báo đảng công kích, các bài viết đánh đổ lời kêu gọi bỏ đảng CSVN để lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng, thì chúng ta biết Hà Nội đang hoảng hốt cở nào. Lẽ ra việc kêu gọi và thành lập đảng đối lập nên diễn ra cách đây cả chục năm trước chứ không phải đợi đến hôm nay. Và không phải chỉ có một đảng đối lập Dân chủ Xã hội mà càng có nhiều đảng đối lập thành lập, nhiều tổ chức khác công khai hoạt động, thì tiến trình dân chủ mới có cơ may thành tựu. Sự kiện kêu gọi công khai thành lập đảng chính trị và hoạt động đối lập, bất chấp sự đàn áp của đảng CSVN nó xác nhận tính vô hiến của điều 4 Hiến Pháp. Hơn nữa, thái độ hoạt động đối lập công khai của các tổ chức chính trị, cũng thể hiện sự thách thức lại bản chất độc tài, toàn trị và đứng trên pháp luật, khi tự qui định ra điều 4, nhằm khẳng định vai trò độc tôn lãnh đạo của đảng CSVN. Tình thế hiện nay cũng cho thấy, một đảng đối lập hoạt động công khai có thể dễ cho nhà cầm quyền Hà Nội đàn áp, nhưng nếu có nhiều đảng cùng thành lập, hoạt động, và cùng thách thức vai trò lãnh đạo của đảng CSVN, thì Hà Nội sẽ bị kẹt cứng, nếu đàn áp quá hung bạo, có thể tức nước vỡ bờ. Nhiều người e ngại việc Hà Nội cố tình tạo ra các tiếng nói đối lập cuội để kéo dài tuổi thọ của đảng CSVN. Tình thế chính trị và bối cảnh hiện nay không thuận lợi cho Hà nội để có thể tạo ra những quân bài cuội. Hà nội giống như nhà phù thủy muốn tìm cách tạo ra những “âm binh”, nhưng quá yếu nên sợ không khả năng làm chủ được “âm binh”, và không khéo thì lại bị chính “âm binh” quật ngược. Phù thủy Hà Nội đã không còn phép thần thông để điều khiển âm binh như vài chục năm trước. Đồng thời, ở thế kỷ tin học, những âm binh “cuội” không đủ khả năng và điều kiện để có thể lôi cuốn và lừa bịp quần chúng, đánh đòn ảo về chính trị để bênh vực chế độ tham nhũng, độc tài đảng trị. Nếu có, “âm binh” cũng sẽ bị nhân dân lột mặt nạ và trở thành vô dụng. Trong không khí chính trị bất thường, “phản đảng và phản tỉnh” hiện nay, không khéo thì “âm binh” lại trở thành “phản binh”, thì đảng CSVN mất cả chì lẫn chài, nguy hại khôn lường cho chế độ. Điều này chưa nói đến khả năng “lộng giả thành chân” và hệ quả của “phản ứng dây chuyền” mà sự thành hình của đảng cuội, tạo hứng khởi và cơ hội cho nhiều đảng đối lập thực sự thành hình. Thí dụ, nếu giả sử có đảng cuội nằm xen kẽ trong các đảng đối lập thật, tình thế này cũng sẽ tạo ra bối cảnh chính trị rối rắm mà Hà Nội không thể kiểm soát. Liệu Hà Nội có đủ mạnh để đàn áp hết các đảng đối lập, cuội lẫn thiệt không? Liệu sức ép của quan hệ kinh tế và chính trị quốc tế có cho phép Hà nội muốn làm gì thì làm không? Liệu tình thế chính trị có thuận lợi cho Hà Nội dám đánh những ván bài nguy hiểm, dám phiêu lưu chính trị, tự mình thách thức lại chính điều 4 Hiến Pháp, có thể làm nguy hại cho sự tồn vong của chế độ không? Tóm lại, nghi ngờ và cẩn trọng là sự cần thiết, nhưng không vì vậy mà cứ trông gà hoá cuốc, và làm hỏng ngay những nỗ lực cần thiết và cần nuôi dưỡng trong bối cảnh đấu tranh hiện nay. Mèo trắng hay mèo đen gì cũng bắt được chuột, thì tại sao lại cứ phải phân biệt Mèo cộng sản phản tỉnh hay Mèo dân chủ để tự làm suy yếu mình trong khả năng cùng đấu tranh, nhằm dẹp bỏ con chuột cộng sản. Thời gian qua, kinh nghiệm cho thấy là muốn triệt hạ, cô lập và làm suy yếu đối kháng, Hà Nội có hai cách để tiến hành. Hoặc là chụp cho các nhà dân chủ, các tổ chức đối lập một cái mũ “cộng sản”, mũ “cuội”, hoặc là gán cho họ là tay sai, có liên hệ, nhận tiền, nhận chỉ đạo, là ngoại vi của các tổ chức chính trị ở hải ngoại. Có nhiều người, vì ngây thơ hay hữu ý cũng sẵn sàng ném đá, vô tình tiếp tay với an ninh CSVN và dư luận viên để cô lập, vô hiệu hoá mọi nỗ lực đấu tranh. Vài năm trước, chúng tôi cũng từng là nạn nhân của ném đá, nghi ngờ, bị chụp mũ và gán ghép “cuội’. Giờ này thì nhiều đảng viên lãnh đạo của Đảng Dân chủ Nhân dân (DCND) đã thi hành xong các bản án tù về tội “tuyên truyền chống chế độ”, nhưng thực sự là đã dám lập “Đảng đối lập”, dám thách thức bản chất của điều 4 Hiến Pháp. Những người ném đá chúng tôi hiện nay vẫn còn sống, có người là nhà bình luận ở Nam California, có người là nhà thơ chống Cộng nổi tiếng. Điều nghịch lý là họ vẫn an toàn, vẫn tiếp tục làm công việc ném đá của họ vào những người khác một cách nhiệt tình. Và chúng tôi, có người thì vẫn còn tiếp tục ngồi tù, có người vẫn tiếp tục đi con đường gian truân của mình. © Đỗ Thành Công Nguồn: danchimviet.info
......

Thêm những nghi vấn về Hồ Chí Minh

BTV Dân Luận: Nghi vấn ông Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay người Đài Loan như tác giả Xích Tử đề cập trong bài viết, vốn đã được đề cập bàn tán mổ xẻ khá nhiều trong thời gian vừa qua, tôi (HG) đã có dịp trò chuyện trao đổi với một nhà văn nổi tiếng (xin được phép không nêu tên ở đây) mà bản thân ông và những thành viên trong gia đình đã từng có những sinh hoạt khá gần gũi với ông Hồ, ông tỏ vẻ hoài nghi về giả thiết ông Hồ là người Đài Loan như tác giả cuốn sách “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” nêu ra. Tuy nhiên, một tác giả có uy tín khác mà mới đây tôi có dịp tiếp xúc thì lại tỏ ra rất quan tâm tới giả thuyết trên vì ông cho rằng, nếu nghi án của ông Hồ Tuấn Hùng được chứng minh thì sẽ làm sáng tỏ được rất nhiều điều tưởng chừng như là "vô lý" được thể hiện qua cách hành xử, hay có trong một số tác phẩm của ông Hồ. Vì lẽ đó, bài viết của tác giả Xích Tử, tuy có nhiều nguồn thông tin chưa được kiểm chứng nhưng cũng xin được phổ biến tới bạn đọc để mọi người quan tâm cùng tham khảo.   Ông Phạm Quế Dương có bài viết trên danlambaovn.blogspot.com “Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan”. Đây là vấn đề xôn xao hơn mười năm qua, khi xuất hiện công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của Hồ Tuấn Hùng cùng một số bài viết rất công phu của Huỳnh Tâm được đăng trên trang blog nói trên. Với tiêu đề bài viết, ông Phạm muốn lãnh đạo Việt Nam làm rõ, tức là công khai thông tin hoặc thái độ về vấn đề này. Tuy nhiên, dù vậy, ông cũng thừa hiểu là không bao giờ có việc ấy. Do đó, mục đích chính của bài viết, theo chỗ tôi hiểu, là nêu vấn đề, tạo nên một nghi án để nghiên cứu, để lịch sử đừng bỏ qua. Là một người quan tâm đến mức bị ám ảnh câu chuyện, xin đưa ra một số chi tiết, giả thiết để những người cùng quan tâm tham khảo: 1. Ông Hồ Cẩm Đào, lúc còn tại vị, có lần khi nói về quan hệ Việt Trung, cho rằng mối quan hệ này còn nhiều bí mật, phải 50 năm nữa mới nói ra được. Trong hàm ý của ông, một trong những bí mật đó là Hồ Chí Minh. Thời gian 50 năm cũng trùng với thời gian mà Trung Quốc quyết tâm “thu hồi” Đài Loan. 2. Trong một tài liệu của Chương Thâu viết về Phan Bội Châu, có kể về việc năm 1905, trước khi xuất dương lần đầu để hoạt động yêu nước, Cụ Phan có tổ chức một buổi tối thơ rượu chia tay ở nhà mình. Trong buổi gặp mặt, có cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 2 con trai; Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung lúc đó ở tuổi 14 – 16, hầu rượu. Như vậy, giữa Nguyễn Sinh Cung và cụ Phan có quan hệ thân tình của đồng hương và gia đình, và sau này, ở lý tưởng yêu nước, giải phóng dân tộc. Trong những năm 1924, 1925, Nguyễn Ái Quốc gặp lại cụ Phan ở Trung Quốc, cùng chia sẻ một số hoạt động của tổ chức cách mạng. Nguyễn Ái Quốc gián tiếp tổ chức một số cuộc gặp giữa cụ Phan với M. M. Borodine, đại diện của Liên Xô tại Trung Hoa Dân Quốc. Sau cuộc gặp ấy, tuy không tin được vào “người Nga xảo quyệt ấy” như cụ đã viết trong “Tự phán”, song có lúc cụ định ngả sang phía cộng sản. Cụ Phan tỏ ra rất quí Nguyễn Ái Quốc. Ngày 14/2/1925, cụ có viết cho Nguyễn một bức thư với nội dung thể hiện sự quí trọng và quan hệ khăng khít này “Nhớ lại hai mươi năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gò án ngâm thơ, anh em cháu đều chửa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem so kẻ gì này với cháu thì bác thất rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, chỉ sợ không được thấy ngày đó, làm sao bác không cảm thấy buồn cho chính mình được? Một đời tân khổ, gánh vác công chuyện một mình, được sức lớn của cháu giúp vào thì ắt sẽ có nhiều người hưởng ứng theo. Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác gánh vác trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cảm thấy vui mừng được. Bác đang định tìm một dịp tốt về Quảng Đông một chuyến để đàm luận với cháu, không biết cháu còn ở lại Quảng Đông lâu mau, hoặc giả trong tương lai có định đi chỗ khác không? Trong lòng bác có nhiều chuyện muốn hỏi ý kiến cháu, nhưng không gặp mặt thì làm sao có thể bàn cho hết ý được? Làm sao được? Nếu không coi già yếu là đồ bỏ thì cháu viết thư nhiều cho bác, bác thành thật yêu cầu cháu đấy. Cần nhắc lại là Phan Bội Châu lúc rời nước đã gần bốn mươi (ba mươi chín tuổi đến Nhật) lại không thể tránh khỏi những trách nhiệm này nọ đặng chuyên chú học hành, cho nên tri thức lúc bấy giờ cũng vẫn như xưa. Cháu học vấn rộng rãi, và từng đi nhiều nơi, hơn bác cả chục cả trăm lần. Tri thức và kế hoạch của cháu vượt sức đo lường của bác; không biết cháu có thể chia sẻ cùng bác một hai việc? Bác rất hết sức mong đợi, mong cháu không ngại. Vì nếu không có kế hoạch thì bất quá chỉ làm những khách tha hương than thở không đâu cho hồn cố quốc, chả giống ông Hy Mã thì cũng giống Phan Bội Châu mà thôi! “ ( ) Một số tài liệu ghi lại những hợp tác hoạt động giữa cụ Phan và Nguyễn Ái Quốc trong khoảng thời gian 1924 – 1925 bằng sự chuyển tiếp giữa nhóm Tâm Tâm Xã và Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên. Tuy nhiên, giữa hai người vẫn tồn tại khoảng cách, vẫn giữ bí mật về hành tung và từ đó tồn tại nghi vấn về việc Nguyễn Ái Quốc tham gia việc tổ chức bán cụ Phan cho Pháp. Điều lạ nhất là từ ngày cụ Phan bị bắt (30/6/1925) đến khi cụ mất (29/12/1940) và cho đến cả 2/9/1969, cả Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không có một dòng nào về người bác, người đồng chí vong niên và đồng hương vĩ đại này. Đây là thái độ của một người hay hai người? 3. Có chuyện kể rằng người chị của Nguyễn Sinh Cung – Hồ Chí Minh có ra thăm em sau khi cách mạng thành công. Chuyến thăm chỉ diễn ra trong một đêm, tức là từ chiều hôm trước và đến sáng hôm sau thì được tổ chức về quê ngay. Chuyện kể chỉ nói lại là khi thấy mặt “em trai”, bà Thanh xác nhận đó chính là “cậu ấy”. Câu nhận xét đó chỉ là truyền khẩu và không biết tác giả của nó là ai. 4. Tài liệu sau này thống kê là cứ khoảng 5- 6 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một chuyến đi thăm cơ sở trong suốt đời làm Chủ tịch nước. Tuy nhiên, trong 9 năm kháng chiến, cụ không thể được sắp xếp để về thăm quê. Hòa bình lập lại 3 năm, cho đến năm 1957, cụ mới về quê lần đầu tiên, với sự chuẩn bị rất chu đáo. Đó là một chuyện lạ. Và thêm 2 chi tiết đáng chú ý : 1) Khi đi vào nhà cũ, cụ khéo léo nhường các cụ bô lão đi trước (có thể để dấu việc đi nhầm) và, 2) Cụ chọn thời gian về là mùa lạnh, nên ăn mặc rất kín đáo (hãy xem kỹ các tấm ảnh tư liệu). Hồ Chí Minh cả đời cũng không nói đến việc họ hàng, giỗ kỵ; khi ông anh cả (nếu đúng) mất, cụ cũng “vì việc nước” không về dự được. 5. Việc Hồ Chí Minh viết trong Di chúc, nguyện vọng được hỏa táng để lấy tro rắc lên các miền đất nước, không loại trừ khả năng phi tang nhân dạng. Giai đoạn 1965 – 1968, tục hỏa táng hoàn toàn chưa có ở VNDCCH. 6. Trong các tài liệu đã công khai ở Đài Loan như đã nói, cho rằng Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, gốc Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, do Quốc tế cộng sản cài thay thế Nguyễn Ái Quốc. Một số tài liệu khác cho rằng Hồ Tập Chương gốc người Hakka, người Hẹ, sống ven biển đông nam Trung Quốc và Đài Loan. Ngoài chi tiết giống nhau là do Quốc tế cộng sản cài thay thế, được đào tạo 5 năm để “giống” Nguyễn Ái Quốc, kể cả thay đổi nhân dạng, tác giả Huỳnh Tâm trên danlambao còn cung cấp những chứng cứ Hồ Chí Minh – Hồ Tập Chương là người của tình báo Trung Quốc. Điều này còn liên quan một số chi tiết ở mục 7, 8 dưới đây. 7. Việc chị em Nông Thị Xuân bị giết, không loại trừ nguyên nhân những người này, do gần gũi, đã biết con người Hồ Chí Minh thật. Từ đó, cũng không loại trừ những người tham gia kịch bản tai nạn giao thông gây chết Nông Thị Xuân và người em gái của bà bị giết bí mật khi bỏ trốn về quê là người của tình báo Trung Quốc. 8. Việc Hồ Chí Minh từ chối liên lạc với bà Tăng Tuyết Minh có thể sợ bị lộ và không được phép của phía Trung Quốc vì bà Minh có quan hệ với Lý Thụy- Nguyễn Ái Quốc chứ không phải với Hồ Chí Minh. 9. Cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” được Trần Dân Tiên – Hồ Chí Minh viết lúc nào? Tôi cho rằng có thể nhiều người cùng tham gia viết, trong đó có Hồ Chí Minh; và cuốn sách đã được khởi thảo từ những năm 30 khi có một Hồ Tập Chương thực hiện công cuộc huấn luyện và tự huấn luyện để trở thành Nguyễn Ái Quốc. Trong giai đoạn “Nguyễn Ái Quốc” về nước, thành lập Việt Minh, tiến hành cướp chính quyền 1945, và sau đó kháng chiến chống Pháp, không thấy có tài liệu nào nói đến việc ông viết một cuốn sách tương tự. Bỗng dưng nó được xuất bản ở Trung Quốc năm 1948 (ông Phạm dẫn tài liệu của Sophie Quinn-Judge nói năm 1949), rồi ở Pháp năm 1950 và đến 1958, lần đầu mới xuất bản ở VNDCCH. Theo ý trên, tôi nghĩ rằng cuốn sách có thể bắt đầu từ Moskva, sau đó hoàn chỉnh và xuất bản ở Trung Quốc, với sự tham gia dàn dựng của Quốc tế cộng sản và Đảng CSTQ. 10. Việc Trung Quốc nhường cho Việt Nam đảo Bạch Long Vĩ kèm theo cả tàu thủy để ra vào trong khi vẫn kiên trì bành trướng xuống Đông Nam Á có khi cũng là vì Hồ Chí Minh, trong đó có cả khả năng giải thoát cho ông bằng đường biển trong trường hợp có biến động. 11. Có một nữ điệp viên CIA gốc Việt, tác giả của cuốn hồi ký Nghìn Giọt Lệ Rơi, là con của một cán bộ cao cấp trong Đảng CSVN, người miền nam tập kết ra bắc, kể rằng sau 1978, bà có đến Trung Quốc và được gặp Hoàng Văn Hoan. Trong câu chuyện, ông này cũng nói rằng về lịch sử cách mạng Việt Nam, quan hệ Việt Trung, quan hệ giữa ông với Hồ Chí Minh, còn nhiều việc chưa thể nói được. Cần ghi nhận những bí mật đó. Mặt khác, từ những chi tiết này, có thể nghi ngờ về sự liên hệ của nhiều lãnh đạo cao cấp của Việt Nam với tình báo Trung Quốc. Có thể bố của nữ điệp viên nói trên, ông Hoan, những người tiền bối của ông Hoan là như vậy; còn nữ điệp viên này, phải bắt tay hoạt động song trùng với CIA, một phần là để giữ an toàn cho bố. 12. Có một số nghi vấn liên quan đến ngôn ngữ: - Giọng đọc tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được ghi lại năm 1945không phải là giọng Nghệ An. - Tự dạng bút lục của Nguyễn Ái Quốc so với Hồ Chí Minh rất khác (so sánh những đơn của Nguyễn Ái Quốc gửi Toàn Quyền Đông Dương xin phân công việc cho bố, đơn xin học trường thuộc địa với Di chúc) - Nguyễn Ái Quốc chưa bao giờ có ý cải cách chính tả tiếng Việt theo kiểu chuyển ph thành f; gi, d thành z. - Với trình độ chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc, không thể có quá nhiều lỗi chính tả tiếng Việt như trong bản thảo Di chúc. 13. Tất cả những nghi vấn nói trên và sự thật đàng sau nó, có thể Trường Chinh, và đặc biệt, Lê Duẩn, sau thời gian hoạt động trong giới Hoa kiều Chợ Lớn, đã biết. Thái độ xem thường, vô hiệu hóa của ông này với Hồ Chí Minh cho đến cuối đời thể hiện một động thái bất thường mà nhìn từ con mắt văn nghệ, chỉ có thể đặt câu hỏi như kiểu Sơn Tùng và “chuyện kể rằng...” của Trần Hoàn. Và v.v..Nếu tất cả những cái ấy được giải mật, được công khai, ngôi nhà “cách mạng” Việt Nam sẽ đổ sụp. Chính vì vậy mà phải tiếp tục kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chuyên chế độc quyền lãnh đạo, định hướng qụy lụy vào Trung Quốc để cam chịu số phận như một nghiệp chướng của dân tộc. Dù thế nào đi nữa, khi trình bày những nghi vấn này, quan sát kỹ những khuôn mặt nghiêm trang đến buồn thảm của các vị lãnh đạo vào Lăng viếng Chủ tịch dịp 2/9 năm nay, tôi thấy lại một lần, cũng rất buồn thảm cho đất nước. Xích Tử
......

Nghệ An: Nhà cầm quyền đã nuốt lời hứa còn sai CA đàn áp dã man người dân

Liên quan đến việc giáo dân giáo xứ Mỹ Yên, xã Nghi Phương, Nghệ An đã tập trung trước trụ sở UBND xã để đòi giải quyết vụ bắt người trái phép. Và theo như lời hứa của nhà cầm quyền xã Nghi Phương, thì họ sẽ trả tự do cho 2 giáo dân Nguyễn Văn Hải và Ngô Văn khởi lúc 14h chiều ngày 04/09. Hai giáo dân này đang bị giam giử vì bị cáo buộc “Gây rối mất trật tự công cộng” Các giáo dân giáo xứ Mỹ Yên đã có mặt tại trụ sở UBND xã Nghi Phương để nhận người thân của họ. Tuy nhiên thay vì thả người như đã hứa, nhà cầm quyền xã Nghi Phương đã dùng một lực lượng CSGT, CSCĐ, chó nghiệp vụ, và đông đảo dân quân tự vệ để trấn áp người dân. Lực lượng công an, cảnh sát đã trực tiếp xả hơi cay và dùng dùi cui để đánh đập người dân, làm nhiều người bị thương trầm trọng. Đặc biệt, họ còn đánh đập trọng thương nhiều phụ nữ và cả trẻ em. Đã có rất nhiều người dân bị đánh và bắt lên xe thùng mang đi. Tin cho biết có hơn 20 người, trong đó có em học sinh lớp 12 Nguyễn Văn Được, bị chấn thương sọ não và đang cấp cứu tại Bệnh viện Xã Đoài. GM. Nguyễn Thái Hợp lên tiếng vụ Mỹ Yên Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2013-09-05 Công an bao vây, dùng côn đồ tấn công giáo dân thuộc xứ Mỹ Yên, Huyện Nghi Lộc, Nghệ An đã bước sang ngày thứ ba. Hàng chục giáo dân bị thương nặng và ít nhất 4 người có thương tích trầm trọng đã được cấp cứu tại Phòng khám Đa khoa Tòa Giám Mục Vinh. Mặc Lâm phỏng vấn Giám mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa Bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng là Giám mục chính tòa của Địa phận Vinh nơi đang xảy ra những vụ đàn áp thô bạo này. Mặc Lâm: Xin Đức cha cho biết hiện tình của các giáo dân đang đựơc chữa trị tại Phòng khám của Giáo phận cũng như giải pháp nào mà Giáo phận Vinh sẽ đưa ra về việc công an tiếp tục đàn áp giáo dân một cách thô bạo trong những ngày vừa qua? GM. Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi sẽ có những phản đối và cũng có những lá thư cho giáo dân để phản đối quyết liệt hành động bạo lực đó. Gíao hội chúng tôi chủ trương đối thoại, không chủ trương dùng bạo lực. Tuy nhiên chúng tôi vẫn can đảm để bênh vực cho những nạn nhân, những người bị đàn áp; Những nạn nhân của bạo quyền cũng như là của thế lực mà dùng quyền lực của mình để đàn áp dân đen. Mặc Lâm: Thưa Đức cha, cho tới giờ phút này, dĩ nhiên là giáo phận đã có những lên tiếng cụ thể rồi nhưng về phía chính quyền thì họ có phản hồi nào hay nói chuyện với giáo phận chưa, thưa Đức cha? GM. Nguyễn Thái Hợp: Hành động của họ như là tạm cắt đứt đối thoại, đó là hành động mà chúng tôi không thể chấp nhận. Như vậy có lẽ trong vụ kiện vừa rồi, nhiều giáo dân bị tổn thương về thể lý. Có 3 người bị nặng nhất: một em 18 tuổi, học sinh bị tụ máu não, có thể phải đi mổ một thời gian. Gia đình họ đang muốn đưa đi Sài Gòn hay ra Hà Nội. Hai người nữa cũng bị não, sọ não. Những vết tích chứng tỏ là công an đã dùng bạo lực một cách thô bạo để đánh phá những người dân thường đến vì tin vào lời của nhà cầm quyền sẽ có giải pháp. Trước 4 giờ họ đến có sự ngụy tạo, dàn cảnh để dẫn người dân vào. Một số người đã lấy đá và ném công an. Những người đó, theo giáo dân cho biết thì không phải là người công giáo. Họ nhìn ra thì không phải mà hình như là có một nhóm nào đó được gài vào để ném, để tạo cơ hội cho công an trấn áp giáo dân. Đó là điều mà chúng tôi thấy. Mặc Lâm: Thưa Đức cha, như Đức cha vừa nói là chính quyền đã cắt đứt đối thoại với giáo phận Vinh, vậy Đức cha có được thông tin gì về Hội đồng Gíam mục Việt Nam trước sự việc xảy ra cho giáo phận Vinh hay không, thưa cha? GM. Nguyễn Thái Hợp: Các giám mục vẫn hợp thông và rất hiểu hoàn cảnh này nhưng đây là những chuyện nhỏ thì mỗi giám mục cũng có thể giải quyết được, không cần đến Hội đồng Giám mục. Hôm qua  các Đức cha đến thì rất băn khoăn và cảm thông về những gì mà giáo phận Vinh đang phải trải qua. Mặc Lâm: Vâng con xin được hỏi Đức cha một câu cuối là trước hiện tình như vậy thì Đức cha có thấy một hướng nào đó để giải quyết một cách ổn thỏa: vừa giữ an toàn cho giáo dân và chính quyền bớt đi những chuyện đàn áp. Có một giải pháp nào hiện nay mà Đức cha cho rằng có thể giải quyết được tình trạng này hay không ạ? GM. Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi tin là một xã hội càng ngày càng văn minh hơn; Một xã hội càng ngày càng tôn trọng quyền con người hơn; Một xã hội mang tính cách pháp trị hơn; Một xã hội dùng đối thoại chứ không dùng đối thủ hay dùng dùi cui để đàn áp và để đánh đập những con người bị thương tích như vậy. Bài học rút ra trong vụ việc này thì tất cả những người bị thương là giáo dân của công giáo, bị thương nặng. Bây giờ có 4 người bị thương nặng và có 15-16 người bị thương vẫn còn đang nằm điều trị. Gíáo dân bị nỗi đau thể lý, nỗi thất vọng đối với nhà cầm quyền hôm nay. Không hiểu câu nói “Công an là bạn dân” trong hoàn cảnh này thì công an có là bạn dân không. Trong thời gian ít lâu nay chúng ta thấy hành động của công an là quá bạo tàn đối với người dân không chỉ ở đây mà nhiều chuyện đã xảy ra. Con đường mà mọi người mong đợi là đi đến một nhà nước pháp trị, một nhà nước dân chủ, một nhà nước đối thoại, một nhà nước văn minh nhân ái, có lẽ đang bị giật lùi chăng. Tôi thấy hình ảnh của nhà nước bị mất, bị thiệt hại chứ không phải nỗi đau về thể xác của một số nạn nhân đó. Mặc Lâm: Xin cảm ơn Đức cha. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bishop-raise-voice-beaten-b-polic... Thông cáo của Tòa Giám mục Xã Đoài về việc chính quyền Nghệ An tổ chức dùng vũ lực trấn áp giáo dân 05.09.2013 GPVO - "Tòa Giám mục Xã Đoài cực lực lên án việc chính quyền tỉnh Nghệ An dùng bạo lực đàn áp quần chúng nhân dân, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng của người dân, xúc phạm niềm tin tôn giáo. Chúng tôi mạnh mẽ phản đối việc chính quyền không tôn trọng sự thật trong vụ việc ngày 22/5/2013, xuyên tạc và phủ nhận thiện chí đối thoại của Tòa Giám mục giáo phận Vinh trong việc bênh vực quyền lợi người dân, bảo vệ công lý xã hội... Tòa Giám mục Xã Đoài khẩn thiết kêu gọi mọi tín hữu giáo phận Vinh và những người yêu chuộng hòa bình hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ đàn áp này và lên tiếng bênh vực cho công lý."
......

Canh tân cứu nước

Đã 3 lần quyết định từ bỏ facebook nhưng rốt cuộc vẫn quay lại, nói lời mà không giữ lấy lời, liệu có còn ai tin tưởng nữa không ? Một lần mất tin là vạn lần mất tín. Hằng ngày phải chứng kiến những bất công và trái ngang trong xã hội nên không thể nào im lặng được. Những người ở xung quanh họ vẫn lặng lẽ sống như không có chuyện gì, sao họ giỏi thế ? Hay là cứ ngậm miệng mà sống như họ ? Cách đây hơn một tuần, Thùy Linh cùng mẹ ra chợ mua thịt heo. Ở quầy thịt có chia làm hai loại, trong đó có một loại màu sẫm, lấy ngón tay ấn vào thì để lại nguyên hình dấu ngón tay. Nhìn qua ai cũng biết đó là thịt từ ngày hôm qua, thế mà vẫn có nhiều người mua. Thấy một chị còn mặc nguyên bộ đồ bảo hộ lao động lại mua loại thịt ấy, hỏi tại sao chị lại mua loại đó thì chị cười và trả lời: "Vì nó rẻ hơn em à !" Mới sáng hôm qua đi ăn bún bò Huế với em trai ở gần nhà, có một bà cụ bước vào quán. Trong lúc ông khách đang lựa vé số, bà cụ cứ nhìn chằm chằm vào tô bún và nuốt nước miếng liên tục. Đoán bà chưa ăn sáng nên có nhã ý mời bà một tô, vì hôm nay có tiền rủng rỉnh trong túi. Tuy nhiên bà cụ nhanh chóng từ chối và bước vội ra khỏi quán, thế là một thoáng sơ ý đã làm bà cụ buồn. Mọi người trong quán vẫn cặm cụi ăn, chẳng ai để ý gì cả... Rõ ràng khoảng cách giàu nghèo đang ngày một tăng và người nghèo luôn phải chịu thiệt thòi đủ thứ, nhất là về chất lượng bữa ăn, y tế, giáo dục và các quyền lợi xã hội. Trong xã hội Việt Nam, nơi mà "đầu tiên - tiền đâu ?" thì điều này càng được thể hiện rõ nét. Thuở còn nhỏ đi học nghe thầy cô giảng về sự ưu việt của CNXH so với CNTB, cứ đinh ninh rằng việc phân biệt giàu nghèo và thói vô cảm trước những người nghèo khổ chỉ tồn tại ở các nước tư bản. Nhưng lớn lên mới thấy ở Việt Nam cũng chẳng khác gì, thậm chí còn tồi tệ hơn nhiều. Bởi vậy nên mỗi khi lên internet đọc những comment của các bạn, rằng cuộc sống ở Việt Nam đang rất tốt đẹp và công bằng mà cảm thấy ức chế. Có thể gia đình các bạn có điều kiện nên các bạn không cảm nhận được cuộc sống khó khăn của những người nghèo vốn chiếm phần đông trong xã hội này. Dù cố ý hay vô tình thì các bạn cũng đang thể hiện sự yếu kém của mình về mặt ý thức cộng đồng và xã hội. Mà ở nước ta, chẳng phải chỉ có người nghèo mới phải đối mặt với những nguy hiểm đâu, những người giàu có cũng vậy, điển hình là nạn trộm cướp và thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ ngày nghe tin người ta dùng hóa chất để tẩy trắng bún, mỗi lần đi ăn là cứ thấy lo sợ, nên phải giảm tối đa. Bây giờ ăn uống thứ gì cũng có cảm giác không yên tâm cho dù là mua ở trong siêu thị. Con người có hai thứ tài sản quan trọng nhất đó là sức khỏe và trí tuệ. Về sức khỏe, việc ăn uống thiếu dinh dưỡng và sử dụng thường xuyên các loại thức ăn độc hại, điều kiện về y tế và chăm sóc sức khỏe thì vừa thiếu lại vừa yếu. Xét về mặt lâu dài sẽ ảnh hưởng tới thể chất của người Việt, mà vấn đề dễ thấy nhất là bệnh tật ngày càng nhiều và chiều cao của thanh niên Việt Nam không được cải thiện là bao sau nhiều năm qua. Nhìn cái cách người ta quan tâm đến ngành thể dục thể thao nhất là trong các trường học mà thấy buồn. Còn về giáo dục thì vừa lạc hậu lại vừa mang nặng bệnh thành tích. Nói chung một nền giáo dục mang đậm chất XHCN đã làm cho nhân dân ta bị "lùn" về trí tuệ, làm giảm khả năng sáng tạo của con người. Một đất nước có hàng ngàn giáo sư tiến sĩ nhưng lâu lâu chỉ thấy báo đưa tin "hai lúa chế tạo máy bay", "hai lúa chế tạo tàu ngầm". Còn nhớ cách đây không lâu các nhà khoa học hàng đầu ở nước ta họp lên rồi họp xuống về hạt lúa 3000 năm vẫn nảy mầm. Nhưng sau khi đưa qua Nhật Bản thì họ bảo đó chỉ là hạt lúa khang dân bình thường. Các vị giáo sư tiến sĩ ở Hà Nội tổ chức rầm rộ các cuộc họp, tìm giải pháp cứu cụ rùa Hồ Gươm, cứ như người Việt Nam yêu động vật lắm. Trong khi người dân bị đánh chết chỉ vì ăn trộm mấy con chó thì chẳng ai quan tâm. Vậy nên cho dù bây giờ có một chính đảng mới lên lãnh đạo và quy tụ được rất nhiều nhân tài của đất nước thì ít nhất cũng phải mất thêm 20 năm nữa đất nước mới thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển như hiện nay. Với trình độ dân trí thấp như vậy thì cho dù lãnh đạo tài giỏi đến mấy cũng bó tay. Cho nên sau khi có một sự thay đổi mạnh mẽ trong chính trị, việc đầu tiên phải làm là cải cách toàn diện nền giáo dục và đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học. ĐCS tin rằng ổn định về chính trị là điều kiện cần và đủ để phát triển kinh tế nhưng thực sự họ đã nhầm. Ổn định về chính trị chỉ là điều kiện cần mà thôi. Thùy Linh tin rằng nếu tình trạng này kéo dài thêm 10 năm nữa, Việt Nam sẽ bị Lào và Cambodia vượt mặt. Lúc đó đất nước chúng ta sẽ sánh vai với Triều Tiên như mong ước của những kẻ đang âm thầm tìm cách bán nước cho Trung Quốc. Nguồn: Bloger Nguyễn Thùy Linh
......

Không trung thực trong điều 4 Hiến pháp

Lời thưa,   Khi bắt đầu viết, bài này có tựa Đảng Cộng Sản Việt Nam Với Lợi Ích Dân Tộc Việt Nam. Mới gõ phím được hơn trang, người viết được đọc bài Uẩn Khúc Trong Điều 4 Hiến Pháp, thấy giáo sư Hoàng Xuân Phú đã soi rọi rất tinh tế, chính xác xảo thuật ngôn từ mà những người soạn thảo HP (Hiến pháp) đã sử dụng giúp ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) không bị ràng buộc vào bất kì điều nào của HP để ĐCSVN điềm nhiên đứng ngoài và đứng trên HP.   Bài viết của tôi, tập trung chỉ ra điều 4 HP ghi: ĐCSVN... đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam là hoàn toàn không đúng sự thật. Trong lịch sử hoạt động, ĐCSVN luôn luôn thí bỏ lợi ích dân tộc thiết thực để theo đuổi lợi ích giai cấp hư vô của đảng. Bài viết của giáo sư Hoàng Xuân Phú chỉ ra sự khuất tất trong xảo thuật ngôn từ của điều 4 và trong toàn HP. Bài viết của tôi chỉ ra sự thiếu trung thực của điều 4 HP. Hai bài là hai vế đối về sự bất minh của điều 4 HP. Vì thế tôi thấy cần thay đổi tựa bài để là một vế song hành về ý tứ với bài của giáo sư Hoàng Xuân Phú. Điều 4 Dự thảo Hiến pháp 2013 viết: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Viết gọn lại là: Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Một đảng chính trị của chính trường Việt Nam mà coi thường và khinh bỉ Nhân Dân Việt Nam đến mức nghiễm nhiên giành quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không cần có lá phiếu của người Dân, không cần biết người Dân Việt Nam có chấp thuận sự lãnh đạo đó hay không, không đếm xỉa đến quyền lợi hiển nhiên, sơ đẳng, bình thường và thiết thực của người Dân là quyền Công Dân, quyền bầu cử chọn ra người lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đối xử với Dân kẻ cả, quyền uy và tệ bạc như vậy mà lại bảo rằng đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam thì đúng là viết lấy được, nói lấy được, một lối nói, một cách làm của quyền uy độc tài, quen thói áp đặt! Thực tế đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng đảng không những không vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà đảng còn hi sinh lợi ích dân tộc Việt Nam cho lợi ích của đảng, cho những mục tiêu viển vông, siêu thực của đảng, cho cuộc cách mạng vô sản thế giới hão huyền, chỉ đẩy Dân vào chiến tranh hận thù, chỉ lấy Dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô! 1. Đưa dân tộc Việt nam vào con đường máu lửa. Dân tộc Việt Nam đã phải trả giá máu quá đắt cho sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam Khi đất nước Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược là khi thế giới đã bước vào thời công nghiệp hóa. Những nước đi đầu trong công nghiệp hóa trở nên giàu mạnh, văn minh liền mang sức mạnh công nghiệp đi xâm lược các nước còn đang tăm tối trong nền sản xuất nông nghiệp cổ lỗ. Công nghiệp hóa là thời của toàn cầu. Mọi vấn đề của thế giới, của con người, từ cuộc sống của mỗi con người đến số phận các dân tộc đều mang tính toàn cầu. Các sĩ phu Việt Nam yêu nước chỉ quanh quẩn trong nước, sử dụng lực lượng tại chỗ, lòng yêu nước chỉ được trang bị bằng gậy gộc, giáo mác đứng lên khởi nghĩa chống Pháp đều đơn độc, lẻ loi và cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dìm trong máu. Những người Việt Nam yêu nước từ thế hệ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu đều đã biết hướng ra thế giới tìm kiếm, học hỏi thế giới, nắm bắt xu thế thời đại, khai thác sức mạnh thời đại vào sự nghiệp cứu nước.     Chỉ biết còn đảng còn mình. Đi ra thế giới tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, với trái tim yêu nước nồng nàn và tầm nhìn thấu đáo, sâu xa, Phan Châu Trinh thấy trước hết phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”: Thức tỉnh ý thức tự lập, tự cường, chấn hưng đất nước. Lập phường hội phát triển công thương, phát huy nghề tinh. Tiếp nhận công nghệ mới, bước theo các nước công nghiệp, công nghiệp hóa, tư bản hóa xã hội Việt Nam. Dân giàu nước mới mạnh, số đông người Dân giàu có về đời sống văn hóa và đời sống kinh tế, từ đó mới có ý thức về quyền con người, quyền tự quyết của các dân tộc, có tư thế bình đẳng và có lực lượng cần thiết đấu tranh chính trị và chỉ đấu tranh chính trị giành độc lập dân tộc. Con đường Phan Châu Trinh đã chọn cho dân tộc Việt Nam cũng là con đường Mahatma Gandhi đã chọn cho dân tộc Ấn Độ và Ấn Độ đã giành được độc lập dân tộc không phải trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu với đế quốc Anh. Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản. Và dân tộc Việt Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa và chứa chất hận thù đến tận hôm nay vẫn chưa thôi bạo lực, chưa trút bỏ hận thù! Đi ra thế giới, những người Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn hóa cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ lấy học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng sản và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Đọc luận cương của V. Lê nin về cách mạng bạo lực và hận thù của vô sản thế giới, Hồ Chí Minh, người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, sung sướng đến ứa nước mắt reo lên: Đây rồi! Đây chính là cái mà chúng ta cần! Từ đây, dân tộc Việt Nam chỉ có thể tồn tại bằng yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” bị cuốn vào thời bạo lực và hận thù giai cấp, “lá rách” đấu tố, thù hận “lá lành”, loại bỏ “lá lành”, dân tộc bị chia rẽ sâu sắc, bị suy yếu rệu rã và bị lệ thuộc chặt chẽ vào nước lớn cùng ý thức hệ! Phan Châu Trinh làm cách mạng giải phóng dân tộc bằng những cải cách nâng tầm đất nước, nâng tầm dân tộc, đưa đất nước đi vào con đường công nghiệp hóa làm cho Dân giầu nước mạnh và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải dựa vào những người Dân giàu có trí tuệ, giàu có của cải đó. Nhưng cách mạng vô sản thì ngược lại. Coi làm giàu là bóc lột, là bất công xã hội, đứng về phía những người nghèo khổ bị bóc lột, cách mạng vô sản đưa giai cấp công nông, giai cấp nghèo khổ, không có của cải, không có tri thức, chỉ có xiềng xích và hai bàn tay trắng lên lãnh đạo cách mạng, coi người giàu tri thức và giàu của cải đều là kẻ thù của cách mạng, là đối tượng cần chuyên chính, loại bỏ! Đó là một thảm họa lớn kéo dài mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam và biến động bi thảm tháng chín năm 1930, những người Cộng sản phát động Dân nghèo Nghệ Tĩnh nổi dậy chém giết trí, phú, địa, hào, “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là một cảnh báo nghiêm khắc. Sau gần một thế kỉ bị thực dân Pháp đô hộ, gần một thế kỉ nước mất, thân nô lệ, những tâm hồn Việt Nam chân chính đang khao khát cháy bỏng giải phóng dân tộc. Những người Cộng sản Việt Nam giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, đã khai thác, tập hợp được sức mạnh dân tộc Việt Nam làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến đánh đuổi những đội quân xâm lược hùng mạnh của thời đại. Chiến thắng những đội quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản, không phải là chiến thắng của học thuyết hận thù, đấu tranh giai cấp. Giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã thu hút được một số quan lại, trí thức, tư sản, chủ đất..., những người thuộc giai cấp tư sản với lòng yêu nước hồn nhiên đã tập hợp trong đội ngũ những người kháng chiến giành độc lập. Nhưng lí tưởng Cộng sản, học thuyết đấu tranh bạo lực, hận thù giai cấp đã đẩy số đông người Việt Nam yêu nước tỉnh táo, sáng suốt, không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản sang phía kẻ thù không đội trời chung. Ngay cả với những trí thức, tư sản, những trí tuệ và tài năng ở tầng lớp trên đi với những người Cộng sản, có đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng bị những người Cộng sản ngộ độc học thuyết đấu tranh giai cấp, đố kị, khinh rẻ, bạc đãi, đày ải điêu đứng. Những thân phận ngậm ngùi, ê chề, đau khổ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,... vì sự đố kị, bạc đãi, đày ải đó không phải là cá biệt. Chủ nghĩa Cộng sản với học thuyết bạo lực, hận thù, đấu tranh giai cấp đã gây quá nhiều đau khổ cho nhiều thế hệ, cho hàng triệu người Việt Nam yêu nước thương nòi, gây chia rẽ, li tán sâu sắc cả dân tộc Việt Nam. Cộng sản đấu tố...con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng Chiến thắng bằng bạo lực và hận thù của những người Cộng sản đã buộc dân tộc Việt Nam phải trả bằng giá máu và giá đạo lí quá đắt: Giá phải trả bằng máu của cả chục triệu người, gần một phần ba dân số Việt Nam phơi thây ngoài mặt trận, chết gục trong đấu tố, chết thảm trên pháp trường, chết mòn trong tù ngục, chết mất xác trong thủ tiêu âm thầm! Xã nào, huyện nào tỉnh nào cũng có những nghĩa trang liệt sĩ mênh mông, trắng xóa những nấm mồ người chết trẻ, tuổi mười tám, đôi mươi. Rồi còn những người chết trong thù hận không nấm mồ, không dấu tích cũng nhiều không kém, tính không xuể! Hãy đến nghĩa trang liệt sĩ một xã như xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hãy đến nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn để thấy bằng hình ảnh, bằng chứng cứ món nợ máu đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam lớn như thế nào, để thấy giá máu dân tộc Việt Nam đã phải trả lớn như thế nào khi đi trên con đường đấu tranh giành độc lập bằng bạo lực do những người Cộng sản lãnh đạo! Càng đau xót hơn khi người Dân phải trả giá máu đắt như vậy nhưng đất nước vẫn chưa có nền độc lập thật sự, đất đai biển trời không còn được nguyên vẹn và người Dân vẫn chưa thật sự có tự do, chưa được thực sự làm Người, vẫn mang ách nô lệ của một Nhà nước độc tài đảng trị! Giá của cuộc nội chiến tương tàn chia rẽ sâu sắc một dân tộc vốn chỉ có thể tồn tại bằng đoàn kết dân tộc, bằng yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách! Giá của đất nước gấm vóc bị 30 năm chiến tranh hiện đại, chiến tranh điện tử, chiến tranh siêu âm, chiến tranh bấm nút, chiến tranh hủy diệt tàn phá! Giá của văn hóa dân tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ. Nhà nước cướp đất của Dân bằng bạo lực cưỡng chế. Nhà nước trả lời những chính kiến khác biệt của người Dân bằng bạo lực công an, tòa án, nhà tù. Bỏ tù người Dân có chính kiến khác biệt bằng những tội danh hình sự áp đặt, giả tạo. Công an ngang nhiên đánh Dân, bắn Dân trên đường phố. Công an ngang nhiên chà đạp lên pháp luật, tùy tiện bắt bớ Dân. Công an đánh chết Dân trong nhà tạm giam, trong trụ sở công an diễn ra hàng ngày ở khắp nơi trên cả nước. Nhà nước Cộng sản dùng bạo lực gây hận thù rộng khắp đất nước và gieo rắc hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam. Tất cả sử sách của đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều thú nhận rằng cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cướp chính quyền của những người Cộng sản. Cướp là bất chính, là bạo lực. Một Nhà nước ra đời trong bạo lực, tồn tại bằng bạo lực không thể là Nhà nước lương thiện, tử tế! Nhà nước không lương thiện, tử tế tất yếu tạo ra xã hội không lương thiện, tử tế. Xã hội Việt Nam hôm nay là xã hội như vậy, xã hội lừa đảo, bạo lực và hận thù! Bạo lực và hận thù biến con người thành con thú! Bạo lực và hận thù man rợ như xã hội thời hồng hoang chưa có luật pháp! 2. Vì lợi ích giai cấp hư vô từ bỏ lợi ích dân tộc thiết thực. Đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến tương tàn Năm 1954, phần lớn lực lượng của đội quân xâm lược Pháp ở Đông Dương đã bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ. Cả hệ thống phòng thủ của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ đã bị vô hiệu, bị nhấn chìm trong biển lửa chiến tranh du kích. Binh đoàn chủ lực mạnh của Pháp ở miền Trung bị đánh tan tác ở đèo An Khê. Cả hệ thống đồn bốt của Pháp ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ đã tự tan rã từng mảng lớn. Hai phần ba lãnh thổ Việt Nam đã được giải phóng khỏi đội quân xâm lược Pháp. Quân xâm lược chỉ còn giữ được những thành phố, thị xã ở đồng bằng nhưng phần lớn người Dân trong những thành phố, thị xã đó cũng là những người Việt Nam yêu nước, chống Pháp. Trong khi đội quân xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng giặc ngoại xâm. Nhưng những người Cộng sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ. Với ý thức hệ giai cấp, những người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới, coi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam chỉ là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi đất nước, dân tộc chỉ là “tiểu cục” trong cái “đại cục” cách mạng vô sản thế giới. Ngạo ngược và hợm hĩnh đưa lá cờ búa liềm của chỉ một giai cấp, giai cấp công nông bần cùng, lá cờ vay mượn từ xứ người và chung chạ với xứ người lên ngang với lá cờ Tổ quốc Việt Nam, những người Cộng sản Việt Nam thẳng thừng tuyên bố rằng với họ, Tổ quốc Việt Nam không phải là trên hết! Vì lá cờ vay mượn và chung chạ đó, những người Cộng sản đã chuyển hướng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giai cấp. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đang băng băng đi đến thắng lợi hoàn toàn bị buộc phải dừng lại để làm nhiệm vụ giai cấp. Đặt trên đôi vai dân tộc Việt Nam nghèo khổ, gày guộc cuộc chiến tranh ý thức hệ khốc liệt của cách mạng vô sản thế giới, những người Cộng sản lạnh lùng chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương thành hai trận địa, hai tiền đồn chĩa súng vào nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi thành hai đội quân xung kích của hai phe ý thức hệ quyết liệt lăn xả vào nhau chém giết, tiêu diệt nhau, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến Bắc – Nam đẫm máu suốt hai mươi năm trời! Trong khi những người Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thì những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng lại núp dưới lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ đó để vụ lợi, để mưu lợi ích cho Tàu Cộng. Họ mượn máu của dân tộc Việt Nam làm vốn liếng chính trị cho Tàu Cộng, để Nhà nước công nông Tàu Cộng từ bóng tối nội chiến, nghèo đói, lạc hậu bước ra ánh sáng thế giới. Ép Việt Nam chấp nhận tham gia hội nghị Geneve năm 1954 chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương để Tàu Cộng có cơ hội lần đầu tiên được bước lên vũ đài chính trị thế giới, giành được vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Lấy máu của dân tộc Việt Nam mặc cả với tư bản thế giới kiếm chác lợi ích cho Tàu Cộng, những người Cộng sản Tàu còn lấy đấu tranh giai cấp để chia rẽ dân tộc Việt Nam, đánh tan rã khối đoàn kết dân tộc, lấy chiến tranh ý thức hệ khoét vết thương nhức nhối trong lòng dân tộc Việt Nam, làm suy yếu dân tộc Việt Nam, buộc Việt Nam mãi mãi phụ thuộc vào Tàu Cộng, mãi mãi là chư hầu của Tàu Cộng để Tàu Cộng thực hiện giấc mộng thôn tính, bành trướng mà tổ tiên họ ôm ấp từ ngàn đời vẫn chưa thực hiện được. Nông cạn, không xứng tầm lịch sử, không mang hồn dân tộc, không đau đáu với lợi ích dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã không thấy được mưu đồ Đại Hán Tàu Cộng, răm rắp chấp nhận sự áp đặt của Tàu Cộng, cúi đầu kí hiệp định Geneve năm 1954 chấp nhận ngừng cuộc chiến giải phóng hoàn toàn đất nước, chấp nhận chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương, chia đôi dân tộc Việt Nam ruột thịt thành hai nửa đối kháng một mất một còn với nhau! Ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, chia cắt đất nước, chia cắt dân tộc Việt Nam thành hai nửa thù địch nhau, Hiệp định Geneve năm 1954 là thất bại ê chề, đau đớn mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam. Từ đây dân tộc Việt Nam có lịch sử hào hùng bốn ngàn năm kiêu hãnh là dân tộc độc lập tự chủ trở thành dân tộc tội nghiệp bị cột chặt vào cuộc chiến tranh ý thức hệ vô nghĩa của thế giới Cộng sản, phải đổ máu cho cuộc chiến tranh ý thức hệ vay mượn của cách mạng vô sản thế giới. Từ đây, độc lập dân tộc đã thực sự bị mất! Bà bán hàng rong trên đường phố Sài Gòn những năm gần đây. AFP Ngày 20 tháng bảy năm 1954 ở Geneve, Thụy Sĩ, những người Cộng sản Việt Nam kí kết Hiệp đinh đình chiến, chia cắt đất nước thì ngay hôm sau, ngày 21 tháng bảy, ở những vùng đất Việt Nam ngoài vòng kiểm soát của những người Cộng sản, người dân đồng loạt treo cờ rủ để tang cho nền độc lập dân tộc bị giết chết, để tang đất nước chia cắt thành hai quốc gia đối kháng, để tang dân tộc Việt Nam bị chia cắt thành hai thế lực thù địch nhau, để tang cho nhiều gia đình bị chia đôi thành hai trận tuyến bắn giết nhau, để tang cuộc nội chiến không tránh khỏi, để tang cho những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam bị thiêu hủy trong ngọn lửa chiến tranh, để tang sớm cho hàng triệu người Việt thiệt mạng trong cuộc nội chiến ý thức hệ vô nghĩa đó! Đưa giá trị giai cấp hư vô lên trên giá trị dân tộc thiết thực, những người Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này đến cuộc chiến tranh khốc liệt khác. Cuộc nội chiến Bắc – Nam 20 năm. Cuộc chiến tranh Campuchia hơn 10 năm. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 10 năm. Đi từ cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo này đến cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo khác. Những cuộc đấu tố thanh trừng trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong vụ Nhân văn Giai phẩm, trong vụ xét lại chống đảng đã bắn giết, đày ải, loại bỏ hàng triệu người Việt Nam tinh hoa, ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, những người đã làm nên niềm tự hào Việt Nam thời xã hội Việt Nam giã từ nền sản xuất nông nghiệp cơ bắp tăm tối đi tới xã hội công nghiệp ánh sáng cùng loài người văn minh. Những người Việt Nam yêu nước thương nòi, những người Việt Nam chân chính hôm nay nói tiếng nói của lịch sử, của đạo lí, của văn hóa Việt Nam đòi vất bỏ gông cùm chủ nghĩa Mác Lê nin sai lầm tội lỗi, vất bỏ gông cùm ý thức hệ giai cấp phản dân tộc để thoát khỏi thân phận nô lệ Bắc thuộc đều bị Nhà nước Cộng sản coi là thế lực thù địch, bị bộ máy chuyên chính của Nhà nước Cộng sản giám sát, theo dõi như những người tù ngay tại nhà mình. Nhiều người Việt Nam chân chính bất hạnh hơn, người trước người sau đang lần lượt vào những nhà tù khắc nghiệt, những địa ngục trần gian được Nhà nước Cộng sản xây dựng, mở rộng trên khắp đất nước Việt Nam. Dùng ngục tù phân loại người Dân. Những người Dân khảng khái, trung thực đều bị tống vào ngục tù để xã hội Việt Nam chỉ còn bầy cừu cam chịu dưới sự chăn dắt của bạo lực Cộng sản, để dân tộc Việt Nam chỉ còn là sắc tộc Việt thiểu số của Đại Hán, chỉ còn là những thân phận nô lệ của Nhà nước độc tài đảng trị. 3. Kiên trì chủ nghĩa Mác Lê Nin, kiên trì đấu tranh hận thù giai cấp, dù đất nước thống nhất đã bao lâu thì dân tộc Việt Nam vẫn mãi li tán Khi những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng, Nga Cộng ép những người Cộng sản Việt Nam phải kí hiệp định Geneve chia đôi đất nước Việt Nam là họ đã chọn dải đất Việt Nam làm bãi chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ và chọn dân tộc Việt Nam làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó để đất nước họ yên ổn xây dựng, phát triển. Chính chủ nghĩa Mác Lê nin đã tạo ra không gian lịch sử, yếu tố xã hội và phát động cuộc chiến tranh ý thức hệ đẫm máu và vô nghĩa. Xã hội tư bản đưa giới chủ, đưa những người giàu có của cải, giầu có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Với xã hội tư bản, Cái Tôi của người Dân được nhìn nhận, cá nhân được khẳng định, quyền con người được luật pháp bảo đảm. Mỗi người tồn tại trong cuộc đời là một cá nhân, phải đến xã hội tư bản công nghiệp mới có được điều bình thường mà vĩ đại đó. Từ bầy đàn đi đến cá nhân, đó là một bước tiến vĩ đại của tiến trình lịch sử loài người. Cá nhân được giải phóng, những con người khổng lồ xuất hiện đưa xã hội loài người thực sự bước vào thời ánh sáng văn minh và phát triển huy hoàng. Xã hội Cộng sản đưa giai cấp công nông, những người lao động làm thuê, lao động cơ bắp, không có của cải, không có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Trong xã hội Cộng sản chỉ những người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng sản mới có Cái Tôi, mới có cá nhân, còn người dân chỉ là đám đông, là bầy đàn, không có cá nhân. Đó là xã hội mông muội, tối tăm, là một bước thụt lùi thảm hại của lịch sử, một nỗi đau nhân loại. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho giai cấp công nhân, những người lao động cơ bắp làm thuê không của cải, không tri thức phải quyết đào mồ chôn những ông chủ tư bản giầu có của cải và trí tuệ. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho chế độ Cộng sản kéo lùi lịch sử phát triển loài người về thời tối tăm phải quyết tiêu diệt chế dộ Tư bản đã đưa xã hội loài người tới ánh sáng văn minh. Nhiệm vụ lịch sử đó của những người Cộng sản, của giai cấp vô sản thế giới đã tạo ra chiến tranh ý thức hệ, đẩy nhân dân vào những cuộc đấu tố, thanh trừng, thảm sát, đẩy loài người vào những cuộc chiến tranh liên miên. Vì thế, về thực chất cuộc chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến tranh bóng tối mông muội quyết tiêu diệt ánh sáng văn minh và ánh sáng văn minh quyết đẩy lùi bóng tối mông muội! Vì là cuộc chiến tranh ý thức hệ nên nước Mĩ hùng mạnh của thế giới tư bản phải tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn bóng tối Cộng sản lan ra thế giới. Có sức mạnh kinh tế và quân sự không nước nào sánh được nhưng nước Mĩ vẫn phải chuốc lấy thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì chiến thắng của cuộc chiến tranh nào xét cho cùng cũng là chiến thắng của văn hóa, của đạo lí. Những người Cộng sản Việt Nam đã giấu kín cuộc chiến tranh ý thức hệ dưới danh nghĩa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Người Dân Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh ý thức hệ là những nạn nhân, những vật hi sinh nhưng với tư thế những anh hùng xả thân chống Mĩ cứu nước và chiến thắng đã thuộc về những người anh hùng đó. Đó là chiến thắng của văn hóa, của lẽ sống Việt Nam. Đó là chiến thắng của những người mẹ lần lượt tiễn đến đứa con cuối cùng ra trận và những đứa con ấy đã lần lượt bỏ mình trên những ngả đường chiến trận để làm nên chiến thắng dâng lên người mẹ nghèo khổ mà giầu lòng yêu nước thương nòi, dâng lên Mẹ Tổ quốc Việt Nam. Sau chiến thắng đó, sau ngày 30 tháng tư năm 1975, cuộc chiến tranh Nam – Bắc núi xương, sông máu chấm dứt, một thời cơ phát triển, chấn hưng đất nước vô cùng thuận lợi đã mở ra. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển thuận lợi như lúc đó. Nhưng với tầm văn hóa thấp kém, không vượt được lên trên các chủ nghĩa, làm chủ các chủ nghĩa nên chỉ giáo điều, dập khuôn, làm nô lệ của chủ nghĩa Mác Lê nin lầm lạc, phản dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không vì lợi ích dân tộc, vẫn nhìn thế giới và nhìn dân tộc mình bằng con mắt hận thù giai cấp, vẫn mê muội lấy đấu tranh giai cấp ứng xử với thế giới và lấy đấu tranh giai cấp chống phá, nô dịch chính dân tộc mình, tù đày chính Nhân Dân mình, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ lịch sử để Việt Nam bước lên đường phát triển, hòa nhập cùng loài người văn minh. Không vì lợi ích dân tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam Dân tộc Việt Nam bé nhỏ, nghèo khổ phải chịu những đau thương mất mát quá lớn để chiến thắng một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Cả thế giới ngả mũ kính chào Việt Nam, vui mừng mở vòng tay đón Việt Nam hòa nhập với cuộc sống thanh bình của thế giới. Cả thế giới động lòng trắc ẩn trước hi sinh mất mát đau thương của Việt Nam, muốn bù đắp, chia sẻ với Việt Nam, muốn giúp Việt Nam xây dựng lại đất nước. Cả nước Mỹ thua trận cũng muốn làm lành với Việt Nam bằng việc chủ động đề nghị bình thường hóa quan hệ hai nước để nước Mỹ có trách nhiệm với Việt Nam sau chiến tranh. Nếu đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam như họ vẫn xưng xưng tự nhận, thực sự vì lợi ích dân tộc thì họ phải ý thức được trách nhiệm về nỗi đau mất mát quá lớn mà dân tộc Việt Nam phải nhận khi là công cụ, là vật hi sinh của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Nhận trách nhiệm để thấy việc phải làm là nhanh chóng thoát ra khỏi thân phận công cụ của ý thức hệ, trở về với dân tộc, vì lợi ích dân tộc mà bình thường hóa quan hệ với Mỹ, mở ra thời kì mới hòa nhập với thế giới, đón nhận thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới và quan trọng nhất là khoa học kĩ thuật hiện đại và nguồn vốn đầu tư lớn từ nước Mỹ để xây dựng cuộc sống mới cho Nhân Dân. Không bận tâm đến lợi ích dân tộc, vẫn trói mình trong chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ biết có giai cấp, lạc lõng trong tình cảm vay mượn hận thù giai cấp, đánh tráo chiến thắng bằng giá máu quá đắt của dân tộc Việt Nam là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, lại sẵn thói kiêu ngạo Cộng sản, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vênh váo đưa ra cớ đòi Mĩ bồi thường chiến tranh để từ chối bình thường hóa quan hệ với nước Mĩ thua trận. Cùng với những sai lầm tệ hại khác, vênh váo không bình thường hóa quan hệ với Mỹ dẫn đến cuộc cấm vận của Mỹ kéo dài suốt hai mươi năm. Lệnh cấm vận của Mỹ đã dựng bức tường sừng sững ngăn cách Việt Nam với thế giới, chặn đứng dòng vốn đầu tư, dòng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại của thế giới chảy vào Việt Nam làm cho đất nước Việt Nam chìm sâu trong nghèo đói, khủng hoảng, kinh tế kiệt quệ, người Dân khổ cực, thiếu thốn đủ bề. Vài tỉ tiền Mỹ bồi thường chiến tranh ném vào cái túi thủng của Nhà nước tham nhũng nào có thấm tháp gì so với hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ đô la mà các nước phát triển đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Không vì lợi ích dân tộc, vẫn lấy đấu tranh giai cấp chống phá dân tộc, đánh mất cả nội lực to lớn, đánh mất cả sức sống mạnh mẽ và sức sáng tạo vô tận của dân tộc Việt Nam Năm 1954, những người Cộng sản nhẫn tâm chia đôi đất nước Việt Nam đã tạo ra hai dòng chảy Nam – Bắc ngược chiều nhau. Dòng chảy nhỏ bé, ngắn ngủi của gần hai trăm ngàn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc và dòng chảy ồ ạt, mạnh mẽ, kéo dài của hai triệu người Dân miền Bắc di cư vào Nam. Năm 1975 kết thúc cuộc chiến tranh Nam Bắc, lại có hai dòng chảy Nam Bắc ngược chiều nhau. Một dòng chảy của những người thân trong những gia đình bị trận tuyến ý thức hệ chia cắt hai mươi năm tìm về với nhau. Nhưng chỉ có người từ miền Bắc ào ào đổ vào miền Nam. Người thắng cuộc hồ hởi tìm đến người mặc cảm thua cuộc. Dòng chảy Bắc - Nam. Đó là dòng chảy tự nhiên. Nhưng còn có dòng chảy do những người say máu đấu tranh giai cấp tạo ra, những người chỉ biết có giai cấp, không biết đến dân tộc, những người cuồng tín, nô lệ của học thuyết đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực giai cấp vô sản quyết tiêu diệt dân tộc Việt Nam đến cùng. Dòng chảy của hàng trăm ngàn người đã tham gia bộ máy quân sự và bộ máy Nhà nước của chính quyền Sài Gòn thua cuộc bị dẫn giải ra miền Bắc tống vào các nhà tù được mang tên là các trại cải tạo. Dòng chảy Nam – Bắc. Không biết nhận ra đường về với dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản vẫn lấy giai cấp vay mượn đánh phá dân tộc ruột thịt của mình. Bài bản đấu tranh giai cấp đã làm kiệt quệ miền Bắc là cải tạo tư sản lại được áp dụng ở miền Nam làm kiệt quệ cả miền Nam. Tư sản dân tộc miền Nam đông đảo và giàu có đã tạo ra cả một nền công nghiệp hiện đại và thương nghiệp phát triển hòa nhập với thị trường thế giới. Tước đoạt quyền làm chủ của những người biết làm chủ. Giao cơ sở sản xuất kinh doanh của họ cho những người không biết sản xuất kinh doanh, không có mối quan hệ giao thương với thế giới đã phá hủy cả một nền công thương nghiệp dân tộc phát triển, cắt đứt mối quan hệ giao thương với thị trường thế giới. Việt Nam tự cô lập trong nghèo đói. Bài bản đấu tranh giai cấp là duy trì và khoét sâu mãi trận tuyến giai cấp, trận tuyến địch – ta trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa súng đạn, thuốc nổ và những tay súng AK vào miền Nam thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh người Việt giết người Việt. Chiến tranh kết thúc, những họng súng AK lại gom hàng trăm ngàn người trong bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam vào những nhà tù rải rác ở vùng rừng núi khắc nghiệt miền Bắc. Những người làm nên bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam là lực lượng tinh hoa, ưu tú nhất của xã hội miền Nam và cũng là nguồn lực con người lớn lao và quí giá của dân tộc Việt Nam. Tù đày họ không những hủy bỏ một nguồn lực lao động cao cấp mà còn tiếp tục nuôi dưỡng hận thù trong lòng dân tộc, li tán dân tộc. Những đòn đấu tranh giai cấp khốc liệt đó liên tiếp đánh những đòn chí tử vào dân tộc Việt Nam. Đánh vào nội lực, đánh vào lực lượng sản xuất tạo ra của cải xã hội làm cho đất nước đã nghèo càng nghèo thêm. Đánh vào lòng tin làm cho người dân thấy bế tắc, không còn lòng tin vào ngày mai. Đánh vào tình cảm dân tộc, đánh vào lòng yêu nước làm cho người dân dù nặng lòng với nước cũng không tìm thấy chỗ đứng trên đất nước thân yêu phải bỏ nước ra đi tạo ra dòng người đổ ra biển vượt biên kéo dài trong nhiều năm, ồ ạt vào những năm từ 1975 đến 1990 và rải rác đến tận hôm nay. Dòng thác người trên biển đi tìm cái sống trong cái chết đã tạo ra hình ảnh một Việt Nam đau thương, tủi nhục trước con mắt thế giới và thế giới đã phải tạo ra một từ mới Boat People - Thuyền Người để gọi những người Việt Nam khốn khổ này. Chạy trốn đòn đấu tranh giai cấp tàn độc của những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, hơn ba triệu người Việt Nam tìm đến vòng tay nhân hậu cưu mang của các dân tộc trên thế giới, khoét sâu sự li tán trong lòng dân tộc Việt Nam đến nay vẫn chưa thể hàn gắn. Nửa triệu người vùi xác dưới biển trong cuộc chạy trốn những người lãnh đạo Cộng sản lấy giai cấp tiêu diệt dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể trốn trách trách nhiệm về cái chết mất xác của nửa triệu người Việt Nam này. Lấy giai cấp thống trị dân tộc. Lấy đấu tranh giai cấp đánh tan tác, li tán dân tộc. Mang gia sản thiêng liêng vô giá của dân tộc ra đánh đổi lấy liên minh giai cấp, liên minh ý thức hệ như chia đôi đất nước, chia dân tộc Việt Nam ra làm hai nửa đối kháng chém giết nhau. Vạch trận tuyến chiến tranh ý thức hệ trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa nhân dân Việt Nam ra làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó. Cắt đất đai thiêng liêng của tổ tiên cho Tàu Cộng để duy trì liên minh ý thức hệ với Tàu Cộng, để duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam... Còn vô vàn dẫn chứng không thể kể xiết về lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử thí bỏ lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam vì lợi ích nhỏ bé của đảng. Những dẫn chứng này, lịch sử sẽ không bỏ sót và lịch sử sẽ phán xét công bằng, sòng phẳng. Không thể nhắm mắt trước lịch sử và không thể lừa dối nhân dân khi cố tình ghi trong điều 4 Hiến Pháp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích cả dân tộc Việt Nam! Nguồn: RFA
......

Đảng Cộng sản Việt Nam thiếu chính danh

Giáo sư Hoàng Xuân Phú là một nhà toán học lớn. Ông tốt nghiệp Tiến sỹ Toán học ở Viện đại học Humboldt của CH Liên bang Đức, hiện là Tổng Thư ký Viện Toán VN kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Toán của Viện.   Gs Hoàng Xuân Phú cũng là một nhà báo đặc sắc, có Blog riêng mang tên ông. Ông dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước, từng có mặt trong một số cuộc «Chủ nhật xuống đường» chống bành trướng. Ông từng có luận văn sắc sảo phản đối việc khai phá bauxite ở vùng Tây Nguyên, chỉ rõ hiểm họa xây dựng điện hạt nhân ở nước ta, và gần đây tích cực tham gia cuộc thảo luận về việc thành lập một đảng mới để cạnh tranh lành mạnh với đảng CS do luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận nêu lên. Là giáo sư toán học, ông có nếp lập luận chặt chẽ, luôn chứng minh từ thực tế, truy tìm tận nguồn ngọn của vấn đề. Ông nghiên cứu kỹ các văn bản, hồ sơ lưu trữ, các đạo luật, nghị định liên quan đến việc lập hội, như Luật về Mặt trận Tổ quốc, Luật về Đoàn thanh niên, về Tổng liên đoàn Lao động... Từ đó ông phát hiện ra một vấn đề có thể nói là kinh thiên động địa: đó là Nhà nước đã quy định bất cứ tổ chức chính trị - xã hội nào hoạt động trên lãnh thổ VN đều phải làm đơn xin phép, khai lý lịch, tôn chỉ mục đích và chỉ được hoạt động khi có quyết định của chính quyền xét duyệt điều lệ, tôn chỉ mục đích và quy định rõ phạm vi, thể thức hoạt động, các mối quan hệ với chính quyền và các tổ chức khác trong xã hội. Vậy mà ông không tìm ra một lưu trữ nào nói rằng đảng CS Việt Nam đã tuân theo các thủ tục vừa kể. Đảng CS Đông Dương, rồi đảng Lao động VN, rồi đảng CS Việt Nam chưa hề nộp một giấy xin phép nào cho cơ quan hành chính, nhà nước, cũng chưa nhận được giấy phép hợp lệ nào. Nhà toán học cả đời làm vô vàn chứng minh cho các bài toán gai góc nhất của mình, bỗng đứng trước một kết luận rất đáng buồn cho đảng CS, cũng rất buồn cười cho toàn xã hội, là đảng CS Việt Nam trên thực tế là một đảng bất hợp pháp, là một đảng … chui, nghĩa là hoạt động không có giấy phép. Vậy mà trong Điều lệ Đảng CS ghi rõ: «Đảng CS VN hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật». Nó nói vậy nhưng không hề làm. Giáo sư Hoàng Xuân Phú cho rằng xét về thủ tục hành chính, đảng CS đã tự cho mình đặc quyền hành chính, không ghi danh, cũng không làm đơn xin phép hoạt động. Đây là một lỗ hổng hành chính đáng trách. Theo ông, về mặt thực thi Hiến pháp, mỗi điều khoản Hiến pháp đều có một đạo luật tương ứng hướng dẫn thể thức, phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn áp dụng trong cuộc sống. Thiếu một đạo luật như thế, một điều khoản Hiến pháp như Điều 4 quy định vai trò lãnh đạo của đảng CS trong xã hội không thể, chưa thể đưa ra thực hiện được. Lẽ ra việc thực hiện phải bị treo lại cho đến khi có luật về đảng CS, hay luật về các đảng chính trị nói chung, trong đó có đảng CS. Gs Hoàng Xuân Phú chỉ ra rằng trong một phiên họp quốc hội, từng có ý kiến của lãnh đạo là Hiến pháp tuy có quy định quyền biểu tình, nhưng vì chưa có Luật về biểu tình nên quyền đó phải bị treo lại để chờ luật; vậy chưa có Luật về đảng CS thì mọi hoạt động của đảng CS lẽ ra cũng phải bị treo lại. Giữa cuộc tranh luận trên, ông Nguyễn Ngọc Già trên mạng Dân Làm Báo chất vấn ông Vũ Minh Giang, từng là phó giám đốc Đại học Quốc gia, rằng Điều 4 Hiến pháp do đảng CS tự mình đề ra có giá trị gì không, người dân công nhận điều đó bằng cách nào? Không có thảo luận, không có trưng cầu dân ý. Tất cả chỉ là tự vỗ ngực mình rồi bảo là toàn dân công nhận, qua một cái gọi là Quốc hội, thật ra là đảng hội, vì đảng viên CS chiếm 90% số ghế. Dân không hề có ý kiến. Rõ ràng lại một kiểu ăn gian, phi pháp, thiếu đạo đức được chứng minh. Vẫn chưa hết. Gs Hoàng Xuân Phú muốn đưa cuộc tranh luận đến tận cùng chân lý. Ông đặt vấn đề đảng CS khẳng định trong điều lệ là đảng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, mang bản chất của giai cấp công nhân, trung thành với quyền lợi của công nhân, lao động và dân tộc, hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và luật pháp, tất cả 4 vấn đề then chốt ấy đều không hề được chứng minh trong thực tế, trong cuộc sống. Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn đã bị lịch sử lên án với đấu tranh giai cấp tàn khốc và chuyên chính vô sản đẫm máu; đảng CS không cho công dân được lập công đoàn tự do của mình, chuyên bênh các chủ đầu tư tư bản; đảng CS xóa bỏ quyền người cày có ruộng của nông dân; tự đặt mình trên Hiến pháp và ngoài luật pháp; tất cả đều chứng minh đảng CS đã sai lầm tận gốc trong cả 4 vấn đề then chốt. Nó nói một đằng làm một nẻo, chuyên đi ngược lòng dân, chiều lòng bọn bành trướng; tính thiếu chính đáng, tính bất hợp hiến và bất hợp pháp của nó, tính thiếu đạo lý đạo đức lương thiện của nó cùng với tệ nhũng lạm nặng nề không sao ngăn chặn, đang hiện rõ. Trong tháng 10 Quốc hội sẽ họp để thông qua bản sửa đổi Hiến pháp cuối cùng. Chẳng lẽ cả 500 vị đại biểu Quốc hội – mà 90% là đảng viên CS cấp cao - đã mất hoàn toàn mối liên hệ với nhân dân, với cử tri, với những trí thức trung thực, thức tỉnh, như giáo sư Hoàng Xuân Phú và hàng vạn trí thức ký tên bác bỏ bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội từng thông qua hồi đầu năm hay sao? Đảng CS như một lâu đài được xây dựng trên cát lỏng, đang có nguy cơ chìm nghỉm. Nguồn: VOA
......

Bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi

Trong bài phỏng vấn do Trà Mi thực hiện, Nguyễn Phương Uyên, cô gái 21 tuổi được nhiều người xem như một “biểu tượng” của lòng can đảm và của tuổi trẻ, nêu lên một ý nguyện, đồng thời cũng là một tham vọng của em: “Tôi không muốn mắc phải căn bệnh rất khó trị ở các thanh niên cùng tuổi tôi. Tôi muốn làm một bài thuốc để thanh niên Việt Nam nhìn thấy mà làm hết mình, ‘cháy’ hết mình, không còn bị vô cảm và sợ hãi vốn đã bị tiêm nhiễm ngay từ bé.” Tôi không biết hiệu quả của “bài thuốc” ấy thế nào. Nhưng tôi nghĩ Phương Uyên đã bắt đúng căn bệnh kép không phải chỉ của giới trẻ mà còn của người Việt Nam nói chung lâu nay: bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi. Bệnh sợ hãi, thật ra, là một bệnh lâu đời. Chế độ phong kiến, ở đâu cũng vậy, bao giờ cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng chính: sự sùng bái và sự sợ hãi. Sự sùng bái được xây dựng trên hai nền tảng chính: tư tưởng thần quyền (nòng cốt là tư tưởng thiên mệnh) và các nghi lễ đầy tính đẳng cấp trong xã hội. Sự sợ hãi được tạo thành và được duy trì chủ yếu bằng một biện pháp chính: khủng bố. Trong các tội trạng, tội nặng nhất là tội phản nghịch. Hình phạt dành cho tội này thường là tử hình, có khi không phải tử hình một cá nhân mà còn tử hình nguyên cả một dòng họ (tru di tam tộc). Tử hình không phải chỉ nhắm đến việc giết chết tội nhân. Mà còn nhắm đến việc giết chết mọi ý đồ phản nghịch của những người còn sống bằng cách khiến họ phải sợ hãi. Do đó, người ta bày ra đủ thứ kiểu giết người, từ kiểu chặt đầu, treo cổ đến kiểu cho voi giày, ngựa xé, ném vào vạc dầu sôi, tùng xẻo, v.v.. Bởi vậy, chuyện ngày xưa dân chúng thường xuyên sống trong sợ hãi là điều dễ hiểu. Sau này, chế độ cộng sản tiếp tục duy trì sự sợ hãi ấy bằng các trại cải tạo và nhà tù, hơn nữa, bằng chế độ lý lịch: Con cháu những người bị xem là phản động trở thành một thứ con ghẻ, thường xuyên bị nghi kị và kỳ thị, có thời gian, lại là thời gian khá dài, còn không được nhận vào đại học. Bây giờ, do sự phát triển của kinh tế thị trường, chế độ lý lịch ấy đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, hệ thống nhà tù thì vẫn dày đặc. Mà không cần nhà tù, chỉ cần sự hiện diện của công an, mọi người đã khiếp sợ. Tất cả những sự khủng bố và đe dọa ấy khiến mọi người nếu không run sợ thì ít nhất cũng thu mình lại, né tránh mọi đụng chạm đến công an hoặc rộng hơn, đến chính trị, từ đó, làm nảy sinh ra một thứ bệnh khác: bệnh vô cảm. Nếu sợ hãi là một căn bệnh lâu đời, vô cảm lại là một căn bệnh rất mới. Trước, hầu như không ai nói người Việt vô cảm bao giờ. Thậm chí, ngược lại, hầu như ai cũng cho người Việt sống bằng tình cảm nhiều hơn lý trí. Với tư cách cá nhân, người ta quan tâm đến nhau; láng giềng quan tâm đến nhau; cả làng quan tâm đến nhau. Chuyện một người biến thành chuyện của cả tập thể. Sự quan tâm lớn đến độ lấn át cả sự riêng tư của từng cá nhân một. Vậy mà, những năm gần đây, hầu như bất cứ người nào để ý đến xã hội Việt Nam một chút, cũng đều nhận thấy ngay một hiện tượng: người ta đối xử với nhau thật vô cảm. Ngoài đường, nhìn người khác bị cướp giật, hầu như mọi người đều dửng dưng; thấy có ai đó bị tai nạn nằm giãy đành đạch, phần lớn vẫn đứng trố mắt nhìn. Trồng trọt hay buôn bán thực phẩm, biết việc sử dụng nhiều hóa chất có thể gây nhiễm độc hay bệnh hoạn cho xã hội, người ta vẫn mặc kệ. Làm các dịch vụ du lịch, biết việc chụp giật hay lừa đảo có thể gây ấn tượng xấu cho cả đất nước, khiến du khách ngoại quốc khinh bỉ và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, người ta vẫn bất chấp. Chưa hết. Hiện tượng con cái đánh đập hoặc đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà càng lúc càng phổ biến. Chỉ giận hờn hay cãi cọ nhau một chút là học sinh, có khi là nữ sinh, đã đánh nhau một cách tàn nhẫn. Để cướp một chiếc nhẫn, thay vì trấn lột, người ta nghĩ ra một biện pháp cực nhanh: chặt đứt nguyên cả cánh tay. Ăn trộm một con chó cũng bị cả làng xúm vào đánh chết. Dù sao, ở trên cũng là những chuyện… nhỏ. Lớn hơn là những chuyện liên quan đến số phận của cả đất nước. Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng ư? Người ta nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Nạn tham nhũng hoành hành, các công ty quốc doanh thi nhau phá sản để lại những núi nợ nần không những cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ sau này nữa ư? Người ta cũng nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Quan trọng nhất là chuyện chủ quyền. Hầu như ai cũng biết Trung Quốc đang toan tính cướp biển và cướp đảo Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống của nhiều ngư dân Việt Nam, chi phối tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam. Ai cũng biết vậy. Nhưng phần lớn đều nhún vai: “Làm gì được?”. Rồi thôi. Người Việt vẫn thường tự hào về truyền thống yêu nước, bất khuất và anh dũng của mình. Nhưng thời gian gần đây, nhìn đâu cũng thấy những cái nhún vai bất cần, kiểu sống chết mặc bay như thế. Tại sao? Lý do, thật ra, khá đơn giản. Một phần vì sợ, như đã nói ở trên. Phần khác, vì đó là chính sách của nhà cầm quyền. Dưới mọi hình thức tuyên truyền, nhà cầm quyền chỉ muốn mọi người vô cảm. Bày tỏ sự quan tâm của mình đối với chủ quyền của đất nước dưới hình thức biểu tình thì bị đạp vào mặt hay bắt thảy vào các nhà tù; dưới hình thức bài viết trên các blog thì bị vu cho tội… trốn thuế. Trước, mọi nhà độc tài đều duy trì chế độ của mình trên sự sợ hãi của người dân; sau này, ngoài sự sợ hãi, người ta sử dụng một biện pháp nữa: làm cho mọi người trở thành vô cảm. Tôi không biết hiệu quả của bài thuốc trị sự vô cảm và sự sợ hãi của Phương Uyên như thế nào. Nhưng ít nhất, nhìn ánh mắt, dáng dứng và những câu phát biểu của em trước tòa, cả tòa sơ thẩm lẫn tòa phúc thẩm, và đặc biệt, nhìn cả trăm người từ khắp nơi đến tham dự phiên tòa phúc thẩm của em, tôi nghĩ, ít nhất cũng có nhiều người đã vượt qua được hai căn bệnh hiểm nghèo ấy. Nguồn: VOA
......

Oan hồn tướng Nguyễn Chí Thanh

LÀM TƯỚNG MÀ THÙ NHÀ CŨNG CHẲNG BIẾT - NỢ NƯỚC CŨNG KHÔNG HAY THÌ VỀ ĐẠP XÍCH LÔ KIẾM ĂN KHỎI NHỤC, *OAN HỒN CỐ ĐẠI TƯỚNG NGUYỂN CHÍ THANH* Một số sỹ quan CS hồi hưu ở Hà nội kể về ông Tướng Việt Cộng Nguyển chí Vịnh, Ông Vịnh là con trai của ông Đại Tướng Nguyển chí Thanh quê ở làng Niêm Phồ, Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông Nguyển chí Thanh gia nhập bộ đội Việt Minh thời kỳ Pháp thuộc, cho đến cuối thập niên 60 được thăng lên tới đại Tướng và được Tướng Võ nguyên Giáp tin cậy ủy thác công tác tham mưu chiến trường Nam Bộ. Đại Tướng Nguyến chí Thanh luôn có quan điểm không đồng tình với quan điểm và đường lối của Ông Hồ chí Minh, nhứt là trong giai đoạn chiến tranh xâm nhập vào Nam chủ mưu cướp chính quyền và vơ vét tài nguyên miền Nam phì nhiêu, có lẽ cũng vì ý kiến độc tài mà ông Hồ độc đoán quyết định mọi sự, điển hình như đánh trận Mậu Thân, bị thất bại thê thảm. Giữa năm 1968 bắt đầu lùa vào miền Nam 32 sư đoàn Bộ đội, sau tết Mậu thân thất bại rút về BẮC chỉ còn chưa đầy một nửa. Năm Mậu Thân ông Hồ đã giết chết cả hai miền gần một triệu sinh mạng, không đạt được một tí thành công nào, rồi mang bệnh trằn trọc nhiều tháng không nước nào giúp chữa được, diêm Vương phải lên mang ông ta về. Do vì bất đồng ý kiến trong nhửng năm cuối thập niên 60 ông Hồ chí Minh thấy khó mà kín đáo tìm cách loại trừ Tướng Nguyển chí Thanh ra khỏi Đảng và tước lột hết chức vụ lon lá, mà không tránh được hàng ngủ quân đội khỏi đánh giá ông ta, để rồi suy nhược lòng tin và tinh thần chiến đấu, nên ông Hồ chỉ thị cho đàn em lập mưu giết ông Đại Tướng Thanh một cách khôn khéo. Ttrong một cuộc hành trình của ông thanh đi vào thị sát chiến trường miền Nam trước Mậu Thân, trên đường mòn Hồ chí Minh khi vào đến đèo Ngang - Quảng Bình - nữa đêm một chiếc thiết giáp hộ tống theo sau đâm thẳng vào xe ông Tướng Thanh lật xuống đèo. Ông Thanh bị thương nặng nhưng chưa chết, đoàn tùy tùng báo cáo về trung ương, ông Hồ ra lịnh chở nạn nhân trở về Hà Nội để lo chửa trị, đi hai ngày đường về đến Hà Nội thì ông Thanh đuối sức và chết trong bệnh viện trung ương Hà Nội. Ngày hôm sau, ông Hồ cho đài phát thanh Hà nội loan tin với lí do là bị B-52 của Mỹ dội bom, và được ông Hồ cho tuyên dương là chiến sĩ anh hùng. Để che đậy tội ác ông Hồ cho làm đám tang linh đình. để thâu thập nhân tâm của đám còn lại. Nay thì Đảng CSVN ân huệ với con trai của nạn nhân là trung Tướng Nguyển chí Vịnh để xoa dịu món nợ máu do ông Hồ chủ mưu giết cha mình, cũng để đánh lãng trí nhớ của ông Vịnh vì lúc đó ông Vịnh còn ngây thơ, để may ra ông ta cũng tin cuội với Đảng mà nguôi lòng chăng, Tướng thì có quyền mang sao trên cổ áo nhưng quyền lực thì chắc không bao giờ có với ông Vịnh, vì đảng sợ ông ta sẽ tìm cách trả thù cho cha mình. Nguyển chí Vịnh nay là trung Tướng dưới tay không có thằng lính què nào, luôn có xu hướng bán lảnh thổ cho Tầu Cộng với giá bèo để cầu an, Tướng Vịnh cũng đã từng tuyên bố với báo chí rằng chuyện Biển đảo là chuyện của tương lai con cháu, (ý nói ta đang sống an thân với 16 chử vàng dưới hai cặp búa liềm hổ trợ tinh thần là đủ, lãnh thổ còn hay mất về sau con cháu chúng bây tự lo lấy) Trong giai đoạn này Tướng Vịnh tìm cách cúi theo chiều gió để “sống còn”, và chờ thời, cũng nhờ còn chút ảnh hưởng từ cha của ông, nhờ ông Hồ muốn phi tang “tội ác” nên phải tuyên dương cho Tướng Thanh là anh hùng, do đó Đảng cũng khó mà loại ông Nguyển chí Vịnh ra khỏi Đảng dù biết để tránh hậu họa. Ông Nguyển chí Vịnh biết vậy nên tối ngày cứ ôm chặt chân kẻ thù phương Bắc để tạo lá bùa cầu an, đợi cơ hội thời thế tạo anh hùng ông Vịnh sẽ đào mồ ông Hồ lên để hỏi tội. Đảng CSVN hiện nay nhìn bề ngoài thì hùng hổ nhưng thật chất bên trong thì rối như cái tổ vò vò, thù trong giặc ngoài, bởi hằng triệu sinh linh oan gia nghiệp báo do ông Hồ chí Minh chủ mưu sát hại từ năm 1945 đến năm 1969, sát hại giới trí thức yêu nước, hằng vạn Điền chủ tại miền Bắc, hằng trăm ngàn binh lính bị gạt gởi vào Nam hy sinh vô nghĩa cho cái thú tính cuả ông ta mà thôi. Trong số nạn nhân đó có cả ông Đại Tướng Nguyển chí Thanh, nay thì oan hồn của Tướng Nguyển chí Thanh chắc chắn là đang chỉ huy hằng ngàn Âm binh vây quanh Thủ Đô của Đảng để trả thù quậy phá làm cho Đảng lộn bại đầu óc không bao giờ tính toán được việc gì hết, buông nước nọ bám nước kia, xã hội như cái chợ trời cướp giựt nhau, chính Quyền thì sáng ra luật chiều rút lại.. Đảng CS muốn giải quyết đất nước ổn định thì chắc là phải mang cái tượng ông Hồ ra trước vành móng ngựa của một tòa án thật sự của dân để xử ông ta với tội diệt chủng, cố sát theo ác tính, và phải nhận bản án mười ngàn lần chung thân. Thì đất nước mới thật sự có hòa bình và ổn định, Cái tư tưởng của ông Hồ là cái tư tưởng độc ác che đậy bởi câu “không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhưng thật sự nó là: “không có gì quí bằng giết hết bất đồng chính kiến để còn ta độc tài thoải mái”. Thế mà nay Đảng CS vẩn còn ca tụng Hồ là vĩ nhân, tại sao không thật lòng mà nói cho đúng là kẻ sát nhân, và kẻ đi tìm đường bán nước, mà bằng chứng hẳn còn sờ sờ ra đó! Tờ biên bản bán nước từ phủ Thủ Tướng do Phạm văn Đồng ký ngày 14/8/1958 của nước Việt Nam Dân chủ cộng Hòa, chứ đâu có phải như Đảng cứ lợi dụng mà ca tụng mờ ám là “bác đi tìm đường cứu nước”, nếu bác mà biết tìm đường cứu nước thì nay đâu có mất nước gần hết như vậy. Cái nước Việt nam dân chủ Cộng Hòa đả dã mang bán nước cho giặc, đến sau 1975 đặc tên nước lại là nước Cộng hòa xả hội chủ nghĩa VN lại cũng tiếp tục bán nước, thì có phải chăng là phải đổi luôn cả cái đám lành đạo, dẹp bỏ cái ý thức hệ ngoại lai để trở về với dân Tộc mới mong còn nước không? Làm sao mà trách được người dân không đứng lên đấu tranh để giành quyền giữ nước và xây dựng lại cơ đồ cho mai hậu chứ… PHAM VAN TUNG * Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.  
......

Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam lên tiếng đòi thả tù nhân yêu nước

BẢN LÊN TIẾNG Của các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam Nhà cầm quyền Cộng sản đang dùng nhà tù ngược đãi những thanh niên yêu nước Yêu cầu đưa sinh viên tù nhân Đỗ Thị Minh Hạnh ra ngoài chữa bệnh Kính gởi: - Quý vị hữu trách trong Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. - Quý Chức sắc và Tín đồ Phật giáo, Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài và Tin Lành. - Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước. - Quý Chính phủ các Quốc gia dân chủ. - Quý Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Hội đồng nhân quyền Đông Nam Á - Quý Tổ chức Nhân quyền quốc tế. - Quý Cơ quan truyền thông quốc tế và quốc nội Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam - Xét rằng tại Việt Nam hiện nay có quá nhiều thanh niên yêu nước, bất đồng chính kiến bị nhà cầm quyền bắt giam và xử tù nặng bằng những lý cớ tùy tiện, những bản án oan sai, hoàn toàn trái ngược và vi phạm các Công ước quốc tế Nhân quyền, Hiến pháp và Luật hiện hành. Họ là 14 thanh niên sinh viên Công giáo và Tin Lành, là luật sư Lê Quốc Quân và doanh nhân Lê Đình Quản, là các blogger Đinh Nhật Uy và Đinh Nguyên Kha, là các nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, là những người đấu tranh cho công nhân Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và Đỗ Thị Minh Hạnh, và còn nhiều thanh niên khác. - Xét rằng các thanh niên yêu nước này chỉ làm những gì Hiến pháp không cấm đoán như rải truyền đơn kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử trá hình, viết bài trên mạng cổ vũ dân chủ tự do, báo động tình trạng xâm chiếm lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam của Trung Cộng, tham gia các hội đoàn, đảng phái chính trị phi cộng sản cũng như bảo vệ quyền lợi công nhân và dân oan…. - Xét rằng các thanh niên yêu nước đang bị tù đầy đã đóng góp nhiều cho cộng đồng về truyền thông chân thực, bác ái từ thiện, bênh vực dân oan, bảo vệ quyền lợi cho các công nhân, góp phần xây dựng một nền chính trị đa nguyên đa đảng lành mạnh. - Xét rằng giám thị và quản giáo tại các nhà tù đã nhiều lần dùng uy quyền, bạo lực và gian dối để hành hạ các tù nhân lương tâm, ngõ hầu tàn hại thân thể họ và nhất là đánh gục tinh thần họ (buộc họ phải nhận tội cách vô lý vô luật), như những gì tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh đang phải chịu. Với ý thức trách nhiệm công dân trước tình trạng trên và trong vai trò hướng dẫn tinh thần cho tín đồ giáo dân, Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam lên tiếng: 1. Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam thả ngay những người trẻ yêu nước, bất đồng chính kiến nói trên: 14 thanh niên Công giáo và Tin lành, Lê Quốc Quân, Lê Đình Quản, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh, và nhiều thanh niên khác đang bị giam trong các nhà tù Việt Nam. 2. Yêu cầu nhà cầm quyền không được dùng các phạm nhân hình sự để tấn công hành hạ các tù nhân lương tâm như đã xảy ra với nhiều thanh niên nói trên, nhất là không được dùng nhà tù với những biện pháp nhục hình, tra tấn để tiếp nối công việc của công tố là buộc họ phải nhận tội. Ngoài ra, phải đưa họ đi bệnh viện hay cho họ tại ngoại để chữa lành thương tích và bệnh tật. Trường hợp đáng quan tâm hiện nay là Đỗ Thị Minh Hạnh. 3. Thỉnh cầu các tổ chức nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Quốc tế và các quốc gia giám sát việc thực thi nhân quyền ở Việt Nam, nhất là kịp thời ngăn cản sự ngược đãi và tra tấn tù nhân dưới mọi hình thức đang diễn ra ở Việt Nam, đồng thời buộc nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các tiêu chuẩn nhân đạo của Liên Hiệp Quốc về nhà tù. 4. Thỉnh cầu các hãng truyền thông, thông tấn quốc tế và quốc nội, thuộc chính phủ và tư nhân kịp thời đưa tin về những vi phạm nhân quyền tại các nhà tù ở Việt Nam, và chất vấn nhà cầm quyền về trách nhiệm đã cho phép hay để xảy ra tình trạng ngược đãi tù nhân dưới mọi hình thức. Làm tại Việt Nam, ngày 30.08.2013 CÁC CHỨC SẮC TÔN GIÁO VIỆT NAM Đồng ký tên - Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593) - Hòa thượng Thích Không Tánh, Phật giáo (đt: 0165.6789.881) - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công giáo (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công giáo (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công giáo (đt: 0993.598.820) - Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài giáo (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (đt: 0988.477.719) - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (đt: 0949.275.827) - Mục sư Hồ Hữu Hoàng (đt: 0902.761.057) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (đt: 0906.342.908) - Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082) - Ông Trần Nguyên Hưởn, PGHH (đt: 0167.341.0139) - Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn (đt: 0162.838. 7716)
......

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Tuyên bố về Nghị định 72 của CSVN Vi Hiến

Tuyên bố về Nghị định 72 vi hiến vô luật của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam Kính gởi: - Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước. - Quý Chính phủ các Quốc gia tự do dân chủ. - Quý Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. - Quý Tổ chức Nhân quyền hoàn vũ. - Quý Cơ quan truyền thông quốc tế và quốc nội. Chúng tôi, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, những công dân nước Việt Nam, đồng thời là những chức sắc Công giáo, đang sử dụng Internet như một phương tiện thu thập và chia sẻ mọi điều hữu ích tốt đẹp có trên xa lộ thông tin toàn cầu, để hoàn thành vai trò lãnh đạo tinh thần của mình là công bố sự thật, bênh vực lẽ phải, cổ vũ tình thương. I- Chúng tôi nhận thấy Nghị định do nhà cầm quyền Việt Nam ban hành ngày 15-07-2013, hiệu lực ngày 01-09-2013, mang số 72/2013/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 72)  nhằm “quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng” có nhiều nội dung trái ngược hoặc tạo cớ áp dụng trái ngược với Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, với Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam.           1- Trước hết, Điều 5 Nghị định trình bày các hành vi bị cấm gồm "chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo" cũng như "đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân". Như trong nhiều văn kiện pháp luật khác của CHXHCN Việt Nam, đây là những quy kết hết sức mơ hồ, giúp nhà cầm quyền có thể tùy nghi giải thích và dễ dàng trừng phạt các công dân mạng bị cho là nguy hại tới chế độ Cộng sản.             2- Điều 20 Nghị định -khởi từ kiểu phân loại không giống ai: trang thông tin điện tử tổng hợp, trang thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện tử cá nhân và trang thông tin điện tử ứng dụng- đã định nghĩa “Trang thông tin điện tử cá nhân là trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông tin của chính cá nhân đó, không đại diện cho tổ chức hoặc cá nhân khác và không cung cấp thông tin tổng hợp”. Đây là một định nghĩa hết sức vô lý, tùy tiện và hàm hồ nhằm cấm cản các blogger và những người sử dụng các mạng xã hội như Facebook, Twitter… (hiện tới hàng chục triệu tại Việt Nam) không được trích dẫn, bình luận, phổ biến các thông tin từ Nhà nước hay từ bất cứ của ai, nơi đâu.           3- Điều 25 Nghị định đòi buộc các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội phải “loại bỏ hoặc ngăn chặn thông tin có nội dung vi phạm quy định tại Điều 5…; Cung cấp thông tin cá nhân và thông tin riêng của người sử dụng khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước…; Có ít nhất 01 hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam đáp ứng việc thanh tra, kiểm tra, lưu trữ, cung cấp thông tin…; Đăng ký, lưu trữ và quản lý thông tin cá nhân của người thiết lập trang thông tin điện tử cá nhân và người cung cấp thông tin khác trên mạng xã hội…; Báo cáo theo quy định và chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền…” Đây là một biện pháp cưỡng bức các công ty Internet trên toàn cầu và tại Việt Nam phải hợp tác với chính sách tăng cường đàn áp tự do ngôn luận và tự do Internet của nhà cầm quyền CS.           4- Tất cả những điều trên đây đi ngược lại:           a- Điều 19 Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc 1948 (mà Việt Nam chấp nhận khi trở nên thành viên của Tổ chức Quốc tế này năm 1977): “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.           b- Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị 1966 (mà Việt Nam tham gia năm 1982): “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia”.           c- Điều 69 Hiến pháp 1992 (mà nhà cầm quyền đang kêu mời toàn dân góp ý sửa đổi để hoàn thiện vào năm 2013): “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình…”           Đó là chưa kể Nghị định còn trái với Luật Công nghệ Thông tin ngày 29 tháng 6 năm 2006.           II- Chúng tôi tuyên bố:           1- Phản đối Nghị định 72, vì nó cấm cản và giới hạn quyền tự do ngôn luận lẫn tự do internet, khôi phục bức tường bưng bít thông tin, củng cố cây kéo kiểm duyệt của chế độ độc tài, nhằm thực hiện chính sách “ngu dân để dễ trị” của nhà cầm quyền Cộng sản.           Nghị định cũng có mưu đồ ngăn chận sự hình thành (trên mạng rồi trong xã hội) các tổ chức dân sự, các chính đảng, khối nhóm, đoàn thể hiện rất cần thiết để liên kết đấu tranh chống lại vô thần áp bức, độc đảng toàn trị, chống lại việc đảng hóa Tân Hiến pháp.           Nguy hiểm hơn hết, Nghị định nhắm đánh sụt dân trí, tiêu diệt dân khí và tàn hại dân sinh, vì khiến người dân hoàn toàn mù mờ và bất động trước những sai trái và tội ác của nhà cầm quyền cũng như trước những lộng hành và xâm lấn của lân bang Bắc phương, đồng thời khiến cho nền kinh tế quốc dân -dựa trên sự trao đổi thông tin tự do- không thể phát triển.           2- Yêu cầu Quốc hội -theo nguyên tắc là quyền lực tối cao- đòi buộc Chính phủ phải lập tức hủy bỏ các điều trong Nghị định vi phạm các Tuyên ngôn và Công ước Quốc tế Nhân quyền cũng như vi phạm Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.           3- Đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do lập tức và vô điều kiện cho những tù nhân lương tâm cũng như phải chấm dứt áp bức sách nhiễu những công dân yêu nước đã và đang hành xử quyền tự do ngôn luận và tự do internet.           4- Kêu mời mọi công dân Việt Nam và mọi tín hữu tôn giáo hãy mạnh mẽ thực thi quyền tự do ngôn luận và quyền tự do internet, trở thành những nhà báo độc lập trên mạng, để truyền bá những tư tưởng dân chủ, những giáo lý xây đời, để hình thành những tổ chức/xã hội dân sự rất cần thiết cho đất nước hiện nay.           5- Kêu mời Liên hiệp quốc hãy ngăn cản Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền năm tới, chính phủ Hoa Kỳ hãy tiếp tục đặt nhân quyền như điều kiện để Việt Nam gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương, các Cơ quan Nhân quyền quốc tế hãy tiếp tục chất vấn và áp lực lên nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội.           Làm tại Việt Nam, ngày 29 tháng 08 năm 2013, lễ Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết vì lên tiếng cho công lý, đạo đức và sự thật.           Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền:           - Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải           - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi           - với sự hiệp thông của Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý đang ở trong lao tù Cộng sản.  
......

Hành trình của Tuyên bố 258

Là một trong những người ký vào bản tuyên bố 258, đương nhiên tôi nhận lời tham gia  trao tuyên bố này cho sứ quán Đức, vào sáng ngày 28/8. Thú thực, tuy các cuộc trao tuyên bố 258 trước đó cho các sứ quán Thụy Điển, Úc, Mỹ đều diễn ra bình thường, nhưng tôi vẫn khá hồi hộp. Tôi chỉ nghĩ duy nhất về một điều: làm thế nào để đến được đó? Blogger Phương Bích và Hiền Giang trao Tuyên bố 258 cho đại diện ĐSQ Đức - ông Felix Schwarz và Jonas Koll   Sáng 28/8, tôi vẫn vào mạng bình thường. Vừa vào facebook đăng một status xong thì đọc được một tin khác, rằng quanh sứ quán Đức hiện có rất nhiều công an, an ninh, dân phòng.   Tim tôi đập thình thịch một cách vô thức. Chứng kiến hôm sứ quán Mỹ cho xe đến đón luật sư Nguyễn Văn Đài bất thành, tôi nghĩ chẳng có gì đảm bảo là họ sẽ không chặn chúng tôi ngay từ vòng ngoài. Tôi bắt đầu tính toán xem đi bằng phương tiện gì? Mặc thế nào để che được cái áo có logo 258? Rốt cuộc, tôi chọn phương án đi taxi, và mặc trùm ra ngoài cái áo 258 bằng một cái áo khác. Mở cửa ra, thấy hành lang trống trơn, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Đi nhanh xuống dưới nhà, bắt taxi và ngồi trên xe rồi, tim tôi mới đập trở lại bình thường. Vì quá hồi hộp, tôi đến chỗ hẹn sớm mất nửa tiếng. Chui vào một hàng quần áo giảm giá, mua 2 cái và xin ngồi nhờ để nhìn ra ngoài quan sát. Gần đến giờ, tôi mới lò dò ra chỗ hẹn. Chưa kịp uống cốc nước thì đã có tin, người của sứ quán đang chờ chúng tôi ngoài cổng, thế là lên taxi đi ngay. Nói thế nhưng đến được đây rồi mà vẫn còn hồi hộp lắm. Đến gần sứ quán, từ xa đã thấy mấy người đàn ông cả tây lẫn ta đang đứng trên vỉa hè, ngay trước cổng sứ quán. Cuống quá, chúng tôi bảo xe tạt vào gần chỗ họ. Chiếc xe vừa láng vào bên trái đường thì lái xe lại bảo không được, đỗ thế này công an phạt chết. Thế là chiếc xe lại phải đi quá lên trên để tạt vào bên lề phải. Thấy chiếc xe láng vào rồi lại láng ra, mấy người Đức tưởng có vấn đề gì, nên vội đi sang đường để đón chúng tôi. Nhưng chúng tôi xuống xe rất nhanh và đi sang đường. Lúc đó lưu lượng xe trên đường rất đông, những người Đức đã sang đến nửa đường, thấy vậy cũng quay trở lại. Ngay lúc đó, tôi đã cảm thấy được che trở, mặc dù mình đang đứng ngay trên đất nước mình. Một cái gì đó ấm áp, tin cậy khiến tôi rất xúc động. Những lính gác người Việt tiến đến, yêu cầu chúng tôi xuất trình giấy tờ. Nhưng những người Đức ngăn lại, lắc đầu ra hiệu không cần và đưa 5 người phụ nữ chúng tôi vào bên trong. Những người anh em đi theo chúng tôi đứng đợi ở bên ngoài, cùng với tất cả các lực lượng an ninh chìm nổi. Vào đến phòng, qua giới thiệu, chúng tôi mới biết những người Đức đứng đợi chúng tôi ngoài cổng chính là các ngài tham tán và trưởng phòng văn hóa chính trị của sứ quán Đức. Thực sự tôi rất ngạc nhiên. Họ là đại diện cho một trong những đất nước được coi là văn minh hàng đầu thế giới, nhưng lại sẵn sàng đứng đợi những người dân thường như chúng tôi, để đón tiếp và lắng nghe những nguyện vọng tâm tư của những người chẳng có một chút địa vị nào trong xã hội. Đến bao giờ, quan chức Việt Nam mới đón tiếp người dân của mình được như thế này? Ngài tham tán nói, ông và các đồng sự sẵn sàng dành thời gian còn lại trong ngày để tiếp chúng tôi. Đương nhiên, mục đích chính của chúng tôi đến đây là chỉ để trao cho sứ quán Đức tuyên bố 258 của mạng lưới blogger, đề nghị chính phủ Đức bằng con đường ngoại giao, yêu cầu chính phủ Việt Nam thực hiện các cam kết về nhân quyền mà luật pháp Việt Nam và Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đang hướng tới vị trí trong HĐNQ nhiệm kỳ 2014-2016... Việc trao tuyên bố thì đơn giản. Ngài tham tán hỏi chúng tôi đến đây bằng cách nào? Có gặp khó khăn gì không? Việc chúng tôi bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội như thế nào? Có đề nghị gì thêm không? Ngay từ đầu, ngài tham tán đã giới thiệu về mình và các đồng sự. Bây giờ đến lượt chúng tôi giới thiệu về mình. Bốn trong năm người chúng tôi thì đơn giản, nhưng đến lượt Hoàng Vi kể về mình, mắt tôi bỗng nhòe đi, vì thực ra có những điều đến bây giờ tôi mới biết. Cổ họng tôi nghẹn lại khi hình dung ra những gì mà cô gái nhỏ bé nhưng kiên cường này đã phải chịu đựng, suốt từ năm 2006 đến nay. Giọng Hoàng Vi nghẹn lại, run rẩy, những giọt nước mắt lăn trên má Vi. Một người Đức trẻ vội đứng dậy, đặt trước mặt chúng tôi một hộp khăn giấy. Bỗng nhiên tôi thấy tủi thân ghê gớm. Đất nước mình lúc nào cũng tự hào có 4000 năm lịch sử, vậy mà hôm nay con cháu Người vẫn nghèo khổ, vẫn thua xa thiên hạ một trời một vực. Bên cạnh họ, năm người phụ nữ chúng tôi đủ lứa tuổi, thật nhỏ bé và yếu đuối. Có lẽ những điều đang xảy ra với chúng tôi và những người dân Việt Nam đang phải chịu đựng, thật xa lạ và khó hiểu đối với họ. Chúng tôi không đề nghị gì thêm, chỉ nói rằng mặc dù muốn có một xã hội tốt đẹp hơn, phải do chính người dân chúng tôi đấu tranh để giành lấy. Nhưng việc giúp đỡ từ quốc tế là rất cần thiết và quan trọng (chiến tranh ở Việt Nam có thể kết thúc được, là nhờ rất nhiều sự giúp đỡ từ bên ngoài, chứ đâu chỉ bằng tinh thần không thôi?). Chúng tôi cũng thật sự vui mừng, khi ngài tham tán nói, chính phủ Đức và liên minh Châu Âu tỏ ra rất quan ngại và đã gửi một thư yêu cầu tới chính phủ Việt Nam, về những vấn đề trong nghị định 72/NĐ-CP của chính phủ Việt Nam, hạn chế quyền tự do thông tin (internet) của người dân. Ngài tham tán cũng nói, Liên Hiệp Quốc có các cuộc họp thường niên tại Genever, để giám sát việc thực hiện nhân quyền của các nước thành viên, và chúng tôi hoàn toàn có thể gửi thư kiến nghị tới hội nghị về việc trên. Mặc dù chúng tôi có thời gian là cả buổi chiều, nhưng chúng tôi không muốn làm mất thời gian quý báu của ngài tham tán và các đồng sự của ông. Thêm nữa, hẳn bạn bè chúng tôi đang rất sốt ruột ở bên ngoài, nên chúng tôi xin cáo từ. Mọi người ra chụp ảnh làm kỷ niệm, nhờ máy tính của sứ quán để gửi những hình ảnh lên mạng, vì e rằng sẽ có thể bị an ninh trấn lột máy ảnh, máy tính. Chúng tôi rất cảm động khi thấy các quan chức và nhân viên sứ quán đã lo lắng cho chúng tôi khi đề nghị đưa chúng tôi về bằng xe của sứ quán. Thậm chí ngài tham tán còn hỏi, có cần họ đi cùng không. Nhưng sứ mệnh của chúng tôi đã hoàn thành. Chúng tôi cảm ơn thịnh tình của các ngài và lên xe ra về. Bạn bè của chúng tôi vẫn đợi ở bên ngoài, và trước mắt các lực lượng an ninh, họ đi xe máy hộ tống chúng tôi tới cafe Highland ở cạnh Nhà hát lớn. Lúc đó là 1 giờ chiều. Xin lỗi, tất cả chúng tôi đều đói lắm rồi. Có thể ai đó cười mỉa mai, rằng sao phải cầu tới ngoại bang? Nếu vậy, xin hầu các quý vị vào dịp khác. bloger Phương Bích Nguồn: chimkiwi.blogspot.de
......

Người Việt phải đuổi kịp dân Campuchia

Từ ba bốn chục năm nay dân Việt Nam đã biết mình thua kém dân các nước Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan. Biết như vậy cũng thấy tủi, nhưng còn có thể đổ tại số mạng không may, đành chịu. Nhưng khi nhìn thấy dân mình không may mắn bằng dân Miến Điện, thì nhiều người đã nóng mặt. Năm ngoái, nước Miến Điện bắt đầu tiến trình dân chủ hóa, đảng đối lập thắng gần hết các đơn vị bầu cử bổ túc; cả thế giới theo dõi với con mắt ngưỡng mộ. Còn dân mình, chẳng biết bao giờ mới được bầu người đại diện thật sự vào Quốc Hội! Nay lại đến dân Campuchia. Trong cuộc bỏ phiếu tháng trước, đảng đối lập bỗng nhiên thắng lớn, đã thổi lên một luồng gió mới vào sinh hoạt chính trị. Lý do chính khiến chính quyền Hun Sen thất bại là vì dân đã chán ghét nạn tham nhũng, lạm quyền của đảng Nhân Dân của ông ta; cũng như tình trạng lệ thuộc Trung Cộng và Việt Cộng. Dân Campuchia đã có cơ hội bày tỏ thái độ bằng lá phiếu. Còn dân Việt, bao giờ mới có một cơ hội như thế? Campuchia bầu cử quốc hội ngày 28.7 Thua Đài Loan, Đại Hàn, Phi Luật Tân đã xấu hổ. Nay thấy mình thua cả dân Miến Điện, dân Campuchia, chắc người Việt phải thấy tủi nhục. Nhất là những người biết suy nghĩ, có học, và dám nói. Một người 45 tuổi đảng lên tiếng kêu gọi các đảng viên bỏ đảng Cộng sản để lập đảng mới, cũng nêu trường hợp Camphuchia ra làm thí dụ, cho thấy người ta đã tiến bộ hơn mình. Sau cú sốc Miến Điện, cú sốc Campuchia sẽ giúp nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam tỉnh ngộ hơn. Chắc hẳn Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam cũng lo lắng khi nhìn kết quả cuộc bầu cử ở Campuchia ngày 28 Tháng Bảy năm 2013. Trước hết, nó cho thấy thực lực của đảng cầm quyền không mạnh như chính họ vẫn nghĩ. Đảng Nhân Dân Campuchia có gần 6 triệu đảng viên, trong dân số dưới 15 triệu người. Nhưng kết quả kiểm phiếu chính thức cho thấy đảng chỉ được 3 triệu 200 ngàn lá phiếu; phe đối lập, Đảng Cứu Quốc được 2 triệu 900 ngàn phiếu! Trước ngày dân đi bầu, chính quyền Hun Sen đã mua chuộc cử tri bằng cách tăng lương 40% cho các công chức cấp thấp, nâng lên bằng 80 đô la một tháng. Vậy mà gần một nửa số đảng viên Đảng Nhân Dân đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên đối lập! Cuộc bỏ phiếu được các cơ quan quốc tế theo dõi, giám sát; nhưng phe đối lập đang tố cáo nhiều vụ gian lận. Có những cử tri đến phòng phiếu khám phá ra mình đã bỏ phiếu rồi! Tức là đã có người đi bỏ phiếu thay cho mình. Có người thì thấy tên mình biến mất, không còn trên danh sách cử tri! Điều thứ nhì khiến đảng Cộng sản Việt Nam run sợ, là lòng dân chống đối âm ỷ đã có dịp bùng lên. Trước đây, người ta vẫn tưởng dân Campuchia hiền lành, bảo sao nghe vậy. Nhưng khi có cơ hội, họ chứng tỏ họ có thể hiền lành thật nhưng không ngu. Đảng Cứu Quốc tập hợp Đảng Sam Rainsy và Đảng Nhân Quyền, mới lập năm 2007. Trước cuộc bầu cử này, hai đảng lần lượt có 26 và 3 đại biểu trong Quốc Hội. Nay dân đã bầu lên 55 đại biểu Đảng Cứu Quốc; so với 68 ghế của Đảng Nhân Dân, so với 90 ghế họ đã có. Dân chúng Phnom Penh đã đi biểu tình ngày 24 Tháng Tư đòi chính phủ tổ chức bầu cử tự do, dân chủ và công bằng. Cuộc biểu tình lớn nhất từ trước đến nay, 4,000 người tham dự, đòi thay đổi thành phần trong Ủy Ban Bầu Cử quốc gia. Ngày 12 Tháng Bảy, Quốc Vương Sihamoni ký lệnh miễn tội cho ông Sam Rainsy theo đề nghị của Hun Sen, ngày 19 ông về nước, được hàng trăm ngàn người tiếp rước. Rainsy quốc tịch Pháp, nơi ông sống từ lâu trước khi về nước năm 1991, lên làm bộ trưởng tài chánh trong chính phủ liên hiệp. Năm 1994 ông mất chức, vì chống chính sách cho các công ty Trung Quốc và Việt Nam phá rừng, theo lời ông giải thích. Ông lập một đảng chính trị lấy tên Rainsy, rồi ông bị tuyên án 11 năm tù sau khi lưu vong bên Pháp từ năm 2009. Chắc Hun Sen tự tin quyền hành của mình đã vững chắc sau 28 năm làm thủ tướng, cho nên cứ cho Rainsy trở về mà không có quyền bầu cử và ứng cử. Nhưng dân Campuchia đã phản ứng khác. Giới thanh niên có học là thành phần dẫn đầu phong trào đòi thay đổi. Dùng Internet và điện thoại lưu động, họ cổ động cho đảng Cứu Quốc, thanh thế của đảng lan rộng nhờ mạng lưới tuyên truyền mới vượt qua mặt các báo, đài “lề phải” do đảng Nhân Dân kiểm soát. Vợ ông Rainsy là bà Tioulong Saumura cũng đắc cử. Khí thế phe đối lập lên cao đến nỗi nhiều người có tiền trong đảng cầm quyền đã lo sợ rút tiền ra khỏi ngân hàng, dân chúng nghe tin đồn bảo nhau đi rút theo; trong ngày bầu cử họ rút ra số tiền tổng cộng bằng 4 triệu đô la, gấp đôi số tiền rút bình thường. Một chiêu bài tranh cử của đảng Cứu Quốc là chống Cộng sản Việt Nam, đã được dân Campuchia hoan nghênh. Hun Sen vốn là một cán bộ Khờ Me Đỏ, sợ mất mạng trong các cuộc thanh trừng đã bỏ theo Việt Cộng, rồi được bọn Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh đưa lên làm thủ tướng. Sau đó Việt Cộng tiếp tục thao túng chính trường Campuchia, cho đến năm 1997 Hun Sen sợ quá đã quay đầu sang nhờ Trung Cộng giúp. Sam Rainsy lợi dụng nỗi bất mãn của dân đối với Cộng sản Việt Nam cho nên dùng chiêu bài chống người Việt trong cuộc tranh cử. Trong ngày bỏ phiếu, có tin đồn rằng nhiều đoàn xe chở người Việt Nam qua biên giới đi bỏ phiếu cho đảng của Hun Sen! Trên các mạng Internet có những lời phản kháng: “Dân Khờ Me không được bỏ phiếu, dân 'Duồn' đi bỏ phiếu!” Người Campuchia gọi người Việt là “Duồn;” một tên gọi miệt thị cũng giống nhiều người Việt đang gọi người Trung Hoa là “Khựa” trước cảnh chính quyền Trung Cộng lấn áp cả nước Việt Nam. Sau cuộc bầu cử, trong lúc đảng Cứu Quốc còn đang thưa kiện về bàu cử gian lận thì lãnh tụ Sam Rainsy vẫn lên đường đi Boston dự đám cưới của cô con gái, cô Rachel Estée Sam lấy William Josiah Rubenstein, được một vị pháp sư Do Thái làm chủ lễ bằng ba thứ tiếng Hebrew, Pháp và Anh! Cộng sản Việt Nam phải lo lắng vì phong trào bài Việt ở Camphuchia đang được khơi động; dân Việt sẽ coi đây là hậu quả do chủ trương bành trướng và thao túng nước Campuchia từ thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ gây ra. Nhưng Trung Cộng còn lo lắng hơn nữa. Sau cuộc bầu cử, nhật báo Wall Street Journal ở Mỹ nhận xét rằng, “Trung Quốc thua nặng nhất.” Phong trào dân Campuchia ủng hộ đảng đối lập cho thấy tự ái dân tộc của họ đã bùng lên, sau khi thấy chính quyền Hun Sen hết bám lấy Việt Cộng lại dựa vào Trung Cộng. Người Hoa chiếm 5% trong dân số nhưng kiểm soát 80% nền kinh tế. Tiếng Hoa là ngoại ngữ được học hàng thứ nhì sau tiếng Anh. Trong số khoảng 70 đài truyền hình có 50 đài nói tiếng Trung Hoa. Trung Cộng sử dụng đồng tiền để mua chuộc Hun Sen; hiện nay đứng hàng đầu về vốn đầu tư vào Camphuchia; cao hơn tổng số đầu tư của tất cả các nước khác. Riêng năm 2011, Bắc Kinh bỏ vào Campuchia 1 tỷ 200 triệu đô la, gấp 10 lần số đầu tư của tất cả các công ty Mỹ. Ai cũng biết chính quyền cộng sản ở nước nào cũng rút ruột các công trình đầu tư. Trung Cộng không bao giờ đặt vấn đề đó, trong khi các công ty Mỹ bị trói buộc bởi các đạo luật cấm hối lộ chính quyền các nước khác. Trung Cộng đang thi hành một dự án xây dựng một tuyến đường sắt, một bến cảng và một nhà máy luyện thép trị giá 11 tỷ đô la; khiến ai cũng nghĩ tới dự án xây dựng đập Myitsone tại Miến Điện, trị giá 3 tỷ 6, đã bị chính quyền Miến cắt ngang trước khi khởi đầu chương trình dân chủ hóa. Người dân Camphuchia cũng nhìn thấy rõ chính quyền Hun Sen đang “bán nước.” Thế giới cũng nhìn thấy Trung Cộng đã “bỏ Campuchia vào túi!” Tháng Bảy năm ngoái, trong hội nghị ASEAN tại Phnom Penh, chính phủ Campuchia đóng vai chủ nhà đã ngăn cản khiến không đưa ra được một thông cáo chung, vì biết bản dự thảo nêu lên các hành động xâm lấn của Trung Cộng tại Biển Đông. Có lúc ông tổng thư ký ASEAN đang bắt đầu nói đến vấn đề này, ngoại trưởng Campuchia đã ngăn lại, cắt ngang lời. Đến Tháng Chín, Bắc Kinh loan báo cho Phnom Penh vay 500 triệu đô la với lãi suất nhẹ! Không biết các quan chức sẽ bỏ túi bao nhiêu trong số tiền này, nhưng dân cả nước sẽ mắc nợ! Lại còn nạn “bán rừng” cho các công ty Trung Quốc và Việt Nam nữa! Dân Campuchia ghét Cộng sản Việt Nam nhất vì nạn tham nhũng ở xứ này đã được các cán bộ người Việt truyền nghề cho đàn em bản xứ. Mà bây giờ thì đám đàn em còn tham nhũng vượt chỉ tiêu! Người ta đồn “trong đám cưới con ông Hunsen đám thuộc hạ dâng tặng nhiều xe hơi đắt tiền đến mức số chìa khóa xe không thôi đã đầy mấy rổ!” Đồng bào Việt Nam đang sinh sống ở Campuchia sẽ phải gánh chịu hậu quả! Dân Việt Nam chỉ mong người Khmer không khơi dậy mối thù hận lâu đời với người Việt. Họ sẽ phải thấy các chính sách lấn áp của đảng Cộng sản Việt Nam không được dân Việt ủng hộ. Hơn nữa, người Việt Nam sẽ tranh đấu để được sống trong một xã hội tự do dân chủ, ít nhất cũng bằng dân Campuchia. Dù nền dân chủ ở nước láng giềng còn trong cảnh sơ sinh nhưng đã đầy hứa hẹn. Chính quyền Hun Sen sẽ phải giảm bớt tham nhũng và bớt lệ thuộc Trung Cộng khi bị phe đối lập trong quốc hội theo dõi và phê phán. Khi nào cả hai dân tộc cùng sống trong các chế độ dân chủ tự do thì mọi bất đồng sẽ được giải quyết trên căn bản bình đẳng. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Đảng Cộng sản và ‘Quyền được chết’

«Quyền được chết» là một khái niệm luật học mới mẻ, chỉ rõ quyền được pháp luật công nhận cho công dân nước mình được tự do lựa chọn cái chết khi mắc bệnh hiểm nghèo chưa có cách chữa trị, muốn được chết để khỏi phải đau đớn kéo dài trong cơn tuyệt vọng.   Ở nước nào «Quyền được chết» cũng được tranh cãi quyết liệt, chia hẳn thành 2 phái, một phải ủng hộ, tán đồng, cho đó là quyền tự do thiêng liêng của mọi công dân, tư nguyện chấp nhận cái chết để thoát khỏi tình trạng đau khổ kéo dài, quá sức chịu đựng của bản thân, yêu cầu cơ quan y tế và người thân cùng giúp đỡ, hợp tác để thoát khỏi bế tắc, để thực hiện một cái chết an lạc. Theo chữ Hán, người Trung Quốc gọi đó là quyền «an tử». Theo tiếng Hy Lạp cổ, đó là quyền «euthanatos»; tiếng Anh là «euthanasia»; tiếng Pháp là «euthanasie» theo nghĩa từ điển là «cái chết không đau đớn». Tòa Thánh Vatican kiên quyết chống lại quyền này, viện cớ sống chết là do Thượng đế quyết định, thực hiện «euthanasia» là mang tội giết người. Hiện nay các nước Hà Lan, Bỉ, Áo…đã chính thức thực hiện quyền «an tử». Ở Hoa Kỳ, mới có các bang Oregon và Texas thực hiện. Các đảng Cộng sản có liên quan gì đến «quyền được chết»? Xin thưa rằng có. Cũng như mọi sự vât trên đời, đảng CS có khởi đầu và có kết thúc. Marx và Engels đã khai sinh ra đảng CS vào ngày 24 tháng 2 năm 1848 khi 2 ông công bố bản «Tuyên Ngôn của đảng CS». Thế kỷ 20 là thế kỷ cường thịnh nhất của các đảng CS trên toàn thế giới cũng như của các Đệ Nhất, Đệ Nhị và Đệ Tam Quốc tế CS. Đến nay tuổi thọ của đảng CS đã được 165 năm. Thoái trào của phong trào CS bắt đầu từ những năm 50 của Thế kỷ 20, đột biến đi xuống từ khi Bức tường Berlin sụp đổ vào cuối năm 1989, tan hoang từ sau khi đảng CS Liên Xô là đảng CS đầu đàn bị giải thể vào cuối năm 1991. Trong Thế kỷ 20, có lúc đảng CS toàn thế giới họp được những cuộc họp lớn, bao gồm 68 đảng CS vào năm 1957, và 87 đảng vào năm 1960 tại Moscow. Nếu tính cả các nhóm CS theo Mao Trạch Đông hay theo Che Guevra ở châu Á, Mỹ la tinh, có lúc toàn thế giới có đến gần 200 đảng phái theo học thuyết Cộng sản. Có thể nói đến nay chỉ còn lơ thơ vài đảng CS có thể đếm trên đầu ngón tay, lớn nhất là đảng CS Trung Quốc, rồi các đảng CS Việt Nam, Cuba và Bắc Triều Tiên. Hàng trăm đảng CS lớn mạnh trong thế kỷ trước ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ la tinh, châu Phi đã rã rời, ngừng hoạt động, nằm trong các nghĩa địa và bảo tàng. Nhiều đảng CS đã chết yên lặng bằng cách đổi tên. Nghị quyết 1481 của Quốc hội châu Âu đã đặt chủ nghĩa Cộng sản hiện thực ra ngoài vòng pháp luật, coi đó là tội ác chống nhân loại. Các đảng CS oanh liệt một thời như đảng CS Anh, đảng CS Đức, đảng CS Áo, đảng CS Ý đã gần như hoàn toàn biến mất trên sân khấu chính trị. Đảng CS Pháp một thời oanh liệt, tự nhận là đảng số một của nước Pháp, từng tham gia chính phủ với chức phó thủ tướng, bộ trưởng, được trên 30% số phiếu bầu, nay ở vào số cuối bảng, chỉ được chưa đến 3 % phiếu, chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của chính mình. Nó còn sống, nhưng thoi thóp, đang thở hắt ra, đã thuộc về quá khứ. Mới đây, nhân đại hội lần thứ 35 của đảng CS Pháp, một số đông hơn 300 giáo sư, trí thức, văn nghệ sỹ, uỷ viên Trung ương đảng, đại biểu Quốc hội có uy tín là đảng viên CS Pháp đã rủ nhau cùng một lúc ký tên, ra tuyên bố vĩnh biệt đảng CS để gia nhập tự do các đảng khác, với thái độ công khai minh bạch, sau khi nhận rõ chủ nghĩa CS không còn sức sống cả về lý luận và cả về thực tiễn. Họ tham gia khai tử đảng CS của mình, coi đó là việc làm có ý nghĩa tích cực, không có ích gì khi kéo dài thêm tuổi thọ của một học thuyết đã phá sản, của một đảng chính trị đang rơi tự do, bị nhân dân Pháp khước từ không tin cậy nữa. Đây là một hệ quả của sự kiện có ý nghĩa lịch sử, tháng 6 năm 2007, giữa thủ đô Hoa Kỳ đã dựng lên Đài tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, một sai lầm khủng khiếp của Thế kỷ 20, qua đó tên tuổi của các nhà lãnh đạo CS nhúng tay vào tội ác được ghi rõ không khoan nhượng vì là sự thật hiển nhiên: từ Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông, đến Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Tito, Fidel Castro, Céauçescu, Honecke…Không có lãnh tụ CS nào mà tay không đẫm máu nhân dân nước họ cả. Đảng CSVN có cùng chung số phận, chung vinh quang hão huyền giả tạo một thời, và chung mối ô nhục gây tội ác chống nhân loại cũng như chống nhân dân bản xứ, như tất cả các đảng Cộng sản khác, không có một ngoại lệ nào cả. Vì tất cả đều cùng chung một học thuyết đấu tranh giai cấp, cùng tôn sùng bạo lực hung hãn, đang cùng chung đà suy thoái tha hóa và tan vỡ không gì ngăn cản nổi, trừ phi thay đổi cả hệ thống chính trị từ độc đảng toàn trị sang dân chủ đa nguyên theo luật pháp. Việc đổi tên đảng, đổi danh xưng của nước Việt Nam, lập đảng mới, đổi quốc kỳ của nước Việt Nam mới, và tìm một liều thuốc «an tử», giúp đảng CS một kiểu chết thanh thản, chết an lạc, giải thoát khỏi những năm dài bế tắc, lắm bệnh hiểm nghèo vô phương cứu chữa, chỉ ngày càng ô nhục thêm, có lẽ là rất cần thiết, nhân đạo, có ích cho đất nước và nhân dân vậy. Cũng vì vậy, ý kiến về từ bỏ đảng CS, thoát đảng, lập đảng mới của một số trí thức am hiểu thời thế như luật gia Lê Hiếu Đằng, nhà báo Hồ Ngọc Nhuận được sự quan tâm bàn luận ngày càng sôi nổi của người Việt trong và ngoài nước. Nguồn: VOA
......

Muốn dân chủ cần có đảng phái

Trong bài trước, mục này trình bày một khác biệt trong quá trình chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ ở các nước Nam Âu, Nam Mỹ so với các nước cựu cộng sản Ðông Âu. Tại Tây Ban Nha hay Chile, các đảng phái trong “xã hội chính trị” đóng vai chính, còn ở Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary, “xã hội công dân” dẫn đầu trong cuộc vận động dân chủ.   Nêu lên khác biệt này dễ gây hiểu lầm. Người ta có thể nghĩ rằng vì Việt Nam cũng sống dưới chế độ cộng sản cho nên đi theo con đường các nước Ðông Âu thì thích hợp hơn; do đó việc thành lập các đảng chính trị bây giờ không cần thiết. Nghĩ như vậy không đúng. Xã hội công dân và xã hội chính trị là hai hình thái sinh hoạt trong toàn thể xã hội dân sự, nằm ngoài các tổ chức quân sự và giữ cân bằng với guồng máy nhà nước. Nhưng hai hình thái đó đóng vai trò bổ túc cho nhau chứ không đối kháng hoặc loại trừ lẫn nhau. Tại Uruguay, Brazil hoặc Argentina tuy các đảng chính trị đi tiên phong trong cuộc vận động dân chủ thành công nhờ xã hội công dân ở đó đã được phát triển; gây ý thức tham dự, ý thức về quyền công dân trong dân chúng đã lên cao, chính quyền độc tài không thể nhắm mắt bỏ qua. Trong cuộc vận động xóa bỏ chế độ độc tài thì xã hội công dân có thể đóng vai trò tích cực. Nhưng sau đó, một nhóm trong xã hội công dân vẫn có thể muốn lấn áp những nhóm khác, ảnh hưởng đến cả việc thiết định các “luật chơi” mới. Những người muốn tham dự vào xã hội chính trị không thể nào cứ đứng trên các đảng phái mãi mãi. Tại sao xã hội dân chủ cần các đảng chính trị? Vì Dân Chủ không phải là một mô hình lý tưởng. Xã hội loài người không bao giờ hoàn hảo để xếp đặt cuộc sống chung lý tưởng. Dân Chủ chỉ gồm những quy luật của cuộc chơi trên sân banh chính trị, để mỗi người đều được tham dự bình đẳng. Trong bất cứ xã hội nào cũng có ý kiến khác nhau, nhiều nhóm có các quyền lợi riêng, bây giờ hay gọi là “nhóm lợi ích,” khó tránh được cảnh quyền lợi của nhóm này xung khắc với nhóm khác. Nhà nước dân chủ đóng vai trò trọng tài giữa các quyền lợi xung khắc; tôn trọng lựa chọn của đa số nhưng không bỏ qua các nhóm thiểu số. Guồng máy nhà nước, gồm cả chính quyền và Quốc Hội, đặt ra những “luật chơi” để giải quyết các xung khắc. Nhà nước cần đứng ngoài các xung đột mới đóng được vai trò đó. Trong một nước dân chủ không một nhóm công dân nào được phép lấn áp các nhóm công dân khác. Các đảng phái làm đại biểu cho quyền lợi của các nhóm công dân khi tranh luận về phương thức giải quyết các xung đột. Trong tiếng Anh có chữ “polity” chưa biết nên dịch thế nào ra tiếng Việt. Chữ này bao gồm tất cả các sinh hoạt có tính cách chính trị, các định chế, các tập hợp, các hành động, ảnh hưởng trên sinh hoạt chính trị. Một phạm vi có thể xác định rõ là hoạt động của các đảng phái, có thể gọi là xã hội chính trị (political society). Mọi công dân có quyền hành xử quyền của mình để gây ảnh hưởng trên việc sử dụng guồng máy nhà nước, chia sẻ quyền lực chính trị, trong vòng pháp luật. Họ tập họp trong các đảng chính trị. Nếu không có các đảng chính trị thì chế độ dân chủ khó chạy, và rất khó trở thành kiên cố, tức là lúc mọi người đều đồng ý “Dân Chủ là luật chơi duy nhất được sử dụng.” Dân Chủ thành kiên cố khi bảo đảm được chính quyền nằm trong tay những người do dân tự do bỏ phiếu bầu lên; và bảo đảm người dân lúc nào cũng có thể quan sát, phê phán guồng máy chính quyền. Muốn tiến tới tình trạng tối hảo này, cần những định chế cơ bản: Bầu cử tự do; Luật bầu cử bảo đảm cơ hội đồng đều cho mọi người dân; Các đảng chính trị cạnh tranh với nhau hoặc liên kết với nhau; Guồng máy hành chánh vô tư đứng ngoài các đảng phái; Quyền tư pháp và lập pháp độc lập với guồng máy đó. Ðể sống chung trong thể chế dân chủ, để giải quyết các xung khắc quyền lợi giữa nhiều nhóm dân chúng, mỗi nhóm lợi ích cần có đại diện tham dự trong quá trình thảo luận và quyết định chính sách chung của quốc gia trên các lãnh vực. Không thể nào chỉ có “một đảng của toàn dân” như nhiều người ao ước hay mơ tưởng. Trong một xã hội sống dân chủ, mỗi đảng chính trị thường chỉ tập hợp được một số nhóm lợi ích, không thể nào trùm lên cả xã hội. Ý tưởng đảng của mình cũng là “đảng của toàn dân” sẽ đưa tới khuynh hướng độc tài, rất khó tránh. Thí dụ ở nước Mỹ, đảng Cộng Hòa được sự ủng hộ của giới tư bản, họ cũng thu hút những người trung lưu hoặc nghèo nhưng tin tưởng phải bảo vệ các giá trị tôn giáo; lại được giới trí thức đề cao chủ trương tự do kinh tế tham gia. Ðảng Dân Chủ thu hút những người coi việc bảo vệ công bằng xã hội về lợi tức và tài sản; được các nhóm di dân mới ủng hộ; và thích hợp với những người có khuynh hướng mới về đạo đức, muốn thay đổi phong tục. Ðảng Cộng Hòa theo chủ trương giảm bớt vai trò guồng máy chính quyền ở mọi cấp, đảng Dân Chủ ngược lại. Ðảng Cộng Hòa bảo vệ quyền hạn của các tiểu bang so với liên bang, đảng Dân Chủ không thiết tha đến đề tài đó. Trong mỗi đảng cũng có những khuynh hướng khác nhau. Mỗi đảng quy tụ một số nhóm lợi ích có thể đồng ý với nhau về một số chủ trương; nhưng họ cũng không hoàn toàn thỏa thuận trên tất cả các vấn đề. Họ cùng ủng hộ một đảng vì đảng đó đề cao một số chủ trương, dù không đồng ý với tất cả các chính sách của đảng. Cần đảng chính trị vì họ đóng vai đại biểu cho một số nhóm lợi ích; mỗi đảng tập hợp một số nhóm lợi ích trong cuộc cạnh tranh gây ảnh hưởng trong việc ấn định đường lối chung của quốc gia. Cuối cùng, toàn thể dân chúng nắm quyền quyết định, lựa chọn đưa một đảng nào đó lên cầm quyền; khi cần thì lại thay đổi. Trong xã hội chính trị, đảng phái là những “cầu thủ” chính tham dự cuộc chơi trên sân banh dân chủ; vì họ có nhiệm vụ tập hợp và làm đại biểu cho các nhóm lợi ích. Mỗi đảng có thể thay đổi chương trình tranh cử để được đa số cử tri bỏ phiếu cho; nhưng họ không thể đi ngược lại quyền lợi và xu hướng của các nhóm thành viên. Xã hội luôn luôn thay đổi, chính các nhóm lợi ích cũng thay đổi khi chọn ủng hộ một đảng chính trị. Giới lao động ở Mỹ thường ủng hộ đảng Dân Chủ trong thế kỷ 19 và 20 khi các công đoàn rất mạnh. Nhưng đến giữa thế kỷ 20, vai trò các công đoàn đi xuống, nhiều công nhân gia nhập giai cấp trung lưu, họ quay sang đảng Cộng Hòa vì đảng này đề cao việc tự do cá nhân, muốn nhà nước bớt can thiệp, và bảo vệ các giá trị tôn giáo. Trong hai cuộc bầu cử gần đây, giai cấp trung lưu ở Mỹ lại nghiêng về đảng Dân Chủ vì thấy đảng Cộng Hòa đã đi quá xa trong các chủ trương cố hữu đó. Trong cuộc hơi chính trị dân chủ, các đảng phái đóng vai trò cầu thủ, không thể thiếu được. Kinh nghiệm ở Ðông Âu và Nga cho thấy thiếu các đảng chính trị và xã hội chính trị sinh động có thể khiến quá trình dân chủ hóa bị trì trệ, hoặc quay ngược lại trở về khuynh hướng độc tài. Vì trong các nước cộng sản thiếu một xã hội công dân năng động cho nên cuộc tranh đấu xây dựng dân chủ bắt đầu với phong trào hồi phục xã hội công dân. Xã hội công dân thúc đẩy việc xóa bỏ chế độ độc tài ở Nga và Ðông Âu; nhưng khi xây dựng nền móng dân chủ thì phải xây dựng xã hội chính trị mới tạo được các cơ chế hữu hiệu. Những người lãnh đạo trong thời gian chuyển tiếp như Walesa ở Ba Lan và Yeltsin tại Nga muốn “đứng trên đảng phái,” không quan tâm đến việc thành một lập đảng chính trị của chính họ, cho nên không thúc đẩy việc củng cố nền dân chủ. Yeltsin còn sai lầm nặng hơn khi ông không thay đổi Hiến Pháp nước Nga cho phù hợp với thể chế tự do dân chủ, lỡ một cơ hội mà sau này ông hối tiếc. Walesa không chịu đứng ra một lập đảng riêng, vì muốn đứng trên các đảng phái. Phong trào công nhân Ðoàn Kết tách thành nhiều đảng, mỗi đảng không tập hợp được những nhóm lợi ích rõ ràng, để phí mất nhiều năm trước khi nền dân chủ được củng cố. Việt Nam cần rút kinh nghiệm các giai đoạn chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ, ở các nước cộng sản cũng như không cộng sản. Vì tới một lúc chúng ta sẽ thấy việc xóa bỏ chế độ độc tài không khó, một trái cây đã quá chín thế nào cũng rụng. Khó khăn hơn, là xây dựng một thể chế dân chủ, với những thói quen suy nghĩ và hành động được mọi người hiểu và làm theo, gọi là nếp sống dân chủ. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Hãy đặt gánh nặng tư tưởng xuống

Gửi cho BBCVietnamese.com từ Quảng Nam Gần đây dư luận mạng quan tâm đáng kể đến các bài tiểu luận của tác giả Nguyễn Tùng Hiếu, một đảng viên cộng sản Việt Nam cao cấp. Không nên lẩn quẩn trong mớ bòng bong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội? Trong các luận đề rất dài của mình, với văn phong bị ảnh hưởng sâu đậm của kinh tế chính trị học Marx-Lenin, tác giả cổ vũ rất nhiệt tình cho cái mà ông gọi là "dân chủ xã hội". Ông đã dành nhiều phần để cổ vũ cho sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà theo ông, đó gần như là xu thế của thời đại. Ông cho rằng "dân chủ xã hội" có thể tận dụng cả ưu điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội để thiết lập một xã hội thịnh vượng và công bằng như các quốc gia Bắc Âu.   Một đặc điểm nổi bật của những người cộng sản Việt Nam là lối tư duy chưa thoát ra khỏi cái thiên kiến lệch lạc của Marx. Marx chỉ nhìn thấy CNTB trong mối quan hệ đối trọng với CNXH, chứ không thấy sự tồn tại và vai trò của chủ nghĩa tự do hợp hiến trong nỗ lực định hình nền móng của các xã hội tự do lúc bấy giờ. Ngày nay, khi nhận thấy chủ nghĩa Marx đã đi đến hồi mạt vận trong cả lý thuyết lẫn thực tiễn, các trí thức CNXH cố vớt vát bằng cách kêu gọi kết hợp CNTB với CNXH để tạo ra cái gọi là Dân chủ xã hội. Họ đã bỏ sót cái tinh thần tự do cá nhân và nền dân chủ chính trị mà chủ nghĩa tự do đã đưa vào thế giới hiện đại. Đó mới chính là cốt lõi của các xã hội dân chủ, chứ không phải chỉ là chủ nghĩa tư bản. Những người chưa bao giờ sống trong xã hội dân chủ và tư duy chưa bao giờ vượt ra ngoài một mớ lý thuyết cũ rích của chủ nghĩa Marx, chỉ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản và nghĩ rằng chỉ cần kết hợp với các ưu điểm của chủ nghĩa tư bản là đủ để giải quyết tất cả những vấn đề của quốc gia. Các vấn đề của một quốc gia không chỉ là kinh tế và sự tái phân phối phúc lợi; mà phức tạp hơn nhiều, bao gồm nhiều không gian lý luận khác như thể chế chính trị, Hiến pháp, pháp trị, văn hoá và phương cách đối phó với những nan đề liên quan đến Công lý và tự do...Họ trầm trồ khen các nước dân chủ tự do rằng: “Người ta như thế mới là chủ nghĩa xã hội chứ!” Nhưng họ không hề biết chỉ hai chủ thuyết này không đủ để thai nghén nên một xã hội dân chủ tự do, giàu mạnh và đạt được những tiến bộ đáng kể trong cố gắng cải thiện công bằng xã hội. Thị trường tự do cộng với sự tái phân phối các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế và các chương trình phúc lợi chưa thể thể hiện hết cái cốt lõi tinh thần của các nền dân chủ. Mô hình đó có một nền tảng đặc biệt của nó, vượt ra ngoài sự kết hợp miễn cưỡng đó. Sự lẩn quẩn trong mớ bòng bong CNTB và CNXH làm người ta quên mất rằng cần phải có thêm các chủ thuyết tự do làm bệ đỡ cho tinh thần tự do của một nền dân chủ hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước "tư bản" chứ không phải là "dân chủ tự do". Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá... "Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước "tư bản" chứ không phải là "dân chủ tự do". Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá..." Các chủ thuyết xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa Marx chỉ tập trung vào mục tiêu đánh đổ chủ nghĩa tư bản, thực hiện công cuộc "cào bằng" đầy bạo lực và khiên cưỡng, đề xuất mô hình kinh tế tập trung bao cấp để thay thế chủ nghĩa tư bản... chứ chưa bao giờ thiết lập một nền tảng tư tưởng hữu lý cho việc kiến tạo các định chế quyền lực và xã hội nhằm bảo vệ tự do cá nhân, xây dựng một nhà nước dựa trên sự đồng thuận của người dân, xây dựng khế ước quyền lực...Đối với chủ thuyết này, Hiến pháp, pháp trị, tam quyền phân lập, cân bằng và kiểm soát, tự do, nhân quyền... chỉ là công cụ thống trị của nhà nước tư sản và họ cố tình gạt bỏ các giá trị này ra khỏi trung tâm lập thuyết của họ. Ngày nay, để tiếp tục tồn tại và biện minh cho sự tồn tại đó, các lý thuyết gia xã hội cố vay mượn các giá trị tự do (mà họ không xây dựng được) từ chủ nghĩa tự do hợp hiến để bù đắp cho sự thiếu hụt căn bản này. Trong khi đó, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do hợp hiến đã làm tất cả những công việc quan trọng nhằm đúc kết nên những nguyên tắc nền tảng mà từ đó các chế độ dân chủ hiện đại được xây dựng nên. Họ thiết lập và biện minh không mệt mỏi cho các giá trị tự do dân chủ mà ngày nay chúng ta đang cổ vũ. Bởi vậy, các nền dân chủ hiện đại thực ra được thai nghén trong tinh thần đề cao tự do, nhân quyền và nhân phẩm của chủ nghĩa tự do hợp hiến, chứ nó chưa bao giờ là con đẻ của chủ nghĩa xã hội, dù là chủ nghĩa xã hội bạo lực kiểu Marx hay chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nhìn nhận sự thành công của các nền dân chủ hiện đại như Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu như là kết quả của phiên bản mới - chủ nghĩa xã hội dân chủ - là một ngộ nhận lớn. Chủ nghĩa tự do hợp hiến Chủ nghĩa tự do có nhiều xu hướng khác nhau. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa TỰ DO KINH TẾ đề cao quyền tư hữu, tự do khế ước và do đó họ ủng hộ chủ nghĩa tư bản laissez-faire và một Nhà nước càng nhẹ càng tốt. Nhưng thực tế cho thấy, kiểu tự do này sẽ giúp duy trì những lợi thế vĩnh viễn của tầng lớp giàu có và quyền thế trong xã hội, còn những người bị gạt ra bên lề xã hội sẽ khó có cơ hội để vươn lên bởi đơn giản là họ có rất ít cơ hội. Tự do kinh tế chưa đủ để thúc đẩy tự do cá nhân và dân chủ thực sự, mà nó còn đào sâu các bất bình đẳng xã hội do khoảng cách quá lớn về tiềm lực kinh tế và cơ hội chính trị. Tình trạng các quốc gia phương Tây trong giai đoạn phát triển cao của cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ hai đã cho thấy nhược điểm của chủ thuyết tự do cổ điển này. Trước những bế tắc xã hội không giải quyết được của chủ nghĩa tự do kinh tế, các lý thuyết gia của chủ nghĩa TỰ DO XÃ HỘI đã đưa ra luận thuyết của mình để giải quyết các bất công và mâu thuẫn xã hội đồng thời đưa ra một số câu trả lời cho vấn đề Công lý. Với sự công nhận vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội bằng hệ thống luật pháp, tạo không gian pháp lý ổn định cho các hoạt động dân sự, làm trọng tài cho các thoả thuận tự do của người dân, tái phân phối một phần các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế, và tăng cường bình đẳng cơ hội cho những người ở tầng lớp dưới qua các chương trình phúc lợi xã hội...., chủ nghĩa tự do xã hội đã giúp các nền dân chủ hiện đại sửa sai các khiếm khuyết của chủ nghĩa tự do kinh tế. Trong khi đó, phương cách của chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tập trung, một nhà nước trung ương đầy quyền lực để áp đặt mô hình kinh tế này, kết quả là cho ra đời những Nhà nước toàn trị tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.   Độc tài hay Dân chủ mới là mấu chốt Ngày nay những người xã hội đã cải biến chủ thuyết của mình theo kiểu "đẽo chân cho vừa giày" để phù hợp với không gian chính trị dân chủ và xã hội tự do. Các đảng xã hội cũng thay đổi để tiếp tục tồn tại và tham gia lãnh đạo quốc gia cùng với các đảng cánh hữu. Tùy thuộc vào bối cảnh văn hoá, kinh tế và chính trị cũng như các định chế xã hội mà các đảng cánh tả ở những nền dân chủ lâu đời có thể dành được sự ủng hộ của người dân hay không. Nhưng điều quan trọng là đảng phái này chỉ mang cái danh "xã hội" nhưng thực chất họ đi gần với chủ nghĩa tự do xã hội hơn là chủ nghĩa xã hội (xin lưu ý sự khác biệt này) và mọi hoạt động đảng phái cũng như hoạt động quyền lực của họ đều phải nằm trong không gian chính trị do chủ nghĩa tự do hợp hiến thiết lập và quy định từ lâu. "Tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa? " Gán ghép các thành tựu chính trị-xã hội ngoạn mục ở các quốc gia dân chủ Bắc Âu cho chủ nghĩa xã hội (có sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản), mà bỏ qua dấu ấn sâu sắc của chủ nghĩa tự do hợp hiến ở các quốc gia này là quá gượng ép và thiển cận. Tiếp tục đề cao vai trò của một phiên bản chủ nghĩa xã hội mới trong không gian chính trị dân chủ tự do của các quốc gia phương Tây chỉ là một cách để các trí thức cộng sản ở Việt Nam giảm nhẹ những sai lầm, đổ vỡ và tội ác mà các nhà nước độc tài xã hội chủ nghĩa đã gây ra ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng; để tuyên truyền cho luận điệu rằng: chủ nghĩa xã hội không sai, chỉ là chúng ta chưa biết cách vận dụng... Thời đại ngày nay, thế giới đã đổi thay, nhu cầu dân chủ hoá của các dân tộc đang nằm dưới chế độ độc tài khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vì thế thật không phù hợp khi tốn công sức để bàn về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay sự kết hợp của chúng. Trong khi cái thực sự cần bàn là dân chủ, tự do, nhân quyền và công lý...Thiết nghĩ, tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa? Trí thức là tầng lớp tinh hoa mở đầu cho mọi tiến bộ, đã đến lúc các trí thức cộng sản Việt Nam phải làm một cuộc cách mạng tư tưởng để nhận thức sinh động rằng cái gốc của vấn đề ở đây không chỉ là chủ nghĩa tư bản hay xã hội, mà chính là Tự do hay Nô lệ, Dân chủ hay Độc tài! Nếu không làm được điều này, họ sẽ tiếp tục đi bên lề những vận động tích cực trong tương lai của đất nước. Bài viết thể hiện cách hành văn và quan điểm riêng của tác giả. (BBC)Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese  
......

Biến Động Tượng Hình

Đây là lần đầu tiên Nguyễn Xuân Phúc đến Mỹ với cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Phòng chống AIDS/Ma túy/Mại dâm. Mục tiêu của chuyến công du này, được loan báo chính thức trên trang http://baodientu.chinhphu.vn là: “Nhằm tăng cường hơn nữa sự hiểu biết, tin cậy và hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với Hoa Kỳ”. (Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban QG Phòng chống HIV/AIDS, Phòng chống tệ Ma Túy Mại Dâm, kiêm Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Đặc xá VN năm 2013. Ảnh AFP)   Thế thì, trước khi nói tới tin cậy hay hợp tác, liệu Hoa Kỳ đã biết gì về VN, và sẽ biết thêm gì, qua Nguyễn Xuân Phúc?   Khó lòng kể hết những điều chính quyền Mỹ đã biết về đảng và nhà nước VN, cả những điều đã bị rò rỉ và chưa bị rò rỉ. Nhưng ít ra, trên mặt nổi, người ta chưa quên TT Barack Obama, từ lâu, đã công khai kêu gọi Hà Nội thả ngay Blogger Điếu Cày, đích danh Nguyễn Văn Hải.  Hoặc những khuyến thư của hàng chục nghị sĩ/dân biểu lưỡng viện Hoa Kỳ yêu cầu Hà Nội thả ngay những nhân vật bất đồng chính kiến ở VN bị bắt/bị tù… Gần nhất là cách tiếp đón lạnh nhạt và những mẩu đối thoại chiếu lệ giữa Barack Obama với Trương Tấn Sang hồi cuối tháng Bảy. Và một tuần ngay sau đó là con số áp đảo 405/3 của Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua dự luật  nhân quyền cho VN năm 2013,  mang số hiệu H.R.1897. Rồi chỉ một tuần sau đó nữa, Đại sứ David Shear lại lên tiếng phản đối các bản tin chính quy của VN đã cố tình viết ngược nhận định của chính phủ Mỹ về vấn đề nhân quyền của Hà Nội, rằng “VN đã có những bước đi tích cực”;  đồng thời, yêu cầu Hà Nội phải đính chính và xin lỗi về lối tuyên truyền sai sự thật (ở tầm láu cá) đó. Một trong những điều mới nhất mà Mỹ biết thêm về VN, qua chuyến công du mới nhất và đang diễn ra này, có lẽ chính là chức vụ Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Đặc xá VN năm 2013 của Nguyễn Xuân Phúc, với bức ảnh đương sự vi hành “thăm hỏi” các tù nhân tinh tươm (như người mẫu thời trang) tại một trại tù ở Ninh Khánh, Ninh Bình, cũng cực kỳ sáng choang/lấp lánh (hơn cả giảng đường đại học). (Ảnh trên cổng điện tử chính phủ) Câu hỏi chốt: Như vậy, Nguyễn Xuân Phúc qua Mỹ chuyến này vốn liếng ra sao, để mua gì, và bán gì? Nếu vốn liếng của Trương Tấn Sang trong chuyến rồi là bản sao bức thư cầu cạnh ngày 28/02/1946 của Hồ Chí Minh gửi TT Harry Truman, mà phản ứng tiếp nhận của Obama không dấu vẻ hời hợt; thì, vốn liếng của Nguyễn Xuân Phúc chuyến này là bản án phúc thẩm dành cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên, cộng thêm món quà phụ trội (nặng tính biểu diễn mập mờ) là danh sách đặc xá tù nhân vào tuần tới. Cả hai món quà này đều dùng chung loại bao bì cao cấp “Lấy Tù Nhân Để Hét Giá”. Tức là ăn theo kiểu Miến Điện phóng thích tù nhân chính trị thì lập tức nhận được bết bao ưu đãi từ Mỹ nói riêng và cả thế giới tự do nói chung. Nhưng, ở đây, tiến trình thách giá này nằm trong cái tư duy không ít chủ quan đính kèm là nhà nước anh hùng CHXHCNVN có đủ điều kiện mặc cả với kẻ chiến bại thê thảm từ 40 năm trước, và “bọn nó ngu ngơ ngờ nghệch lắm, làm gì chẳng nghĩ là ta đang chuyển hướng!”. Thế thì liệu ngần đó những món quà cống nạp là đủ làm nền cho một chuyến du hành cúi đầu ngửa nón mà lắm người đặt nick cho là “Tiền Trạm Ngắm Tiền  Đô”, mở đường cho chuyến đi cạnh tranh kế tiếp của kẻ từng được biết đến như là tay quyền lực đứng đầu VN (mà toàn bộ BCT đều phải ngã mũ chào), ngay vào lúc nền kinh tế có định hướng rầm rộ, chi ly và cực kỳ “linh động” của VN đang rơi gia tốc? Ngay vào lúc cả đảng và chính phủ đều vô phương cứu vãn một ngân sách cạn kiệt để nuôi một guồng máy đang lâm sàng mà vẫn không quên giơ cao nắm đấm bạo lực? Rất tiếc là các viện nghiên cứu của Mỹ đã nhìn VN ở ngay góc rơi thẳng đứng đó. Wikileaks đã từng cho thấy là có khi chính dàn “lãnh đạo” VN cũng không nắm bắt được toàn cảnh kinh tế/chính trị/xã hội VN bằng chính quyền Mỹ. Và cũng chưa chắc là Ba Đình đã nắm bắt tình hình đa chiều/đầy đủ bằng giới dân báo VN. Chính đôi hia bảy dặm của dàn Blogger/Facebooker  VN đã tiến xa/bung rộng hơn điều mà nhà nước ở đây mường tượng, và đã từ lâu vượt khỏi hàng rào ngăn cấm hoàn toàn có tính theo đuôi/đối phó/tình thế/rượt bắt của nhà nước. Các bức màn sắt/màn tre đã sập. Cái ngỡ là thiên la địa võng đã tơi tả rách bươm. Giới dân báo VN không những đã tại chỗ và tức khắc lật mặt gian tà tráo trở của nhà nước “trên từng xăng-ti-mét” và chuyển tải thông tin ra khắp mặt địa cầu (bằng cả Anh ngữ), mà còn đáp lời mời gọi của thế giới tự do để trực tiếp trao đổi ý kiến/nhận định/tuyên bố… cả bên ngoài lẫn bên trong VN, thậm chí, ngay giữa lòng thủ đô ngập nước. Cho nên, nhà nước không thể che dấu được những toan tính và nỗ lực đằng sau hai món quà bằng sinh mạng tù nhân vừa nói. Từ những cuộc diễn tập quy mô chống biểu tình/nghị định 72/các điều luật 79-88-258/thông tư cấm chụp ảnh CA/khủng bố thân nhân các thanh niên yêu nước ở Vinh… cho tới những trò bẩn ăn lẻ: LS Nguyễn Bắc Truyển bị hàng chục an ninh thường phục bao vây sau cuộc gặp gỡ phái đoàn dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ; Giở võ lừa về nguồn tin úp mở LS Lê Công Định đi Mỹ; Thúy Nga bị CA Long An đánh đập tại đồn, bé Tài chưa thôi nôi bị phơi nắng; CA chận xe của Lê Quốc Quyết để mật vụ đánh người bằng gạch đá và phá xe, cướp tài sản; Dàn cảnh để bắt cóc Aduku Adk bằng thủ thuật nhớp nhúa hạ đẳng; Đổ keo ổ khóa và tạt mắm tôm/chất thải vào nhà Binh Nhì Nguyễn Tiến Nam; Lục soát và ăn cắp đồ đạc cá nhân rất riêng tư của Gió Lang Thang & Hư Vô; Bắt Chí Đức lúc lên đồn truy tìm tông tích Binh Nhì; … Mức độ trấn áp lên cao và lan rộng khắp VN ngay vào lúc Nguyễn Xuân Phúc còn đang loay hoay ở Mỹ và chuẩn bị tham dự khóa huấn luyện kỹ năng lãnh đạo quản lý cao cấp bên đó. Có lẽ không một huấn luyện viên nào có thể trang bị túi khôn cho một dàn hung thủ gian tham từng dìm cả một quốc gia xuống cuối bảng xếp hạng của thế giới, như Nguyễn Xuân Phúc và các đồng chí của hắn. Đường vào TPP và  Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc xem ra còn diệu vợi, trong lúc ngay tại quê nhà, dân oan lê mòn dép khắp các cơ quan nhà nước ở thủ đô để tìm công lý; ngư dân vẫn bị cướp/bị bắn ngoài khơi Biển Đông; người tốt dám nêu lên lẽ phải hay tố cáo việc xấu thì bị trả thù tàn tệ; tiến trình cưỡng chế chiếm đất tàn bạo đến mức đánh đập người già em bé trọng thương phải đưa vào viện cấp cứu, cả sách vở học trò đang luyện thi và thậm chí cái nồi đang nấu cơm cũng bị tịch biên; công an tùy tiện giết người ngay giữa đường phố ban ngày; người lớn tiếp tục tự thiêu;  trẻ con tự tử vì bị công an ép cung tội danh ăn cắp tiền; và hàng nghìn lẻ một vấn nạn xã hội tròng chéo lên nhau… Cùng lúc, nợ công và nợ xấu nhà băng thủng trần; lạm phát cao ngất;  chứng khoán chạm đáy; 30 nghìn tỷ giải vây trận động đất bất động sản thất bại; máy đúc tiền và vàng nhập khẩu được miễn thủ tục khai báo  hải quan và miễn kiểm tra thực tế; mặt hàng tôm xuất khẩu bị áp thuế và sắp tới phiên thép; tất cả nhu yếu phẩm đều đồng loạt thi đua tăng giá… Bản án phúc thẩm của Phương Uyên/Nguyên Kha/Nhật Uy đã lộ tẩy là một màn kịch vụng. Còn bản tin chuẩn bị đặc xá 2/9 mà Nguyễn xuân Phúc là Chủ tịch Hội đồng Tư vấn, người ta sẽ phải đọc như thế nào cho sát nghĩa? Một cách thả bớt tù hình sự cho trống chỗ để bắt giam thêm tù chính trị? Mấy ai còn đủ lòng tin chiến lược để nghĩ tới các nhân vật bất đồng chính kiến như Điếu Cày/Cù Huy Hà Vũ/Lê Quốc Quân/Anh Ba Sài Gòn/Tạ Phong Tần/Đỗ Thị Minh Hạnh/Đoàn Huy Chương/Nguyễn Hoàng Quốc Hùng/Vi Đức Hồi/Nguyễn Xuân Nghĩa/Dương Kim Khải/Trần Thị Thúy/các Thanh Niên Yêu Nước ở Vinh & Trà Vinh…? Mấy ai còn đủ lòng tin thực tiễn rằng dàn “lãnh đạo” ở Ba Đình thực tâm muốn đưa đất nước ra khỏi vũng lầy chủ nghĩa để cất cánh? Vậy thì, có gì là ngạc nhiên một khi Hoa Kỳ coi nhẹ hay rất nhẹ (và rất ngượng về) hai món quà “Ngã Giá Tù Nhân/Diễn Kịch Nhân Quyền” của Nguyễn Xuân Phúc? Nhẹ đến mức các nước không muốn viện trợ thậm chí bằng giấy tiền vàng mã (như Thụy Điển). Không một ai có thể cưỡng lại lương tâm nhân loại để hà hơi tiếp sức cho loại nhà nước nhân danh ổn định để tạo ra loạn lạc và kích động hận thù. Gút lại, người ta không cần theo dõi kết quả chuyến đi tiền trạm này của Phúc. Điều đáng quan tâm hơn cả là sự tích lũy bất mãn của nhân dân VN đang ở mức sẵn sàng bùng vỡ. Nếu cần theo dõi, người ta sẽ ghi nhận và sớm tổng kết những chỉ dấu Biến Động Tượng Hình. 24-08-2013  - Kỷ niệm tròn 22 năm ngày Mikhail Gorbachev từ chức Tổng bí thư đảng CSLX. Blogger Đinh Tấn Lực Nguồn: dinhtanluc.wordpress.com/
......

Đảng CS VN dưới mắt 2 nữ sinh, một giáo sư

Em sinh viên Nguyễn Phương Uyên có tư duy chính trị độc đáo. Em có lối suy nghĩ và cách nói không giống ai. Một nhân cách quý hiếm từ tuổi 20. Bước ra khỏi nhà tù, em chỉ có 3 từ : « We are One ! » - Chúng ta là Một.   Thật rõ, súc tích. Chúng ta là ai ? Đủ cả. Mẹ em, em em, bạn em, cũ và mới, đang có mặt. Cả những người vắng mặt ủng hộ em, khắp cả nước; rồi bạn bè, tổ chức quốc tế bênh vực em, cả tổng thống B. Obama nữa. Tất cả mọi người có lập trường tôn trọng quyền con người sống trên trái đất này là Một. Tách ra khỏi khối này là những kẻ chà đạp có hệ thống quyền con người. Có 3 từ mà em sinh viên nói lên đủ cả, ta thuộc khối vô tận, có chính nghĩa, có sức mạnh, tất thắng ! Với cách nói của riêng em, em lấy máu em làm mực, viết những dòng chẳng giống ai : « Tầu khựa cút khỏi biển Đông! », với đảng cộng sản, em cũng có cách nói rõ nhưng lạ: « Đi chết đi!», nghĩa là hãy biến đi cho dân nhờ. Như đảng CS Liên Xô đã chết không kịp giẫy vào cuối tháng 8 năm 1991, như một loạt đảng cộng sản ở Ba lan, Tiệp, Đức, Rumania, Bulgaria, Nam Tư, Albania, Latvia, Litva, Estonia một thời hét ra lửa, bỗng như chết dịch hàng loạt, theo chân nhau bò vào nghĩa địa sau khi bức tường Berlin sụp đổ do ý chí của nhân dân. Em không rủa đảng CS, em chỉ nói lên một mong mỏi, một nguyện vọng chính đáng thầm kín của số đông nhân dân rất mẫn cảm về chính trị lúc này. Thì ông Hồ Chí Minh chẳng nói rõ rằng:« Nếu chính phủ làm hại dân thì dân hãy đạp đổ chính phủ đó đi » trong cuốn Đường Cách Mệnh là gì ? « Chớ đánh đồng ! »,lại một cách nói riêng của Phương Uyên, đảng CS không được phép nhận vơ, ta là nhân dân, ta là dân tộc, ta là đất nước. Không được ăn gian. Tờ báo của đảng CS lại mang tên Nhân Dân. Ở Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Thảo Chi, Nguyễn Nữ Phương Dung, Nguyễn Thu Trang … chúng ta thấy cả một cuộc dấn thân mới mẻ hàng loạt của tuổi trẻ yêu nước, đang lên đường tiếp nhận bó đuốc sáng của thế hệ đàn anh, đàn chị. Phương Uyên dấn thân đúng ngày sinh nhật tuổi 20. Ra tù, em trả lời phỏng vấn nhanh gọn, súc tích, vẫn cách nói riêng của mình, không giống ai. Em nhẹ nhàng, khảng khái, không xin khoan hồng, không nhận một tội gì, không nhờ luật sư;  mặc cho án treo, em tuyên bố không ngừng nghỉ cuộc đấu tranh yêu nước. Thật là : «  với những con người mang đủ tố chất người, giá trị không hề chờ số tuổi » - « Aux âmes bien nées, la valeur n’attend point le nombre des années  » (Le Cid, Corneille).  Cũng là hậu sinh khả úy vậy. Ngay sau khi Phương Uyên được tự do, vấn đề lập những đảng mới để ganh đua, cạnh tranh hợp pháp với đảng CS đặt ra cấp bách, gây tranh luận sôi nổi, vang lên tiếng nói của một em sinh viên trường luật, cũng ở lứa tuổi đôi mươi, có nhiều ý tưởng xác đáng, già dặn, lập luận chặt chẽ. Đó là em Đỗ Thúy Hường, có bài trên mạng từ 4 năm trước với đầu đề là « Tôi nghiên cứu Luật đất đai ». Em phê phán mạnh dạn quan điểm không giống ai, « đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước của đảng thay mặt quản lý », thế là bao nhiêu đất đai chỉ một tích tắc thuộc tuốt về đảng CS, không qua một gịot mồ hôi khai phá, lao động nào. Từ đó sinh ra các khái niệm khủng khiếp với nông dân : thu hồi, đền bù, cưỡng chế, tai họa kinh hoàng mang nhãn hiệu Việt Nam. Hiện nay em là nhà luật học bảo vệ quyền sống của bà con nông dân ta mạnh mẽ nhất, hăng say có lý lẽ nhất, đòi việc sửa đổi luật đất đai sắp đến phải khôi phục nhiều hình thức sở hữu đất đai, từ sở hữu cá nhân, sở hữu tập thể, đến sở hữu công về ruộng đất, khôi phục các loại ruộng Công, ruộng Tư, ruộng Hợp tác xã, ruộng Nông trường quốc doanh, ruộng của gìòng họ, của hội Ái hữu, Từ thiện, Học điền (để khuyến khích học sinh giỏi), Tự điền (để cúng lễ)… như xưa kia vốn có. Trong bài «Đảng mới phải xuất hiện cái đã, nhưng thời cơ chín chưa ? », em Đỗ Thúy Hướng đưa ra một số ý tưởng già dặn. Lập đảng mới là cần, nhưng phải chuẩn bị tốt. Không để cho đảng CS bóp chết khi mới xuất hiện. Chuẩn bị để khi ra mắt có ngay từ 500 đến 1 ngàn đảng viên có tên tuổi, uy tín, những trí thức dân tộc, từng hay chưa là đảng viên CS. Đạt mức đó thì không thể bị đảng CS thủ tiêu. Trước mắt, qua các cuộc thảo luận về sửa Hiến pháp, sửa Luật Đất đai, thời cơ đang chín. Đảng mới ngoài cơ sở lý luận, học thuyết, cần chăm lo quyền lợi thực tế của các tầng lớp dân cư, từ dân nghèo thành thị, công nhân, lao động, tiểu thương, dân thất nghiệp, nhà kinh doanh vừa và nhỏ, tầng lớp trung lưu tiểu tư sản, phụ nữ, các tôn giáo … Em nêu ý  đảng mới không chống đảng CS, nhưng đảng CS buộc phải thay đổi căn bản, chịu ganh đua với đảng mới. «Nếu nó không chịu thay đổi, đó là nó muốn tự sát. Thế thì mặc … mẹ nó chết đi, ai mà cứu nổi nó ». Cũng như em Phương Uyên, em Thúy Hắng cùng mong « đảng CS chết đi », nếu nó vẫn tệ bạc với nông dân, nó vẫn ươn hèn với bọn bành trướng. Một cách nói bỗ bã, nhưng thẳng thắn thật lòng, với lập luận chặt chẽ. Giữa lúc 2 em nữ sinh viên tỏ rõ chính kiến đối với đảng CS, giáo sư toán học Hoàng Xuân Phú, nhà nghiên cứu cốt cán của Viện Toán học VN viết bài trên blog riêng của ông, chỉ rõ 2 tử huyệt của đảng CS là quyền lãnh đạo tự phong của đảng  - Điều 4 trong hiến pháp -  và cái quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai kỳ quặc đã nói trên đây, để cướp đất của nông dân, không thể nói khác được.. Mới đây nhất giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định đảng CS đã vi phạm  luật lệ do chính mình đề ra,  suốt 68 năm nắm chính quyền,  là một đảng chính trị, đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó. Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi, -  đảng CS Đông Dương, đảng Lao Động VN, rồi đảng CS VN -  nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh. Ngay Điều 4 của Hiến pháp, tự khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, cũng do quốc hội của đảng, hơn 90% đại biểu là đảng viên giơ tay thông qua, một kiểu ăn gian dân chủ, không hề qua trưng cầu dân ý, sau lưng xã hội, công dân không có tiếng nói, không một ai bàn luận, cũng là phi pháp, vô giá trị. Ông giải thích rằng mỗi điều khỏan trọng yếu của hiến pháp phải được hướng dẫn thi hành bằng một hay nhiều đạo Luật tương ứng. Điều 4 chưa hề được một đạo Luật nào hướng dẫn thi hành trong cuộc sống của xã hội. Nó vẫn chưa có giá trị vận hành trong cuộc sống. Vậy thì ngay lúc này ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải làm bản tường trình khai sinh ra đảng CS để tận tay mang nộp tại các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận : Tòa án Tối cao, Viện Kiểm Sát Tối Cao, Bộ Nội Vụ, Bộ Công An, Bộ Thông tin Truyền thông, Ban Thanh tra Chính phủ, Tòa soạn Công báo VN… để bổ xung hồ sơ của đảng CS VN cho hợp lệ. Xin nhớ lấy biên lai tiếp nhận. Một cụ già sanh ra từ năm 1930, nay đã hơn 83 tuổi, mang đủ thứ bệnh hiểm nghèo nhất, chống gậy đi xin làm giấy khai sinh. Có chuyện nào lạ kỳ, ngộ nghĩnh hơn. Bùi Tín
......

Xã hội Chính trị và Xã hội Công dân

Trên mạng Dân Làm Báo mới phổ biến bài viết ký tên Tam 8X tựa đề “Công khai thành lập Đảng đối lập - Tại sao? Khi nào?” Đây là một bài phân tích rất công phu và đầy đủ về việc lập đảng để công khai tranh đấu cho tự do dân chủ.   Đoạn cuối bài này viết: “...những nhà đấu tranh tự do, dân chủ hiện nay (người trẻ tuổi, trung niên, người cao tuổi) phải đọc lại quá trình đấu tranh và hình thành và sự giành thắng lợi của ĐCS Việt Nam từ trước khi các tổ chức cộng sản đầu tiên có mặt tại Việt Nam, đến khi hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam... để thấy rằng sự ra đời của một Đảng phái là một quá trình đấu tranh trước đó, chuẩn bị đầy đủ điều kiện CẦN và CÓ chứ không phải là thông qua một lời “tuyên bố, khởi xướng” nhất thời” (thí dụ, việc tuyên bố thành lập một đảng Dân Chủ Xã Hội mà các ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận đang hô hào). Lời khuyên trên đây rất hữu ích. Lập đảng không phải chỉ làm một việc “tuyên bố, khởi xướng” là đủ mà phải “chuẩn bị đầy đủ các điều kiện” để hoạt động. Tuy nhiên kinh nghiệm lập đảng Cộng sản Việt Nam không chắc đã thích hợp cho những người tranh đấu dân chủ ngày nay. Hơn nữa, học kinh nghiệm của họ có thể nguy hiểm cho tương lai nền dân chủ mà dân ta đang mong muốn. Có những kinh nghiệm khác cần tìm hiểu, thích hợp và lợi ích hơn. Tình thế nước ta bây giờ khác hẳn thời 1930 đến 1945. Nếu muốn học hỏi, những người đấu tranh đòi tự do, dân chủ hiện nay cần nghiên cứu kinh nghiệm của những nước đã từ độc tài chuyển sang dân chủ trên thế giới trong thời gian từ 1976 đến sau năm 1990. Đó là các nước phía Nam Châu Âu (từ Tây Ban Nha sang Hy Lạp), ở Nam Mỹ (Uruhuay, Brazi, Chile, vân vân), tại Đài Loan, Nam Hàn; và các nước cộng sản Đông Âu từ năm 1989. Vì hiện nay nước ta đang vận động chuyển mình từ độc tài sang dân chủ; giống các nước kể trên chứ không giống như thời kỳ đang tranh đấu chống thực dân Pháp giành độc lập. So sánh các biến chuyển ở Tây Ban Nha hay Chile, Đài Loan và Nam Hàn, với các cuộc vận động ở Tiệp Khắc hoặc Ba Lan, sẽ thấy khác nhau ở một điểm quan trọng, là vai trò của xã hội chính trị và xã hội công dân trong cuộc vận động dân chủ. Các đảng phái tạo thành xã hội chính trị, mục tiêu là giành lấy chính quyền. Trong xã hội công dân gồm các hiệp hội, phong trào, với mục tiêu thực hiện quyền công dân, họ có ảnh hưởng chính trị nhưng không nhất thiết nhằm đoạt lấy quyền điều khiển quốc gia. Tại các nước Nam Âu, Nam Mỹ và Á Đông, các đảng phái chính trị dẫn đầu phong trào đòi dân chủ tự do. Còn tại các nước cộng sản Đông Âu, vai trò tiên phong lại do xã hội công dân đảm nhiệm. Ở Ba Lan có phong trào công nhân của Công Đoàn Đoàn Kết và Giáo hội Thiên Chúa Giáo. Tại Hungary là Diễn Đàn Dân Chủ (Democratic Forum). Ở Tiệp Khắc là Diễn Đàn Công Dân (Civic Forum). Tại Bulgaria người ta thành lập Liên Minh Lực Lượng Dân Chủ (Union of Democratic Forces) sau khi đảng Cộng sản tự xóa và đổi tên. Tại các nước vùng Baltic các nhà tranh đấu lập ra những mặt trận. Không thấy tên một đảng nào cả. Trái lại, tại các nước Nam Âu và Nam Mỹ, các đảng phái đã được thành lập, nhiều đảng có tên từ trước thời chế độ độc tài lên nắm quyền; và họ đã liên tục tranh đấu đòi tự do dân chủ một cách công khai hay bí mật. Tại Uruguay và Chile, các đảng phái chính trị đóng vai trò chính trong phong trào đòi dân chủ. Tướng Pinochet coi thường sức mạnh của các đảng chính trị, nhưng khi không ngờ 12 đảng chính trị đã biết đoàn kết và phối hợp với nhau, thành công trong cuộc vận động trưng cầu dân ý, kêu gọi dân Chile bác bỏ dự thảo hiến pháp của nhà độc tài quân phiệt. Ở Tây Ban Nha đảng Lao Động Xã Hội vẫn hoạt động bí mật, họp các đại hội ở nước ngoài, năm 1974 mới về nước. Đảng Xã Hội Nhân Dân cũng vậy. Một hành động gây chấn động của Thủ Tướng Suarez là ông trả tự do cho lãnh tụ đảng Cộng sản và hợp pháp hóa đảng này. Suarez đã hợp pháp hóa các đảng chính trị trước khi bẩu quốc hội để soạn hiến pháp mới. Ở Đài Loan và Nam Hàn cũng chính đảng chính trị vận động dân chủ hóa. Tình trạng các nước Cộng sản Đông Âu khác hẳn. Tại sao các nhà tranh đấu dân chủ tại các nước Cộng sản Đông Âu không lập đảng mà chỉ thúc đẩy các phong trào hay diễn đàn? Lý do giản dị là các đảng chính trị đã bị đàn áp và cấm đoán từ khi cộng sản cầm quyền. Nhưng còn một lý do quan trọng khác, là người ta muốn tránh dùng chữ “Đảng.” Trong các nước cộng sản này, nói tới Đảng là đã thấy một nghĩa xấu. Xấu như thế nào thì ai cũng biết rồi; ở nước ta cũng vậy. Nghe nói Đảng là người dân nghĩ đến một nhóm người chỉ lo bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đảng không đại diện cho thành phần nào trong dân chúng; trái lại còn tự coi mình có “thiên mệnh” đứng bên trên “lãnh đạo” cả guồng máy nhà nước lẫn xã hội bên ngoài (điều 4 trong Hiến Pháp Việt Nam). Do đó, những người tranh đấu cho dân chủ tại các nước Cộng sản Đông Âu không lập những “đảng khác.” Họ vận động đòi thi hành quyền chính đáng của các công dân. Họ nhân danh là những người có “quyền công dân,” muốn thực thi các quyền đó, muốn tham dự vào các việc chung của xã hội, mà lúc đó dân không được can dự. Họ đòi tái lập “xã hội công dân,” một hình thái sinh hoạt mà các chế độ toàn trị không chấp nhận. Các chế độ toàn trị muốn “bao biện” tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt trong xã hội; các công dân không có quyền tập họp riêng với nhau. Phong trào đòi dân chủ ở Đông Âu phát xuất từ xã hội công dân, khác với phong trào ở Nam Âu hay Nam Mỹ xuất hiện từ xã hội chính trị. Một phần cũng vì tại các nước độc tài không cộng sản (Nam Âu hay Nam Mỹ) xã hội công dân vẫn tồn tại. Các công dân vẫn còn được quyền tự do tham dự những tổ chức không do chính quyền kiểm soát. Các công đoàn, các giáo hội, những hội từ thiện không bị gom lại trong tay một thứ “Mặt Trận Tổ Quốc” như ở các nước cộng sản. Vì thế, họ không có nhu cầu phục hồi xã hội công dân như dưới các chế độ độc tài toàn trị. Việc xây dựng dân chủ ở bất cứ nước nào cũng đòi hỏi phải phục hoạt cả xã hội công dân lẫn xã hội chính trị. Tùy hoàn cảnh, mỗi nơi đã chọn một lãnh vực làm điểm khởi đầu buộc chế độ độc tài phải thay đổi. Việt Nam sẽ theo con đường nào thuận tiện nhất, nhanh chóng và hữu hiệu nhất, chắc anh chị em trong nước biết nhiều hơn những người sống bên ngoài. Nhưng muốn xây dựng chế độ dân chủ thì chắc chắn người dân phải có ý thức về quyền công dân của mình. Họ phải tập sống dân chủ ngay trong các tập hợp nhỏ do họ thành lập. Vì vậy, cần gây một phong trào đòi thực hiện quyền của các công dân được tự lập ra các hội đoàn của họ. Vì đã gọi là công dân thì người ta phải được thể hiện quyền tự do hội họp mà hiến pháp nước nào cũng công nhận; bắt đầu ngay với các hiệp hội phi chính trị. Các phong trào dân chủ ở Đông Âu trước năm 1989 đã làm công việc đó. Tất nhiên muốn xây dựng chế độ dân chủ thì phải tổ chức các đảng chính trị. Không có đảng phái thì không thể có dân chủ. Nhưng chắc chắn không nên học theo kinh nghiệm hoạt động của đảng Cộng sản Việt Nam. Trước tiên vì mục đích khác nhau. Đảng cộng sản lập ra với mục đích chiếm chính quyền, bằng bất cứ phương cách nào. Còn các đảng chính trị ngày nay phải theo đuổi mục đích khác: Cùng đóng góp vào việc xây dựng nền dân chủ cho dân tộc Việt Nam, qua các thủ tục bỏ phiếu tự do của toàn dân. Mỗi đảng đều muốn được dân tín nhiệm để cầm quyền rồi thi hành các chính sách của mình. Nhưng dù không thắng cử họ vẫn chấp nhận, tiếp tục tham dự vào “cuộc chơi dân chủ.” Từ bản chất, các đảng chính trị đã hay đang thành lập ở Việt Nam phải khác hẳn đảng cộng sản. Vì vậy, ngay từ đầu các đảng chính trị dân chủ phải hoạt động công khai, khác hẳn quá khứ bí mật, bưng bít, tối tăm của đảng cộng sản. Cho đến bây giờ họ vẫn giữ bản chất đó. Nếu các đảng chính trị dân chủ lại đi học tập kinh nghiệm của đảng cộng sản thì họ sẽ phản bội ngay lý tưởng xây dựng dân chủ mà người dân đang khao khát. Vì thế, trong bài trước chúng tôi đã báo động nếu ai cũng nghĩ như ông Hồ Ngọc Nhuận, qua lời lẽ ông viết trong bài Phá Xiềng, thì rất nguy hiểm. Đó không phải là cách suy nghĩ trong xã hội dân chủ. Như khi ông Hồ Ngọc Nhuận viết: “Các đảng chánh trị yêu nước,... đang ủng hộ các bạn (tức Đảng Dân Chủ Xã Hội).” Không một đảng chính trị dân chủ nào có thể muốn tất cả các “đảng chánh trị yêu nước” phải nhập vào với mình. Nói vậy là hàm ý đảng nào không ủng hộ mình tức là chưa biết yêu nước. Trong xã hội dân chủ không một đảng phái nào được phép tự coi mình độc quyền yêu nước, độc quyền cái thiện, cái đẹp. Mỗi đảng phải biết tôn trọng tư cách của các đảng khác. Các đảng hết sức cạnh tranh với nhau để được dân ủng hộ; nhưng tất cả cùng tôn trọng một luật chơi dân chủ, là không ai chiếm độc quyền. Những lời báo động này không nhắm vào cá nhân các ông Lê Hiếu Đằng hay Hồ Ngọc Nhuận, mà chỉ nhắm vào một thói quen suy nghĩ không thích hợp với tinh thần dân chủ. Việc tuyên bố công khai thành lập một đảng chính trị trong lúc này là một hành động can đảm đáng ngợi khen. Mọi người nên làm theo lối minh bạch, công khai như vậy. Nhưng trước khi xây dựng dân chủ chúng ta cần xác định sống dân chủ phải hành xử như thế nào. Những lời cảnh báo này chỉ mong giúp các bạn trẻ ở nước ta đang dấn thân tranh đấu đòi tự do dân chủ nhìn rõ hơn con đường trước mặt. Nếu ngay trong bước đầu đã đi sai thì sau đó việc xây dựng dân chủ sẽ khó khăn hơn nhiều. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Đất là sở hữu toàn dân: Tất cả đất đai là sở hữu của ĐCSVN

Trong phiên chất vấn của UB Thường vụ chiều 20/8, ông Bộ trưởng tài nguyên môi trường Nguyễn Minh Quang nói: “Các cấp chính quyền “vô cảm” với người khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết chỉ để hết trách nhiệm thì tình trạng khiếu kiện kéo dài sẽ không bao giờ chấm dứt. Do vậy trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại phải đặt mục tiêu giải quyết đúng pháp luật, có lý, có tình, có tâm, xóa bỏ tư duy về “hết thời hiệu, hết thẩm quyền” thì mới hạn chế và giảm các vụ việc phức tạp, kéo dài phát sinh”.   Phát ngôn của ông Quang chỉ mang tính lý thuyết chưa đề cập đến nguyên nhân chính của chính sách đất đai. Cha Giuse Đinh Hữu Thoại, trưởng văn phòng Công lý và Hòa Bình của Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn (DCCT) nhận định: “Theo tôi, câu trả lời của ông Nguyễn Minh Quang chỉ đúng một phần và đó chỉ là cái ngọn. Ông Quang không biết hoặc cố tình không biết nguyên nhân thật sự và gốc rễ của tình trạng này. Thứ nhất là chính các cấp chính quyền địa phương cấu kết với các chủ đầu tư và bao che nhau để cướp đất của dân. Hầu hết những vụ khiếu kiện đất đai là như vậy. Ngoài ra, nguyên nhân gốc rễ hơn nữa chính là luật đất đai sai lầm hiện nay, đó là qui định đất đai sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý. Mà nhà nước là ai? Đó chỉ là một nhóm tham quan cấu kết với nhau để tự cho mình cái quyền thu hồi đất, không vì lợi ích chung mà chỉ trục lợi cá nhân. Chính luật đất đai hiện nay tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển và tạo ra ngày càng nhiều dân oan. Rồi các qui định giải quyết khiếu kiện được soạn thảo nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho các cán bộ, tham quan chứ không nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân. Vì thế, không bao giờ dân oan được giải quyết thỏa đáng.”   Chính sách đất đai của nhà cầm quyền không phù hợp cộng với những tồn đọng trong quản lý trước đây, cùng với “lòng tham vô đáy” của một nhóm người – nhân danh quyền quản lý đất đai và cơ chế giải quyết khiếu nại không thể hiện công bằng, nghiêm minh… dẫn đến tình trạng có nhiều dân oan như hiện nay, điển hình như gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn đã nổ súng để tự vệ trước sự đàn áp cưỡng chế của nhà cầm quyền Hải Phòng; bà con dân oan Long An thà chết để giữ đất; vụ Văn Giang, vụ Dương Nội; cưỡng chế đất ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; hay bà con dân oan ở các tỉnh, thành phố như Bến Tre, Vũng Tàu, An Giang… ăn dầm nằm dề ở Phòng Thanh Tra Chính Phủ số 210 Võ Thị Sáu hoặc ở các cơ quan công quyền bao nhiêu năm trời ròng rã đi khiếu kiện nhưng chẳng có cấp nào giải quyết thỏa đáng. Do đó, “Nhà cầm quyền phải thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người dân. Đất đai của người dân đang sử dụng, nhà nước cải tạo, qui hoạch, đưa vào tập đoàn, thu hồi, giải tỏa, cưỡng chế… chắc chắn quá trình thực hiện phải có đúng, có sai. Hiện nay, luật qui định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước đại diện quyền sở hữu, định đoạt đối với đất đai…”, dùng quyền tuyên bố  “không xem xét lại đúng, sai nữa…”, không thừa nhận “khiếu nại, đòi lại đất nhà nước đã cấp cho người khác…” thì chắc chắn những người bị oan, bị sai phải khiếu nại. Muốn không “vô cảm” thì phải sửa luật. Thứ hai, nhà nước đã từng tuyên bố chủ trương sau giải tỏa phải đảm bảo đời sống tốt hơn cho người bị giải tỏa. Nhưng thực tế không được như vậy. Sau giải tỏa, tiền đền bù cho người dân, không đủ để mua lại một nền nhà ngay trên đất của mình, được phân lô thành hàng chục, hàng trăm nền nhà. Đã có trường hợp, nhà cầm quyền lấy đất của dân mấy chục ngàn mét vuông đất nhưng giao lại cho họ chỉ có 700 m2 (có thu tiền) và kết luận là “có lý, có tình”. Quan trọng là lý, tình này là của ai đặt ra? Ông tự ra “lý”, ông tự đặt “tình”, rồi ông tự kết luận “có lý, có tình”… Hoặc có trường hợp Uỷ ban trả lời với người dân đi khiếu kiện đất đai như sau: “Đất sau giải tỏa có giá là do cải tạo, qui hoạch…nên đừng so sánh”. Vấn đề là đất của tôi đâu cần ai qui hoạch, cải tạo… thế nhưng nhà cầm quyền lại tùy tiện qui hoạch, cải tạo, đền bù theo giá đất nông nghiệp rẻ mạt, phân lô bán theo đất nền làm giàu, còn người dân thì chịu lỗ và chịu khổ. Thứ ba, khi người dân đi khiếu nại thì “hết thời hiệu thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại”… Chưa kể nhà cầm quyền sẵn sàng chụp lên đầu người dân các mũ “gây rối trật tự công cộng, chống phá nhà nước, lợi dụng quyền dân chủ… Để biết “khiếu nại có dịu đi” hay không, đề nghị Ông Bộ trưởng trực tiếp đặt lịch, công bố công khai ngày giờ vi hành từng Tỉnh tiếp dân… Lúc đó hãy tuyên bố!”. Một luật sư sống ở Sàigòn nhận xét. Theo báo cáo của Mạng lưới Nhân quyền VN năm 2012 về truất hữu ruộng đất và dân oan, viết: “Việc tước đoạt quyền sở hữu của người dân đã và đang gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng tác hại đến cuộc sống của người dân Việt Nam. Ngoài việc làm tăng thêm đội quân thất nghiệp trong nước và tạo ra hàng triệu “dân oan”, chính sách tước đoạt quyền sở hữu đất đai của người dân đã và đang đẩy “dân oan” vào đường cùng với cuộc sống vô cùng khốn khổ. Nhiều người mất nhà cửa, ruộng đất đã trở thành vô gia cư. Những “dân oan” vô gia cư tiếp tục đi khiếu kiện một cách vô vọng từ năm này qua năm khác. Theo báo cáo của chính phủ, trong năm 2012 số khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, bao gồm khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án; khiếu nại tranh chấp đất đai; khiếu nại đòi lại đất cũ… chiếm 74,7% tổng số đơn khiếu nại.”   Người dân oan đã nghèo khổ, cùng cực và túng bấn nhưng vẫn phải nai lưng ra đóng thuế, để nuôi các đảng viên là những người thực hiện công quyền, thế nhưng các cán bộ đã cấu kết với các doanh nghiệp bóc lột và cưỡng chế đất đai – miếng cơm manh áo và xương máu của dân oan. Đồng thời, người dân VN chưa hiểu quyền con người bởi họ sống trong một cơ chế ban phát, xin – cho, ơn đảng và nhà nước trong suốt hơn 38 năm qua. Luật sư Sàigòn cho biết: “Khó khăn nhất hiện nay là bà con đa phần nghèo, ít hiểu biết về luật pháp, dẫn đến không xác định được vụ việc của họ đúng sai thế nào? Quyền và nghĩa vụ của họ và của cơ quan giải quyết… Còn cơ quan giải quyết thì “vô cảm”, “máy móc”, cấp trên “chuyển đơn, yêu cầu giải quyết, yêu cầu báo cáo…” xong rồi thôi. Có vụ Thanh tra chính phủ, thậm chí Thủ tướng “yêu cầu…” hai lượt, ba lần, vài ba năm sau… chán rồi thôi. Dân oan vẫn còn đó đi khiếu nại. Cần có người thực sự am hiểu pháp luật, tận tâm hướng dẫn bà con… nhưng những người như vậy – nếu có – thường được tặng mũ “kích động người dân khiếu nại” và bước gần hơn đến tội “lợi dụng quyền dân chủ” hay được vào Bệnh viện Tâm thần chữa trị.” Đất đai của các tôn giáo nói chung và DCCT nói riêng bị nhà cầm quyền cướp một cách trắng trợn và các vị chức sắc DCCT nghiễm nhiên trở thành dân oan đi khiếu kiện trong suốt nhiều năm qua. Cha Thoại cho biết: “Đất đai, tài sản của tôn giáo, của GHCG nói chung và của DCCT nói riêng còn bị oan sai nhiều hơn nữa. Đất đai của dân ít ra còn được bồi thường, tuy với giá rẻ mạt. Nhưng đất đai và tài sản tôn giáo thì bị 2 dạng: cướp chiếm trực tiếp và mượn xong rồi cướp (không trả). Tệ hại hơn nữa là chính sách nhất quán, triệt để tiêu diệt tôn giáo của nhà cầm quyền cộng sản còn qui định không coi các tổ chức tôn giáo là một pháp nhân. Luật pháp VN hiện nay không cho tôn giáo đứng tên bất cứ tài sản nào, nhất là tài sản về đất đai và nhà trên đất. Họ không cho tôn giáo được đứng ra nhận chuyển nhượng, tặng cho, hay di chúc và các tổ chức tôn giáo cũng không được chuyển nhượng (bán) đất hay nhà của mình. Nói chung, VN là một quốc gia có luật pháp “rừng rú” nhất trên thế giới, vì luật pháp ấy không phục vụ dân mà chỉ nhằm phục vụ kẻ cầm quyền.” Trong bài viết của RFA với tựa đề Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản, Luật gia Lê Hiếu Đằng, người từng trải qua kinh nghiệm với đảng cộng sản suốt mấy mươi năm đã phát biểu: “Trước kia nông dân nghe theo Đảng để mong có ruộng đất. Cái chuyện nông dân ly tán, khổ đau vì mất đất là do đâu? Là do cái quy định đất đai là sở hữu toàn dân!”.   “Sở hữu toàn dân” chỉ là một cách nói lừa bịp để che đậy thực chất: Tất cả đất đai trong nước là sở hữu của ĐCSVN.” Báo cáo của Mạng lưới Nhân Quyền VN năm 2012 khẳng định. Huyền Trang, VRN nguồn: http://www.chuacuuthe.com
......

Mẫu mực chống tham nhũng sắp áp dụng tại Việt Nam

Cuối năm 2012, khi lên nhậm chức Tổng Bí Thư kiêm Chủ tịch nhà nước Trung quốc, ông Tập Cận Bình cũng đã tuyên bố như bao nhiêu vị tiền nhiệm của mình là phải triệt để phòng chống tham nhũng. Hiển nhiên, dưới các chế độ Cộng sản độc tài, lãnh đạo ở thượng tầng dù không làm theo những gì mình tuyên bố thì cũng chẳng ai dám bắt bẻ, cũng như trong hậu trường ông Tập Cận Bình còn bộc bạch rằng hiện nay chống tham nhũng chỉ như "quậy nồi canh đang sôi cho khỏi trào thôi" chứ không làm gì hơn được. Tuy nhiên, trên mặt trận tuyên truyền, lãnh đạo vẫn phải làm một vài chuyện gì đó, đủ để báo đài ca ngợi là "dám nói, dám làm". Theo các nhà hoạt động xã hội ở Hoa lục thì đã 8 tháng qua, không có một vụ tham nhũng, hối lộ nổi cộm nào được báo đài loan tin. Họ giải thích thêm rằng chẳng phải vì thành phần đang nắm chức quyền quá sợ ông Tổng bí thư mới đến độ ngưng lập tức mọi mối làm ăn phi pháp, mọi mạng lưới tham nhũng, mà PHẢI HIỂU NGƯỢC LẠI. Theo giới quan sát này, ông Tập Cận Bình đang sợ đủ loại phe nhóm theo ban ngành, theo từng địa phương, theo từng thành viên Bộ chính trị, theo khuynh hướng tư tưởng chính trị tả hay hữu, v.v... và không dám đụng đến "lãnh thổ làm ăn" của các phe khi cái ghế của ông còn quá mới. Hơn thế nữa, chính ông Tập và gia đình cũng đang nắm nhiều tài sản mà không sao giải thích được bằng số tiền lương của một người "suốt đời cống hiến cho đảng, cho nước". Trong lúc báo chí phương Tây có vẻ trầm trồ về việc ông Tập Cận Bình ra tay "đập tham nhũng" rất sớm sau ngày lên ngôi chứ không chờ vài năm sau như ông Hồ Cẩm Đào, thì giới trí thức Trung Quốc hiểu rất rõ lý do. Chính việc ra tay sớm đó là một bằng chứng nữa cho thấy đợt "đập tham nhũng" này chỉ mang tính hình thức. Điều tiên đoán này đã được ông Tập nói huỵch toẹt ra trong Đại hội cán bộ cao cấp bị thu lén và tung ra mạng Internet. Ngay cả đối với con dê Bạc Hy Lai bị Ôn Gia Bảo đưa ra tế thần, nhiều nguồn tin từ đất Trung Quốc cũng cho thấy ông Tập đã mặc cả xong với phe ủng hộ họ Bạc. Sẽ không có chuyện tử hình hay chung thân gì cả đối với ông Bạc mà chỉ một tội nhẹ để phạt cho có là xong. Đi xa hơn thế nữa, ông Tập còn hứa hẹn là sẽ dùng lại nhiều chính sách của Mao Trạch Đông mà cánh Bạc Hy Lai chủ trương. Việc ông Tập đến tận Vũ Hán để thăm ngôi biệt thự ven hồ của ông Mao và tuyên bố sẽ biến nó thành trung tâm giáo dục thanh niên về lòng yêu nước, yêu cách mạng, đã làm phe khuynh tả nói chung và cánh ủng hộ ông Bạc rất hoan hỉ. Một cách giải quyết nữa của họ Tập là khuyến khích các quan chức có tai tiếng hãy "hạ cánh an toàn" ở nước ngoài. Trong chiều hướng đó, vào ngày 14 tháng 8 vừa qua, tờ Nhân Dân của đảng Cộng sản Trung quốc đăng tin chính quyền tỉnh Quảng Tây đã không còn biết ông Vương Nhạn Uy, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung quốc (một tổ chức giống như Mặt trận Tổ quốc của nhà nước CSVN) bây giờ ở đâu. Bài báo cũng nói thêm, ngoài ông Vương ra còn có thêm hai quan chức khác tại tỉnh Hồ Nam cũng biệt vô âm tín. Tờ Nhân Dân không tiết lộ nguồn tin nhưng lại khẳng định cả ba quan chức đó đã bỏ trốn ra nước ngoài. Nếu cộng thêm ba quan chức này thì trong 5 năm qua đã có trên 6.220 cán bộ cấp cao bỏ trốn ra nước ngoài. Theo điều tra của Viện Xã hội & Khoa học Trung quốc (tức chính học viện của nhà nước) thì từ năm 1990 đến giữa năm 2013 đã có từ 16 ngàn đến 18 ngàn cán bộ, quan chức cấp cao tại các bộ, ban, ngành và các xí nghiệp quốc doanh đã bỏ trốn ra nước ngoài cùng với tài sản của mình. Số tài sản này, theo Viện XH&KH (mà dù nhiều người tin rằng nhỏ hơn nhiều con số thực) trên 800 tỷ nhân dân tệ. Hiện nay, chỉ có tờ Nam Phương nhật báo dám chỉ trích chính quyền tỉnh Quảng Tây và tỉnh Hồ Nam thiếu trách nhiệm trong việc phòng chống tham nhũng. Điều khá lộ liễu là tờ báo Nam Phương nhật báo mà còn biết ông Vũ Nhạn Uy hiện đang "chữa bệnh ở Úc" nhưng giới lãnh đạo tỉnh Quảng Tây, Bộ Công An Bắc Kinh, và Ủy ban Phòng chống tham nhũng trung ương không biết ông Vương ở đâu. Tờ Nam Phương còn cho biết cuối tháng 6/2013, ông Vương đã nạp đơn xin từ chức để sang Úc chữa bệnh. Hai quan chức ở tỉnh Hồ Nam cũng xin từ chức với lý do như ông Vương. Cả ba đơn từ chức đều được chính quyền Quảng Tây và Hồ Nam chấp thuận. Do đó, việc ra đi - hay "bỏ trốn" - này rõ ràng được sự đồng ý và biết trước của cấp trên. Và đây chỉ là 1 thí dụ cho chính sách "phòng chống tham nhũng" của Tập Cận Bình. Theo giới theo dõi tình hình xã hội, chính trị Trung quốc, việc một quan chức ở Hoa lục từ cấp Phó trưởng ty trở lên có trương mục ngân hàng ở các nước ngoài đã quá bình thường. Ai không có mới là chuyện bất thường và bị đồng nghiệp cho là đóng kịch. Hầu hết cũng đã lo xong từ lâu cho vài đứa con hoặc thân nhân ruột thịt quản lý tài sản của họ ở nước ngoài. Ba quan chức vừa mới "bỏ trốn" chắc chắn không là ngoại lệ. Và sau hết trong chính sách Phòng Chống Tham Nhũng của cả Hồ Cẩm Đào lẫn Tập Cận Bình là không phạt quá nặng để tránh oán hận trong nội bộ (không khác gì tuyên bố thành lời của TBT Nguyễn Phú Trọng). Theo luật hiện hành của Trung quốc, quan chức nào có hành vi hối lộ, biển thủ ngân quỹ nhà nước từ 100 triệu đồng nguyên trở lên sẽ phải chịu mức án tử hình. Năm 2011, một cán bộ Tài chánh tỉnh Giang Tây thụt két 100 triệu đồng nguyên rồi bỏ trốn sang Singapore. Khi cán bộ này bị bắt và dẫn độ về Trung quốc, ông ta bị xử án 15 tháng tù. Trường hợp mới đây nhất là ông Lưu Chí Quân, cựu Bộ trưởng Đường sắt Trung quốc bị án tử hình vì nhiều vụ hối lộ tổng cộng trên 130 triệu mỹ kim. Ông Lưu bị án tử hình nhưng lại là án treo vì "đã có công đóng góp và xây dựng Đảng". Nói tóm lại, cho đến nay chưa có một quan chức lớn nào bị xử bắn vì tội tham nhũng, hối lộ theo luật định. Nếu vẫn dùng công thức: Chuyện Trung Quốc cộng 9 tháng thành chuyện Việt Nam, thì Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung ương đang chuẩn bị hộ chiếu và giấy thông hành cho nhiều quan chức "đi chữa bệnh" trong năm 2014, kể cả cho các thành viên của hai ban.
......

Đảng của những người bỏ Đảng

Đảng bịnh nặng lắm rồi. Hai vị đứng đầu của đảng là bác Tư Sang và bác Trọng Lú đã công khai công nhận điều đói. Nhiều bịnh lắm nhưng bịnh có tính quyết định cho sự sống còn của đảng là bịnh tham nhũng. Ở đây xin đi lạc đề để bàn chữ “lú” một tí chứ có người chưa biết chuyện lại hiểu nhầm ý tốt của tôi. Gắn chữ lú vào bên cạnh tên bác Trọng, theo như bài báo chính thức trên lề đảng là tỏ ý ca tụng bác là người cực kỳ trong sạch chứ không phải chê bai bác là lú lẫn. Theo bài báo ấy vì bác quá sức trong sạch, trong sạch một cách kỳ lạ, dân gian không còn từ gì để ngợi ca nên phải sáng tạo ra từ mới là "lú" để dùng. Lú nầy đồng âm với lú kia nhưng dị nghĩa. Qua đó thấy rằng bác Trọng rất rất trong sạch. Bác Tư cũng được xem là trong sạch. Hai bác đều trong sạch nên rất mạnh khỏe. Mạnh khỏe nên chưa nhóm bịnh dù đang sống trong một môi trường rất bịnh. Do vậy không còn ai xứng đáng hơn hai bác ấy trong việc đứng lên phất cao ngọn cờ chống bịnh, đặc biệt là bịnh tham, là căn bịnh trầm kha đang đến hồi phát tác khủng khiếp. Ông Lê Hiếu Đằng trong lần tham gia biểu tình với các bạn trẻ Hai bác ấy rất có tâm, có lòng với đảng, rất nhiệt tình lo chữa trị cho đảng nhưng khổ nỗi hai bác ấy lại dùng các phương thuốc quá cũ để chữa trị. Cái bịnh tham bây giờ nó biện chứng phát triển đến mức siêu việt theo sự phát triển của thời đại rồi. Mỗi lần nó ăn là ăn đến hàng trăm, hàng ngàn tỉ. Và cách ăn của nó cũng rất ...công khai minh bạch. Ăn qua chính sách, ăn qua cách ra nghị định và thông tư, ăn qua dự án, ăn qua nhóm lợi ích, ăn qua các công ty sân sau, ăn qua các ngân hang, ăn qua đấu thầu công khai…nghĩa là có muôn trùng cách ăn và ăn rất dễ dàng là nhờ vào chính cơ chế vận hành để sinh tồn của đảng. Vậy mà hai bác trong sạch lại dung liều thuốc phê và tự phê, là cái bài thuốc của ông lang Mao du nhập vào VN cách đây hơn nửa thế kỷ chỉ dùng để bôi ngoài da cho các vết lở gây ra bởi bệnh tham lúc còn sơ khai cho đỡ ngứa tạm thời chứ không dứt được căn nguyên. Ngay với cái bệnh tham thời sơ khai chỉ ăn vài cân thóc, vài lạng thịt, vài tờ tem phiếu thì liều thuốc ấy cũng không chữa dứt được, huống chi là chữa cái bịnh tham đã tiến hóa lên đến mức siêu việt như ngày nay cùng những biến chứng tinh vi của nó. Để chữa bịnh tham, thế giới đã có bài thuốc mà hầu hết quốc gia tiên tiến đang sử dụng rất hiệu nghiệm. Một nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, một xã hội dân sự, một nền kinh tế thị trường minh bạch là thang thuốc cực tốt để đẩy lùi bịnh tham. Thật ra bác Lê Hiếu Đằng không phải là một thang thuốc, nhưng những bước đi của bác đang cùng mọi người góp phần đấu tranh cho sự hình thành một thang thuốc hiện đại để chữa bịnh cho cả quốc gia. Từ lâu, nhiều đảng viên đã nhìn thấy căn bịnh của đảng đang phát tác và lây lan khắp nơi nên tự cứu mình bằng cách bỏ đảng chạy ra ngoài. Số lượng đảng viên bỏ đảng chưa có thống kê chính thức, nhưng tính từ năm 75  nghe đồn cứ lai rai gộp lai đến bây giờ cũng ra một con số không nhỏ. Hiện nay theo như bác Đằng nói thì có khá nhiều người đang muốn ra và dường như họ muốn rũ rê nhau cùng công khai tuyên bố ra một lúc vào một ngày đẹp trời nào đó. Hai ông Huỳnh Nhật Tấn và Huỳnh Nhật Hải là hai đảng viên bỏ đảng rất sớm Ra rồi thì có thể cứu được bản thân mình. Nhưng còn đảng và dân chúng thì sao. Căn bịnh của đảng không chỉ lây lan trong đảng mà còn di căn ra ngoài xã hội. Xã hội hiện nay cũng bịnh quá rồi. Đâm, chém, cướp, hiếp, lừa đảo, mại dâm, ma túy... tràn lan khắp nơi. Các bác ra khỏi đảng nhưng còn thấy mình có trách nhiệm với đảng và quan trọng là với xã hội và đất nước. Phải chăng vì vậy mà các bác ấy muốn làm cái gì đó để cứu đảng, cứu nước, cứu dân? Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, những năm cuối cùng của chế độ cộng sản Xô Viết, một nhà văn nào đó của Liên Xô dấy lên chuyện lập đảng cho những người không đảng. Tôi không còn nhớ rõ, đại khái ông nói rằng đất nước Xô Viết với hơn 400 triệu dân mà chỉ có một đảng dành riêng cho 20 triệu đảng viên vì vậy nên có một đảng dành cho những người không đảng còn lại để nhằm vào mục tiêu cứu nước Liên Xô vĩ đại. Nhưng đảng ấy chưa kịp lập ra thì chế độ Xô Viết đã ngã ra đột tử vì bịnh đã quá nặng, hết phương cứu chữa. Bây giờ thì bác Đằng và bác Nhuận hô hào lập đảng từ những người bỏ đảng. Khi chuyện nầy nổ ra đã tạo nên những phản ứng đa chiều trong dư luận. Ủng hộ, công kích, nghi ngờ…thôi thì đủ kiểu suy diễn. Có vài chiều ý kiến từ chính những người đã bỏ đảng hoặc chuẩn bị bỏ đảng đã thu hút sự chú ý của nhiều người. Theo một luồng ý kiến thì thời cơ chưa chín mùi để ra đời một cái đảng như vậy (nhưng không biết khi nào thì chin mùi?). Một luồng ý kiến khác thì cho rằng liệu pháp của hai bác Đằng- Nhuận là quá sốc đối với một cơ thể đã quá già nua và đang bịnh nặng. Gộp từ hai luồng ý kiến đó đã phát sinh ra một luồng ý kiến nữa là nên chăng đưa ra một liệu pháp ít sốc hơn là thay vì lập đảng thì lập một phong trào rộng rãi gì đó để vận động nhiều người tham gia để cùng nhau cứu nước, cứu dân. Theo Hiến Pháp thì mọi công dân đều có quyền tự do lập đảng, lập hội, lập nhóm. Tuy nhiên từ sau năm 75 đến nay chỉ thấy hai đảng chính trị hợp pháp là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội bị giải tán chứ chưa thấy một tổ chức chính trị nào có đường lối độc lập với đường lối của đảng CSVN được ra đời hợp pháp. Nhiều tổ chức nhen nhóm ra đời đã nhanh chóng bị dập tắt. Từ đảng Dân Chủ phục hoạt của cụ Hoàng Minh Chính đến nhóm 8406... thậm chí đến một câu lạc bộ ngành nghề như câu lạc bộ Báo chí Tự do cũng không thể nào được phép hoạt động và những người khởi xướng là Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Anh Ba Sài Gòn đều đang bị nằm tù như mọi người đã biết. Từ đó dư luận không tin rằng tổ chức chính trị mà hai bác Đằng- Nhuận hô hào khởi xướng sẽ ra đời được. Tuy nhiên cũng có một luồng dư luận nhỏ hơn cho rằng, tình hình đang càng ngày càng thuận lợi, có vài tín hiệu cho thấy đã đến lúc phải tỏ ra cởi mở và thay đổi. Miến Điện đã làm được và không gây ra xáo trộn gì, sự xuất hiện của phe đối lập không những không làm cho phe cầm quyền ngã lăn ra đột tử mà còn làm cho họ tăng thêm uy tín trong dân và dưới mắt bạn bè thế giới. Miến Điện làm được thì lý gì Việt Nam anh hùng tài giõi hơn lại không làm được. Nhưng dù cho đảng của những người bỏ đảng ấy không lập ra được vì lý do nào đó thì tiếng hô hào của họ cũng giúp đánh tan được phần nào nỗi sợ hãi đang bao trùm, cũng là góp tiếp những bước đi cho sự hình thành xã hội dân sự. Nguồn: blog Huỳnh Ngọc Chênh
......

Các Giáo Sư Trường ĐHCNTP Sài Gòn Nói Gì Khi Phương Uyên Về Lại Trường Xưa?

Trong lúc chỉ sau 6 ngày sau khi P.U bị bắt cóc đã có hàng trăm SV bạn bè của P.Uyên bức xúc viết lời nỉ non, cầu cứu đến chủ tịch nước. Tuy kết quả chỉ là sự im lặng lạnh lùng từ chính quyền nhưng tấm lòng của các SV kia là đáng trân trọng. Là những bậc "Sư" đứng trên cả cha mẹ mà hoàn toàn vô cảm, và còn có một số "Sư" lại cam tâm đứng về phía tà quyền cùng nhau trấn áp, gây áp lực cho các học trò thương yêu của mình phải làm những việc tang tận lương tâm... Dân gian thường nói "Cười thầm dễ ở. Hổ ngươi thầm biết thuở nào nguôi?". Đó là lời của dân gian VN ta mà đa phần là ở tầng lớp nông dân nghèo, dân trí thấp nhưng luôn có lòng tự trọng cao và xác định nghèo chứ không hèn nên mới có câu trên truyền khẩu qua bao đời trong xã hội. Xã hội VN từ khi có "đảng quang vinh" thấm nhuần tư tưởng và đạo đức HCM mà từ đứa bé khi mới tập nói đến người già đều phải học và học mãi... Cái đạo đức ấy là những chương đầu trong mọi giáo án mà các vị thầy cô khi bước lên bục giảng ở mọi mái trường XHCNVN đều thuộc nằm lòng và thời gian trôi qua các thầy cô còn sáng tạo thêm, sơn phết thêm cho cái đạo đức ấy được sáng ngời mà gieo vào lòng bao thế hệ ấu thơ cùng thanh niên tuổi trẻ VN. Nhớ lại hơn 10 tháng trước tại khung trời trường ĐHCNTP Sài Gòn, một cô bé SV Phương Uyên 20 tuổi, vừa mới rời vòng tay mẹ không lâu nơi quê nghèo miền Trung quanh năm gió cát... như một con chim non vừa rời tổ băng mình vào khoảng trời xanh cùng bạn bè trang lứa để học hỏi với ước vọng "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời!" và trước mắt là những tấm gương của các vị Giáo Sư nơi mái trường ấy thật vô cùng to lớn... Bao ước mơ, hoài bão mà P.Uyên và các bạn đều kỳ vọng vào cái tâm và cái tầm của các vị GS này. Ngoài học tập, trau giồi kiến thức để làm vốn quí góp phần xây dựng quê hương ra... cô SV P.Uyên còn có một tầm nhìn xa trông rộng nhất là trên phương diện tồn vong của đất nước. Thấy được thế nước tình nhà và mối nguy cho dân tộc mà bao lớp trẻ và kể cả những bậc đàn anh, đàn chị cũng ít có mấy ai đồng cảm và chung một hướng nhìn. Thế là P.Uyên lao về phía trước và "Quyết đem thân thế hẹn cùng nước non..." nội dung này tôi không viết ra nơi đây nữa, vì cả hơn 90 triệu dân VN và nhiều dân tộc, Quốc Gia trên thế giới đều đã rõ. Nơi đây tôi chỉ tái hiện lại các sự kiện và những hình ảnh cùng những nỗi niềm nơi ngôi trường mà P.Uyên theo học để chúng ta chuẩn bị tiếp nhận những hình ảnh cũng tại nơi này trong nay mai khi P.Uyên về lại trường xưa. Những ngày giữa tháng 10 năm ngoái (2012) trước sự dũng cảm của Nguyễn Phương Uyên, một cô SV vừa tròn 20 tuổi thẳng thắn nói lên sự bức xúc của mình trước sự mất còn của Tổ Quốc, ghét bọn xâm lược, hận bè lũ tham nhũng làm lũng đoạn Quốc Gia. Chính vì trái tim yêu nước nồng nàn với tấm lòng trong sáng, tinh khôi không vướng bận một chút hồng trần... không vì một mục đích riêng tư, hạ đẳng như những tập đoàn nô dịch chính trị, tay sai bán nước. P.Uyên lao về phía trước bởi sự ray rức, trăn trở cho tương lai dân tộc cùng một niềm tin và góp phần điểm tô cho xã hội được trong sáng tươi đẹp hơn. Đối kháng lại hành động cao cả, phi thường của một cô gái tuổi 20... ngoài cả sự tưởng tượng của tập đoàn bán nước. Từ đó cả một guồng máy bạo tàn phải lúng túng, hốt hoảng và bộc lộ rõ tính côn đồ ngay trong những ngày tháng 10/2012 mà nơi đây tôi không cần nhắc lại. Duy chỉ có cái hèn mà không có một cái hèn nào hơn khi nó lại được sinh ra trong môi trường "Giáo dục", nơi mà đạo đức HCM là kim chỉ nam dẫn lối đưa đường... Trước sự kiện cô SV P.Uyên bị bắt cóc thì cả một bầy đoàn gồm thành đoàn TNCSHCM, phòng công tác SVĐHCNTP, GS Trưởng khoa CNTP, các bí thư đoàn trường, đoàn khoa và một số GS đang giảng dạy tại nơi đây đã đến tận lớp rêu rao, xuyên tạc bôi nhọ P.Uyên để đánh tráo hành động đốn mạt hạ cấp của mình. Bầy đoàn này còn bẩn thỉu, hạ đẳng hơn là gây áp lực lên đầu những SV tuổi trẻ còn mài quần trên ghế nhà trường, còn đang ăn học, trau giồi đạo đức làm người-đạo đức HCM-phải dối trá, nói ngược phản bội lại chính trái tim mình! Các vị ép buộc các em viết bản cam kết là không ký tên vào đơn gởi lên chủ tịch nước khẩn thiết, kêu cứu cho P.Uyên - Vì khi P.Uyên bị bắt cóc là cả hàng trăm SV bạn bè cùng khoa, cùng trường với P.Uyên đã làm đơn kêu cứu đệ lên chủ tịch nước Trương tấn Sang, bởi trước đó cũng trong tháng 10/2012 chính Chủ Tịch T.T.Sang đã vi hành về Sài Gòn kêu gọi, hô hào bà con cương quyết bài trừ tham nhũng, bắt sâu trừ hại cho bá tánh đồng thời ông sẽ quan tâm và có hành động trong vấn đề biển đảo trên Biển Đông... và P.Uyên đã làm theo những gì ngài C.Tịch T.T.Sang cỗ võ để rồi mang họa vào thân, chịu cảnh bị bắt cóc lôi đi giữa ban ngày ban mặt, trước bạn bè, bà con lối xóm trọ học một cách công khai như phường thảo khấu lục lâm. Chưa dừng lại nơi đó, tập đoàn thầy cô giáo cùng các thành phần kể trên của trường còn đe dọa đến việc học hành, đe dọa cho tương lai... đánh đổ cơm áo, gạo tiền, mồ hôi xương máu của cha mẹ liệu các em SV, những con chim non, những con nai vàng ngơ ngác kia có được đứng vững? trong khi hầu hết các em đều thiếu căn bản ý thức chính trị, thiếu tầm nhận rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trước giang sơn, dân tộc. Hàng trăm chữ ký trong đơn của các SV gởi cho C.Tịch T.T.Sang là giả mạo? Lúc đó các vị diễn trò áp bức các SV tuổi trẻ mầm non của Tổ Quốc phải làm những điều xấu xa, phản bội lại mình là một trò hề hạ đẳng, có phải chăng đó là cái tầm của học hàm, học vị và nền đạo đức mà các vị đang rao giảng? Nơi đây, các vị gọi là trí thức VN thời CS đã tự phơi bày cho toàn nhân loại nhận rõ hơn bản chất của chế độ CSVN mà thôi. Nếu trong màn kịch lố bịch, khả ố đó quí vị có đạt được những bản cam kết dối trá bắt buộc trên thì trong thâm tâm, trong tiềm thức của các em SV cũng có một cái nhìn và đánh giá các vị là bậc thầy cô như thế nào? Khinh bỉ hay tôn kính? trong khi các em không thể làm khác hơn được trước áp lực đồi bại, nham hiểm phủ lên đầu? Đối với cả hệ thống tập đoàn CSVN thì ai cũng rõ. Riêng với các vị là GS mà các em SV tôn vinh là thầy cô thì hôm nay các vị nghĩ gì khi P.Uyên về lại mái trường xưa? Các vị sẽ nói gì với tính cách là tấm gương sáng? là khuôn vàng thước ngọc để các em noi theo? Là hình ảnh những vị thầy, những nhà mô phạm? và đang truyền dạy đạo đức cho các em? Đứng đầu của đạo đức là tính trung thực và lòng yêu nước! Thời gian qua các vị đã dạy cho các em sự phản bội, tính dối gian! Trở xuôi làm ngược... dạy cho các em phản quốc, đồng lõa với ngoại xâm, nội thù! Những việc làm táng tận lương tâm, đi ngược với trí thức mô phạm đó có phải chăng vì chén cơm nồi gạo? Với khả năng về trí lực của các thầy cô, quí vị không thể tạo ra chén cơm manh áo bình thường mà trong sạch, thanh cao được sao? Tấm gương của các nhà giáo như Chu văn An, Võ trường Toản... quí vị đã đập vỡ rồi chăng? Những thứ vật chất tầm thường đó trong xã hội ai cũng có thể tìm ra được thế thì tại sao quí thầy cô lại đi đánh đổi cả một hình ảnh cao đẹp, là thần tượng của tuổi trẻ và của mọi người? Quí thầy có còn nhớ cố Thủ Tướng CSVN P.V.Đồng đã nói "Nghề giáo là một nghề cao quí nhất trong những nghề cao quí!" không? Bất cứ trong một xã hội nào cũng "Tôn sư trọng đạo" cả, chỉ có ở những nơi ít người nhiều ma mới không có mà thôi. Với những việc làm vô đạo đức và vô cảm của thầy cô đối với cô học trò bé nhỏ yêu nước thương đồng bào, bức xúc cho biên cương biển đảo của mình thật đáng chê trách chứ chưa nói đến sự rẻ khinh. Trong lúc chỉ sau 6 ngày (sau khi P.U bị bắt cóc) từ 14/10/2012 đến 20/10/2012 là đã có hàng trăm SV bạn bè của P.Uyên bức xúc viết lời nỉ non, cầu cứu đến chủ tịch nước tuy kết quả chỉ là sự im lặng lạnh lùng từ chính quyền nhưng tấm lòng của các SV kia là đáng trân trọng. Là những bậc "Sư" đứng trên cả cha mẹ - trong xã hội phong kiến-mà hoàn toàn vô cảm và còn có một số "Sư" lại cam tâm đứng về phía tà quyền cùng nhau trấn áp, gây áp lực cho các học trò thương yêu của mình phải làm những việc tang tận lương tâm. Các thầy cô đó tôi thiết nghĩ không còn xứng đáng, không còn đủ tư cách để đứng trên bục giảng nữa vì trong tầm mắt của các em quí vị thật đáng khinh. Quí vị đã đánh đổi nhân phẩm cao đẹp của mình cho một mục đích rất ư là tầm thường và phi lý, nhất là nay mai đây khi P.Uyên trở lại chốn xưa thì những hình ảnh đó lại tái hiện về trong tầm mắt của các em. Hình ảnh các thầy cô đó có còn là một màu thủy tinh trong suốt? Thật là "Cười thầm dễ ở-Hổ ngươi thầm biết thuở nào nguôi???" phải không các thầy cô? Sự nghiệp của các thầy cô chắc phải trôi theo cùng chế độ trong một ngày không xa.   Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
......

Áp lực nào buộc CSVN phải thả Phương Uyên?

Qua nay, bên cạnh niềm vui trong lòng mọi người yêu mến Phương Uyên, việc CSVN thả cô bé 21 tuổi này cũng đã tạo nhiều tranh luận giống như khi em bị chế độ CSVN giáng xuống cuộc đời non trẻ một bản án nặng nề hồi giữa tháng Năm. Có quan điểm cho rằng Phương Uyên chỉ là một “món hàng” trả giá giữa Mỹ và CSVN về Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership); có lý luận cho rằng việc thả Phương Uyên là dấu hiệu cho thấy phe thân tây phương đang mạnh hơn trong nội bộ lãnh đạo CSVN; có phân tích cho rằng giới lãnh đạo CSVN nhận ra họ đã phạm sai lầm chính trị khi giáng xuống đời một cô gái chỉ ngoài 20 tuổi bản án 6 năm tù lần trước nên nay phải sửa sai. Các lý luận đó không những chứng tỏ sự thiếu tự tin, tinh thần lệ thuộc vào ngoại bang mà còn phạm phải sai lầm căn bản là không xác định được vai trò chủ động của các thành phần dân tộc trong con đường tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam. Áp lực chính buộc nhà cầm quyền CSVN thả Phương Uyên phát xuất từ cuộc đấu tranh bền bĩ, đa dạng, tích cực và nhiệt tình của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thế hệ Việt Nam trong nước và ngoài nước. Chính những bạn trẻ trong nước thức đêm viết từng tờ biểu ngữ, in từng tờ truyền đơn, vẻ hình Phương Uyên và Nguyên Kha trên từng chiếc áo đã góp phần làm thay đổi “bản án sáu năm tù giam” thành “bản án ba năm tù treo” của Phương Uyên. Chính các bạn trẻ ngoài nước tổ chức những đêm không ngủ, gởi hàng ngàn lá thư lên các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổng thống và quốc hội Mỹ, các lãnh đạo châu Âu, các cơ quan nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc đã giúp cho Phương Uyên được ngồi ăn bữa cơm bên mẹ chiều nay. Chính đồng bào các giới khắp nơi tại hải ngoại tích cực tham gia những cuộc biểu tình liên tục trước Tòa Bạch Ốc, điện Capitol, trước các tòa đại sứ CSVN đã giúp cho Phương Uyên tìm lại được nụ cười hồn nhiên trong vòng tay của gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc. Các thành phần dân tộc Việt Nam trong suốt nhiều năm và qua nhiều hình thức đã làm nên những đợt sóng đập liên tục vào bức tường chuyên chính độc tài cũng như làm tiếng chuông vang vọng vào lương tri nhân loại. Ở hải ngoại, bao lớp người dầm mưa, đội nắng, đạp tuyết mà đi trong các cuộc biểu tình chống CS độc tài, đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào Việt Nam ngay cả trong những ngày tháng vô cùng khó khăn chân ướt chân ráo mới đến định cư sau 1975. Các cộng đồng người Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung, Rumania, Bulgaria, Albany định cư tại các nước tây phương sau khi quốc gia của họ bị CS cai trị sau thế chiến thứ hai, và cả cộng đồng người Cu Ba tại Mỹ sau 1959 đã không làm được như thế. Nếu không có hàng loạt các hình thức đấu tranh được phát động ồ ạt và nhịp nhàng từ các thành phần dân tộc, chẳng một nguyên thủ quốc gia dân chủ nào, một cơ quan nhân quyền quốc tế nào biết đến Phương Uyên ngoài những bản tin nhân quyền thường lệ, và số phận của em cũng giống như số phận hàng ngàn người Việt Nam khác đang bị tù đày hay đã chết đi trong quên lãng khắp ba miền đất nước suốt ba mươi bảy năm qua. Trách nhiệm nặng nề, đôi vai nặng gánh, cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại không thể làm hết những điều cần phải làm, cứu được hết những đồng bào cần phải cứu nhưng cuộc đấu tranh chưa bao giờ dừng lại. Phân tích để thấy chính sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc là nền tảng, là nguồn lực của cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam. Quan hệ và tranh chấp quốc tế bao giờ cũng tồn tại không chỉ giữa các quốc gia thù địch, đối nghịch về quyền lợi mà ngay trong các nước đồng minh. Các dân tộc nhỏ luôn phải bị chi phối và ảnh hưởng. Điều đó không thể nào tránh khỏi. Tuy nhiên, các bài học Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Do Thái cho thấy yếu tố quyết định cuối cùng cho số phận của một dân tộc vẫn luôn nằm trong tay của chính dân tộc đó. Và cũng phân tích để thấy không chỉ Phương Uyên mà còn rất nhiều người như Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Nguyễn Văn Hải, Đổ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức v.v. cần phải được tiếp tục đấu tranh. Cuộc vận động tự do dân chủ cho cả dân tộc là con đường đầy gai góc, gian nan nhưng là con đường chính nghĩa và chính nghĩa sẽ tất thắng. Trần Trung Đạo Nguồn: http://www.trantrungdao.com/?p=2440
......

Kết quả phiên tòa xử phúc thẩm Phương Uyên, Nguyên Kha và Nhật Uy

16.08.2013 Vào lúc 4 giờ 15, kết quả phiên tòa đã được công bố: • Nguyễn Phương Uyên bị 3 năm tù treo và 3 năm quản chế • Đinh Nguyên Kha bị 4 năm tù giam và 3 năm quản chế Một số nhận xét sơ khởi cho thấy đây là buổi xử án rất tùy tiện và không theo luật lệ nào. Đặc biệt trường hợp của anh Đinh Nhật Uy chưa có ngay cả cáo trạng, chưa xử sơ thẩm, lại được nhập chung vào một vụ xử phúc thẩm để "tuyên án chung". Một số người được phỏng vấn cũng suy đoán lý do tòa án không cho một thân nhân hay người chứng nào trong tòa, ngoại trừ Luật sư Nguyễn Thanh Lương, là để sau đó báo đài công cụ có thể tùy tiện thêu dệt các chi tiết rằng các bị cáo đã nhận tội, xin khoan hồng, v.v...   Một số vị khác đang có mặt bên ngoài tòa án vẫn xem bản án mới này hoàn toàn bất công vì cả 3 bị cáo chỉ hành động theo lòng yêu nước của mình và không làm điều gì sai trái. Nhà cầm quyền không chỉ thả họ ra mà còn phải xin lỗi và bồi thường vì đã bắt giam người phi pháp. Mời quí độc giả theo dõi lời tường thuật của Linh mục Đinh Hữu Thoại: https://soundcloud.com/radio_ctm/lm-dinh-huu-thoai-ve-ket-qua-toa-long-an Nhiều nhận xét khác cũng cho rằng đây là kết quả của các vận động phối hợp sức ép công luận Việt Nam và thế giới. Công luận Việt Nam dùng kết quả phiên tòa sơ thẩm để chỉ ra bản chất "Hèn với giặc - Ác với dân" của lãnh đạo đảng, và thế giới dùng những bản án nặng nề và phi lý đó để chứng minh sự bất xứng của giới lãnh đạo Việt Nam khi xin vào các định chế quốc tế và phát triển quan hệ với thế giới văn minh. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và tường trình phản ứng khắp nơi đối với bản án hôm nay. Ngọc Hạ, Vũ Quyên, Hoàng Long, Vân Quang kính chào tạm biệt 4 giờ 30 chiều ngày 16/8/2013 (giờ VN) Ảnh mới nhất của Phương Uyên sau vài phút rời nhà tù nhỏ. Vạn dòng nước mắt đã rơi để chào đón cô sinh viên mảnh mai về thể xác như rất mạnh mẽ trong tâm hồn của một người yêu nước nồng nàn, không chấp nhận độc tài, không chấp nhận ngoại xâm. Chúc mừng Phương Uyên, cha mẹ Phương Uyên cùng tất cả mọi người yêu mến, ngưỡng mộ Phương Uyên. Khi vừa bước ra khỏi cổng tòa án, Phương Uyên đã được thân nhân, bạn bè và những người ủng hộ hân hoan chào đón. Trong giấy phút đầu tiên đầy cảm động này Phương Uyên đã nói: ...WE ARE ONE... http://www.radiochantroimoi.com/phong-su/tieng-noi-dau-tien-cua-phuong-u...
......

Con đường “xã hội dân chủ”

Bài thứ nhất   Ý tưởng cũ, bước đột phá mới   Sau cơn đau thập tử nhất sinh, người đảng viên Lê Hiếu Đằng xưa rất “trung kiên” đã viết liền ba bài, đề xuất việc ra khỏi Đảng Cộng sản, bỏ đảng một cách tập thể, công khai, để thành lập một đảng, Đảng Xã hội Dân chủ (hay Dân chủ Xã hội). Luật gia Lê Hiếu Đằng   Hẳn ông Lê Hiếu Đằng đã biết ý tưởng đưa thể chế chính trị Việt Nam sang quỹ đạo Xã hội Dân chủ, để thoát khỏi con đường Cộng sản một cách vừa triệt để vừa “êm thấm”, như các nước Bắc Âu, đã được nung nấu khá lâu [1] nhưng nay ông mới phát ngôn bởi theo ông lúc này “thời cơ đã đến”, ông và các chiến hữu đi bước đột phá rất mới. Trước khi giới thiệu ba bài viết cũ của nhiều tác giả liên quan đến con đường Xã hội Dân chủ cho Việt Nam xin được lưu ý mấy điểm: 1/ Từ ngữ Social Democracy một số tác giả dịch là Xã hội Dân chủ, ông Mai Thái Lĩnh và một số khác đề nghị dịch là Dân chủ Xã hội để đừng lầm với khái niệm “chủ nghĩa Xã hội dân chủ” (Democratic Socialism, đây là ý tưởng riêng của một số nước Cộng sản vì thực ra đã là Cộng sản thì phải chuyên chính, ngược với dân chủ). 2/ Ngày nay tuy không còn một chủ nghĩa nào có thể đóng vai trò một khuôn mẫu giáo điều, nhưng xây dựng mỗi công trình lớn đều cần có một “triết lý” làm cơ sở huống chi sự nghiệp phát triển của một quốc gia? Ngày nay, xu thế Xã hội Dân chủ là chân lý phổ biến nhất, thành công nhất trên thế giới. “Hiện nay, Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa (Socialist International, viết tắt: SI) là một tổ chức của các đảng phái chính trị lớn nhất thế giới với 143 thành viên và đại diện là các tổ chức, các đảng theo theo lý tưởng Xã hội Dân chủ ở 140 quốc gia khắp các châu lục” […]. “Sau năm 1945, các đảng XHDC thường xuyên cầm quyền ở tất cả các nước công nghiệp phát triển, các nước Tây Âu, Bắc Âu, đã góp phần quyết định vào việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền dân chủ, xã hội công bằng văn minh và thịnh vượng” [2]. “Khi chủ nghĩa xã hội bạo lực đi đến sơn cùng thuỷ tận, thì chủ nghĩa xã hội ở Tây Âu và Bắc Âu lại giành được thành công cực lớn” […]. “Thuỵ Điển là tấm gương của chủ nghĩa xã hội dân chủ, kinh nghiệm của Thuỵ Điển có giá trị phổ cập thế giới, là cống hiến vĩ đại cho văn minh nhân loại”. [3] 3/ Tuy về gốc gác, con đường Dân chủ Xã hội bắt nguồn từ Quốc tế II, anh em sinh đôi với Quốc tế III Cộng sản, song đó là con đường mở, đã dẫn đến sự đoạn tuyệt hoàn toàn với những nguyên lý sai lầm Mác-xít. “[…] phong trào XHDC ngày nay đã được giải phóng khỏi sự ràng buộc truyền thống vào ý thức hệ tư tưởng” […]. “Họ hoạt động không theo chủ thuyết, hay vì chủ thuyết, mà vì con người, vì sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, vì sự bảo vệ và phát triển hài hòa quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội” [2] 4/ Phan Châu Trinh chính là nhà “Dân chủ Xã hội” đầu tiên mang màu sắc Việt Nam, không gợn chút ảnh hưởng sai lầm nào của chủ nghĩa Mác. “Phan Chu Trinh thuộc những nhà DÂN CHỦ XÃ HỘI tiên phong, một chủ nghĩa dân chủ xã hội mang dấu ấn Việt Nam, sinh ra từ điều kiện Việt Nam. Cái chủ nghĩa xã hội nhân đạo mà ta đang định hướng về Bắc Âu để kiếm tìm thì nay chẳng những không phải tìm đâu xa, mà còn sẵn có một phương sách thích hợp hơn với dân với nước ta nữa”[4]. “Cũng đau lòng vì cảnh đất nước trong vòng nô lệ, cũng một môi trường trưởng thành là Paris nước Pháp, lại cũng yêu lý tưởng xã hội đến say mê, vậy mà khác với Nguyễn Tất Thành, Phan Chu Trinh không sa vào chủ nghĩa chuyên chính. Trước sau trong tâm hồn nhà nho cách mạng vẫn thắp sáng một ngọn đèn dân chủ” [5]. “Trong khi những người xã hội chủ nghĩa ở Pháp vẫn còn bị ràng buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với chủ nghĩa Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên án đối với chế độ tư hữu, và do đó cũng không có chủ trương quốc hữu hoá.” [5] 5/ Con đường “Xã hội Dân chủ” cho Việt Nam hoàn toàn không mâu thuẫn hay hạn chế những tư duy khác, những con đường khác, nếu cùng dẫn đến một đích chung. Chính Phan Châu Trinh chủ trương các cánh tả, cánh hữu đều phải cùng tồn tại. Đảng Dân chủ Xã hội không bài bác bất cứ đảng phái nào, kể cả hai thái cực Cộng sản và Chống Cộng, vấn đề là một đảng nào đó có ra đời được không, có được đông đảo nhân dân ủng hộ hay không là do sức sống của bản thân đảng đó quyết định. Xin nói ngay rằng chúng ta cứ bàn vấn đề đa đảng thoải mái vì Hiến pháp và Luật Việt Nam (ngay cả điều 4) không cấm đa đảng, và chính Trung Quốc Cộng sản cũng đang có 7-8 đảng kia mà, tất nhiên ta cần đa đảng thật sự chứ không cần đa đảng cuội như họ. 6/ Bàn về khả năng thành công của một con đường hay một lộ trình, tôi nhớ đến một quy luật mà tôi nhận thức được khi còn đi học. Trong các hiện tượng vật lý, hóa học, hay tiến hóa sinh học, nếu việc chuyển từ trạng thái A đến một trạng thái B nào đó có nhiều con đường thì bao giờ thực tế cũng “chọn” con đường nào có tiêu hao năng lượng thấp nhất, phải cung cấp năng lượng ít nhất! (Thế giới vô sinh cũng “khôn” đáo để!). Muốn đánh đổ một khối đá lớn không nhất thiết phải đập thẳng vào khối đá ấy nếu có giải pháp ít tốn năng lượng hơn mà đạt cùng hiệu quả, làm đúng cách có khi “bất chiến tự nhiên thành” là do biết “chiến” vào nơi yếu nhất của đối tượng. Bậc anh hùng tất nhiên cần tiết tháo và đức hy sinh, nhưng Chính trị lại khác. Chính trị là một nghệ thuật. Yếu muốn thắng mạnh thì nghệ thuật lại càng phải cao, cổ nhân dạy thế. Chỉ 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt và tình hữu nghị, chữ nghĩa mềm như bún mà buộc chặt cả một Đảng Cộng sản không biết cựa quậy ra sao, đó là “nghệ thuật” của kẻ xâm lược. Chỉ việc sang Thái Lan trao “Kiến nghị 258” của các blogger trẻ cho các tổ chức quốc tế mà mở được một bước đột phá về nhân quyền có hiệu quả thực tế, đó cũng là nghệ thuật. Lê Hiếu Đằng vận động bỏ Đảng Cộng sản để tham gia một “đảng anh em” là Đảng Dân chủ Xã hội, rất ôn tồn chững chạc và “hữu nghị” mà hiệu quả chưa thể lường trước, đó cũng là nghệ thuật. Cuộc chiến dân chủ hóa cũng như mọi cuộc chiến, phải gồm nhiều binh chủng, mỗi binh chủng có chức năng riêng, phương pháp riêng. Nếu anh lính pháo binh hay lính quyết tử lại trách sao “đội quân tóc dài” không đánh địch giống mình thì thật hài hước. Có việc người dân chủ trong nước chưa nên làm hoặc chưa thể làm, dành việc ấy cho anh em ngoài nước, ngược lại có việc chỉ người trong nước nên làm, làm giống nhau nhiều khi hỏng việc. Nhiều việc nhận thức giống nhau nhưng cách làm phải khác nhau. 7/ Tác động đúng “huyệt”, đúng nền tảng thì sai một ly đi một dặm. Nếu năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã chuyển từ Quốc tế II sang Quốc tế III chỉ như một “cú nhích chân” nhẹ nhàng tại hội nghị Tours [6], để “đi một dặm” đến cuộc khủng hoảng toàn diện cho Dân tộc hôm nay, thì hiện nay sao ta không biết “nhích chân” rất “nhẹ nhàng” từ Cộng sản Quốc tế III trở về Quốc tế II, với nội hàm hiện đại, của con đường Dân chủ Xã hội mà thế giới văn minh đã kiểm chứng? Song chúng ta không hề ảo tưởng rằng sự “nhích chân” tưởng như nhỏ nhẹ và đơn giản này sẽ dễ dàng. Đừng quên Đảng Cộng sản không sợ các đế quốc to hay các “thế lực thù địch”, không sợ những đao to búa lớn, mà chỉ sợ nhất “người anh em sinh đôi” là phong trào Dân chủ Xã hội của Quốc tế II mà họ gọi là “chủ nghĩa xét lại hiện đại”, vì chỉ có đảng Dân chủ Xã hội mới là đối thủ có thể giành mất quần chúng của họ trong nước Việt Nam này. Đọc bài “Xây dựng Đảng ta thật vững mạnh” của ông Nguyễn Đức Bình tháng 2-2006 đủ biết Đảng Cộng sản ghét (và e sợ) “người anh em” Quốc tế II như thế nào. Nhưng ghét là một chuyện, bây giờ Đảng Cộng sản có chống được hay không, là chuyện… hãy đợi đấy! H. S. P. (16/8/2013) [1] Lê Bảo Sơn - Phan Trọng Hùng, “Năm nhà trí thức phát biểu về “Con đường xã hội – dân chủ” ở nước ta”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5273&rb=0401 [2] Huệ Đăng, “Xã hội Dân chủ là xu thế ngày nay”, http://thongluan.co/vn/modules.php?name=News&file=print&sid=499 [3] Tạ Thao, “Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và tiền đồ Trung Quốc”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10006&rb=0402 [4] Hà Sĩ Phu, “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10080&rb=0306 [5] Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9307&rb=0306 [6] Hà Sĩ Phu, “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại”http://www.hasiphu.com/ll4.html nguồn:boxitvn.blogspot.com
......

Đồng khai thác Biển Đông : Âm mưu độc chiếm của Trung Quốc

Cách nay hơn 30 năm, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình từng đưa ra phương châm « gác tranh chấp, đồng khai thác » để xử lý các tranh chấp chủ quyền với các láng giềng. Mới đây, quan điểm này đã được Bắc Kinh nêu bật trở lại và được ngành ngoại giao cũng như truyền thông Trung Quốc đồng loạt phô trương. Quan điểm của Trung Quốc nghe rất xuôi tai, nhưng Bắc Kinh lại đòi chủ quyền ngay cả tại những vùng thuộc về nước khác- Reuters   Cách nay hơn 30 năm, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình từng đưa ra phương châm « gác tranh chấp, đồng khai thác » để xử lý các tranh chấp chủ quyền với các láng giềng. Mới đây, quan điểm này đã được Bắc Kinh nêu bật trở lại và được ngành ngoại giao cũng như truyền thông Trung Quốc đồng loạt phô trương. Tuy nhiên, trong bối cảnh Bắc Kinh đã công khai dùng đường lưỡi bò để khẳng định chủ quyền Trung Quốc trên hầu như toàn bộ Biển Đông, lời kêu gọi đồng khai thác đã vấp phải nhiều phản ứng hoài nghi. Về mặt hình thức, phải nói là quan điểm của Trung Quốc nghe rất xuôi tai, vì Bắc Kinh cho biết là họ sẵn sàng đưa vào diện đồng khai thác những vùng mà Trung Quốc có chủ quyền. Vấn đề tuy nhiên là Bắc Kinh lại khẳng định chủ quyền ngay cả tại những vùng mà theo luật lệ quốc tế thuộc về nước khác, và luôn luôn cho biết là họ không khi nào từ bỏ chủ quyền đó. Mới đây, chính nhân vật số một hiện thời của Trung Quốc là Tập Cận Bình đã nhắc lại phương châm này. Theo Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc, nhân một hội nghị của Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Trung Quốc (31/07/2013), ông Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng Bắc Kinh « sẽ tuân thủ chính sách gác tranh chấp và thực hiện phát triển chung trong các khu vực mà Trung Quốc có chủ quyền ». Chủ trương gác tranh chấp để đồng khai thác trên đây không phải là một ý kiến mới, mà chỉ lập lại về căn bản đề nghị từng được cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đưa ra vào cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980 khi nhắc đến các tranh chấp giữa Bắc Kinh và các láng giềng, từ các nước Đông Nam Á cho đến Nhật Bản hay Ấn Độ. Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có những động thái hung hăng nhằm áp đặt các yêu sách chủ quyền của họ trên cả hai vùng Biển Đông và Biển Hoa Đông, tuyên bố của ông Tập Cận Bình có thể được xem là thể hiện một sự chuyển đổi chính sách sang một hướng ôn hòa hơn. Theo một số nhà phân tích, có lẽ Trung Quốc muốn xoa dịu các láng giềng vì lẽ các hành động cứng rắn của Bắc Kinh, đặc biệt trên Biển Đông, đã ngày càng xô đẩy các nước nhỏ trong vùng có tranh chấp với Trung Quốc – Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei – xích lại gần Mỹ để mưu cầu một sự can thiệp nhằm giải tỏa áp lực từ cường quốc phương Bắc. Sách lược giai đoạn trong chiến lược thâu tóm Biển Đông Tuy nhiên, nếu xem kỹ các phát biểu của ông Tập Cận Bình với các thành viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản, tức là cơ chế lãnh đạo Trung Quốc, thì rõ ràng là chủ trương ‘gác tranh chấp, đồng khai thác’ chỉ là một sách lược giai đoạn trong chiến lược của Bắc Kinh nhằm thâu tóm toàn bộ Biển Đông. Bên cạnh lời lẽ đầy tính chất ôn hòa như là Trung Quốc sẽ « sử dụng biện pháp hòa bình và đàm phán để giải quyết tranh chấp và phấn đấu để bảo vệ hòa bình và ổn định », lãnh đạo Trung Quốc vẫn xác định rằng nước ông sẽ « không bao giờ từ bỏ quyền lợi chính đáng, cũng như các lợi ích quốc gia cốt lõi của mình ». Trong một bài phỏng vấn dành cho Báo Giáo dục Việt Nam ngày 07/08/2013 vừa qua, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, một chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông, đã nhấn mạnh đến lời cam kết không từ bỏ « lợi ích quốc gia cốt lõi » trong phát biểu của ông Tập Cận Bình. Theo ông Trần Công Trục : « Ông Tập Cận Bình nêu ra phương châm này với ngôn từ mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn so với những gì lãnh đạo Trung Quốc trước đây đã nói : "Chủ quyền thuộc TQ, gác tranh chấp, cùng hợp tác". Điều đó cho thấy chiến lược độc chiếm Biển Đông thành ao nhà của Trung Quốc vẫn không có gì thay đổi, thậm chí đang được đẩy mạnh ».  Đối với ông Trục, trong bối cảnh Bắc Kinh khẳng định rằng quyền lợi hợp pháp của họ ở Biển Đông bao gồm 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam cùng với đường lưỡi bò chiếm 85% diện tích Biển Đông, thì bản chất tuyên bố của ông Tập Cận Bình « hoàn toàn không phải hợp tác cùng khai thác “trên vùng biển chồng lấn hình thành trên cơ sở các yêu sách chủ quyền xác lập theo quy định của UNCLOS”. »   Trái lại mưu đồ của Trung Quốc, theo ông Trục, là thông qua yêu sách chủ quyền vô lý trên 85% diện tích Biển Đông để « ‘nhảy vào xí phần’ trong khu vực thềm lục địa của các nước ven Biển Đông… từ đó biến các vùng biển không tranh chấp thành các vùng biển tranh chấp… Sau khi đạt được mục đích này, Trung Quốc sẽ tiếp tục phái lực lượng khống chế các khu vực thuộc phạm vi họ nói là có chủ quyền. » Phải nói rằng đây không phải là lần đầu tiên mà Bắc Kinh hô hào các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ngoài Biển Đông tạm gác tranh chấp để cùng nhau khai thác các nguồn lợi kinh tế trong khu vực. Đồng khai thác nhưng vấn đề là khai thác ở đâu ! Đối với Việt Nam, ý tưởng này luôn luôn được Trung Quốc gợi lên với các lãnh đạo Việt Nam, mà gần đây nhất là nhân chuyến công du của chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vào tháng Sáu. Trong bản tuyên bố chung Việt-Trung, trong phần đề cập đến Biển Đông có đoạn ghi : « Hai bên sẽ… tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển ». Trong bản “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, ký kết từ tháng 10 năm 2011 và sau này luôn luôn được nêu lên thành một văn kiện căn bản cần tuân thủ trong việc giải quyết hồ sơ tranh chấp Biển Đông giữa hai nước, vấn đề đồng khai thác cũng được gợi lên. Ngay từ khi ấy, giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) đã ghi nhận rằng vấn đề đồng khai thác là một bài toán khó giải quyết : Vấn đề hợp tác đồng khai thác cũng đã được đề xuất từ lâu. Điều này chỉ có thể xúc tiến được nếu cả hai bên đồng ý trên một điều khoản theo đó việc cùng nhau khai thác phát triển không làm phương hại đến các tuyên bố chủ quyền của mỗi bên. Ngoài ra, Việt Nam sẽ phải cẩn thận xem xét khu vực được chọn để làm nơi đồng phát triển. Khu vực đó không được quyền ảnh hưởng đến một bên thứ ba. Trong vấn đề này, Việt Nam cũng phải chú ý xem là việc chia sẻ dầu khí sẽ được thực hiện trên cơ sở bình đẳng hay là Trung Quốc sẽ dành phần lớn ? Cái khó cho Việt Nam là ý tưởng của Trung Quốc lại được một vài nước tranh chấp với Trung Quốc ít nhiều tán đồng. Một ví dụ điển hình là trường hợp Malaysia. Ngay từ trước lúc ông Tập Cận Bình nói rõ chủ trương của Bắc Kinh, Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã từng lên tiếng kêu gọi các nước trong khu vực Biển Đông cùng nhau hợp tác khai thác tài nguyên để tránh xung đột và ngăn chặn sự can dự của những quốc gia bên ngoài. Trong một bài phát biểu ngày 04/06/2013 được hãng tin Mỹ Bloomberg trích dẫn, Thủ tướng Malaysia đã nêu ví dụ về vùng biển tranh chấp giữa Thái Lan và Malaysia đang được phát triển chung như là một tiền lệ tốt có thể áp dụng tại Biển Đông. Tuyên bố của ông Najib Razak đã bị nhiều nhà quan sát cho rằng thể hiện quan điểm của Bắc Kinh, có hại cho sự đoàn kết trong khối Đông Nam Á ASEAN trước các thủ đoạn chia rẽ của Trung Quốc. Trên vấn đề này, trong một nhận định ngày 07/06/2013, giáo sư Carlyle Thayer không nghĩ rằng Malaysia về hùa với Trung Quốc vì theo ông, cả bốn quốc gia ASEAN đang tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc - từ Việt Nam, Philippines cho đến Malaysia, Brunei – đều đồng ý trên nguyên tắc về khả năng đồng khai thác. Vấn đề cốt lõi là khai thác chỗ nào. « Bốn quốc gia tranh chấp có thể được chia thành hai loại, các nước trên tuyến đầu (Philippines và Việt Nam) và các nước ở hàng sau (Brunei và Malaysia). Các quốc gia tuyến đầu đã phản ứng rất mạnh mẽ trước Trung Quốc vì Trung Quốc đã đánh vào các hoạt động khai thác dầu khí (cắt cáp trong vùng EEZ của Việt Nam và gây hấn với Philippines ở vùng Reed Bank - Bãi Cỏ Rong) được coi là lợi ích sống còn của Việt Nam và Philippines. Còn Brunei và Malaysia đã áp dụng chính sách hòa hoãn hơn để giải tỏa áp lực của Trung Quốc. Không nước nào trong số bốn quốc gia tranh chấp bác bỏ việc đồng phát triển trên nguyên tắc. Các cuộc đàm phán không liên tục đã diễn ra giữa một công ty dầu khí Philippines và tập đoàn Trung Quốc CNOOC (nhưng chưa được chính quyền Manila ủng hộ và có nguy cơ bị Quốc hội Philippines chống đối). Câu hỏi thiết yếu liên quan đến việc đồng phát triển là nơi được chọn để khai thác. Kế hoạch đồng khảo sát địa chấn ngoài biển JMSU ban đầu giữa Philippines và Trung Quốc (và sau đó có thêm Việt Nam) lại được thực hiện trong vùng biển của Philippines (2005 - 2008). Các nước tranh chấp rất lo ngại trước nguy cơ sự phát triển chung củng cố thêm yêu sách chủ quyền của Trung Quốc… » Vấn đề đồng khai thác ở đâu cũng là điểm được Giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia tại trường Đại học Maine (Hoa Kỳ) nêu bật khi được hỏi về phát biểu của Thủ tướng Malaysia Najib Razak. Không thể chấp nhận đồng khai thác trong vùng EEZ của nước khác Trả lời câu hỏi của RFI, giáo sư Long xác định rằng không thể chấp nhận việc đồng khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế EEZ của một nước, vốn dĩ không phải là vùng tranh chấp. Tuy nhiên, đều đó là vùng chồng lấn giữa thềm lục địa hai bên, việc phát triển chung hoàn toàn có thể đặt ra, như những gì Việt Nam và Trung Quốc đã làm tại vùng Vịnh Bắc Bộ. Ngô Vĩnh Long : Trước hết, phải biết rõ xem đề nghị của Malaysia thuộc vùng tranh chấp nào. Vùng EEZ đương nhiên không phải là vùng tranh chấp. Nếu có tranh chấp, thì đó là vùng thềm lục địa giữa nước này và nước kia, giống như ở Vịnh Bắc Bộ, nơi Việt Nam đã phân định vùng biển giữa hai quốc gia.  Nhưng ở trên lằn phân định đó, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam và Trung Quốc đã có những đề án thăm dò chung, khai thác chung. Gần đây, nhân chuyến thăm Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang, hai bên còn quyết định thăm dò, khai thác nhiều hơn nữa.  Thành ra đó là chuyện giữa vùng phân định. Nếu Malaysia nói là đó là vùng phân định giữa Malaysia với Việt Nam hay là giữa Việt Nam với Thái Lan, và hai bên sẽ thăm dò, khai thác chung, thì tôi thấy điều đó hợp lý. Nhưng sẽ không hợp lý nếu Malaysia nói rằng trên vùng EEZ của mỗi nước thì Trung Quốc sẽ có thể vào thăm dò và khai thác chung. Tôi nghĩ rằng Malaysia không có quyền nói như vậy ! Bởi vì điều đó ngược lại với công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Có thể Malaysia cho rằng những khu vực như vùng đang tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, nên được khai thác chung trước khi phân định. Tôi nghĩ rằng điều đó cũng được ! Khai thác chung rồi sau này phân định cũng được, hay là như tôi đã đề nghị, là tất cả những hòn đảo ở vùng Trường Sa không có EEZ, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý thôi, tức là mở rộng vùng biển quốc tế ra để cho mọi người cùng khai thác. Nếu Malaysia nói như vậy, tôi thấy cũng được, cũng có lý. Nhưng Malaysia không có quyền nói là những vùng EEZ của nước khác bị Trung Quốc đưa ra cái đường lưỡi bò để chiếm, rồi nói là vùng này là của tôi, rồi hai bên cùng khai thác, thì cái đó là không được. RFI : Theo giáo sư thì đúng là quan điểm đồng khai thác chỉ có thể được áp dung trong trường hợp khai thác vùng trùng lắp giữa EEZ của hai nước, nhưng không thể nào áp dụng trong trường hợp như là Trung Quốc đang muốn thúc đẩy : Khoanh một vùng rất lớn, tự nhận chủ quyền trên đó, ăn sâu vào thềm lục địa của các nước khác rồi yêu cầu đồng khai thác những vùng nằm trong EEZ của các láng giềng ? Ngô Vĩnh Long : Vâng… Trung Quốc không thể nào đòi như thế được. Với Malaysia, tôi xin thêm là (năm 2009), Việt Nam và Malaysia có đồng ý là hai bên sẽ không tranh giành một vùng mà hai bên đòi (chủ quyền).  Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển thềm lục địa hay là EEZ của mỗi nước được 200 hải lý. Nhưng nếu có vùng nào mà biển ngoài khơi rất rộng, nhưng không động chạm đến EEZ của nước khác, thì các nước trên thế giới có quyền xin đến 350 hải lý. Lúc đó, Malaysia và Việt Nam xin Liên Hiệp Quốc nới rộng ra đến 350 hải lý, nhưng khi xin như vậy, đòi hỏi của hai bên dẫn đến một vùng tranh chấp, (do đó) Việt Nam và Malaysia đã đồng ý rằng « vùng này có thể trở thành vùng khai thác chung » Bây giờ, nếu Malaysia nói rằng « Thôi vùng này chúng ta có thể biến thành vùng khai thác chung, không những giữa Malaysia với Việt Nam, mà có thể có với những nước khác nữa », điều đó có nghĩa là Malaysia nói sẵn sàng rút lại còn 200 hải lý, và mở rộng vùng biển ở ngoài khơi cho tất cả các nước trong khu vực khai thác chung. Nói như thế thì cũng giống như đề nghị của tôi, là không có một đảo nào được 200 hải lý, mà rút lại còn 12 hải lý theo Luật Biển của Liên Hiệp Quốc, mở rộng vùng khai thác chung cho tất cả các nước trong khu vực. Tôi thấy rằng điều đó không những hợp lý, mà cũng có thể (giúp) giải quyết các vấn đề ở Biển Đông một cách hòa bình và có lợi cho mọi bên. Nguồn: RFI
......

Pages